You are on page 1of 16

TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

+
BÀI 1: Phương pháp tiếp cận/ nghiên cứu LSVM
Trước tiên ta cần đi vào các khái niệm Văn minh; nền văn minh.
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức
là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Đến giai đoạn nhà nước ra đời thì loài người
mới bước vào xã hội văn minh.
Nền văn minh là những thành tựu đỉnh cao của xã hội loài người trên một địa bàn nhất
định, vào một thời gian xác định và gắn liền với chủ nhân của nền văn minh đó.
Phương pháp tiếp cận Lịch sử văn minh gồm 3 phương pháp chính: nghiên cứu trên nền
tảng lý luận của chủ nghĩa Mac- Lênin; phương pháp khoa học lịch sử và logic; nghiên cứu
lịch sử các nền văn minh.
Vì Lịch sử văn minh thế giới là bộ môn chuyên ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn nên ta
cần vận dụng nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mac- Lênin trong quá trình nghiên cứu.
Phương pháp này dựa trên nền tảng lý luận Mac- Lênin gồm hai hạt nhân lý thuyết căn
bản: chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng vào nghiên cứu lịch sử văn minh thế giới để nhận
biết quy luật vận động chung của tiến trình lịch sử xã hội loài người. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử , mọi hiện tượng, mọi nền văn minh đều trải qua ba quá trình:
hình thành, phát triển và suy tàn. Quá trình hình thành là thời gian xuất hiện nền văn minh,
xây dựng nên nhà nước, bao gồm không gian, yếu tố con người- tức chủ nhân của nền văn
minh đó. Quá trình phát triển được tìm hiểu qua các khía cạnh kinh tế, xã hội và thành tựu
văn minh, trong đó kinh tế là quan trọng nhất. Sự suy tàn của các nền văn minh do thiên
nhiên (thiên tai hoặc dịch bệnh), do các cuộc nội xâm, ngoại xâm.
Phương pháp này còn vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nhận biết
mối quan hệ biện chứng của các yếu tố khách quan như tự nhiên, lịch sử và yếu tố chủ
quan: con người, kinh tế, chính trị, xã hội... tác động đến sự hình thành và phát triển của các
nền văn minh.
Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử và logic gồm: phương pháp lịch sử, phương
pháp logic và các phương pháp so sánh lịch sử.
Phương pháp lịch sử bao gồm các bước: tiếp cận tư liệu, mô tả lại diễn trình văn minh và
đưa ra đánh giá, phương pháp này cho phép chúng ta có cái nhìn khái quát, căn bản về nền
văn minh được nghiên cứu.
Với phương pháp logic, đầu tiên chúng ta tiếp cận tư liệu, dựa trên những tư liệu đã được
tìm hiểu, chúng ta bắt đầu tiến hành hệ thống, phân tích, nhận xét, đưa đánh giá và kết luận

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

để từ đó đưa ra các quy luật, bản chất, khuynh hướng của nền văn minh, các giá trị, bài học
rút ra. Đó chính là phương pháp logic.
Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, quy nạp,
diễn dịch, nghiên cứu liên ngành và đặc biệt là so sánh lịch sử, gồm so sánh đồng đại và so
sách lịch đại. So sánh đồng đại là so sánh các thành tự văn minh, nền văn minh khác nhau
trong cùng một thời kỳ lịch sử cụ thể, có nghĩa là dùng một lát cắt thời đại để nghiên cứu.
Điển hình như khi ta nghiên cứu mô hình nhà nước phương Đông và phương Tây thời cổ
đại. So sánh lịch đại là so sánh giữa nhiều thời kỳ lịch sử, mốc thời gian khác nhau của một
đối tượng nghiên cứu, một thành tựu, một nền văn minh cụ thể. Ví dụ như sự phát triển văn
học Trung Quốc thời cổ đại, trung đại.
Phương pháp cuối cùng chính là tiếp cận Lịch sử văn minh thế giới theo từng nền văn
minh cụ thể với cấu trúc “năm yếu tố hình thành và tám thành tựu cơ bản”.
Năm cơ sở hình thành bao gồm yếu tố khách quan: điều kiện tự nhiên (cho ta biết không
gian sáng định), tiến trình lịch sử (cho ta biết buổi bình minh rực rỡ và sự suy tàn của nền
văn minh đó), yếu tố chủ quan: thành phần dân cư (cho ta biết chủ nhân nền văn minh đó),
trình độ kinh tế (là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự xuất hiện, phát triển của nền văn minh),
trình độ tổ chức và quản lí xã hội (Tức là tìm hiểu về cấu trúc xã hội, ý thức hệ chính trị
thúc đẩy sự ra đời, định hướng sự phát triển của một nền văn minh cũng như sự suy tàn, sự
suy vong và sự phục hưng của một nền văn minh).
Từ các cơ sở hình thành văn minh trên chúng ta đi sâu vào bản chất của một nền văn minh
thông qua các thành tựu căn bản như thành tựu khoa học xã hội và nhân văn: chữ viết, văn
học, sử học, nghệ thuật, thành tựu khoa học tự nhiên và hệ tư tưởng: khoa học tự nhiên, tôn
giáo, triết học, luật pháp. Không phải nền văn minh nào cũng có tất cả các thành tựu trên,
tuy nhiên dù, đối với một số nền văn minh điển hình như Ai Cập chỉ với các thành tựu: chữ
viết, văn học, khoa học tự nhiên cũng đủ để khởi đầu một nền văn minh được mệnh danh là
cái nôi văn minh nhân loại, vĩ đại và rực rỡ, trường tồn cùng thời gian.
Nhận định cá nhân: Khi nghiên cứu lịch sử văn minh thế giới, chúng ta có thể sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp trên nhưng có lẽ phương pháp nghiên cứu lịch sử từng nền văn
minh (số 3) được sử dụng nhiều nhất, bởi ta có thể thấy được bình minh rực rỡ của các nền
văn minh qua khám phá về cơ sở hình thành và thành tựu nổi bật của nó một cách trực tiếp
và hiệu quả nhất.
BÀI 2: Ai Cập cổ đại
Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đặc biệt để ghi lại tiếng nói của con người, 1 phương pháp
để truyền tải thông tin qua thời gian và không gian. Thành tựu về chữ viết: phát triển từ chữ
tượng hình đến hình vẽ âm tiết rồi đến chữ cái. Ví dụ chữ chính nghĩa thì vẽ lông Đà Điểu,
vì lông Đà Điểu hầu như dài bằng nhau, tượng trưng cho sự công bằng.

