You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

KHOA ĐIỆN- ĐIỆN TỬ

MÔN : PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Đề tài: Quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự, lý luận và thực

tiễn.

Giáo viên hướng dẫn : Th.s Nguyễn Thiện

Sinh viên thực hiện : Đặng Thạch Mạnh

Mã sinh viên : 2722220169

Lớp : DD27.03
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm2023
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................... 3
I. Một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân .......................................................... 3
1. Cơ sở pháp lý về quyền nhân thân....................................................................................... 3
1.1 Qua các bản Hiến pháp ................................................................................................... 3
1.2 Bộ luật dân sự ................................................................................................................. 5
1.3 Các văn bản pháp lý khác ............................................................................................... 9
2. Khái niệm quyền nhân thân ................................................................................................ 9
3. Đặc điểm quyền nhân thân .............................................................................................. 10
4. Các quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật Dân sự 2015. ...................................... 11
II. Một số vấn đề thực tiễn về quyền nhân thân ..................................................... 12
1. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định của BLDS 2015 ................................ 12
2.Quyền về chuyển đổi giới tính theo quy định của BLDS 2015 ........................................ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 18
LỜI MỞ ĐẦU

Quyền nhân thân là bộ phận của quyền con người, quyền dân sự của cá nhân và là một
chế định ngày càng được khoa học pháp lý cũng như xã hội quan tâm nghiên cứu. Trên
cơ sở cụ thể hóa quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp
2013. Kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005. Bộ luật Dân
sự 2015 được ban hành đánh dấu một bước tiến mới trong việc bảo vệ các quyền dân sự
nói chung, quyền nhân thân nói riêng, thể hiện trình độ phát triển kinh tế, xã hội, kỹ thuật
lập pháp tiến bộ. Với những sự ghi nhận đó, quyền nhân thân ngày càng khẳng định vai
trò hết sức quan trọng, là những giá trị cốt lõi trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân.
Chính vì vai trò to lớn của quyền nhân thân trong xã hội Việt Nam hiện nay, em đã chọn
đề tài: “Quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự 2015- Lý luận và thực tiễn”.
I. Một số vấn đề lý luận về quyền nhân thân
1. Cơ sở pháp lý về quyền nhân thân
1.1:Qua các bản Hiến pháp
Ngay trong bản Tuyên ngôn độc lập này 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thừa nhận quyền con người cơ bản, qua đó thể hiện
tư tưởng nhân quyền và dân quyền của Nhà nước ta. Tư tưởng áy xuyên suốt lịch sử lập
hiến và lập pháp.
Trong bản hiến pháp đầu tiên của nước ta (Hiến pháp năm 1946), việc đảm bảo các quyền
tự do dân chủ của công dân đã trở thành một trong ba nguyên tác cơ bản. Với bản Hiến
pháp này, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những người dân nô lệ trước đây thực sự
trở thành người chủ đất nước, được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ. Trong 26 quyền
cơ bản của công dân mà Hiến pháp 1946 quy định, các quyền dân sự chiếm đa số (12
quyền). Những quyền nhân thân của cá nhân lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp
bao gồm: Quyền tự do ngôn luận; quyền tự do xuất bản; quyền tự do tín ngưỡng, quyền
tự do cư trú trong nước; quyền tự do đi lại trong nước; quyền tự do ra nước ngoài; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể; quyền bất khả xâm phạm nhà ở; quyền bất khả xâm phạm
về thư tín.
Hiến pháp năm 1959 là bước phát triển mới trong việc ghi nhận quyền con người, trong
đó có những quyền nhân thân của cá nhân và những bảo đảm pháp lý cho chúng. Hiến
pháp năm 1959 ra đời trong hoàn cảnh đất nước có những thay đổi lớn trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, theo xu hướng ngày càng mở rộng các quyền con người. Hiến
pháp năm 1959 đã xác định quyền nhân thân mới là quyền tự do biểu tình (Điều 17),
đồng thời quy định rõ ràng hơn quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại không phân biệt
trong nước và ngoài nước như Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp năm 1980 ra đời trong điều kiện đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội, các quyền dân sự của cá nhân được bổ sung và phát triển; đặc việt riêng
