You are on page 1of 10

CHỌN LỌC 40 MỞ BÀI HAY NHẤT CÁC TÁC PHẨM LỚP 11 (phần 1)

-------------
1. Vội vàng
+MB1: (Bài viết của Lê Đức)
Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi ấy, thơ văn
khoác lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun
trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được
biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì
Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả. Bài
thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về cả nội
dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm sống, niềm ham sống, khao khát sống
và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
+MB2: (Bài viết của Bảo Hân)
Thơ mới (1930-1943) được coi là một cuộc cách mạng trong thi ca Việt Nam. Ở thời kì này ta có thể
thấy được “một hồn thơ rộng lớn” như Thế Lữ, “ảo não” như Huy Cận, “trong sáng” như Nguyễn
Nhược pháp và nổi bật trong đó, ta có Xuân Diệu – một nét thơ “tha thiết, rạo rực, băn khoăn” (thi
nhân Việt Nam). Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, là người đưa thơ mới lên vị
trí đỉnh cao với tập thơ đầu tay và tiêu biểu nhất là “thơ thơ”. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập
thơ này, đã thể hiện nét độc đáo trong phong cách thơ được cách tân cả về nội dung lẫn hình thức của
Xuân Diệu. Điều đó được khắc họa đặc biệt ở 13 câu thơ đầu, nét bút của Xuân Diệu đã vẽ lên bức
tranh thiên nhiên mùa xuân đặc sắc sinh động và nổi bật ở đó là cả một khao khát sống hết mình,
quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ mới mẻ của tác giả.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
+MB3: (Bài viết của Lê Đức)
Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi ấy, thơ văn
khoắc lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun
trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được
biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì
Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả. Bài
thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về cả nội
dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm sống, niềm ham sống, khao khát sống
và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
Đặc biệt qua 13 câu thơ đầu, Xuân Diệu đã dẫn ta đến thiên đường nơi trần thế với tình yêu vô cùng
đằm thắm và táo bạo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
…………………..
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
+ MB4: (Sưu tầm)
Trong thơ cũ (thơ trung đại) đã có nhiều bài thơ viết về tình yêu với mùa xuân và cuộc sống:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nét nổi bật của thơ ca Trung đại là mang tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình
tượng thiên nhiên. Còn trong thơ mới, đặc biệt là thơ Xuân Diệu khi viết về tình yêu với mùa xuân và
cuộc sống, ý thức về cái tôi trữ tình được thể hiện rất táo bạo. Bài thơ “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu
cho hồn thơ Xuân Diệu, thể hiện quan niệm sống mang ý nghĩa nhân bản: Thiên đường ngay trên mặt
đất, vì vậy hãy yêu mến và sống hết mình với cuộc sống thực tại. Bài thơ thể hiện niềm ham sống,
khao khát sống và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
2. Tràng giang
+MB1: (Trích trong bài viết của thầy Chu Văn Sơn)
Diễn trình của cái tôi Thơ mới (1932 – 1945) là từ nỗi cô đơn cá thể đến cô đơn toàn thể. Nếu cô đơn
cá thể là bị cô đơn (không được chia sẻ), cái tôi không được hòa điệu, thì cô đơn bản thể là tự cô đơn
(không chia sẻ được), cái tôi không hòa điệu được. Cô đơn cá thể là sắc thái cô đơn tiêu biểu cho Thơ
mới ở nửa đầu, mà Huy Cận là một kết tinh quan trọng. Ở nửa sau, nhất là vào hồi cuối, cùng sự xuất
hiện của những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, đặc biệt là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê
sắc thái cô đơn của cái tôi đã khác nhiều với những băn khoăn hết sức siêu hình về sự tồn tại của cái
tôi (Ai nói giùm ta có ta không?, Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?…). Ở đó, cá nhân không bị cô đơn, mà
tự cô đơn. Nó ngày một chìm đắm vào nỗi cô đơn bản thể. Tràng giang là thành tựu thuộc chặng đầu.
