You are on page 1of 40

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG
(Dùng cho các lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư )

03
LS.LS&NLS
B2

- Hồ sơ chỉ dùng để giảng dạy và học tập trong các lớp đào tạo
nguồn Luật sư của Học viện Tư pháp;
- Người nào sử dụng vào mục đích khác phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm.

Hà Nội - 2023
TIỂU HỒ SƠ 3.1

1
VIỆN KSND DÂN TỈNH G CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN KSND HUYỆN H Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐOÀN LUẬT SƯ-------------------
TP B -----------------------
CÔNG VĂN Số: ĐẾN122/CV-VKS Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2013
SỐ: 39
“V/v
Ngày, thông
tháng: báo vi phạm của luật sư”
25.03.2013

Kính gửi: - Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;


- Trưởng Văn phòng Luật sư C, Đoàn luật sư TP B

Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G đang thụ lý giải quyết vụ án Ngọ Thành Tới, sinh
năm 1985, trú quán tại thôn Ngọ Xá, xã Châu Minh, huyện H, tỉnh G về tội “cố ý gây thương
tích” theo Điều 104 của Bộ luật hình sự. ngày 22/10/2012 Tòa án nhân dân huyện H đã cấp Giấy
chứng nhận người bào chữa số 14 và số 15 cho các ông Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A là luật
sư thuộc văn phòng Luật sư C – Đoàn luật sư TP B để tham gia tố tụng bào chữa cho bi can Ngọ
Thành Tới, theo hợp đồng dịch vụ pháp lý mà gia đình bị can đã ký với Văn phòng luật sư C.
Ngày 12/3/2013, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G có Công văn số 98//CV-VKS
thông báo đến Văn phòng luật sư C đề nghị cử luật sư đã được cấp Giấy chứng nhận bào chữa để
tham gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên đối với bị can Ngọ Thành Tới với bị can Ngọ Văn
Hùng trong vụ án, nhằm đảm bảo tính khách quan, vô tư và bảo đảm quyền được bào chữa của bị
can Ngọ Thành Tới.
Thực hiện công văn thông báo trên, vào lúc 09 giờ ngày 19/3/2013, hai luật sư Nguyễn
Văn B và Nguyễn Văn A đã có mặt tại phòng hỏi cung của Trại tạm giam Công an tỉnh G tham
gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên đối với bị can Tới và bị can Hung. Tuy nhiên, trong lúc
Kiểm sát viên đang tiến hành đối chất và ghi biên bản đối chất theo lời trình bày của bị can
(được khoảng 30 phút, kể từ khi bắt đầu cuộc đối chất) thì hai luật sư này đã có hành vi và lời
nói phản ứng thiếu tôn trọng Kiểm sát viên rồi tự ý bỏ ra về, không tiếp tục tham gia buổi đối
chất để bảo vệ quyền lợi cho bị cạn Tới, cũng không có ý kiến chính thức và ký xác nhận vào
biên bản đối chất (mặc dù đã được Kiểm sát viên nhắc nhở, yêu cầu quay trở lại để tiếp tục làm
việc). Hơn thế nữa, trước khi ra về, luật sư Nguyễn Văn A còn trực tiếp xúi giục bị can Ngọ
Thành Tới từ chối tiếp tục buổi đối chất và không ký biên bản đối chất.
Việc làm trên đây của hai luật sư Nguyễn Văn B và luật sư Nguyễn Văn A đã vi phạm
nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại các điểm b, c và d khoản 3 Điều 58 của Bộ luật
Tố tụng hình sự; vi phạm nguyên tắc hành nghề luật sư; nghĩa vụ của luật sư được quy định tại
các Điều 5, Điều 21 Luật Luật sư năm 2006 và vi phạm Chương IV Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc); không những làm ảnh hưởng đến quyền được bào
chữa của bị can được pháp luật quy định mà còn làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Tổ chức hành
nghề luật sư và hình ảnh của người luật sư Việt Nam; gây khó khăn, cản trở và kéo dài việc giải
quyết vụ án.
Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G thông báo đến Ban chủ nhiệm Đoàn luật
sư TP B và Trưởng Văn phòng luật sư C biết để có biện pháp xử lý đối với những vi phạm của

2
hai luật sư nêu trên. Nhận được công văn thông báo này, đề nghị Đoàn luật sư TP B biết để có
biện pháp xử lý và có văn bản phúc đáp cho Viện kiểm sát nhân dân huyện H , tỉnh G biết kết
quả trước ngày 01/04/2013./.

Nơi nhận: KT. VIỆN TRƯỞNG


- Như kính gửi; PHÓ VIỆN TRƯỞNG
- Đ/c Viện trưởng (để b/c) (đã ký, đóng dấu)
- Cơ quan điều tra (để biết); Đinh Văn Kh
- TAND huyện H (để biết);
- Hồ sơ vụ án;
- Hồ sơ KS;
- Lưu.

3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------

BÁO CÁO
(V/v; hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh – Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện H , tỉnh G)
Kính gửi: Ông Trưởng Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư TP B

Chúng tôi là: Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A là luật sư của Văn phòng xin báo cáo về
hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh như sau:
Ngày 19/3/2012, theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can Ngọ
Thành Tới, Văn phòng luật sư C cử 02 Luật sư chúng tôi gồm: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B
tham gia buổi đối chất giữa bị can Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các tình tiết liên quan của vụ
án.
Buổi làm việc diễn ra lúc 09 giờ sang tại Trại tạm giam - công an tỉnh G, chủ trì buổi đối
chất là ông Đinh Văn Kh – phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H, đồng là là Kiểm
sát viên giữ quyền công tố của vụ án. Do ông Kh đến muộn chúng tôi (LS B ) đã 02 lần điện
thoại cho ông và ông Kh bảo chờ anh gần lên đến nơi rồi. Chúng tôi đã ngồi chờ ông Kh khoảng
gần 09 giờ sáng thì ông Kh và điều tra viên Đỗ Văn H đến trại và vào ngồi tại phòng đồng chí P
– Phó giám thị trại, sau đó ông Đinh Văn Kh làm thủ tục trích xuất bị can.
Tại buổi đối chất chúng tôi đã cương quyết phản đổi vì: tại buổi làm việc này, ông Đinh
Văn Kh đã có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật, bởi: khi Kiểm sát
viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch như thế nào,
ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì bị can Ngọ Văn Hùng không trả lời được,
do không biết (bịa) để trả lời thế nào, sau đó ông Đinh Văn Kh tiếp tục gợi ý mớm cung Ngọ
Văn Hùng để trả lời theo ý kiến của Kiểm sát viên. Trước đó, ông Đinh Văn Kh đã gợi ý Ngọ
Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có ý kiến đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng tự khai và
khai đến đâu thì ghi đến đấy và chúng tôi nêu rõ nếu anh (Kh) tiếp tục gợi ý thì chúng em sẽ
không làm việc nữa và ông Đinh Văn Kh đã nhất trí. Nhưng sau đó, ông Đinh Văn Kh lại tiếp
tục gợi ý để bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông, gây bất lợi cho Ngọ Thành Tới và việc
khai này là hoàn toàn bịa đặt, không khách quan bởi trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử
vụ án chưa bao giờ Ngọ Văn Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn
Tuấn. Do chúng tôi đã không nhất trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn
Kh, nên cả hai luật sư đã bỏ ra về, để phân biệt đối với hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi cho
Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan sai rất rõ,
nên có ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm cần phải xử lý
nghiêm bởi, trong vụ án này chính Ngọ Văn Hùng là người cầm côn vụt gây mù mắt, tổn hại
45% cho người bị hại Nguyễn Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ Thành Tới.
Trong buổi làm việc này, chúng tôi đã làm thủ tục để trích xuất bị can Ngọ Thành Tới ra
trước, nhưng để đảm bảo tính khách quan chúng tôi đã không trích xuất mà chờ Viện kiểm sát
lên rồi Viện làm thủ tục trích xuất. Hơn nữa, do trong trại tạm giam cấm các thiết bị thu phát,

4
điện thoại nên chúng tôi không có tài liệu gửi kèm, tuy nhiên các luật sư sẵn sàng đối chất với
ông Đinh Văn Kh.
Trên đây là báo cáo của chúng tôi về buổi đối chất trên.

Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2013


Người báo cáo
(đã ký)
LS.Nguyễn Văn B
(đã ký)
LS.Nguyễn Văn A

5
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- -----------------------
Số: 10/CV-VPLS Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2013
“V/v báo cáo về hành vi mớm cung của ông
Đặng Văn KH”

Kính gửi: Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;

Văn phòng luật sư C, địa chỉ số 8, ngách 6/6 phố Đ, thành phố B là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho anh Ngọ Thành Tới, sinh năm 1985, địa chỉ thôn Ngọ Xá, xã Chấu Minh,
huyện H là bị can trong vụ án Cố ý gây thương tích xảy ra ngày 15/02/2010 (tức ngày 02 tết
Canh Dần) tại địa dìa đường cạnh Sân kho thôn Ngọ Khổng, xã Châu Minh, huyện H, tỉnh G tại
các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Anh Ngọ Thành Tới bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H
truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Đây là vụ án phức tạp
và đã kéo dài hơn ba năm với 04 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung, 01 lần gia hạn điều tra, 07 lần
hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Chánh án Tòa án nhân dân huyện H – Trần Văn T
chủ tọa phiên tòa đã bảo lưu ý kiến không đủ căn cứ buộc tội Ngọ Thành Tới. Hai vị Hội thẩm
nhân dân bỏ phiếu quá bán nên Bản án vẫn được tuyên. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án nhân
dân tỉnh G đã hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và trả hồ sơ để điều tra lại theo thủ tục chung, đến nay
việc điều tra lại đã kết thúc, Viện kiểm sát nhân dân huyện H vẫn truy tố bị can Ngọ Thành Tới
với tội danh trên và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện H để xét xử. Tuy nhiên, cả hai
phiên xử các ngày 31/01 và 4/3/2013 đều bị hoãn, sau đó Tòa án nhân dân huyện H lại trả lại hồ
sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện H.
Ngày 19/03/2012, theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can Ngọ
Thành Tới, văn phòng luật sư C cử 02 luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B tham gia buổi
đối chất giữa bị can Ngọ Văn Hùng và Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các tình tiết liên quan của
vụ án.
Sau buổi đối chất này các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã trực tiếp trao đổi
trực tiếp sự việc và có báo cáo bằng văn bản gửi Trưởng Văn phòng về hành vi mớm cung của
ông Đinh Văn Kh. Trên cơ sở báo cáo của các luật sư, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can Ngọ Thành Tới, Văn phòng đã có Công văn gửi các cơ quan chức năng tỉnh G xem xét
hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh. Viện kiểm sát nhân dân huyên H đã có văn bản gửi
Văn phòng và cho rằng ông Đinh Văn Kh không có hành vi mớm cung. Trên cơ sở nội dung vụ
việc, Văn phòng xin báo cáo Ban chủ nhiệm như sau:
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã xuất phát tại B từ 05 giờ sáng để kịp thời
gian thông báo (qua điện thoại) của ông Đinh Văn Kh là 08 giờ sáng ngày 19/03/2013 nên các
luật sư đến trại giam sớm hơn ông Đinh Văn Kh. Sau đó, các luật sư ngồi chờ tại trại tạm giam
và đã làm thủ tục để trích xuất bị can, nhưng để khách quan các luật sư lại vào phòng đồng chí
Vũ Hữu L – Phó giám thị trại rút yêu cầu trích xuất bị can để chờ Viện kiểm sát lên làm thủ tục
trích xuất bị can. Quá trình chờ đợi Viện kiểm sát quá lâu, luật sư Nguyễn Văn B đã điện thoại
02 lần cho ông Đinh Văn Kh và ông Đinh Văn Kh trả lời đang lên. Buổi đối chất diễn ra lúc hơn

6
09 giờ 00 ngày 19/3/2013 tại trại giam, chủ trì buổi đối chất là ông Đinh Văn Kh - Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H đồng thời là Kiểm sát viên giữ quyền công tố của vụ án.
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã cương quyết phản đố vì: Tại buổi đối chất
này, ông Đinh Văn Kh có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật bởi: khi
Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch như
thế nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì bị can Ngọ Văn Hùng không trả
lời được, do không biết trả lời thế nào, sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục mớm cung Ngọ Văn
Hùng để trả lời theo ý của Kiểm sát viên (Lưu ý: Trước đó, ông Đinh Văn Kh đã gợi ý mớm cung
Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có ý kiến phản đối, đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng
tự khai và khai đến đâu thì ghi đến đó, ông Đinh Văn Kh đã nhất trí). Nhưng sau đó ông Đinh
Văn Kh lại tiếp tục gợi ý để bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông và việc khai này là hoàn
toàn bịa đặt, không khách quan bởi, trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao
giờ Ngọ Văn Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Do các
luật sư không nhất trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh nên cả hai
luật sư đã bỏ về để phản đối hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi cho
Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan sai rất rõ
nên cố ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm cấm cần phải
xử lý nghiêm bởi trong vụ án này qua nghiên cứu hồ sơ thì chính Ngọ Văn Hùng là người cầm
côn vụt gây mù mắt, tổn hại 45% cho người bị hại Nguyễn Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ
Thành Tới.
Trên đây là báo cáo của Văn phòng.
Xin trân trọng cảm ơn.

