You are on page 1of 80

ĐỀ CƯƠNG MINH GIẢI VĂN BẢN HÁN NÔM

VIỆT NAM
***
Đề thi có 2 phần:
- Thơ – 5 điểm:
 Chép lại chữ Hán
 Phiên âm – dịch nghĩa
 Chú giải từ ngữ (đưa ra nhiều cách hiểu, giải thích điển cổ, điển tích)
VD: Thiên thư mà chú giải là sách trời thì sẽ không có điểm
 So sánh với bản dịch thơ
- Văn (biền văn hoặc tản văn) – 5 điểm:
 Hoàn cảnh ra đời, tác giả - tác phẩm, thể loại
 Phiên âm – dịch nghĩa
 Bình luận
THƠ CA
Bài 1:
NAM QUỐC SƠN HÀ (南 國 山 河)
(Khuyết danh)
南 國 山 河 南 帝 居, Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
截 然 分 定 在 天 書。 Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
如 何 逆 虜 來 侵 犯,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
汝 等 行 看 取 敗 虛。
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam, vua Nam cai quản

1
Rõ ràng cái phần (lãnh thổ) được chia đã được xác định ở trong sách trời
Cớ sao lũ giặc vô đạo lại đến xâm phạm
Chúng bay sẽ được nhìn thấy việc chuốc lấy thất bại tan tành
(Dịch theo Lê Mạnh Thát: các ngươi chẳng lẽ sẽ cứ ngồi nhìn việc chuốc lấy
thất bại tan tành ư  thể hiện rất rõ tinh thần khích lệ tướng sĩ).
Minh giải:
- Nam quốc sơn hà Nam đế cư 南 國 山 河 南 帝 居:
 Cư 居: ở, cai quản, làm chủ, xử lý  nên dịch là cai quản  thể hiện rất rõ
ý thức về chủ quyển của dân tộc
 Đế 帝: tức Hoàng đế, Thiên tử, người đứng đầu thiên hạ. Ban đầu, đế được
dùng để gọi một số ông vua trong truyền thuyết Trung Hoa: Hoàng đế,
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn… Sau này, Tần Doanh Chính
thống nhất Trung Quốc, bèn dùng ghép với hoàng thành hoàng đế (hoặc chỉ
dùng đế) để chỉ Thiên tử, người cai quản toàn thiên hạ (thay cho chữ Vương)
bao gồm Trung Hoa và cả các nước xung quanh. Từ đó, đế (hoàng đế) trở
thành danh hiệu để chỉ người đứng đầu "thiên hạ". Trong quan niệm của
người Trung Hoa, trong thiên hạ ở một thời điểm chỉ có một Hoàng đế duy
nhất, Hoàng đế sẽ phong tước (vương, công, hầu, …), phong đất (quốc,
quận, …) cho các chư hầu, không có ai được phép xưng là đế nữa. Tuy
nhiên, trong thực tế, một số người đứng đầu các nước lân cận vẫn hoặc âm
thầm (trong nội bộ), hoặc công khai xưng đế. Ở Việt Nam, từ triều Đinh,
Đinh Bộ Lĩnh bắt đầu xưng đế, gọi là Đinh Tiên hoàng đế.
 Nam quốc 南 國: trong lịch sử dân tộc, nước ta chưa bao giờ lấy Nam quốc
làm quốc hiệu, cách gọi Nam quốc dùng để khu biệt giữa người Việt Nam
(Nam nhân) với người Trung Quốc (Bắc nhân). Nam quốc là nước của người
Việt Nam trong sự khu biệt với Bắc quốc là đất nước của người Trung Quốc.
Đây là một danh xưng không chính thống, chỉ đóng vai trò khu biệt. Đặt vào
2
thời điểm bài thơ ra đời, khi đó người Trung Quốc chưa công nhận chúng ta
là một “quốc”. Các vị vua đầu của Việt Nam như Lê Đại Hành, Đinh Tiên
Hoàng, ... chỉ được phong làm Tiết độ sứ. Đến đời Lý, Lý Công Uẩn làm An
Nam quận vương, tức là Trung Quốc vẫn chỉ coi chúng ta là một quận. Phải
mãi đến đời vua Lý Anh Tông vào thế kỉ XII, người Trung Quốc lần đầu tiên
mới thừa nhận chúng ta là một quốc khi cấp cho vua Lý Anh Tông một cái
ấn trên đó có bốn chữ “An Nam quốc vương”. Thời điểm đọc trên sông Như
Nguyệt bài thơ này, trước khi nhận ấn này gần 100 năm, việc xuất hiện từ
“quốc” trong từ “Nam quốc” chính là biểu thị cái tính chất tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố là một nước trong khi người Trung Quốc chưa chịu thừa nhận.
Như vậy, “Nam quốc” thể hiện 2 tinh thần: tinh thần khu biệt với người
Trung Quốc và tinh thần đòi hỏi quyền lợi chính đáng, quyền tự chủ chính
đáng của một quốc gia riêng.
- Tiệt nhiên phận định tại thiên thư 截 然 分 定 在 天 書:
 Phận 分: là cái phần được chia, mỗi người mỗi phận: số phận, bổn phận
 Định 定: xác định
 Thiên thư 天 書: có nhiều cách hiểu:
 1: sách trời – văn bản thừa nhận của thế lực siêu nhiên, mang màu sắc mê
tín.
 2: một loại văn bản huyền bí của Đạo giáo, được xem là phương tiện để
đáng tối cao của Đạo giáo là Nguyên Thủy Thiên Tôn truyền thông điệp
xuống thế gian
 3: thiên văn - để chỉ việc “phận dã” “tinh dã” (việc phân bố ngôi sao ở
trên bầu trời) – sao nào đất ấy. Người Trung Quốc xưa vốn có kiến thức
thiên văn sớm và phong phú cho nên đã vẽ bản đồ sao trên bầu trời và
mỗi một ngôi sao đều có vị trí của nó trên bầu trời. Sao Bắc Đẩu thì ở
phía Bắc, sao Chu Tước thì ở phía Nam, sao Thanh Long ở phía Đông,
3
sao Bạch Hổ thì ở phía Tây. Đấy chính là “định”. Như vậy, sao có vị trí
của nó ở trên bầu trời, và ứng với vị trí của nó trên mặt đất.
 4: “thiên thư” là một cuốn sách của người Trung Quốc đời Tống, tương
truyền khi nhà Tống bị nhà Kim đánh chạy về phía Nam, quân Kim tấn
công dữ quá nên vua Tống nghĩ ra cái trò mượn ý trời để khẳng định chủ
quyền của mình nên đã cho người ngụy tạo ra một quyển sách “thiên
thư”, giấu nó ở ngôi đền thờ và giả vờ cho người tìm thấy nó, trong sách
đó khẳng định những vùng đất nào là chủ quyền của nhà Tống. Nhưng
trong danh mục các nơi thuộc chủ quyền nhà Tống thì lại không có địa
danh nào của chúng ta cả. Như vậy, rõ ràng cái phần lãnh thổ được chia
đã được xác định ở trong sách trời, chính muốn nói rằng phần đó là phần
của nhà Tống, trong sách đó của nhà Tống còn đâu ngoài sách đó thì
không phải của người Trung Quốc mà là của chúng ta. Trong “thiên thư”
đó, không hề ghi nhận vùng đất mà người Trung Quốc đang tham lam
tranh đoạt ấy là của Trung Quốc.
- Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm 如 何 逆 虜 來 侵 犯:
 Nghịch lỗ 逆 虜: bọn tù binh, bọn giặc thua trận. Đó cũng là một cách chú
giải nhưng đặt vào bối cảnh bài này thì chưa hợp lý. Trong tiếng Hán, chữ lỗ
虜 ngoài ý nghĩa là tù binh còn có ý nghĩa chỉ quân giặc. Còn chữ nghịch 逆
này còn có ý nghĩa khác, đối lập với “nghịch” là “thuận”. Đúng với đạo lý
thì gọi là “thuận” (hiếu thuận), trái với đạo lý thì gọi là “nghịch” (nghịch tử).
Cho nên chữ “nghịch” ở đây biểu thị tính chất trái đạo lý của quân thù 
“nghịch lỗ” có thể dịch là quân giặc vô đạo, lũ giặc bất nghĩa, trái nhân
nghĩa (dựa trên tinh thần Nho giáo).
- Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư 汝 等 行 看 取 敗 虛:
 Nhữ đẳng 汝 等 : nhữ là đại từ ngôi thứ hai, đẳng để chỉ số nhiều  các
ngươi, chúng bay. Chúng bay ở đây là quân giặc? Trong Đại Việt sử kí toàn
4
thư có chép lại rằng: Lý Thường Kiệt sai người núp ở đền thờ đọc bài thơ
này, giả dọng của thần để khích lệ lòng tướng sĩ  người nghe là quân
mình, chứ không phải quân giặc. Vì thế, rất có thể “nhữ đẳng” chính là quân
ta. Người đưa ra quan điểm này là ông Lê Mạnh Thát.
 Hư 虛: là không còn gì, nhưng nó biểu thị ý nghĩa là từ có chuyển sang là
không còn gì. Phân biệt với từ khác gần nghĩa với nó, như từ “vô” 無 cũng
là không nhưng có nghĩa là không có một cái gì cả; từ “không” 空 cũng là
không có nhưng có một khoảng trống rỗng. Hư là có nhưng chuyển sang
trạng thái biến mất, đưa trẻ đang ngoan mà lại không ngoan nữa thì gọi là trẻ
hư.
So sánh:
Bản dịch 1:
Núi sông Nam Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm tới đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ
- Câu 1:
 “Nam Việt” chưa sát nguyên văn, có thể khiến người đọc hiểu nhầm là
nước Nam Việt của Triệu Đà cách đó 1000 năm
 “vua Nam” chưa truyền tải hết ý nghĩa của “Nam đế” (quan hệ ngang hàng
với Bắc đế)
 “ở” không thể hiện được sắc thái chủ động, làm chủ của chữ “cư” (cai
quản). “Cư” là thanh bằng  thanh trắc
- Câu 2:
 “vằng vặc” thường dùng để tả ánh trăng, ở đây để nói đến “sách trời” 
chưa hợp lý.

5
 “chia xứ sở” chưa làm rõ sự “định phận” (xác định rõ địa phận), “phận”
không nên hiểu là “phân” (chia)
- Câu 3: “giặc dữ” chưa nói lên sự trái đạo của bọn giặc (lũ giặc vô đạo, ngỗ
ngược)
- Câu 4: chưa làm rõ cái ý giặc tự mình chứng kiến cảnh chịu thảm bại đến tan
nát
Bản dịch 2:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
- Câu 1: “vua Nam” và “ở” – tương tự như trên
- Câu 2: tốt  khen
- Câu 3: “lũ giặc” >< “nghịch lỗ”
- Câu 4: tương tự như trên
Nhìn chung đây vẫn là bản dịch hay và phổ biến

Bài 2:
CÁO TẬT THỊ CHÚNG (告 疾 示 眾)
(Mãn Giác Thiền sư 滿 覺 禪 師)
春 去 百 花 落, Xuân khứ bách hoa lạc,
春 到 百 花 開。 Xuân đáo bách hoa khai.
事 逐 眼 前 過,
Sự trục nhãn tiền quá,
老 從 頭 上 來。
莫 謂 春 殘 花 落 盡,
Lão tòng đầu thượng lai.
庭 前 昨 夜 一 枝 梅。 Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

6
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa nở
Sự việc cứ đuổi nhau qua trước mắt
Tuổi già đã theo đến ở trên đầu
Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Trước sân, tối hôm qua có một cành mai (nở).
Minh giải:
- Thị chúng 示 眾: chỉ dạy cho mọi người, nói ra những ý nghĩ cho mọi người
được biết. Thị ở đây có ý nghĩa khai thị, một phương pháp truyền thụ yếu chỉ
Phật pháp, người đắc đạo dùng các ám thị, biểu trưng … để gợi ý giúp người tu
học tự mình thức nhận chân lý; chúng ở đây nên hiểu là chúng đệ tử – người tu
học Phật. Còn có thể hiểu thị chúng là tên gọi một loại kệ, thị chúng kệ
- khứ 去: đi, cái đã qua, đi qua. Còn một âm là khử: trừ bỏ (như: trừ khử). [1.
Đọc âm khứ: rời khỏi, đi khỏi. Trong Giáp cốt văn, khứ là chữ hội ý gồm bộ đại
ở bên trên và phần dưới là bộ khẩu hoặc bộ khảm, biểu thị người rời hang động
ra đi. Thôi Hiệu viết Hoàng hạc lâu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản: Hạc
vàng một đi không trở lại. 2. Đọc âm khử: từ bỏ. Luận ngữ viết: Khử binh (Bỏ
binh khí)]
- Bách 百: 1. Một trăm, thuộc loại chữ chỉ sự. Nét ngang là ký hiệu chỉ sự, khu
biệt với bạch – trắng, sáng. 2. Đông đúc. 3. Nhiều hơn trăm lần, gấp nhiều lần.
Từ đồng âm: bách (cây bách, gồm bộ mộc – chỉ ý và bạch – chỉ âm), bách (Đè
nén, gồm bộ sước – chỉ ý và bạch – chỉ âm)
- Lạc 落: Hứa Thận giải thích: Lạc, phàm thảo viết linh, mộc viết lạc. Tòng thảo
lạc thanh (Lạc là chữ hình thanh gồm bộ thảo – chỉ ý, lạc – chỉ âm. Lá cây rụng

7
dùng từ lạc, cỏ rụng dùng từ linh). Từ đồng âm: lạc (vui chữ tượng hình một
loại nhạc khí), Lạc (Lạc Hà, gồm bộ thủy – chỉ ý và các – chỉ âm)
- Đáo 到: 1. Đến nơi, chữ hình thanh gồm chí – chỉ ý và đao – chỉ âm. Trong im
văn, hình thể chữ đáo gồm chí và nhân, ngụ ý người đi đến. Đến Tiểu triện, bộ
nhân bên phải chuyển thành bộ đao. 2. Khắp đủ, chu đáo.
- Khai 開 (Tượng hình): vẽ hai bàn tay giơ lên đẩy 2 cánh cửa để mở cửa ra; phần
bên trong nó vẽ khoảng trống, khi 2 cánh cửa đẩy ra tạo ra ô trống. Nghĩa là:
mở ra, ở đây chỉ hoa nở >< lạc 落: rơi, rụng (hoa rụng) ở câu trên [khai: 1. Mở
cửa, trái nghĩa với bế. Hình thể chữ khai trong văn tự cổ gồm bộ phận bên ngoài
là hai cánh cửa lớn, bên trong có một nét ngang biểu thị then cài cửa, bên dưới
có hai bàn tay ngụ ý hành động rút then cửa. Đến Tiểu triện, chữ khai thay đổi
hình thể bộ phận bên trong, chỉ còn hai bộ can. 2. Nở, hoa khai (hoa nở). 2.
Đào, bới, khai hà (đào sông). 4. Mở mang, khai sáng (mở mang gây dựng), khai
đoan (khai mở)]
- Sự 事: 1. ở đây có thể hiểu như thế sự: việc đời. Hứa Thận giải thích: Sự thức
dã. Tòng sử chi tỉnh thanh (SỰ mang nghĩa đảm nhận một công việc, gồm sử
(chức quan coi việc) chỉ ý và chi viết lược chỉ âm). 2. Tôn thờ, thờ phụng như
sự quân, phụng sự.
- Trục 逐: 1. Đuổi, đuổi theo, đuổi bắt. Trong Giáp cốt văn, bộ phận bên trên là
hình con lợn (bộ thỉ), bên dưới là hình bàn chân (bộ chỉ). Thỉ và chỉ hội ý biểu
thị người đan giỏ bắt con lợn chạy phía trước. Trong Kim văn, hình thể chữ trục
thêm bộ sước, biểu thị trạng thái khi chạy nhanh, lúc dừng lại, hoàn thiện ý đuổi
bắt. Về sau, bộ chỉ bị lược bớt. 2. Đuổi đi, xích trục (ruồng đuổi), trục khách
(đuổi khách). 3 Tranh giành, trục lợi (tranh giành mối lợi) Chữ tương cận hình
thể: toại – lập tức
- Nhãn 眼 : Hứa Thận giải thích Nhãn mục dã. Tòng mục cấn thanh (Nhãn chỉ
con mắt, gồm bộ mục chỉ ý và cấn chỉ âm). Mục tượng hình con mắt, hình thể
8
chữ mục trong Giáp cốt văn và Kim văn đều giống con mắt nhưng sang Tiểu
triện đã biến đổi
- Quá 過 : 1. Vượt qua. Hứa Thận giải thích: Quá độ dã. Tòng sước oa thanh.
(Quá mang nghĩa vượt qua, gồm bộ sước chỉ ý và oa chỉ âm). 2. Lỗi lầm, cải
quá (sửa lỗi), văn quá (che giấy lỗi). 3. Việc đã qua, quá khứ, quá vãng
- Lão tòng đầu thượng lai 老 從 頭 上 來:
 Tòng 從 ... lai 來 : theo từ chỗ nào đó đến/ từ chỗ nào đó đến [Tòng 從 :
Trong Giáp cốt văn, hình thể chữ tòng được viết gồm hai bộ nhân, tượng
hình một người đi trước và một người đi sau, mang nghĩa đi theo. Sau đó, bộ
xích và bộ chỉ được thêm vào làm rõ nghĩa hành động đi theo, làm theo. Chữ
tòng còn đọc âm tùng. Lai 來: 1. Nghĩa gốc là một loại lúa, tượng hình cây
lúa. 2. Đến tới, trái với vãng – ra đi. 3. Tương lai. 4. Ngữ khí từ cuối câu.
Mạnh Tử viết: Hạp quy hồ lai? (Sao chẳng về đi?)]
 Tùng hay tòng là hai cách đọc của chữ 從, hai cách đọc làm cho chữ không
thay đổi ý nghĩa
- Xuân 春 (chữ hội ý): ghép nghĩa ở trên là cành cây, ở dưới là mặt trời
- Đình tiền tạc dạ nhất chi mai 庭 前 昨 夜 一 枝 梅:
 Đình tiền 庭 前: sân trước hay trước sân? Đình tiền là trước sân (đối lập với
sân trước là sân sau). Trước sân là phía trước của cái sân. Sân này không
phải sân bình thường, sân này là “đình”, là khoảng sân có mái che. Người ta
dựng cái cột xong làm cái mái ở phía trên, có thể ngồi trong “đình” để nghỉ
ngơi, ngắm cảnh và khoảng không gian phía trước của cái sân có mái che đó
gọi là “đình tiền”.
 Nhất chi mai 一 枝 梅: một nhành mai. Có 2 cách hiểu phổ biến: (1) [cụm
danh từ], chỉ sự hiện hữu của cành mai, trong cái nhìn vô sắc tướng của nhà
Phật; (2) [cụm danh từ dùng như cụm động từ], có nghĩa: một nhành mai
đang nở hoa. Ngoài ra, có người đề xuất, nhất chi mai nên hiểu là một chồi
9
mai (nảy mầm), biểu đạt quy luật tuần hoàn nối tiếp nhau của sinh – tử.
Rụng (tử) không phải là kết quả cuối cùng của nở (sinh) mà chỉ là một chặng
trong chuỗi vận động của quy luật khách quan.
So sánh:
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa tươi.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.
- Câu 3, 4: nguyên văn có cấu trúc và ý đối nhau, giữa cái vô hạn (của việc đời,
cần làm) và cái hữu hạn của sinh mệnh.
- Câu kết: “một cành mai” là biểu trưng đa nghĩa, có nhiều tranh luận. Bản dịch
sát theo nguyên văn, không nghiêng về cách hiểu nào.