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Chữ tượng hình được khắc trên hang đá, gỗ, đồ gốm hoặc viết trên da nhưng chất liệu phổ
biến nhất vẫn là giấy papyrus, làm từ cây papyrus, là phát minh giấy sớm nhất trên thế giới.
Giấy papyrus có màu ngà, nâu vàng, cứng nhưng có thể uốn cong, và đặc biệt rất bền, được
làm từ lõi của một loại cói có tên papyrus, cao khoảng 2-3m mọc hai bên bờ sông Nile. Để
hoàn thành sản phẩm giấy papyrus cần trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi tay
nghề khéo của người thợ. Cho đến ngày nay giấy papyrus là phát minh giấy có chất lượng
tốt nhất nhưng hiếm được sử dụng vì các lí do sau: nguyên liệu sản xuất ra nó là loài cây
papyrus chỉ mọc ở vùng đất Ai Cập, quá trình làm hoàn toàn thủ công và tỉ mỉ mới cho ra
sản phẩm, hơn nữa giấy trắng phát minh từ Trung Quốc chiếm ưu thế lớn, được sử dụng
rộng rãi trên thế giới. Người Ai Cập cổ dùng bút làm bằng thân cây sậy và mực làm bằng
bồ hóng viết trên giấy papyrus
Văn học Ai Cập cổ đại chia làm hai bộ phận: văn học dân gian và tôn giáo. Các tác phẩm
tiêu biểu có thể kể đến như: Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Nói chuyện với linh
hồn của mình, và vô số các tác phẩm khác. Thành tựu văn học gồm ba nội dung chính: mô
tả cuộc sống hiện thực, ca ngợi thần linh ( phương Đông thiên về ca ngợi thần lin, ngược
với niềm tin của phương Tây: xây dựng hình ảnh thần kinh mang bản chất của con người)
và phản ánh chiến tranh. Văn học Ai Cập là một minh chứng vô cùng rõ ràng rằng người Ai
Cập cổ đại có đời sống tinh thần vô cùng phong phú, đẹp đẽ khi những tác phẩm mang tính
triết lí cùng các giá trị trí tuệ, thông thái. Những tác phẩm tìm lại từ thời đại cổ xưa, được
lưu giữ trong các bảo tàng trên toàn thế giới chỉ là một phần di tích nhỏ bé của cả một nền
văn học lớn mà tiếc thay đã bị chôn vùi bởi thời gian.
Vào thời kỳ cổ đại, người Ai Cập chịu ảnh hưởng sâu sắc của đa thần giáo, các tín ngưỡng
dân gian và tư tưởng thần quyền của Pha-ra-ông (Pharaoh, theo đa thần giáo vì vì có rất
nhiều hiện tượng tự nhiên họ chưa thể giải thích, nên đã quy thành thần linh, ví dụ thần tự
nhiên như thần Mặt trời- thần Ra, thần đất và quản ngục Osiris, thần động vật: sùng bái
loài vật gần gũi với con người, có sức khỏe, sinh sản tốt). Tuy nhiên, sự khám phá tri thức
về khoa học tự nhiên của họ vẫn có giá trị đến ngày nay. Thành tựu khoa học tự nhiên chia
làm ba lĩnh vực chính.
Người Ai Cập cổ đại giỏi thiên văn vì các nguyên nhân sau. Thứ nhất, nhu cầu tìm hiểu
quy luật dâng nước của sông Nin, để có thể dễ dàng tính toán thời vụ gieo trồng, thu hoạch
nông sản. Thứ hai, nhu cầu quan sát bầu trời, bầu trời ở Ai Cập cổ trong trẻo cả ngày lẫn
đêm, rất dễ quan sát, những người phục vụ cho tôn giáo thường quan sát bầu trời để đưa ra
lễ, luật cúng tế, và các yếu tố tín ngưỡng tâm linh. Các tri thức khoa học trong lĩnh vực này
có thể kể đến như:
Từ rất sớm người Ai Cập đã biết dùng những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có
khe hở và ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời.
Bầu trời đêm ở vùng đất huyền bí này giúp người Ai Cập sớm phát hiện ra các chòm sao và
đã soạn ra bản đồ các thiên thể, được vẽ lên các trần của những đền đài cổ.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Họ biết đến nhiều hành tinh trong Hệ Mặt trời như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, là khám
phá có giá trị và tiến bộ lúc bấy giờ. Bản đồ 12 cung hoàng đạo có từ thời vương triều XIV-
kiến thức được sử dụng rất phổ biến ngày nay.
Từ thời Tảo và cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết dựa vào mực nước sông Nin để tính
quy luật thời gian và phục vụ các nghi lễ tôn giáo.
Việc tạo ra lịch gắn liền với quá trình quan sát sao Thiên Lang (Sirius) trên bầu trời với
mục đích nắm vững thời tiết và khai thác nguồn lợi từ sông Nin (Nile) sử dụng cho nông
nghiệp. Lịch của họ cho rằng một năm có 365 ngày cũng chính là khoảng cách giữa 2 lần
sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân trời.
Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát minh ra đồng hồ mặt trời hay còn gọi
là nhật khuê, đồng hồ nước là những thành tựu quan trọng vào thời Tân vương quốc.
Những phát minh toán học ra đời là sản phẩm tất yếu của quá trình lao động và sản xuất.
Thứ nhất, vì nhu cầu đo đạc, phân chia lại ruộng đất sau các đợt dâng nước, lũ lụt của sông
Nin. Thứ hai nhu cầu xây dựng nhà cửa, đền miếu và kì quan vĩ đại được ví như những bậc
thang mây lên bầu trời- kim tự tháp. Và nguyên nhân cuối cùng chính là nhu cầu tính toán
trong buôn bán, giao thương, các loại thuế khóa. Một số thành tựu tiêu biểu trong lĩnh vực
toán học như:
Những quan niệm về số học xuất hiện từ thiên niên kỉ thứ III TCN. Đến đầu thiên niên kỉ
thứ II thì người Ai Cập đã phát triển thành công hệ số đếm của mình, dùng các ký hiệu thay
số. Ví dụ như một khúc dây thừng tượng trưng cho số 1, một đoạn dây thừng là số 10, và
một cuộn dây thừng được hiểu là số 100.
Họ đã biết dùng hệ đếm thập phân (hệ đếm cơ số 10), thành thạo các phép cộng và trừ,
chưa biết đến phép nhân và chia nhưng được thực hiện bằng cách cộng và trừ nhiều lần.
Về hình học, họ biết tính diện tích tam giác, hình cầu, thể tích hình tháp đáy vuông và biết
rằng bình phương của cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh trong một tam giác
vuông. Định lý Pythagore quen thuộc mà ngày chúng ta thường ứng dụng vào tính toán, do
nhà triết học Hy Lạp cổ Pythagoras sáng lập đã xuất hiện ở phương Đông cả nghìn năm
trước đó.
Họ còn tính được gần đúng số Pi bằng 3.16. Số pi của người Ai Cập chỉ mối tương quan
giữa chu vi và chiều cao khi xây dựng kì quan vĩ đại bất tử cùng thời gian- kim tự tháp.
Do nhu cầu giải phẫu tử thi để ướp xác đã tạo điều kiện cho họ phát triển y học, hiểu biết
khá sớm về cơ thể con người. Tục ướp xác của người Ai cập cổ đại được xem là một trong
những tục lệ mai táng phức tạp nhất trong lịch sử nhân loại. Người Ai Cập cổ tin vào sự
vĩnh hằng, và ướp xác là một trong những cách để người đã khuất có thể tiến vào thế giới
bên kia, nơi thần Osiris cai quản. Nhờ y học phát triển mà họ đã tìm tòi ra được phương
pháp ướp xác giữ được lâu nhất, điều khiến các nhà khảo cổ học thán phục và dành tâm
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