đối với quyền nhân thân của cá nhân, đã có những quyền xuất hiện: Quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng (Điều 70), Quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự; Quyền
được pháp luật bảo hộ về nhân phẩm; Quyền được đảm bảo bí mật về điện thoại; Quyền
được đảm bảo bí mật về điện tín; Quyền tác giả; Quyền sở hữu công nghiệp (Điều 72).
Trong đó, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của quyền nhân thân là sự ra đời của Hiến
pháp năm 1992. Bên cạnh việc kế thừa những quyền nhân thân của Hiến pháp năm 1980,
Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung những quyền nhân thân hoàn toàn mới, đó là: Quyền
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe (Điều 13); Quyền được đi ra nước ngoài theo quy
định của pháp luật (Điều 25); Quyền được từ nước ngoài trở về theo quy định của pháp
luật (Điều 29); Quyền được Nhà nước bảo hộ quyền tác giả (Điều 36); Quyền được Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điểu 38).
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội (khóa XIII) thông qua tại kỳ họp thứ 6, gồm
11 chương, 120 điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 (gọi tắt là Hiến pháp năm 2013 đã
làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ
của Nhà nước ta. Trong đó quyền nhân thân của cá nhân được quy định rộng, mới và cụ
thể hơn như : Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y
học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người
phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”, đây là điểm mới so với Hiến pháp năm
1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi người để
chữa bệnh cho người thân, cũng như đề cao vai trò của bộ phận có thể người phục vụ
cho việc nghiên cứu, chữa bệnh trong y học hiện nay.
1.2: Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự (BLDS) 1995 ra đời đã đề cập tới các quyền nhân thân một cách đa dạng,
bao gồm các quy định từ Điều 26 đến Điều 47. Có thể nói lần đầu tiên một văn bản pháp
lý có hiệu lực cao nhất trong lĩnh vực dân sự đã ghi nhận các quyền nhân thân của chủ
thể cũng như các phương thức để bảo vệ quyền nhân thân. Đây chính là cơ sở pháp lý và
là nền tảng để các cá nhân thực hiện quyền nhân thân của mình. Cụ thể tại điều 26 của
Bộ luật này quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác”. Bên cạnh đó, lần đầu
tiên cá nhân có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của mình khi bị người khác vi
phạm (Điều 27); lần đầu tiên quyền nhân thân được quy định thành một hệ thống các
quyền, được quy định chi tiết trong 22 điều luật, từ điều 26 đến điều 47.
BLDS năm 1995 đã phát huy vai trò to lớn trong việc ghi nhận và bảo vệ các quyền dân
sự của chủ thể, trong đó có quyền nhân thân. Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng các
quy định của BLDS năm 1995, bên cạnh những ưu điểm thì BLDS năm 1995 còn bộc lộ
nhiều hạn chế. Xuất phát từ lí do đó, BLDS sửa đổi đã được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006 (BLDS năm 2005). So với các
quy định về quyền nhân thân trong BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 có một số sửa
đổi, bổ sung, cụ thể, đó là bổ sung thêm 6 quyền nhân thân mới: Quyền được khai sinh
(Điều 29), Quyền được khai tử (Điều 30); Quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33); Quyền
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34); Quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều
35); Quyền xác định lại giới tính (Điều 36). Ngoài việc bổ sung quy định mới về một số
quyền nhân thân, hầu hết các quyền nhân thân được quy định trong BLDS năm 1995
cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như quyền thay đổi họ tên (Điều 27), quyền xác
định dân tộc (Điều 28), quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31), quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32), quyền được bảo vệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín (Điều 37), quyền bí mật đời tư (Điều 38) …
Sau khi Hiến pháp năm 2013 ban hành một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo
tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân sự. Trong khi đó một số quy định của
BLDS năm 2005 chưa đáp ứng được yêu cầu này. Do dó, năm 2015 Quốc hội Việt Nam
thông qua BLDS mới nhằm thay thế cho BLDS 2005.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về các quyền nhân thân của cá nhân từ Điều 25
đến Điều 39.Khác với quy định về quyền nhân thân trong Bộ luật năm 2005 có phạm vi
rất rộng (26 quyền), trong đó bao gồm cả những quyền thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước và công dân, quyền không chỉ gắn với lợi ích mà còn gắn cả với những lợi ích khác
