You are on page 1of 5

Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian) trong

tục ngữ Việt Nam


Tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau.
Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại văn học dân gian (folklore),
còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương
pháp luận.

Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu
tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những "lẽ phải thông thường".
Còn triết học - triết học nào cũng đi xa hơn "lẽ phải thông thường là tri thức
khoa học, là hệ thống những quan niệm, quan điểm về thế giới, là sự tổng hợp
và khái quát ở mức độ chung nhất và cao nhất những quy luật vận động của tự
nhiên, của xã hội, của con người, của tư duy. Tục ngữ là văn học dân gian nên
tác giả của nó là tập thể, là quần chúng nhân dân, còn triết học là một môn khoa
học nên tác già của một hệ thống hoặc một tác phẩm triết học bao giờ cũng là cá
nhân - là những người hoạt động trí óc chuyên nghiệp, có khả năng tư duy lý
luận và có năng lực khái quát cao. Xét về cội nguồn, về thời điểm ra đời tục ngữ
cũng có trước triết học. Tục ngữ đã có từ trong xã hội nguyên thuỷ, nhưng trong
xã hội nguyên thủy thì chưa thể có triết học, nhiều lắm là chỉ có những mầm
mống của tư tưởng triết học, hay là tư duy tiền triết học phải đến thời đại văn
minh, tức là khi xã hội đã phân chia giai cấp thì triết học thực sự mới có điều
kiện ra đời, nghĩa là trình độ tư duy trừu tượng và các tri thức khoa học của con
người đã phát triển đến mức đòi hỏi và có khả năng khái quát các tư tưởng triết
học.

Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào đó nó rất gần gũi
với triết học. Tục ngữ được làm ra với mục đích triết lý, luôn luôn cố gắng phát
hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và
đời sống con người. Do đó nhiều người gọi tục ngữ là "'triết lý dân gian", "triết
học của nhân dân lao động". Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục
ngữ có chứa đựng những yếu tố của tư tưởng triết học, nghĩa là những tư tưởng
triết học không được thể hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ như những quy luật,
nguyên lý và mệnh đề triết học mà nó chỉ được thể hiện một phần nào đó và
bằng cách nào đó trong nội dung của tục ngữ.

Về mặt thế giới quan, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh những nhận thức có tính
duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại và vận động khách quan của thế giới không
phụ thuộc vào con người: "Chạy trời không khỏi nắng", "Chạy mưa không khỏi
trời", "trời", "nắng", "mưa" ở đây chính là hiện thực khách quan. Sự vật và hiện
tượng khách quan tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó:
“Trăng đến rằm thì tràng tròn, sao đến tối thì sao mọc", "Còn da lông bọc, còn
chồi nẩy cây". Tư tưởng duy vật của nhân dân lao động còn được thể hiện ở thái
độ phản đối những chuyện mê tín dị đoan và những người làm các nghề đó:
"Thầy bói nói dựa", "Bói ra ma, quét nhà ra rác”.

Nhân dân lao động còn thể hiện tư tưởng duy vật của mình trong việc nhìn nhận
và giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội. Đó à một thứ chủ nghĩa duy vật trực
quan, chất phác, ngây thơ, xuất phát từ kinh nghiệm. Quan điểm duy vật đó
được thế hiện một cáchh đơn giản và sinh động: "Có thực mới vực được đạo”.
"Thực" ở đây có thể là ăn, là lương thực, là kinh tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng vận dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Nhưng dù sao,
"thực" cũng là một cơ sở kinh tế, là đời sống vật chất là tồn tại xã hội, còn "đạo"
nghĩa là sự nghiệp, là lý tưởng hoạt động thuộc lĩnh vực kiến trúc thượng tầng,
là đời sống tinh thần, là ý thức xã hội. "Thực" vực "đạo", nghĩa là vật chất quyết
định tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Con người là chủ thể xã hội, nhưng cũng là một sinh vật. Đối với mọi sinh vật,
ăn phải là nu cầu hàng đầu: "Mẻ không ăn cũng chết". Những con người thì
không chỉ có ăn, mà sau ăn phải là mặc: "Được bụng no còn lo ấm cật". Và khi
có ăn có mặc rồi thì con người không lo chết đói chết rét nữa: "Cơm ba bát, áo
ba manh, đói không xanh, rét không chết”.

