You are on page 1of 99

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐỖ THÀNH DƯƠNG

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC CHƠI CHỮ


TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hưởng dẫn khoa học:

PGS.TS. TRỊNH SÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2006


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

1. Các câu đố được đánh số ở đầu câu theo số thứ tự trong tư liệu 1 (TL1), nếu
câu nào thuộc TL2, TL3 thì chúng tôi sẽ ghi chú thêm (ví dụ như [532-TL2]), còn
không có ghi chú thì câu đố ấy thuộc TL1. Những câu đố không đánh số và ghi chú là
được dẫn từ các nguồn khác.

Xuất xứ các ý kiến trích dẫn được ghi chú trong ngoặc vuông với 2 con số ngăn
cách nhau bằng dấu phẩy (,); trong đó, số thứ nhất chỉ số thứ tự của tài liệu trong
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ở cuối luận văn, số thứ hai là số trang có
chứa phần trích dẫn. Ví dụ: [15, tr.134] có nghĩa là ý kiến trích dẫn ở tài liệu 15, trang
134.

2. Chú giải những chữ viết tắt trong luận văn:

TĐ: "Từ điển tiếng Việt" của Hoàng Phê

ĐTĐ: "Đại từ điển tiếng Việt" của Nguyễn Như Ý

TGĐBK: Tiền giả định bách khoa.

NĐ: Người đố.

NG: Người giải.

PN: Phương ngữ.

PNBB: Phương ngữ Bắc Bộ.

PNTB: Phương ngữ Trung Bộ.

PNNB: Phương ngữ Nam Bộ.


MỤC LỤC
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY .................................................................................... 2
T
0 T
0

MỤC LỤC ............................................................................................................ 3


T
0 T
0

DẪN NHẬP .......................................................................................................... 6


T
0 T
0

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 6


T
0 T
0

2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 7


T
0 T
0

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................................... 8


T
0 T
0

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 9


T
0 T
0

5. CÂU TRÚC LUẬN VĂN ............................................................................................... 10


T
0 T
0

CHƯƠNG 1: TỒNG QUAN VỀ CÂU ĐỐ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ HỮU


T
0

QUAN ................................................................................................................. 11
T
0

1.1. CÂU ĐỐ VÀ CHƠI CHỮ ........................................................................................... 12


T
0 T
0

1.1.1. Câu đố ................................................................................................................... 12


T
0 T
0

1.1.1.1. Khái niệm...................................................................................................... 12


T
0 T
0

1.1.1.2. Phân loại câu đố ............................................................................................ 13


T
0 T
0

1.1.2. Chơi chữ ............................................................................................................... 13


T
0 T
0

1.1.2.1. Khái niệm...................................................................................................... 13


T
0 T
0

1.1.2.2. Phân loại ....................................................................................................... 14


T
0 T
0

1.2. TIỀN GIẢ ĐỊNH BÁCH KHOA CỦA CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT ................................ 20
T
0 T
0

1.2.1. Tiền giả định - Tiền giả định bách khoa ............................................................... 20
T
0 T
0

1.2.2. Tiền giả định bách khoa của câu đố ..................................................................... 21


T
0 T
0

1.2.3. Nhận diện các loại tiền giả định bách khoa trong câu đố ..................................... 21
T
0 T
0

1.2.3.1. TGĐBK về con vật, đồ vật, cây cối .............................................................. 22


T
0 T
0

1.2.3.2. TGĐBK về sinh hoạt, lao động .................................................................... 25


T
0 T
0

1.2.3.3. TGĐBK về phong tục - tập quán .................................................................. 26


T
0 T
0
1.2.3.4.TGĐBK về cuộc đời con người ..................................................................... 28
T
0 T
0

1.2.3.6. TGĐBK về phương ngữ ............................................................................... 30


T
0 T
0

1.2.3.7. TGĐBK về các thủ pháp nghệ thuật ngôn từ ............................................... 30


T
0 T
0

1.2.4. Nhận xét................................................................................................................ 34


T
0 T
0

1.3. PHƯƠNG NGỮ TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT ..................................................... 35


T
0 T
0

1.3.1. Khái niệm phương ngữ ......................................................................................... 36


T
0 T
0

1.3.2. Biến thể ngữ âm.................................................................................................... 37


T
0 T
0

1.3.2.1. Biến thể ngữ âm trong phương ngữ Nam Bộ (PNNB): ................................ 37
T
0 T
0

1.3.2.2. Biến thể ngữ âm trong phương ngữ Bắc Bộ (PNBB) ................................... 37
T
0 T
0

1.3.3. Biến thể về ngữ pháp ............................................................................................ 38


T
0 T
0

1.3.4. Biến thể về từ vựng .............................................................................................. 41


T
0 T
0

1.3.4.1. Các từ ngữ chỉ đặc sản .................................................................................. 42


T
0 T
0

1.3.4.2. Các hiện tượng phương ngữ khác ................................................................. 42


T
0 T
0

1.3.5. Nhận xét................................................................................................................ 51


T
0 T
0

1.4. CẤU TRÚC CỦA CÂU ĐỐ ........................................................................................ 52


T
0 T
0

1.4.2. Câu trúc nội dung ................................................................................................. 53


T
0 T
0

1.5. TIỂU KẾT .................................................................................................................... 56


T
0 T
0

CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC CHƠI CHỮ TRONG CÂU ĐỐ


T
0

TIẾNG VIỆT ..................................................................................................... 57


T
0

2.1. ĐỒNG ÂM TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT ............................................................. 57