về tài sản... Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định các quyền nhân thân liên quan đến
việc xác định tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia các quan hệ dân sự và những
quyền nhân thân gắn liền với lợi ích tinh thần của cá nhân, nhưng chưa được quy định
cụ thể trong Hiến pháp. Những quyền đó gồm: quyền có họ, tên (Điều 26); quyền thay
đổi họ (Điều 27); quyền thay đổi tên (Điều 28); quyền xác định, xác định lại dân tộc
(Điều 29); quyền được khai sinh, khai tử (Điều 30), quyền đối với quốc tịch (Điều 31);
quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 32); quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33); quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
tín (Điều 34); quyền hiến nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (Điều 35);
quyền xác định lại giới tính (Điều 36); quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình (Điều 38); quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39).
Một số quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 đã không được tiếp
tục ghi nhận trong Bộ luật năm 2015, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên
cứu sáng tạo... Các quyền này thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, không
chỉ gắn với lợi ích tinh thần của chủ thể, mà còn gắn với lợi ích khác về tài sản. Mặc
khác, các quyền này cũng được các luật khác quy định cụ thể như Luật Cư trú, Bộ luật
Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ...
Một số quyền nhân thân được chi tiết và cụ thể hơn so với BLDS 2005 như: Đối với
quyền của cá nhân đối với hình ảnh, Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 31) chỉ quy định:
"Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải
được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự,
chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người
đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng
hoặc pháp luật có quy định khác. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.". Bộ luật Dân sự 2015
(Điều 32) quy định cụ thể như sau:
1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải
được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại
thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người
có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng
b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt
động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm
tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
3. Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có
quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và
áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.".
Hơn nữa, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định một quyền nhân thân mới của cá nhân
mà Bộ luật Dân sự 2005 chưa quy định đó là chuyển đổi giới tính (Điều 37). Điều luật
quy định: "Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã
chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp
luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy
định của Bộ luật này và luật khác có liên quan". Quy định này nhằm tạo cơ chế pháp lý
chống phân biệt đối xử với người chuyển đổi giới tính, bảo đảm họ có địa vị pháp lý bình
đẳng như cá nhân khác và sự minh bạch trong thực hiện các quyền nhân thân, tài sản
trong các quan hệ dân sự. Quy định tiến bộ này đã đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia
có quy định pháp lý cụ thể để bảo vệ quyền của người chuyển đổi giới tính nói riêng và
quyền của nhóm người đồng tính, song giới, chuyển giới (LGBT) nói chung, phù hợp
với Nghị quyết của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc được thông qua vào tháng
9/2014 về nhân quyền.
Khác với Bộ luật Dân sự 2005 quy định việc bảo vệ quyền nhân thân thành một điều
riêng trong mục về quyền nhân thân (Mục 2, Điều 25), Bộ luật Dân sự năm 2015 xác
định quyền nhân thân cũng là một quyền dân sự, do vậy phương thức bảo vệ được quy
định chung như việc bảo vệ các quyền dân sự khác, được thể hiện tại Điều 11- Các
phương thức bảo vệ quyền dân sự "Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm
phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ
5. Buộc bồi thường thiệt hại
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.
1.3:Các văn bản pháp lý khác
Quyền nhân thân đình cũng được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thông qua việc quy định quyền bình đẳng giữa vợ, chồng (Điều 17); Bảo vệ quyền và
nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng (điều 18); Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín
của vợ chồng (Điều 21)