Bài 3:
THỊ ĐỆ TỬ (示 弟 子)
Vạn Hạnh Thiền sư (萬 行 禪 師)
身 如 電 影 有 還 無, Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
萬 木 春 榮 秋 又 枯。 Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
任 運 盛 衰 無 怖 畏,
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
盛 衰 如 露 草 頭 鋪。
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân mình như bóng chớp, có rồi lại không
Muôn cây mùa xuân tươi tốt, mùa thu lại khô héo
Hãy để mặc sự vận hành của lẽ thịnh suy mà đừng sợ hãi

10
Sự thịnh suy như giọt sương ở trên đầu ngọn cỏ
Minh giải:
- Thân 身 (tượng hình): vẽ phần cơ thể người. Cho nên chữ “thân” thật ra chính
là thân thể, thân xác, cơ thể, bản thân
- Vinh 榮 (Hội ý): dưới là bộ mộc, là nhiên liệu được dùng cho việc đốt, phía
trên có 2 bộ hỏa để chỉ lửa. Cho nên chữ “vinh” vốn có nghĩa là sáng rực rỡ.
Sau đó nó chuyển sang nghĩa để chỉ sự phát triển, phồn vinh.
- Nhậm 任 : đảm nhiệm, gánh vác, nhập vào  Không nên dịch là gánh vác.
Trong mắt nhà sư, sự thịnh suy là không đáng quan tâm, nó chỉ như giọt sương,
nó đến rồi đi, hình thành lên rồi mất, cho nên hãy để mặc sự vận hành của lẽ
thịnh suy mà đừng sợ hãi, nó thịnh cũng đừng vui, nó suy cũng đừng buồn.
- Lộ 露: sương – tượng trưng cho sự mỏng manh, dễ tan biến. Thịnh suy như lộ
thảo đầu phô (Sự thịnh suy như giọt sương ở trên đầu ngọn cỏ)  Đây là cách
nói hình tượng, giọt sương được hình thành bằng việc hấp thụ hơi nước và đọng
lại trên lá cỏ. Nó cứ đọng lại dần dần khiến giọt sương đó lớn dần lên và thành
giọt nước trên đầu ngọn cỏ. Nhưng giọt nước phát triển đến lúc nó cực, nó to
nhất thì nó sẽ rụng xuống và lại mất đi. Thịnh suy giống như giọt sương là vì
như vậy, nó hình thành, nó phát triển và nó cũng sẽ lại mất đi như một giọt
sương ở đầu ngọn cỏ vậy.
[BỔ SUNG]:
(2) thân: 1. Trong Giáp cốt văn, chữ thân tượng hình người phụ nữ mang thai. Hứa
Thận giải thích: Thân cung dã. Tượng nhân chi thân. (Thân là chữ tượng hình cơ
thể con người). Theo tư tưởng Phật giáo, thân chỉ sắc thân do cha mẹ sinh ra, tồn
tại thực nhưng bản chất là ảo vì chỉ là sự kết hợp tạm thời. 2. Vật rộng lòng có thể
chứa đựng, hà thân – lòng sông, thuyền thân – thân thuyền)
(3) điện ảnh: bóng tia chớp. Hứa Thận giải thích: Điện âm dương kích diệu dã.
Tòng vũ tòng thân. (Điện chỉ tia chớp xuất hiện bởi trong tầng mây có âm dượng,
11
chữ hội ý gồm vũ – mưa và thân – tượng hình của tia chớp). Ảnh (bóng, hình
tượng) là chữ hình thanh gồm bộ sam chỉ ý tua dài trang trí, vật trang trí qua ánh
sáng sinh ra bóng vật và cảnh chỉ âm
(4) hữu: 1. Có, chiếm hữu, sở hữu … chữ hội ý gồm hựu – bàn tay và nhục –
miếng thịt, bàn tay cầm miếng thịt, trong tay có vật sở hữu. 2. Trong Phật giáo, cặp
phạm trù hữu – vô nói về nhận thức thế giới của con người gồm sự tồn tại và vô
thường. Hữu quan niệm về cái có thực, khẳng định sự tồn tại của thế giới. Vô trở
thành cách nhìn nhận, kiến giải thế giới là không, phủ nhận với sự tồn tại của thế
giới. Theo quan niệm Phật giáo, nếu cực đoan một trong hai cách nhìn nhận này
đều sai lầm. 3. Dùng trong số đếm, đặt giữa số chẵn chục và số lẻ. Luận ngữ viết:
NGô thập hữu ngũ nhi chí vu học (Ta mười lăm tuổi dốc chí vào việc học)
(5) hoàn: 1. Trở về, trở lại … chữ hình thanh gồm bộ sước chỉ ý và hoàn chỉ âm.
Nghĩa gốc của hoàn – chỉ nỗi sợ hãi hoặc cô độc. 2. Nhanh chóng, nhanh nhẹn. 3.
Trả lại, trao trả. 4. Còn, càng thêm, lại (hư từ). Từ đồng âm: hoàn (tóc búi, gồm bộ
tiêu chỉ ý và hoàn chỉ âm), hoàn (tường ở phố chợ, gồm bộ môn chỉ ý và hoàn chỉ
âm)
(6) vinh: 1. Cây ngô đồng. Hứa Thận giải thích: Vinh đồng mộc dã. Tòng mộc
huỳnh tỉnh thanh (Vinh chỉ cây ngô đồng, gồm bộ mộc chỉ ý và huỳnh viết lược chỉ
âm). 2. Tươi tốt. 3. Vẻ vang, hiển đạt.
(7) khô: 1. Héo úa, gồm bộ mộc chỉ ý và cổ chí âm. Cổ trở thành ký hiệu chỉ âm
trong chữ hình thành như cố tường thành vững chắc (gồm bộ vi – chỉ ý và cổ chỉ
âm), khổ (vị đắng, gồm bộ thảo chỉ ý và cổ chỉ âm). 2. Cạn, khô cạn, lệ khô – cạn
nước mắt. Thành ngữ: Khô thụ sinh hoa (Cây khô nở hoa, tuyệt đường lại tìm ra lối
thoát), Hải khô thạch lạn (Biển cạn đá mòn)
(8)
1. Đọc âm nhậm: phó mặc, mặc kệ, như nhậm ý – mặc ý. Trong câu Nhậm vận
thịnh suy vô bố úy, từ nhậm là phó từ đứng trước động từ vận – xoay vâng.
12
2. Đọc âm nhâm: đảm đương công việc, gồm bộ nhân, chỉ ý và nhâm chỉ âm.
Trong Giáp cốt văn, chữ nhậm tượng hình người vác vật trên lưng, nhâm lao –
gánh vác nỗi khó nhọc, nhâm oán – chịu sự oán trách.
(9) vận: 1. Xoay vần. Hứa Thận giải thích: Vận di tỷ dã. TÒng sước quân thanh
(Vận mang nghĩa dời chuyển, gồm bộ sước chỉ ý và quân chỉ âm). 2. Vận số, vận
mệnh, quan niệm cuộc đời con người tiền định. Từ đồng âm: vận (vần, gồm bộ âm
chỉ ý và viên chỉ âm)
(10) thịnh suy: Hứa Thận giải thích: Thịnh thử tắc tại khí trung dĩ tự giả dã. Tòng
mãnh thành thanh (Thịnh chỉ lúa nếp đầy trong đồ để cúng tế, gồm bộ mãnh chỉ
yhs và thành chỉ âm). Chữ suy vốn đọc âm thôi, nghĩa cổ trang chỉ tang phục.
Trong bài này, chữ suy đọc âm suy chỉ trạng thái suy thoái, chuyển mạnh thành
yếu.
(11) hưu: 1. Nghỉ ngơi. Hứa Thận giải thích: Hưu tức chỉ dã. Tòng nhân y mộc
(Hưu mang nghĩa nghỉ ngơi, chữ hội ý gồm nhân – người và mộc – cây, hàm ý
người tựa vào cây). 2. Đừng, chớ … phó từ phủ định như vô, bất, mạc, vật
(12) bố úy: sợ hãi, từ ghép gồm bố (hãi hùng) và úy (sợ hãi). Bố là chữ hình thanh
gồm bộ tâm chỉ ý và bố chỉ âm. Chữ úy đã thay đổi hình thể mang nghĩa sợ hãi.
Theo Hứa Thận, chữ úy có hình thể gồm phần trên tượng hình đầu hổ và phần dưới
tượng hình móng vuốt hổ, chỉ việc đáng sợ.
(13) lộ: 1. Móc, hơi nước gần mặt đất, gặp khí lạnh tụ lại thành từng giọt, gồm bộ
vũ chỉ ý và lộ chỉ âm.2. Bày ra, phô ra, bộc lộ
(14) thảo đầu: đầu ngọn cỏ. Thảo chỉ cỏ, gồm bộ thảo chỉ ý và tảo chỉ âm. Đầu chỉ
cái đầu hoặc chỗ cao nhất, gồm bộ hiệt chỉ ý và đậu chỉ âm
(15)
1. Đọc âm phô: lộ ra, bày ra. Hứa Thận giải thích: Phô trứ môn phô thủ dã. Tòng
kim phủ thanh. (Phô mang nghĩa dùng dây kim loại xâu đầu thú lên treo trước cửa,
gồm bộ kim chỉ ý và phủ chỉ âm).
13
2. Đọc âm phố: cửa hàng
So sánh:
Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
- Câu 1: “hoàn” trong nguyên văn chỉ sự tuần hoàn, lặp lại, có – không nối tiếp
nhau
- Câu 3: nguyên văn là “nhậm vận”: nhập thẳng vào, đặt mình vào (quy luật)
không phải thái độ bỏ mặc, thờ ơ (Tuy nhiên, thầy Tuấn Anh lại dịch là “bỏ
mặc”)
- Câu 4: Nguyên văn lặp lại từ “thịnh suy” nhấn mạnh đồng thời giải thích quy
luật
Bài 4:
Thuật hoài 述 懷
(Phạm Ngũ Lão 范 伍 老)
橫 槊 江 山 恰 幾 秋, Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
三 軍 貔 虎 氣 吞 牛. Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
男 兒 未 了 功 名 債, Nam nhi vị liễu công danh trái,
羞 聽 人 間 說 武 侯. Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch:
Cầm ngang ngọn giáo (bảo vệ non sông) đã trải mấy thu rồi
Ba quân (dũng mãnh) như hổ báo, khí thế nuốt trôi trâu
Kẻ làm trai còn chưa hoàn thành được cái món nợ công danh
(Thì sẽ) hổ thẹn khi nghe truyện Vũ hầu (người đời nhắc đến sự nghiệp Vũ hầu)
Minh giải:
14
- Về tiêu đề:
 Hoài 懷 là ấp ủ trong lòng >< thứ ôm ấp trong tay thì gọi là bão 抱. Sau này,
nó tạo thành từ ghép hợp nghĩa là hoài bão, những thứ mà chúng ta vừa ấp ủ
trong lòng nhưng cũng vừa ấp ủ trong tay, theo nghĩa là phải giữ lấy nó, kiên
trì thực hiện nó. Những người có “hoài” mà không có “bão” là những người
suy nghĩ viển vông. Cho nên “hoài” đi với “bão” để thể hiện sự quyết tâm,
cố gắng của mỗi cá nhân để thực hiện bằng được những điều mà mình ấp ủ
và ước mong.
 Thuật 述 là kể lại, tức là cái “hoài” ấy nó đã phải có từ trước rồi, nó đã được
ấp ủ từ rất lâu và trở thành thứ được định hình trong nhận thức, cảm xúc, lý
trí của mỗi một con người  Phạm Ngũ Lão muốn kể ra cái thứ mà ông đã
ấp ủ từ rất lâu ở trong lòng – đó chính là trí làm trai.
- Hoành 橫 : ngang, nằm ngang; ở đây được dùng làm động từ với nghĩa: cầm
ngang, giữ ngang, giơ ngang, thể hiện tư thế người anh hùng thời đại; hoành sóc
橫 槊 (sóc còn có âm là sáo): cầm ngang ngọn giáo.
- Cáp kỷ thu 恰 幾 秋: vừa vặn mấy năm trời, trải mấy năm ròng. Thu 秋 là mùa
thu, ở đây được dùng để chỉ năm tháng. “Mấy năm” vừa có ý nói sự nghiệp cá
nhân của Phạm Ngũ Lão, về dưới trướng của Trần Hưng Đạo cầm quân dẹp
giặc đã trải mấy năm ròng; vừa gợi khoảng thời gian quân dân nhà Trần đồng
lòng kháng chiến chống giặc Nguyên (lần thứ hai) đã mấy năm trời.
- Tam quân 三 軍: ba quân, chỉ quân đội của một quốc gia nói chung. Các sách
vở từ trước tới nay đều giải thích tam quân là 3 cánh quân: gồm tiền quân, hậu
quân, trung quân hoặc tả quân, trung quân, hữu quân – là cách tổ chức binh lính
trong tiến quân, dàn trận; cũng có ý kiến đề xuất tam quân là 3 loại quân của
quân đội thời xưa, gồm thuỷ binh, kỵ binh, bộ binh. Ở đây, theo chúng tôi tam
quân là chỉ tổ chức phiên chế quân đội thời xưa. Theo quy định của binh chế,

15
một quốc gia tự chủ (chư hầu lớn) có quyền có từ 3 quân, chư hầu vừa có 2
quân, chư hầu nhỏ có 1 quân, các nước quá nhỏ (nước phụ dung, chư hầu của
chư hầu) không có quyền có quân đội. Mỗi quân gồm 12.500 lính, chia làm 5 sư
(sư có 2.500 lính), mỗi sư chia làm 5 lữ (lữ có 500 lính), mỗi lữ chia làm 5 tốt
(tốt có 100 lính), mỗi tốt chia làm 5 lượng (lượng có 25 người), mỗi lượng chia
làm 5 ngũ (ngũ có 5 lính); quân là đơn vị lớn nhất, ngũ là đơn vị nhỏ nhất, gộp
lại có từ quân ngũ chỉ quân đội nói chung. Như vậy, tam quân trong bài thơ này
thể hiện sức mạnh của quân đội một nước tự chủ, biểu thị niềm tự hào của tác
giả.
- Tỳ hổ 貔 虎: tỳ là tên con đực của giống thú tỳ hưu, một loài dã thú, thuộc loại
báo, có bản tính mạnh mẽ, cương cường. Tỳ hổ: “hổ báo”, dùng để nói về sự
dũng mãnh của quân đội.
- Thôn ngưu 吞 牛: có thể hiểu theo theo hai nghĩa. 1/ Sách Thi tử Trung Hoa có
câu: “giống hổ báo tuy nhỏ, lưng chưa có vằn, nhưng đã có sức nuốt được trâu”.
Thơ của Đỗ Phủ (đời Đường, Trung Quốc) có câu: Tiểu nhi ngũ tuế khí khôn
ngưu (Trẻ nhỏ năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ chừng như có thể nuốt trôi được
cả trâu. 2/ Ngưu ở trong câu thơ cũng có thể hiểu là sao Ngưu, “khí thôn Ngưu”
có nghĩa là hào khí dũng mãnh bốc lên làm mờ cả sao Ngưu. Nói chung, cả hai
nghĩa đều muốn nhấn mạnh vào khí thế dũng mãnh của quân sĩ.
- liễu 了: chấm dứt, xong, hoàn tất, kết thúc. Vị liễu 未了: chưa xong, chưa hoàn
tất; ở đây có nghĩa là chưa trả xong (nợ).
- công danh trái 功 名 債: nợ công danh, ở đây muốn nói đến sự nghiệp giúp dân
giúp nước, để lại danh tiếng ở đời. Tư tưởng nam nhi của Nho học coi công
danh là món nợ phải trả, đòi hỏi người con trai phải lập được công trạng, không
chấp nhận lối sống bé mọn, tiểu kỷ
- Tu 羞: hổ thẹn, cùng nghĩa với sỉ 恥; tu thính 羞 聽: hổ thẹn khi nghe. Luận
ngữ 論 語 chép lời Khổng Tử có câu đại ý: Người ta không thể không biết đến
16
hổ thẹn là gì, nếu không biết hổ thẹn những điều đáng hổ thẹn thì kẻ ấy là hạng
vô sỉ
- Vũ hầu 武 侯: tức Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị (thời Tam Quốc – Trung
Hoa), được phong tước Vũ Lượng hầu, gọi tắt là Vũ hầu. Gia Cát Vũ hầu lập
được công trạng lớn, lưu phương thanh sử – để lại tiếng thơm trong sử sách, trở
thành biểu tượng của khát vọng lập công.
- Lập công danh là một trong tam lập theo quan niệm Nho giáo xưa, người con
trai sinh ra phải có “tam lập” (có thể không làm hết được tam lập nhưng ít nhất
làm được một trong tam lập). Tam lập gồm:
 Cao nhất là lập đức, người nào lập được đức người đó là bậc thánh nhân.
Mỗi khi người ta nhắc đến người đó là nhắc đến tấm gương đạo đức cao cả,
một nhân cách sáng ngời
 Lập công: làm được những việc có ích cho cộng đồng như đánh giặc, diệt
thù, trừ gian diệt ác, trượng nghĩa, ... (phân biệt với cái “công” của người nữ:
công tức là làm được việc có ích cho gia đình như sinh con, đẻ cái, tề gia nội
trợ, chăm sóc gia đình, vun vén hạnh phúc gia đìn, “gái có công chồng chẳng
phụ”). Người lập được công là hiền nhân.
 Bậc thánh hiền: vừa lập được công, vừa lập được đức
 Lập ngôn: để lại được những câu nói khiến người đời sau coi đó như những
khuôn mẫu để học hỏi. Đơn giản đó là những câu thơ, câu văn khiến hậu thế
cứ phải đọc, truyền tụng. Hay viết được ra những châm ngôn, lời phát biểu
khiến người ta được học hỏi, .... Trong tam lập thì lập ngôn là thấp nhất, cho
nên Bác Hồ thường thích câu thơ của nhà thơ Viên Mai “Lập thân hạ sách ấy
văn chương”. Ý nói rằng: trong tam lập có thượng sách là lập đức, trung
sách là lập công, hạ sách là lập ngôn mà trong đó có sáng tác thơ văn. Bác
Hồ thích câu thơ này, “hạ sách ấy văn chương” không có nghĩa là coi thường
văn chương mà câu đó để thấy rằng Bác ý thức rõ văn chương cũng là một
17
trong tam lập, nhưng đó là điều thấp nhất mà một kẻ làm trai có thể làm. Bác
muốn làm những điều cao hơn thế, Bác muốn lập công, lập đức. Và cuộc đời
của Bác thì Bác đã lập được cả 3.
[BỔ SUNG]:
(1) Thuật: 1. Đi theo. Hứa Thận giải thích: Thuật tuần dã. Tòng sước thuận thanh.
(Thuật mang nghĩa đi theo, gồm bộ sước chỉ ý và thuật chỉ âm). 2. Bày ra, thuật ra,
chép các điều nghe từ trước. 3. Bày tỏ
(2) sóc: Thuyết văn giải tự viết: Sóc mâu dã. Tòng mộc sóc thanh. (Sóc chỉ ngọn
giáo, gồm bộ mộc chỉ ý và sóc chỉ âm). Cụm từ hoành sóc chỉ hành động cầm
ngang ngọn giáo, tượng trưng tài năng chiến trận, khí khái hào mại. Trong Tiền
Xích Bích phú, Tô Thức khẳng định tài năng của Tào Tháo: Hoành sóc phú thi
(Cầm ngang ngọn giáo mà làm thơ), chỉ người vừa cso tài chiến trận vừa có tài thơ
văn
(3) kháp: vừa vặn, thích đáng… Kháp là chữ hội ý gồm bộ tâm (tâm tưởng) và hợp
(hài hòa), hòa hợp trong suy nghĩ. Chữ hợp tượng hình nắp bình và thân bình vừa
vặn
(4) quân: quân đội, chữ hội ý gồm xa (chỉ xe đánh trận) và bao, sau biến thể thành
mịch (vây quanh). Thời cổ đại, khi dừng chân trong các cuộc chiến, quân đội
thường lấy chiến xa tạo thành doanh lũy.
Tam quân: gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. Tiền quân là bộ phận tiên phong,
giữ nhiệm vụ mở đường như sửa cầu, dọn đường, trinh sát, ứng phó trận chiến quy
mô nhỏ và có mang lương thực theo. Trung quân là đại quân do thống soái chỉ huy
thường chia thành kỵ binh và bộ binh. Hậu quân là quân lo việc hậu cần, quân
dụng.
(5) tỳ hổ: 1. Con tỳ và con hổ, phiếm chỉ mạnh thú. 2. Tỷ dụ tráng sỹ dũng mãnh
hoặc tượng trưng cho sức mạnh quân đội. Tỳ là chữ hình thành gồm bộ trãi chỉ ý