+ MB2: (Bài viết của Trịnh Hân)
Trải lòng qua từng trang thơ tình “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận, ta đã cùng ông nếm trải biết
bao nỗi bơ vơ, sầu vô cùng tận. Không hổ danh là bậc thầy “ảo não bậc nhất”, chính bản thân Huy
Cận tự nhận: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”. Thật vậy, đã là một nhà thơ chân chính, đòi hỏi
ta phải có một tâm hồn thật nhạy cảm, tinh tế, biết rung động đúng lúc và luôn mang những cảm xúc
chân thành vào từng con chữ. Huy Cận tuy mang tâm hồn buồn riêng biệt, luôn sẵn sàng trải ra với
sông dài, trời rộng, với nỗi sầu nhân thế bao quanh. Nhưng không vì thế mà nỗi buồn của Huy Cận
mang hình hài, dáng vấp của nỗi cái “lụy tàn”, nỗi buồn của ông khơi lên trong lòng người đọc niềm
khao khát hướng đến ánh sáng, hướng đến những điều tốt đẹp dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Hay nói
cách khác, đó là nỗi buồn “ bi nhưng không lụy”.
3. Đây thôn Vĩ Dạ
+MB1: (Bài viết của Lê Đức)
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng
lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là
cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm
thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ
ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được
lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời. Hiện lên như một “ngôi sao chổi”
xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với
đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực
và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh
hằng. Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy
để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn
để góp vào vườn thơ Hàn “rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không
khỏi thổn thức:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
………………………………
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
+ MB2: Vẻ đẹp của khổ thơ thứ 2 (Bài viết được làm theo dàn ý của cô Trịnh Thu Tuyết)
Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nổi bật nhất của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử
là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ
“Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Đặc biệt, khổ thơ
thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ. Khổ thơ này chính là bức
tranh tâm cảnh và thế giới của cõi mơ trong niềm yêu nhớ và nuối tiếc của nhà thơ với cuộc đời.
+ MB3: (Trích từ bài viết: Những câu hỏi trong Đây thôn Vĩ Dạ)
Ao ước khát khao đến cháy lòng được trở về Ví Dạ nhưng anh không thể về Vĩ Dạ vì anh nào có biết
tình em có đậm đà. Những lời hỏi áy cứ xoáy xâu vào lòng người đọc một nỗi buồn xót xa. Tình yêu
mãnh liệt mà vô vọng đau đớn khi hướng về cuộc đời trần thế đã được thể hiện một cách cảm động
trong những câu thơ cuối.
(Theo sách BT Ngữ văn 11 – tập 2)
(Xem thêm nội dung đầy đủ của bài viết tại Website: https://thichvanhoc.com.vn/day-thon-vi-da-
nhng-cau-hoi.../)
+ MB4: (Trích từ bài viết của TS Đoàn Minh Tâm: Đây thôn Vĩ Dạ – một giấc mơ về cuộc đời Hàn
Mặc Tử)
Trong số các thi nhân thời Thơ mới (1932-1945) có lẽ không mấy người có số phận ai oán, nghiệt
ngã như Hàn Mặc Tử. Vận mệnh cay đắng của thi sĩ như được tiên báo trước qua ý nghĩa từng bút
danh mà người con gần cả cuộc đời gắn bó với vùng đất Quy Nhơn đầy nắng và gió đã mang trước
đó: Phong Trần (gió bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước mắt), Hàn Mặc Tử (người đi trong màn lạnh).
Người thơ ấy với nỗi lòng quặn thắt “trải niềm đau trên giấy mong manh” ấy để lại cho đời nhiều thi
phẩm bất hủ, trong đó có Đây thôn Vĩ Dạ.
4. Từ ấy
+MB1:
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Với Tố Hữu tả cảnh hay tả tình, khóc mình hay khóc người, viết
về vấn đề lớn hay vấn đề nhỏ đều là để nói cho hết cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”. Chỉ vài dòng nhận
xét ấy thôi đã đủ cho ta hiểu về Tố Hữu – nhà thơ tình cách mạng lớn nhất trong thơ Hiện đại. Giữa
bao ngọn cờ sai lạc dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Tố Hữu hiện lên như lá cờ Đảng mang cái lí
tưởng, cái lối sống, cái triết học đúng đắn nhất đương thời thấm nhuần vào từng dòng thơ của mình.