huyết cả đời để nghiên cứu. Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên
giấy papyrus và truyền lại đến ngày nay. Các tài liệu ấy đã đề cập đến các vấn đề như: chữa
bệnh bằng thảo mộc, biết chia thành các chuyên khoa như khoa nội, răng, đầu, mắt, bụng và
ngoại thương.
Người Ai Cập biết rằng nguyên nhân của bệnh tật không phải do ma quỷ hay phù thủy gây
ra mà do sự bất thường của hệ thống mạch máu. Đặc biệt họ nhận thức được bộ não và tim
là 2 bộ phận quan trọng của cơ thể và hiểu được mối quan hệ giữa tim và mạch máu. Khi
ướp xác, người Ai Cập cổ sẽ tiến hành lấy các cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ trái
tim, vì đó chính là chìa khóa mở cánh cửa đến kiếp sau. Theo quan niệm của cư dân Ai
Cập cổ, khi mất đi, mỗi linh hồn đều phải tham gia xét xử tại Duat, cõi âm của Ai Cập, nơi
có một gian phòng gọi là “Đại sảnh của sự thật”. Tại đây sẽ có một cán cân lớn để thực
hiện nghi lễ “cân tim” người chết, một bên đặt lông đà điểu- vật tượng trưng cho sự công
bằng, bên kia đặt trái tim của người chết.
Thầy thuốc Ai Cập chia các loại bệnh thành ba nhóm: bệnh chữa khỏi hoàn toàn, bệnh có
thể chữa khỏi (người bị bệnh sẽ được đưa vào “ngôi nhà sự sống”) và bệnh không thể chữa
được.
Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu rực rỡ không
thể phủ nhận và đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của nhiều lĩnh vực trong nền văn minh
thế giới. Nền văn minh Ai Cập cổ đại hay nền văn minh sông Nin được xem là một trong
những cái nôi của văn minh nhân loại. Văn minh Ai Cập là “hòn đá tảng” góp phần định
hướng và tác động đến văn minh Tây Âu, đồng thời thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của
loài người. Thế hệ sau rất may mắn khi có thể tìm lại và kế thừa những phát minh vĩ đại từ
trí tuệ và sáng tạo của cư dân Ai Cập cổ, ứng dụng vào đời sống hiện đại ngày nay.
BÀI 3: Văn minh Ấn Độ cổ- trung đại
Khoảng 3500 năm TCN, ở nền văn minh sông Ấn đã có chữ viết riêng của mình, người ta
thường gọi đó là chữ hình dấu (hình chữ nhật, vuông, tam giác, thoi). Chữ viết đầu tiên ở
Ấn được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh sông Ấn đã
phát hiện hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Đến nay, chữ hình dấu vẫn chưa được giải
mã. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn là tiến sĩ S.R.Rao đã khám
phá được sự bí ẩn của loại chữ này. Theo ông, đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và
ghi vần, trong số 3.000 con dấu đó có 22 dấu cơ bản, chủ yếu viết từ phải sang trái. Loại
chữ này còn được đóng trên hàng hóa, xác nhận xuất xứ hàng hóa vào thời điểm đó.
Ở phía Bắc của nền văn minh sông Hằng, khoảng thế kỷ thứ V TCN đã có chữ viết là chữ
Kharosthi có nguồn gốc từ chữ viết của người Lưỡng Hà cổ đại và chữ Brathmi viết trên
các văn bia của Asoka, được sử dụng rộng rãi trong triều đình với các bản báo cáo về thuế
khóa, tình hình đất nước hoặc sự kiện trọng đại trong mỗi vương triều.

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Khi đạo Hinđu phát triển cực thịnh với thời kì Bàlamôn, tôn giáo này đã sáng tạo 1 thể loại
chữ viết mới, đó là chữ Đêvanagari (hoặc chữ Sanscrit- chữ Phạn) có hệ thống ngữ pháp
phức tạp thường ko có quy tắc, vì vậy nó đã được cải tiến và chỉnh sửa rất nhiều lần. Chữ
Phạn là chữ viết rất quan trọng của nền văn minh sông Ấn, nó lưu giữ toàn bộ các bộ kinh
Vêđa, bộ luật kinh Upanisad... và các tác phẩm văn học rất nổi tiếng của Ấn. Vì thế đến nay
ở Ấn Độ, Nêpan vẫn sử dụng loại chữ này.
Ngoài ra, khi Đạo Phật ra đời đã sử dụng chữ Pali hay còn gọi là Nam Phạn. Nam Phạn là
ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm,
ghi lại kinh kệ nhà Phật.
Ấn Độ là 1 trong những quốc gia có hệ thống chữ viết phức tạp và đa dạng nhất trên thế
giới (Ấn Độ có 5 chữ viết được coi là chữ quốc gia trong đó có tiếng Anh. Ấn Độ có tổng
cộng 22 ngôn ngữ đồng chính thức, bao gồm cả ngôn ngữ chính thức lẫn ngôn ngữ sử dụng
phổ biến trên thực tế)
Văn học Ấn Độ rất phát triển và gồm hai bộ phận quan trọng: Vêđa và sử thi.
Vêđa (Kinh Vệ Đà) có nghĩa là “hiểu biết”, đây vừa là tác phẩm văn học, vừa là bộ kinh nổi
tiếng trong tôn giáo, nhưng có ý nghĩa về mặt tôn giáo cao hơn. Vêđa là kinh thánh của đạo
Bàlamôn, là kho tàng văn hóa truyền thống của Ấn Độ, ra đời vào thế kỉ XV TCN- thế kỷ
X TCN. Đây là bộ sách cổ nhất trong văn học Sanskrit, bộ kinh thành văn cổ nhất Ấn Độ.
Toàn thể bộ kinh được hợp lại từ bốn phần:
Rích Vêđa (Rig Véda): gồm 1028 bài cúng cầu nguyện, bài thơ tụng ca những vị thần như
thần sấm sét Indra, thần lửa Agni. Đây là tập kinh quan trọng nhất, đầy đủ và lâu đời nhất.
Xama Vêđa (Sâma Véda): ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu
được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices) nói về tình hình người Arya
tràn vào Ấn Độ, sự tan rã của chế độ thị tộc và tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên.
Yagiua Vêđa (Yayur Véda): là một chuỗi các nghi lễ tôn giáo khác nhau (nghi thức dâng
trăng tròn, trăng mới, nghi lễ dâng các vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..)
Atácva Vêđa (Atharva Véda): gồm các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực, gồm cá kiến
thức xã hội của Ấn Độ lúc bây giờ như chế độ đẳng cấp, hành quân, chữa bệnh, đánh bạc,
tình yêu.
Ngoài bốn tập trên, bộ kinh này còn có các tác phẩm văn học được viết bằng văn xuôi với
nội dung cầu nguyện và lí giải các triết lí trong đời sống. Vêđa là cốt lõi của đạo Bàlamôn
và được ví như suối nguồn của nền văn minh Ấn Độ.
Sử thi gồm hai bộ nổi tiếng: Mahabharata và Ramayana.
Sử thi Mahabharata (cuộc chiến của dòng họ Bharata) là bản trường ca gần 110.000 khổ thơ
(220.000 câu) gồm mười tám chương chính và một chương bổ sung tài liệu. Soạn giả của
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