18
và tỳ chỉ âm, chỉ một loài thuộc họ báo. HỔ là chữ tượng hình con hổ với đặc trung
vằn thân và bốn chân.
(6) khí: mang thức thức ăn đồ uống cho người khác, gồm bộ mễ chỉ ý và khí chỉ
âm. Chữ khí (không khí) tượng hình đám mây trong không trung. Về sau, chữ khí
thường dùng chỉ không khí, khí chất, vào khí, chuyên dùng với nghĩa đem đồ ăn
tới.
(7) thôn: 1. Nuốt. Hứa Thận giải thích: Thôn yết dã. Tòng khẩu thiên thanh. (Thôn
mang nghĩa nuốt, gồm bộ khẩu chỉ ý và thiên chỉ âm). Quân niệm khác cho rằng,
thôn là chữ hội ý gồm bộ khẩu biểu thị người há miệng nuốt thức ăn và thiên biểu
nghĩa to lớn, há miệng lớn để nuốt hoặc hàm nghĩa người ngửa mắt lên trời khi
nuốt đồ ăn. 2. Diệt mất, tiêu diệt. Từ đồng âm: thôn (thôn trang, vốn là chữ hình
thanh gồm bộ ấp chỉ ý và đồn chỉ âm, sau tục tự thường dùng thôn gồm bộ mộc chỉ
ý và và thốn chỉ âm)
(8) ngưu: 1. Con trâu. 2. Sao Ngưu, thuộc Nhị thập bát tú. 3. Tỷ dụ cho sự vững
chắc hoặc kiêu ngạo. Vì từ ngưu đa nghĩa nên câu “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”
được dịch là Ba quân khí thế mạnh mẽ nuốt trôi trâu hoặc Ba quân khí thế mạnh
mẽ át sao Ngưu.
(9) vị: tượng hình cây cối có cành lá tươi tốt, sau làm phó từ phủ định. Chữ tượng
cận hình thể: mạt – ngọn. Từ đồng âm: vị (dạ dày, hình thể chữ trong Tiểu triện
gồm phần trên tượng hình cơ quan tiêu hóa, phần dưới là bộ nhục, sau biến đổi
hình thể), vị (nói, gồm bộ ngôn chỉ ý và vị chỉ âm)
(10) liễu: 1. Chặt đứt, kết thúc, hoàn thành… Thuyết văn giải tự viết. Liễu tòng tử
vô tý. Tượng hình (Liễu là chữ tượng tượng hình, tương tự chữ tử, chỉ đứa trẻ bị
mất hai cánh tay). 2. Hiểu biết, rõ ràng, minh bạch
(11) công 1. Công lao. Hứa Thận giải thích: Công dĩ lao định quốc dã. Tòng lực
tòng công, công diệc thanh (Công mang nghĩa dốc sức yên định đất nước, chữ hội
ý kiêm hình thanh gồm lực – sức lực và công – công cụ lao động, công còn chỉ
19
âm). 2. Lễ tang, để tang chín tháng gọi là đại công, để tang năm tháng gọi là tiểu
công. Từ đồng âm: công (công cụ, thuộc loại chữ tượng hình), công (đánh gồm bộ
phốc chỉ ý và công chỉ âm)
(12) danh: 1. Tên, cất tiếng nói tên. Hứa Thận giải thích: Danh tự mệnh dã. Tòng
khẩu tòng tịch. Tịch giả minh dã. Minh bất tương kiến, cố dĩ khẩu tự danh (Danh
mang nghĩa tự cất tiếng, chữ hội ý gồm khẩu (miếng cất tiếng gọi) và mịch (bóng
đêm buông phủ), trời tối người không nhìn rõ nhau nên phải cất tiếng nói tên).
Danh (chỉ tên khi còn nhỏ) phân biệt với tự (tên chữ được đặt khi trưởng thành),
hiệu (tên được đặt theo sở nguyện). 2. Danh nghĩa, danh dự, danh vọng. 3. Nổi
tiếng
(13) trái: Thuyết văn giải tự viết: Trái phụ dã. Tòng nhân trách, trách diệc thanh
(Trái chỉ tiền hoặc vật mình phải có trách nhiệm hoàn trả cho người khác, chữ hội
ý kiêm hình thành gồm nhân – người và trách – cầu tìm), trách còn chỉ âm). Hứa
Thận giải thích chữ trách: Trách cầu dã. Tòng bối sách thanh (Tách mang nghĩa
cầu tìm, gồm bộ bối chỉ ý và sách chỉ âm). Nghĩa mở rộng của trách yêu cầu, đòi
hỏi, trách nhiệm.
(14) tu: 1. ĐỒ ăn ngon hoặc dâng đồ ăn ngon. Trong Giáp cốt văn và Kim văn, chữ
tu có phần bên trái là bộ dương còn phần bên phải là bộ hựu, tay cầm thịt đê dâng
tiến. Đến Lệ thư và Khải thư, bộ hữu (tay) chuyển thành sưu chỉ âm. 2. Hổ thẹn, sỉ
nhục. Chu Dịch viết: Bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu (Không biết giữ đức tốt dài
lâu ắt có lúc bị người làm cho hổ thẹn). Từ đồng âm: tu (râu, chữ hội ý gồm sam –
râu và hiệt – đầu), tu (sửa cho đẹp hơn, gồm bộ sam chỉ ý và du chỉ âm), tu (râu,
chữ hội ý gồm tiêu – râu tóc và tu – râu)
(15) thính: 1. Trong Giáp cốt văn, thính là chữ hội ý gồm nhĩ – tai lắng nghe và
khẩu – lời nói, tai nghe lời nói. Từ Triện thư, chữ thính được bổ sung thêm đức
(viết lược nét) biểu nghĩa chuyên chú lắng nghe và đĩnh (viết lược nét) chỉ âm. 2.
Thuận theo. 3. Chờ đợi.
20
(16) gian: chữ hội ý gồm môn – cánh cửa và nhật – mặt trời, mặt trời soi vào ngôi
nhà, phiếm chỉ không gian. Trước Khải thư, chữ gian được viết …, bộ nhật thay
bằng bộ nguyên, hàm nghĩa đêm đóng cửa vẫn thấy trăng rọi qua khe cửa, nghĩa
gốc của gian chỉ khe cửa. Hứa Thận giải thích: Gian khích dã (Gian mang nghĩa
khe cửa)
(17) thuyết: Hứa Thận giải thích: Thuyết dịch dã. Tòng ngôn đoái. (Thuyết mang
nghĩa giải thích, chữ hội ý gồm bộ ngôn – lời nói và đoái – cao hứng, dùng thông
với duyệt, người nói phấn chấn khiến người nghe cảm thấy thuyết phục). Từ cùng
trường nghĩa: ngon, ngữ, luận, đàm, đạo
(18) Vũ Hầu: tên thụy của Gia Cát Lượng (181 – 234), tự là Khổng Minh hiệu là
Ngọa Long (cũng viết Phục Long) người Từ Châu (nay thuộc Sơn Đông, Trung
Quốc). ÔNg là Thừa ướng nhà Thục Hán thời Tam quốc, giỏi chính trị và quân sự,
đồng thời là tác gia tản văn và thư pháp.
So sánh:
Múa giáo non sông trải mấy thâu, Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao ngưu. Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ, Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
- Câu 1: “múa giáo” không thể hiện được tư thế anh hùng, vững chãi, đối diện
với non sông của người tráng sĩ
- Câu 3, 4: do hạn định bởi câu chữ - vật luật, bản dịch không thể hiện rõ mối
quan hệ biểu thị ý biện luận (vốn bị tỉnh lược) trong nguyên văn, thể hiện triết
lý sống, triết lý hành động của tác giả.

Bài 5:
Thiên Trường vãn vọng 天 長 晚 望

21
(Trần Nhân Tông 陳 仁 宗)
村 后 村 前 淡 似 煙, Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
半 無 半 有 夕 陽 邊. Bán vô bán hữu tịch dương biên.
牧 童 笛 裡 歸 牛 盡, Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
白 鷺 雙 雙 飛 下 田. Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch:
Ngắm cảnh Thiên Trường trong buổi chiều tà
Phía trước, phía sau thôn xóm, cảnh vật đều mờ ảo như sương khói phủ
Dưới bóng chiều tà, tất cả như nửa có nửa không (như thực như hư)
Trong (không gian bao trùm) của tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết
Cò trắng từng đôi từng đôi, bay sà xuống đồng
 Chỉ có một cái thôn ở đây thôi, tác giả nhìn ra đằng trước và đằng sau cái thôn
ấy. Câu thơ thể hiện một phương thức quan sát, nó thể hiện đôi mắt ông đang dõi
ra xa, chứ ông ấy không nhìn những thứ ngay phía gần. Ngay từ nhan đề có chữ
“vọng” 望 là ngóng xa rồi. Và cái nhìn xa ấy cho thấy ông đang muốn quan sát một
thế giới rộng lớn hơn, và đó là tầm nhìn của một nhà vua. Ông không chỉ quan tâm
đến cuộc sống nhỏ lẻ của cá nhân ông ấy, gia đình ông ấy, cuộc sống nhỏ lẻ của
những người xung quanh ông ấy mà ông muốn có một cái nhìn bao quát với đất
nước.
 Khi có cái nhìn bao quát đó, ông thấy đất nước thái bình “Mục đồng địch lý quy
ngưu tận/ Bạch lộ song song phi hạ điền”. Hình ảnh mục đồng thổi sáo, hình ảnh
từng đôi cò trắng liệng xuống đồng chính là khung cảnh thái bình. Đó không chỉ là
sự thái bình của ông ấy, sự thái bình của cái thôn đó mà là sự thái bình của đất
nước.
Minh giải:

22
- Thiên Trường 天 長: phủ Thiên Trường, quê hương của nhà Trần (nay thuộc
Nam Định). Tên cũ là hương Hải Thanh, hương Tức Mặc, đến Trần Thánh
Tông đổi là Thiên Trưởng. Phủ Thiên Trường gồm 4 huyện Nam Chân, Giao
Thuỷ, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên (tổng hợp theo An Nam chí lược và Đại Nam
nhất thống chí). Đời Trần cho xây ở Thiên Trường một hành cung (cung điện ở
ngoài kinh đô: hành cung ở Thiên Trường).
- Vãn vọng 晚 望: ngắm cảnh chiều. Vãn 晚: muộn, chiều muộn; vọng 望: xa
trông, xa ngắm.
- Đạm 淡: hơi nước bốc lên, mờ nhạt.
- Tự 似: giống như, tương tự, tựa hồ như…; tự yên 似 煙: như khói sương.
- Bán vô bán hữu 半 無 半 有 : dường như có, dường như không (hư hư thực
thực), mượn cách nói của nhà Phật.
- Tịch dương 夕 陽: mặt trời sắp lặn; bóng chiều tà.
- Biên 邊: bên rìa, bên cạnh, gần kề, tiếp giáp; ở đây có nghĩa sát ngay bên, ở liền
kề với bóng (bóng chiều tà)
- Mục đồng 牧 童: trẻ chăn trâu, chăn bò; đồng 童: trẻ con, nhi đồng. (
- Lí 裡: trong, bên trong; địch lí 笛 裡: trong âm thanh bao trùm của tiếng sáo.
- Bạch lộ 白 鷺: cò trắng
- Song song 雙 雙: từng đôi, từng đôi một.
[BỔ SUNG]:
(1) Thiên Trường: lộ Thiên Trường, quê gốc của nhà Trần, nay thuộc Nam Định
(2) đạm: Hứa Thận giải thích: Đạm bạc vị dã. Tòng thủy đàm thanh (Đạm chỉ vị
nhạt, gồm bộ thủy chỉ ý và đàm chỉ âm) Chữ còn đọc âm viêm, mang nghĩa nhiệt
độ cao, chữ hôi ý gồm hai bộ hỏa
(3) tự: tương tự, tương đồng… chữ hội ý gồm nhân – người, dĩ – đánh giá, người
được xem có nét tương đồng. Từ đồng âm: tự (tự bậc, gồm bộ phốc chỉ ý và dư chỉ
âm)
23
(4) yên: Hứa Thận giải thích: Yên hỏa khí dã. Tòng hỏa yên thanh. Yên hoặc tòng
nhân (Yên chỉ khói, gồm bộ hỏa chỉ ý và yên chỉ âm. Chữ yên dùng thông với chữ
yên – chữ hội ý gồm hỏa – lửa và nhân – nguyên nhân, hàm nghĩa khói sinh ra từ
lửa)
(5) biên. 1. Vùng đất xa xôi, chỗ địa phận nước này giáp nước kia, biên cương,
biên tái, biên giới, biên thùy… chữ hội ý gồm bộ sươc – chỉ ý đi đến miền xa và
miên (phần còn lại của chữ) mang nghĩa không nhìn được. 2. Ven bờ, giang biên
(bờ sông)
(6) đồng: Trong Giáp cốt văn và Kim văn, chữ đồng mang nghĩa nô lệ chịu tội, chữ
hội ý gồm tân (con dao, trừng phạt bằng dao), bộ mục (con mắt, nô lệ bị chủ dùng
dao đâm vào mắt) và đồng – viết lược chỉ âm. Hứa Thận phân biệt: Nam hữu tội
viết nô, nô viết đồng, nữ viết thiếp (Con trai có tội gọi là nô, nô dùng như chữ
đồng, nữ có tội gọi là thiếp). Đến Lệ Thư và Khải thư, chữ đồng chỉ trẻ em, gồm
bộ lập (người đang đứng) và lý (địa điểm), hàm nghĩa trẻ em được chăm sóc trong
nhà.
(7) quy 1. Con gái về nhà chồng, chữ hình thanh gồm các ký hiệu chỉ ý là bộ chỉ
(bước chân), chửu (Cái chốt, việc bếp núc của phụ nữ sau kết hôn) và phần còn lại
chỉ âm, dộc âm đôi. 2 Trở về. Từ đồng âm: quy (con rùa), quy (khuôn mẫu), quy
(dốc lòng tin)
(8) lộ: con cò, chữ hình thanh gồm bộ điểu chỉ ý và lộ chỉ âm. Lộ mang nghĩa là
con đường, chữ hội ý gồm túc – chân và các – người đi đến.
(9)
1. Đọc âm há: xuống phía dưới (Động từ)
2. Đọc âm hạ: phái dưới, chữ chỉ sự gồm nét nang và nét sổ biểu thị cho các trục
không gian, nét chấm tượng trưng các vật ở dưới.
So sánh:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
24
Bóng chiều dường có lại dường không
(Bóng chiều man mác có dường không)
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
- Câu 1: Nguyên văn chỉ có 1 cái thôn và sương khói bao trùm cả cái thôn ấy.
Bản dịch dễ gây hiểu nhầm là có 2 thôn / 2 xóm khác nhau
- Câu 2: từ “man mác” gợi nỗi buồn vốn không có trong nguyên tác
- Câu 3: cụm từ “sáo vắng” chưa thể hiện rõ ý của nguyên tác: cảnh đàn trâu đi
về trong âm thanh bao trùm của tiêng sáo

Bài 6:
CẢM HOÀI 感 懷
(Đặng Dung 鄧 容)
世 事 悠 悠 奈 老 何, Thế sự du du nại lão hà,
無 窮 天 地 入 酣 歌。 Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
時 來 屠 釣 成 功 昜,
Thời lai đồ điếu thành công dị,
運 去 英 雄 飲 恨 多。
致 主 有 懷 扶 地 軸,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
洗 兵 無 路 挽 天 河。 Trí chủ hữu tình (hoài) phù địa trục,
國 讎 未 復 頭 先 白, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
幾 度 龍 泉 戴 月 磨。 Quốc thù vị phục (báo) đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Dịch:
Việc đời (còn) dằng dặc/ ngổn ngang/ bề bộn, già rồi biết làm thế nào
Vô cùng trời đất rót cả vào/ trút cả vào/ thu cả vào khúc hát tràn đầy cảm hứng khi
say