Nơi nhận: TM. VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C


- Như trên; TRƯỞNG VĂN PHÒNG
- Lưu VP. (đã ký, đóng dấu)
Luật sư Đinh Văn V

7
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------
H , ngày 06 tháng 12 năm 2013

BẢO LƯU Ý KIẾN

Trong các ngày 01, 02 và 06 tháng 12 năm 2011, Tòa án nhân dân huyện H đưa vụ án hình
sự thụ lý số 80/HSST ngày 01/11/2011 xét xử sơ thẩm.
Với Hội đồng xét xử gồm:
- Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn T;
- Các Hội thẩm nhân dân: + Ông Nguyễn Văn Ng;
+ Ông Dương Minh Th.
Trong quá trình nghị án, hai Hội thẩm nhân dân xác định đã có đủ cơ sở kết luận bị can
Ngọ Thành Tới phạm tội “Cố ý gây thương tích”, phạt Tới 06 năm tù; kết luận Ngọ Văn Hùng
phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”, phạt Hùng 09 tháng tù cho hưởng án treo và quyết định
những vấn đề liên quan khác trong vụ án.
Tôi, thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cho rằng: Cơ quan tố tụng có vi phạm khi xác định hiện
trường vụ án không có Kiểm sát viên và thành phần khác theo quy định tại khoản 2 Điều 150 Bộ
luật tố tụng Hình sự; vật chứng là 2 mẩu gạch thu tại hiện trường không niêm phong; lời khai
người bị hại và nhân chứng Thanh để buộc tội Tới thì bất nhất; các nhân chứng anh Mùi, anh
Hưng xác nhận Tới không đánh anh Tuấn. Vậy chưa đủ cơ sở đế kết tội cho bị cáo Tới.
Với bị cáo Hùng đã có cơ sở kết tội Gây rối trật tự công cộng.
Hội đồng xét xử biểu quyết toàn bộ vụ án: 2/3.
Tôi thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bảo lưu chưa đủ cơ sở kết tội với Ngọ Thành Tới.
Người bảo lưu
(đã ký, đóng dấu)
Trần Văn T

8
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- -----------------------
Số: 05/CV-VPLS Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2013
“V/v báo cáo về hành vi mới cung”
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
CÔNG VĂN ĐẾN Kính gửi: - Ông Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
SỐ:
Ngày, tháng: 27.03.09 - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G;
- Tòa án nhân dân tỉnh G;
- Chủ tịch UBND huyện H , tỉnh G;
- Bí thư huyện ủy H ;
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H ;
- Tòa án nhân dân huyện H

Văn phòng luật sư C, thành phố B là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ngọ
Thành Tới, sinh năm 1985, địa chỉ thôn Ngọ Xá, xã Chấu Minh, huyện H là bị can trong vụ án
Cố ý gây thương tích xảy ra ngày 15/02/2010 (tức ngày 02 tết Canh Dần) tại địa dìa đường cạnh
Sân kho thôn Ngọ Khổng, xã Châu Minh, huyện H , tỉnh G tại các phiên tòa sơ thầm và phúc
thẩm. Anh Ngọ Thành Tới bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về tội Cố ý gây thương
tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Đây là vụ án phức tạp và đã kéo dài hơn ba năm với
04 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung, 01 lần gia hạn điều tra, 07 lần hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa sơ
thẩm ông Chánh án Tòa án nhân dân huyện H – Trần Văn T chủ tọa phiên tòa đã bảo lưu ý kiến
không đủ căn cứ buộc tội Ngọ Thành Tới. Hai vị Hội thẩm nhân dân bỏ phiếu quá bán nên Bản
án vẫn được tuyên. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh G đã hủy toàn bộ Bản án sơ
thẩm và trả hồ sơ để điều tra lại theo thủ tục chung, đến nay việc điều tra lại đã kết thúc, Viện
kiểm sát nhân dân huyện H vẫn truy tố bị can Ngọ Thành Tới với tội danh trên và chuyển hồ sơ
cho Tòa án nhân dân huyện H để xét xử. Tuy nhiên, cả hai phiên xử các ngày 31/01 và 4/3/2013
đều bị hoãn, sau đó Tòa án nhân dân huyện H lại trả lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân
huyện H.
Ngày 19/03/2012, theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can Ngọ
Thành Tới, văn phòng luật sư C cử 02 luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B tham gia buổi
đối chất giữa bị can Ngọ Văn Hùng và Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các tình tiết liên quan của
vụ án.
Buổi làm việc diễn ra lúc hơn 09 giờ sáng tại trại giam - Công an tỉnh G, chủ trì buổi đối
chất là ông Đinh Văn Kh - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H đồng thời là Kiểm
sát viên giữ quyền công tố của vụ án.
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã cương quyết phản đối vì: tại buổi đối chất
này, ông Đinh Văn Kh có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật bởi: khi
Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch như
thể nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì bị can Ngọ Văn Hùng không trả
lời được, do không biết trả lời thế nào, sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục mớm cung Ngọ Văn
Hùng để trả lời theo ý của Kiểm sát viên (Lưu ý: Trước đó ông Đinh Văn Kh đã gợi ý mớm cung

9
Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có ý kiến phản đối, đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng
tự khai và khai đến đâu thì ghi đến đó, ông Đinh Văn Kh đã nhất trí). Nhưng sau đó ông Đinh
Văn Kh lại tiếp tục gợi ý đẻ bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông và việc khai này là hoàn
toàn bịa đặt, không khách quan bởi, trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao
giờ Ngọ Văn Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Do các
luật sư không nhât trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh nên cả hai
luật sư đã bỏ về để phản đối hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi cho
Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan sai rất rõ
nên cố ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm cấm cần phải
xử lý nghiêm bởi trong vụ án này qua nghiên cứu hồ sơ thì chính Ngọ Văn Hùng là người cầm
côn vụt gây mù mắt, tổn hại 45% cho người bị hại Nguyễn Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ
Thành Tới.
Trong buổi làm việc này, chúng tôi đã làm thủ tục để trích xuất bị can Ngọ Thành Tới ra
trước, nhưng để khách quan chúng tôi đã không trích xuất mà chờ Viện kiểm sát lên rồi Viện làm
thủ tục trích xuất. Hơn nữa, do trong tại tạm giam cấm các thiết bị thu phát, điện thoại nên chúng
tôi không có tài liệu gửi kèm, tuy nhiên các luật sư sẵn sàng đối chất với ông Đinh Văn Kh.
Xin trân trọng cảm ơn.

Nơi nhận: TM. VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C


- Như trên; TRƯỞNG VĂN PHÒNG
- Ban chủ nhiệm ĐLSTPB (để b/cáo) (đã ký, đóng dấu)
- Lưu VP. Luật sư Đinh Văn V

10
1. Tóm tắt vụ việc:

VKSND huyện H tỉnh G đang thụ lý giải quyết vụ án Ngọ Thành Tới về Tội Cố ý gây
thương tích (Điều 104 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017). Trong đó, ông Nguyễn Văn B và
Nguyễn Văn A là luật sư thuộc Văn phòng Luật C là người bào chữa.
Theo thông báo của VKSND, các luật sư đã có mặt tại phòng hỏi cung của trại tạm giam
Công an tỉnh G để tham gia hoạt động đối chất của KSV đối với bị can Tới và bị can Hùng.
Ttrong quá trình làm việc, hai luật sư đã nhận thấy KSV có hành vi mớm cung: Khi KSV hỏi bị
cáo Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch như thế nào, ở vị trí nào và đi lên
chỗ đánh thế nào, sau đó KSV tiếp tục gợi ý mớm cung bị can Hùng để trả lời theo ý kiến của
KSV. Mặc dù các luật sư đã liên tục phản đối, nhưng KSV vẫn tiếp tục hành vi mớm cung nên
hai luật sư đã quyết định bỏ về và không ký vào biên bản đối chất.
Tuy nhiên, theo quan điểm của KSV, hai luật sư đã có hành vi và lời nói phản ứng thiếu
tôn trọng KSV rồi tự ý bỏ ra về, không tiếp tục tham gia buổi đối chất để bảo vệ quyền lợi cho bị
can Tới, cũng không có ý kiến chính thức và ký xác nhận vào biên bản đối chất, mặc dù đã được
KSV nhắc nhở, yêu cầu quay trở lại để tiếp tục làm việc.
Hơn thế nữa, trước khi ra về, luật sư Nguyễn Văn A còn tiếp tục xúi giục bị can Ngọ
Thành Tới từ chối tiếp tục buổi đối chất và yêu cầu bị can không ký biên bản đối chất.
KSV sau đó đã gửi đơn khiếu nại đến Liên đoàn luật sư yêu cầu có biện pháp xử lý.

2. Câu hỏi tình huống:

(i) Luật sư có thể tự ý bỏ về, không tiếp tục tham gia buổi đối chất, không có ý tiến chính
thức và không ký xác nhận vào biên bản đối chất không?
(ii) Hành vi này của Luật sư có phù hợp với các Nguyên tắc đạo đức và quy định pháp luật?
(iii) Giả sử có đủ chứng cứ chứng minh, hành vi mớm cung của Kiểm sát viên đã vi phạm quy
định nào? Hậu quả pháp lý của hành vi này là gì?
(iv) Trong quá trình chất vấn, nếu nhận thấy cơ quan nhà nước có hành vi mớm cung thì luật
sư cần làm gì để bảo vệ lợi ích khách hàng?
(v) Luật sư có thể khiếu nại hành vi của Kiểm sát viên đến đâu? Quy trình thủ tục khiếu nại
thực hiện như thế nào?
(vi) Luật sư có thể yêu cầu khách hàng không đối chất, không ký vào Biên bản hay không?

3. Phân tích và nhận định:

Về hành vi tự ý bỏ về, không tiếp tục tham gia buổi chất vấn, hai Luật sư KHÔNG nên có
hành vi như vậy mà có thể đề nghị dừng lại phiên hỏi cung, nhờ người thứ ba (như Giám thị, cán
bộ Trại giam) lập Biên bản để ghi nhận rằng phiên đối chất có hành vi mớm cung của Kiểm sát
viên, Kiểm sát viên không tôn trọng ý kiến của Luật sư, chứ tuyệt đối không được bỏ về, không
được bỏ rơi khách hàng.
Về hành vi không có ý kiến chính thức và không ký xác nhận vào biên bản đối chất, hai
Luật sư KHÔNG nên có hành vi như vậy mà vẫn phải ký xác nhận, nhưng trong đó phải ghi rõ ý
kiến rằng hai Luật sư nhận định đã có hành vi mớm cung từ Kiểm sát viên.
Hai luật sư đã vi phạm Quy tắc 28.2 khi đã “Phản ứng tiêu cực bằng hành vi tự ý bỏ về
khi tham gia tố tụng” và Quy tắc 5 khi không bảo vệ tốt nhất quyền lợi khách hàng.