T
0 T
0

2.1.1. Hiện tượng đồng âm - Chơi chữ đồng âm ............................................................ 57


T
0 T
0

2.1.2. Chơi chữ đồng âm trong câu đố ........................................................................... 58


T
0 T
0

2.1.3. Phân biệt từ đồng âm, từ đa nghĩa và nói trại ....................................................... 59


T
0 T
0

2.1.4. Kết hợp đồng âm - đồng nghĩa, trái nghĩa trong câu đố ....................................... 61
T
0 T
0

2.1.5. Một số dạng chơi chữ đồng âm phổ biến trong câu đố ........................................ 62
T
0 T
0

2.1.5.1. Câu đố có nhiều từ đồng âm ......................................................................... 63


T
0 T
0
2.1.5.2. Câu đố đồng âm liên tưởng........................................................................... 63
T
0 T
0

2.1.5.3. Câu đố đồng âm ẩn - hiện ............................................................................. 65


T
0 T
0

2.1.5.4. Phân loại theo tổ chức văn bản ..................................................................... 65


T
0 T
0

2.1.5.5. Phân loại theo đặc điểm cấu tạo từ và từ loại ............................................... 68
T
0 T
0

2.1.6. Nhận xét................................................................................................................ 76


T
0 T
0

2.2.ĐỒNG NGHĨA TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT ....................................................... 77


T
0 T
0

2.2.1. Khái niệm ............................................................................................................. 77


T
0 T
0

2.2.2. Phân loại đồng nghĩa ............................................................................................ 78


T
0 T
0

2.2.2.1. Đồng nghĩa cùng cấp độ ............................................................................... 78


T
0 T
0

2.2.2.2. Đồng nghĩa khác cấp độ ............................................................................... 79


T
0 T
0

2.2.2.3. Đồng nghĩa gián tiếp ..................................................................................... 80


T
0 T
0

2.2.3. Một Số vân đề về hiện tượng đồng nghĩa ............................................................. 82


T
0 T
0

2.3. NÓI LÁI TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT ................................................................. 83


T
0 T
0

2.3.1. Khái niệm ............................................................................................................. 83


T
0 T
0

2.3.2. Phân loại ............................................................................................................... 85


T
0 T
0

2.3.2.1. Hầu hết các CĐNL ngoài sử dụng biện pháp nói lái còn kết hợp miêu tả đặc
T
0

trưng, hình dáng, công dụng của vật đố theo kiểu trực tiếp, gợi suy nghĩ cho người
giải: ............................................................................................................................ 85
T
0

2.3.2.3. Một số câu đố nói lái dựa trên cơ sở sự phát âm chệch chuẩn của phương
T
0

ngữ từng vùng, như: ................................................................................................... 87


T
0

2.4. TIỂU KẾT .................................................................................................................... 89


T
0 T
0

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 90


T
0 T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 94


T
0 T
0
DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có một thể loại chưa được giới
nghiên cứu quan tâm đúng mức, đó là câu đố. So với các thể loại tương cận như tục
ngữ, ca dao thì số lượng của nó không nhiều nhưng về mặt nội dung lẫn hình thức của
câu đố có nhiều vấn đề cần tiếp tục quan tâm tìm hiểu thêm.

Tuy câu đố ít mang tính chất trữ tình và ý nghĩa xã hội như ca dao, tục ngữ,
nhưng nó cũng có vị trí, vai trò riêng của m1nh, nhất là trong lĩnh vực đời sống tinh
thần của nhân dân. Câu đố là một phương tiện giúp người dân bớt mệt nhọc trong lúc
lao động và giải trí khi vui chơi. Câu đố rèn luyện óc quan sát, óc suy luận, khả năng
tưởng tượng nhằm mục đích mở mang trí tuệ. Nó còn là một tư liệu giúp chúng ta hiểu
đời sống và thế giới quan của nhân dân lao động trong những thời kỳ lịch sử nhất
định. Ngoài ra, câu đố cũng có những ảnh hưởng nhất định đến dòng văn học viết
nước nhà.

Câu đố vẫn còn sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân, trước
hết vì nó được tạo nên bởi nhiều giá trị, nhưng quan trọng nhất vẫn là giá trị nghệ
thuật, trong đó có cách sử dụng các phương thức chơi chữ như một cách kí mã trong
câu đố để yêu cầu người giải đố phải tìm cách giải mã tín hiệu ấy thì mới giải đố
được.

Câu đố thể hiện đặc điểm của tiếng Việt với những cách so sánh, ẩn dụ, lộng
ngữ... độc đáo, với những cách chơi chữ hóc búa, tinh vi...

Đi sâu vào tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố là rất có ý nghĩa. VÌ
có như thế, chúng ta mới có thể nắm bắt được sự quan sát, cách tri nhận, cách liên
tưởng độc đáo và trí thông minh tài tình của nhân dân lao động qua một "pho cách trí
viết bằng phương pháp nghệ thuật đặc biệt" này. [2, tr.l]

VÌ những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn việc khảo sát một số phương
thức chơi chữ trong câu đố tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu của m1nh.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong luận văn này, do điều kiện hạn chế, chúng tôi không nghiên cứu tổng quát
về tất cả các thể loại, tất cả các khía cạnh của câu đố. Không tìm hiểu những loại như
hát đố, đố Kiều, và cũng không khảo sát lối đố nói, đố mẹo, đố toán; chúng tôi xem đó
là những "kiểu đố" chứ không phải câu đố. [2, tr. 1 ]

Trên phương hướng đó, chúng tôi chú trọng nghiên cứu phần lời đố - đi sâu vào
các phương thức chơi chữ, thống kê tần số xuất hiện của các phương thức để hiểu rõ
hơn về nghệ thuật của câu đố.

Tư liệu khảo sát của luận văn là kho tàng câu đố Việt Nam qua các công trình
sưu tầm, nghiên cứu với những kí hiệu quy ước sau đây:

1.Câu đố Việt Nam (tái bản bổ sung), Nguyễn Văn Trung, Nxb TP.Hồ Chí Minh,
1991. Kí hiệu TL1

2.Câu đố Việt Nam, Ninh Viết Giao, NXB Khoa học xã hội, 1997, Kí hiệu TL2.

3.Kho tàng báu truyền câu đố dân gian, Đông Vân, NXB Văn hóa dân tộc, 2005,
Kí hiệu TL3 .