25
Thời vận đến thì những kẻ câu cá, mổ lợn thành công cũng dễ dàng
Thời vận qua đi rồi thì bậc anh hùng uống nhiều hận (mà thôi)
Dốc hết sức phò chúa, có khát vọng (có tình cảm, ý nguyện) nâng trục của trái đất
(Mong muốn) Rửa giáp binh (nhưng) không có con đường nào kéo sông ngân hà
xuống
Thù nước chưa trả được (mà) mái đầu đã sớm bạc
Nhiều lần mang gươm báu Long Tuyền mài dưới trăng
Minh giải:
- Cảm hoài 感 懷: Lòng có cảm xúc, lòng chan chứa tình cảm:
 Chữ hoài 懷: hình ảnh là có con mắt và những giọt nước mắt rơi, chữ hoài
đồng nghĩa với nhiều chữ ở trong tiếng Hán, nó có thể đồng nghĩa với chữ
tình, niệm, ức, .... Nhưng nó có một hàm nghĩa riêng mà tất cả các chữ kia
không có. Chữ cổ của chữ hoài bao gồm: bộ y (trang phục) và chữ thế (nước
mắt rơi)  khi nói đến chữ hoài là nói đến nỗi nhớ, ý nguyện, cảm xúc
nhưng có ý niệm đau khổ khi nói về những điều đó. Tự thân chữ hoài đã
biểu hiện sự day dứt, đau đớn, bất đắc chí, cùng đường, đau khổ. Hoài không
phải là nỗi nhớ đơn thuần mà đó là nỗi nhớ khi chạm vào khiến ta bật khóc.
Và nếu nó là khát vọng thì không đơn thuần người ta bay bổng với khát
vọng của mình mà nó có gì đó trăn trở, day dứt, không trọn vẹn.
 Cảm hoài: là cảm xúc trước những khát vọng của mình, đó là những khát
vọng bị cùng đường, khát vọng không thành, khát vọng làm con người rơi
vào bi kịch
- Đồ điều 屠 釣: trong tài liệu có sai một chỗ “khai quốc công thần của nhà Lê”
 sửa thành “khai quốc công thần của nhà Hán”.
- Thế sự 世 事: việc đời, những việc mình đã trải qua rồi
- Du du 悠 悠: xuất hiện nhiều trong hán văn cổ, là từ điệp vận, thường tạo ra âm
hưởng, là điểm nhấn về ngôn từ. Du du trong các tác phẩm khác mang cái nghĩa
26
là thảnh thơi, rất thoải mái, không có gì để nghĩ ngợi cả, nhưng từ du du cũng
có nghĩa là ngổn ngang, bề bộn, trăm mối tơ vò. Từ cuộc đời của tác giả, chúng
ta không nên hiểu từ du du là thảnh thơi mà du du ở đây có nghĩa là trăn trở,
day dứt, ngổn ngang, bề bộn.
- Nại lão hà 奈 老 何 : là một câu hỏi trong thơ, người ta có day dứt, trăn trở,
muốn khác đi nhưng không được như thế. Dịch là: già rồi thì biết làm thế nào?
- Hàm ca 酣 歌: nghĩa gốc là khúc hát tràn đầy cảm hứng. Nhưng nhìn kĩ vào từ
hàm 酣, nó có bộ thủ là bộ dậu, có nghĩa là uống rượu say. Như vậy hàm ca là
khúc hát giàu cảm hứng khi người ta có hơi men trong đó. (Vô cùng trời đất rót
cả vào/ trút cả vào/ thu cả vào khúc hát tràn đầy cảm hứng khi say)
- Đồ điếu 屠 釣: Đồ là người giết mổ gia súc, đây chỉ Phàn Khoái, một tướng của
Hán Cao Tổ. Phàn Khoái vốn làm nghề giết mổ gia súc, sau nhà Tần đại loạn,
bèn theo Lưu Bang nổi dậy, góp phần dựng nên nhà Hán. Điếu là người câu cá.
Người câu cá ở đây là chỉ Hàn Tín, xưa làm nghề chài lưới, sau thành khai quốc
công thần của nhà Lê.
- Binh 兵: khí giới, dùng để đánh nhau, tham gia các cuộc chiến  Tẩy binh: rửa
giáp binh (không dùng đến nõ nữa)  là khát vọng của tác giả. Chỉ việc chiến
thắng mà xây dựng nền hoà bình, rửa giáp binh để cất đi.
- Thiên hà 天 河: Nghĩa đen là dòng sông trên trời, còn gọi là Ngân Hà, Ngân
Hán. Đây dòng sông được người xưa tưởng tượng dựa trên việc quan sát dải sao
lớn nằm cố định trên bầu trời. Câu này lấy ý từ đôi câu thơ của Đỗ Phủ: An đắc
tráng sĩ vãn Ngân Hà, Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng (Làm sao có được
người tráng sĩ kéo dòng Ngân Hà xuống/ Để rửa sạch giáp binh mãi không dùng
nữa). Ý chỉ việc lập lại hoà bình cho đất nước.
- Long tuyền 龍 泉: Còn có tên là Long Uyên 龍 淵, tên một thanh gươm quý
thời cổ của Trung Quốc. Tương truyền, hai bậc thầy luyện kiếm của Trung
Quốc thời cổ là Âu Trị Tử và Can Tương đã hợp tác đúc nên thanh kiếm này.
27
Thanh kiếm đúc xong nhìn như rồng lớn bay lên trời cao hay lượn xuống vực
sâu, vì vậy đặt tên là Long Uyên. Sau kị huý vua Đường Thái Tổ (Lý Uyên) nên
đổi tên thành Long Tuyền.
[BỔ SUNG]:
(1) Cảm: Hứa Thận giải thích: cảm động nhân tâm dã, Tòng tâm hàm thanh (Cảm
chỉ sự rung động tâm hồn con người, gồm bộ tâm – chỉ ý và hàm – chỉ âm). Chữ
hàm được phân tích: Hàm giai dã. Tất dã. Tòng khẩu tòng tuất. Tuất, tất dã (Hàm
mang nghĩa toàn bộ, chữ hội ý gồm khẩu – người và tuất – tất cả). Từ đồng âm:
cảm (bạo dạn, hình thể chữ trong Giáo cốt văn tượng hình bàn tay bắt thú dữ và
cam – chỉ âm)
(2) nhập: 1. Vào, đi vào. Thuyết văn giải tự viết: Nhập nội dã. Tượng tòng thượng
câu hạ dã (Nhập mang nghĩa từ ngoài vào trong, chữ tượng hình bên trên tiến nhập
vào bên dưới). 2. Nộp, nạp vào, nhận vào … Chiến quốc sách viết: Nhập kỳ xã tắc
chi thần vu Tần (Nột bề tôi của xác tắc của mình cho Tân)
(3) hàm: 1. Uống rượu vui thú. HỨa Thận giải thích: Hàm tửu lạc dã. Tòng dậu
tòng cam, cam diệc thanh (Hàm mang nghĩa uống rượu vui thích, chữ hội ý gồm
bộ dậu – bình rượu và cam – ngon ngọt, cam còn chỉ âm). Cam là chữ chỉ sự, chỉ
đặc tính ngọt ngào của vật ngậm trong miệng. 2. Vui thích, mặc sức, tha hồ. Từ
đồng âm: hàm (ngậm, gồm bộ khẩu – chỉ ý và kim – chỉ âm), hàm (đầu lưỡi, thuộc
loại chữ tượng hình), hàm (hàm thiết ngựa, chữ hội ý kim – kim loại và hành – đi)
(4) ca: 1. Ca vịnh, ngâm nga. Hứa Thận phân tích: Ca vịnh dã. Tòng khiếm ca
thanh (Ca mang nghĩa ca vịnh, gồm bộ khiếm – chỉ ý và ca – chỉ âm). CHữ ca ba
đầu chỉ là âm thanh nối tiếp nhau nên góp phần biểu nghĩa cho từ ca, sau chỉ huynh
trưởng. 2. Bài ca
(5) đồ điếu: nghề giết súc vật và nghề câu cá, những nghề không được coi trọng
trong xã hội. Hứa Thận giải thích chữ đồ: ĐỒ khô dã. Tòng thi giả thanh (Đồ mang
nghĩa giết mổ, gồm bộ thi – chỉ ý và giả - chỉ âm). Quan niệm khắc cho rằng, dồ là
28
chữ hội ý gồm thi – xác chết và thử - viết lược nét, đun nấu, con vật bị đem đun
nấu sau khi bị giết chết. Chữ điếu được giải thích: Điếu câu ngư dã. Tòng kim
chước thanh (Điều mang nghĩa câu cá, gồm bộ kim – chỉ ý và chước – chỉ âm).
Chước là chữ tượng hình dụng cụ múc rượu
(6)
1. Đọc âm dịch: thay đổi: Trong Giáp cốt văn, hình thể chữ dịch tượng hình bát
nước đang bị rót đi, nên thêm nghĩa cấp cho, ban cho. Đến Kim Văn, hình thể chữ
biến đổi không còn giống chiếc bát.
2. Đọc âm dị: dễ dàng, trái nghĩa với nan (khó khăn), Thành ngữ Tri dị hành nan
(Nhận thức dễ dàng những thực hiện gian nan)
(7) anh: 1. Hoa. Hứa Thận giải thích: Anh thảo vinh nhi bất thực giả. Tòng thảo
ương thanh (Anh chỉ cây ra hoa nhưng không có kết quả, gồm bộ thảo – chỉ ý và
ương – chỉ âm). 2. Vật tốc đẹp khác thường. 3. Người có tài năng hơn người.
(8) hùng. 1. Loài chím trống. Hứa Thận giải thích: Hùng điểu phụ dã. Tòng chuy
quăng thanh (Hùng chỉ loài chim trống gồm bộ chuy – chỉ ý và quăng – chỉ âm).
Quăng có nghĩa gốc chỉ cánh tay, hàm nghĩa về sự mạnh mẽ. 2. Người có tài năng.
Anh hùng: 1. Người có tài năng và phẩm hạnh hơn người. 2. Người quên mình,
không ngại gian nguy, vì lợi ích người khác mà cống hiến, được mọi người ngưỡng
mộ, tôn vinh
(9) ẩm: 1. Uống, chữ hội ý gồm bộ thực – ăn và bộ khiếm – tượng hình người há
miệng muốn ăn. 2. Đồ uống
(10) đa. Hứa Thận giải thích: Đa trùng dã. Tòng trùng tịch. TỊch giả, tương dịch
dã, cố vi đa (Đa là chữ hội ý gồm hai bộ tichj. TỊch chỉ đêm tối, mỗi ngày đều có,
có đến vô tận, cho nên mang nghĩa nhiều). Quan niệm khác cho rằng, đa tượng
hình hai miếng thịt, nên cũng mở rộng nghĩa chỉ đặc tính nhiều.
(11) trí: 1. Đến, dẫn đến. Thuyết văn giải tự viết: Trí tống nghệ dã. Tòng tuy tòng
chí (Trí mang nghĩa đi đến, chữ hội ý gồm tuy – bước chân đi đến và chí – tượng
29
hình mũi tên bắn rơi uống đất). 2. Cho, tặng, dâng, dốc hết tâm sức. Từ đồng âm:
trí (trí tuệ, chữ hội ý kiêm hình thành gồm nhật – sáng rõ và tri – biết, tri còn chỉ
âm), trí (xã tội, chữ hội ý gồm võng – lưới và trực – bãi bỏ)
(12) chủ: chữ tượng hình, nghĩa gốc chỉ ngọn nến cháy. Xưa kia, người giữ lửa
thường có vai trò rất quan trọng trong cộng đồng nên từ chủ chỉ chỉ chủ nhân
(13) phù 1. Bên trái. Hứa Thận giải thích: Phù tả dã. Tòng thủ phu thành (Phù
mang nghĩa bên trái, gồm bộ thủ - chỉ ý và phu – chỉ âm). 2. Nâng đỡ, sự giúp đỡ
(14) thù: 1. Lời đối đáp, chữ hình thành gồm bộ ngôn – chỉ ý và chuy – chỉ âm. 2.
Cừu thù, thù hạn. 3. So sánh, hiệu thù – đem bản sách ra so sánh xem có sai sót
không
Quốc thù: mối thù của đất nước. Lục Du đời Tống viết Trường ca hành: Quốc thù
vị báo tráng sỹ lão/ Kháp trung bảo kiếm dạ hữu thanh: Thù nước chưa trả xong,
tráng sỹ đã già/ Kiếm báu trong rương đêm đêm lại cất tiếng)
(15) tiên: chữ hội ý gồm phần trên là chỉ (hình thể chữ biến đổi, chỉ bàn chân) và
phần dưới là bộ nhân (người) biểu nghĩa đứng trước mặt người khác. Nghĩa mở
rộng chỉ thứ tự trước theo thời gian hoặc không gian.
(16) độ: 1. Tiêu chuẩn đo chiều dài, chữ hội ý kiêm hình thanh gồm bộ hựu – hàm
nghĩa dùng tay để đo và thứ - viết lược chỉ âm. Thứ cũng gia thêm ý nghĩa cho độ
vì thứ mang nghĩa nhiều người, đông đúc. Tiêu chuẩn thường có giá trị khi nhiều
người công nhận. 2. Lần, lượt. Từ đồng âm: độ - bến đò (gồm bộ thủy chỉ ý và độ
chỉ âm)
(17) Long Tuyền: kiếm báu, được gọi là Long Uyên nhưng do người Trung Hoa
thời Đường kiêng húy Đường Cao Tổ nên đổi thành Long Tuyền. Cũng có thuyết
cho rằng: Thời Tấn Huệ Đế, Vũ Quảng Hầu Trương Hoa nhìn thấy một luồng khí
màu tím trên trời. Ông lại biết được Lôi Hoán người đất Dự Chương giỏi xem thiên
văn khí tượng. Ông mới Lôi Hoán đến hỏi, Lôi Hoán thưa rằng: “Đó là tinh khí
bảo kiếm đất Long Thành xông lên tận trời”. Quãng Vũ bèn lệnh cho Lôi Hoán
30
làm huyện lệnh ở Long Thành để tìm bảo kiếm. Lôi Hoán đến huyện sai quạn nền
nhà ngục thấy một hộp bằng đá trong đựng hai thanh kiếm đều khắc chữ, một
thanh khắc chữ Long Tuyền, một thanh khắc chữ Thái A. Về sau, từ Long Tuyền
phiếm chỉ kiếm báu cũng chỉ tính quyết đoán trong hành động.
(18) ma: mài, chữ hình thanh gồm bộ thạch chỉ ý và ma – chỉ âm. Trong Hán văn,
bốn chữ thiết, tha, trác, ma nhận mạnh việc mài giũa các vật từ xương, sừng, ngọc,
đá để gia công thành đồ vật có giá trị. Những từ thiết, tha, trác, ma thường hàm
nghĩa nhấn mnahj sự chuyên cần trau dồi học vấn và đức hạnh. Thành ngữ: Sự hảo
đa ma (Sự việc tốt đẹp bởi có rèn luyện)
So sánh:
Việc tính chưa xong, tuổi vội già,
Vô cùng trời đất cuộc say ca.
Gặp thời đồ điếu công nên dễ,
Lỡ vận anh hùng dạ xót xa.
Giúp chúa muốn xoay vòng đất lại,
Rửa binh còn ngại nước trời xa.
Bạc đầu chưa giả xong thù nước,
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà
- Câu 1:
 nguyên văn là câu hỏi (nại lão hà), thể hiện được sự băn khoăn
 “việc tính chưa xong” chưa nói hết được hoàn cảnh của tác giả muốn nói
đến: việc đời còn ngổn ngang, bề bộn
- Câu 2: chưa nói rõ được việc trời đất vô cùng đều thu hết vào cuộc say ca, ý nói
tâm thế say sưa, có phần bi phẫn của tác giả
- Câu 4: “dạ xót xa” không nói hết được sự đau lòng, bi phẫn bằng “ẩm hận”
(uống nuốt nỗi hận)

31
- Câu 6: “ngại nước trời xa” không nói hết được cái thế tuyệt vọng như nguyên
bản “vô lộ vãn thiên hà” (không có lối kéo sông thiên hà)

Bài 7:
QUY HỨNG 歸 興
(Nguyễn Trung Ngạn 阮 忠 彥)
老 桑 葉 落 蠶 方 盡, Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
早 稻 花 香 蟹 正 肥. Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
見 說 在 家 貧 亦 好, Kiến thuyết: tại gia bần diệc hảo,
江 南 雖 樂 不 如 歸. Giang Nam tuy lạc bất như quy.
Dịch:
Cảm hứng muốn trở về
(Khi) cây dâu già lá rụng, tằm vừa mới hết
(Là lúc) lúa sớm tỏa hương, cua ở độ béo nhất
Trộm nghe rằng: ở nhà mình nghèo nhưng vẫn thích
Đất Giang Nam tuy vui (nhưng) cũng chẳng bằng về (nhà)
Minh giải:
- (1) quy hứng 歸 興: Cảm hứng muốn quay trở về (quê hương)
- (2) lão tang 老 桑 : Cây dâu già; còn có nghĩa khác là cây dâu cao (Nguyễn
Đăng Na). Đây muốn nói cây dâu lấy lá cho tằm ăn, hợp với ngữ cảnh câu thơ.
- (3) tảo đạo 早稻: Đạo chỉ lúa, thóc. Tảo đạo: nghĩa đen là lúa sớm, tức chỉ lúa
vụ chiêm hay còn gọi là vụ Đông Xuân (gặt vào tháng năm – âm lịch), để phân
biệt với vãn đạo (lúa muộn, lúa mùa, lúa vụ Hè Thu – gặt vào tháng mười – âm
lịch). Cũng có cách lý giải khác: Tảo đạo (lúa sớm) là lúa ba giăng (ba trăng)
(từ 90 đến 120 ngày) phân biệt với lúa thường (120 – 150 ngày), lúa muộn (150
– 170 ngày).
32
- (4) giải 蟹: Con cua, cua đồng.
- (5) kiến 見: Từ mang ý nghĩa bị động trong cấu trúc kiến + động từ (VD: kiến
thuyết = được nói cho biết; kiến tội: bị buộc tội/ chịu tội; …). Quả vậy, câu Tại
gia bần diệc hảo (Ở nhà nghèo vẫn tốt) đã từng xuất hiện nhiều trong thơ từ
Trung Hoa trước Nguyễn Trung Ngạn. Chẳng hạn, bài Trường An thu tịch của
Nhung Dục (740 – 800) có câu: Viễn khách quy khứ lai/ Tại gia bần diệc hảo
(Khách xa đến [kinh đô]/ Nhưng ở nhà nghèo cũng tốt) … Bài Thuỷ điệu ca của
Tân Khí Tật (1140 – 1207) cũng có câu: Tại gia bần diệc hảo/ Thử ngữ thí bình
chương (Ở nhà nghèo cũng tốt/ Câu này còn hơn chức Bình chương) …
Nguyễn Trung Ngạn đã đọc và tâm đắc với câu nói ấy nên đưa vào thơ mình.
- (6) Giang Nam 江 南 : Vùng đất nằm phía Nam sông Trường Giang, Trung
Quốc (gồm một số tỉnh như: Giang Tô, An Huy, Giang Tây…), là vùng đất trù
phú, sầm uất, phong cảnh hữu tình, có nhiều địa điểm và thú vui để thưởng
ngoạn (như Tô Châu, Hàng Châu…).
- (7) lạc 樂: Vui vẻ. Có người đọc là nhạo (vui với, thích) do có cách đọc này
trong Hán văn, chẳng hạn: Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ (Người nhân thì
vui với núi non/ Người trí thì vui với sông nước). Điều này khiến cho câu thơ
thêm đa nghĩa, nhưng ý chính vẫn là: Ở Giang Nam tuy vui vẻ, thích thú nhưng
chẳng bằng về nhà. Thơ Lý Bạch có câu: Cẩm Thành tuy vân lạc/ Bất như tảo
quy gia" (Cẩm Thành tuy nói là vui, nhưng không bằng sớm về nhà).
[BỔ SUNG]:
(2) tang: Hứa Thận giải thích: Tang tàm sở thực diệp mộc. Tòng nhược mộc (Tang
chỉ cây dâu, lá có thể cho tằm ăn, chữ hội ý gồm nhược (hội ý ba bộ hựu) chỉ bàn
tay thu hoạc và bộ mộc – cây). MỘt số từ ghép: tang bộc (kẻ dâm đãng), tang tử
(quê nhà), tang du (ngày sắp tàn hoặc tuổi già)

33
(3) tàm: con tằm, chữ hình thành gồm hai bộ trung bên dưới chỉ ý và phân trên là
tiềm (viết lược) chỉ âm. Từ đồng âm: tàm (hổ thẹn, gồm bộ tâm chỉ ý và trảm chỉ
âm)
(4) đạo: Thuyết văn giải tự viết: Đạo đồ dã. Tòng hòa yểu thanh (Đạo chỉ lúa nếp,
gồm hòa chỉ ý và yểu chỉ âm) Chữ yểu cũng gia tăng sự biểu nghĩa vì tính hội ý từ
bàn tay (bộ trảo) cầm chiếc cối (bộ cữu) để thu nhặt gạo Từ đồng âm: đạo (dẫn
đường, chữ hội ý kiêm hình thanh gồm đạo (con đường) và thốn (tay), đạo còn chỉ
âm), đạo (giẫm đạp, gồm bộ túc chỉ ý và yểu chỉ âm)
(5) hương. Hứa Thận giải thích: Hương phương dã. Tòng thử tòng cam (Hương chỉ
hương thơm, chữ hội ý gồm thử - lúa nếp và cam – thơm ngon). Trên hình thể văn
tự hiện tại, hương là chữ hội ý gồm bộ hòa – bông lúa và nhật – ánh mặt trời, bông
lúa sinh trưởng dưới ánh mặt trời, trĩu bông và tỏa hương thơm ngát cánh đồng. Từ
đồng âm: hương (làng quê, hình thể chữ ban đầu tượng hình hai người cùng ăn và
ở giữa là đồ ăn)
(6) giải: con cua, chữ hình thanh gồm bộ trung – chỉ ý và giải – chỉ âm. Giải (phân
tác) là chữ hội ý gồm giác – sừng thú, đao – dao, ngưu – con trâu
(7) chính: 1. Đi xa, chữ hội ý gồm nét ngang – biểu thị cho cương vực bước đến và
chỉ - bước chân. 2. Ngay thẳng, không nghiêng lệch, đối lập với tà. Từ đông âm:
chính (làm theo phép tắc cho ngay thẳng, chữ hội ý gồm bộ phốc – roi trừng trị và
chính – ngay thẳng)
(8) phù: 1. Béo ngậy, chữ hội ý gồm bộ nhục – chỉ thịt và ba – con rắn to, hàm
nghĩa to bép. 2. Đầy đủ, thừa thãi.
(9) tại: Hứa Thận giải thích: Tại tồn dã. Tòng thổ tài thanh. (Tại mang nghĩa tồn
tại, gồm bộ thổ - chỉ vạn vật tồn tại trên mặt đất và tài – chỉ âm). Chữ tài – tượng
hình mầm cây nên cũng gia tăng ý nghĩa tồn tại trong chữ tại
(10) diệc: Thuyết văn giải tự viết: Diệc nhân chi tí diệc dã (Diệc mang nghĩa cánh
tay). Chữ diệc là chữ tượng hình, sau làm phó từ chỉ sự tăng tiến, lặp lại
34
(11) hảo: Hứa Thận viết: Hảo mỹ dã. Tòng nữ tử (Hảo mang nghĩa đẹp, chữ hội ý
gồm bộ nữ - phụ nữ và tử - trẻ nhỏ, phụ nữ và trẻ em thường có dung mạo đẹp).
Quan niệm khác cho rằng chữ “hảo” chỉ điều tốt lành, thể hiện quan niệm người
phụ nữ phải sinh được con trai
(12) Giang Nam: Trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, địa phận Giang Na, cũng
khoogn tương đồng. THời cổ đại, Giang Nam được gọi là Ngô Sở. Sau đó, theo sự
nam tiến của Trung Nguyên, Giang Nam trở thành một khu vực kinh tế trù phú,
văn hóa giáo dục phát triển. Giang Nma trở thành biểu tượng cho cuộc sống phần
vinh lý tưởng trong mắt người dân Trung Hoa, được ca tụng là thế ngoại đào
nguyên.
(13) tuy: Hứa Thận giải thích: Tuy tự tích dịch nhi đại. Tòng Trùng duy thanh.
(Tuy chỉ loài vật giống thằng lằn nhưng to hơn, gồm bộ trung chỉ ý và duy viết
lược chỉ âm). Về sau, chữ tuy làm hư từ.
So sánh:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê.
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt,
Dầu vui đất khách chẳng bằng về.
- Câu 1: nguyên văn là “tằm vừa mới hết” chứ không phải “vừa chín”  dâu đã
già, tằm cũng không còn nuôi nữa mà chuyển qua giai đoạn làm thơ
- Câu 4: bản dịch làm mất đi địa danh Giang Nam – nơi mà tác giả đang đi qua
 người đọc sẽ không hiểu câu 1, câu 2 là nói đến cảnh sắc, sản vật ở Giang
Nam

Bài 8:
CÔN SƠN CA 崑 山 歌

35
(Nguyễn Trãi 阮 廌)
崑 山 有 泉, Côn Sơn hữu tuyền,
其 聲 冷 冷 然, Kỳ thanh linh linh nhiên,
吾 以 為 琴 弦. Ngô dĩ vi cầm huyền.
崑 山 有 石,
Côn Sơn hữu thạch,
雨 洗 苔 鋪 碧,
Vũ tẩy đài phô bích,
吾 以 為 簟 席.
Ngô dĩ vi điệm tịch.
岩 中 有 松,
Nham trung hữu tùng,
萬 蓋 翠 童 童,
Vạn cái thuý đồng đồng,
吾 於 是 乎 偃 息 其 中.
林 中 有 竹, Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.

