You are on page 1of 17

Chủ đề - PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

1. Một số khái niệm cơ bản


Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi.
Nhũng nhiễu là hành vi cửa quyền, hách dịch, đòi hỏi, gây khó khăn, phiền hà của
người có chức vụ, quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm
đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.
Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong
khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

2. Phạm vi điều chỉnh


Luật PCTN năm 2018 không những quy định các hành vi tham nhũng trong khu
vực nhà nước mà đã bổ sung, mở rộng phòng chống tham nhũng sang khu vực tư
nhân.
Khoản 2, Điều 2 của Luật đã quy định:
2. Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức
vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực
hiện bao gồm:

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


a) Tham ô tài sản;
b) Nhận hối lộ;
c) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ
chức mình vì vụ lợi.
 Đọc thêm - Tài liệu số 1

3. Hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng


3.1. Hành vi tham nhũng
Căn cứ Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định các hành vi tham
nhũng gồm:
- Tham ô tài sản;
- Nhận hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật
vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
3.2. Tội phạm về tham nhũng
Căn cứ Mục 1 Chương XXIII Bộ luật Hình sự 2015 quy định các tội phạm về tham
nhũng gồm:
1. Tội tham ô tài sản (Điều 253);

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


2. Tội nhận hối lộ (Điều 354);
3. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355);
4. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356);
5. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357);
6. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
(Điều 358);
7. Tội giả mạo trong công tác (Điều 359).
Căn cứ vào các quy định trên, có 07 tội phạm về tham nhũng.
 Đọc thêm - Tài liệu số 2

4. Trách nhiệm công dân trong việc phòng, chống tham nhũng
Theo Điều 5, Điều 6 và Điều 7 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018
 Công dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham
nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến
nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và
giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
 Công dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong phòng, chống tham nhũng.

5. Xử lý tham nhũng
Tìm hiểu Điều 92 – 95 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


 Tài liệu 1
Tham nhũng trong khu vực tư theo cách nhìn từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay1
Luật gia - Ths. Lê Quang Kiệm
Thanh tra tỉnh Đồng Nai

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về khái niệm tham
nhũng trong khu vực tư. Tuy nhiên, có thể tham khảo khái quát tham nhũng trong
khu vực tư được bao hàm trong khái niệm về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là
hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện
công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ
đó để vụ lợi cá nhân, làm thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”2.
Tham nhũng trong khu vực tư xảy ra trên nhiều lĩnh vực như: Cung cấp dịch vụ
điện nước, cơ sở hạ tầng, cho thuê mặt bằng hay tình trạng móc nối, hối lộ trong
lĩnh vực ngân hàng để cho vay sai nguyên tắc, một số nhân viên ngân hàng, kho
bạc, quỹ tín dụng lợi dụng nhiệm vụ được giao để mua chứng khoán hoặc cho vay
lại với lãi suất cao hơn, khi bị thua lỗ, lừa đảo mất khả năng trả nợ, gây thiệt hại
lớn. Đặc biệt, đã xuất hiện loại tội phạm tham nhũng mới với tính chất hết sức
nghiêm trọng như tham ô, cố ý làm trái và lừa đảo qua mạng hay các tội phạm
trong lĩnh vực chứng khoán (như sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán - giao dịch nội gián hay thao túng giá chứng khoán…)
Trên thực tế tham nhũng không chỉ có trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
khu vực nhà nước mà giữa các doanh nghiệp với nhau cũng xảy ra hiện tượng tham
nhũng. Trong nội bộ các doanh nghiệp tư nhân, cũng xảy ra hiện tượng một số
người lợi dụng quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản; hay sự thiếu minh bạch và
lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng, các loại quỹ có huy động các khoản
đóng góp của nhân dân… đã gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Đồng thời, dưới góc độ kinh tế,
tham nhũng trong lĩnh vực tư sẽ làm tăng chi phí và giảm đáng kể lợi nhuận của
doanh

1
http://mt.gov.vn/vn/tin-tuc/59911/tham-nhung-trong-khu-vuc-tu-theo-cach-nhin-tu-co-so-ly-luan-va-thuc-tien-o-
viet-nam-hien-nay.aspx
2
Lê Quang Kiệm (2018), “Sửa đổi, bổ sung khái niệm và chủ thể của tham nhũng góp phần hoàn thiện các quy định
về phát triển và xử lý tham nhũng hiện hành”, http://tcdcpl.moj.gov.vn, ngày 30/7/2018