bộ sử thi này là Viasa. Nội dung chính nói về cuộc đấu tranh trong nội bộ của dòng họ đế
vương ở miền Bắc Ấn Độ- Bharata. Mahabharata là sử thi dài nhất thế giới, là “Đại bách
khoa toàn thư” của người Ấn, phản ánh lịch sử cổ đại Ấn Độ, thể hiện tinh thần nhân văn,
đóng vai trò quan trọng trong triết học và tôn giáo ở vùng đất này.
Được coi là sách “gối đầu giường” của người Ấn, Ramayana (những cuộc du hành của
Rama) dài 48.000 câu thơ, gồm bảy chương, là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử
Rama tuấn tú và nàng công chúa luống cày xinh đẹp Sita. Soạn giả của Ramayana là
Vamiki. Tác phẩm phản ánh sự phát triển của xã hội người Arya, thể hiện tài năng, trí
tưởng tượng tuyệt vời, và ước mơ cao đẹp của cư dân vùng đất tôn giáo này.
Kalidasa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu
nhất của ông là vở kịch Sơcuntla. Là một nhà soạn nhạc cung đình chịu ảnh hưởng của đạo
Bàlamôn, nhưng Kalidasa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ
giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối lừa gạt của giai cấp thống trị và trên chừng mực nhất
định đã chống lại quan niệm về đẳng cấp. Kalidasa và Sơcuntla là niềm tự hào của nhân
dân Ấn Độ.
Ngoài ra văn học Ấn còn có các tác phẩm khác viết bằng phương ngữ, tức ngôn ngữ địa
phương, chủ yếu viết bằng ba thứ tiếng: tiếng Têlugu, tiếng Ba Tư và tiếng Indi. Các tác
phẩm này sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân gian, văn học dân gian, phản ánh tâm tư nguyện
vọng của quần chúng nhân dân.
Phật giáo ra đời khoảng giữa thiên niên kỉ thứ I TCN, tức Ấn Độ thời cổ đại, dưới chân núi
Himalaya (nước Capilavaxtu), thuộc dòng tư tưởng chống Bàlamôn. Sự ra đời của Phật
giáo dựa trên hai tiền đề.
Tiền đề kinh tế thể hiện qua sự thay đổi công cụ sản xuất lúc bấy giờ. Công cụ kim loại
đồng thau và sau đó là công cụ bằng sắt với ưu điểm là nhẹ hơn đã làm thay đổi bản chất
của sản xuất. Năng suất tăng lên kéo theo lượng của cải sản xuất ngày một nhiều hơn, từ đó
xuất hiện sự phân hóa xã hội. Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng làm xuất
hiện tầng lớp thương nhân. Nhiều người dân bị phá sản, rơi xuống đẳng cấp Soudra- biến
thành nô lệ hoặc ăn xin.
Xã hội Ấn Độ bất giờ xuất hiện nhiều vấn đề. Khoảng giữa thiên niên kỉ thứ I TCN, từ
những công xã cổ xưa đã hình thành hàng loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng. Các
vương quốc này luôn mâu thuẫn, chiến tranh liên miên. Tình hình chính trị bất ổn, tâm lí
dân chúng bất an. Thêm vào đó, xã hội Ấn Độ đương thời tồn tại chế độ đẳng cấp vững
chắc và vô cùng hà khắc. Có bốn chế độ đẳng cấp:
Tăng lữ (Brahman): là tầng lớp được tôn kính nhất, theo quan niệm trong đạo Bàlamôn,
đẳng cấp này tượng trưng cho miệng của thần Brama- đáng sáng tạo thế giới. Họ có địa vị
cao, thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng nộp thuế
cao và thực hiện các nghĩa vụ khác.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Quý tộc, binh sĩ (Ksatriyas): tượng trưng cho tay của thần Brama, tầng lớp bảo vệ và trực
tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo
lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp tăng lữ.
Dân thường (Vaishyas): tượng trưng cho đùi của thần Brama, cuộc sống không ổn định do
chiến tranh, mất mùa nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo, của chế độ
đẳng cấp hà khắc đè nặng.
Nô lệ (Shudras): ví như bàn chân của thần Brama, bị xem là đẳng cấp thấp hèn, có 1 số dân
thường bị phá sản trở thành nô lệ, 1 số phải đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến
tâm lí chán nản tuyệt vọng.
Vì thế, chế độ đẳng cấp trở thành nỗi bức xúc lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Cuộc sống khốn
khổ càng làm cư dân thêm căm phẫn kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna),
không còn tin vào các vị thần đạo Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền
toái, giáo lí khó hiểu ngày càng làm cho người dân xa rời tôn giáo này. Trong bối cảnh đó,
vào thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới như tu
hành khổ hạnh, Kỳ Na giáo (Jain)và Phật giáo. Các trường phái tôn giáo mới ra đời đều có
1 điểm chung là: trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật
giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là 1 phản đề của đạo Bàlamôn.
Siddharta Gautama hay Thích Ca Mâu Ni, ông chính là người sáng lập ra đạo Phật trên
mảnh đất này.
Tương truyền rằng, 2600 năm TCN, ở vùng Bắc Ấn, thành Capilavaxtu (Ca-tỳ-la-vệ) ,
Hoàng hậu Maya nằm mộng và sinh ra Thái tử Tất Đạt Đa. Thái tử lớn lên với tuổi thơ êm
đềm, đầy đủ mọi thứ nhưng Ngài luôn mang sự ưu tư, buồn chán và đa sầu đa cảm. Khi
trưởng thành, Thái tử nên duyên cùng công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara). Sau cuộc du
ngoạn bốn cửa thành, hiểu ra đạo lí sinh-lão-bệnh-tử của đời người, năm hai mươi chín
tuổi, Ngài xuất gia tu tập. Cuộc đời Đức Phật có sáu năm tu khổ hạnh, mãi cho đến năm ba
mươi lăm tuổi, Ngài giác ngộ thành Phật, sau đó Ngài dành bốn mưới lăm năm để đi thuyết
pháp, giúp người khác giác ngộ ra cái khổ của cuộc đời. Phật tịch năm 486 TCN.
Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi (Samsara) và nghiệp báo (Karma) của Upanisad: mọi
vật mất đi ở chỗ này để sinh ra ở chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi
phối theo luật nhân quả. Học thuyết của Phật giáo bao gồm quan niệm về Nhân sinh quan
và Thế giới quan.
Nhân sinh quan là quan điểm của đạo Phật về cuộc đời của con người mà cốt lõi chính là
Thuyết “Tứ Diệu đế”- bốn chân lí kì diệu chỉ ra nguyên nhân nỗi khổ và con đường giải
thoát khỏi khổ đau. “Tứ Diệu đế” bao gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế chính là chân lý về nỗi khổ, gồm năm nỗi khổ lớn của đời người: bốn cửa ải mà loài
người phải trải qua: sinh-lão-bệnh-tử; giữ “Ngũ uẩn”: sắc-thụ-tưởng-thức-hành; cầu mà
không được, gần kẻ mình không thích và xa những người mình yêu thương.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Tập đế là chân lý chỉ bày nguyên nhân của sự khổ. Con người vì vô minh, vì nghiệp tích tập
bao đời mà mãi trầm luân trong bể khổ. Để tận diệt được quả khổ, chúng ta phải tiêu trừ
được cái nhân của nó. Tập đế đã chỉ ra thủ phạm đằng sau mọi khổ đau của chúng sinh. Đó
chính là cái vô minh của trí tuệ, cái ngu si của trí tuệ, ham muốn, ái dục, mê mờ.
Diệt đế là chân lý về chấm dứt nỗi khổ. Diệt đế là sự thật đúng đắn mà mọi người đều có
thể đạt được, sau khi đã diệt trừ hết thảy phiền não, ham muốn. Bởi đó chính là nguyên
nhân của khổ đau. Đức Phật còn chỉ cho chúng ta thấy rằng có thể tận diệt khổ đau, chấm
dứt luân hồi sinh tử, đạt được giác ngộ giải thoát chân thật. Trạng thái giải thoát đó là đến
cõi Niết bàn Nirvana. Niết bàn là sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, là sự vắng mặt của
tham, sân, si là tâm giác ngộ tuyệt đối vốn không thể miêu tả bằng ngôn từ và nhận thức thế
gian thông thường.
Đạo đế- chân lý về con đường diệt khổ, bao gồm Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn)
và Ngũ giới (năm giới luật). Tám con đường chính, bao gồm: tín ngưỡng đúng đắn (chính
kiến); suy nghĩ đúng đắn (chính tư duy); lời nói đúng đắn (chính ngữ); nghề nghiệp chân
chính (chính nghiệp); đời sống chân chính (chính mệnh); mơ ước điều đúng đắn (chính tịnh
tiến); tưởng nhớ chân chính (chính niệm); tập trung suy nghĩ điều đúng đắn (chính định).
Ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu
(giống với đạo Hồi).
Về Thế giới quan: nội dung cơ bản là thuyết duyên khởi, thuyết “vô tạo giả”, vô ngã, vô
thường. Tuy ban đầu là chủ trương vô thần nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.
Thuyết duyên khởi, nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà ra. Pháp là quy luật phát triển
của sự vật, đồng thời cũng là bản thân sự vật. Mọi vật có liên quan mật thiết với nhau,
không có một thực thể nào tồn tại riêng biệt. Hiện tại là “hệ quả” của kiếp trước và là
“nguyên nhân” của kiếp sau.
Thuyết “vô tạo giả” cho rằng không có vị thần tối cao nào tạo ra vũ trụ và Đức Phẩ chỉ là
Người giảng dạy con đường đưa đến giác ngộ.
Vô ngã: không có thực thể vật chất nào tồn tại một cách cố định.
Vô thường: Mọi sự vật đều trong quá trình sinh ra, biến đổi và tận diệt.
Ý nghĩa xã hội: Phật giáo không quan tâm chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất thân của mỗi
người không phải là điều cản trở sự giác ngộ, cứu vớt, mọi người đều bình đẳng.
Vì học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được
quần chúng hoan nghênh. Giai cấp cầm quyền cũng nhận thấy đạo Phật không có gì làm hại
đến quyền lợi của mình và cũng không hài lòng với địa vị được ưu đãi của những người
Bàlamôn nên họ cũng ủng hộ đạo Phật.
Đạo Phật ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN, trải qua quá trình truyền bá giáo lí, chia thành
hai giáo phái và suy yếu dần vào thế kỷ VI.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Ba đại hội Phật giáo đầu tiên được tổ chức tại Magada vào thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ III
TCN. Với sự giúp đỡ của Asoka, nhiệm vụ của đại hội là soạn thảo quy chế và giáo lý (kinh
tạng, luật tạng và luận tạng) và chấn chỉnh tổ chức. Asoka còn cho xây dựng nhiều chùa
tháp (Stupa), thành lập nhiều tăng đoàn và khuyến khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều
vùng trên bán đảo Ấn Độ và một số quốc gia khác (Srilanka, Mianma, Thái Lan…)
Tuy nhiên, sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần. Đến năm 100
sau CN, người Cusan chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ và thành lập ở đây 1 nhà nước của
mình.Với sự giúp đỡ của vua Kanisca, đại hội Phật giáo lần IV được diễn ra. Đại hội này
thông qua giáo lí của Phật giáo cải cách và thành lập phái Phật giáo mới được gọi là phái
Đại Thừa (truyền về phía Bắc nên còn gọi là Bắc Tông) để phân biệt với Phật giáo cũ gọi là
phái Tiểu Thừa (truyền về phia Nam nên còn gọi là Nam tông). Kết quả đã truyền bá Phật
giáo sang các quốc gia Trung Á và Trung Quốc.
Phật giáo Tiểu Thừa (nghĩa là cỗ xe nhỏ) hay còn gọi là Phật giáo Nam tông, Phật giáo
nguyên thủy. Đức Phật là thầy dạy, Phật Thích Ca là duy nhất. Giới luật: Niết Bàn là cảnh
giới yên bình, không khổ đau và người thường không thể thành Phật. Đặc điểm nhận diện:
trang phục không may thành áo, được quấn lệch một bên vai, thường là màu vàng sẫm, nâu
đỏ, vàng đỏ. Các quốc gia theo Phật giáo Nam tông: SriLanka, Myanma, Lào, Thái Lan,
Campuchia.
Phật giáo Đại Thừa (nghĩa là cỗ xe lớn) hay còn gọi Phật giáo Bắc tông, phát triển về sau.
Quan niệm Đức Phật là vị thần vạn năng, quyền uy tuyệt đối; ngoài Phật Thích Ca còn có
Phật A Di Đà, Phật Đại Dược Sư, Phật Di Lặc...Giới luật: Niết Bàn là thế giới của Phật, nơi
đối lập là địa ngục- nơi đày đọa kẻ tội lỗi; ai cũng có thể thành Phật với sự cứu độ của Bồ
Tát. Trang phục may dài, choàng kín hai vai, màu vàng, nâu, lam. Các quốc gia: Trung
Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam.
Sự suy yếu của Đạo Phật diễn ra vào thế kỷ thứ VI-VII gồm các nguyên nhân:
Nguyên nhân bên trong: tinh thần bình đẳng xã hội không được giai cấp thống trị ủng hộ;
giáo lý đạo Phật về sau cao siêu, huyền bí, vượt quá nhận thức quần chúng; PG phân hóa
thành nhiều tông phái đặc biệt: Thiền Tông, Mật Tông... đã lu mờ giáo lý truyền thống.
Nguyên nhân bên ngoài do Bàlamôn phục hưng thành Ấn Độ giáo (có tiếp cận Đạo Phật),
đế quốc Mông Cổ xâm chiếm Ấn Độ vào thế kỷ thứ VIII, hủy diệt Đạo Phật, truyền bá Đạo
Hồi.
Liên hệ Phật giáo Việt Nam: Phật giáo khởi nguồn từ vùng đất Ấn Độ đã truyền bá khắp
nơi, trong đó có Việt Nam ta. Phật giáo hiện nay có số tín đồ cao thứ hai cả nước (theo số
liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2019). Theo thống kê này, có 4,6 triệu tín đồ Phật giáo,
chiếm 35% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước. Phật giáo ở Việt
Nam gồm cả Đại thừa, Tiểu thừa, và các tông phái khác cải biên từ Phật giáo. Phật giáo Đại
thừa tại Việt Nam có ba tông phái chính là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Phật giáo
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Đại thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với các tín ngưỡng như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu.
Phật giáo Tiểu thừa (Nam tông) là tôn giáo chính của người Khmer tại Việt Nam. Tín đồ
Phật giáo Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long
nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Người Việt theo Phật giáo vì quan niệm hướng về
cái thiện phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống từ xa xưa, Phật Giáo không chỉ tồn tại giá
trị tôn giáo mà còn trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng tâm
linh của người Việt ta.
BÀI 4: Văn minh Trung Quốc cổ- trung đại
Bốn phát minh vĩ đại của Trung Quốc ra đời vào thời kỳ trung đại
Thuốc súng (Hỏa dược) là phát minh ngẫu nhiên do các nhà luyện đan phái Đạo gia phát
hiện ra. Nguyên liệu là diêm tiêu, lưu huỳnh, than gỗ. Đầu thế kỷ X, thuốc súng dùng làm
vũ khí, gọi là tên lửa, cầu lửa, quạ lửa...dùng đốt doanh trại đối phương. Thời Tống, “chấn
thiên lôi” có sức công phá lớn. Năm 1132, “hỏa thương” làm bằng ống tre to, nạp thuốc
súng, đốt lửa và thiêu cháy địch. Được truyền sang Mông Cổ, Ả Rập, Tây Ban Nha, châu
Âu sau này.
Kim chỉ nam: vào thế kỷ thứ III TCN, do biết được từ tính và hướng của nam châm, người
ta đã làm ra kim chỉ nam gọi là “tư nam” hình một chiếc dĩa, bên trên có khắc phương
hướng. Thời Tống, thầy phong thủy phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Đến thời Bắc
Tống thì tạo ra La bàn và dùng cho việc đi biển. Nửa sau thế kỷ XII, người Ả Rập đã học
được nó và truyền sang phương Tây. Người phương Tây cải tiến thành “la bàn khô”- có
khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI, “la bàn khô” được truyền trở lại Trung Quốc.
Nghề làm giấy: trước khi có phát minh, thời Tây Hán dùng thẻ tre, lụa để ghi chép, thế kỷ
thứ II TCN dùng xơ gái làm giấy nhưng công dụng chủ yếu chỉ để gói. Thời Đông Hán,
năm 105, Thái Luân đã làm giấy từ những nguyên liệu như vỏ cây, giẻ rách, lưới cũ. Đây là
phát minh có chủ ý, ra đời được gọi là giấy Thái Hầu. Để làm ra giấy, trước tiên cắt nhỏ
nguyên liệu, ngâm lâu trong nước, giã nguyên liệu thành dịch nhuyễn rồi đem hấp, đổ thành
lớp mỏng lên chiếu rồi phơi khô. Phát minh này truyền bá đến Việt Nam vào thế kỷ III,
giữa thế kỷ VII đến Ả Rập và năm 1150 sang Tây Ban Nha.
Kỹ thuật in: trước khi có phát minh, khắc chữ trái trên con dấu có từ đời Tần, Ngụy, Tấn,
Nam Bắc triều, Đạo giáo in bùa chú trừ tà ma. Giữa thế kỷ VII, đầu nhà Đường, nhà sư
Huyền Trang in số lượng lớn tượng Phổ Hiền phân phát khắp bốn phương, kinh Đàlani năm
704-751. In bằng ván khắc, in được nhiều bản thời gian ngắn nhưung nhược điểm khi
không cần in, ván khắc sẽ vô dụng. Tất Thăng phát minh cách in chữ rời bằng đất sét nung.
Thế kỷ XI, Thẩm Quát dùng chữ gỗ nhưung chưa có kết quả, đến thời Nguyên, Vương
Trinh cải tiến thành công. Truyền bá từ đời Đường đã truyền sang Việt Nam, Triều Tiên,
Japan, Philipine, Ả Rập, truyền dần sang châu Phi, châu Âu và sang Đức cuối thế kỷ XIV.
Sự xuất hiện của nghề in đã giúp cho việc phổ biến, truyền bá văn hóa, tín ngưỡng cũng
như kiến thức của con người ngày càng thuận tiện và nhanh chóng hơn.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Các phát minh trên chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử, đưa văn minh thế giới, đưa loài
người tiến bộ nhanh hơn, thúc đẩy phát triển văn hóa, giáo dục và tiền tệ. Đối với trung
quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp không nhỏ của một nền văn
minh cho toàn nhân loại. Vì các phát minh trên tiện lợi, tiết kiệm, dễ lưu giữ và sử dụng nên
giá trị của chúng tồn tại mãi đến ngày nay.