Ngoài ra, chúng tôi có xem xét "Tục ngữ phong dao" của Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc, NXB VH-TT, 2000, tác phẩm này có 364 câu đố, nhưng hầu hết các câu đố đó
đều đã được Nguyễn Văn Trung và Ninh Viết Giao đưa vào TL1 và TL2, số còn lại
không đáng kể. VÌ vậy, tư liệu này chúng tôi chỉ dùng để tham khảo thêm chứ không
đặt vấn đề thống kê.

Chúng tôi tập hợp tất cả những câu đố ở ba tài liệu ấy. Tài liệu 1 có 1513 câu đố,
tài liệu 2 có 1310 câu đố, tài liệu 3 có 1887 câu đố. Sau khi đối chiếu ba tài liệu,
chúng tôi thấy có 722 câu ở TL2 trùng với TL1. Bản thân TL1 cũng có 11 câu trùng
nhau (được sử dụng 2 lần). Hầu hết các câu đố ở tài liệu 3 trùng với một trong hai
hoặc cả hai tài liệu trên. Trừ đi những câu trùng nhau trong 3 tài liệu, tổng cộng chúng
tôi khảo sát 2092 câu đố.

Trong quá trình sưu tầm tư liệu về câu đố Việt Nam, chúng tôi đã thu thập được
khoảng hơn hai chục cuốn câu đố dành cho mọi đối tượng, nhưng nhìn chung thì các
cuốn sách ấy chỉ dừng ở mức sử dụng lại các câu đố đã in trong ba tài liệu trên, hoặc
sưu tầm rời rạc từng mảng ít ỏi và không có giá trị cao. Do đó, chúng tôi chọn ba tài
liệu trên là nguồn sử dụng chính.

Và như vậy, theo hình dung của chúng tôi, 2092 câu đố là đối tương khảo sát của
luận văn này, là một sưu tập phản ánh tương đối đầy đủ câu đố tiêu biểu tiếng Việt.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Cho đến nay, có rất ít các công trình nghiên cứu về câu đố. Câu đố chưa được
nghiên cứu như một đối tượng nghiên cứu chuyên sâu thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học.

Các tác giả như Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (Phần phụ tập II. Tục ngữ phong
dao, Nxb Văn hoa thông tin tái bản, 2000) và một số tác giả khác chỉ giới thiệu câu
đô" SƯU tầm được chứ không quan tâm nghiên cứu câu đố, kể cả miêu tả, phân loại.

Các nhà nghiên cứu văn học dân gian như Bùi Văn Nguyên trong "Lịch sử văn
học Việt Nam" (văn học dân gian) Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1970, từ trang 205 đến
trang 219; Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong "Văn học dân gian Việt Nam" -
Nxb Đại học và THCN, Hà Nội, 1977, từ trang 34 đến trang 55; Hoàng Tiến Tựu
trong "Văn học dân gian Việt Nam" - Nxb Giáo dục, 1998, từ trang 145 đến trang
162... cũng nói về câu đố nhưng với tính chất là một loại hình của văn học dân gian.
Đặc biệt, Đỗ Bình Trị có xem xét câu đố thoáng qua về mặt thi pháp...

Các tác giả trên, do tiếp cận câu đố ở b1nh diện văn học nên chủ yếu chỉ đi sâu
vào nội dung, ý nghĩa của câu đố, ít đề cập đến vấn đề nghệ thuật câu đố cũng như vấn
đề chơi chữ.

Trong "Văn học dân gian Việt Nam - Tác phẩm chọn lọc dùng trong nhà
trường", các tác giả đã tuyển chọn và giới thiệu 50 câu đố ở mục II, chương II [42,
tr.83-90].

Nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao, trong TL2 [22], ở 43 trang giới thiệu đầu sách,
đã đề cập đến nhiều vấn đề nội dung câu đố. vấn đề về phương pháp sáng tạo câu đố
được phân tích sâu hơn các tác giả khác nhưng vẫn chưa cụ thể và đầy đủ.
Riêng Nguyễn Văn Trung trong "Câu đố Việt Nam" (tái bản có bổ sung), Nxb
TPHCM, 1991 [72], ở 213 trang đầu sách, tác giả có nghiên cứu kỹ hơn về các khía
cạnh của câu đố: từ xuất xứ, nguồn gốc, phân loại, cách cấu tạo, tần số đến những lối
nhìn, các khía cạnh văn chương nghệ thuật của câu đố, sưu tầm và giới thiệu các câu
đố... Nhưng phải thừa nhận, cách tiếp cận của tác giả chủ yếu xuất phát từ góc nhìn xã
hội, còn phần nghiên cứu về ngôn ngữ chưa được đậm nét.

Như vậy, từ trước đến nay tuyệt đại đa số các công trình nghiên cứu về câu đố
chỉ đi sâu về phương diện văn học, xem câu đố là một thể loại văn học dân gian và tìm
hiểu về mặt nội dung của nó.

Các tác giả chủ yếu nghiên cứu câu đố về mặt nội dung và không phải không có
lí khi có một số tác giả xếp chung câu đố vào cùng với tục ngữ. Sự đánh đồng này là
dựa trên đặc điểm nổi trội về mặt nội dung của câu đố là mang tính chất thường thức
và một sô" tác giả cũng nhìn thây tính chất thường thức này ở câu đố (nhưng thực ra là
không thoa đáng vì câu đố không hề có chức năng trang bị hiểu biết thường thức mới
mà chỉ nhìn sự vật dưới một góc nhìn mới mà thôi).

Nhìn chung, chưa có công trình nào đặt vấn đề "câu đố Việt Nam" như một đối
tượng độc lập để nghiên cứu dưới góc độ ngôn ngữ học, cũng như chưa có công trình
nào nghiên cứu về các phương thức chơi chữ trong câu đố bằng các tư liệu thống kê,
miêu tả tỉ mỉ, cụ thể.

