You are on page 1of 8

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

(LƯU QUANG VŨ)


I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948- 1988), sinh tại Phú Thọ, quê gốc ở Đà Nẵng.
- Tuổi thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với vùng Phú Thọ, đến năm 1954, ông về sống và đi
học ở Hà Nội.
- Lưu Quang Vũ còn là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,…
nhưng thành công nhất là kịch.
a. Vị trí văn học sử:
- Lưu Quang Vũ là “hiện tượng” đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX,
một trong những nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Cho đến nay, nhiều vở kịch của ông vẫn có sức sống mãnh liệt trong lòng công chúng. Sức
hấp dẫn của kịch Lưu Quang Vũ là chiều sâu những giá trị muôn thuở được thể hiện qua
ngôn ngữ kịch vừa đời thường, vừa thấm đẫm chất thơ cùng màu sắc triết lí nhân sinh.
b. Nhân tố tạo nên thành công:
- Nhân tố chủ quan: Cảm hứng và tài năng nghệ sĩ.
• Nguồn cảm hứng: động lực thôi thúc viết kịch cũng là động lực khiến tác giả viết thơ
 khát vọng được bày tỏ tâm hồn mình và thế giới, muốn tham dự vào dòng chảy cuộn
xiết của đời sống, được trao gửi và dâng hiến  sẵn bầu cảm hứng rạo rực, trăn trở,
khát khao.
• Tài hoa nhiều mặt: sáng tác thơ, vẽ tranh, viết truyện ngắn.
- Nhân tố khách quan: không khí đổi mới, tinh thần dân chủ trong đời sống văn hóa chính trị
những năm 80  con người cá nhân với những mối quan hệ bề bộn thường ngày cùng văn
học tham gia cuộc đối thoại với công chúng về những vấn đề nóng bỏng của xã hội  tác
động tích cực đến tâm thế sáng tạo của văn nghệ sĩ.
 Lựa chọn kịch nói là một cách “xung trận” trực tiếp, có thể tác động vào xã hội nhanh
nhạy, hiệu quả, thể hiện trọn vẹn nhiệt hứng Lưu Quang Vũ.
2. Tác phẩm:
a. Vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt:
- “Hồn trương ba, da hàng thịt” là một những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ
cốt truyện dân gian, ông xây dựng vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý
nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.
- Vở kịch viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, được công diễn nhiều
lần trên sân khấu trong và ngoài nước.
* Nhan đề: ngầm chứa đựng một nghịch cảnh trớ trêu, một nghịch lí mang ý vị nhân sinh
sâu sắc.
- Nhan đề cho thấy tình cảnh trớ trêu, mâu thuẫn, đau khổ của Hồn Trương Ba khi tâm hồn
thanh cao, nhân hậu phải ẩn trong thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.
Trang 1
- Nhan đề truyện đặt ra vấn đề: Con người phải được sống đúng là mình với những phẩm
chất tốt đẹp, sống hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
* Tóm tắt vở kịch:
Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, Nam Tào và Đế
Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Linh hồn trú
nhờ vào thể xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị
hàng thịt đòi chồng, người thân cảm thấy xa lạ,… mà bản thân hồn Trương Ba lại đau khổ,
dằn vặt vì phải sống trái tự nhiên và giả tạo. Đặc biệt, thân xác hàng thịt làm Trương Ba
nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu không phải của chính bản thân ông. Trước sự phiền
toái và nguy cơ bị tha hóa, Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, nhờ Đế Thích
cứu sống cu Tị và bản thân ông chấp nhận cái chết.
* Đề tài, chủ đề:
- Suy nghiệm về nhân sinh, hạnh phúc: Giá trị của cuộc sống chỉ được xác lập khi được sống
là chính mình, trong một thể thống nhất giữa linh hồn và thể xác.
- Phê phán một số thói xấu trong xã hội đương thời: sự sách nhiễu, thói làm ăn vô trách
nhiệm của giới cầm quyền, cách sống giả dối, không dám là mình; sự tha hóa vì dục vọng
tầm thường…
- Thấp thoáng vấn đề triết học sâu sắc: mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, trong đó tác giả
nhận thấy tính chất biện chứng của nó song đặc biệt nhấn mạnh, ngợi ca mặt tinh thần cao
khiết, thanh sạch của con người.
b. Đoạn trích:
* Vị trí đoạn trích: Cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
* Tóm tắt diễn biến tình huống kịch:
Sau khi hồn Trương Ba được sống hợp pháp trong xác hàng thịt, cuộc sống vay mượn
trái tự nhiên bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo đã làm phát sinh những mâu thuẫn giữa
hồn và xác. Mâu thuẫn càng phát triển khi linh hồn thanh cao dần bị tha hóa trước sự đòi hỏi,
lấn át của thân xác thô phàm – Trương Ba trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình,
với bạn bè và tự chán ghét, ghê sợ chính mình. Xung đột được đẩy lên tới đỉnh điểm khi
Trương Ba không chịu nổi tình cảnh đau khổ, tuyệt vọng đã quyết định khước từ cuộc sống
không phải của mình, chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Đoạn trích chính là một phần cảnh 7,
cảnh cuối cùng của vở kịch, khi xung đột kịch lên đến cao trào và kết thúc bằng cái chết của
hồn Trương Ba.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn
Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình. Trương Ba dần dần
đổi tính: cũng uống nhiều rượu, ham bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí
tuệ là đánh cờ nữa