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


nghiệp, làm hình thành những thói quen kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó
bản chất các quan hệ kinh tế.
Theo lý thuyết kinh tế, tham nhũng được nhìn nhận trên hai quan điểm đó là: Tham
nhũng là yếu tố ngoại sinh và cũng là nhân tố nội sinh trong chính trị. Nếu áp dụng
một trong hai quan điểm trên, tham nhũng được chia thành ba loại cơ bản như sau:
Một là, tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ; hai là, tham nhũng hành chính và ba là
tham nhũng nhằm “bẻ cong pháp luật”. Cụ thể:
Đối với tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ: Là việc thực hiện một quyền cụ thể nào
đó mà công dân hoặc pháp nhân nào đó có quyền được hưởng một lợi ích cụ thể là
vật chất hoặc phi vật chất nhưng không phải là “ăn cắp”. Ví dụ: Một người nào đó
đút lót cho công chức phụ trách cấp phép đăng ký kinh doanh để được cấp giấy
phép nhanh hơn theo quy định, tức là không có rào cản pháp lý nào đối với việc
cấp phép đăng ký kinh doanh của công chức đó, thì đây chính xác là loại tham
nhũng để đẩy nhanh tiến độ. Một hình thức cụ thể và rõ hơn của nó là hối lộ người
có quyền để họ “ưu tiên” giải quyết vấn đề gì đó nhưng hoàn toàn hợp pháp. Nói
cách khác, các công chức nhận đút lót mới làm công việc của họ hoặc làm công
việc đó nhanh hơn thường lệ, thay vì không làm hoặc chưa làm ngay.
Đối với tham nhũng hành chính: Là vi phạm các quy định của pháp luật, hoặc việc
thực thi pháp luật mang nặng tính thiên vị. Đây là tham nhũng trong bộ máy hành
chính Nhà nước và là loại tham nhũng được nói tới nhiều nhất - đại đa số những
đóng góp về lý thuyết trong lĩnh vực này đều bàn về tham nhũng trong bộ máy
hành chính Nhà nước. Loại tham nhũng này phù hợp với mô hình cấp trên - cấp
dưới trong tham nhũng vì toàn bộ việc thực hiện tham nhũng đều do các công chức
gây ra. Hậu quả trực tiếp nghiêm trọng nhất của loại tham nhũng này là các đạo
luật và chính sách của nhà nước không được thực hiện một cách công bằng.
Đối với tham nhũng nhằm “bẻ cong pháp luật”: Mục đích thay đổi các quy định
của pháp luật thành những quy định phục vụ cho quyền lợi của những kẻ tham
nhũng. Có thể hiểu “bẻ cong luật pháp” như sau, đó là “Các đạo luật và chính sách
của nhà nước chịu sự chi phối của một số ít chính trị gia hoặc những doanh nhân
rất có có thế lực đã hối lộ các đại biểu quốc hội. Nói cách khác, các chính sách của
Nhà nước chắc chắn được ban hành để phục vụ thiểu số những kẻ có thế lực chứ
không phải nhân dân nói chung”. Mặc dù hệ thống như vậy tồn tại trên thực tế và
loại tham nhũng này có thể lý giải một số nhân tố cơ bản trong chính sách công ở
nhiều quốc gia. Pháp luật của nhà nước có thể bị bẻ cong trước tình trạng vận động
hành lang ồ ạt và tham nhũng.