VÌ vậy, việc đi sâu vào tìm hiểu câu đố là một vân đề đáng quan tâm; đặc biệt là
tìm hiểu câu đố dưới ánh sáng ngôn ngữ học để qua đó chúng ta có thể học tập những
phương pháp nhận thức, năng lực tư duy của cha ông.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố, chúng tôi vận dụng những
kiến thức của khoa ngôn ngữ học nói chung về ngữ âm học, từ vựng học, phong cách
học...

Trong luận văn, chúng tôi phối hợp sử dụng phương pháp hệ thống, thủ pháp
phân tích để xem xét câu đố tương đối tỉ mỉ về mặt hình thức có kết hợp với nội dung.
Đồng thời, để hệ thống hóa các phương thức chơi chữ trong câu đố, chúng tôi sử dụng
thủ pháp thống kê. Nhờ thống kê, chúng tôi có được những số liệu cụ thể. Trên cơ sở
đó chúng tôi rút ra những nhận xét, kết luận về vai trò của các phương thức chơi chữ
trong câu đố.

Nói một cách khái quát, luận văn này xuất phát từ góc nhìn ngôn ngữ học tiếp
cận câu đố tiếng Việt, vừa mang tính chất định tính, vừa mang tính chất định lượng.

5. CÂU TRÚC LUẬN VĂN

Cấu trúc của luận văn gồm các phần chính như sau:

Ngoài phần Dẩn nhập gồm lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, phạm vi nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu, cấu trúc luận văn, nội dung chính của luận văn tập trung ở
hai chương

Chương 1: Tống quan về câu đố và một số vấn đề liên quan

Nhiệm vụ của chương này là đi sâu tìm hiểu những vấn đề có tính chất cơ sở khi
tiến hành nghiên cứu câu đố như : câu đố là gì, chơi chữ là gì, chơi chữ trong câu đố,
tiền giả định bách khoa của câu đố, phương ngữ trong câu đố, cấu trúc của câu đố
tiếng Việt.

Chương 2: Một số phương thức chơi chữ tiêu biểu trong câu đố tiếng Việt

Chương này đi sâu tìm hiểu 3 phương thức chơi chữ tiêu biểu của câu đố là:
đồng âm, đồng nghĩa và nói lái.

Cuối cùng là Phần kết luận: tóm tắt nội dung và nêu lên những nhận xét được rút
ra qua các vấn đề đã nghiên cứu ở hai chương 1 và 2.
CHƯƠNG 1: TỒNG QUAN VỀ CÂU ĐỐ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
HỮU QUAN
Đề cập đến câu đố, xét từ nhiều khía cạnh có thể có nhiều vấn đề cần phải tìm
hiểu. Chẳng hạn, nếu coi văn bản đố như một hệ thống thì có thể xem xét cấu trúc
hình thức của câu đố, bao gồm tất cả các phương tiện và các phương thức được sử
dụng để tổ chức câu đố.

Lại có thể xem xét cấu trúc nội dung bao gồm lớp nghĩa bề mặt và cả lớp nghĩa ở
bề sâu, tức phải khảo sát nghĩa bề mặt nó đề cập đến cái gì và nghĩa bề sâu nó đề cập
đến cái gì. Còn nếu xem xét văn bản đố trong quá trình đố - giải, lại không thể không
đề cập đến các hình thức ngôn từ, cụ thể là cái mật mã mà người đố cố tình cài đặt và
người giải phải tìm mọi cách loại suy để có thể nhận diện nó và suy luận để tìm ra vật
đố.

Lại còn phải nhắc đến cái mã chung, cái tri thức nền mà văn bản dựa vào đó để
tồn tại trong quá trình đố - giải, tức phải xem xét các tiền giả định. Xa hơn, có thể
khảo sát các cách nhận thức, nói như ngôn ngữ học tri nhận, phải tìm ra hệ quy chuẩn
và bóng dáng con người trong đó. Bởi vì, dân tộc nào cũng có câu đố, nhưng mỗi dân
tộc lại có cách cảm nhận và lí giải hiện thực riêng.

Tuy nhiên, trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ chúng tôi tạm thời chỉ tìm
hiểu những vấn đề sau:

- Câu đố: nhận diện và phân loại

- Câu đố và tiền giả định

- Vai trò của phương ngữ trong câu đố

Tất nhiên đây chưa phải là những vấn đề cơ bản nhất của câu đố, nhưng trong
phạm vi nhận diện bản chất của đối tượng nghiên cứu, theo chúng tôi, đây là những
vấn đề lí thuyết chung trước khi đi vào phương thức chơi chữ để khảo sát nó.
1.1. CÂU ĐỐ VÀ CHƠI CHỮ

1.1.1. Câu đố

1.1.1.1. Khái niệm

"Câu đố là một hình thức sáng tác dân gian, xuất hiện rất sớm ở hầu hết các dân
tộc trên thế giới. Chức năng chủ yếu của nó là miêu tả, phản ánh đặc điểm của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật
ẩn dụ đặc biệt (hay phương pháp chuyển hóa - chuyển cái nọ thành cái kia) để thử tài
suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui giải trí". [76, tr.145]

Cũng có tác giả cho rằng "câu đố là những câu văn ngắn, có vần điệu, mô tả một
sự vật hay hiện tượng nào đó, nhằm để đố, để thử trí thông minh của người khác giải
xem m1nh định nói về cái gì". [67, tr.19] Câu đố là một phương tiện đặc biệt để nhận
thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật, sự việc và các hiện tượng trong thế giới
khách quan.

Mỗi câu đố bao gồm hai phần theo kết cấu liên văn bản: lời đố và lời giải. Lời đố
là những nét phác họa cách điệu về một sự vật, hiện tượng nào đó dưới dạng một câu
hỏi, yêu cầu người giải đố đoán ra xem vật được đề cập trong phần đố là cái gì. Còn
nhiệm vụ của người giải là phải gọi đúng tên của vật đố; đôi khi văn bản đố quá khó,
nhiều lúc phải đặt thêm yêu cầu là phải giới hạn phạm vi bằng cách xác lập các "xuất".