Ngay cả khi đến cái tuổi “gần đất xa trời” trong ông vẫn nồng nàn chung thủy với Cách mạng:
“Thuyền có vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ”
Hiện lên như một vệt sáng giữa bầu trời tăm tối, bài thơ “Từ ấy” được coi là tuyên ngôn về cuộc sống
của chàng thanh niên 16 – 17 tuổi đầy nhiệt huyết, vạch ra cho người thanh niên ấy một lẽ sống, một
lí tưởng giữa những cám dỗ lúc bấy giờ. Tố Hữu đã có lần tâm sự: “Nếu không có “Từ ấy” thì không
biết tôi đã trở thành thế nào. May mắn lắm là một người vô tội.”
+ MB2:
Bài thơ Từ ấy là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) của nhà Thơ Tố Hữu, khi ông được kết nạp
Đảng năm 1938. Qua tác phẩm của mình ông thể hiện giác ngộ khi gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản.
Hay nó chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu – là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám,
đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh. Xuyên suốt bài thơ là niềm say mê
mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm
hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
+ MB3:
Trong thời đại của chúng ta, Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Với ông, con đường cách mạng cũng là con
đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của
Đảng. Bài thơ “Từ ấy” vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh
niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin. Bài thơ được viết theo thể thơ thất
ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.
+ MB4: (Bài làm của Lê Đức)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị
em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, trong những năm trường kì kháng chiến chống Pháp có biết
bao con người đã ra mặt trận, đã cống hiến và hy sinh cho Tổ Quốc. “Mặt trận nghệ thuật” là “một
thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi thế giới giả dối, tàn ác
vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Và một trong những chiến
sĩ – nghệ sĩ tích cực trong cả mặt trận kháng chiến và mặt trận nghệ thuật chính là Tố Hữu và bài thơ
“Từ ấy” là tác phẩm đã ghi dấu một kỉ niệm sâu đậm trong cuộc đời ông – một tiếng reo vui đầy tự
hào của nhà thơ khi đã giác ngộ lí tưởng cách mạng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
……………………………..
Không áo cơm cù bất cù bơ”
40 MỞ BÀI CHỌN LỌC CHO LỚP 11 (phần 2)
5. Chiều tối
+ MB1: (Bài viết của Nguyễn Thái Bảo – Lớp 11D2 khối chuyên ngữ, trường THPT chuyên Hùng
Vương – Thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ
(Giải nhất cuộc thi HSG toàn thành phố năm 2007).
“Chiều tối” là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là
một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng – cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người.
Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu
đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói
đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.
+ MB2: (Bài viết của Lê Đức)
Ai đó đã nói rằng: “Điều kì diệu tuyệt đỉnh của nghệ thuật, đặc biệt thi ca, là ở nơi đó ta có thể tự do
sắp đặt một thế giới riêng như mình khao khát. Thế giới ấy dẫu ảo huyền hay u ám tới đâu cũng phải
thấm đẫm tính nhân văn cao cả, hướng nhân loại tới sự cao đẹp.” Thi ca bao giờ cũng thế, phải gắn
mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi nhân quay lưng với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ,
luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời
đầy nắng gió ngoài kia mà tạo thành, nhà thơ phải đến đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ
chính hiện thực cuộc sống, dù nó có thế nào đi chăng nữa thì thơ anh vẫn phải “thấm đẫm tính nhân
văn cao cả” và phải “hướng nhân loại tới sự cao đẹp”. Hồ Chí Minh đến với thơ ca cũng vậy, những
trang thơ của Người mang đậm trong mình chất “thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là
tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú
vui tiêu khiển, tạm quên đi cảm giác khó nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người, đặc biệt qua bài thơ
“Chiều tối” đã cho ta thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt
đầy phi thường của người tù cách mạng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
+ MB3: (Nhãn tự trong bài thơ Chiều tối – Bài viết của Lê Đức)
Ở Senegal, với mẩu gỗ mun người ta có thể tạo ra hàng trăm nghìn hình tượng nghệ thuật. Trong
tranh thủy mạc, chỉ với vài nét người họa sĩ có thể phác họa cả vũ trụ càn khôn,… Dường như đó
chính là bí quyết tiết kiệm của “Nghệ thuật nhà nghèo” và là bảo bối của những ai đã chán ngấy xài
sang: xài sang chất liệu, xài sang thời gian hay xài sang chữ nghĩa. Cũng bởi lẽ vậy mà ta thưởng hay
nhắc đến “nhãn tự” trong thơ. So với nhiều thể loại khác, thơ ca thường có dung lượng khiêm tốn
hơn song để phản ánh thế giới hiện thực muôn màu, thế giới tình cảm phức tạp của con người ngôn
ngữ thơ phải thực sự hàm súc, là kết quả của sự chắt lọc công phu từ người nghệ sĩ, Nguyễn Duy đã
từng viết:
“Tôi nhặt nhạnh li ti bụi chữ
Đốt lò tâm linh chơi trò luyện chữ”
+ MB4:
Bác Hồ khi xưa đã từng nói rằng:
“Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”.