2. Khái niệm quyền nhân thân


Quyền nhân thân (personality rights) là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn liền
với bản thân mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân. Từ xưa đến
nay, nói đến quyền nhân thân người ta thường liên tưởng đến ngay những quyền có liên
quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Một xã hội càng tiến bộ bao
nhiêu, nền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn
trọng bấy nhiêu. Do đó, các quyền nhân thân cũng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ
ràng hơn.
Ở Việt Nam, quyền nhân thân với tư cách là một thuật ngữ pháp lý, lần đầu tiên được
nhắc đến trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, nó ra đời và có ý nghĩa là cơ sở pháp
lý để bảo vệ cho cá nhân tồn tại với tư cách là một thực thể, một chủ thể độc lập trong
cộng đồng. Thông qua việc cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền
con người về dân sự, BLDS năm 1995 xác định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Đây được xem là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy, nhận
thức của các nhà làm luật Việt Nam, cũng là bước tiến đáng ghi nhận, có ý nghĩa đặt nền
móng cho sự phát triển quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam.
Kế thừa BLDS 1995, BLDS năm 2015 quy định về quyền nhân thân tại điều 25: “Quyền
nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định
khác”.

3. Đặc điểm quyền nhân thân


Với bản chất là một bộ phận quyền dân sự, quyền nhân thân có đầy đủ các đặc điểm của
quyền dân sự nói chung. Ngoài ra, nó còn mang một số đặc điểm riêng biệt nhằm phân
biệt với quyền tài sản. Cụ thể như:
Thứ nhất, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản
Khác với quyền tài sản, đối tượng của quyền nhân thân là một giá trị tinh thần, do đó,
quyền nhân thân không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được thành tiền và mang
giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương
và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay
mang ra chuyển nhượng cho người khác. Một người không thể kê biên quyền nhân thân
của con nợ. Pháp luật quy định cho mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân. Mỗi
một chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được pháp luật bảo vệ như nhau
khi các giá trị đó bị xâm phạm.
Thứ hai, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch.
Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân
mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác, trừ trường hợp do pháp luật qui định. Điều
25 BLDS qui định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn
liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật
khác có liên quan quy định khác”. Các quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói
riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội nhất
định. Do vậy, về mặt nguyên tắc, cá nhân không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho
chủ thể khác, nói cách khác thì quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao
dịch dân sự giữa các cá nhân. Ví dụ, người này không thể đổi họ tên cho người khác và
ngược lại hoặc một người không thể uỷ quyền cho người khác thực hiện quyền tự do đi
lại của mình và mình nhận quyền tự do kết hôn của người khác. Điều này có nghĩa rằng
bản thân chủ thể hưởng quyền nhân thân chứ họ không thể chuyển giao quyền này cho
người khác và cũng không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này. Tuy nhiên,
tính chất không thể chuyển giao của quyền nhân thân chỉ mang tính chất tương đối. Bởi
trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì quyền nhân thân có thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ: Quyền công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi
tác giả chết đi thì quyền này có thể chuyển giao cho chủ thể khác (người thừa kế của tác
giả). Mặc dù vậy thì có những yếu tố luôn gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi
được, ví dụ: Quyền đứng tên tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vệ của tác phẩm.