11
TIỂU HỒ SƠ 3.2

12
CÔNG AN TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
Số 1350/CV/PC44-D3 TP. B , ngày 23 tháng 02 năm 2013
T/v: V/v xem xét hình thức xử lý kỷ luật
LS Nguyễn Thanh Vân
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 31
Kính gửi: Đoàn luật sư TP B
Ngày, tháng: 25.02.2013

Cơ quan cảnh sát điều tra, công an thành phố B đang điều tra vụ án Nguyễn Anh Kiên, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn quận G, thành phố B theo Quyết định khởi tố vụ án
hình sự số 288 ngày 29/6/2012 của Cơ quan CSĐT Công an quận G và quyết định chuyển vụ án
hình sự số 23 ngày 20/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân quận G.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án, thấy Luật sư Nguyễn Thanh Vân – Giám đốc công ty luật C,
địa chỉ trụ sở tại số 123, phố Tr, quận G, thành phố B đã được Cơ quan CSĐT công an quận G
cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho bị can Nguyễn Anh Kiên. Ngày 04/08/2012, luật sư
Nguyễn Thanh Vân có công văn số 3912/CV-C gửi Cơ quan CSĐT công an quận G với nội
dung: “Trước đây, anh Cao Xuân Vũ làm ăn với Nguyễn Anh Kiên bị thua lỗ. Để có tiền trả nợ,
Vũ và Kiên bàn nhau tạo dựng nên việc Kiên lừa đảo, chiếm đoạt tiền của anh Vũ bằng hình
thức nhận làm sổ đỏ cho diện tích đất của anh Vũ. Khi cơ quan điều tra, khởi tố, bắt giam Kiên
thì gia đình Kiên sẽ bán đất lấy tiền trả nợ cho anh Vũ để anh Vũ bù vào khoản tiền làm ăn thua
lỗ, thực tế Kiên không lừa đảo anh Vũ như tài liệu điều tra của Cơ quan CSĐT công an quận
G”.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan CSĐT công an thành phố B xác định
nội dung công văn số 3912/CV-C của luật sư Nguyễn Thanh Vân không có căn cứ. Bị can
Nguyễn Anh Kiên đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị can
Kiên phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập được. Quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra còn
nhận được đơn của anh Cao Xuân Vũ tố giác luật sư Nguyễn Thanh Vân với nội dung: “Tháng
8/2012, luật sư Nguyễn Thanh Vân đến gặp anh Cao Xuân Vũ thông báo việc gia đình Nguyễn
Anh Kiên đã đưa tiền cho Vân để trả cho anh Vũ. Nếu anh Vũ muốn nhận tiền thì phải khai nhận
với cơ quan điều tra theo nội dung hướng dẫn của luật sư Nguyễn Thanh Vân như trong Công
văn luật sư Vân gửi cho cơ quan điều tra là không đúng với bản chất của vụ án (làm sai lệch hồ
sơ vụ án), nhưng anh Vũ không đồng ý với yêu cầu của luật sư Vân”.
Cơ quan CSĐT – công an thành phố B đã nhiều lần triệu tập Nguyễn Thanh Vân để làm rõ
những nội dung trong công văn số 3912/CV-C ngày 4/8/2012 nhưng luật sư Nguyễn Thanh Vân
không chấp hành.
Hành vi nêu trên của luật sư Nguyễn Thanh Vân đã vi phạm vào khoản 3 Điều 5 và điểm b
khoản 1 Điều 9 Luật luật sư.
Điều 5 Luật luật sư quy dịnh về nguyên tắc hành nghề luật sư như sau:

1. Tuân thủ hiến pháp và pháp luật;
2. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;

13
3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan….”
Điểm b khoản 1 Điều 9 Luật luật sư quy định:
“cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giảm, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp
luật”.
Đề nghị Đoàn luật sư TP B xem xét và có hình thức xử kỷ luật đối với luật sư Nguyễn
Thanh V về hành vi nêu trên. Kết quả xử lý đề nghị gửi bằng văn bản cho cơ quan CSĐT –
CATP B biết.

Nơi nhận: PHÓ THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN CSĐT


- Sở Tư pháp B ; (đã kí, đóng dấu)
- Cty luật C ; Thượng tá Nguyễn Thanh T
- Lưu PC44.

14
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B -------------------
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 198
Ngày, tháng: 3.12.2012
ĐƠN TỐ CÁO

(V/v: Hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức của luật sư Nguyễn Thanh Vân)
Kính gửi: Đoàn luật sư TP B

Trước hết, tôi xin gửi tới Quý cơ quan lời chào trân trọng
Tôi là: Cao Xuân Vũ Sinh năm: 1977 ĐT: 0968156029
Tôi làm đơn này tố cáo hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức của luật sư
Nguyễn Thanh Vân – Giám đốc Công ty luật TNHH C – Đoàn luật sư TP B .
Tôi xin trình bày cụ thể như sau:
I. Nội dung sự việc
Gia đình tôi đang sử dụng mảnh đất có diện tích 470m2 tại xã Tân Triều, thành phố B,
nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vào khoảng cuối năm 2010, anh Nguyễn Anh Kiên là em họ của chị Hà (nhân viên bán
quần áo thuê cho gia đình tôi) thường ra cửa hàng quần áo của gia đình tôi chơi. Trong những
lần ra chơi đó, Kiên có gặp tôi và nói đang làm ở Sở địa chính B, có khả năng làm sổ đỏ cho gia
đình tôi.
Vì tin tưởng nên ngày 10/12/2010, tôi đã ký Hợp đồng thỏa thuận với Kiên về việc Kiên
có trách nhiệm làm sổ đỏ cho gia đình tôi với phí dịch vụ là 4.000.000đồng/m 2, chậm nhất đến
ngày 30/4/2011 phải có sổ đỏ.
Ngay sau khi ký Hợp đồng, tôi đã đưa cho Kiên 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng)
tại cửa hàng bán quần áo của gia đình tôi.
Mấy ngày sau, để tạo niềm tin cho tôi, Kiên nhờ 02 người bạn làm cùng Kiên tại tổ đo
đạc thuộc xí nghiệp đo đạc bản đồ số 4 mang theo máy và thước đo diện tích thửa đất mà tôi nhờ
Kiên làm sổ đỏ. Sau khi đo xong, Kiên nói với tôi là thửa đất rộng nên tách làm 03 (ba) sổ đỏ và
yêu cầu tôi photo chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của tôi, em trai tôi là Cao Xuân Kiên, mẹ tôi
là Nguyễn Thị Nguyệt.
Do quá tin tưởng nên ngày 19/01/2011, tôi đưa tiếp cho Kiên 300.000.000 đồng (ba trăm
triệu đồng) và ngày 24/4/2011 tôi tiếp tục đưa cho Kiên 700.000.000đồng (bảy trăm triệu đồng)
tại quán café.
Tới thời hạn là ngày 30/4/2011, không thấy Kiên đưa sổ đỏ, tôi đã nhiều lần yêu cầu Kiên
lấy sổ đỏ về cho tôi, nhưng Kiên luôn hứa hẹn để tôi yên tâm.
Để tiếp tục lừa tiền của tôi, ngày 15/6/2011, Kiên đã dùng một tờ thông báo nộp lệ phí
trước bạ nhà đất của huyện T scan vào máy tính và chỉnh sửa thành 03 bản thông báo nộp lệ phí
trước bạ mang tên tôi, em trai tôi và mẹ tôi, sau đó cắt dấu và chữ ký, phôtô đưa cho tôi. Do tin
tưởng là thật nên ngày 16/6/2011, tôi đã đưa cho Kiên số tiền là 971.500.000 đồng (chín trăm
bảy mốt triệu năm trăm ngàn đồng) để nộp lệ phí trước bạ.
Tổng số tiền Kiên đã nhận của tôi để làm sổ đỏ là: 2.571.500.000 đồng (Hai tỷ năm trăm
bảy mốt ngàn năm trăm ngàn đồng).

15
Đến ngày 16/11/2011, Kiên vẫn chưa đưa sổ đỏ cho tôi. Tôi và Kiên đã ký Biên bản làm
việc, theo đó, Kiên cam kết hạn cuối cùng để làm sổ đỏ là ngày 16/12/2011, nếu không giao
được sổ đỏ sẽ trả lại cho tôi toàn bộ số tiền đã nhận.
Tuy nhiên, đến ngày 16/12/2011, Kiên không giao được sổ đỏ cho tôi và cũng không trả
lại tiền cho tôi.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tôi đã làm đơn tố cáo hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của Kiên ra Công an quận G. Công an quận G đã khởi tố vụ án và chuyển hồ
sơ lên Công an thành phố B giải quyết. Kiên đã bị khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bị
tạm giam từ tháng 7/2012 đến nay.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh Nguyễn Anh Kiên đã mời luật sư Nguyễn Thanh
Vân bào chữa cho mình. Để khắc phục hậu quả, gia đình anh Kiên đã chuyển vào tài khoản của
luật sư Vân số tiền là 2.571.500.000 đồng (Hai tỷ năm trăm bảy mốt ngàn năm trăm ngàn đồng)
để luật sư Vân thay mặt anh Kiên trả lại tiền cho tôi (luật sư Vân đã cho tôi xem tin nhắn việc
chuyển khoản tiền này).
Tuy nhiên, luật sư Vân đã không thay mặt anh Kiên trả tiền cho tôi mà khi đến làm việc
với cơ quan công an thì được biết luật sư Vân đã cung cấp thông tin cho cơ quan công an với nội
dung: Luật sư Vân được tôi cho biết: Thực tế, tôi và anh Kiên có quan hệ làm ăn với nhau, sau
đó thua lỗ không có tiền trả nợ. Để có tiền trả nợ, tôi và anh Kiên đã bàn bạc, cùng nhau lập ra
các văn bản như đã nộp cho Cơ quan công an, sau đó, tôi sẽ tố cáo anh Kiên, khi anh Kiên bị
bắt, gia đình anh Kiên sẽ phải bán đất đi trả nợ cho tôi. Nay gia đình anh Kiên đã bán đất đi trả
nợ cho tôi nên tôi sẽ rút Đơn tố cáo và đến cơ quan công an trình bày đúng sự việc như trên.
Nội dung trình bày trên của luật sư Vân – đại diện cho Công ty luật TNHH C là hoàn
toàn không đúng sự thật.
II. Hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức của luật sư Vân
Hành vi nhận tiền của gia đình anh Kiên, sau đó không trả cho tôi lại gửi Văn bản với nội
dung không đúng sự thật gửi cơ quan điều tra của luật sư Vân đã vi phạm pháp luật, vi phạm đạo
đức của một người luật sư, cụ thể:
1. Vi phạm pháp luật hình sự:
Luật sư Vân nói tôi có quan hệ làm ăn với anh Kiên, sau đó để có tiền trả nợ tôi và anh
Kiên tạo dựng các văn bản rồi tôi đứng ra tố cáo anh Kiên, gia đình anh Kiên phải bán đất trả nợ
là hoàn toàn bịa đặt, không có cơ sở, luật sư Vân nại ra lý do này để anh Kiên không phải chịu
trách nhiệm hình sự, trì hoãn trả tiền cho tôi, gây thiệt hại đến kinh tế cho tôi. Như vậy, hành vi
của luật sư Vân có dấu hiệu của tội “vu khống” theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình
sự năm 1999: “Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm
danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người
khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”
2. Vi phạm pháp luật luật sư, đạo đức của một người luật sư
Điều 5 Luật Luật sư quy định về nguyên tắc hành nghề luật sư:
1. Tuân thủ hiến pháp và pháp luật;
2. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;
3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan….”
Khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư quy định về hành vi bị nghiêm cấm của luật sư:

16
“Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giảm, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp
luật”.
Điều 10 Luật Luật sư quy định về tiêu chuẩn luật sư: “tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có
phẩm chất đạo đức tốt”.
Theo Quy tắc đạo đức hành nghề luật sư thì luật sư phải “độc lập, trung thực và tận tụy
trong hành nghề; không vì bất kỳ lợi ích vật chất, tinh thần hoặc áp lực nào khá mà làm sai lệch
sự thật, trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp”.
Như vậy, việc Luật sư Vân cung cấp thông tin sai sự thật đã vi phạm điều cấm của pháp
luật liên quan đến hành nghề luật sư, vi phạm nguyên tắc hành nghề luật sư và vi phạm đạo đức
luật sư, không đủ tiêu chuẩn luật sư như dẫn chứng ở trên.
III. Kết luận và kiến nghị
Với hành vi vi phạm của luật sư V như trên, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình và uy tín
của những người hành nghề luật sư, bằng văn bản này, tôi tố cáo hành vi vi phạm pháp luật và vi
phạm đạo đức của luật sư Vân, kính đề nghị các Quý cơ quan:
- Có biện pháp xử lý vi phạm của luật sư Vân;
- Có những biện pháp can thiệp, yêu cầu luật sư Vân thay anh Kiên trả tiền cho tôi trong
thời gian sớm nhất.
Kính mong các Quý cơ quan sớm giải quyết đề nghị trên của tôi theo quy định của pháp
luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