Trong lời giãi bày Bác vốn không ham làm thơ, nhưng khoảng thời gian trong ngục làm thơ ngẫm
ngợi để vơi đi nỗi buồn, đồng thời làm thơ cũng là để thể hiện ý chí sắt đá của người chiến sĩ cách
mạng. Trong tập Nhật kí trong tù ta không thể không nhớ đến bài thơ Chiều tối, tác phẩm được sáng
tác khi Bác chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm bật lên tinh thần kiên
cường của người tù cách mạng.
6. Hai đứa trẻ
+ MB1: (Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong Chí Phèo và Hai đứa trẻ)
Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giải bài và gửi gắm tâm tư.
Đúng như vậy, nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng luôn là công cụ để khám phá tâm lý
con người, từ đó nói lên được phẩm chất và bộc lộ tính cách của nhân vật, đồng thời thể hiện được
tình cảm và tài năng của chính tác giả. Phải chăng vì thế mà nhiều nhà văn đã chọn miêu tả tâm lí
nhân vật để thể hiện được chính mình, trong số đó nổi bật lên Thạch Lam và Nam Cao. Tài năng
miêu tả tâm lí nhân vật, được thể hiện rõ qua hai nhân vật trong truyện ngắn tiêu biểu của hai nhà văn
là Liên trong “Hai đứa trẻ” và Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.
+ MB2: (Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Hai đứa trẻ)
Mở bài 1
Đau đớn, quằn quại, Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện. Mòn mỏi,
leo lét; hai đứa trẻ trong truyện ngắn cùng tên của Thạch Lam âm thầm tiến đến cái “chết” ngay khi
chúng đang sống. Hai cuộc đời, hai kiếp người cùng vọng lên tiếng kêu thống thiết đòi được SỐNG;
sống làm người lương thiện và sống với đúng nghĩa của từ này. Nam Cao và Thạch Lam bằng trái
tim nhân ái của người nghệ sĩ chân chính; bằng tài năng riêng của mình đã nâng đỡ và cứu vớt những
kiếp người đáng thương ấy, đã gióng lên những hồi chuông vang vọng và khẩn thiết: Hãy cứu lấy
con người.
(Trần Thị Thúy Anh)
Mở bài 2
Hình như đâu đây vẫn còn vọng lại tiếng còi tàu hối hả; cứ hiện lên đau đáu ánh mắt nhìn xa vời về
một thế giới rực rỡ ánh sáng vừa tan biến vào hư không. Đêm phố huyện buồn thảm như đi qua miền
không gian xưa cũ đã từ lâu vắng tiếng thở nồng nàn của sự sống. Cứ ám ảnh không yên về một con
người vừa ra đi, quằn quại chết trên cái ranh giới mỏng manh của cõi thiện và ác… Bể sầu nhân thế
ấy Thạch Lam đã đi qua? Nam Cao đã đắm hồn mình trong đó? Con tim ta cảm rung lên những niềm
trở trăn và day dứt khôn nguôi. Đã bao năm rồi có ngủ yên chăng khi hai mầm cây đang cố vươn lên
khỏi không gian tăm tối, ngột ngạt của phố huyện nghèo, chỉ có ánh đèn leo lét, nhỏ nhoi? Có còn
tiếng thét đau thương của chí đòi quyền làm người? Thêm một lần đọc Nam Cao và Thạch Lam lại
càng thấy thấm thía cảm hứng nhân đạo do những tác phẩm của các văn nhân mang lại.