Trang 2
Trương Ba càng khổ sở hơn vì ông ý thức được những điều đó mà không thể giải quyết
được. Ông tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu. Nghịch cảnh
đó được đây lên cao trào qua các cuộc đối thoại.
1. Cuộc đối thoại giữa hồn trương Ba và xác anh hàng thịt:
- Sự tha hóa của Trương Ba trong hoàn cảnh phải sống nhờ vào thân xác người khác đã được
Lưu Quang Vũ thể hiện rõ nét qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, qua
sự bối rối, khổ sở, bế tắc của hồn Trương Ba và sự đắc thắng bởi những lí lẽ trâng tráo nhưng
đầy sức thuyết phục của xác hàng thịt.
- Do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Trương Ba phải chết một cách vô lí, Nam Tào sửa
sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống nhờ thể xác anh hàng thịt. Linh hồn nhân hậu, trong
sạch, bản tính thẳng thắn của Trương Ba dần dần bị xác thịt thô phàm anh hàng thịt sai
khiến.
- Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ: “Không! Không! Tôi không
muốn sống như thế này mãi!”
- Hồn Trương Ba quyết định chống lại bằng cách tách khỏi xác để tồn tại độc lập, không còn
bị lệ thuộc.
- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế đuối lí, bất lợi:
+ Hồn Trương Ba giận dữ không công nhận thể xác, chê bai thể xác chỉ là loại đáng
khinh, “xác thịt âm u, đui mù”.
+ Xác thịt chỉ “là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa, không có tư tưởng, không có suy
nghĩ, không có cảm xúc”.
+ Thậm chí ông còn nặng lời hơn: “Nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất kỳ một
con thú nào cũng có được. Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt...”.
 Tuy nhiên, đằng sau những lời mỉa mai thì hồn đã buộc phải công nhận sự có mặt
của xác, đồng ý xác có tiếng nói.
- Xác tuyên bố về sự tồn tại, sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình:
+ Xác quả quyết: “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy. Chính vì âm u đui mù nên tôi mới
có sức mạnh ghê gớm lắm khi lấn át được cái linh hồn cao khiết của ông”.
+ Xác làm tha hóa hồn, vấy bẩn hồn theo những nhu cầu bản năng: “Khi ông ở bên nhà
tôi... Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại...
Đêm hôm đó, suýt nữa...”, xác nhắc lại tường tận dục vọng thấp hèn mà trước đây Trương
Ba không hề có.
+ Không chỉ vậy, xác còn làm hồn “lâng lâng” khi tận hưởng những món ăn dung tục:
“tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ vị khác...”.
+ Xác còn làm cho Trương Ba từ một người hiền lành trở nên thô lỗ, phũ phàng, ông đã
nổi giận “tát thằng con tóe máu mồm, máu mũi”.
+ Xác biết rõ những cố gắng của Trương Ba là vô ích nên đã cười nhạo cái lí lẽ mà hồn
đưa ra để ngụy biện “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”.
+ Xác còn ve vãn hồn thoả hiệp vì: “chẳng còn cách nào khác đâu”, “cả hai đã hoà nhau
làm một rồi”