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Thực tiễn hiện nay, tham nhũng là một vấn nạn và thách thức đối với các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Theo Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
năm 2017 đã chỉ ra rằng “tham nhũng được xem là một rủi ro lớn đối với các công
ty có vốn đầu tư nước ngoài. Hối lộ đã trở thành một vấn nạn trong kinh doanh và
rất nhiều công ty xem đây là một vấn đề không tránh khỏi và không có cách giải
quyết”3. Theo số liệu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 81 về Đạo
đức và Tham nhũng; đứng thứ 109 về các Chi phí Không chính thức và Hối lộ
trong tổng số 137 quốc gia được khảo sát4.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp được nhìn nhận đóng vai trò như “mắt xích kép” -
Vừa là nạn nhân, vừa là tác nhân gây ra tham nhũng. Có đến 66% doanh nghiệp
dân doanh trong nước đã phải chi trả các chi phí không chính thức và 59% doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phải trả chi phí không chính thức khi làm
thủ tục hải quan5. Đồng thời, 61,5% doanh nghiệp có hành vi biếu tiền và hầu như
tất cả các doanh nghiệp đều có “lại quả” cho đối tác6. Hầu như doanh nghiệp làm
việc với cơ quan nhà nước nào cũng đều có chi phí không chính thức cho cơ quan
đó. Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong kinh doanh, các hình thức
tham nhũng ít được nhận diện hơn vì bản thân doanh nghiệp chưa tự nhận thức
được vấn đề này. Hơn nữa, tham nhũng trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
thuộc khu vực tư chưa phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng luôn sẵn
sàng “lại quả” theo giá trị hợp đồng. Đây được xem như một thông lệ trong giao
dịch để giữ mối quan hệ hay thúc đẩy các hoạt động khác như thanh toán, giao
nhận… Trong bối cảnh tham nhũng trong khu vực tư, đặc biệt là trong kinh doanh
đang ngày càng phát triển và có nguy cơ gây ra hệ lụy nghiêm trọng đối với sự ổn
định, phát triển kinh tế - xã hội, một yêu cầu tất yếu đặt ra đó là phòng, chống tham
nhũng trong kinh doanh cần phải tiến hành đồng bộ, song song với công tác phòng,
chống tham nhũng trong khu vực tư. Khu vực tư không chỉ là nạn nhân của tham
nhũng mà còn là tác nhân, chủ thể gây nên tham nhũng bởi những hành vi đưa hối
lộ đến những chủ thể có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công để đạt được dự án
hay sự ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong cải cách hành chính, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc

3
Phân tích về rủi ro tham nhũng đối với các nhà đầu tư ở Việt Nam, tháng 2 năm 2017
(http://www.vbf.org.vn/en/documentation-center/governance-and-transparency-working-group.html?view=docman)
4
https://www.weforum.org/reports/the-global-competitiveness-report-2017-2018
5
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, Chỉ số Năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) 2015, trang 18, 91
6
Sáng kiến Xây dựng tính Nhất quán và Minh bạch trong Quan hệ KD tại Việt Nam - ITBI

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập nhưng Việt Nam vẫn bị xếp
hạng thấp nhất trong số sáu nước thành viên ASEAN (Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan) xét về khía cạnh quản trị doanh nghiệp7. Điều
này chứng minh rằng Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của việc xây dựng và
thực thi các chính sách liên quan đến chống hối lộ. Theo đánh giá tác động của dự
thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi đã xác định, thực tiễn hiện nay cho
thấy, tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước diễn ra khá nghiêm trọng, phức
tạp. Tuy nhiên, nội dung này lại chưa được Luật Phòng, chống tham nhũng điều
chỉnh. Nhiều quan điểm cho rằng nếu Luật Phòng, chống tham nhũng không đưa
khu vực tư vào đối tượng điều chỉnh, kiểm soát thì việc phòng, chống tham nhũng
trong khu vực công sẽ giảm đi hiệu quả đáng kể. Vì trong điều kiện hiện nay, sự
kết nối các mối quan hệ công tư diễn ra trong nhiều lĩnh vực, chặt chẽ, đan xen lẫn
nhau. Nhiều chuyên gia ví khu vực công - tư như “bình thông nhau”, bởi trong
nhiều trường hợp, khu vực tư chính là nơi nơi trú ẩn, “rửa tiền”, là “sân sau” của
những quan chức có hành vi tham nhũng trong khu vực công. Bởi vậy, việc phòng,
chống tham nhũng sẽ không có ý nghĩa nếu bỏ qua khu vực tư và phòng, chống
tham nhũng trong khu vực tư cũng chính là để phòng, chống tham nhũng trong khu
vực công. Đặc biệt, một trong 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp được nêu rõ tại Kết
luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí liên quan đến phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng, chống tham nhũng đó là “Từng bước mở rộng hoạt động phòng,
chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước”.
Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong khu vực tư, theo tác giả cần triển khai
một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp, cần ý thức rõ về tác động tiêu cực của tham
nhũng, lưu ý đến cả những tham nhũng vặt. Tăng cường chuẩn mực đạo đức kinh
doanh và văn hóa doanh nghiệp, quản trị tốt, tăng cường thực thi hiệu quả kiểm
soát nội bộ, phòng ngừa tham nhũng, đào tạo hướng dẫn và hỗ trợ nhân viên.
Phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư nên triển khai đồng bộ ở cả ba cấp độ,
đó là: Trong nội bộ doanh nghiệp, với các đối tác kinh doanh và tham gia các hành
động tập thể. Cụ thể:
Một là, trong nội bộ doanh nghiệp, xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng,
chống tham nhũng đã được chuẩn hóa như Bộ tiêu chuẩn ISO 37001 8 hoặc Bộ
nguyên tắc
7
Báo cáo Thẻ điểm Quản trị doanh nghiệp của khu vực ASEAN năm 2015
https://www.adb.org/sites/default/files/publication/375481/asean-cgscorecard-2015.pdf
8
Tổ chức Tiêu chuẩn hoá thế giới, Bộ tiêu chuẩn ISO 37001 về Chống Hối lộ