Như vậy, đố là một hoạt động giải trí tinh thần, ít nhất có hai người tham gia;
người chơi sử dụng trí tuệ, óc liên tưởng, phán đoán lô gích để ra câu đố và giải câu
đố. Đố - giải là một hoạt động giải trí, trong đó người tham gia phải huy động cả năng
lực tư duy hình tượng lẫn năng lực tư duy suy lý trong quá trình sáng tác câu đố cũng
như giải đố.

Là một thể loại dân gian truyền miệng, để đáp ứng yêu cầu dễ nhớ, dễ thuộc, dễ
lưu truyền, hầu hết các câu đố thường ngắn gọn và được sáng tác theo thể văn vần,
một số rất ít là văn xuôi.

Xét về mặt văn bản học, mỗi câu đố là một văn bản tối giản. Văn bản này có thể
gồm nhiều câu, một câu, thậm chí có thể chỉ là một ngữ (ví dụ câu đố về mặt trời:
Không sơn mà đỏ.). Nhưng dù tối giản đến đâu nó vẫn đủ tư cách là một văn bản hoàn
chỉnh có chức năng gợi mở cho người giải đoán được sở chỉ của câu đố.

1.1.1.2. Phân loại câu đố

Hiện nay có rất nhiều cách phân loại câu đố, nhưng tựu trung lại, hầu hết các tác
giả đều phân loại dựa vào đối tượng đố, như tác giả Nguyễn Văn Trung chia câu đố ra
thành hai loại lớn là tự nhiên và văn hóa, trong mỗi loại lớn đó lại bao gồm nhiều loại
nhỏ (gọi là "xuất") như: hiện tượng thiên nhiên, cây, cỏ, hoa, lá, loài vật...(tự nhiên) và
đồ dùng, sự vật, đồ ăn, đố chữ... (văn hóa).

Một vài tác giả phân loại câu đố theo hình thức, văn tự như câu đố 4 chữ, 5 chữ,
7 chữ..., thể lục bát, thể tứ tuyệt, thể ngũ ngôn...

Tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi tiếp thu cách phân loại thứ nhất ở trên
kết hợp với cách phân loại của chúng tôi là dựa trên các phương thức chơi chữ tiêu
biểu được sử dụng trong câu đố như đồng âm, đồng nghĩa, nói lái.... Những câu đố có
sử dụng kết hợp nhiều phương thức chơi chữ, chúng tôi chọn xếp theo phương thức
nổi trội nhất. số còn lại, chúng tôi tạm thời xếp vào loại "những loại khác".

Cần thấy, nhiều khi trong tổ chức văn bản đố, cùng một lúc sử dụng nhiều
phương thức. Do vậy cách phân loại ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối, chủ yếu là để tiện
miêu tả làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu.

Cách phân loại này nhằm tạo điều kiện cho chúng tôi dễ dàng khảo sát từng loại
câu đố một cách tách biệt theo phương thức chơi chữ được sử dụng trong câu đố.

1.1.2. Chơi chữ

1.1.2.1. Khái niệm

Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về nghệ thuật chơi chữ:

"Chơi chữ là lợi dụng các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa... trong ngôn ngữ nhằm
gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm, hài hước.) trong lời nói" [55,
tr.166]
Chơi chữ "là một biện pháp tu từ, trong đó ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn
cảnh... được vận dụng một cách đặc biệt nhằm đem lại những liên tưởng bất ngờ, lí
thú" [Từ điển văn học, tr.404]

"Chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ
vựng, ngữ pháp của tiếng Việt nhằm tạo nên phần tin khác loại song song tồn tại với
phần tin cơ sở. Phần tin khác loại này -tức lượng ngữ nghĩa mới - là bất ngờ và về bản
chất không có quan hệ phù hợp với phần tin - tức thông báo - cơ sở. [75, tr. 206]

" Chơi chữ là hình thái tu từ của lời nói được thể hiện bằng cách sử dụng linh
hoạt những tiềm năng của ngôn ngữ về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra cách
hiểu bất ngờ, thú vị... Chơi chữ thường dựa vào những phương tiện sau: dùng từ gần
âm, đồng âm, điệp phụ âm đầu, chiết tự, dùng từ cùng nghĩa, từ đa nghĩa, các từ cùng
trường..." [81, tr.50]

"Chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt đặc biệt, sao cho ở đó song song tồn tại
hai lượng ngữ nghĩa (thông tin) khác hẳn nhau được biểu đạt bởi cùng một hình thức
ngôn ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính chất chữ nghĩa "[48, tr.15]

Trong luận văn này, chúng tôi nhất trí với ý kiến của tác giả Triều Nguyên, xem
chơi chữ là PHƯƠNG THỨC DIỄN ĐẠT ĐẶC BIỆT. Chơi chữ chỉ xuất hiện khi
bằng một hình thức ngôn ngữ biểu đạt được ít nhất hai lượng ngữ nghĩa cùng tồn tại,
không nhất thiết phải phù hợp nhau về thông tin, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính
chất chữ nghĩa.

Một điều cần lưu ý trong nghệ thuật chơi chữ là các phương thức chơi chữ
thường được sử dụng trong những văn bản ngắn và cực ngắn như câu đối, ca dao, tục
ngữ và đặc biệt là câu đố. Các thể loại và văn bản có dung lượng lớn thường ít phù
hợp với nghệ thuật chơi chữ mà phù hợp với các đặc trưng khác như nhịp điệu, hình
ảnh, hình tượng...

1.1.2.2. Phân loại

Có nhiều hình thức chơi chữ trong văn chương.