Trang 3
+ Trước những “lí lẽ đê tiện” của xác: Ban đầu, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ, mắng
xác thịt hèn hạ. Sau đó, hồn ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh của mình nên chỉ nói những
lời thoại ngắn kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
- Đối với hồn, xác rất quan trọng, bởi nếu không có xác, hồn chẳng có chốn dung thân và
ngược lại, nếu không có hồn, xác cũng chỉ là cái thân vô tri vô giác. Vì thế cho nên xác và
hồn khi đã chung sống cùng nhau thì “tuy hai mà lại là một”.
- Kết thúc màn đối thoại, hồn Trương Ba thua cuộc và buộc chấp nhận “lí lẽ ti tiện” của
xác và lại bần thần nhập vào xác anh hàng thịt.
- Ý nghĩa của đoạn đối thoại:
+ Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng lại là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
+ Đó là cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt bên trong một con người là hồn và xác.
+ Đó là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần
“người” và phần “con”, giữa cái cao cả và cái đê hèn.
+ Tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu sẽ bị dung tục ngự
trị, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
=> Từ đó, nêu lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý
thức, tự đấu tranh bản thân chiến thắng trước những ham muốn, lợi lộc.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân:
a. Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ:
- Vợ Trương Ba nhận ra: ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa.
Người vợ hiểu rất rõ Trương Ba bây giờ hoàn toàn bị sự sai khiến mạnh mẽ của cái thân xác
ông đang phải sống nhờ, và vì thế, Trương Ba không còn khả năng sống với những ý muốn
tốt đẹp của người làm vườn chăm chỉ, đôn hậu ngày xưa nữa: “ông bảo không được nhưng
tôi biết rồi sự thể sẽ cứ dẫn đến như vậy, ông sẽ đành ưng chịu như vậy”… Với trái tim nhân
hậu của người vợ, bà thấu hiểu nỗi bất hạnh, đau khổ của Trương Ba trong cuộc sống không
phải của mình, bà càng đau khổ hơn khi không thể giúp Trương Ba thay đổi hoàn cảnh bế tắc
của ông. Tuy nhiên, dù thấu hiểu và xót thương, vợ Trương Ba vẫn không thể đối diện với
người chồng đang ngày càng hòa nhập với thân xác đồ tể nên bà muốn bỏ đi.
- Chính Trương Ba cũng ý thức được nỗi đau khổ của vợ, ông nói với người con dâu: “Thầy
đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thầy xuống đất, tưởng thầy đã chết hẳn, u cũng
không khổ bằng bây giờ”. Nỗi khổ của người vợ nhân hậu, vị tha khiến Trương Ba công
nhận rõ bi kịch không lối thoát của mình.
b. Cháu gái Trương Ba: phản ứng quyết liệt và dữ dội
- Quyết liệt và dữ dội nhất chính là thái độ của cái Gái – đứa cháu gái yêu quý ông nội sâu
sắc, mãnh liệt. Càng yêu quí, nhớ thương ông nội, cái Gái càng trân trọng, nâng niu những kỉ
niệm về ông, từ đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc lào, nhất là những cây thuốc trong vườn; nó chỉ
sống với những kí ức thiêng liêng về người ông chăm chỉ, nhẹ nhàng, khéo léo, gắn bó với
vườn cây, người ông nội hiền hậu luôn dành tình cả trìu mến yêu thương cho nó, cho cu Tị…
Tâm hồn trong sáng ngây thơ của nó tuyệt đối không thể chấp nhận những dàn xếp trái tự
Trang 4
nhiên của thế giới thần tiên, những thỏa hiệp kì lạ của thế giới người lớn, đặc biệt không
chấp nhận nổi sự tồn tại giả dối, quái gở của cái gọi là hồn Trương Ba – da hàng thịt.
- Nó khước từ tình thân: “tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi”.
- Nó không thể chấp nhận con người đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây
sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó.
- Nó hận vì ông đã làm gãy nát cái diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc,
cứ bắt đền.
- Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nó xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu
lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”=> cách gọi cho thấy thái độ rành mạch dứt khoát tới
nghiệt ngã của trẻ thơ.
c. Con dâu Trương Ba thấu hiểu và xót thương:
- Con dâu Trương Ba hiểu bây giờ, trong thân xác hàng thịt, Trương Ba khổ hơn xưa nhiều
lắm. Chị thương cho tình cảnh sống nhờ, sống vay mượn trái tự nhiên của Trương Ba, càng
thương hơn cho sự thay đổi không tránh khỏi của bố chồng: “Thầy bảo con: cái bên ngoài là
không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi… mỗi ngày, thầy một đổi khác dần, mất
mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đi…”. Nỗi lòng chân thành của người con dâu