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


phòng chống hối lộ trong kinh doanh 9; đánh giá sự liêm chính của người lao động
thông qua việc kiểm tra tham chiếu với nơi làm việc trước đó của người lao động;
áp dụng và thực thi hiệu quả chính sách kê khai nguy cơ xung đột lợi ích và phòng
chống xung đột lợi ích10. Thiết lập và đảm bảo việc vận hành hiệu quả kênh báo
cáo tố cáo hành vi sai phạm, tham nhũng của doanh nghiệp (do doanh nghiệp tự
vận hành hoặc thuê công ty dịch vụ độc lập) để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo (kể cả
ẩn danh) với chính sách, quy trình rõ ràng, dễ hiểu và tin cậy - làm cơ sở cho việc
tăng cường giám sát thực thi các chính sách liêm chính của doanh nghiệp. Tùy theo
điều kiện, doanh nghiệp có thể lựa chọn một đơn vị thứ ba thực hiện điều này để
đảm bảo tính khách quan và bảo mật thông tin.
Hai là, với đối tác kinh doanh, cần rà soát đối tác kinh doanh trước khi quyết định
hợp tác kinh doanh. Đưa vào phạm vi rà soát những tiêu chí liên quan tới hành vi
tham nhũng, hối lộ trong quá khứ và năng lực phòng, chống rủi ro tham nhũng của
đối tác.
Ba là, về việc tham gia các hành động tập thể, nên ủng hộ và tham gia các hành
động tập thể của hiệp hội, câu lạc bộ, nhóm doanh nghiệp như nhóm công tác về
Quản trị và Liêm chính (GIWG) thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF),
sáng kiến Liêm chính trong kinh doanh trong khuôn khổ Đề án 12 của Phòng
Thương Mại và Công nghiệp Việt nam (VCCI)… để cùng thúc đẩy và chia sẻ các
chuẩn mực và thông lệ tốt về liêm chính trong kinh doanh, bảo vệ những doanh
nghiệp là nạn nhân của tham nhũng, tố cáo những doanh nghiệp sử dụng tham
nhũng để trục lợi và gây tổn hại tới doanh nghiệp khác.
Thứ hai, Nhà nước cần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho doanh nghiệp tham gia
phòng, chống tham nhũng; một khuôn khổ thể chế đầy đủ, chặt chẽ, thống nhất và
xem đó là điều kiện tiên quyết để phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong khu
vực tư ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể, Chính phủ cần tiếp tục cải cách và hoàn thiện
pháp luật về phòng, chống tham nhũng trên cơ sở cân nhắc các văn bản luật chuyên
ngành liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng
khoán, Luật Hải quan, các luật về thuế… để loại bỏ những quy định gây cản trở sự
lành mạnh và thông suốt của môi trường kinh doanh theo định hướng của Nghị
quyết 19- 2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020.

9
Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Bộ Nguyên tắc Phòng chống Hối lộ trong Kinh doanh, 2013
10
Tham khảo Chính sách và quy trình quản lý xung đột lợi ích trong kinh doanh của Tổ chức Hướng tới Minh bạch.

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Nội luật hóa và thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo
đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện và pháp luật của Việt Nam. Từng bước mở
rộng đối tượng phòng, chống tham nhũng, trước hết cần lựa chọn khu vực tư có
nguy cơ cao phát sinh hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi đó gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội và cá nhân, tổ chức có liên quan./.