Lãng Nhân [49] phân loại chơi chữ dựa trên hình thức thể loại và phương thức
chơi chữ, gồm: hoành phi, trướng - câu đối -lục bát, song thất lục bát - tập Kiều, vịnh
Kiều - hát nói - thơ ngũ ngôn - thơ thất ngôn - văn biền ngẫu - thổ âm thổ ngữ - dịch
ngoại ngữ - văn thơ Việt Nam hoa - chữ Quốc ngữ.

Nhìn chung cách phân loại này không nhất quán, chưa khoa học.

Cách phân loại của Lê Trung Hoa [28] nhất quán và khoa học hơn, dựa hẳn trên
các phương thức chơi chữ, gồm các loại: nói lái - đảo từ, ngữ, cú - đồng âm - trùng
điệp - mô phỏng - đồng nghĩa - đồng âm và đồng nghĩa - nghịch nghĩa, nói ngược -
liên nghĩa thật và giả - nghĩa phái sinh - chiết tự, tách từ - hạn vận, hạn từ - tục ngữ, ca
dao - chơi chữ theo truyện Kiều.

Các tác giả khác như Võ Bình - Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nhữ Thành cũng xác
định và có cách phân loại chơi chữ riêng, không hoàn toàn đồng nhất với nhau.

Chúng tôi đặc biệt lưu ý cách phân loại của Triều Nguyên [48]. Tác giả chia chơi
chữ thành hai kiểu lổn:

- Chơi chữ dựa vào các phương tiện ngôn ngữ được biểu hiện trên văn bản;

- Chơi chữ dựa vào tiền giả định là dữ liệu văn học, văn hoa. Mỗi loại bao gồm
nhiều phương tiện, cách thức riêng. Theo cách phân loại của Triều Nguyên, chúng tôi
khái quát thành bảng sau:
This image cannot currently be displayed.

Chúng tôi cho rằng , hai phương tiện chơi chữ phương ngữ và nói lái nếu sắp
xếp thành hai cách thức thuộc vào phương tiện chơi chữ ngữ âm-chữ viết (như bảng 2
sau) thì sẽ hợp lí hơn.
Kết hợp bảng 2 ở trên với bảng tổng hợp "cách phân loại chơi chữ của một số
tác giả" theo Trương Văn Sinh [62, tr.l 17] ta có bảng 3:
Quan sát bảng số 3, ta thây trong 22 phương thức chơi chữ được liệt kê thì có
đến 12 phương thức chỉ có một tác giả quan tâm, 7 phương thức được hai tác giả nhất
trí, và chỉ có 3 phương thức được tất cả các tác giả đặc biệt lưu ý, đó là ba phương
thức: chơi chữ đồng âm, chơi chữ đồng nghĩa và chơi chữ nói lái.

Khảo sát câu đố tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy có nhiều phương thức chơi chữ
được sử dụng trong câu đố. Nhưng - nhất trí với các tác giả trên - luận văn chỉ chú
trọng đi sâu tìm hiểu 3 phương thức chơi chữ tiêu biểu có tần số sử dụng cao và có giá
trị độc đáo, đó là ĐỒNG ÂM, ĐỒNG NGHĨA và NÓI LÁI.

"Không có bộ môn nghệ thuật nào lại sính chơi chữ như câu đố dân gian. Không
có nghệ thuật chơi chữ nào lại kì diệu như nghệ thuật chơi chữ của câu đố dân gian.
Câu đố dân gian Việt Nam là bậc thầy trong nghệ thuật chơi chữ." [79, tr.81]

Tất nhiên không phải tất cả các câu đố đều có sử dụng phương thức chơi chữ,
nhưng nếu trong câu đố nào có sự hiện diện của phương thức chơi chữ thì hầu hết các
phương thức ấy mang tính định hướng, gợi ý, chỉ dẫn cho việc giải đố.

Người ra câu đố luôn có ý muốn làm cho người giải khó đoán giải được câu đố,
tuy nhiên trong các câu đố sử dụng phương thức chơi chữ (gọi tắt là "câu đố chơi
chữ") thì chính những phương thức chơi chữ ấy lại là gợi mở, gợi ý cho người giải về
vật đố. Nói cách khác, trong câu đố chơi chữ, thì phương tiện chơi chữ là một cách kí
mã mà người giải tinh ý sẽ nhận ra, giải mã được tín hiệu ấy sẽ dẫn đến giải được cả
câu đố, đoán ra được vật đố. Ví dụ như câu đố:

1386. Bữa ni nắng mai khô

Bữa ni mưa mai ướt

Mai mửa mai ướt

Mốt mửa mai cũng ướt.

- Là cái gì?

Trong câu đố này, người đọc bị nhầm lẫn bởi từ "mai" nên rất khó đoán ra vật
đố.

Người đọc bị cuốn vào trường nghĩa các từ chỉ thời gian "ni, mai, mốt" nên
không thể nào đoán ra vật gì. Vật gì mà ngày nay trời nắng thì ngày mai nó mới khô,
ngày nay trời mưa thì ngày mai nó mới ướt? Câu: ngày mai mưa thì ngày mai ướt có
vẻ b1nh thường (cái gì thì khi trời mưa cũng bị ướt), nhưng đến câu cuối: ngày mốt
trời mới mưa mà tại sao ngày mai nó đã ướt? thì quả là bí hiểm. Phương thức chơi chữ
được sử dụng trong câu đố này là chơi chữ đồng âm dựa trên kiến thức nền về phương
ngữ. Phương ngữ Trung Bộ gọi cái mui thuyền là cái mai (Mui thuyền, mái khum trên
thuyền, giống hình mai rùa - TĐ), từ "mai" này đồng âm với một từ "mai" khác chỉ
thời gian (mai: Ngày kế sau ngày hôm nay - ĐTĐ).

Khi đã nắm được phương thức chơi chữ đồng âm trong câu đố đó, thì việc giải
đố đã quá dễ dàng: vật đố là cái mui thuyền.

Như vậy, tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố là đi tìm các ch1a
khoa để mở ra cách giải nó.