Đối với thế giới sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam đã
nâng cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá trình chinh
phục tự nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và phát triển
BÀI 5: Văn minh Hy Lạp cổ đại
Khoa học tự nhiên của Hy Lạp phát triển rực rỡ ngay từ thời cổ đại, hầu hết những thành
tựu đó được tạo nên bởi những nhà khoa học đa năng, toàn tài về các lĩnh vực toán học,
thiên văn học, vật lí học, y học…
Thales được mệnh danh là “nhà toán học đầu tiên, nhà thiên văn học đầu tiên”. Là người đã
khai sinh ra ngành thiên văn học cổ đại và là người hình thành trường phái khoa học Mile.
Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức( định lý Thales). Ông chứng minh được 2 góc
đáy của tam giác cân bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù, hoặc tính
khoảng cách của 1 vật mà không đến gần được. Ông là người đầu tiên tính được chiều cao
của Kim Tự tháp. Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng Hà.
Ông đã phát minh ra được cách tính toán và dự báo các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Ông đã dự báo chính xác nhật thực ở Mile ngày 28/05/585 TCN.
Pitago là nhà toán học, thiên văn học. Ông là người đã phát minh ra định lý Pytago chỉ ra
mối quan hệ giữa ba cạnh góc vuông, ông phân biệt được số chẵn, số lẻ, số không chia hết.
Ông nêu các định lý được chứng minh bằng suy luận lôgic chứ không phải bằng trực giác.
Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phan và conga thức nổi tiếng về tam giác vuông.
Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Ông cho rằng Trái
đất hình cầu và chuyển động theo 1 quỹ đạo nhất định, ông cũng là người đầu tien dùng
danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ.
Euclid (Ơclít) - cha đẻ của hình học phẳng, nhà toán học với tác phẩm nổi tiếng “Toán học
sơ đẳng” gồm 13 cuốn được giữ lại đến ngày nay. Hệ thống định đề của ông làm nền tảng
xây dựng môn hình học phẳng, nổi bật là tiên đề Euclid.
Archimedes (Acsimét) - nhà toán học đầu tiên tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và
sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình
cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện tích toàn phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình
trụ. Ông là nhà vật lí học đã đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng của nó vào việc
giải phóng sức lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, bánh xe răng cưa, đường
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