千 畝 印 寒 綠. Lâm trung hữu trúc,


吾 於 是 乎 吟 嘯 其 側. Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc.
Dịch:
Côn Sơn có suối
Tiếng của nó róc rách róc rách vậy
Ta lấy làm dây đàn (đàn cầm)
Côn Sơn có đá
Mưa rửa sạch rêu, (làm) phơi ra màu xanh biếc
Ta lấy làm nệm để ngồi và chiếu để nằm
Trong núi có cây tùng (cây thông)
Hàng vạn tán cây xanh che từng khoảng, từng khoảng
Ta bèn nằm khểnh ra (mà) nghỉ ngơi ở trong tán cây ấy
Trong rừng có trúc
Hàng nghìn mẫu in một màu xanh mát

36
Ta bèn tiếng nhỏ tiếng to (ngâm ngợi) hát ở bên cạnh đó
Minh giải:
- Nhan đề “Côn Sơn ca” 崑 山 歌:
 Côn Sơn: tên địa danh. Côn Sơn 崑 山: Núi, nay ở phường Cộng Hoà, thị xã
Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là danh lam thắng cảnh của nước ta. Từ thời
Trần, đây đã là một trong những nơi được lựa chọn để các nhà sư, nhà nho
ẩn dật hoặc tu hành. Đặc biệt, cuối thời Trần, Trần Nguyên Đán đã chọn Côn
Sơn làm nơi nghỉ ngơi, ẩn dật. Nguyễn Trãi cũng gắn bó nhiều với nơi đây
nên khi về già ông chọn Côn Sơn làm nơi lui về vừa nghỉ ngơi vừa làm việc.
 Ca: tên một thể loại, về mặt ngôn từ đó là thơ tự do; thông thường nó được
diễn xướng cùng với âm nhạc
 Trong bài thơ này, thể loại không chỉ có giá trị về mặt hình thức (thơ tự do)
mà nó còn có giá trị về mặt nội dung: nó thể hiện tinh thần tự do, một tinh
thần thoát khỏi những trói buộc để tìm một cuộc sống tự do, tự tại, thoải
mái, phóng túng, không bị nhưng o ép, ràng buộc, những tiết chế nó giam
hãm.
 Có thể dịch: Bài ca Côn Sơn
- Trong tiếng Hán, họ phân biệt rất rõ “âm” và “thanh”:
 Âm 音: là tiếng do vật phát ra, dưới có bộ viết 曰 để chỉ thứ ở trong miệng
nói ra
 Thanh 聲: là tiếng do tai nghe được, cho nên chữ này có bộ nhĩ 耳 để chỉ cái
tai
 Cho nên, âm thường đi với thanh: sau khi vật phát ra tiếng thì người nghe
được thì gọi là “âm thanh”. Nhưng cũng có lúc có âm nhưng không có
thanh, có thanh nhưng không có âm (VD: ơ ai gọi tôi đấy?)

37
 Trong ngữ cảnh này, Nguyễn Trãi dùng chữ thanh, nghĩa là cái mà ông ấy
nghe thấy và cái ấy chịu sự chi phối của chủ quan người nghe chứ không
còn là khách quan của sự vật nữa. Cho nên, thứ mà Nguyễn Trãi nghe được
là thứ được phát ra từ suối nhưng chịu sự chi phối cảm xúc của tác giả và khi
chịu sự chi phối như vậy thì sự chi phối đó nó sẽ tác động vào nhận thức của
ông ấy đối với cái âm. Cho nên cùng một bản nhạc có người nghe thấy buồn
bởi nó gợi lại những cảm xúc và kỉ niệm đau buồn, có người nghe lại thấy
vui nhưng cũng có người nghe lại chẳng có cảm xúc gì. Cho nên cái “thanh”
của mỗi một người là không giống nhau, mặc dù cùng một “âm”.
 Trong câu này, hai chữ “linh linh” không chỉ miêu tả tiếng suối róc rách đâu,
mà còn gợi ra cảm giác rất trong trẻo, tươi sáng. Chúng ta đã cảm nhận được
cảm xúc của nhà văn cũng trong trẻo, tươi sáng như vậy.
- Nhiên 然: hư từ, đóng vai trò sắc thái hóa, có thể dịch là “như vậy”
 Tự nhiên: tự nó như vậy
 Thiên nhiên: trời sinh ra như vậy
- Phô 鋪: nên dịch là phơi
 Chữ bày mang tính chất là sắp đặt
 Chữ phô mang tính chất là gây sự chú ý
- Cái 蓋: tán tre, tán cây
- Thúy 翠 : ở trên có bộ vũ để chỉ về lông cánh, vốn để chỉ lông cánh của con
chim trả, sau này để chỉ màu xanh cánh trả
- Đồng đồng 童 童: có cách dịch là che từng khoảng từng khoảng, tức là khi mà
ánh nắng chiếu xuống, nó gặp tán cây tạo thành bóng râm, những bóng râm đó
che từng khoảng từng khoảng thôi vì cây thông là loài cây lá kim, cho nên nó
khong xòe hết để mà che như cái khu rừng rậm được, sẽ có chỗ ánh sáng dễ lọt
qua.

38
- Ngâm 吟 : vốn là từ để chỉ tiếng kêu của con rồng (long ngâm). Theo truyền
thuyết, tiếng kêu của rồng vang dài nhưng thấp (trường độ thì dài nhưng cao độ
thì thấp). Cho nên sau này được chuyển sang nghĩa để chỉ ngâm thơ, vì khi
ngâm nó dài và thấp nên có khi người ta dịch là rên rỉ.
- Khiếu 嘯: lại là động từ miêu tả tiếng con vượn, con khỉ hú, tiếng nó vang và
cao lanh lảnh.
 Ngâm khiếu 吟 嘯: nghĩa đen dùng để mô tả tiếng kêu của các con vật, những
tiếng khi thì trầm dài, khi thì vang cao. Từ 2 động từ miêu tả tiếng động vật đó,
tác giả sử dụng để miêu tả tiếng của chính mình. Đó là tiếng ông ấy hát, lúc thì
trầm dài, lúc thì vang cao, tiếng nhỏ tiếng to, tùy theo cảm xúc. Ngâm khiếu ở
đây mô tả hành vi của chính tác giả, thể hiện cuộc sống tự do tự tại (ở trong
hình thái của hoạt động và ngay trong xúc cảm, tùy theo cảm xúc của mình).
So sánh:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
- Sự thay đổi về thể thơ: thể ca mang tính tự do, câu dài ngắn khác nhau, vần linh
hoạt  thể lục bát, âm điệu du dương, uyển chuyển, liền mạch hơn. Nhưng đã
làm thay đổi âm điệu bài thơ. Nguyên tác nghe trúc trắc, gân guốc hơn, chắc
nịch hơn, thể hiện cái khí khái, cái bi phẫn, u uất mà quyết liệt của tác giả khi
lựa chọn cho mình con đường về ẩn dật ở Côn Sơn. Bản dịch thơ lục bát nhẹ

39
nhàng, thi vị hơn, gợi ra cái ung dung của tác giả nhưng làm mất đi cái chiều
sâu tâm trạng của Ức Trai.
- Câu 2: bản dịch biến thành lời so sánh, nguyên tác mang tính khẳng định “Ta
lấy làm dây đàn (đàn cầm)” thể hiện sự dứt khoát của tác giả (câu 4 tương tự)
- Câu 6, 8: nguyên tác nhấn mạnh “ta nhân đó/ ta bèn, ...”; bản dịch thơ không
giữ được ý này mà chỉ nêu hiện tượng “tìm nơi bóng mát ...” như vậy làm giảm
phần nào cái ý Nguyễn Trãi nhấn mạnh: ông dựa vào tự nhiên để sinh hoạt,
dùng cái có sẵn trong tự nhiên.

Bài 9:
ĐỘC TIỂU THANH KÝ 讀 小 青 記
(Nguyễn Du 阮 攸)
西 湖 花 苑 盡 成 墟, Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
獨 吊 窗 前 一 紙 書. Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
脂 粉 有 神 憐 死 後, Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
文 章 無 命 累 焚 餘.
Văn chương vô mệnh lụy Phần dư
古 今 恨 事 天 難 問,
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
風 韻 奇 冤 我 自 居.
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
不 知 三 百 餘 年 後,
Bất tri tam bách dư niên hậu,
天 下 何 人 泣 素 如.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch:
Vườn hoa Tây Hoa đã không còn nữa nên trở thành bãi hoang
Một mình ta thương xót (nàng) ở trước cửa sổ cùng một tờ giấy
Son phấn có thần (cho nên) vẫn gợi sự xót thương sau khi đã chết
Văn chương không có mệnh nhưng vẫn liên lụy đến phần cháy dở

40
Những chuyện đáng căm giận từ xưa đến nay, trời cũng khó hỏi
Nỗi oan uổng kì lạ của những người phong lưu mà có tài thơ văn, ta tự mình
gánh lấy
Không biết hơn 300 năm sau
Liệu có ai trong thiên hạ khóc Tố Như chăng?
Minh giải:
- Tiểu Thanh 小 青:
 được coi như tên của một cô gái, tương truyền (câu chuyện có từ thời Minh
cô rất xinh đẹp, giỏi thơ văn nhưng số phận hẩm hiu, phải làm lẽ, sau này bị
vợ cả ghen tuông, đầy ra sông ở Cô Sơn, sau này chết trong cô độc. Sau khi
cô ấy chết, vợ cả để xóa đi hình bóng của cô trong trái tim, trí nhớ của chồng
thì tất cả những gì liên quan đến cô thì vợ cả hủy tất, trong đó có cả những
tập thơ cả của cô ấy bị đem đi đốt. Lúc tập thơ ca của cô bị đốt, tình cờ có
người đi ngang và dập lửa đi, nhặt lại phần chưa cháy hết và đọc lên thì thấy
những vần thơ ấy đầy xúc cảm, đầy tâm sự của một con người khao khát yêu
thương nhưng phải chịu số phận hẩm hiu, cho nên người này mới đem thơ ca
của cô ấy đi tuyên truyền cho người khác đẻ truyền tai nhau đọc. Cái chỗ thơ
còn sót lại sau khi bị đốt người ta gọi là Phần dư cảo (phần: đốt, dư: sót lại).
Phần dư đó sau này được một số nhà thơ nhà văn chép lại và kể về cuộc đời
của cô ấy.
 Người ta cho rằng thực ra không có nàng Tiểu Thanh, những người làm thơ
văn họ tự sáng tác ra nàng mà thôi. Các văn nhân đã đặt tên cho nhân vật của
mình một cách đầy ý tứ, ghép hai chữ tiểu 小 và thanh 青 lại thành chữ tình
情. Các văn nhân đã dùng phương pháp chiết tự, tách chữ “tình” ra để tạo
nên nhân vật đầy phong tình nhưng cũng có số phận bi kịch
 Nàng Tiểu Thanh có bi kịch. Hai chữ Tiểu Thanh vừa để chỉ một nhân vật
có thật, nhưng cũng có thể để chỉ một nhân vật hư cấu do nhà văn sáng tạo
41
ra. Nhưng dù có thật hay không thì nàng vẫn tồn tại trong lịch sử văn học
Trung Quốc và hình tượng ấy cũng lan tỏa ra các nước xung quanh như Việt
Nam với tư cách như là một nhân vật biểu trưng cho một tấn bi kịch. Tấn bi
kịch đó được gói gọn trong cụm từ “tài mệnh tương đố” và “sắc mệnh tương
đố”. Tiểu Thanh có cả tài và sắc vì vậy đứng trước 2 bi kịch trên như là 1
nhân sinh quan hết sức bi quan của những con người sống trong thời đại
loạn lạc thì bản thân Nguyễn Du cũng đã đồng cảm, chia sẻ với cái bi kịch
này. Ông tìm được ở nàng Tiểu Thanh một sự tương liên, tương đồng, chia
sẻ.
- Tây Hồ 西 湖: Một hồ lớn ở phía tây thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang,
Trung Quốc, còn có tên là hồ Tây Tử. Đây là một địa điểm nổi tiếng với nhiều
cảnh đẹp và cũng gắn với tên tuổi và sự tích của nhiều nhân vật nổi tiếng của
Trung Quốc như Cát Hồng, Nhạc Phi, Võ Tòng… Nhiều văn nhân tài tử cũng
đã đến đây và để lại không ít tác phẩm văn học có giá trị.
- Song tiền 窗 前: Trước song cửa sổ. Đây hẳn chỉ không gian nhà thơ ngồi viết
thơ để viếng Tiểu Thanh.
- Nhất chỉ thư 一 紙 書: Viết chữ (thư) trên một tờ giấy (nhất chỉ), ý nói làm bài
thơ này để điếu nàng Tiểu Thanh.
- Chi phấn 脂 粉: Son và phấn, chỉ nhan sắc người phụ nữ. Đây chỉ nhan sắc nói
riêng và số mệnh của Tiểu Thanh nói chung.
- Phần dư 焚 餘: Tên phần thơ còn sót lại của Tiểu Thanh sau khi bị đốt, tên đầy
đủ là Phần dư cảo 焚 餘 稿
- Phong vận 風 韻: Hình dung đẹp đẽ, thanh nhã (thường chỉ phụ nữ). Cũng để
chỉ tình thú, phong cách của thơ văn, thư hoạ. Đây chỉ những người vừa thanh
tú, văn nhã vừa có tài thơ văn.
- Tam bách dư niên 三 百 餘 年: Thời gian tính từ lúc Tiểu Thanh sống (theo tư
liệu ghi chép) cho đến thời điểm Nguyễn Du viết bài thơ. Theo một số tư liệu ở
42
Trung Quốc, Tiểu Thanh sống vào đầu triều Minh (1368 – 1644), cụ thể là
khoảng cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Tính đến thời điểm Nguyễn Du viết bài
thơ (được đoán định là cuối thế kỷ XVIII) là hơn 300 năm.
- Tố Như 素 如: là tên chữ của Nguyễn Du, hiệu là Thanh Hiên
So sánh:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
- Câu 2: “Thổn thức bên song” không nói được hoàn cảnh viếng Tiểu Thanh của
tác giả: viếng một mình (độc điếu song tiền)
- Câu 3: “chôn vẫn hận” (sau khi chết, nỗi hận vẫn còn) không nói được ý của
Nguyễn Du: sắc đẹp của nàng sau khi chết vẫn khiến người ta thương xót
- Câu 4: “đốt còn vương” chưa nói được ý tác giả: văn chương của nàng không
may mắn nên chỉ còn tập Phần dư
- Câu 6: “khách tự mang” chưa làm nổi bật cách tác giả xưng hô: tôi (ngã).

Bài 10:
MỘ 暮
(Hồ Chí Minh 胡 志 明)
倦 鳥 歸 林 尋 宿 樹, Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
孤 雲 慢 慢 渡 天 空. Cô vân mạn mạn độ thiên không.

43
山 村 少 女 磨 包 粟, Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
包 粟 磨 完 爐 已 烘. Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch:
Con chim mỏi trở về rừng tìm cái cây để nghỉ qua đêm
Chòm mây lẻ loi chầm chậm bay ngang bầu trời
Cô bé xóm núi xay ngô
Ngô xay xong hết, lò than đã cháy lên
Minh giải:
- Mộ 暮: chiều tối, lúc trời bắt đầu tối rồi (chữ hình thanh)
 Ở trên là âm đọc, đọc là mạc 莫
 Ở dưới là bộ nhật 日 để chỉ mặt trời
 Mộ chỉ lúc mặt trời đã lặn hết (nhưng chưa đi hẳn vào đêm, dù mặt trời đã
lặn hết nhưng hồi quang của mặt trời vẫn còn phản xạ trên khuông trời)
- Túc 宿: có thể dịch là nghỉ nhưng mà là nghỉ qua đêm, chứ không nên hiểu đó
chỉ là nghỉ ngơi (com chim bay mỏi dừng lại nghỉ ngơi một chút sau đó lại bay
tiếp). Từ Hán Việt: tá túc
- Thiếu nữ 少 女: cô bé (ở trong độ tuổi thiếu niên). Nguời Trung Quốc dùng chữ
thiếu 少 để chỉ tuổi nhỏ (thiếu niên), còn ở độ tuổi thanh niên người ta sẽ gọi là
“thanh nữ”  tránh cách hiểu theo kiểu tình cảm nam nữ, không có chuyện Bác
gắm một cô gái xinh đẹp mà chỉ đơn giản đây là một cô bé ở sơn thôn – một
chốn làng quê hẻo lánh.
- Sơn thôn 山 村 : Nếu theo nghĩa gốc sơn thôn là những cái thôn ở trên núi,
nhưng mở rộng nghĩa ra là thôn làng hẻo lánh.
- Hồng 烘: nhiều người hiểu chữ “hồng” này theo nghĩa là cái màu sắc (gần với
màu đỏ) là sai. Đúng là trong tiếng Hán có một từ “hồng” chỉ màu đỏ nhưng
chữ “hồng” ở đây có nghĩa là đốt, là cháy lên. Cái mà tác giả mô tả là một cái

44
bếp lửa đang bùng cháy, không chỉ miêu tả ánh sáng mà còn miêu tả cái nguồn
gốc của cái ánh sáng đó.
So sánh:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng
- Câu 3: “thiếu nữ” >< “bé gái” (phân biệt với thanh nữ)
- Câu 4: “hồng” để chỉ hoạt động đốt, thắp >< bản dịch: tính từ chỉ màu sắc

Bài 11:
VỌNG NGUYỆT 望 月
(Hồ Chí Minh 胡 志 明)
獄 中 無 酒 亦 無 花, Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
對 此 良 宵 奈 若 何? Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
人 向 窗 前 看 明 月, Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
月 從 窗 隙 看 詩 家.
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Dịch:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Đứng trước cảnh đêm trăng đẹp này biết làm thế nào?
Người hướng ra phía trước ô cửa sổ ngắm trăng sáng
Trăng theo đến khe cửa sổ ngắm nhà thơ
Minh giải:
- (1) vọng 望: ngóng trông, đợi chờ; ngắm nhìn từ xa.
- (2) ngục 獄: nhà tù, nhà lao; ngục trung 獄 中: trong tù, trong lao.
- (3) diệc 亦: cũng, cũng lại (nhấn mạnh).
45
- (4) đối 對: đứng trước, đối với, hướng về.
- (5) thử 此: này, đây; đối với bỉ: kia, đó.
- (6) lương 良: tốt lành, ở đây có nghĩa là đẹp.
- (7) tiêu 宵: đêm trăng; trăng rằm.
- (8) nại nhược hà 奈 若 何: biết làm thế nào (cho đúng, cho phải, cho phù hợp).
- (9) hướng 向: hướng ra, hướng tới; phía trước mặt.
- (10) tòng 從: từ, xuất phát từ; theo, đi theo, theo đến, theo tới.
- (11) khích 隙: khe, khe hở; song khích 窗 隙: khe cửa
- (12) Khích 隙: cái khe (chữ hội ý):
 Bên trái là bộ phụ 阜 để chỉ gò, đống, nó có khả năng trở thành những
chướng ngại, những vật cản
 Bên phải ghép bởi hai bộ phận phía trên và phía dưới là 2 chữ tiểu biểu thị ý
nghĩa rất là nhỏ, ở giữa hai chữ tiểu có một bộ phận tương đương với chữ
bạch 白 (màu trắng) nhưng cũng có thể coi là hình vẽ, vẽ một lỗ hổng mà
ánh sáng có thể lọt qua. Nhưng ánh sáng này rất nhỏ mà lại hẹp và dài.
 Ánh sáng lọt qua khe không thể thuận lợi như ánh sáng qua ô cửa sổ, nhưng
chỉ 1 khe bé ấy thôi cũng đủ để nhà thơ và ánh trăng tìm đến với nhau
So sánh:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
- Câu 2: nguyên văn là câu hỏi về cách ứng xử với trăng: không thể hững hờ với
cảnh đẹp đêm nay
- Câu 3, 4: nguyên văn sử dụng 4 động từ đối với nhau: người (chủ động) hướng
ra bên ngoài để ngắm trăng; trăng (chủ động) theo tới khe cửa để ngắm người.

46
Bài 12:
NGUYÊN TIÊU 元 宵
(Hồ Chí Minh 胡 志 明)
今 夜 元 宵 月 正 圓, Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
春 江 春 水 接 春 天. Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
煙 波 深 處 談 軍 事, Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
夜 半 歸 來 月 滿 船.
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Dịch:
Trăng rằm tháng giêng
Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn đầy,
Sông xuân, nước xuân, tiếp liền với trời xuân.
Ở nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân,
Nửa đêm quay về trăng (tràn xuống) ăm ắp đầy thuyền.
Minh giải:
- (1) nguyên tiêu 元 宵: Rằm tháng giêng âm lịch; nguyên 元: đầu tiên, tiêu 宵:
đêm
- trăng.
- (2) chính 正: ở đây là phó từ, có nghĩa là vừa đúng, vừa vặn, đúng lúc.
- (3) viên 圓: tròn, tròn đầy, viên mãn.
- (4) yên ba 煙 波: khói sóng; trong thơ cổ, yên ba tả cảnh sương mờ toả xuống
tiếp
- giáp với sóng nước của dòng sông.
- (5) thâm xứ 深 處: ở đây có nghĩa là nơi kín đáo.
- (6) mãn 滿: tràn đầy, ăm ắp.
So sánh:
47
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
- Câu 1: nguyên văn nhấn mạnh thời điểm “nguyệt chính viên” (trăng vừa đúng
độ tròn đầy)  nói về vẻ đẹp của sự vận động, vẻ đẹp bên trong
- Câu 2: nguyên văn có 3 từ “xuân” làm định ngữ cho danh từ, nhấn mạnh sức
xuân, vẻ xuân, khí xuân, ... của thiên nhiên
- Câu 3: “thâm xứ” gợi cảnh heo hút, bí mật, vắng lặng
- Câu 4: nguyên văn “mãn” được dùng như động từ (trăng tràn xuống làm ăm ắp
con thuyền).