hiếu thảo đã phản ánh chính xác bi kịch của Trương Ba: trong cảm nhận của những người
thân yêu, Trương Ba hiền hậu, vui vẻ, tốt lành ngày xưa cứ bị cuốn xa dần, nhòa mờ dần
phía sau những biểu hiện thô lỗ, phàm tục của thân xác đồ tể - nơi chứa đựng linh hồn ông.
- Bi kịch tha hóa của Trương Ba đã hiện rõ qua cảm nhận của người con dâu: “chính con
cũng không nhận ra thầy nữa”. Bi kịch ấy càng đau xót hơn trong ước mong vô vọng của
chị: “làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa
kia?”.
 Qua cuộc đối thoại với người thân, Trương Ba - người chồng, người cha, người ông trong
sạch, nhân hậu trước đây - đã và đang thành một kẻ khác, với những thói hư tật xấu của một
tên đồ tể thô lỗ, phàm tục.
* Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba:
+ Ông đau khổ, tuyệt vọng khi vì ông mà tất cả những người thân phải đau đớn, bàng
hoàng, bế tắc, vì ông mà nhà cửa tan hoang.
+ Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, cầu cứu cháu gái, run rẩy trong trong nỗi đau, nhận thấy:
“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…”
+ Đặt những câu hỏi mang tính tự vấn: “Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có
thật không còn cách nào khác?”
+ Khẳng định dứt khoát: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
 Trương Ba cũng nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết liệt để giành giật
lại bản thân mình. Ông tự vấn lương tâm và khẳng định dứt khoát thái độ sống: cái quý nhất
của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà
đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như Hồn Trương Ba
đang sống thà chết còn hơn. Từ đó dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích.
Trang 5
3. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích:
- Trong màn đối thoại với Đế Thích, Trương Ba đã tiếp tục phải đấu tranh với những lời
thuyết phục, những giải pháp xuất phát từ thiện ý của Đế Thích, đã dần đi đến quyết định
cuối cùng, kiên quyết chối từ cuộc sống chắp vá, vay mượn, bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo, ông muốn được sống là mình một cách toàn vẹn.
- Gặp lại Đế Thích, Trương Ba kiên quyết từ chối, không chấp nhận cảnh phải sống “bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…”
- Lúc đầu, Đế Thích ngạc nhiên, nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì
thế giới vốn không tròn vẹn: “dưới đất, trên trời đều như thế cả”.
- Nhưng Trương Ba không chấp nhận lẽ đó, thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”
- Trương Ba cho rằng: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt – bất chấp sự thuyết phục của lí
thuyết số đông, Trương Ba vẫn không thể chấp nhận nổi tấn bi kịch của một cuộc sống giả
dối, vay mượn đáng xấu hổ. Khi đã trải qua bi kịch hồn Trương Ba, da hàng thịt, bi kịch
trong cuộc sống không phải của mình, Trương Ba khẳng định chua xót và thấm thía: sống
thế này, còn khổ hơn là cái chết. Với một người nhân hậu như Trương Ba, ông còn day dứt
vì sự sống vay mượn giả tạo của mình đã đem đến bao đau khổ cho những người thân, khiến
ông không còn đủ tư cách để khuyên con trai mình đi vào con đường ngay thẳng, đã khiến
gia đình thân yêu của ông như sắp tan hoang ra cả… Đó là những cái giá quá đắt cho cả
Trương Ba và gia đình ông, cái giá mà ông không thể trả dù là cho sự sống quí giá của chính
mình!
=> Lòng tốt của Đế Thích là điều đáng quý, nhưng lòng tốt thiếu thực tế thì lại đẩy người
ta vào nghịch cảnh.
- Đế Thích định tiếp tục sửa sai bằng giải pháp là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
- Nhưng Trương Ba kiên quyết chối từ, không chấp nhận cảnh sống giả tạo, chỉ có lợi cho
đám chức sắc.
- Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là cho cu Tị được
sống lại, còn mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa. Đế Thích cuối
cùng thuận theo lời đề nghị của Trương Ba.
- Quyết định dũng cảm, trung thực đã giúp ông có thể tự tin dạy con lời tha thiết cuối cùng:
Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo điên, hèn hạ, không được là chính mình
còn tệ hơn cái chết!
 Quyết định của Trương Ba cho thấy ông là con người nhân hậu, trung thực và giàu lòng
tự trọng, là con người yêu cuộc sống nhưng cũng ý thức sâu sắc được ý nghĩa của cuộc sống
đích thực.
 Sự khác nhau trong quan niệm về sự sống giữa Trương Ba và Đế Thích:
+ Đế Thích có cái nhìn khá quan liêu, hời hợt (một phần xuất phát từ sự ích kỉ của bản
thân). Với Đế Thích được tồn tại trên cõi đời đã là hạnh phúc.