 Tài liệu 2
Một số vấn đề về tội phạm tham nhũng11
Lê Văn Thanh
TAQS Khu vực 2, Quân khu 1

Hiện nay, tình hình tội phạm tham nhũng diễn biến rất phức tạp, đặc biệt trong giải
quyết thủ tục hành chính công, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Việc
lợi dụng cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và việc thực hiện dự án, liên doanh, liên
kết, hợp tác đầu tư để chiếm đoạt tài sản nhà nước tiềm ẩn phức tạp khiến công tác
đấu tranh vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Tại phiên họp toàn thể lần thứ 13 của Quốc hội về thẩm tra báo cáo của Chính phủ
về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2019 ngày 04/9/2019. Theo báo cáo
công tác phòng, chống tham nhũng năm 2019 của Thanh tra Chính phủ, Phó Tổng
Thanh tra Chính phủ Trần Ngọc Liêm cho biết, qua tự kiểm tra nội bộ phát hiện 19
vụ, 22 đối tượng; qua hoạt động thanh tra đã phát hiện 48 vụ, 37 đối tượng tham
nhũng và liên quan đến tham nhũng; qua giải quyết khiếu nại, tố cáo phát hiện 13
vụ, 30 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng. Cơ quan điều tra đã thụ lý
điều tra 420 vụ án với 876 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó khởi tố mới
214 vụ với 487 bị can. Viện kiểm sát nhân dân các cấp khởi tố mới 240 vụ với 558
bị can về tội tham nhũng (tăng 09 vụ với 112 bị can).
Tội phạm chủ yếu tập trung vào các tội: tham ô tài sản; lợi dụng chức vụ quyền
hạn trong khi thi hành công vụ; lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
nhận hối lộ… Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 344 vụ với
849 bị cáo; xét xử sơ thẩm 240 vụ, với 517 bị cáo về các tội danh tham nhũng. Có
402 bị cáo phạm các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng;
đã có 09 bị cáo bị tuyên mức án tử hình, tù chung thân.

11
https://lsvn.vn/mot-so-van-de-ve-toi-pham-tham-nhung.html

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 đã kế thừa BLHS 1999 quy định các hành vi phạm
tội tham nhũng trong Chương XXIII từ Điều 353 đến Điều 359 (bao gồm 7 tội
danh) với nhiều nội dung mới liên quan đến tội tham nhũng, góp phần quan trọng
vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; khắc phục những bất cập trong
quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế, xã hội, chính trị của đất nước.
Những điểm mới về các tội phạm tham nhũng của BLHS 2015 so với BLHS
1999
Thứ nhất, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung tên chương, mục.
BLHS 1999 quy định tại Chương XXI: Các tội phạm về chức vụ; Mục A – Các tội
phạm về tham nhũng còn BLHS 2015 quy định tại Chương XXIII: Các tội phạm về
chức vụ; Mục 1 – Các tội phạm tham nhũng. Như vậy tên mục của BLHS 2015 về
tội phạm tham nhũng ngắn gọn hơn nhưng vẫn thể hiện đầy đủ nội dung, ý nghĩa.
Thứ hai, BLHS 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm tham nhũng ra khu
vực tư (ngoài nhà nước).
Các quy định của BLHS năm 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham
nhũng trong khu vực công (do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện) mà chưa ghi
nhận về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư (ngoài nhà nước). BLHS 2015 đã
mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm tham nhũng bao gồm cả các tội phạm tham
nhũng trong khu vực tư (ngoài Nhà nước), cụ thể là mở rộng chủ thể thực hiện tội
phạm không chỉ là người có chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các cơ quan nhà nước), mà còn là người
có chức vụ trong khi thực hiện “nhiệm vụ” (tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
nhà nước).
Phạm vi các tội phạm tham nhũng trong khu vực tư (ngoài nhà nước) bao gồm hai
tội danh sau: Tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ. Cụ thể là khoản 6 Điều 353 (tội
tham ô tài sản) quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ
chức ngoài nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”;
khoản 6 Điều 354 (tội nhận hối lộ) quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong
các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy
định tại Điều này”.
Thứ ba, BLHS 2015 mở rộng nội hàm “của hối lộ” và lợi ích được đưa, nhận bất
chính trong một số điều khoản liên quan đến tội phạm tham nhũng.
BLHS năm 1999 xác định “của hối lộ” trong cấu thành tội nhận hối lộ và một số
tội phạm tham nhũng liên quan như: đưa hối lộ, môi giới hối lộ… phải là tiền, tài
sản