xoắn ốc, ông phát minh ra nguyên lý đòn bẩy và nguyên lý về thủy lực học, định luật về vật
nổi (câu chuyện bồn tắm). Ông còn có những phát minh về quân sự như máy bắn đá, bánh
xe răng cưa, nguyên lý hội tụ ánh sáng của gương cầu lồi...
Aristarque (Arixtác) là nhà thiên văn học đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời và đã tính
được chính xác thể tích của mặt trăng, Trái đất, Mặt trời và khoảng cách giữa các thiên thể.
Ông khẳng định: Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính trái đất xoay quanh
mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó 1 vòng.
Ératosthène (Êratôxten) là nhà khoa học đa năng vĩ đại, ông nghiên cứu thành công trong
rất nhiều lĩnh vực như thiên văn học, toán học, vật lí, ngôn ngữ, sử học, địa lí học. Ông là
người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái Đất là 23’27. Thành tựu nổi bật
nhất của ông chính là tính toán chính xác độ dài vòng kinh tuyến Trái Đất: 39.700 km, gần
bằng con số ngày nay tính được.
Ptolemaeus hay Ptôlêmê, nhà thiên văn học, toán học, địa lý học. Ông đã soạn bộ sách
“Tổng hợp- kết cấu toán học” và “Địa lý học” gồm 8 chương nổi tiếng. Ông cũng thành
công khẳng định Trái Đất hình cầu, từ đó hạn chế thuyết “địa tâm” cho rằng quả đất là
trung tâm vũ trụ (đối lập thuyết “nhật tâm” của Arixtác và Côpécních). Ông cũng là người
đầu tiên vẽ được bản đồ Thế Giới có đủ Bắc cực và Nam cực. Đây là bản đồ địa lý sớm
nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây.
Hipprocrate (Hipôcrát)- “thủy tổ của y học phương Tây” Ông đã phát biểu những luận điểm
quan trọng như: nguyên nhân của bệnh tật xuất phát từ giới tự nhiên; khi đau thì người ta
phải uống thuốc và hết sức lưu ý đến vấn đè vệ sinh ăn uống; khi cần thiết thì phải dùng
phẫy thuật để điều trị bệnh. Phát biểu về y đức của người thầy thuốc của ông hay còn gọi là
lời thề Hipôcrát, ngày nay được dùng trong y học, tuyên thệ khi các bác sĩ bắt đầu sự
nghiệp chăm sóc cứu chữa cho mọi người.
Tóm lại, cách đây trên dưới 2000 năm nền khoa học của Hy Lạp đã có những thành tựu rất
lớn. Dù trước đó một vài kiến thức khoa học đã được khám phá bởi các nhà hiền triết ở
phương Đông nhưng qua sự tiếp thu, nghiên cứu và phát minh chính xác của các nhà khoa
học toàn tài của Hy Lạp cổ đại, những thành tựu ấy được kế thừa, học hỏi, phát huy cho đến
ngày nay vì tính chính xác, cần thiết và ứng dụng rộng rãi của các học thuyết khoa học.
Những thành tựu ấy đã đặt cơ sở cho sự phát triển huy hoàng của nền khoa học thời cận
hiện đại đồng thời là tiền đề quan trọng trong sự phát triển nền văn minh Hy- La. Những
đóng góp văn minh Hy-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh hào quang
rực rỡ nhất. Cùng với những giá trị của văn minh tiếp sức cho phong trào văn hóa Phục
hưng, văn minh phương Tây , đồng thời tạo một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu
Âu nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ.
BÀI 6: Kitô giáo