BIỀN VĂN

BÀI 1
THIÊN ĐÔ CHIẾU 遷 都 詔
(Lý Thái Tổ 李 太 祖)
Vài nét khái quát
Lý Thái Tổ (974-1028) tên là Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của triều Lý (1009 –
1225). Ông là người huyện Từ Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), ông là người
thông minh, nhân ái, chính trực; có công dẹp loạn, phát triển kinh tế, văn hóa đất
nước, có công lớn trong việc lập ra triều Lý – mở ra một thời kì thái bình thịnh
trị lâu dài cho dân tộc. Mùa thu (tháng 7) năm 1010 Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư
ẩm thấp chật hẹp, không tiện cho giao thông bèn viết chiếu dời đô từ Hoa Lư về
Đại La (sau đổi thành Thăng Long). Việc dời đô trên chứng tỏ nhà Lý không chỉ
chú ý đến mặt quân sự như các triều đại trước mà đã bắt đầu chú ý đến sự phát
triển chính trị, kinh tế và văn hóa, đặc biệt là chú ý đến việc củng cố hậu phương,
48
cố gắng với tay tới các địa phương rộng lớn, tạo điều kiện để củng cố và mở rộng
chính quyền phong kiến dân tộc. Rõ ràng việc dời đô này có ý nghĩa lịch sử to
lớn: cho thấy tầm vóc và vị thế của triều đại mới, lịch sử dân tộc sang trang mới.
Thiên đô chiếu: đây là một tác phẩm thuộc văn học chức năng nhưng giàu tính
nghệ thuật. Đây là một áng văn chính luận nổi tiếng, có giá trị ở nhiều phương
diện: lịch sử, văn hóa, chính trị, văn học, ... Tác phẩm khẳng định được tinh thần
độc lập – tự chủ dân tộc một cách sâu sắc. Bố cục bài chiếu chặt chẽ, có thể chia
thành hai phần: phần thứ 1 nêu cơ sở thực tiễn lịch sử của việc dời đô, lý do phải
dời đô khỏi Hoa Lư (Đoạn I); phần 2 nêu lý do chọn kinh đô ở Đại La, thể hiện ý
nguyện của cá nhân tác giả và trưng cầu ý kiến thần dân (Đoạn II). Bên cạnh đó,
lập luận của bài chiếu khúc chiết, phong khí mạnh mẽ, thể hiện được nghệ thuật
biến ý chí của mình thành khát vọng của toàn dân.
Tri thức thể loại
Chiếu còn gọi là “chiếu thư”, “chiếu chỉ”, “chiếu lệnh”, “chiếu bản”, là lời ban
bố mệnh lệnh của vua chúa xuống thần dân và được đón nhận một cách trang
trọng. Chiếu là thể văn hành chính thường là do nhà vua ban bố (trong những
hoàn cảnh nhất định có thể là người có địa vị cao trong hoàng tộc, trong triều
đình ban bố như: Thái hậu, Hoàng tử, Hoàng hậu, ...). Trong quá trình phát triển
của thể chiều sau này, sang đến Việt Nam có những người họ tự làm ra chiếu,
mặc dù họ là dân thường thôi nhưng đó là việc mà họ chơi đùa. Còn thực chất,
thể chiều là thể văn hành chính, gắn với nhà nước, dùng để thông báo một công
việc đã thực hiện hoặc sẽ diễn ra để mọi người tán đồng hoặc tán thưởng. Chiếu
bản thân nó là một hình thức ra lệnh (mang tính chất mệnh lệnh lớn) cho nên sự
tán đồng ở đây chỉ là mang tính chất hình thức.

1.
昔 商 家 至 盤 庚 五 遷

49
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên
, 周 室 逮 成 王 三 徙
Chu thất đãi Thành vương tam tỉ
. (1) 豈 三 代 之 數 君 俱
Khởi tam đại chi sổ quân câu
徇 己 私 妄 自 遷 徙 ? (2)
tuận kỉ tư vọng tự thiên tỉ
以 其 宅 中 圖 大 , 為
Dĩ kì trạch trung đồ đại vi
萬 憶 世 子 孫 之 計 . (3)
vạn ức thế tử tôn chi kế
上 謹 天 命 , 下 因 民
Thượng cẩn thiên mệnh hạ nhân dân
願 . (4) 苟 (有) 便 輒 改 . (5)
nguyện Cẩu hữu tiện triếp cải
故 國 祚 延 長 , 風 俗
Cố quốc tộ diên trường phong tục
富 阜 . (6) 而 丁 黎 二 氏
phú phụ Nhi Đinh Lê nhị thị
乃 徇 己 私 , 忽 天 命
nãi tuận kỉ tư hốt thiên mệnh
, 罔 蹈 商 周 之 跡 ,
võng đạo Thương Chu chi tích
常 安 厥 邑 于 茲 ; (7) 致
thường an quyết ấp vu tư trí
世 代 弗 長 , 算 數 短
thế đại phất trường toán số đoản
促 . (8) 百 姓 耗 損 , 萬
xúc bách tính hao tổn vạn

50
物 失 宜 . (9) 朕 甚 痛 之
vật thất nghi Trẫm thậm thống chi
, 不 得 不 徙 . (10)
bất đắc bất tỉ
(1) Ngày xưa nhà Thương đến đời vua Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời
vua Thành Vương 3 lần dời đô. (2) Há rằng mấy vị vua thời tam đại đều theo cái ý
riêng của mình mà bừa bãi tự ý rời đô? (3) Dùng việc dời đô ấy để đóng đô ở nơi
trung tâm của trời đất nhằm mưu tính nghiệp lớn, làm kế sách cho con cháu muôn
đời sau. (4) Đối với trên thì cung kính mà vâng theo mệnh trời, đối với dưới thì thể
theo nguyện vọng của nhân dân. (5) Nếu có chỗ thuận tiện thì bèn thay đổi nơi
đóng đô. (6) Cho nên vận nước được dài lâu, phong tục được phong phú đủ đầy.
(7) Thế mà hai họ Đinh – Lê (có thể dịch: hai triều đại nhà Đinh nhà Lê) lại cứ
theo cái ý riêng của mình, bỏ qua mệnh trời (có thể dịch: không quan tâm đến
mệnh trời), không biết noi theo dấu vết của nhà Thương nhà Chu, cứ để yên cái
thành ấy (chỉ kinh đô Hoa Lư; có thể dịch: cái kinh đô ấy, cái ấp ấy) ở chỗ này. (8)
Đến nỗi đời này tiếp nối đời khác không được kéo dài (nếu phiêm âm là “trưởng”
thì dịch: đời này sang đời khác không sao phát triển được), số phận ngắn ngủi. (9)
Trăm họ mất mát (hoặc dịch: hao tổn), muôn vật không thích nghi được. (10) Trẫm
rất đau đớn vì điều ấy, không thể không chuyển dời/ không thể không dời đô.
2.
況 高 王 故 都 大 羅 城
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành
, 宅 天 地 區 域 之 中
trạch thiên địa khu vực chi trung
, 得 龍 蟠 虎 踞 之 勢
đắc long bàn hổ cứ chi thế
, 正 南 北 東 西 之 位

51
chính nam bắc đông tây chi vị
, 便 江 山 向 背 之 宜
tiện giang sơn hướng bội chi nghi
. (1) 其 地 廣 而 坦 平 ,
Kì địa quảng nhi thản bình
厥 土 高 而 爽 塏 . (2) 民
quyết thổ cao nhi sảng khải Dân
居 蔑 昏 墊 之 困 , 萬
cư miệt hôn điếm chi khốn vạn
物 極 蕃 阜 之 豐 . (3) 遍
vật cực phồn phụ chi phong Biến
覽 越 邦 , 斯 為 勝 地
lãm Việt bang tư vi thắng địa
. (4) 誠 四 方 輻 輳 之 要
Thành tứ phương bức tấu chi yếu
會 , 為 萬 世 帝 王 之
hội vi vạn thế đế vương chi
上 都 . (5) 朕 欲 因 此 地
thượng đô Trẫm dục nhân thử địa
利 以 定 厥 居 , 卿 等
lợi dĩ định quyết cư khanh đẳng
以 為 何 如 ? (6)
dĩ vi hà như
(1) Huống hồ cái thành cũ của Cao Vương là thành Đại La, ở vào chỗ trung tâm
của khu vực trời đất, có được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, ngay ngắn ở vào vị trí theo
hướng Nam Bắc Đông Tây, thuận tiện cho việc dựa vào núi nhìn ra sông (có thể
dịch: tựa núi nhìn sông). (2) Địa ấy rộng mà bằng phẳng, đất ấy cao mà khô
thoáng. (3) Người dân ở đó tránh được nỗi khốn khổ của nạn tăm tối và lụt lội,

52
muôn vật phát triển hết mức cái vẻ phồn thịnh của nó. (4) Xem khắp cả cõi nước
Nam, đây là nơi đất đẹp. (5) Thực là nơi hội tụ quan trọng của bốn phương tụ về, là
chốn kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. (6) Trẫm muốn nhân cái lợi thế của
đất này để xác định nơi đóng đô, các khanh cho là như thế nào?
Bình luận vài nét

BÀI 2
Dụ chư tì tướng hịch văn 諭諸裨將檄文
(Trần Quốc Tuấn 陳國峻)
Vài nét khái quát
Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300) là con An Sinh Vương Trần Liễn, người hương
Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là người học vấn
uyên bác, văn võ song toàn, giữ vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống
quân Mông – Nguyên xâm lược, đặc biệt, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai
năm 1285 và lần thứ ba năm 1287 – 1288, ông giữ chức Tiết chế Thống lĩnh toàn
quân và giành thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc giữ nước và dựng nước, tư
tưởng lấy dân làm gốc ông có sức ảnh hưởng sâu rộng. Theo Đại Việt sử kí toàn
thư và Đại Việt thông sử, Trần Quốc Tuấn có soạn Binh gia diệu lý yếu lược thư
và Vạn Kiếp tông bí truyền thư nhưng thất truyền. Hiện nay, tác phẩm còn lại
của ông là Dụ chư tỳ tướng hịch văn.
Dụ chư tỳ tướng hịch văn là bài hịch viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến
chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai (năm 1285) nhằm kêu gọi tướng sĩ trong
thái ấp chăm lo luyện tập và nghiên cứu binh thư để kịp thời đối phó với âm mưu
xâm lược của kẻ thù. Bài hịch thể hiện tinh thần trách nhiệm với vận mệnh dân

53
tộc cũng như tài năng văn chương của tác giả. Bài hịch nêu gương tiết liệt, kết tội
quân giặc, kích thích tinh thần yêu nước của các tì tướng. Bài hịch có lời lẽ đanh
thép, giàu tính hung biện, hình thức diễn đạt giản dị, dễ hiểu  Đây là một bài
hịch mẫu mực, xưa nay vẫn được coi là áng thiên cổ hùng văn, góp phần (và thể
hiện rõ) hào khí Đông A đời Trần.
Tri thức về thể loại: Hịch văn 檄 文:
- Tên gọi: hịch / hịch văn / vũ hịch
- Hịch là thể văn nghị luận, vốn xưa đó là những bài diễn thuyết quân sự gọi là
“Thệ” (nghĩa là lời thế trước khi xuất chinh). Từ “hịch” xuất hiện lần đầu thời
Chiến quốc. Hịch còn gọi là “lộ bố” nghĩa là “bản văn để lộ, không phong, để
cho mọi người đọc và nghe”. Nếu chiết tự chữ “hịch” 檄 trong Hán văn thì
có nghĩa là bài văn công khai khắc vào gỗ để tuyên bố cùng mọi người.
- Thường do nhà nước ban bố, được sử dụng trong điều kiện đất nước có chiến
tranh. Khi đất nước có chiến tranh, có kẻ thù xâm lăng, hịch sẽ được ra đời để
hiệu triệu mọi người đánh giặc. Như vậy, mục đích chức năng của hịch là cổ
động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Cũng
có khi hịch được dùng để răn dạy thần dân và người dưới quyền
- Hịch vốn có nguồn gốc từ “thệ” 誓 trong Kinh Thi. Trong tiếng Hán, “thệ” có
nghĩa là: thề, răn bảo, mệnh lệnh, .... Ngày xưa khi đem quân xuất chinh đi
đánh thì bao giờ người thủ lĩnh (nhà vua, vị tướng, ...) sẽ tổ chức buổi thệ
(buổi lễ thề). Trong buổi đó, người ta sẽ trình bày một nội dung chỉ ra tội ác,
cái bất nghĩa của kẻ thù và chỉ ra cái chính nghĩa của mình để khích lệ tinh
thần tướng sĩ khi ra trận. Trong Kinh Thư của Trung Quốc có một số văn bản
thệ, trong đó có “Thang Thệ” tức là vua Thành Thang – người mở đầu nhà
Thương, khi ông dấy binh để đánh quân đội của triều đại trước (nhà Hạ). Bài
thệ đã kể tội của đối phương để từ đó khích lệ tinh thần chiến đấu. Lúc bấy
giờ, nội dung bài thệ rất ngắn gọn nên chưa thể coi là hịch được nhưng cái nội
54
dung để khích lệ chiến đấu, nêu lên cái chính nghĩa của quân ta và cái bất
nghĩa của địch thì thệ đã có biểu hiện giống hịch sau này.
- Đặc điểm nghệ thuật: Hịch là thể văn nghị luận mang tính chiến đấu mạnh
mẽ, hịch có kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn
hung hồn, đanh thép:
 Về kết cấu: thường có 4 phần chính (1: nêu vấn đề  2: truyền thống vẻ
vang trong sử sách để gây long tin tưởng  3: nhận định tình hình để gây
lòng căm thù giặc, phân tích rõ phải trái, đúng sai  4: chủ trương cụ thể
và kêu gọi đấu tranh)
 Về lập luận: kết hợp giữa lý lẽ và thực tiễn, sử dụng linh hoạt cách lập luậ
tương đồng / tương phản, khẳng định / phủ định
 Về lời văn: trang trọng, hung hồn

Đoạn 2 (Nhữ đẳng … chí kim lưu danh):


汝 等 世 為 將 種 , 不
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng bất
曉 文 義 , 既 聞 其 說
hiểu văn nghĩa kí văn kì thuyết
疑 信 相 半 .(1) 古 先 之
nghi tín tương bán Cổ tiên chi
事 姑 且 勿 論 . (2) 今 余
sự cô thả vật luận Kim dư
以 宋 韃 之 事 言 之 . (3)
dĩ Tống Thát chi sự ngôn chi
王 公 堅 何 人 也 ? (4) 其
Vương Công Kiên hà nhân dã Kì
裨 將 阮 文 立 又 何 人

55
tì Tướng Nguyễn Văn lập hựu hà nhân
也 ? (5) 以 釣 魚 瑣 瑣 斗
dã Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đấu
大 之 城 , 當 蒙 哥 堂
đại chi thành đương Mông Kha đường
堂 百 萬 之 鋒 , 使 宋
đường bách Vạn chi phong sử Tống
之 生 靈 至 今 受 賜 .(6)
chi sinh linh chí kim thụ tứ
骨 待 兀 狼 何 人 也 ? (7)
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã
其 裨 將 斥 修 思 又 何
Kì tì tướng Xích Tu Tư hựu hà
人 也 ?(8) 冒 瘴 癘 於 萬
nhân dã Mạo chướng lệ ư vạn
里 之 途 , 蹶 南 詔 於
lí chi đồ quệ Nam Chiếu ư
數 旬 之 頃 , 使 韃 之
sổ tuần chi khoảnh sát Thát chi
君 長 至 今 留 名 .(9)
quân trưởng chí kim lưu danh
(1) Các ngươi đời đời làm dòng dõi con nhà tướng (tướng võ), không hiểu chữ
nghĩa, đã nghe cái câu chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. (2) Những chuyện trước đấy ta
hãy không bàn đến. (3) Nay ta lấy chuyện đời Tống đời Nguyên để mà nói về nó.
(4) Vương Công Kiên là người như thế nào? (5) Tì tướng của ông ta (ông ta là
Vương Công Kiên) là Nguyễn Văn Lập lại là người như thế nào? (6) Đem cái tòa
thành Điếu Ngư chỉ nhỏ nhoi bằng cái đấu, chống lại đội quân Mông Kha to lớn
đến trăm vạn người, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay vẫn nhận được ơn ban.

56
(7) Cốt Đãi Ngột Lang là người như thế nào? (8) Tì tướng của ông là Xích Tu Tư
lại là người như thế nào? (9) Xông pha vào chốn hiểm nguy ở trên con đường
muôn dặm, đạp đổ nước Nam Chiếu chỉ trong khoảnh khắc mấy chục ngày, khiến
cho bậc quân trưởng nhà Nguyên đến ngày nay vẫn còn lưu tiếng tốt.

Đoạn 4 (Dư thường lâm xan vong thực … diệc vị hạ nhĩ):


余 常 臨 餐 忘 食 , 中
Dư thường lâm xan vong thực trung
夜 撫 枕 , 涕 泗 交 頤
dạ phủ chẩm thế tứ giao di
, 心 腹 如 搗 . (1) 常 以
tâm phúc như đảo thường dĩ
未 能 食 肉 寢 皮 , 茹
(vị năng) thực nhục tẩm bì nhự

肝 飲 血 為 恨 也 . (2) 雖
can ẩm huyết vi hận dã Tuy
余 之 百 身 膏 於 草 野
dư chi bách thân cao ư thảo dã
, 余 之 千 屍 裹 於 馬
dư chi thiên thi khỏa ư mã
革 亦 願 為 之 . (3) 汝 等
cách diệc nguyện vi chi Nhữ đẳng
久 居 門 下 , 掌 握 兵
cửu cư môn hạ chưởng ốc binh
權 . (4) 無 衣 者 則 衣 之
quyền vô y giả tắc ý chi
以 衣 , 無 食 者 則 食

57
dĩ y ô thực giả tắc tự
之 以 食 , 官 卑 則 遷
chi dĩ thực quan ti tắc thiên
其 爵 , 禄 薄 則 給 其
kì tước lộc bạc tắc cấp kì
俸 . (5) 水 行 給 舟 , 陸
bổng thủy hành cấp chu lục
行 給 馬 . (6) 委 之 以 兵
hành cấp mã Ủy chi dĩ binh
, 則 生 死 同 其 所 為
tắc sinh tử đồng kì sở vi
; 進 之 在 寢 則 笑 語
tiến chi tại tẩm tắc tiếu ngữ
同 其 所 樂 . (7) 其 視 公
đồng kì sở lạc Kì thị Công
堅 之 於 裨 將 , 兀 郎
Kiên chi ư thiên tì Ngột Lang
之 於 副 貳 , 亦 未 下
chi ư phó nhị diệc vị hạ
爾 .
nhĩ
(1) Ta thường tới bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối, nước mắt nước mũi đan xen trên
gò má, lòng dạ như bị quấy đảo (ý nói lòng dạ rối bời). (2) Luôn lấy cái việc chưa
thể ăn thịt nằm da, ăn gan uống máu làm điều căm hận. (3) Dẫu trăm thân của ta
tan tành ở ngoài nội cỏ, nghìn xác của ta bọc ở trong da ngựa (ta) cũng tình nguyện
làm điều đó. (4) Các ngươi ở lâu dưới chướng của ta, nắm giữ quyền điều hành
quân đội. (5) Người không có áo thì (ta) đem áo cho người ấy mặc, người không có
ăn thì (ta) sẽ đem đồ ăn cho người đó ăn, chức quan thấp thì (ta) sẽ tăng chức quan

58
của người đó, lương ít thì (ta) cấp thêm cho bổng. (6) Đi đường thủy thì (ta) cho
thuyền, đi bằng đường bộ thì (ta) cho ngựa. (7) Đem quân đội mà ủy thác cho các
ngươi (chính là các tì tướng), thì sống chết cùng với các ngươi làm (sống cùng
sống mà chết cùng chết); cho người đó đi vào nơi riêng tư thì cười nói cùng với
người đó vui vẻ. (8) Hãy / Các ngươi nhìn xem Công Kiên đối với các tì tướng bên
mình, Ngột Lang đối với đối với người dưới, (ta đối xử với các ngươi) cũng chưa
hề kém hơn.