B , ngày 26 tháng 11 năm 2012


NGƯỜI LÀM ĐƠN
(đã kí)
Cao Xuân Vũ

17
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
-------------------
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 126
Ngày, tháng: 22.7.2012
ĐƠN TỐ GIÁC VÀ KIẾN NGHỊ

Kính gửi: Ông giám đốc Sở Tư pháp TP B ;


Đồng kính gửi: Lãnh đạo Đoàn luật sư TP B

Tôi tên là: Nguyễn Ngọc Nhị - 78 tuổi, cán bộ hưu trí.
Tôi làm đơn này xin tố giác và kiến nghị tới Quý các ông về hành vi sai phạm pháp luật
của luật sư Nguyễn Thanh Vân hiện là Giám đốc công ty luật C . Cụ thể như sau:
Tôi có ngôi nhà cấp 4 tại Đội 8 thôn Ngọc, huyện Th, thành phố B. Căn nhà này đã có
GCNQSDĐ – QSHNƠ mang tên tôi là Nguyễn Ngọc Nhị. Trước đây, tôi có cho chị Hà Thị Sáu
là người cùng thôn mượn để bán hàng. Đến đầu năm, tôi đã đòi lại vì bà Sáu tự ý cho người khác
thuê để kiếm lời, mà không được sự đồng ý của tôi.
Đến khoảng tháng 9/2012 vừa qua, bà Sáu nảy sinh ý đồ xấu muốn chiếm giữ nhà của tôi.
Tôi đã phải nhờ đến ông trưởng thôn can thiệp để tìm cách giải quyết.
Tại cuộc họp nhà ông trưởng thôn ngoài vợ chồng bà Sáu, có tôi xuất hiện thêm 01 người
phụ nữ tự giới thiệu là Luật sư Vân. Tôi không chấp nhận sự tham gia của vị này vì đây là việc
thương thảo giữa tôi với vợ chồng chị Sáu có sự hiện diện của chính quyền cơ sở.
Tại buổi hoà giải đại diện chính quyền địa phương cũng xác nhận căn nhà là của tôi cho
chị Sáu mượn. Tuy nhiên, chị Sáu yêu sách vô lý nên đã không thống nhất được do tôi không
chấp nhận.
Sau đó mấy ngày, bà Sáu đã thuê côn đồ đến quậy phá, đánh đuổi người thuê nhà của tôi
đó là sáng 03/10/2012. Luật sư Vân cũng dẫn theo một bọn xã hội đen cùng với đồng bọn của
chị Sáu ép người thuê nhà tôi phải dọn đồ ra khỏi nhà; đồng thời, dùng vũ lực đẩy tôi ra khỏi nhà
rồi khoá cửa chiếm nhà.
Tại thời điểm đó luật sư Vân quát tháo bọn tay chân: “Lôi ông này (là tôi) ra… Đây là nhà
của tôi (thị V)…chính quyền là tôi!???”
Sau đó luật sư Vân cùng thị Sáu đã nguỵ tạo giấy tờ giả “rằng tôi đã bán nhà trên cho thị”
và gửi đơn tố giác tôi “chiếm nhà của thị”ra Ủy ban nhân dân xã và Công an huyện Th.
Những hành vi đó của thị Sáu và luật sư Vân đã được UBND xã kết luận đây là nhà của tôi
và Công an huyện Th đã có kết luận gửi tôi ngày 20/1/2013 về hành vi gian dối của thị Sáu. Tiếc
rằng cơ quan Công an đã không tố giác hành vi vi phạm pháp luật trên mà hướng dẫn tôi kiện ra
Toà án.
Tại Toà án nhân dân huyện Th, lúc này tôi mới biết luật sư Vân là luật sư và tham gia bảo
vệ cho bà Hà Thị Sáu trong vụ kiện của tôi tại Toà án.
Thiết nghĩ pháp luật Việt Nam không cho phép luật sư như Luật sư Nguyễn Thanh Vân
làm những việc vi phạm pháp luật cũng như vi phạm về quy chế hành nghề, đạo đức hành nghề
luật sư.
- Luật sư Vân đã cầm đầu bọn xã hội đen chiếm nhà trái pháp luật của công dân;

18
- Luật sư Vân đã cùng với thị Sáu tạo dựng chứng cứ, giấy tờ giả mạo, tố cáo sai sự thật
nhằm chiếm đoạt nhà của công dân.
Nay tôi làm đơn này, tố cáo những hành vi sai trái của luật sư Nguyễn Thanh Vân đã coi
thường pháp luật, không xứng đáng được phép đứng trong hàng ngũ luật sư Việt Nam.
Tôi cũng đề nghị cơ quan cấp giấy phép hành nghề của luật sư Vân, Sở Tư pháp TP B,
Lãnh đạo Đoàn luật sư TP B có biện pháp xử lý luật sư Vân theo đúng quy định của pháp luật.
Tôi cam đoan những gì tố cáo trên là hoàn toàn đúng sự thật. Nếu có gì sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đính kèm: B , ngày 15tháng 07 năm 2013


a. Giấy chứng nhận QSDĐ NGƯỜI LÀM ĐƠN
(photocopy); (đã kí)
b. Biên bản hoà giải của UBND xã Nguyễn Ngọc Nhị - ĐT: 0912142407
Ngọc (photocopy);
c.Kết luận xác minh đơn của ông
Nguyễn Ngọc Nhị (photocopy- của CA
Th);

19
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------
UỶ BAN NHÂN DÂN
HUYỆN TH

CHỨNG NHẬN

Ông (bà): Nguyễn Ngọc Nhị


Được quyền sử dụng 135 m2 đất (một trăm ba lăm mét vuông)
Tại: xã Ngọc, huyện Th, thành phố B
Theo bảng kê dưới đây:

Diện tích
Số tờ bản đồ Số thửa Mục đích sử dụng Thời hạn sử dụng Phần ghi thêm
(m2)
19 32 135 Đất ở Lâu dài

Ngày 24 tháng 12 năm 2004


KT. CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN
PHÓ CHỦ TỊCH
Vào sổ chấp giấy chứng nhận (đã kí,đóng dấu)
Quyến sử dụng đất Trần Văn Khương
Số: 1003 QSDĐ/1856-H

20
UBND HUYỆN TH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG ĐỊA CHÍNH NHÀ ĐẤT& ĐÔ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THỊ ------------------
----------------------

SƠ ĐỒ THỬA ĐẤT

(Kèm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: S 073098)
Số tờ bản đồ: 19 Số thửa: 32 Diện tích: 135m2
Tại xã: Ngọc huyện Th – thành phố B
Tên chủ sử dụng: NGUYỄN NGỌC NHỊ

7.5

22.2

32
135
18 B
7.5

Ngày 24 tháng 12 năm 2004


PHÒNG ĐỊA CHÍNH NHÀ ĐẤT & ĐÔ THỊ
TRƯỞNG PHÒNG
(đã kí,đóng dấu)
Trần Văn Chung
PHÓ CHỦ TỊCH
(đã kí,đóng dấu)
Phan Thị Thuỳ Trang

21
CÔNG AN TP B – CA TH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
Số: 03/CQĐT (ĐTTH) Thanh Trì, ngày 20 tháng 01 năm 2013

KẾT LUẬN XÁC MINH ĐƠN CỦA ÔNG NGUYỄN NGỌC NHỊ

I. Căn cứ xác minh đơn:


CQCSĐT – công an huyện Th – thành phố B vừa nhận được đơn của ông Nguyễn Ngọc
Nhị, sinh năm 1936 trú tại số nhà 90 tổ 6 phường Ph, quận H, thành phố B trình báo về việc bà
Hà Thị Sáu (tức Sáu Hạnh) ở đội 9 xã Ngọc , huyện Th, thành phố B có hành vi chiếm đoạt tài
sản nhà đất (tại thửa số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135 m 2; số GCNQSDĐ số S073098) tại xã
Ngọc .
II. Quá trình thu thập tài liệu – kết quả xác minh
Căn cứ đơn tố cáo của ông Nguyễn Ngọc Nhị, CQCSĐT công an huyện Th đã mời những
người liên quan đến làm việc đề nghị cung cấp các tài liệu có liên quan, xác minh tại UBND xã
Ngọc và Văn phòng đăng ký nhà đất huyện Th, kết quả như sau:
Ngày 14/02/1994, ông Nguyễn Ngọc Nhị có mua của ông Kim Văn Cờ ở thôn Ngọc huyện
Th, thành phố B có một căn nhà lợp ngói 05 gian diện tích đất là 100m 2 đất thổ chư có vị trí như
sau: cách chân đường tàu hỏa 03m, chiều rộng: 06m, chiều dài 20m với số tiền: 10.000.000đồng
(mười triệu đồng), mảnh đất thuộc thửa đất số 61 tờ bản đồ số 01 xã Ngọc Hồi. Hai bên thỏa
thuận bên bán phải chịu mọi phí tổn về việc sang tên thửa đất, việc mua bán thửa đất nói trên có
sự chứng kiến của các thành viên trong gia đình ông Cờ và những người hàng xóm lân cận liền
kề. Việc mua bán đã được lập thành văn bản và được chính quyền địa phương xác nhận. Do cần
tiền để chi tiêu nên vào ngày 29/01/1994, ông Cờ tiếp tục bán tiếp cho ông Nhị 40m 2 đất liền
giáp vào phần đất đã bán trước đây nên tổng diện tích đất ông Nhị đã mua của ông Cờ là 140m2.
Ngày 26/12/2003, ông Nguyễn Ngọc Nhị đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, và
được UBND xã Ngọc làm thủ tục trình UBND huyện Th cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất” cho ông Nguyễn Ngọc Nhị, sau khi tách thửa mảnh và xác định ranh giới, diện tích mảnh
đất của ông Nhị mua thuộc thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19 xã Ngọc có diện tích 135m 2. Ngày
24/12/2004 chủ tịch UBND huyện Th đã cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Ngọc Nhị. Trong
giấy CNQSDĐ của ông Nhị có ghi: thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19, diện tích 135m 2, số
GCNQSDĐ số S073098; vào sổ cấp GCNQSDĐ số 1003/QSDĐ/1856-H; số hồ sơ 23011066;
chủ sử dụng đất mang tên Nguyễn Ngọc Nhị tại xã Ngọc Hồi. Hiện tại ông Nguyễn Ngọc Nhị
đang quản lý GCNQSDĐ. Thửa đất này chưa có ai làm thủ tục chuyển dịch sang tên trước bạ và
ông Nhị vẫn đóng thuế đất hàng năm.
Do có mối quan hệ với bà Hà Thị Sáu, nên sau khi mua mảnh đất ở Ngọc Hồi, ông Nguyễn
Ngọc Nhị không sử dụng mà đã nhờ bà Sáu quản lý trông coi giúp, lúc đầu bà Sáu Hạnh còn
kinh doanh buôn bán quần áo, sau đó bỏ không có ai ở.
Năm 2011, ông Kim Văn Cờ làm lại nhà không có nơi ở nên đã thuê lại căn nhà 5 gian của
ông Nhị với giá 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). Số tiền này ông Nhị cho bà Sáu Hạnh sử
dụng. Do ông Cờ xây nhà nên tường nhà của ông Nhị bị ảnh hưởng. Tháng 8/2011, bà Hà Thị