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Kitô giáo ra đời đầu Công Nguyên, ở miền Đông La Mã, là sản phẩm của xã hội chiếm hữu
nô lệ ở La Mã cổ đại.
Tiền đề xã hội ra đời Kitô giáo: năm 63 TCN, Roma đánh chiếm và biến vùng Palestine
thành 1 bộ phận lãnh thổ của đế quốc La Mã. Nơi đây vốn đã từng chịu nhiều cuộc xâm
lược trong quá khứ từ Ai Cập, Assyrie, Chaldeé, Ba Tư, Macédoine. Tại đây, người La Mã
đã áp dụng 1 chính sách cai trị khắc nghiệt. Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều bị áp bức
bóc lột hết sức nặng nề. Nô lệ và quần chúng đã bao nhiêu lần nổi dậy thì cũng bấy nhiêu
lần bị đè bẹp khủng khiếp, họ mất hẳn niềm tin vào sự tự do, hạnh phúc. Vì lẽ đó nên quần
chúng tìm đến lối thoát trong niềm tin về tôn giáo. Do vây, tôn gáio mới ra đời- Kitô trở
thành tôn giáo của: nô lệ, dân nghèo và các dân tộc bị La Mã áp bức.
Thêm nữa, bấy giờ sự thịnh hành của trường phái triết học “khắc kỷ” đã hạn chế tối đa nhu
cầu thiết yếu cua con người. Những người dân khốn khổ sống nhẫn nhục, chịu đựng để
được cứu vớt, phù hợp với tư tưởng của quần chúng nhân dân bị áp bức
Do Thái giáo, tôn giáo ở Palestine, thờ độc thần Chúa Jehovah- “Chúa cứu thế”, nhưng sau
đó được La Mã (vốn theo đa thần) tiếp nhận. Đến năm 65 TCN mới tách ra thành một tôn
giáo mới gọi là Kitô.
Người sáng lập ra Kitô giáo: Jesu Christ (có nghĩa là thông minh, tốt đẹp), Ngài là người
Do Thái. Tương truyền, chúa Jesus sinh năm 4 TCN ở Palestine, cha là Thánh Joseph làm
nghề thợ mộc, mẹ là bà Maria. Theo truyền thuyết, Jesus Christ là con của Chúa trời đầu
thai vào làm con của đức mẹ Maria. Năm 18 tuổi, Jesus xuất gia theo Do Thái giáo. Năm
30 tuổi, Ngài trở về Jerusalem truyền đạo và tự nhận mình là “Đấng cứu thế” của người Do
Thái, chống lại La Mã, tuyên bố “La Mã sẽ diệt vong”, nhưng khi đó giới thầy tu Do Thái
cho rằng Jesus là “kẻ dị giáo”, nhà nước La Mã truy bắt, gọi Jesus là “tên phản loạn”. Năm
33 tuổi, Jesus bị bắt và xử tử bằng cách đóng đinh trên thánh giá. Ba ngày sau, Chúa sống
lại, ngày thứ 41, Jesus bay về trời.
Học thuyết cơ bản gồm 4 nội dung:
Tuyên truyền sự bình đẳng giữua người với người, phủ nhận chế độ chiếm hữu nô lệ.
Tuyên bố Đế quốc La Mã – “mụ đàn bà khổng lồ đầy tội ác” chắc chắn sẽ bị diệt vong.
Đồng thười khẳng định những ai tin điều trên sẽ được sống sung sướng trong vương quốc
của Chúa.
Không nghi lễ phức tạp, không kiêng kị nghiêm ngặt, không phân biệt chủng tộc. Khẳng
định mọi người đều có thể phạm tội, mọi người đều có thể sám hối, mọi người đều là anh
em.
Các tín đồ ban đầu sống trong Công xã Kitô tinh thần tương thân tương ái, lên án sự giàu có
(người giàu thì không được lên thiên đàng), an ủi, động viên nô lệ, quần chúng bị áp bức.