Đoạn 9 (Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp ... nhân bút dĩ hịch vân):
今 余 歷 選 諸 家 兵 法
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp
為 一 書 , 名 曰 兵 書
vi nhất thư danh viết “Binh thư
要 略 . (1) 汝 等 或 能 專
yếu lược” Nhữ đẳng hoặc năng chuyên
習 是 書 , 受 余 教 誨
tập thị thư thụ dư giáo hối
, 是 夙 世 之 臣 主 也
thị túc thế chi thần chủ dã
. (2) 或 暴 棄 是 書 違 余
Hoặc bạo khí thị thư vi dư
教 誨 是 夙 世 之 仇 讎
giáo hối thị túc thế chi cừu thù
也 , 何 則 ? (3) 乃 不 共
dã hà tắc Nãi bất cộng
戴 天 之 讎 , 汝 等 恬
đái thiên chi thù nhữ 既 điềm
đẳng kí

59
然 不 以 雪 恥 為 念 ,
nhiên bất dĩ tuyết sỉ vi niệm
不 以 除 凶 為 心 而 又
bất dĩ trừ hung vi tâm nhi hựu
不 教 士 卒 , 是 倒 戈
bất giáo sĩ tốt thị đảo qua
迎 降 空 拳 受 敵 .(4) 使
nghênh hàng không quyền thụ địch Sử
平 虜 之 後 萬 世 遺 羞
bình lỗ chi hậu vạn thế di tu
, 尚 何 面 目 立 於 天
thượng hà diện mục lập ư thiên
地 覆 載 之 間 耶 ? (5) 故
địa phú tái chi gian da Cố
欲 汝 等 明 知 余 心 因
dục nhữ đẳng minh tri dư tâm nhân
筆 以 檄 云 . (6)
bút dĩ hịch vân
(1) Nay ta đọc qua tất cả mà lựa chọn phép dùng binh các nhà làm một quyển, đặt
tên rằng “Binh thư yếu lược”. (2) Các ngươi nếu biết dành riêng tâm trí và luyện
tập sách này, hoặc theo sự răn dạy của ta thì ấy chính là đạo chúa tôi muôn đời vậy.
(3) Hoặc vội vứt bỏ sách này trái ngược lời răn dạy của ta thì là kẻ thù địch muôn
đời vậy, tại sao như vậy? (4) Ấy vì mối thù không đội trời chung, các ngươi đã ung
dung tự tại không lấy việc rửa nhục làm điều ghi nhớ trong lòng, không để việc gạt
bỏ kẻ bạo tàn trong lòng mà lại không dạy bảo binh sĩ và quân lính, ấy thế cầm
ngược ngọn giáo mà đón chờ đầu hàng (mang sẵn tư tưởng đầu hàng), giơ nắm tay
không mà chịu cho giặc đánh. (5) Giả sử, sau này dẹp yên quân giặc muôn đời để
lại mối thẹn, phỏng còn mặt mũi (thể diện) đứng thẳng trong khoảng trời đất ư? (6)

60
Cho nên (ta) mong muốn các ngươi hiểu rõ bụng ta, bèn lấy bút làm bài hịch như
vậy.
Bình luận vài nét
Tư tưởng chủ đạo: nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng (đặt vào trong hoàn
cảnh lúc bấy giờ thì tinh thần quyết chiến – quyết thắng là thước đo cao nhất của
lòng yêu nước).
Tư tưởng ấy sẽ ảnh hưởng đến mọi phần của tác phẩm: Mở đầu, tác giả nêu
những gương trong sử sách Trung Quốc để khích lệ ý chí lập công danh, hi sinh
vì nước của các tướng sĩ. Sau đó, tác giả quay về với thực tại trước mắt, lột tả tội
ác và sự ngang ngược của giặc đồng thời nêu mối ân tình giữa chủ và tướng để
khích lệ ý thức trách nhiệm của mỗi người. Tiếp đến, tác giả phê phán thái độ,
hành động sai trái của tướng sĩ và chỉ cho họ hành động đúng đắn nên làm theo.
Cuối cùng, tác giả vạch rõ ranh giới giữa 2 con đường chính – tà để thuyết phục
tướng sĩ.
[DOẠN 2]:
- Mở đầu bài hịch tác giả nêu gương sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, hi
sinh vì nước ở các tướng sĩ. Có người từng đặt câu hỏi: vì sao Trần Quốc
Tuấn không nêu gương trong sử sách dân tộc mà lại lấy gương trong sử sách
Trung Quốc, thậm chí còn lấy gương của những tướng lĩnh nhà Nguyên? Cần
phải thấy mục đích của đoạn mở đầu này chưa phải là tố cáo địch để khích lệ
lòng căm thù, cũng chưa phải là khích lệ niềm tự hào dân tộc. Mục đích của
tác giả là khích lệ lòng hi sinh dũng cảm, ý chí lập công danh của tướng sĩ để
“cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Người xưa quan niệm thứ nhất là lập đức,
thứ nhì lập công, thứ ba lập ngôn. Vì vậy lập công danh để lại cho đời đã trở
thành lẽ sống lớn của trang nam nhi thời trung đại. Hơn nữa, theo quan niệm
xưa, trung quân tức là ái quốc, hi sinh cho vua chúa, chủ soái của mình tức là
hi sinh cho đất nước. Do đó các tấm gương Bắc sử mà tác giả nêu lên đều là
61
những người quên mình cứu chủ, cũng có nghĩa là những trung thần nghĩa sĩ
bớt mình vì nước.
- Nêu cả những tấm gương của tướng lĩnh nhà Tống, nhà Nguyên, Trần Quốc
Tuấn hàm ý so sánh: ông đối với tướng lĩnh có kém gì Vương Công Kiên đối
với Nguyễn Văn Lập, Cốt Đãi Ngột Lang đối với Xích Tu Tư, vậy mà một
bên thì hi sinh quên mình vì chủ, một bên thì “nhìn nhục mà không biết lo,
thấy nước nhục mà không biết thẹn”. Trần Quốc Tuấn đã gợi cho tướng sĩ
phải suy nghĩ: gương hi sinh của người thì như vậy, còn ta như thế nào?
- Cách nêu gương của tác giả đã khích lệ được nhiều người, để ai cũng có thể
lập công danh, lưu tên trong sử sách “cùng đất trời muôn đời bất hủ”. Vì vậy
những gương trung thần nghĩa sĩ mà tác giả nêu lên, có người là tưởng lĩnh
cao cấp, những bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, có người bình
thường, những về tôi xa như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh; có những
gương đời xưa như Xuân Thu, Chiến quốc, thời Hán, thời Đường, lại có cả
những gương gần rất gần với thời bây giờ như thời Tống, thời Nguyên.
[ĐOẠN 4]:
- Căm giận trào sôi + mài sắc thêm ý chí giết giặc (lời văn bi tráng)
- Dùng mối quan hệ chủ tớ để khích lệ tinh thần trung quân ái quốc
[ĐOẠN 9]:
Để dành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, phần cuối bài hịch,
một lần nữa Trần Quốc Tuấn đã vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính – tà,
cũng có nghĩa là hai con đường sống, chết để thuyết phục tướng sĩ. Tác giả biểu
lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chênh vênh cho
những kẻ bàng quang trước thời cuộc. Chính thái độ dứt khoát này đã có tác
dụng thanh toán những thái độ trù trừ trong hàng ngũ tướng sĩ, động viên những
người còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết chiến, quyết
thắng. Đoạn cuối bài hịch có giá trị động viên cao nhất ý chí và quyết tâm chiến
62
đấu của mọi người.

BÀI 3
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO 平吳 大 誥
(Nguyễn Trãi 阮廌)
Vài nét khái quát
Nguyễn Trãi (1380 – 1422) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải
Dương) sau rời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Thân sinh là Nguyễn Ứng
Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, từng đổ Thái học
sinh đời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm
Canh Thìn (1400), Hồ Qúy Ly lật đổ nhà Trần, dựng ra nước Đại Ngu, Nguyễn
Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh ra làm quan cho nhà Hồ. Cùng năm
này, nhà Hồ mở khoa thi, Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh (Tiến sĩ) và được Hồ
Quý Ly trao cho chức Ngự sử đài Chính chưởng. Trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh, Nguyễn Trãi đã góp phần quan trọng vào chiến thắng. Khi đất nước
hòa bình, ban đầu ông được giao trọng trách rồi bị nghi oan, phải về Côn Sơn ở
ẩn, sau lại ra tham chính. Vụ án Lệ Chi viên khép lại với bản án thảm khốc bậc
nhất lịch sử dân tộc. Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc với nhiều trước tác bằng
cả chữ Hán và chữ Nôm như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức
Trai thi tập, Dư địa chí, …
Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết trên danh nghĩa của Lê Lợi, nói rõ cho
toàn dân về cuộc kháng chiến gian khổ nhưng đã giành thắng lợi, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc. Bình Ngô đại cáo viết theo lối văn biền ngẫu, hình
tượng sinh động. giàu cảm xúc. Bố cục tác phẩm gồm:

63
- Đoạn I: Nêu luận đề chính nghĩa
- Đoạn II: tội ác của kẻ thù
- Đoạn III, đoạn IV, đoạn V, đoạn VI: quá trình chiến đấu gian khổ và chiến
thắng của nghĩa uân
- Đoạn VII: Vtuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.
Bài cáo là tiếng ca khải hoàn đồng thời cũng có thể coi là bản Tuyên ngôn độc
lập lần thứ 2 của dân tộc. Bài cáo là một bản tổng kết khái quát về mặt lịch sử và
nhân văn những phẩm chất cao đẹp của dân tộc vừa được phát huy trong cuộc
chiến tranh giữ nước vĩ đại. Nó nêu cao ý chí độc lập tự do, truyền thống quật
cường bất khuất cũng như tinh thần nhân đạo của dân tộc ta.
Tri thức thể loại
- Cáo 誥: là thể văn hành chính thường do nhà nước ban bố dùng để thông báo
một việc sắp diễn ra (để người dân đồng tình ủng hộ) hoặc đã hoàn thành (để
người dân vui mừng, tán thưởng). Nguồn gốc cáo là ở trong Kinh Thư. Lúc
đầu bài cáo chưa có một cấu trúc cố định, chưa quy chuẩn, số lượng câu chữ
ngắn, chỉ có một hoặc vài câu thôi. Thế nhưng dần dần qua thời gian thì nó
được định hình thành một thể loại với những quy chuẩn và những quy chuẩn
có thể dễ nhận thấy nhất chính là câu mở đầu và câu kết thúc: câu mở đầu bài
cáo thường có những câu mang tính chất công thức “代 天 行 化, 皇 上 若
曰” (Đại thiên hành hóa, hoàng thượng nhược viết) (dịch là: Thay trời thi
hành công việc giáo hóa, nhà vua nói rằng)
- Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu, sách của vua truyền
xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện
trọng đại, có tính chất quốc gia.
Đại 大: lớn, to lớn, rất lớn. Ý nghĩa của “đại cáo” có 2 cách hiểu:
 Quảng đại: rộng khắp  đại cáo: văn bản được công bố rộng rãi cho mọi

64
người, không giới hạn đối tượng người nghe
 Trọng đại: nhắm vào tính chất của văn bản hành chính này, là một văn bản
hết sức quan trọng thông báo một việc trọng đại của quốc gia.
Trong ngữ cảnh văn bản này có thể hiểu theo cả 2 cách.
- Nghệ thuật: cáo là thể văn nghị luận mang tính hùng biện, có kết cấu chặt chẽ,
lý luận sắc bén, lời lẽ đanh thép, trang trọng, hào hùng:
 Kết cấu: 4 phần (nêu luận đề chính nghĩa  tố cáo tội ác của giặc  thuật
lại quá trình chinh phạt gian khổ  tuyên bố kết quả)  chặt chẽ, logic
 Lập luận: kết hợp giữa lý lẽ và thực tiễn; giữa tư duy logic và tư duy hình
tượng
 Lời văn: kết hợp lời văn tự sự (thuật lại quá trình chiến đấu) và lời văn trữ
tình (bộc lộ cảm xúc). Ngôn ngữ chính luận – trữ tình.

Đoạn 1: (Nhân nghĩa chi cử … cánh dĩ mãi ngã quốc)


Chữ Hán + Phiên âm Dịch
代 天 行 化, 皇 上 若 曰 Thay trời thi hành công việc giáo hóa,
(Đại thiên hành hóa, hoàng thượng nhà vua nói rằng.
nhược viết)
蓋 聞 ﹕ 仁 義之 舉 要 在 安 民; 弔 Từng nghe nói rằng: hành động nhân
伐 之 師 莫 先 去 暴 nghĩa quan trọng ở chỗ là làm cho nhân
(Cái văn: nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân được yên ổn; quân đội vì dân mà
dân; Điếu phạt chi sư mạc tiên khử trừng phạt kẻ có tội không có gì quan
bạo) trọng bằng việc trừ bỏ bạo tàn
惟 我 大 越 之 國, 實 為文 獻 之 Nước Đại Việt của ta, quả thực là nước
邦 văn hiến
(Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi (“Duy” là phát ngữ nên không dịch)
văn hiến chi bang)

65
山 川 之 封 域 既 殊, 南 北 之 風 Vùng đất được chia của núi sông đã
俗亦 異 khác nhau, nếp sống hàng ngày của
(Sơn xuyên chi phong vực kí thù, nam người phương nam và người phương
bắc chi phong tục diệc dị) bắc cũng khác biệt
自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國; 與 漢 Từ các triều đại Triệu Đinh Lý Trần
唐 宋 元 而 各 帝 一 方 gây dựng nên đất nước ta; cùng Hán
(Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo Đường Tống Nguyên mỗi bên làm vua
ngã quốc; Dữ Hán Đường Tống một phương
Nguyên nhi các đế nhất phương)
雖 強弱 時 有 不 同, 而 豪 傑 世未 Tuy mạnh yếu từng thời có sự không
常 乏 giống nhau, nhưng người tài giỏi thì
(Tuy cường nhược thời hữu bất đồng, các đời chưa từng thiếu
nhi hào kiệt thế vị thường phạp)
故 劉 龔 貪 功以 取 敗, (nhi) 趙 Tiết Cho nên Lưu Cung tham công nên
好 大 以 促 亡 chuốc lấy thất bại, (mà) Triệu Tiết
(Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, tham lập công lớn nên nhanh chóng
Triệu Tiết hiếu đại dĩ thúc vong) phải chết
唆 都 既 擒 於 鹹 子 關, 烏 馬 又 Toa Đoa đã bị bắt ở của Hàm Tử, Ô
殪 於 白 藤 海 Mã lại bị giết ở biển Bạch Đằng
(Toa Đô kí cầm ư Hàm Tử Quan, Ô Mã
hựu ế ư Bạch Đằng hải)
嵇 諸 (chi ư / chi hồ) 往 古 , 厥 有 Khảo cứu cái việc đó ở trong quá khứ,
明徵 điều đó có chứng cớ rõ ràng
(Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh
trưng)
頃 因 胡 政 之 煩 苛, 至 使 人 心 Gần đây do chính trị của nhà Hồ phiền
之 怨 叛 hà, đến nỗi khiến cho lòng người sinh
(Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,

66
trí sử nhân tâm chi oán bạn) ra tức giận mà phản đối
狂明 伺 隙 , 因 以 毒 我 民; Giặc Minh điên cuồng dòm ngó chỗ sơ
惡 黨 懷 奸 , 竟 以 賣 我 國 hở để mà làm hại dân ta; bọn xấu ấp ủ
(Cuồng Minh tứ khích nhân dĩ độc ngã những điều gian tà cuối cùng bán nước
dân; ác đảng hoài gian cách dĩ mại ngã ta
quốc) (bọn xấu chính là bọn quý tộc cũ nhà
Trần)

Đoạn 2: (Hân thương sinh ư ngược diễm … thiên địa chi sở bất dung)
焮 蒼 生 於 虐 焰 , 陷
Hân thương sinh ư ngược diệm hãm
赤 子 於 禍 坑 . (1) 欺 天
xích tử ư họa khanh Khi thiên
罔 民 , 詭 計 蓋 千 萬
võng dân quỷ kế cái thiên vạn
狀 , 連 兵 結 釁 , 稔
trạng liên binh kết hấn nậm
惡 殆 二 十 年 . (2) 敗 義
ác đãi nhị thập niên Bại nghĩa
傷 仁 , 乾 坤 幾 乎 欲
thương nhân càn khôn cơ hồ dục
息 ; 重 科 厚 歛 , 山
tức trọng khoa hậu liễm sơn
澤 靡 有 孑 遺 . (3) 開 金
trạch mị hữu kiết di Khai kim
場 塞 冒 嵐 瘴 , 而 斧
trường tắc mạo lam chướng nhi phủ
山 淘 沙 ; 採 明 珠 則

67
sơn đào sa thái minh châu tắc
觸 蛟 龍 , 而 緪 腰 汆
xúc giao long nhi cắng yêu thẩn
海 .(4) 擾 民 設 玄 鹿 之
hải Nhiễu dân thiết huyền lộc chi
陷 阱 , 殄 物 織 翠 禽
hãm tỉnh điến vật chức thúy cầm
之 網 羅 .(5) 昆 虫 草 木
chi võng la Côn trùng thảo mộc
皆 不 得 以 遂 其 生 ;
giai bất đắc dĩ toại kì sinh
鰥 寡 顛 連 俱 不 獲 以
quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ
安 其 所 . (6) 浚 生 靈 之
an kì sở Tuấn sinh dân chi
血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙
huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha
; 極 土 木 之 功 以 崇
cực thổ mộc chi công dĩ sùng
公 私 之 廨 宇 . (7) 州 里
công tư chi giải vũ Châu lí
之 征 徭 重 困 , 閭 閻
chi chinh giao trọng khốn lư diêm
之 杼 柚 皆 空 . (8) 決 東
chi trữ trục giai không Quyết Đông
海 之 水 不 足 以 濯 其
hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì
污 , 罄 南 山 之 竹 不

68
ô khánh Nam sơn chi trúc bất
足 以 書 其 惡 . (9) 神 民
túc dĩ thư kì ác Thần nhân
之 所 共 憤 , 天 地 之
chi sở cộng phẫn thiên địa chi
所 不 容 . (10)
sở bất dung
(1) Nướng bách tính trên ngọn lửa bạo ngược, vùi lấp con đỏ trong hầm tai họa. (2)
Dối trời lừa dân, mưu kế độc ác trăm hình ngàn vẻ, liên kết quân binh tạo sự hiềm
khích, chất chứa tội ác ngót 20 năm. (3) Hủy hoại điều nghĩa, tổn hại điều nhân,
trời đất dường như muốn tắt, hình phạt thảm khốc và tô thuế nặng nề (khiến) đầm
núi không còn sót lại một con cung quăng. (4) Mở ra sân vàng đất hiểm yếu xông
pha vào chốn rừng thiêng khí độc, mà dùng búa bổ núi lọc cát, tìm minh châu, gặp
giao long mà buộc lưng bị nước cuốn ra biển. (5) Quấy rối nhân dân đặt hố bẫy
hươu đen, giết chết hết vật, dệt lưới bắt chim bói cá (chim trả). (6) Giống côn trùng
và cây cỏ đều không được dùng thỏa thích sự sống của mình; người neo đơn không
nơi nương tựa và người què quặt tàn phế đều không được yên chốn ở. (7) Hút máu
của người dân làm trơn bóng răng mép của bọn tàn ác mà xảo trá (nhày nhụa
miệng lưỡi bọn tàn ác); tận dụng hết công dụng của nghề xây dựng làm cao ngất
nhà công nhà tư. (8) Việc phu phen và tô thuế của xóm làng nặng nề, việc canh cửi
của làng quê đều rỗng không. (9) Vét nước ở biển Đông không đủ để rửa vét nhơ
của chúng, chặt hết trúc ở Nam Sơn không đủ để ghi chép tội ác của chúng. (10)
Thần và nhân đều căm phẫn, trời đất không dung tha.