22
Sáu (Hạnh) có sửa chữa lại một phần ngôi nhà cũ và dựng mới khoảng 65m 2 nhà mái tôn. Khi
xây dựng sửa chữa mới, bà Sáu không xin phép chính quyền địa phương.
Sau khi xây dựng xong, bà Sáu có ký hợp đồng cho anh Đinh Văn Dũng để thuê và bán
sơn (với số tiền 9.000.000 đồng từ 8/3 đến 6/2012). Khoảng tháng 6/2012, ông Nhị thấy anh
Dũng ở nhà của mình nên có hỏi anh Dũng và được biết bà Sáu đã cho anh Dũng thuê nhà. Ông
Nhị không đồng ý và đề nghị anh Dũng hủy bỏ hợp đồng với bà Sáu và ký hợp đồng thuê nhà
với ông Nhị. Ông Nhị đã cho con là Nguyễn Đức Thông đứng tên ký hợp đồng cho anh Dũng
thuê nhà, anh Dũng thuê đến tháng 9/2012 thì thôi không thuê nữa, tiền thuê nhà ông Nhị không
sử dụng mà cho bà Sáu Hạnh. Ông Nhị cho người khác thuê nhà thì bà Sáu Hạnh đứng ra cản
trở, khóa cửa không cho ông Nhị vào. Sau đó, bà Sáu Hạnh đã cho con trai là Kim Minh Tuấn và
con dâu là Ma Thị Hương ở tại ngôi nhà này.
Hiện tại, bà Sáu Hạnh nhận mảnh đất, ngôi nhà nói trên là của bà Sáu đã được ông Nguyễn
Ngọc Nhị viết giấy chuyển nhượng cho rồi nên không trả lại ông Nhị và tiếp tục cho con sang ở
và trông coi.
Bà Hạnh có xuất trình bản photocopy gồm:
- Giấy chuyển quyền sử dụng đất có nội dung “Tôi Nguyễn Ngọc Nhị chuyển nhượng lại
mảnh đất có số tại bản đo đạc là tờ 19 T32 tại thôn Ngọc, huyện Th, thành phố B cho em
tôi là Hà Thị Hạnh người cư trú tại địa phương trên. Diện tích là 135m 2. Lý do vì tôi
không ở gần để trong nom và quản lý được. Viết giấy này làm bằng và tôi trao lại tất cả
các giấy tờ nguyên thủy có liên quan cho bà Hà Thị Hạnh để tiện sử dụng. B ngày
06/8/1998. Ký tên: Nguyễn Ngọc Nhị”.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “Tôi, Nguyễn Ngọc Nhị mang chứng minh thư số
011024660 cấp tại thành phố B viết giấy này nhằm chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho bà Hà Thị sáu Hạnh, người thôn Ngọc, huyện Th, thành phố B, mảnh đất mang thửa
số 24 tờ 1 thuộc bản đồ địa chính của thôn Ngọc. Lý do chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là vì tôi ở xa không có đủ điều kiện để quản lý trông nom. Làm giấy tờ này để bà
Hạnh tiện việc xử lý tiếp các thủ tục về đất đai trước các nhà chức trách”, ngày
06/08/1998. Ký tên: Nguyễn Ngọc Nhị;
- Giấy ủy quyền: “Tôi Nguyễn Ngọc Nhị người có quyền sử dụng mảnh đất có diện tích
270m2 tại thôn Ngọc (cạnh đường sắt) có số hiệu ……… có giá trị như chữ ký của chính
tôi. B, ngày 23/3/2002 người ủy quyền ký ghi Nguyễn Ngọc Nhị. Giấy ủy quyền không
ghi thời hạn ủy quyền và không có xác nhận của chính quyền địa phương.
Trong các “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy nhượng quyền sử dụng đất” nêu
trên, không có xác nhận của chính quyền địa phương hay cơ quan chức năng có thẩm quyền. Bà
Hà Thị Sáu Hạnh cho biết: Mảnh đất ở thửa đất ố 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135m 2 là của bà
Sáu Hạnh mang tên ông Nguyễn Ngọc Nhị là do bà Sáu Hạnh mua, trực tiếp san lấp, tôn tạo. Do
có mối quan hệ thân thiết làm ăn với ông Nhị nên bà Sáu Hạnh đã thống nhất để ông Nhị đứng
tên kê khai trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Sáu Hạnh cho rằng ông Nguyễn Ngọc
Nhị chỉ là người đứng tên hộ chứ bản chất thật không phải nhà đất của ông Nhị nhưng bà Sáu
Hạnh cũng không xuất trình được các giấy tờ nguyên thủy có liên quan đến mảnh đất ở thửa đất
số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135m2 mua của ông Kim Văn Cờ.
Theo ông Nguyễn Ngọc Nhị, việc ông Nhị viết các giấy tờ cho bà Hà Thị Sáu Hạnh gồm:
Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 6/8/1998, Giấy nhượng quyền sử dụng đất ghi
ngày 6/8/1998, Giấy ủy quyền ghi ngày 23/3/2002 là có thật, chữ viết và chữ ký và chữ ký trong
các giấy tờ nói trên là do ông Nhị viết, ký và đưa cho bà Sáu Hạnh để tiện cho việc giao dịch

23
mảnh đất khác ở thửa số 24 tờ bản đồ số 01 xã Ngọc, mảnh đất ở bên cạnh đường tàu, chứ không
phải mảnh đất ông mua của ông Kim Văn Cờ ở thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135m 2.
Mặt khác, các văn bản trên đã bị sai lệch so với lúc đầu, bà Sáu Hạnh đã thừa nhận có tự tay ghi
thêm một số từ trong các văn bản nêu trên cụ thể: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi
ngày 6/8/1998 ghi thêm: Tờ 19 T32, diện tích 135m 2; nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày
6/8/1998 ghi thêm: số 24 tờ 1.
Do bà Hà Thị Sáu (Sáu Hạnh) tranh chấp về quyền sử dụng đất tại thửa đất số 32 tờ bản đồ
số 19, diện tích 135m2 với ông Nguyễn Ngọc Nhị nên ngày 26/10/2012, UBND xã Ngọc đã tiến
hành hòa giải hai bên nhưng không nhất trí quan điểm giải quyết. Do mảnh đất đã có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên thẩm quyền giải quyết của Tòa án, UBND xã Ngọc đã hướng dẫn
các bên đến Tòa án giải quyết nhưng cả hai bên không gửi đơn đến Tòa án mà tiếp tục ghi gửi
đơn đến công an huyện Th để đề nghị giải quyết.
UBND xã Ngọc cho biết: Ngày 26/12/2003, ông Nguyễn Ngọc nhị đã kê khai làm thủ tục
đăng ký quyền sử dụng đất, ngày 14/01/2004, Hội đồng ruộng đất xã Ngọc xét hồ sơ kê khai đề
nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc Nhị theo Quyết định
65/QĐ-Ủy ban nhân dân của UBND Tp B. Sau khi thấy hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Nhị có đủ điều kiện nên UBND xã Ngọc đã trình UBND huyện Th
cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” cho ông Nguyễn Ngọc Nhị. Trong quá trình kê khai,
UBND xã đã công khai danh sách những hồ sơ đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và được niêm yết công khai tại trụ sở thôn, trụ sở UBND xã và thông báo trên loa truyền
thanh của xã Ngọc, sau 15 ngày không nhận được đơn thư khiếu nại gì về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 32 tờ bản đồ số 19 cho ông Nguyễn Ngọc Nhị. Ngày 24/12/2004,
Chủ tịch UBND huyện Th đã cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” cho ông Nguyễn Ngọc
Nhị; từ đó, đến ngày 17/10/2012 mới nhận được đơn khiếu nại của bà Hà Thị Sáu Hạnh.
III. Nhận xét – Kết luận
1. Nhận xét
Căn cứ vào các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ CQCSĐT thấy: Đây là vụ việc dân sự
tranh chấp đất đai.
2. Kết luận:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự. Ngày 20/01/2013, CQCSĐT – Công
an huyện Th, thành phố B đã ra Quyết định “Không khởi tố vụ án hình sự” số 03/CQĐT, kết
thúc quá trình xác minh đơn của ông Nguyễn Ngọc Nhị. Đề nghị ông Nguyễn Ngọc Nhị gửi đơn
đến Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố B để được giải quyết.
Căn cứ Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
kết luận giải quyết đơn này, nếu ông Nhị không đồng ý với bản kết luận giải quyết đơn của
CQĐT công an huyện Th, thành phố B. Ông Nhị có quyền gửi đơn khiếu nại đến Thủ trưởng cơ
CQĐT, công an huyện Th, thành phố B .
CQCSĐT công an huyện Thanh Trì, B thông báo để ông Nhị biết.

Nơi nhận: PHÓ THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN CSĐT


- Nguyên đơn; CÔNG AN HUYỆN TH
- Lưu CQĐT. (đã kí, đóng dấu)
Thượng tá Nguyễn Anh Minh

24
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------
BIÊN BẢN HÒA GIẢI
Vào hồi, 14 giờ ngày 26 tháng 10 năm 2012
Tại: Trụ sở UBND xã Ngọc
Thành phần:
* Đại diện UBND xã:
1. Ông Nguyễn Xuân Trường - Phó Chủ tịch UBND xã
2. Bà Phạm Thị Phương Anh - CB tư pháp
3. Bà Nguyễn Thị Bích Liên - CB địa chính
4. Ông Nguyễn Văn Thuấn - Trưởng CA xã
5. Ông Dương Đức Thúy - CB thanh tra nhân dân
6. Ông Lã Văn Lăng - Chủ tịch hội nông dân xã
7. Bà Đinh Thị Xoa - Chủ tịch hội phụ nữ xã
8. Ông Nguyễn Văn Hải - Phó chủ tịch UBMTTQ xã
* Đại diện thôn Ngọc:
1. Ông Đinh Cao Thắng - Trưởng thôn
2. Ông Nguyễn Văn Hải - Bí thư chi bộ
* Người gửi đơn: bà Hà Thị Sáu Hạnh
* Người có liên quan: ông Nguyễn Ngọc Nhị
Nội dung:
Ngày 17/10/2012, UBND xã Ngọc nhận được đơn đề nghị của bà Hà Thị Sáu (Hạnh) ở đội
4 Ngọc, huyện Th, thành phố B. Nội dung đơn: đề nghị hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất tại
thửa đất ố 32, tờ bản đồ số 92; diện tích 135m 2 đã được UBND huyện Th cấp GCNQSDĐ ngày
24/12/2004 mang tên ông Nguyễn Ngọc Nhị.
UBND xã Ngọc đã mời hai gia đình ông Nhị và bà Hạnh cùng các ban ngành đoàn thể, đại
diện thôn Ngọc đến hòa giải.
Ông Nguyễn Xuân Trường – Phó chủ tịch UBND xã – chủ trì hòa giải.
Các ý kiến:
1. Bà Sáu
Năm 1992, tôi có mua diện tích đất trên của ông Cờ và năm 1994 tôi mới làm giấy tờ mua
bán đất với ông Cờ. Ông Nhị chỉ đứng ra để làm giấy tờ hộ tôi còn thực chất đây là tiền của tôi
bỏ ra để mua mảnh đất này.
2. Ông Nhị
Tất cả các giấy tờ mua bán liên quan đến mảnh đất trên là đứng tên tôi. Ngày 24/12/2004,
tôi đã được UBND huyện Th cấp GCNQSDĐ đứng tên tôi là Nguyễn Ngọc Nhị. Toàn bộ số tiền
mua diện tích đất trên là tiền của tôi.
3. Đ/c Liên

25
Theo hồ sơ địa chính năm 1986, diện tích đất trên thuộc tờ bản đồ số 01, thửa số 89, diện
tích 273m2 đất ở, nguồn gốc ông cha để lại mang tên ông Kim Văn Tham (em trai ông Cờ) phần
diện tích trên ông Cờ bán cho ông Nhị là do ông Tham trách trả ông Cờ.
Ngày 6/1/1993, ông Cờ có giấy bán nhà của ông Cờ bán cho ông Nhị được UBND xã
Ngọc xác nhận ngày 14/1994 do đ/c Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Xuân Đồng xác nhận.
Ngày 29/1/1994, ông Cờ bán thêm 40m2 đất nữa cho ông Nhị chưa được xã chứng nhận.
Năm 1994 do đạc bản đồ được tách thửa riêng riêng thuộc tờ bản đồ số 19, thửa 32, diện
tích 135m2 người kê khai là ông Nguyễn Ngọc Nhị.
Năm 2004 ông Nhị kê khai hồ sơ và xin làm thủ tục cấp GCNQSDĐ tại xã. Ngày
14/11/2004 thửa đất số 32 tờ bản đồ số 9 được Hội đồng ruộng đất xã xét theo Quyết định
65/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân TP B đủ điều kiện trình UBND huyện cấp GCN. Trong quá
trình xã kê khai hồ sơ niêm yết tại xã, thôn, loa truyền thanh 15 ngày không nhận được đơn thư
khiếu nại gì về việc cấp CHNQSDĐ cho thửa đất tên mang tên ông Nguyễn Ngọc Nhị.
Ngày 24/12/2004 UBND huyện đã cấp GCNQSDĐ trên và từ đó đến ngày 17/10/2012 xã
mới nhận được đơn thư khiếu nại kiện việc cấp GNC cho ông Nhị.
4. Ông Thắng
Đề nghị ông Nhị, bà Sáu giải quyết tính cảm gia đình. Bà Sáu có công trông nom đề nghị ông
Nhị trả bà Sáu một số tiền công trông nom, tôn tạo lại công trình xây dựng trên đất.
Sau khi nghe ý kiến của hội nghị 2 bên gia đình không thống nhất được.
Kết luận của UBND xã
Tại buổi hòa giải hai gia đình không thống nhất được việc giải quyết nên buổi hòa giải
không thành.
Thửa đất trên đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ nên UBND xã chỉ có thẩm quyền hòa
giải. Nếu hai bên gia đình có nhu cầu giài quyết theo pháp luật đề nghị chuyển đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong khi chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết đề nghị hai gia đình đảm bảo an ninh trật
tự tại địa phương.
Biên bản được lập xong vào hồi 15h30’ cùng ngày, thông qua cho mọi người cùng nghe,
không ai có ý kiến ghì khác, nhất trí ký tên dưới đây.