Người sáng tác câu đố lập mã bằng các phương thức chơi chữ, người giải đố tìm
thấy các kí hiệu và nắm được phương thức tạo mã thì sẽ dễ dàng giải mã, tức là giải
câu đố. Giả sử tất cả các câu đố đồng âm được xếp vào một mục, thì chỉ cần nắm vững
phương thức chơi chữ đồng âm, người giải có thể dễ dàng đoán giải được các câu đố.

1.2. TIỀN GIẢ ĐỊNH BÁCH KHOA CỦA CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

1.2.1. Tiền giả định - Tiền giả định bách khoa

Giả định là coi điều nào đó như là có thật, lấy đó làm căn cứ. [55, tr.369]

Trong một diễn ngôn, ngoài những điều đã nói rõ còn có những điều không nói
ra mà người ta lại nhận ra. Không nói ra không phải vì không muốn nói, mà vì cơ chế
ngôn ngữ, đó chính là tiền giả định của diễn ngôn. [11, tr. 14]

Như vậy tiền giả định là điều xem như là hiển nhiên, không phải bàn cãi, xem
như người nghe đương nhiên đã biết và người nói lấy đó làm căn cứ cho phát ngôn.

Người ta có thể phân chia tiền giả định thành tiền giả định dụng học và tiền giả
định nghĩa học. Tuy nhiên cách phân chia quen thuộc và phổ biến là cách chia tiền giả
định thành tiền giả định tri thức bách khoa và tiền giả định ngôn ngữ. [1, tr.l 16]

Trong bất kỳ một cuộc giao tiếp nào, muốn đạt được hiệu quả thì các nhân vật
tham gia giao tiếp phải có một lượng tiền giả định bách khoa chung nào đấy, mặc dù
có thể chưa được hoàn toàn đồng nhất.

Tiền giả định bách khoa (TGĐBK) bao gồm tất cả những hiểu biết về hiện thực
bên trong và bên ngoài tinh thần con người mà các nhân vật giao tiếp cùng có chung,
trên nền tảng đó mà nội dung giao tiếp hình thành và diễn tiến. [7, tr.395]
Nói cách khác, đây chính là kiến thức nền mà trên đó các đối tượng giao tiếp tiến
hành cuộc giao tiếp, và kiến thức nền càng dày thì cuộc giao tiếp càng diễn ra thuận
lợi, nhanh chóng hơn.

1.2.2. Tiền giả định bách khoa của câu đố

Tham gia đố phải có ít nhất hai người, là người ra câu đố (NĐ) và người giải đố
(NG). TGĐBK của câu đố được rút ra là nhờ các tri thức mà con người đã tích lũy
trong cuộc sông, là những hiểu biết cơ bản về vật đố không được nói ra trong câu đố,
nhưng hai người ngầm xem như đương nhiên đã cùng có chung những hiểu biết ấy.

Như vậy, những người tham gia cuộc đố - đặc biệt là NG - ngoài phải thông
minh, nhanh trí, còn cần phải có một vốn kiến thức phong phú làm cơ sở và vốn kiến
thức này, ở một chừng mực nào đó là những hiểu biết đồng nhất giữa NĐ và NG. Đây
chính là vốn kiến thức nền, là TGĐBK của câu đố.

Ví dụ như câu đố sau:

Ngoài da nhẵn thín như bào

Chín rồi vàng óng một màu như tơ

Một vùng ngan ngát hương đưa

Gợi thương cô Tấm chuyện xưa bồi hồi.

Đố là quả gì?

Giải đố là quả thị, là một loại quả tròn và mọng, khi chín vỏ có màu vàng, mùi
rất thơm.

TGĐBK của câu đố này là hiểu biết chung của NĐ và NG về câu chuyện cổ tích
Tấm Cám, tình tiết cô Tâm hóa thân từ quả thị. Ngoài những hiểu biết trực quan về
quả thị như da quả nhẩn bóng, khi quả chín có màu vàng, tỏa hương thơm, NG nhất
thiết phải biết chuyện cổ tích Tấm Cám mới có thể tìm ra lời giải đố.

1.2.3. Nhận diện các loại tiền giả định bách khoa trong câu đố

Xét về phạm vi quy chiếu, TGĐBK của câu đố nói chung rất phong phú và đa
dạng. Đó là những hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong đời sông hằng ngày cũng như sự
am hiểu về cuộc sống, cuộc đời, văn hóa, xã hội v.v... Dựa vào các câu đố (cả phần lời
đố và lời giải) chúng ta có thể nhận thây những TGĐBK về một số lĩnh vực:

1.2.3.1. TGĐBK về con vật, đồ vật, cây cối

Loại câu đố có nội dung này chiếm số lượng nhiều nhất trong kho tàng câu đố
của các dân tộc Việt Nam cũng như của người Việt.

Trong 2092 câu đô" chúng tôi khảo sát, có đến khoảng 1800 câu đố có nội dung
liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, chiếm tỉ lệ hơn 86%. Những câu
đố còn lại chủ yếu là đố về các vật dụng mới xuất hiện về sau này như rạp xi-nê, máy
bay, tàu thủy... hoặc về các loại văn tự Hán, Nôm, Quốc ngữ...

Như ta đã biết, các thể loại văn học dân gian nói chung và câu đố dân gian nói
riêng là sản phẩm của quần chúng nhân dân. Do là sáng tác của quần chúng nhân dân -
mà tuyệt đại đa số nhân dân ta ngày xưa là nông dân - nên những sự vật, hiện tượng
được miêu tả trong các câu đố là những sự vật, hiện tượng quen thuộc, gắn liền với
hoàn cảnh sống và lao động ở nông thôn hay là những đồ vật, con vật, cây cối với đặc
điểm, chu kỳ sinh trưởng của chúng mà họ gần gũi, trông thây, gặp gỡ hoặc sử dụng
hằng ngày. Những hiểu biết về các sự vật, hiện tượng đó chính là TGĐBK của loại
câu đố này. Như trong các câu đố sau:

Lá xanh, cành đỏ, hoa vàng

Là là mặt đất đố chàng giống chi.