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


hoặc lợi ích vật chất khác trị giá được bằng tiền. Ví dụ: khoản 1 Điều 279 BLHS
1999 thì: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã
nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào
có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì
lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm”. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng xuất hiện những lợi ích khác
như lợi ích về mặt tinh thần (tình dục, thăng cấp, bằng khen…) cũng được các đối
tượng hối lộ nhằm đạt được mục đích của mình.
Trước thực trạng đó, BLHS 2015 đã bổ sung thêm “lợi ích phi vật chất” vào các
cấu thành định tội đối với tội nhận hội lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi và một số tội phạm khác về chức vụ như tội
đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ,
quyền hạn để trục lợi. Việc bổ sung “lợi ích phi vật chất” đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong giai đoạn hiện nay và phù hợp
với Công ước chống tham nhũng của Liên Hợp quốc UNCAC.
Thứ tư, BLHS 2015 bổ sung quy định hối lộ công chức nước ngoài; quy định cụ
thể bên thứ ba hưởng lợi trong các tội phạm hối lộ.
Khoản 6 Điều 364 quy định: “Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức
nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này”. Như
vậy, hành vi hối lộ công chức nước ngoài đã chính thức được ghi nhận là một
trường hợp của tội đưa hối lộ và được quy định cụ thể trong Luật Hình sự, việc bổ
sung hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức quốc
tế công là cần thiết và phù hợp với Công ước Chống tham nhũng của Liên Hợp
Quốc.
BLHS 2015 cũng đã nêu ra vấn đề bên thứ ba hưởng lợi từ hành vi hối lộ; tại
khoản 1 Điều 354 (tội nhận hối lộ) “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực
tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân
người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác…”, và khoản 1 Điều 364 (tội đưa hối
lộ) “Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa…”. Việc quy định
như vậy tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi hối lộ trong những trường
hợp của hối lộ không được thụ hưởng bởi chính người có chức vụ, quyền hạn mà
bởi người hoặc tổ chức khác với sự chấp nhận của người có chức vụ, quyền hạn và
điều đó nhằm vào việc thực hiện công vụ, nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền
hạn.

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Thứ năm, bổ sung không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời
hiệu thi hành bản án đối với một số tội phạm tham nhũng.
Để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện thái độ kiên
quyết của Nhà nước trong việc xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng, Điều 28
BLHS năm 2015 bổ sung hai trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội tham ô tài sản quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353,
tội nhận hối lộ quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354.
Điều 61 của BLHS 2015 đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu thi hành bản
án đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
(khoản 3, khoản 4 của các Điều 353, 354 BLHS 2015).
Đối với các trường hợp này, bất kể thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình đối với một số tội phạm tham nhũng
nếu đáp ứng được những điều kiện nhất định.
Trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương,
chính sách phát triển đất nước nói chung và xử lý các tội phạm về tham nhũng nói
riêng, theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị là giảm hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng
khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho nhà nước và hợp tác với cơ quan có thẩm
quyền phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng. Theo
quy định tại khoản điểm c khoản 3 Điều 40 BLHS 2015 quy định “người bị kết án
tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn” thì sẽ không
thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù
chung thân. Quy định này thể hiện quan điểm của Đảng về giảm hình phạt tử hình
được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng cũng như tinh thần của Hiến pháp
2013 trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người và xuất phát từ việc
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn việc thi hành án tử hình ở Việt Nam.
Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, theo quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 sửa đổi,
bổ sung và Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về các hành
vi tham nhũng, bao gồm 12 hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, BLHS 2015 chỉ quy