Người gửi đơn Người viết biên bản


(đã kí) (đã kí)
Hà Thị Sáu (Hạnh) Phạm Thị Phương Anh
Người liên quan TM. Ủy ban nhân dân xã Ngọc
(đã kí) Phó Chủ tịch
Nguyễn Ngọc Nhị (đã kí, đóng dấu)
Nguyễn Xuân Trường
(đã kí) Các thành viên Hội đồng
Lã Văn Lăng (đã kí)
(đã kí) Đinh Thị Xoa
Nguyễn Thị Bích Liên (đã kí)
(đã kí) Đinh Cao Thắng

26
Dương Đức Thúy (đã kí)
(đã kí) Nguyễn Văn Hải
Nguyễn Văn Thúy

27
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CÔNG TY LUẬT C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
Số: 412/CV-C Thanh Trì, ngày 04 tháng 08 năm 2012
V/v: ý kiến đề xuất của luật sư

Kính gửi: - Công an quận G;


- Viện kiểm sát nhân dân quận G

Công ty luật C – Đoàn luật sư TP B nhận tham gia và cử luật sư Nguyễn Thanh Vân bào
chữa cho ông Nguyễn Anh Kiên trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiện đang do Công an
quận G điều tra, xử lý.
Trước hết, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến công an quận G đã tạo điều kiện
thuận lợi cho luật sư được tiếp cận hồ sơ và tham gia vụ án. Qua nghiên cứu hồ sơ, các lời khai
đặc biệt qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với người bị hại, với gia đình bị can và những người liên quan
nhằm xác minh sự thật của vụ án, chúng tôi nhận định và xin gửi đến Quý cơ quan điều tra một
số ý kiến như sau:
Trên cơ sở đơn tố cáo của ông Cao Xuân Vũ, các văn bản gồm:
(i) Hợp đồng thỏa thuận ngày 10/12/2010 giữa ông Cao Xuân Vũ và ông Nguyễn Anh
Kiên về việc thực hiện công việc xin cấp GCNQSDĐ có thù lao;
(ii) Biên bản làm việc ngày 16/11/2011 giữa các bên;
(iii) Tờ thông báo nộp lệ phí trước bạ nhà đất ngày 15/6/2011 do ông Cao Xuân Vũ
cung cấp làm căn cứ chính để Cơ quan điều tra quận G tiến hành khởi tố, điều tra
và bắt tạm giam đối với Nguyễn Anh Kiên về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu, khai thác, thu thập thông tin, khi tiếp xúc với ông Cao
Xuân Vũ, chúng tôi được ông Cao Xuân Vũ cho biết: Bản chất của sự việc là do trong quá trình
hợp tác làm ăn kinh doanh bất động sản và xe mô tô thể thao phân khối lớn, ông Cao Xuân Vũ
và ông Nguyễn Anh Kiên có vay vốn một số người khác nhưng do thua lỗ nên không có khả
năng trả nợ. Ông Nguyễn Anh Kiên có đất bố mẹ hứa tặng cho và đã yêu cầu bố mẹ bán diện tích
đất này đi để rút tiền ra một phần trả nợ, một phần ông Vũ và ông Kiên dùng làm vốn tiếp tục
kinh doanh. Nhưng do GCNQSDĐ mang tên Hộ gia đình ông Nguyễn Tạo Đa (bố đẻ ông Kiên).
Vì vậy, ông Kiên không thể thực hiện việc mua bán diện tích đất này. Trong khi đó, gia đình ông
Nguyễn Tạo Đa có nhiều thành viên, mỗi người một ý nên không thống nhất được việc bán đất
để tạo điều kiện cho ông Vũ và Kiên lấy được tiền. Vì vậy, ông Vũ và ông Kiên đã thống nhất
bàn bạc và cùng nhau lập ra các văn bản như đã nêu trên để tạo chứng cứ. Trên cơ sở đó, ông Vũ
thực hiện việc tố cáo ông Kiên, khi ông Kiên bị bắt khởi tố, điều tra, bắt giam sẽ tạo sức ép để
gia đình ông Nguyễn Tạo Đa phải bán đất đi lấy tiền trả nợ. Nay, gia đình ông Nguyễn Tạo Đa
đã nhất trí bán đất để lấy tiền trả cho ông Vũ nên ông Vũ rút mọi đơn tố cáo và xin đến cơ quan
điều tra trình báo rõ nội dung sự thật khách quan của vụ việc như đã nêu ở trên.
Đây là yếu tố quan trọng cho thấy không có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông
Nguyễn Anh Kiên đối với ông Cao Xuân Vũ. Vì vậy, bằng văn bản này, chúng tôi đề nghị Cơ

28
quan điều tra Công an quận G, Viện kiểm sát nhân dân quận G xem xét lại sự việc để làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và gây thiệt hại cho người dân.
Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT C
GIÁM ĐỐC
(đã kí, đóng dấu)
Nguyễn Thanh V

29
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------

BIÊN BẢN GIAO NHẬN TIỀN

Hôm nay, vào 10 giờ 00 phút ngày 06/8/2012, tại ngân hàng HABUBABK, thành phố B .
Thành phần gồm có:
1. Bà Đỗ Thị Bính, sinh năm 1956, CMTND số 010218629 do Công an B cấp ngày
12/8/1999. Bà Đỗ Thị Bính là mẹ đẻ anh Nguyễn Anh Kiên;
2. Ông Đỗ Anh Thắng, sinh năm 1976, CMND số 011781636 do Công an B cấp ngày
11/3/2005. Ông Đỗ Anh Thắng là người làm chứng;
3. Bà Nguyễn Thanh Vân – Giám đốc đại diện Công ty luật TNHH C.
Nội dung biên bản:
1. Bà Đỗ Thị Bính bàn giao cho Công ty Luật C một khoản tiền 2.500.000.000 đồng
(Hai tỷ năm trăm triệu đồng). Công ty luật C có trách nhiệm giữ hộ khoản tiền này để
đảm bảo thực hiện việc bồi thường cho ông Cao Xuân Vũ trong quá trình giải quyết
vụ án của ông Nguyễn Anh Kiên.
2. Số tiền này được bà Đỗ Thị Bính chuyển vào tài khoản số 32032045399100033 của
Công ty luật C tại ngân hàng Oceanbank, chi nhánh B.
3. Khi sử sụng khoản tiền này phải được sự đồng ý được thể hiện bằng văn bản của các
bên.
Biên bản được lập xong vào lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày, đã được đọc lại cho mọi người
cùng nghe và ký tên dưới đây làm bằng chứng. Biên bản được lập thành 02 (hai) bản, bà Đỗ Thị
Bính giữ 01 bản, Công ty luật C giữ 01 bản.

NGƯỜI LÀM CHỨNG NGƯỜI GIAO TIỀN NGƯỜI NHẬN TIỀN


(đã kí) (đã kí) (đã kí, đóng dấu)
Đỗ Anh Thắng Đỗ Thị Bính Nguyễn Thanh V

Ngày 19/9/2012, tôi là Đỗ Thị Bính đã nhận lại đủ số tiền là 2.500.000.000 (Hai tỷ năm
trăm triệu đồng chẵn).
(đã kí)
Đỗ Thị Bính

30
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG KHEN THƯỞNG KỶ LUẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 23/01/2013 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B. Chúng tôi gồm:
Luật sư Nguyễn Văn T
Chức vụ: Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản làm việc với người tố cáo:
Họ và tên: Cao Xuân Vũ
Là người tố cáo luật sư Nguyễn Thanh Vân nhận 2.571.500.000 đồng của gia đình bị can
Nguyễn Anh Kiên để bồi thường cho ông Vũ nhưng không trả lại cho ông Vũ và cung cấp thông
tin về quan hệ giữa ông Vũ và bị can Kiên sai sự thật.
NỘI DUNG BIÊN BẢN
Luật sư T: giới thiệu về mình cùng quyền của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật trong việc
giải quyết tố cáo luật sư Nguyễn Thanh Vân và đề nghị anh Vũ trình bày về nội dung tố cáo.
Anh Cao Xuân Vũ: Tôi bị Nguyễn Anh Kiên lừa đảo chiếm đoạt 2.571.500.000 đồng.
Công an quận G đã bắt giam Kiên. Luật sư V là người bào chữa cho bị can Kiên. Luật sư V có
nhận của gia đình Kiên 2,5 tỷ để trả tiền bồi thường cho tôi nhưng luật sư vẫn không trả tiền cho
tôi. Luật sư V đến trước nhà tôi, gặp tôi và nói tôi phải khai lại vụ việc: “Tôi có quan hệ làm ăn
với Kiên buôn bán xe mô tô và bất động sản, do thua lỗ anh Kiên không có tiền trả tôi, tôi phải
bắt Kiên lập một số giấy tờ giả để bắt gia đình Kiên bán đất để trả tiền cho tôi nhưng gia đình
Kiên không bán đất, nên tôi phải tố cáo Kiên đến cơ quan điều tra để bắt Kiên thì gia đình Kiên
mới chịu trả tiền cho tôi”.
Nội dung trên là không đúng sự thật, mà sự thật là Kiên có lừa đảo tôi thông qua việc làm
giấy tờ sổ đỏ giả. Nếu tôi không khai như thế thì sẽ không lấy được tiền bồi thường. Hiện nay,
tôi đã nhận được số tiền Kiên đã lừa đảo tôi do cơ quan điều tra công an thành phố B trả. Luật sư
V có văn bản gửi cơ quan điều tra - công an quận G và Viện kiểm sát nhân dân quận G nói về
nội dung này và có anh Giang (anh họ của Kiên); Thọ là hàng xóm của nhà tôi, cùng luật sư
những người được nghe chị Vân nói không đúng sự thật). Tất cả mọi người có mặt đều không
nghe ý kiến và cách giải quyết của luật sư Vân. Tôi đề nghị Đoàn luật sư TP B cần phê bình, rút
kinh nghiệm nghiêm khắc đối với luật sư đồng thời yêu cầu luật sư Vân phải gặp gỡ để xin lỗi tôi
về việc làm trên. Tôi sẽ viết đơn đề nghị Đoàn luật sư TP B không xử lý luật sư Vân theo đơn tố
cáo của tôi.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe công nhận
biên bản là đúng nội dung anh Cao Xuân Vũ trình bày. Anh Vũ không có ý kiến gì khác, cùng ký
tên làm bằng.