IV. Các quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật Dân sự 2015.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của BLDS năm 2005, hiện nay, tại BLDS
năm 2015 ghi nhận quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các quyền cụ thể sau: Quyền
có họ, tên (Điều 26); Quyền thay đổi họ (Điều 27); Quyền thay đổi tên (Điều 28); Quyền
xác định, xác định lại dân tộc (Điều 29); Quyền được khai sinh, khai tử (Điều 30); Quyền
đối với quốc tịch (Điều 31); Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 32); Quyền sống,
quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33); Quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34); Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác (Điều 35); Quyền xác định lại giới tính (Điều 36); Chuyển đổi
giới tính (Điều 37); Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 38) và
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39). Các quyền nêu trên chính
là các quyền nhân thân của cá nhân nhằm xác định tư cách của chủ thể của cá nhân trong
quan hệ dân sự (ví dụ: quyền về họ, tên, dân tộc, nơi cư trú…) và có tính đặc thù trong
quan hệ dân sự, chưa được quy định cụ thể trong Hiến pháp (ví dụ: quyền được khai
sinh, khai tử,..) hoặc dễ bị phân biệt đối xử do các định kiến xã hội (ví dụ: quyền xác
định lại giới tính).
Như vậy, các quyền thân thân của cá nhân trong pháp luật dân sự có phạm vi rộng và đa
dạng, liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân với các cá nhân, tổ chức và giữa cá nhân
với Nhà nước. Thông qua các nội dung được quy định cụ thể tại BLDS năm 2015, các
quyền nhân thân của cá nhân được quy định chặt chẽ hơn, qua đó, bảo đảm tốt hơn quyền
của cá nhân, khắc phục được những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về quyền
nhân thân và dần đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.
II. Một số vấn đề thực tiễn về quyền nhân thân
1. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định của BLDS 2015
Điều 32 BLDS 2015 quy định quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh như sau:
-Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải
được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại
thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
-Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người
có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
+ Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng
+ Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt
động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm
tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
-Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có
quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và
áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, hiện nay chưa có một quy định nào cụ thể đưa ra định nghĩa về khái niệm
quyền nhân thân đối với hình ảnh. Ngay cả trong Điều 32 BLDS 2015 nêu trên quy định
về quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng chỉ quy định khái quát, chung chung “cá
nhân có quyền đối với hình ảnh của mình” mà không chỉ ra cụ thể quyền nhân thân đối
với hình ảnh là gì. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng rất khó để xử lý khi có vấn đề mâu
thuẫn nảy sinh. Tuy nhiên, qua nội dung của Điều luật này và các Điều luật có liên quan
thì có thể hiểu quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền
với cá nhân được pháp luật quy định và bảo vệ, liên quan đến việc sử dụng và cho phép
sử dụng hình ảnh của chính cá nhân đó.
Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Theo quy định của BLDS 2015 thì việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người
đó đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ là khi sử dụng hình ảnh của cá nhân
không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của
họ trong trường hợp hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ít công cộng
hoặc hoạt động công cộng khác. Qua nghiên cứu các quy định của BLDS hiện hành chưa
có quy định cụ thể nào khái niệm rõ thế nào là sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi
ích công cộng hoặc hoạt động công cộng khác. Từ đó, khi xảy ra tranh chấp thì rất khó
để xác định có hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh hay không?
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho
người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Luật chưa quy định rõ
hoặc hướng dẫn như thế nào là vì mục đích thương mại, hay như căn cứ vào tiêu chí nào
để xác định những hành vi sử dụng hình ảnh của cá nhân vì mục đích thương mại.
Nguyên tắc xét xử nếu pháp luật không quy định thì ưu tiên áp dụng phong tục tập quán tại
địa phương, nếu không có phong tục tập quán thì áp dụng tương tự pháp luật sau đó mới công
bằng. Vì thế, có thể thấy rằng, xét xử những vấn đề chưa có quy định pháp luật những vấn đề
này mang nặng tính chủ quan, đặc biệt là nhìn nhận vấn đề chủ
quan của Thẩm phán xét xử trực tiếp vụ việc.
Hiện nay, với thời đại công nghệ phát triển thì chỉ bằng một vài thao tác đơn giản, chỉnh
sửa photoshop là có thể sử dụng hình ảnh của người khác một cách dễ dàng, đặc biệt là
trên môi trường mạng xã hội phức tạp như hiện nay. Việc sử dụng hình ảnh của người
khác nhìn chung chủ yếu dưới hai mục đích bao gồm thương mại và phi thương mại.
Hành vi sử dụng hình ảnh của người khác nhằm mục đích thương mại gây ảnh hưởng
đến quyền lợi về kinh tế của người bị xâm phạm. Tuy nhiên, với mục đích phi thương
mại nhưng nếu gây ảnh hướng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân cũng là vấn
đề nghiêm trọng và thu hút sự quan tâm của mọi người hiện nay.
Mặt khác, khi xảy ra sự việc xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân thì việc xác
định “trả thù lao cho người có hình ảnh” hiện nay chưa có một văn bản nào quy định cụ
thể. Do đó, nếu có tranh chấp về mức thù lao mà các bên không thỏa thuận được cũng là
một khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết. Do đó, khi giải
quyết tranh chấp về vấn đề này, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào quy định chung
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết, theo quy định của khoản 1 điều
584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Về
nguyên tắc, thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Tuy nhiên, việc xác định thiệt
hại trong trường hợp này rất khó khăn, đặc biệt là trên môi trường mạng mạng xã hội ảo.
Vì nó cung cấp dịch vụ để kết nối nhiều người không phân biệt không gian, thời gian,
như vậy càng khiến người này truyền cho người kia dễ dàng, làm hình ảnh bị lan truyền
nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Ngoài ra, quy định về mức bồi thường thiệt hại tại khoản 2 điều 592 BLDS 2015 qui
định: “Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thỏa thuận, nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm không quá mười (10) lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Với quy định mức bồi thường không vượt quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định trên tất nhiên vẫn không thể phản ánh hết và bù đắp được những thiệt hại mà chủ
thể phải gánh chịu, nhất là người bị hại tổn thương rất lớn về mặt tinh thần. Do đó, để
hợp lí hơn thì mức bù đắp tổn thất tinh thần cần được xác định một cách độc lập cho
từng người, từng trường hợp cụ thể với những mức bồi thường cụ thể khác thay vì phải
giới hạn không vượt quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Trên cơ sở phân tích các nội dung trên, kiến nghị bổ sung thêm quy định tại khoản 1
Điều 32 BLDS 2015 về quyền của cá nhân đối với hình ảnh như sau:
“Việc sử dụng trái phép hình ảnh người khác vào mục đích thương mại thì phải bồi
thường, mức bồi thường do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì do Tòa
án quyết định”.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 cần quy định rõ hơn về khái niệm mục đích thương mại và phi
thương mại, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng và hoạt động công cộng khác.
Với quy định trên sẽ giúp hạn chế thấp nhất những thiệt hại về quyền nhân thân nói
chung và quyền hình ảnh của cá nhân nói riêng.