Nhưng muốn có ăn, có mặc thì phải lao động vì như Engen nói: "lao động là
điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người". Vốn là những người
lao động nên nhân dân ta rất coi trọng lao động và thấy rõ giá trị của lao động:
“Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn”, “Có khó mới có miếng ăn”, “Tay làm
hàm nhai, tay quai miệng trễ”…

Nói đến xã hội, nói đến lao động thì phải nói đến chính bản thân con người,
vìkhông có con người thì không có xã hội, không có lao động. Bởi vậy xưa nay
triết học Đông Tây đều bàn về con người rất nhiều. Tục ngữ ta có câu; " Người
ta là hoa đất” -một câu nói chỉ có năm từ thuần Việt mà thể hiện sâu sắc quan
niệm cả về vũ trụ và nhân sinh, vớimột tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Nói về con người và giá trị con người, tục ngữ ta thường so sánh người và của
bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rấtnhiều: “Người làm ra của, của không
làm ra người", "Một mặt người hơn mười mặt của”, “Người sống hơn đống
vàng"… Đương nhiên, trên thực tế tuy cùng là "người" nhưng không phải ai
cũng như ai, cũng như tuy cùng là "của" nhưng không phải cái gì cũng có hai trị
như nhau, vì thế tục ngữ ta cũng có phân loại: “Người ba bẩy đảng, của ba bẩy
loài”.

Đi đôi với tư tưởng duy vật tự phát, trong tục ngữ Việt Nam cũng chứa đựng rất
nhiều những yếu tố của tư tưởng biện chứng. Đó là cách nhìn nhận các sự vật và
hiện tượng không phải ở trạng thai đứng im, bất biến mà ở trong sự vận động,
biếnđổi và phát triển và luôn luôn liên hệ điều đó với đời sống con người:
“Trời còn có khả năng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người”, “Người
có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”, “Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời”, “Hết cơn bĩ cực đến kỳ thái lai”, “Tre già măng mọc”, “Con chị nó đi, con
dì nó lớn”…

Các sự vật và hiện tượng không tồn tại độc lập, tách rời nhau: mà giữa chúng có
những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau với mức độ và phạm vi khác nhau
tùy theo từng đối tượng cụ thể: "Mạ nhờ nước, nướcnhờ mạ”, “Hồ cậy rừng,
rừng cậy hồ”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Gần lửa rát mặt”, “Cháy
thành vạ lây”, “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, “Thớt trên mòn, thớt dưới cũng mòn’,
“Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết”, “Cả nhà làm quan cả họ được cậy, một
người làm bậy cả họ mất nhờ”, “Lê tồn Trịnh, tại Lê bại Trịnh vong”…

Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng được tục ngữ thể hiện khá phong phú
và sinh động, tuy không phải dùng đến khái niệm “Chất, lượng, độ, thuộc tính”
như triết học. Phân biệt chất khác nhau được tạo nên bởi những thuộc tính khác
nhau: “Chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng thể cam sànhchín cây”.
Chất khác nhau tạo ra những giá trị khác nhau: “Trăng mờ còn tỏ hơn sao, dẫu
rằng núi nở còn cao hơn đồi”. Không thể lấy lượng thay chất được dù rằng
lượng đó gấp bao nhiêu lần: “Trăm đom đóm không bằng bó đuốc, trăm hòm
chỉ chẳng đúc lên chuông”. Chất bao giờ cũng được coi trọng hơn lượng. “Quý
hồ tinh bất quý hồ đa”, “Văn hay chẳng lọ dài dòng”… và rất nhiều câu diễn tả
sự thay đổi về lượng khi “vượt độ” sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: “Quá mù ra
mưa”, “Tốt quá hoá lốp”, “Mèo già hoá cáo”, “Góp gió thành bão, góp cây nên
rừng”… Đặc biệt có câu thể hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa khái niệmlượng
và khái niệm chất: ”Gò với núi cũng kể loài cao, bể với ao cũng kể loài thấp”.

Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng được tục ngữ nói đến ở nhiều góc độ
và mức độ khác nhau, rất thực tế và linh hoạt. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua
hiện tượng: "Người khôn dồn ra mặt", "Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt
hiện ra chân tay". Có thể căn cứ vào hiện tượng đề kết luận về thực chất sự vật:
"Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy, gái trồng rẫy chẳng chứng nọ cũng tật kia".
Hiện lượng khác nhau nhưng bản chất chi là một: “Khác lọ cùng một nước". Cái
bề ngoài thì dễ thấy nhưng cái bên trong thì khó mà thấy: "Họa hổ hoạ bì nan
họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm". Phải cảnh giác với những hiện tượng
xuyên tạc bản chất: "Thủ thỉ nhưng mà quỷ ma", "Tẩm ngẩm tầm ngầm mà dẫm
chết voi"...

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả (gọi tắt là quan hệ nhân quả) cũng
được thể hiện trong nhiều câu tục ngữ: "Không có lửa sao có khói", “Gieo gió
gặt bão”, “Trèo cao ngã đau”, “Nguồn đục dòng cũng đục”, “Thế gian chẳng ít
thì nhiều, không dừng ai dễ đặt điều cho ai”…

Mối quan hệgiữa cái riêng và cái chung trong tục ngữ được thể hiện như là sự
gắn bó và phân biệt giữa cá thể và và loài trong thế giới sinh vật: “Thân chim
cũng như thân cò”, “Lòng vả cũng như lòng sung, một trăm con lợn cũng chung
một lòng”, “Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật”…

Quan hệ mâu thuẫn trong tự nhiên và xã hội được trình bàynhư là “sự trái
ngược” đơn thuần: “Được mùa cau, đau màu lúa”, “Được người mua, thua
người bán’, “Được lòng ta xót xa lòng người”, “Kẻ ăn không hết, người lần
không ra”…

Bên cạnh những tư tưởng duy vật và tư tưởng biện chứng có tính chất trực quan
đó, nhân dân lao động ngày xưa, do thế giới quan không thuần nhất, do trình độ
nhận thức còn thấp kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối
kháng nên không tránh khỏi những tư tưởng duy tâm và mê tín dị đoan. Tuy có
nghi ngờ, không tin vào các loại "thầy" cụ thể làm nghề mê tín, nhưng họ lại tin
vào thần thánh, vào vận hạn, vào tướng mạo và những dấu vết trên cơ thể con
người, vào ngày giờ lành dữ, và nhất lả tin vào số mệnh (những câu tục ngữ nói
về "số" cũng nhiều hơn về các thứ mê tín khác): "Đất có thổ công, sông có hà
bá," "Trời cho hơn lo làm", "Một khoáy sống lâu, hai khoáy trọc đầu, ba khoáy
chóng chết", "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba", "Từ sinh hữu mệnh, phú quí
tại thiên", "Trăm đường tránh chẳng khỏi số", "Tốt số hơn bố giầu', "Số giàu
tay trắng cũng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo"...

Những tư tưởng duy tâm, mê tín nói trên không những chi phối nặng nề đời
sống của nhân dân lao động nước ta trong các xã hội trước đây, mà còn ảnh
hưởng không nhỏ đến một bộ phận nhân dân trong xã hội ta ngày nay, đặc biệt
là đối với lớp người làmnghề buôn bán và tầng lớp thanh niên gặp nhiều khó
khăn, trắc trở về tình duyên, về công việc làm ăn... Đó cũng là điều khó tránh
khỏi. Chi có sự phát triển của đời sống xã hội và kinh nghiệm thực tế của mỗi
người mới có thể dần dần khắc phục và loại trừ những quan niệm sai lầm trong
thế giới quan và nhân sinh quan.

Ý nghĩa triết học của kho tàng tục ngữ Việt Nam rất rộng lớn, phong phú, muôn
hình, muôn vẻ. Đó là những di sản quý báu “Những viên ngọc quý” của đời
sống tinh thần được coi như một trong những điểm tựa về tư tưởng truyền thống
của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kế thừa và sử dụng trong cuộc
sống mới hiện nay.

You might also like