Đoạn 3: (Dư phấn tích Lam Sơn … vô nhất lữ)


余 奮 跡 藍 山 , 棲 身
Dư phấn tích Lam sơn thê thân

69
荒 野 , 念 世 讎 豈 可
hoang dã niệm thế thù khởi khả
共 戴 , 誓 逆 賊 難 與
cộng đái thệ nghịch tặc nan dữ
俱 生 . (1) 痛 心 疾 首 者
câu sinh Thống tâm tật thủ giả
垂 十 餘 年 , 嘗 膽 臥
thùy thập dư niên thưởng đảm ngọa
薪 者 蓋 非 一 日 . (2) 發
tân giả cái phi nhất nhật Phát
憤 忘 食 , 每 研 覃 韜
phấn vong thực mỗi nghiên đàm thao
略 之 書 , 即 古 驗 今
lược chi thư tức cổ nghiệm kim
, 細 推 究 興 亡 之 理
tế suy cứu hưng vong chi lí
. (3) 圖 回 之 志 寤 寐 不
Đồ hồi chi chí ngụ mị bất
忘 , 當 義 旗 初 起 之
vong đương nghĩa kì sơ khởi chi
時 , 正 賊 勢 方 張 之
thời chính tặc thế phương trương chi
日 . (4) 奈 以 : 人 才 秋
nhật Nãi dĩ nhân tài thu
葉 , 俊 傑 晨 星 . (5) 奔
diệp tuấn kiệt thần tinh Bôn
走 先 後 者 既 乏 其 人
tẩu tiền hậu giả kí phạp kì nhân

70
, 謀 謨 帷 幄 者 又 寡
mưu mô duy ác giả hựu quả
其 助 . (6) 特 以 救 民 之
kì trợ Đặc dĩ cứu dân chi
念 , 每 鬱 鬱 而 欲 東
niệm mỗi uất uất nhi dục đông
, 故 於 待 賢 之 車 ,
cố ư đãi hiền chi xa
常 汲 汲 已 虛 左 . (7) 然
thường cấp cấp dĩ hư tả Nhiên
其 得 人 之 效 茫 若 望
kì đãi nhân chi hiệu mang nhược vọng
洋 , 由 己 之 誠 甚 於
dương do kỉ chi thành thậm ư
拯 溺 . (8) 憤 兇 徒 之 未
chửng nịch Phẫn hung đồ chi vị
滅 , 念 國 步 之 遭 迍
diệt niệm quốc bộ chi tao truân
. (9) 靈 山 之 食 盡 兼 旬
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần
, 瑰 縣 之 眾 無 一 旅
Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ
. (10)
(1) Ta nổi dấu vết từ Lam Sơn, nương thân chốn hoang dã, luôn luôn ghi nhớ trong
lòng mỗi thù truyền kiếp há có thể cùng đội trời chung, thề khó cùng giặc phản
nghịch chung sống. (2) Những điều làm đau lòng nhức óc sắp hơn mười năm, nếm
mật đắng nằm trên gai chẳng phải một sớm. (3) Khởi mối phẫn uất mà quên ăn,
luôn tìm hiểu sâu rộng sách về phép tắc và mưu chước dụng binh, từ chuyện xưa

71
mà ngẫm ra chuyện nay nghiên cứu kĩ lưỡng lẽ hưng vong. (4) Cái chí mưu toan
khôi phục lại cơ đồ cũ (dù) lúc thức (hay) lúc ngủ (đều) không quên, khi cờ khởi
nghĩa vừa mới dấy lên đúng lúc thế giặc vừa mới lớn mạnh. (5) Lại vì: người tài
giỏi như lá mùa thu, kẻ tài trí (hào kiệt) như sao buổi sớm. (6) Việc chạy vạy công
việc trước sau lại thiếu kẻ đỡ đần, những người bàn mưu tính kế ở bộ chỉ huy (ở
quân trướng) lại ít người trợ giúp. (7) Đặc biệt vì lòng mong mỏi cứu dân, luôn
luôn ngùn ngụt muốn tiến về phía Đông, cho nên ở cỗ xe đợi người hiền tài thường
nóng lòng để trống bên trái. (8) Nhưng kết quả của việc chờ đợi người hiền tài của
ta mờ mịt như nhìn ra biển khơi, do lòng thành thực của mình (lòng thành thực
muốn làm điều nghĩa) còn gấp hơn cứu người chết đuối. (9) Căm phẫn vì bọn hung
đồ chưa bị tiêu diệt, luôn luôn ghi nhớ trong lòng vận nước gặp lúc gian nan vất vả.
(10) Không còn đồ để ăn ở Linh Sơn liền mười mấy ngày, quân đội ở Khôi huyện
không có nổi một lữ (=500 lính).
Bình luận vài nét
- Ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi, bản hùng văn Đại cáo bình Ngô đã được
công bố trước toàn thể nhân dân Đại Việt. Khi Đại cáo bình Ngô được tuyên
đọc thì cũng là lúc thiên ca trường hận của đất nước trong thế kỉ XV chấm
dứt, thiên ca độc lập dân tộc lại mở ra.
- Đại cáo bình Ngô được viết trong sự hòa quyện của hai nguồn cảm hứng: cảm
hứng chính trị và cảm hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đem đến cho lịch sử
dân tộc bản Tuyên ngôn độc lập đầy ý nghĩa. Cảm hứng sáng tác đưa tới cho
lịch sử văn học nước nhà một áng văn chính luận “vô tiền khoáng hậu”.
[ĐOẠN 1]: BẢN TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN NGHĨA, TUYÊN NGÔN VỀ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Đại cáo bình Ngô là bản Tuyên ngôn về nhân nghĩa, Tuyên ngôn về độc lập dân
tộc. Trong phần mở đầu Đại cáo bình ngô, Nguyễn Trãi nêu nguyên lý chính
nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài Cáo.
72
Khi nêu nguyên lí chính nghĩa, tác giả đã đồng thời tuyên ngôn về nhân nghĩa và
tuyên ngôn về độc lập dân tộc. Bởi lẽ trong nguyên lý chính nghĩa mà Nguyễn
Trãi nêu lên có hai nội dung chính: nguyên lí nhân nghĩa, một nguyên lí có tính
chất trung của các dân tộc, của nhiều thời đại và chân lí về sự tồn tại độc lập, có
chủ quyền của nước Đại Việt đã được chứng minh bằng thực tiễn lịch sử. Trước
hết, tác giả khẳng định nguyên lí có tính chất phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời
bấy giờ: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyên lí nhân nghĩa Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính chất tiên
nghiệm, bởi tiền đề này có nguồn gốc phạm trù nhân nghĩa Nho giáo. Khổng Tử
nói tới chữ "nhân", Mạnh Tử nói tới chữ "nghĩa" nhiều người giải thích; cách
nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận
"nhân nghĩa" là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương
và đạo lí. "Nhân nghĩa" là "yên dân trừ bạo" tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược,
bảo vệ cuộc sống yên ổn của dân. Là một trí thức Nho giáo, "nhân nghĩa" của
Nguyễn Trãi cũng bao hàm lẽ đó. Tuy nhiên lại phải nhấn mạnh, khi đưa tiền đề
tiên nghiệm, Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản tích cực: Nhân
nghĩa chỉ cử yếu tại an dân/ Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Trong hai câu mở đầu Nguyễn Trãi đã xác định được mục đích, nội dung của
việc làm nhân nghĩa: chủ yếu yên dân, trước nhất là trừ bạo. Điều đáng nói hơn
nữa là khi tuyên ngôn về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi không những đã chắt lọc lấy
cái hạt nhân cơ bản, tích cực của tư tưởng nhân nghĩa Nho giáo mà còn đem đến
một nội dung mới, lấy ra từ thực tiễn dân tộc: nhân nghĩa phải gắn liền với chống
xâm lược. Đặt trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi viết Đại cáo bình Ngô thì người dân
mà tác giả nói tới là nhân dân Đại Việt đang bị xâm lược, còn kẻ bạo tàn chính là
giặc minh cướp nước. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân
nghĩa. Nội dung này trong quan niệm Khổng - Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu
như không có. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm
73
lược, Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch, đã phân
định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc xâm lược là phi nghĩa.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Đại cáo bình Ngô đã tuyên ngôn về nhân nghĩa,
đối với tâm lí con người thời bấy giờ, điều này có sức thuyết phục lớn. Bởi lẽ
thời trung đại ở Việt Nam, Trung Quốc có nhiều nước phương Đông, tư tưởng
nhân nghĩa là một chân lí mặc nhiên thừa nhận. Sau khi tuyên ngôn về nhân
nghĩa tác giả tuyên bố về nền độc lập, có chủ quyền của đất nước Đại Việt. Nếu
nhân nghĩa là tiền đề có tính chất tiên nghiệm thì chân lí về sự tồn tại độc lập có
chủ quyền của nước Đại Việt lại có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử: “ Như
nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
“Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam đã khác” Bản dịch đã cố gắng lột
tả tính chất hiển nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt tồn tại độc lập bằng
các từ: "từ trước", "vốn xưng", "đã lâu", "đã chia", "cũng khác" (nguyên văn:
"duy ngã...", "thực vi...", "kí thù", "diệc dị").
Nguyễn Trãi đã đưa những yêu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của
dân tộc: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, và thêm
nữa là lịch sử riêng, chế độ riêng với "hào kiệt không bao giờ thiếu"
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây bên nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đề một phương.
Tuy nhiên mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Những thực tế khách quan mà tác giả đưa ra là chân lý không thể phủ nhận. Khi
nêu chân lí khách quan, đồng thời Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách hoàn chỉnh
quan niệm của mình về quốc gia dân tộc. Người đời sau vẫn thường xem đoạn
văn trên là tiêu biểu và kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi
phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về
dân tộc trong Nam quốc Sơn hà được xác định chủ yếu bởi hai yêu tố: lãnh thổ
74
và chủ quyền, còn đến Đại Cáo bình Ngô, ba yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến,
phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi
đã ý thức được văn hiến, truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân
để xác định dân tộc. Vả chăng sự sâu sắc của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở chỗ:
điều mà kẻ xâm lược luôn tìm cách phủ định (văn hiến nước Nam) thì chính lại
là thực tế, tồn tại với sức mạnh của chân lí khách quan. So với chúng ta ngày nay
học thuyết đó rất gần gũi và vẫn còn giá trị thời sự.
Tuyên ngôn về độc lập dân tộc, để tăng thêm sức thuyết phục cho việc khẳng
định sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của Đại Việt, Nguyễn Trãi đã dùng biện
pháp so sánh: so sánh ta với Trung Quốc, đặt ta ngang hàng với Trung Quốc,
ngang hàng về trình độ chính trị tổ chức chế độ, quản lí quốc gia (Triệu, Đinh,
Lí, Trần ngang hàng với Hán, Đường, Tống, Nguyên). Quan niệm này phải
chăng Nguyễn Trãi có sự tiếp nối tinh thần của người xưa khi nói về văn hiến
dân tộc: “Ý quan Đường chế độ - Lễ nhạc Hán quân thần”
(“Lễ nhạc như tiền Hán - Ý quan giống thịnh Đường” - Đáp Bắc nhân vấn An
Nam phong tục của Hồ Quý Li). Tuy nhiên phải thấy rằng so sánh triều đại ta
song hành với triều đại phương Bắc cũng là một cách để Nguyễn Trãi đặt Đại
Việt ngang hàng với Trung Hoa.
Trong bài Nam quốc Sơn hà - bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, tác
giả đã thể hiện một ý thức dân tộc mạnh mẽ và sâu sắc qua từ “đế”. Ở Đại Cáo
bình Ngô Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ và sâu sắc
qua đó: “Các đế nhất phương”. Nhiều bản dịch trước đây dịch là “làm chủ”,
“hùng cứ” thì nay đều đã bỏ mà giữ nguyên chữ “đế” để giữ nguyên giá trị tác
phẩm. “Hùng cứ” và “làm đế” là rất khác nhau về cả tính hợp pháp và quyền lực.
Trong Nam quốc sơn hà khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc đã dựa vào
“thiên thư” còn Nguyễn Trãi dựa vào lịch sử. Đó là bước tiến của tư tưởng thời

75
đại nhưng đồng thời cũng là tầm cao của tư tưởng Ức Trai.
Như vậy, trong phần mở đầu Bình Ngô đại Cáo, Nguyễn Trãi đã tuyên ngôn về
nhân nghĩa , tuyên ngôn về độc lập dân tộc. Hai nội dung này liên quan hữu cơ
với nhau. Dân tộc ta chống xâm lược là nhân nghĩa và ngược lại nhân nghĩa thì
phải chống xâm lược.
Nhân nghĩa và độc lập dân tộc đều là sức mạnh của chân lí khách quan. Kẻ xâm
lược đi ngược lại chân lí, tất yếu sẽ chuốc lấy bại vong: Lưu Cũng thất bại, Triệu
Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã kẻ bị giết, người bị bắt. Tác giả lấy “chứng cớ còn
ghi” để mình chứng cho sức mạnh của chân lí đồng thời thể hiện niềm tự hào dân
tộc.
Trên cơ sở tuyên ngôn về nhân nghĩa, về độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi lên án, tố
cáo tội ác quân xâm lược. Chính vì vậy, khi lên án, tố cáo tội ác giặc Mình, tác
giả vừa đứng trên lập trường dân tộc vừa đứng trên lập trường nhân bản.
Đứng trên lập trường dân tộc, Nguyễn Trãi vạch Trần nhịp điệu bịp bợm “phù
Trần diệt Hồ” của giặc Mình, chỉ rõ âm mưu cướp nước của chúng:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Quân cuồng Mình thừa cơ gây hoạ.
[ĐOẠN 2]: BẢ CÁO TRẠNG LÊN ÁN TỘI ÁC CỦA GIẶC
Khi lên án, tố cáo tội ác giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc
là lập trường nhân bản.
- Đứng trên lập trường dân tộc, Nguyễn Trãi vạch trần luận điệu bịp bợm “phù
Trần diệt Hồ” của giặc Minh, chỉ rõ âm mưu cướp nước của chúng (Nhân họ
Hồ ....)
- Đứng trên lập trường nhân bản, Nguyễn Trãi tố cáo chủ trương cai trị thâm
độc và tội ác của giặc (dẫn chứng: sự đối nghịch giữa ta và địch)
 Đứng trên lập trường nhân bản, hơn nữa đứng về quyền sống của người dân
vô tội để tố cáo, Đại cáo bình Ngô chứa đựng những yếu tố của bản tuyên
76
ngôn nhân quyền. Có thể nói quyền sống của người dân đã là nguồn cảm
hứng mạnh mẽ để Nguyễn Trãi viết nên bản cáo trạng đanh thép và thống
thiết.
[ĐOẠN 3]: BẢN TỔNG KẾT HÀO HÙNG VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA LAM
SƠN
Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được tái hiện, được khắc họa tập
trung vào hình tượng người anh hùng Lê Lợi:
- Qua sự tái hiện thình tượng Lê Lợi – con người bình thường và người anh
hùng, tác giả phần nào nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.
 Lê Lợi – xuất thân từ chốn hoang dã, xưng hô “ta” rất khiêm nhường
 Có lý tưởng hoài bão lớn, căm thù giặc sâu sắc
- Khó khăn gian khổ của cuộc khởi nghĩa:
 Đúng lúc thế giặc mạnh
 Hai câu cuối  hai sự kiện có tính chất tiêu biểu cho những khó khăn gian
khổ của cuộc khởi nghĩa đồng thời tiêu biểu cho tinh thần lạc quan của con
người Việt Nam

TẢN VĂN
Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí 浴 翠 山 靈 濟 塔 記
(Trương Hán Siêu)
Vài nét khái quát
Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là
phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình). Theo chính sử,
Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Hưng Đạo, tính tình cương
nghị, học vấn uyên thâm. Lược truyện các tác giả Việt Nam viết: Trương Hán
Siêu "lập được nhiều công trạng trong 2 trận đánh giặc Nguyên; Từ điển văn học

77
ghi: Trương Hán Siêu "có ít nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến chống
Nguyên lần thứ 2 và thứ 3". Trương Hán Siêu là nhà chính trị, nhà thơ, nhà sử
học danh tiếng, học thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy chứ
không gọi tên húy. Ông từng làm nhiều chức quan trải suốt 4 đời vua nhà Trần.
Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các
vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Theo Đại Việt Sử Ký, ông là người cứng cỏi
bài xích (phản đối) đạo Phật, đề cao ý thức quốc gia. Các tác phẩm của ông hiện
còn 7 bài thơ.
Bài “Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp ký” mang tinh thần đề cao việc xây dựng các
thắng tích của đất nước. Tháp Linh Tế được xây dựng năm 1091, đời vua Lý
Nhân Tông. Qua 250 năm do sự tàn phá của thời gian, tháp chỉ còn là "một nền
hoang ngói vỡ, vùi lấp giữa lùm cây rậm rạp, đá tảng ngổn ngang". Trước cảnh
tượng ấy, nhà sư Trí Nhu đã chủ trì cho xây lại. Sau sáu năm (1337-1342), công
việc hoàn tất. Nhà sư đã ra tận kinh đô Thăng Long xin Trương Hán Siêu viết
cho bài kí nhân ngày tái khánh thành tháp. Quan đại phu Trương Hán Siêu đã
nhận lời và bài kí ra đời năm 1343, được khắc trên vách núi Thuý.
Đây là bài văn viết theo thể kí, có độ dài khoảng 3 trang sách kể lai lịch của tháp,
việc xây dựng lại và những suy ngẫm của Trương Hán Siêu. Bài kí cũng ghi lại
cuộc đối thoại giữa nhà sư Trí Nhu và tác giả song thực chất chỉ là sự phân thân
của chính Trương Hán Siêu.

Đoạn 1: (Ngô hương đa thắng cảnh …. mộng trung du nhĩ)

吾 鄉 多 勝 景, 少 時 遊 覽, 足 跡 迨 遍, 常 捨 舟 登 此 山, 拊 其 崖 碑,
剝 苔 認 讀, 則 知 古 塔 乃 李 朝 廣 佑 七 年 辛 未 所 建 也. 及 陟 嶔
岑 上 嶒 巔, 但 見 殘 磚 廢 址 委 翳 于 幽 叢 亂 石 間, 不 覺 啾 然 長
歎: 何 興 亡 成 敗 才 二 百 數 十 餘 年, 遽 成 陳 跡, 相 從 而 磨 滅 耶?
78
又 有 作 者 否 耶? 自 有 宇 宙, 便 有 此 山, 登 臨 而 同 盡 者 不 知 其
幾 也. 余 後 客 四 方, 仕 宦 于 朝, 備 位 台 省, 天 涯 舊 隱 時 復 夢 中
遊 耳.
Phiên âm:
Ngô hương đa thắng cảnh, thiếu thời du lãm, túc tích đãi biến, thường xả chu đăng
thử sơn; phụ kì nhai bi, bác đài nhận độc, tắc tri cổ tháp nãi Lý triều Quảng Hựu
thất niên Tân Mùi sở kiến dã. Cập trắc khâm sầm thượng tằng điên, đãn kiến tàn
chuyên phế chỉ ủy ế vu u tùng loạn thạch gian, bất giác thứu nhiên trường thán: hà
hưng vong thành bại tài nhị bách sổ thập dư niên, cứ thành trầm tích, tương tòng
nhi ma diệt da? Hựu hữu tác giả phủ da? Tự hữu vũ trụ tiện hữu thử sơn, đăng lâm
nhi đồng tận giả bất tri kì kỉ dã. Dư hậu khách tứ phương sĩ hoạn vu triều, bị vị đài
sảnh, thiên nhai cựu ẩn thời phục mộng trung du nhĩ.
Dịch:

Tái dụ Vương Thông thư 再 諭 王 通 書


(Nguyễn Trãi)
Vài nét khái quát
Trong sự nghiệp phò tá Lê Lợi đánh quân Minh, Nguyễn Trãi có nhiệm vụ soạn
thảo các thư từ gửi cho các tướng nhà Minh và nhân danh Lê Lợi để khuyên dụ.
Nguyễn Trãi đã thực hiện chiến thuật "tâm công" hết sức hiệu quả.
Thư lại dụ Vương Thông là thư số 35, một trong những bức thư gửi cho Vương
Thông. Bấy giờ thành Đông Quan (Hà Nội nay) bị quân ta vây hãm, quân địch ở
trong thành đang khốn đốn. Bức thư này viết vào khoảng tháng 2 – 1427 thì đến
tháng 10 năm ấy, sau khi Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông không
đợi lệnh vua Minh đã "tự ý giảng hoà" với quân Lam Sơn rồi rút quân về nước.
Mục đích viết thư của Nguyễn Trãi là dụ giặc ra hàng và rút quân về n¬ước. Mục

79
đích này được nói rõ trong các câu: "Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu
sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng
nộp. Như vậy, trong thành sẽ tránh được nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau
thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ".

Đoạn 1: (Phù, thiện dụng binh giả…. Thử chi vị dã).


夫 善 用 兵 者, 在 乎 審 時 勢 而 已. 得 其 時 有 其 勢 則 變 亡. 為 存,
化 小 成 大; 失 其 時 無 其 勢 則 反 強 為 弱, 轉 安 為 危 在 乎 反 掌
之 間 爾. 今 卿 等 不 明 時 勢 更 飾 誣 豈 不 是 庸 劣 匹 夫, 何 足 與

言 兵 事 也. 往 者, 內 懷 詭 詐, 外 托 講 和, 掘 壕 築 壘, 坐 待 援 兵,

心 跡 不 白, 內 外 不 一, 安 能 使 我 必 篤 信 而 勿 疑 乎? 古 人 云: 他
人 有 心, 予 忖 度, 此 之 謂 也.
Phiên âm:
Phù thiện dụng binh giả tạo hồ thẩm thời thế nhi dĩ. Đắc kì thời hữu kì thế tắc biến
vong vi tồn, hóa tiểu thành đại; thất kì thời vô kì thế tắc phản cường vi nhược,
chuyển an vi nguy tại hồ phản chưởng chi gian nhĩ. Kim khanh đẳng bất minh thời
thế, cánh sức vu từ, khởi bất thị dung liệt sất phu, hà túc dữ ngôn binh sự dã. Vãng
giả, nội hoài quỷ trá, ngoại thác giảng hòa, quật hào trúc lũy tạo đãi viện binh, tâm
tích bất bạch, nội ngoại bất nhất, an năng sử ngã tất đốc tín nhi vật nghi hồ? Cổ
nhân vân: “Tha nhân hữu tâm, dư thỗn đạc chi” thử chi vị dã.
Dịch:

80

You might also like