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


định 07 tội danh về tham nhũng. Như vậy, BLHS 2015 với Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018 chưa có sự đồng nhất với nhau.
Theo quy định tại các khoản 8, 9, 10, 11, 12 Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng
2005 và các điểm h, i, k l, m khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống
tham nhũng 2018 thì còn 05 hành vi được coi là hành vi tham nhũng, bao gồm:
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật
vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Tuy nhiên, BLHS 2015 chỉ quy định một số hành vi trên là tình tiết định khung
tăng nặng như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đối với tội đưa hối lộ (điểm d
khoản 2 Điều 364), tội môi giới hội lộ (điểm đ khoản 2 Điều 365); hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn là tình tiết định khung tăng nặng đối với tội sử dụng trái phép
tài sản (điểm d khoản 2 Điều 177); hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng
hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ tại một số tội như tội thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng (Điều 360), tội đào nhiệm (Điều 363); hành vi bao che cho
người có hành vi phạm tội (Điều 223, khoản 2 Điều 389); hành vi can thiệp trái
pháp luật vào việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án (tại Điều 358, 372, 381)
hoặc có những hành vi mà BLHS 2015 chưa đề cập đến hoặc đề cập đến nhưng
không đầy đủ như hành vi nhũng nhiễu vì vụ lợi; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp
trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án vì vụ lợi; có hành vi được xác định là hành vi tham nhũng theo quy
định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện nay không có chế tài hình sự và cũng
không có chế tài hành chính cụ thể, riêng biệt nào để xử lý.
Chính vì vậy, theo tôi, để cho pháp luật được thống nhất và dễ áp dụng thì các nhà
lập pháp nên quy định thêm 05 tội danh riêng biệt thể hiện đầy đủ các nội dung
tương ứng với 05 hành vi tham nhũng mà Luật Phòng, chống tham nhũng đã liệt
kê. BLHS cần quy định thêm 05 tội danh như sau:

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công
việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”;
– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
– Tội nhũng nhiễu vì vụ lợi;
– Tội không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công
vụ vì vụ lợi;
– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Hai là, BLHS 2015 chỉ quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại đối với một số tội nhất định như các tội phạm quy định tại các điều
188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216,
217, 225,
226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của
BLHS.
Tuy nhiên, đối với nhóm tội phạm tham nhũng được thực hiện bởi các pháp nhân
thì lại chưa đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong giai đoạn hiện nay,
với quá trình hội nhập quốc tế toàn cầu thì những hành vi phạm tội tham nhũng
cũng đã manh nha xuất hiện và gây hậu quả nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế
và đời sống xã hội. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các nhà lập pháp cần nghiên
cứu mở rộng phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm
hình sự đặc biệt là về tội phạm tham nhũng.
Ba là, tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 353 “ảnh
hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong
cơ quan, tổ chức”; tình tiết quy định tại điểm c khoản 3 Điều 353; điểm d khoản 3
Điều 355 “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; tình tiết quy
định tại điểm b khoản 2 các Điều 353 và 355 của BLHS “dùng thủ đoạn xảo quyệt,
nguy hiểm”, hiện nay còn chưa có hướng dẫn cụ thể, có nhiều cách hiểu khác nhau
dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất. Vì vậy, đề nghị cơ quan có
thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng các tình tiết trên để
việc áp dụng pháp luật được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

 Tài liệu 3

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Điểm mới của Luật phòng, chống tham nhũng 2018 liên quan đến
việc kiểm soát tài sản, thu nhập12
Ngọc Bình
Luật phòng, chống tham nhũng (PCTN) 2018 đã được Quốc hội thông qua và sẽ
chính thức có hiệu lực từ ngày 01-07-2019.
Vấn đề kiểm soát thu nhập được nhắc tới từ Pháp lệnh Chống tham nhũng năm
1998 với việc quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản; Luật PCTN năm 2005 phát
triển chế định kê khai tài sản thành chế định minh bạch tài sản, thu nhập. Đến Luật
PCTN (sửa đổi) lần này thì vấn đề được phát triển thêm một bước thành chế định
kiểm soát tài sản, thu nhập, coi trọng việc kiểm soát tính xác thực trong việc kê
khai tài sản, thu nhập.
Luật đã quy định hoàn thiện hơn hệ thống cơ quan thực hiện nhiệm vụ kiểm soát
tài sản, thu nhập theo hướng tập trung, thu gọn đầu mối, bảo đảm tính chuyên
nghiệp, độc lập trong kiểm soát tài sản thu nhập. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu
nhập được bổ sung nhiều thẩm quyền hơn, trong đó có thẩm quyền yêu cầu các cơ
quan có trách nhiệm, như: Các ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan thuế, công an,
hải quan, những cơ quan tổ chức khác phải cung cấp thông tin có liên quan để phục
vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập. Căn cứ xác minh, trình tự, thủ tục xác minh
tài sản, thu nhập được quy định rõ ràng, mở rộng hơn; hình thức kê khai, phương
thức kê khai tài sản cũng có đổi mới để bảo đảm tính hiệu quả cao hơn. Có nhóm
đối tượng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn, như: Nhóm giữ chức vụ từ giám đốc sở và
tương đương trở lên sẽ buộc phải kê khai hằng năm. Những nhóm đối tượng tuy
không giữ chức vụ cao nhưng công tác ở những vị trí dễ phát sinh tiêu cực, tham
nhũng cũng sẽ phải kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập một cách ngặt nghèo hơn.
Cùng với đó, công nghệ thông tin sẽ được phát huy tác dụng trong kiểm soát tài
sản, thu nhập. Luật đã có quy định về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng chặt chẽ, cụ thể hơn.