Người trình bày Người ghi biên bản


(đã ký) (đã ký)
Cao Xuân Vũ Luật sư Nguyễn Văn T

31
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG KHEN THƯỞNG KỶ LUẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC

Hồi 10 giờ 30 ngày 26/01/2013 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B . Chúng tôi gồm:
Luật sư Nguyễn Văn T
Chức vụ: Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản làm việc với:
Họ và tên: Nguyễn Thanh Vân – Luật sư thành viên thuộc Đoàn luật sư TP B, hiện là Giám
đốc Công ty TNHH Luật C.

NỘI DUNG BIÊN BẢN

Luật sư T: Thông báo ngày 23/12/2012 Đoàn luật sư TP B nhận được đơn tố cáo của ông
Cao Xuân Vũ, sinh năm 1977, tố cáo luật sư Nguyễn Thanh Vân nhận của gia đình bị can
2.571.500.000 đồng làm tiền bồi thường cho ông Vũ nhưng không trả lại cho ông Vũ và cung
cấp thông tin về nọi dung quan hệ giữa ông Vũ và bị can Nguyễn Anh Kiên, đang bị tạm giam về
tội lừa đảo. Đề nghị luật sư trình bày về hai nội dung này.
Luật sư Nguyễn Thanh Vân: Ngày 16/7/2012, bà Lê Thị Mai Hương, là vợ của bị can
Nguyễn Anh Kiên mời tôi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can Nguyễn Anh Kiên. Ngày
25/6/2012, cơ quan cảnh sát điều tra – công an quận G cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho
bị can Nguyễn Anh Kiên là tôi. Ngày 06/8/2012, gia đình của bị can Kiên có chuyển vào tài
khoản của công ty luật C 2.500.000.000 đồng là tiền để tôi giữ hộ và giải quyết bồi thường trên
cơ sở có lợi cho bị can Kiên nhưng vì chưa giải quyết có lợi cho bị can Kiên nên vào ngày
19/9/2012, bà Đỗ Thị Bích là mẹ của bị can Kiên lại lấy lại số tiền này và tôi đã trả lại toàn bộ số
tiền này cho bà Bính. Vì vậy, cho đến ngày hôm nay tôi không còn trách nhiệm trả lại tiền cho
chị Vân. Ngày 14/8/2012, tôi có Công văn số 2412/CV-C gửi cơ quan điều tra – công an quận
Cầu Giấy, Viện kiểm sát nhân dân quận G với nội dung đề nghị làm rõ quan hệ giữa anh Vũ và
anh Kiên để làm rõ Kiên có phạm tội lừa đảo Kiên có phạm tội lừa đảo hay không thuộc thẩm
quyền của luật sư mà thuộc về các cơ quan có thẩm quyền. Cá nhân tôi không cung cấp thông tin
sai lệch vụ án cho cơ quan điều tra, vi phạm đạo đức luật sư nên anh Vũ tố cáo tôi vi phạm và
không đúng sự thật. Tôi cam đoan các lời trình bày trên của tôi là đúng sự thật, nếu sai tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe công nhận
biên bản là đúng nội dung làm việc, không có ý kiến gì khác, cùng ký tên làm bằng.

Người trình bày Người ghi biên bản


(đã ký) (đã ký)
Luật sư Nguyễn Thanh Vân Luật sư Nguyễn Văn T

32
33
1. Tóm tắt vụ việc:

Luật sư Nguyễn Thanh Vân là Giám đốc Công ty luật C bị tố cáo với những nội dung
như sau:
Đơn tố cáo 1: Anh Cao Xuân Vũ và Cơ quan cảnh sát điều tra trong vụ việc anh Nguyễn
Anh Kiên bị khởi tố về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Ngày 23/02/2013, CQCSĐT gửi Đoàn Luật sư TP B công văn về việc Luật sư Nguyễn
Thanh Vân là luật sư bào chữa cho Nguyễn Anh Kiên, gửi cho CQCSĐT Công an Quận G công
văn về việc anh Nguyễn Anh Kiên và anh Cao Xuân Vũ tạo dựng nên vụ lừa đảo để gia đình anh
Kiên bán tài sản để trả nợ.
Cao Xuân Vũ còn tố cáo Luật sư Nguyễn Thanh Vân có hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án:
“Luật sư Nguyễn Thanh Vân yêu cầu anh Vũ muốn nhận tiền thì phải khai nhận với CQĐT theo
nội dung hướng dẫn của Luật sư Nguyễn Thanh Vân như trong Công văn không có căn cứ mà
Luật sư đã gửi Cơ quan điều tra như trên”.
CQCSĐT – Công an TP B đã nhiều lần triệu tập Luật sư Nguyễn Thanh Vân làm rõ nội
dung công văn nhưng luật sư không chấp hành. Luật sư Nguyễn Thanh Vân bị tố cáo vi phạm
khoản 3 Điều 5: “Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan”, điểm b khoản 1 Điều 9
Luật Luật sư 2006: “cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện
trái pháp luật” và khoản 1 Điều 122 Bộ luật Hình sự 1999: “Người nào bịa đặt, loan truyền
những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác … bị phạt … đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Đơn tố cáo 2: Ông Nguyễn Ngọc Nhị trong vụ việc tranh chấp cho rằng bà Hà Thị Sáu
chiếm đất và nhà tại Đội 8 Thôn Ngọc, huyện Th, TP B của Nguyễn Ngọc Nhị như sau:
Luật sư Nguyễn Thanh Vân là người bảo vệ quyền lợi của Hà Thị Sáu tại Tòa án. Người
này đã có hành vi cùng dẫn theo xã hội đen cùng với đồng bọn của Hà Thị Sáu ép người thuê
nhà phải dọn đồ ra, dùng vũ lực đẩy Nguyễn Ngọc Nhị ra khỏi nhà rồi khóa cửa chiếm nhà.
Luật sư Nguyễn Thanh V quát tháo: “Lôi ông này (Nguyễn Ngọc Nhị) ra… Đây là nhà
của tôi (Hà Thị Sáu) … chính quyền là tôi!”.
Luật sư Nguyễn Thanh Vân đã cùng với Hà Thị Sáu tạo dựng chứng cứ, giấy tờ giả mạo,
tố cáo sai sự thật.

2. Câu hỏi tình huống:

(i) Anh Vũ, ông Nhị có quyền tố cáo Luật sư V hay không?
(ii) Luật sư Vân có vi vi phạm Luật Luật sư, Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật
sư cùng các quy định khác của pháp luật trong vụ việc của anh Kiên và ông Nhị không?
Các nội dung trong Công văn của Luật sư gửi đến Cơ quan Công an đã được xác thực
hay chưa?
(iii) Luật sư Vân có nói: “Lôi ông này (Nguyễn Ngọc Nhị) ra… Đây là nhà của tôi (Hà Thị
Sáu) … chính quyền là tôi!”. Lời nói này của Luật sư Vân có phù hợp với nguyên tắc đạo
đức hay không?
(iv) Luật sư Vân có được từ chối yêu cầu triệu tập hợp pháp của Cơ quan cảnh sát điều tra
không?

34
(v) Luật sư Vân có được hỗ trợ khách hàng trong các hành vi làm trái quy định của pháp luật
không?
(vi) Luật sư Vân phải làm gì khi biết khách hàng có những hành vi trái quy định của pháp
luật?
(vii) Việc luật sư Vân tham gia vào việc đuổi người thuê nhà, khóa cửa nhà như như lời của
ông Nguyễn Ngọc Nhị đã vi phạm nguyên tắc đạo đức nào?

3. Phân tích và nhận định:

Thứ nhất, về quyền tố cáo Luật sư V của anh Vũ, ông Nhị, anh Vũ, ông Nhị có quyền tố
cáo Luật sư V nếu Luật sư Vân có những hành vi làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Hiến pháp 2013, khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo 2018,
khoản 1 Điều 2 Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật 2019.
Thứ hai, về những hành vi vi phạm của Luật sư V, Luật sư V đã vi phạm khoản 2 Điều 5
Luật Luật sư 2006 khi không tuân theo Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam 2019, vi phạm khoản 3 Điều 5 Luật Luật sư 2006 và Quy tắc 2 về Độc lập, trung thực
và tôn trọng sự thật khách quan khi đã không trung thực, không tôn trọng sự thật khách quan,
vi phạm điểm b khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 khi đã xúi giục bị cáo khai sai sự thật, vi
phạm điểm g khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 và Quy tắc 3 về Giữ gìn danh dự, uy tín và
phát huy truyền thống của luật sư khi đã lợi dụng danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu
đến trật tự an toàn xã hội…
Thứ ba, các nội dung trong Công văn của Luật sư gửi đến cơ quan công an trong đề bài
chưa được xác thực nên với tư cách là luật sư, cần tìm hiểu sự việc, tôn trọng sự thật khách quan,
chứ không được nghe theo từ một phía theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật Luật sư 2006,
Quy tắc 2 về Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, Quy tắc 3 về Giữ gìn danh
dự, uy tín và phát huy truyền thống luật sư và Quy tắc 9.1 về Các hành vi bị nghiêm cấm.
Thứ tư, lời nói của Luật sư Vân không phù hợp với nguyên tắc đạo đức khi đã ảnh hưởng
đến hình ảnh của Luật sư, vi phạm nghiêm trọng Quy tắc 2 về Độc lập, trung thực, tôn trọng
sự thật khách quan, Quy tắc 3 về Giữ gìn danh dự, uy tín và phát huy truyền thống luật sư,
Quy tắc 30 về Ứng xử trong quan hệ với các tổ chức, cá nhân khác và Điều 9 Luật Luật sư
2006.
Thứ năm, Luật sư V không được quyền từ chối yêu cầu triệu tập hợp pháp của Cơ quan
cảnh sát điều tra, nếu trong trường hợp có lý do chính đáng thì gửi Công văn trình bày với cơ
quan Cảnh sát điều tra để cơ quan xem xét.
Thứ sáu, khi khách hàng có yêu cầu Luật sư Vân thực hiện hành vi trái quy định pháp
luật thì Luật sư phải từ chối theo Quy tắc 13.2 về Từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách
hàng.
Thứ bảy, khi biết khách hàng có những hành vi trái luật thì Luật sư Vân cần giải thích và
phân tích cho khách hàng hiểu. Nếu khách hàng vẫn nhất quyết với yêu cầu của mình thì Luật sư
Vân phải từ chối thực hiện yêu cầu của khách hàng.
Thứ tám, việc Luật sư Vân tham gia đuổi người, khóa cửa nhà… đã vi phạm điểm g
khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 và Quy tắc 3 về Giữ gìn danh dự, uy tín và phát huy
truyền thống của luật sư khi đã lợi dụng danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an
toàn xã hội.

35
Note đối với vụ việc 1:

LS đã có hvi làm chứng cứ giả hay đưa ra quan điểm ko đúng sự thật hay ko, thì cần phải xem
xét. Nếu TH ko có thật, LS V có thể bị xử lý về việc đưa thông tin ko đúng sự thật, được qquy
định tại QT 28.3 và Điều 9 LLS.

Khi làm LS, những thông tin có từ anh Kiên thông tin cho LS thì LS cũng phải bình tĩnh và tìm
cách để đưa quan điểm này đến cơ quan tiến hành tố tụng chứ ko phải là kiến nghị ngay. Ví dụ
như trong buổi làm việc vs anh Kiên, LS biết được nội dung này thì LS phải có VB gửi CQĐT
đề nghị tiến hành đối chất. Trong qúa trình đối chất, ý kiến của anh Kiên là người trình bày trực
tiếp vs CQTHTT và trực tiếp với anh Vũ. Sau buổi làm việc đối chất đó thì LS mới có quan điểm
chính thức của mình về vụ việc. Khi đó anh Vũ sẽ ko bao giờ có vấn đề về việc LS V đưa ra
những tình tiết ko có thật, tạo chứng cứ giả.

Tóm lại, khi Luật sư nhận được thông tin từ khách hàng hay bất cứ người nào khác, cần tiến
hành xem xét, cân nhắc, đánh giá và kiểm chứng bằng nhiều nguồn khác nhau, chứ không nên
vội vàng viết nội dung áp đặt cho bất kỳ đối tượng nào trong vụ việc, mà thực hiện theo khả
năng và trình độ nhận thức của Luật sư và tiến hành ghi nhận các chứng cứ đó rồi kiểm chứng.
Sau khi kiểm chứng mà thấy chứng cứ có căn cứ xác thực, chính xác thì Luật sư mới sử dụng.