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

Kitô giáo tôn giáo mang tư tưởng về tình yêu, lòng bác ái, sự bình đẳng đến với quần chúng
lao khổ. Lên án sự bất công, tàn ác và giả dối. Kêu gọi đoàn kết, sẻ chia, tương trợ, tất cả
tín đồ đều là anh em.
Quá trình truyền bá Kitô ở La Mã cổ đại gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứu nhất từ thế kỷ I
đến đầu thế kỷ IV, giai đoạn thứ hai vào thế kỷ IV.
Giai đoạn 1 (TK I – TKIV SCN): đây là giai đoạn Kitô bị đàn áp rất khốc liệt và cùng là
giai đoạn mà số tín đồ không nhiều, chỉ có 1 bộ phận ở Palestine tham gia. Sau cái chết của
Chúa Jesus, các tông đồ của Ngài đã bắt đầu đem giáo lý của ngài truyền bá ra bên ngoài
Palestine, đến Tiểu Á và Hy Lạp. Năm 62, thánh Paulo sang Rôma để truyền đạo thì thấy ở
đây đã có nhiều tín đồ Kitô. Ban đầu, giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung với
Kitô. Nhưng do Kitô lên án giới nhà giàu tức là lên án tầng lớp thống trị trong xã hội và
khẳng định đế quốc La Mã sẽ bị diệt vong. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc căm
ghét nên họ cho răng: tín đồ của Kitô là bọn phiến loạn trong xã hội nên tiến hành đàn áp
khốc liệt. Tuy nhiên càng đàn áp thì Kitô càng phát triển.
Nguyên nhân chính quyền La Mã không thể đàn áp Kitô:
Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hóa về giai cấp ngày càng sâu sắc, sự
bần cùng hóa, sự áp bức, đàn áp, bóc lột cũng tăng lên. Tầng lớp bần cùng càng chống lại
người giàu và càng tin vào Jesus. Do vây, Kitô là tôn giáo duy nhất mà người lao động và
những người nghèo khổ có thể tìm thấy được con dường giải thoát.
Các tín đồ sinh hoạt trong các khu vực mà thực chất là các tổ chức tương tế, giúp những
người lao động, những người nghèo tìm công ăn việc làm để duy trì cuộc sống thường
ngày. Do vậy, trong thời kỳ đầu, cuộc vận động tham gia công xã Kitô mang một ý nghĩa
rất tích cực, mang tính chất vận động những người nghèo chống lại chính quyền La Mã áp
bức bóc lột.
Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô đã tạo tổ chức giáo hội hết sức chặt chẽ với tín đồ đông
đảo và chủ yếu tại các thành phố lớn. Toàn lãnh thổ La Mã bấy giờ có đến 1800 giáo
đường. Phía Đông La Mã tín đồ chiếm đến 1/12 dân số, ở Tây La Mã chiếm đến 1/15 dân
số. Cuối thế kỷ III, cùng sự phát triển Kitô giáo, giới cầm quyền La Mã đàn áp Kitô bất
thành nên quyết định muốn hội nhập và thay đổi chính sách đối với Kitô.
Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV), lúc này, La Mã đã thay đổi chính sách, Kitô được thừa nhận
về mặt pháp lý và được công nhận là quốc giáo của La Mã.
Năm 311, Hoàng đế Galerius hạ lệnh đình chỉ việc sát hại các tín đồ Kitô giáo. Kitô được
thừa nhận về mặt pháp lý và có địa vị bình đẳng với tôn giáo khác.
Đến năm 313, Hoàng đế Constantinus ban bố sắc lệnh tha đạo (Milano) xác định địa vị hợp
pháp của giáo hội Kitô, nâng Kitô lên địa vị quốc giáo. Năm 325, Hoàng đế Constantinus ra

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3

lệnh triệu tập đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại Niceé (vùng tiểu Á). Đại hội giải quyết 2
vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của kinh thánh. Nghĩa là chọn ra 4 phần tương đối trùng
khớp, ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất và đưa vào phần tân ước.
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội. Định hướng Kitô sau đại hôi này, trở thành 1 bộ phận trong bộ
máy của giai cấp thống trị La Mã.
Năm 337, Constantinus đã chịu phép rửa tội và trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên theo
Kitô giáo. Đến cuối thế kỷ IV, Kitô giáo trở thành quốc giáo ở La Mã.
Tóm lại, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần chúng bị
áp bức, lúc đầu là nô lệ, dân nghèo sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải
qua bao thăng trầm lịch sử, Kitô từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống lại chính
quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền Rôma
và là một bộ phận của guồng máy thống trị.
Ảnh hưởng VN, truyền khi nào? Xếp thứ mấy trong tg ở VN? Mấy tín đồ? Quan niệm thế
nào? Tập trung ở đâu?

TIN HỌC MINH LONG


tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
Số 9/8 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, TP.HCM

You might also like