Sau đây là những điểm mới cụ thể:


1 - Mở rộng đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập

12
http://noichinh.vn/ho-so-tu-lieu/201902/diem-moi-cua-luat-phong-chong-tham-nhung-2018-lien-quan-den-viec-
kiem-soat-tai-san-thu-nhap-305103/

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


Những người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập được Luật này quy định tại Điều
34. Theo đó, các đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập không còn được gói gọn
ở “một số cán bộ, công chức” như quy định tại Luật cũ, mà được mở rộng như sau:
- Cán bộ, công chức;
- Sĩ quan công an nhân dân; sĩ quan quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp;
- Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại các
đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp Nhà nước, người được cử làm đại diện
phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND).
2 - Thêm một số loại tài sản, thu nhập phải kê khai
Ngoài phải kê khai các loại tài sản, thu nhập như quy định trước đây, như: Nhà,
đất; Kim khí quý, đá quý, tiền, mà mỗi tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên;
Tài sản, tài khoản ở nước ngoài. Luật mới yêu cầu các đối tượng nêu trên còn phải
kê khai thêm công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất.
3 - Biến động tài sản từ 300 triệu đồng/năm phải kê khai bổ sung
Theo khoản 2 Điều 36, người có nghĩa vụ kê khai phải thực hiện kê khai bổ sung
khi có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên.
Trường hợp có biến động tài sản như trên mà không giải trình hợp lý về nguồn gốc
tài sản, cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có trách nhiệm xác minh.
Người có nghĩa vụ kê khai phải giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của
bản kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm. Đồng thời, có quyền khiếu
nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xác minh tài sản,
thu nhập khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật.
4 - Thời điểm kê khai tài sản, thu nhập trước ngày 31-12
Theo đó, việc kê khai tài sản thu nhập được thực hiện theo các phương thức sau:
- Kê khai lần đầu : Áp dụng cho các đối tượng nêu trên. Việc kê khai phải hoàn
thành trước 31-12-2019.
- Kê khai bổ sung áp dụng với người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản,
thu nhập trong năm có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên. Việc kê khai hoàn thành
trước ngày 31-12 năm có biến động tài sản.

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved


- Kê khai hàng năm áp dụng với người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương
đương trở lên; Người làm công tác cán bộ, quản lý tài sản công... Việc kê khai
hoàn thành trước ngày 31-12…
5 - Bản kê khai tài sản, thu nhập phải được công khai
Điều 39 của Luật này nêu rõ, bản kê khai của người có nghĩa vụ kê khai phải được
công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
Bản kê khai của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý được
công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.
Bản kê khai của người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND phải được công
khai theo quy định của pháp luật bầu cử…
6 - Kê khai không trung thực có thể bị buộc thôi việc
Theo khoản 3 Điều 51, cán bộ, công chức kê khai không trung thực về tài sản, thu
nhập có thể bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức: Cảnh cáo, hạ bậc lương,
giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm.
Trường hợp đã được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa
ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn
nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.
Trường hợp người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức
vụ mà kê khai không trung thực thì không được bổ nhiệm, phê chuẩn hoặc cử vào
chức vụ dự kiến.
Trường hợp người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND mà kê khai không
trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.

© 2020 TRAN DIEU MY - UEH. All rights reserved

You might also like