2.Quyền về chuyển đổi giới tính theo quy định của BLDS 2015

Kể từ ngày 1/1/2017, Bộ luật Dân sự 2015 chính thức có hiệu lực thi hành trên phạm vi
cả nước. Bộ luật đã có những điểm sửa đổi và bổ sung mới đáng kể. Trong đó, việc cho
phép chuyển đổi giới tính là một quy định được sự quan tâm rất lớn từ cộng đồng những
người chuyển giới, người đồng tính nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Bộ luật Dân sự 2005 quy định rằng, cá nhân có quyền xác định lại giới tính chỉ khi người
đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Theo Nghị định
số 88/2008/NĐ-CP thì “khuyết tật bẩm sinh về giới tính” là những bất thường ở bộ phận
sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra; “giới tính chưa được định hình chính xác” là
những trường hợp chưa thể phân biệt được một người là nam hay nữ xét về cả
bộ phận sinh dục và nhiễm sắc thể giới tính. Tức là Bộ luật Dân sự 2005 không cho phép
sự chuyển đổi giới tính đối với những người đã định hình và hoàn thiện về giới tính.
Sau khi Bộ luật Dân sự 2015 được Quốc hội khóa XIII sửa đổi và thông qua, quy định
về chuyển giới đã được mở rộng hơn. Ngoài những nhóm đối tượng cũ thì bộ luật mới
cho phép cá nhân có quyền chuyển đổi giới tính khi giới tính về tâm lý khác với giới tính
về sinh lý.
Cụ thể, Điều 37 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: “Việc chuyển đổi giới tính được
thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ
đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân
phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có
liên quan”.
Việc ghi nhận vấn đề này đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội, giúp cho họ
có thể sống đúng với bản chất con người thật của mình. Đồng thời điều luật cũng đảm
bảo tính thận trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế và không trái với truyền thống tốt đẹp,
thuần phong mỹ tục vốn có của dân tộc ta.
Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam công nhận việc chuyển đổi giới tính. Điều này đồng
nghĩa với việc, cần có nhiều hơn những văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước
nhằm đưa quy định này dễ dàng đi vào thực tiễn, hạn chế đi những bất cập khi thực hiện.
Chẳng hạn như, theo quy định này, thì chỉ những người đã phẫu thuật chuyển giới mới
có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch và quyền nhân thân theo luật. Vô hình trung,
quy định này đã tạo nên sự thiếu công bằng với những người không có điều kiện kinh tế
để thực hiện phẫu thuật chuyển giới.
Mặt khác, việc thay đổi hộ tịch cho phù hợp với giới tính sau khi chuyển đổi là một vấn
đề cần xem xét. Bởi sửa đổi các giấy tờ tùy thân gắn liền với một người từ khi sinh ra
(như học bạ, bằng đại học...) theo giới tính mới không phải là chuyện đơn giản, ngày một
ngày hai làm được. Quyền nhân thân của công dân cũng theo đó mà bị ảnh hưởng.
Ví dụ: Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự sau chuyển giới sẽ thực hiện như thế nào? Có
quy định gì về độ tuổi chuyển giới hay không? Đây là những câu hỏi lớn còn bỏ ngỏ,
cần sớm có sự phản hồi giải đáp hợp lí từ cơ quan chức năng.
Một vấn đề khác, đó là việc kết hôn khi có đối tượng là người chuyển giới. Mặc dù Luật
Hôn nhân gia đình sửa đổi năm 2014 không cấm kết hôn giữa những người đồng tính,
nhưng cũng không hề cho phép. Tuy nhiên, sau khi Bộ luật Dân sự sửa đổi được Quốc
hội thông qua, thì những người đồng tính có thể kết hôn một cách hợp pháp bằng cách
“lách luật” sử dụng cách thức chuyển giới để hợp thức hoá.
Có thể thấy, việc công nhận người chuyển giới đã dẫn đến hàng loạt vướng mắc về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân khá nhạy cảm, cũng như nhiều thách thức để xử lý.
KẾT LUẬN

Có thể nói, con người luôn là trung tâm, là tâm điểm hướng tới của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Vì vậy, việc ghi nhận các quyền của con người là một trong những yếu tố đánh
giá sự tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử, của từng nhà nước khác nhau. Nhà nước Việt
Nam luôn coi trọng các quyền của con người, trong đó có quyền nhân thân. Nhà nước
không cho phép sự phân biệt đẳng cấp, địa vị tồn tại trong xã hội hiện tại của nước ta, vì
lẽ đó đó các quyền của cá nhân (trong đó có quyền nhân thân) là bình đẳng và được pháp
luật bảo vệ. Với việc ghi nhận về các quyền nhân thân trong BLDS năm 2015 có thể thấy
rằng pháp luật dân sự Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong việc ghi nhận và bảo
vệ quyền nhân thân của cá nhân. Đây là sự khẳng định và ghi nhận đồng thời là cơ sở
pháp lí quan trọng cho cá nhân trong việc thực hiện các quyền của mình. Các quyền nhân
thân của cá nhân được ghi nhận trong BLDS năm 2015 thể hiện sự tôn vinh của pháp
luật đối với các giá trị đích thực của con người, điều này đúng với bản chất của Nhà nước
ta: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đó cũng là sự thể hiện mục đích của pháp luật nói
chung, pháp luật dân sự nói riêng: Vì con người, lấy con người là trung tâm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình môn pháp luật đại cương trường đại học Kinh Doanh và Công
Nghệ Hà Nội.
2. Các tài liệu tham khảo khác.

You might also like