(Trần Thu Hà)
Mở bài 3
“Một tác phẩm thật giá trị phải là một tác phẩm vượt trên trên bờ cõi và giới hạn phải chứa đựng một
cái gì vừa lớn lao mạnh mẽ lại vừa đau đớn, phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công
bình. Nó làm cho người gần người hơn” (Nam Cao). Phải chăng vì thế mà Hai đứa trẻ của Thạch
Lam và Chí Phèo của Nam Cao cứ ám ảnh hồn ta mãi. Mỗi trang văn của hai ông như thấm đẫm
những day dứt đau đớn về số phận con người, đau đáu một khát khao hạnh phúc nhân thế và ngời
sáng một niềm tin bất diệt vào con người. Dẫu hai tác phẩm ấy được viết theo hai phong cách khác
nhau, một bên là những thanh âm nhẹ nhàng trong trẻo mà da diết u buồn, bên kia là dấu nặng trở
trăn nhức nhối; nhưng hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn chương chân chính
mọi thời: ấy là cảm hứng nhân đạo thiết tha.
Mở bài 4
Bao nhiêu năm rồi, trong con tim người đọc vẫn còn đó daỵ dứt và ám ảnh không yên hình bóng hai
đứa trẻ. Hai cái đốm sáng leo lét chông chênh trong đêm tối mịt mùng thăm thẳm của kiếp người
buồn tẻ. Vẫn còn đó trở trăn, nhức nhối bóng dáng Chí Phèo ngật ngưỡng xiêu vẹo trên đường làng
lênh láng ánh trăng đau khổ và đói nghèo của làng Vũ Đại ngày ấy… Hai tác phẩm, hai phong cách
khác nhau, nhưng Thạch Lam và Nam Cao đều đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn
chương chân chính mọi thời: ấy là cảm hứng nhân ,đạo dào dạt, thiết tha.
(Bùi Việt Lâm)
Mở bài 5
Cảm hứng nhân đạo… mới nghe qua, có người nói: Điều đó có gì mới lạ. Chẳng phải những Chuyện
người con gái Nam Xương, Truyện Kiêu, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân
Hương… đã đặt ra vấn đề ấy từ mấy trăm năm trước? Cũng chỉ là lòng thương xót con người; nhưng
mỗi nhà văn với tài năng nghệ thuật của riêng mình đã thể hiện cảm hứng ấy bằng những hình tượng
nghệ thuật vô cùng đa dạng và độc đáo. Nếu chỉ là sự lặp lại nhàm chán, thì làm gì có chuyện các tác
phẩm ấy cùng tồn tại đến tận bây giờ? Cũng bởi thế nên bên cạnh một chỉ Phèo ngật ngưỡng của
Nam Cao, Hai đứa trẻ của Thạch Lam vẫn đậm đà màu sắc nhân đạo không kém phần độc đáo và sâu
sắc.
(Đỗ Phương Thùy)
Mở bài 6
Nếu như các nhà soạn nhạc đặt cái tâm của mình trao gửi nỗi niềm thầm kín trong giai điệu nốt nhạc;
thì nhà văn lại thể hiện niềm băn khoăn, trăn trở; những buồn vui của con tim vào trong trang viết
như chứa chất máu và nước mắt của chính mình, Cùng thể hiện tiếng sóng biển, người nhạc sĩ này
dùng những nốt nhạc trầm lắng, dịu nhẹ, êm ái… người kia lại dùng những âm thanh mạnh mẽ, ồn
ào, dữ dội. Cùng một cảm hứng nhân đạo, nhưng nếu ở Nam Cao, nội dung ấy mạnh mẽ như băn
khoăn, day dứt, như quằn quại trên trang văn, làm nhức nhối tâm can người đọc với giọng văn sắc
lạnh… thì ở Thạch Lam cảm hứng nhân đạo ấy lại nhẹ nhàng, bình dị, không ồn ào mà trầm lắng và
da diết ư buồn. Chí Phèo và Hai đứa trẻ là hai tác phẩm tiêu biểu cho hai cảm hứng nhân đạo ấy của
Nam Cao và Thạch Lam.