Trang 6
+ Trương Ba cần cuộc sống có ý nghĩa, phải đúng là mình, hoà hợp toàn vẹn giữa linh hồn
và thể xác.
 Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc qua hai lời thoại này:
+ Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.
+ Sống thực sự là con người không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống chắp vá,
không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa, sẽ gây tai họa cho nhiều người tốt, tạo cơ
hội cho kẻ xấu sách nhiễu.
4. Màn kết:
- Trương Ba trả lại Xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để cho linh hồn trong sạch và
hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của
mình cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.
- Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho vở kịch đồng thời
truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực.
+ Hành động: hai đứa trẻ chia nhau quả na “do ông nội trồng”, rồi vùi hạt na xuống
đất: “cho nó mọc thành cây. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi...”
+ Ý nghĩa: đứa trẻ ngây thơ, trong sáng gieo trồng hạt giống mới biểu trưng cho sự tiếp
nối, sinh sôi bất tử của hồn Trương Ba – một vẻ đẹp thanh khiết, nguyên vẹn cùng tâm
hồn thanh cao.
5. Ý nghĩa thời sự của vở kịch:
- Phê phán thói chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường, chỉ muốn hưởng thụ đến
mức thô thiển.
- Phê phán những kẻ lấy cớ tâm hồn là đáng quý, là thanh cao để lơ là đời sống sinh hoạt vật
chất dẫn đến lười biếng, không tưởng và duy tâm...
- Phê phán những kẻ sống giả dối, không dám sống thật với bản thân mình. Tình trạng con
người bị đẩy đến chỗ bị tha hóa vì danh lợi.
III. Tổng kết
1. Giá trị tư tưởng:
- Thông qua đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới
người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự
có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con
người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính mình, chống lại sự
dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
- Triết lý nhân sinh, lẽ sống, cách sống tác giả gửi gắm thông qua tác phẩm:
+ Thứ nhất: con người cứ mải miết chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất
thì chỉ trở nên phàm tục, thô thiển.
+ Thứ hai: đừng lấy cớ tâm hồn là quý, mà lơ là đi vẻ bề ngoài, muốn toàn vẹn thì phải
hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, giữa cái bên trong và cái bên ngoài.

Trang 7
+ Thứ ba: trong cuộc sống chúng ta luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm
thường, chống lại những thói dung tục để hoàn thiện nhân cách.
- Phê phán những biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống (xem ý nghĩa thời sự ở trên).
2. Giá trị nghệ thuật:
- Sáng tạo lại cốt truyện dân gian, mang đến nhiều ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm sinh động.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện được sự phát triển
của tình huống kịch. Cùng với việc diễn tả hành động bên ngoài, tác giả còn thành công khi
diễn tả hành động bên trong phản ánh thế giới tinh thần căng thẳng.
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, gắn với tình cảnh, tâm trạng cụ thể; có giọng điệu biến hóa,
lôi cuốn, đặc biệt có những lời thoại vừa hướng ngoại lại vừa mang tính chất hướng nội.

Trang 8

You might also like