Note đối với vụ việc 2:

Luật sư Vân đã vi phạm Quy tắc 30:


Quy tắc 30. Ứng xử trong quan hệ với các tổ chức, cá nhân khác
Khi tiếp xúc, làm việc với các tổ chức, cá nhân khác, luật sư có thái độ ứng xử đúng mực, không
được có lời nói, việc làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đó.

Đồng thời, Luật sư Vân cũng cần tôn trọng Quy tắc 29:
Quy tắc 29. Ứng xử của luật sư trong quan hệ với các cơ quan nhà nước khác
29.1. Khi tiếp xúc, làm việc với các cơ quan nhà nước khác với tư cách đại diện ngoài tố tụng,
luật sư tư vấn hoặc thực hiện dịch vụ pháp lý khác cho khách hàng, luật sư phải tuân thủ quy
định của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan nhà nước và quy định phù hợp của Chương
IV Bộ Quy tắc này.
29.2. Trong quan hệ với cơ quan nhà nước khác để thực hiện công việc cho khách hàng, luật sư
cần có thái độ lịch sự, tôn trọng, kiên quyết từ chối những hành vi móc nối, trung gian trái pháp
luật, trái đạo đức và lương tâm nghề nghiệp.


“Điều 9 LLS - Các hành vi bị nghiêm cấm
a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự,
vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây
gọi chung là vụ, việc);
b) Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;”

Nếu xác định trong TH mà Luật sư Vân cung cấp chứng cứ giả hoặc xúi giục khách hàng cung
cấp chứng cứ giả (như trong vụ của Ng Ngọc Nhị) và cung cấp thông tin ko đúng sự thật (như
trong vụ của anh Vũ và Kiên).

36
c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;

Đối với hành vi này, LS hiện nay đang vi phạm rất nhiều, thường xuất hiện trong các bài PR,
quảng cáo của các LS trên trang Fb, Zalo về những vụ án mình đã làm. Như vậy, điều này đã vô
tình làm trái lại với cam kết với khách hàng trong HĐ về tính bảo mật, ko tiết lộ thông tin cho
người khác biết. Trong TH này, các LS tự PR danh tiếng cho bản thân nhưng lại làm ảnh hưởng
đến người khác. 

d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;


LS không đưa ra những thông tin ko đúng sự thật để lừa khách hàng và nhận vụ việc về mình
hoặc vì lợi ích vật chất nào đó, nhận tiền mà ko thực hiện công việc,vv.

đ) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao
và chi phí đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;
Khi thực hiện HĐ DVPL thì phải lập bằng VB và trong HĐ cần ghi rõ các khoản thù lao, chi phí.
Ngoài ra, ko đc thêm bất kỳ một khoản chi phí nào khác.
Khi nhận các vụ việc là trợ giúp pháp lý (thuộc diện người nghèo kp trả các khoản thù lao nào
cho bất kỳ cơ quan tổ chức nào, cho bất kỳ LS nào) theo QĐPL, LS sẽ được hưởng các khoản
thù lao theo QĐPL: từ cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan tòa án hoặc từ trung tâm trợ
giúp pháp lý. Ngoài ra, LS ko được nhận bất cứ khoản tiền hoặc lợi ích vật chất nào khác từ các
đối tượng này. Ngoài ra, khi LS nhận thực hiện vụ việc này mà từ chối tiếp tục thực hiện là hành
vi vi phạm nếu ko có căn cứ pháp lý cho rằng LS không thể thực hiện được.

Câu hỏi: LS ký HĐ DVPL theo điểm đ, khi xét xử phiên tòa phúc thẩm LS thắng kiện nên
thưởng nóng cho LS 20tr. Lúc đó nếu LS nhận có vi phạm ko?
=> Nếu đã thực hiện xong HĐ ngta tặng thì LS vẫn lấy bth, đó ko phải là hứa thưởng. Nếu khách
hàng tặng riêng cho LS thì nhận với tư cách cá nhân và ko cần thiết phải báo cho tổ chức HNLS.
Nếu cảm thấy cần hỏi khách hàng về vđề này thì có thể hỏi trực tiếp là tặng cho LS hay tặng cho
văn phòng, trường hợp tặng cho văn phòng thì mang về báo cáo văn phòng. 
TH này được quy định rất cụ thể trong quy tắc 9.8: Luật sư KHÔNG ĐƯỢC hứa hẹn, cam kết
bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư.
Do vây, khi LS ký HĐ DVPL thì sẽ chỉ được nhận những khoản chi phí và thù lao LS theo HĐ,
ngoài ra ko đc nhận chi phí mà ko yêu cầu trên bất kỳ khoản chi phí nào khác.

Câu hỏi: Trong HĐDVPL, LS có được thỏa thuận về điều khoản hứa thưởng hay ko?
=> Bất kỳ điều khoản hứa thưởng nào được quy định trong HĐ DVPL đều vi phạm LLS và
QTDD nghề luật sư, cụ thể là vi phạm Quy tắc 9.8 và điểm d, khoản 1, Điều 9 của LLS. 
Trong LLS tại Điều 55 về căn cứ và phương pháp tính thù lao, có quy định về phần trăm nhưng
phần trăm này ko phải trên giá trị đạt được mà là phần trăm trên giá trị tranh chấp. Vd giá trị
tranh chấp là 1 tỷ thì lấy 2% trên 1 tỷ tính thù lao bất kỳ thắng hay thua kiện, chứ ko phải khi LS
giúp khách hàng lấy lại 1 tỷ thì mới được trả 2%. Nếu ký HĐ với phần trăm trên giá trị tranh
chấp, thì việc thanh toán được thực hiện bất kỳ lúc nào, tức là  trước/trong/sau khi thực hiện dịch

37
vụ cũng được. Như vậy, trong TH này nếu xác định phần trăm trên giá trị đạt được thì đó là
HỨA THƯỞNG, và được quy định là những hành vi bị cấm theo các căn cứ pháp lý nêu trên.
Thầy note: Liệu quy định như vậy có đi ngược lại với BLDS ko, do trong BLDS có cho phép
hứa thưởng trong HĐ dịch vụ, nhưng LLS lại ko cho phép?
=> Do bản chất nghề luật sư dễ phát sinh tiêu cực và xác định LS bỏ công sức ra để thực hiện
công việc pháp lý chứ ko phải bỏ công sức ra để đạt theo ý nguyện của đương sự. Do đó các nhà
làm luật hạn chế tiêu cực này bằng việc đưa ra một mức thù lao dẫn đến việc luật sư để đạt được
mức thù lao đó phải tìm mọi cách kể cả những hvi trái pháp luật nhằm đạt được mục đích và
mức thù lao như vậy. Chính vì thế, khi hành nghề LS cần tuân thủ theo các quy định tại LLS và
QTDD.

Câu hỏi: Trong quá trình thực hiện HĐ, LS ko cam kết về kết quả đạt được nhưng khách hàng tự
đưa ra điều kiện hứa thưởng sau khi LS giải quyết xong vụ việc thì có bị xem là vi phạm ko?
=> Thứ nhất, không có căn cứ nào cho thấy LS đã thỏa thuận với khách hàng. Nếu GS sau này
có tranh chấp hay khiếu nại xảy ra thì ko có bằng chứng nào cho thấy LS đã cam kết về KQ đạt
được với khách hàng. Thứ hai, về phía khách hàng, nếu sau khi LS thực hiện xong vụ việc,
khách hàng cảm thấy LS đã rất tận tâm và nỗ lực trong vụ việc và khách hàng tự tặng thêm tiền
thưởng hay khoản vật chất nào khác thì cũng ko vi phạm pháp luật, do đó là hành vi chủ động từ
phía khách hàng (khác với điều khoản hứa thưởng, cần phải được quy định cụ thể trong hợp
đồng).

e) Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức
khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc;
Ko được móc nối quan hệ này vs quan hệ khác vì mục đích lợi ích nào đó mà có thể sử dụng
những hvi trái PL như: hối lộ hoặc đưa một khoản tiền nào đó để làm trái luật khi hành nghề. 

Câu hỏi: Thẩm phán chủ động tiếp cận với LS để gợi ý và hướng dẫn cho LS về định hướng
trong việc cung cấp chứng cứ, v.v (lý do thẩm phán và một người tâm huyết với nghề và khách
hàng của LS là người yếu thế, chẳng hạn trẻ em) thì lúc này LS ko đưa hoặc hứa hẹn đưa bất kỳ
lợi ích vật chất nào cho thẩm phán mà do thẩm phán tự chủ động đề xuất đường hướng bảo vệ
đ/vs LS. Đứng dưới góc độ LS và đạo đức nghề LS thì có vi phạm gì ko?
=> Áp dụng đ/vs điểm e thì trong mọi TH dùng lợi ích vật chất, hứa hẹn kết quả hoặc có hành vi
móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng thì đều được xđ là hvi trái pháp luật. Còn việc xét
xử của thẩm phán nếu ko có khoản lợi ích vật chất và có ý định hướng dẫn cho LS thì đó là hvi
bth, luật ko cấm thẩm phán và LS có sự trao đổi với nhau. Luật chỉ cấm trong TH thẩm phán và
LS trao đổi TRÁI PHÁP LUẬT, tức là trao đổi có kèm theo lợi ích vật chất, móc nối nhau, thỏa
thuận để làm một việc trái pháp luật. Còn trong TH này trao đổi để hoàn thiện vụ án, xác định sự
thật khách quan của vụ án là hvi phù hợp với QĐPL.

g) Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Khi làm LS ko có những phát ngôn, sử dụng hình ảnh của mình để làm ảnh hưởng xấu đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, vv. Vai
trò của LS trong xã hội rất cao và hình ảnh của LS được tôn trọng và có sức thuyết phục lớn đối

38
với xã hội, do đó ko được lạm dụng để gây ảnh hưởng. Hiện nay có 1 số LS sd MXH dẫn đến
việc bị tước thẻ ls, xóa/gạch tên ra khỏi đoàn luật sư và khởi tố hình sự. 

Thầy note: Ngoài những hvi LS không được phép làm với cơ quan tiến hành tố tụng, ngược lại,
cũng nghiêm cấm các CQTT hoặc các cơ quan khác, cá nhân khác cản trở khả năng hành nghề
của LS. Khi thực hiện hành nghề, nếu có bất kỳ cá nhân hoặc cơ quan nào cản trở hoạt động
hành nghề của LS thì LS cần thiết phải có những hành động cụ thể để đáp lại các cá nhân, tổ
chức đó như gửi công văn, khiếu nại, tố cáo theo QĐPL trong TH làm ảnh hưởng đến hoạt động
hành nghề LS. Nếu việc lên tiếng đó chưa đủ ảnh hưởng, sức mạnh để giải quyết những vđề liên
quan đến hành vi cản trở hoạt động hành nghề của LS thì LS có quyền gửi văn bản đến Liên
đoàn LSVN/ĐLS mà LS là TV để yc các cơ quan này bảo vệ quyền lợi cho LS (Thầy nói
LĐLSVN là mái nhà chung cho các hoạt động của LS khi thực hiện công việc).

Câu hỏi: Trong quá trình hành nghề, nếu có KSV nào cản trở LS hoạt động hành nghề thì ngoài
gửi đơn tới LĐLS, LS có thể gửi tới Viện trưởng Viện Kiểm sát được hay ko?
=> Gửi đơn đến VT VKS thì LS nên gửi đơn khiếu nại, hoặc tố cáo nếu có dấu hiệu hình sự. Tùy
hành vi mà LS có thể viết đơn khiếu nại hay tố cáo, thông thường đơn khiếu nại sẽ gửi cho lãnh
đạo cơ quan tổ chức đó - đơn tố cáo sẽ gửi đến cơ quan điều tra, cơ quan cảnh sát/công an để giải
quyết theo trình tự thủ tục hình sự. Trường hợp tiếng nói của LS ko đủ mạnh mẽ thì đề nghị
LĐLSVN can thiệp (ban bảo vệ luật sư) tiến hành các biện pháp phù hợp làm việc vs các cơ
quan liên quan để giải quyết các vướng mắc giữa LS đ/vs cá nhân, tổ chức có sự đối kháng với
LS.

39

You might also like