(Lê Thị Kim Thanh)
+ MB3: (Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực
đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng
nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm,
thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh
đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm
xúc êm nhẹ, buồn thương.
+ MB4: (Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ – Bài làm của Lê Đức)
Nguyễn Siêu đã nói rằng: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là
loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”, quả đúng là như
vậy! Đời sống xanh tươi là cội nguồn sinh dưỡng của văn học, cũng bởi lẽ vậy mà văn học luôn
hướng tới con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích
cho cuộc đời hay nói một cách đơn giản, giá trị của một tác phẩm hướng tới chính là giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo. Trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai giá trị này lại được nâng
cao vị trí của mình hơn cả để phản ánh chính xác cuộc sống của con người. Một trong số những tác
phẩm như vậy phải nhắc tới truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
+ MB5: (Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ)
Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn dường như đã khẳng định được
vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt
gặp một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng sôi
nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một Thanh Tịnh mang trong
mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ
mang một sứ mệnh đặc biệt với phong cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không
đưa ta đến những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong
trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã
nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần
gian. Ông từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng
ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” Và
có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” – áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong tác
phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu
sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.
7. Chữ người tử tù
+ MB1: (Ánh sáng và bóng tối trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của
Thạch Lam – TS. Hoàng Thị Huế, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế)
Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh
nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để
khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống. Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử
dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và
bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt “biểu hiện cách khai thác hình tượng
đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và
Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang
đậm phong cách cá nhân của tác giả.
+ MB2: (Phân tích CẢNH CHO CHỮ trong Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân)
Nguyễn Tuân được biết tới là một nhà văn duy mĩ trước Cách mạng tháng Tám. Ông có tình yêu say
đắm với cái đẹp, thông qua thơ văn để ngợi ca cái đẹp cũng như tôn thờ nó. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là
đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng nó không tiếc công sức. Ông miêu tả nó bằng ngôn
ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện
thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc
biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp phải đạt được cả bên ngoài và bên trong của nhân
vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ
người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn
Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn
văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
+ MB3: (Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn Chữ người tử tù)
Bài viết của bạn TRẦN HÀ NAM – lớp Chuyên Văn LQĐ Bình Định.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm hồn
ông hướng về với những nét toàn thiện toàn mĩ, vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn nhìn
nhận thế giới và con người ở phương diện thẩm mĩ – văn hóa. Vang bóng một thời như là một điểm
xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính con người tài hoa tài tử Nguyễn Tuân. Mười
một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho
khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước cách mạng: những thú chơi tao nhã, những con người
của quá khứ xa xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời
vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị
đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất
hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời chật hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh
liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự khuôn phép phong kiến, thể hiện tập
trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu sự chân thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong
cái vỏ khác người kiêu bạc.
+ MB4: (Phân tích nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân – Bài viết của
Hoàng Thảo)
Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn
mà ở đó có một nguồn mỹ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về
những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như
ngọc sáng trong nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn
nếu thiếu đi “Vang bóng một thời”, và “Vang bóng một thời” cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự
góp mặt của thiên truyện “Chữ người tử tù”. Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp
mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh
quan về cái đẹp một cách sâu sắc.
+ MB5: (Cảm nhận về nhân vật Huấn Cao – Chữ người tử tù)
Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Bước vào
thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một
lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn,
man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh
cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật
lên hình tượng Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn
nghiệp của Nguyễn Tuân.
8. Chí Phèo
+ MB1: (Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo – Bài làm của Trần Ngọc Mẫn)
Đại văn hào Andersen đã từng nói rằng: “không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống
viết ra”. Hiện thực cuộc sống được xem là cái nền cho những cảm hứng nghệ thuật chấp cánh và đâm
chồi. Chính vì vậy bức tranh hiện thực cuộc sống, con người trong tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn
Nam Cao đã gây ấn tượng đặc biệt sâu đậm trong lòng bạn đọc. Và Chí Phèo là một hình tượng trung
tâm giàu ý nghĩa xuyên suốt tác phẩm, đã khái quát số phận của một lớp người, bản chất của cả một
xã hội, là hình ảnh ấm nồng về sự khát khao cho cuộc đời lương thiện.
+ MB2: (Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo)
Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực
và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của
những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho
những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải
trong chặng đường đời của mình.
+ MB3: (Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo – Nam Cao)
Đến với văn học hiện thực phê phán, Nam Cao bước chân đến với những người nông dân nghèo, có
số phận đáng thương. Và ông đã vô cùng thành công khi bước vào trái tim người đọc với truyện ngắn
“Chí Phèo” – hình ảnh một người nông dân từ chất phác, hiền lành đến tha hóa cả về nhân hình lẫn
nhân tính. Khác với dòng ngôn ngữ bác học, văn phong chau chuốt, mượt mà, Nam Cao gây ấn
tượng cho độc giả bằng hằng loạt tiếng chửi xuyên suốt tác phẩm. Tiếng chửi ấy để lại cho ta một nỗi
thấm thía về một kiếp người nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.
+ MB4: (Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo – Nam Cao)
Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của
gian hàng hiện thực phê phán, Nam Cao được nhận là một chủ cửa hàng khác đặc biệt với tấm lòng
nhân đạo và tình thương dành cho những người nông dân trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nhà văn đã đưa người đọc đi sâu khám phá cái đẹp ẩn sâu bên trong của những số phận bất hạnh,
những con người “cùng hơn cả dân cùng”. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân vất vả ấy là
truyện ngắn “Chí Phèo”. Đọc tác phẩm ta sẽ thấy rõ được tư tưởng nhân đạo cao cả cùng tình thương
và nam cao dành cho nhân vật của mình.
+ MB5: (Phân tích tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao để làm rõ nhận định)
Đề bài:
“Ở mỗi truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong
đó, có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như nhãn tự trong thơ vậy”
– Nguyễn Đăng Mạnh-
Anh (chị) hãy phân tích tác phẩm “Chí Phèo” để làm rõ nhận định trên.
Mở bài:
Đã có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Đúng như vậy! Chi tiết nghệ thuật tuy
nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Chi tiết có khả năng thể hiện, giải thích,
làm minh xác câu tứ nghệ thuật của nhà văn trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả
trong tác phẩm. Chính vì thế, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định: “Ở mỗi truyện ngắn, mỗi
chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó, có những chi tiết đóng
vai trò đặc biệt như nhãn tự trong thơ vậy”. Minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định trên là tác phẩm
“Chí Phèo” của Nam Cao.
9. Hạnh phúc của một tang gia
+ MB1: (Nghệ thuật trào phúng trong “Hạnh phúc của một tang gia”)
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Trong đó mỗi chương là một
hài kịch chương XV “Hạnh phúc một tang gia” được đánh giá là một trong những màn hài kịch thành
công nhất. Qua việc miêu tả đám tang của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cái bộ mặt xấu xa của
trưởng giả, cái xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” đương thời như cách nói của nhà văn.
+ MB2: (In trong Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 11 nâng cao, NXB Giáo dục, 2007)
Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học VN. Có lẽ đặc sắc nhất là
đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” được trích từ tác phẩm “Số đỏ”. Tác phẩm như một lời phê
phán cái sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Đó là những đứa con, cháu bất hiếu
đã đi trái lại với truyền thống đạo đức của dân tộc ta.
+ MB3: (Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng)
Từ điển Văn học đã đặt thông tin về “Số đỏ” là tác phẩm “lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị
Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương thời.” Đây thực sự là
cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy
cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của
xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương
nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương
Hạnh phúc của một tang gia.

You might also like