- Cây rau sam.

Một loài cây mọc nhiều ở bãi cỏ, tàn lụi lúc bắt đầu vụ rét, sống hàng năm, bò
lan, cành mập tím, lá nạc dày, hình trứng, hoa vàng mọc ngọn cành, dùng làm rau ăn
và làm thuốc uống chữa lị trực trùng, giã đắp trị mụn nhọt (ĐTĐ)

104. Tự nhiên cắt cổ mà chôn

Bữa sau sông lại đẻ con từng bầy.

- Dây khoai lang

Một loại cây thân dây,mọc bò, lá hình tim, rề củ có nhiều tinh bột dùng làm
lương thực, trồng bằng thân. (TĐ)
109. Cây xanh xanh, lá xanh xanh

Bông ở trên cành, trái ở dưới sâu.

- Cây đậu phộng

Còn gọi là cây lạc, đậu phụng, một loại cây trồng lấy hạt làm thực phẩm hay ép
dầu, thân phân nhánh từ gốc, rễ mọc từ mấu, hoa màu vàng, ra trái đâm xuống đất.

159. Sinh con rồi mới sinh cha

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

- Cây tre

Ý nói cây măng (con) được mọc ra trước, khi lớn lên thành cây tre (cha), rồi mới
thành cội tre (ông).

454.Cho hay duyên nợ bởi trời

Vợ chồng âu yếm chẳng rời nhau ra.

- Con sam.

Động vật chân đốt ở biển, thân lớn, có vỏ giáp cứng, đuôi dài và nhọn, sông
thành đôi, con đực và con cái không bao giờ rời nhau . Thành ngữ: Quấn quýt như đôi
sam (TĐ)

455.Khum khum như cái bàn tay

Mồm thì mồm dọc ngậm ngay hột hồng

Hai bên có hai hàng lông

ở giữa hột hồng đỏ loét lòe loe.

- Con sò huyết. Một loài sò biển, thịt có chất dịch màu đỏ như huyết (TĐ) 778.
Hai tay anh ôm lấy cổ

Hai chân anh xỏ vào lòng

Ôm lấy con gái thì chặt khăng khăng

Ôm lấy bà lão thì lỏng la lỏng lẻo.

- Cái yếm.
Đồ mặc lót che ngực của phụ nữ trước đây (ĐTĐ) 790. Đi nhe răng, về cũng nhe
răng Đi lè lưỡi, về cũng lè lưỡi.

- Cái bừa và cái cày

Răng bừa và lưỡi cày.

798. Có mình mà chẳng có chân

Có đầu, có mỏ, cái thân rõ dài

Còn đôi cánh thiếu cả hai

Ai đem cho gạo mổ hoài không ăn.

- Cái cối giã gạo (đạp chân) - Một đầu trâu, bôn cái râu, hai người kéo.

- Gàu giai.

889. Con đánh bố, bô" kêu làng

Làng chạy ra, con chui bụng bố.

- Mõ và dùi. 955. Không phải bò, không phải trâu

Uống nước ao sâu, lên cày ruộng cạn.

- Bút châm mực.

Thời trước học sinh thường dùng bút cán gỗ, ngòi sắt, không có bộ phận chứa
mực như bút máy ngày nay nên khi viết phải chấm vào lọ mực (uống nước ao), viết
lên trang giấy (cày ruộng cạn), khi hết lại chấm mực.

443. Cái gì khác họ cùng tên

Con ở dưới nước, cây trên mái nhà.

- Con cá mè và cây mè nhà.

Cây mè nhà: thanh tre hoặc nứa đặt dọc theo chiều dài mái nhà để buộc tranh lợp
nhà (ĐTĐ)

Cá mè: cá nước ngọt, cùng họ với cá chép, thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng.
(ĐTĐ)

1245. Mình tròn trùng trục, đuôi dài lê thê


Khắp chợ cùng quê, đâu đâu cũng có.

- Cái gáo múc nước. Thường làm bằng sọ dừa.

1.2.3.2. TGĐBK về sinh hoạt, lao động

- TGĐBK của các câu đố loại này là những hiểu biết của NĐ và NG về sinh hoạt
và những công việc lao động quen thuộc của người nông dân, như: hút thuốc lào, ăn
trầu, sàng gạo, rang bắp, tát nước, cày bừa, cấy lúa V.V.... Nếu không có những hiểu
biết này thì khó có thể tham gia ra đố hoặc giải đố. Như những câu đố sau:

- Xin lửa ông táo, đốt đầu ông sư

Sâm động ù ù, rồng bay phấp phới.

- Hút thuốc lào.

- Một củ bôn rễ

Hai người lễ mễ bưng lên.

- Tát nước gàu giai.

- Một tay bế lũ con thơ

Một tay giành lấy mà đưa nhận bùn.

- Cấy lúa.

- Đập đập trói trói

Nhịn đói một ngày

Ngày mai đi đày

Đặt cho tên khác.

- Nhổ mạ và cây lúa.

660. Hàng trăm cái lỗ, vô số trẻ con

Đua chạy vòng tròn, chen nhau chui xuống.

- Sàng gạo.
Sàng là đồ dùng đan bằng tre, hình tròn, lòng nông có lỗ nhỏ và thưa để làm gạo
sạch thóc, trấu và tấm (TĐ).

Sàng gạo là dùng sàng làm cho gạo sạch thóc và trấu(TĐ).

- Ba đầu, bốn lưỡi, mười chân

Một lưng bận áo, hai lưng ở trần.

- Người cày ruộng trâu đôi. Ba đầu: đầu người và hai đầu trâu;

Bôn lưỡi: lưỡi người, hai lưỡi trâu và lưỡi cày;

Mười chân: hai chân người và tám chân trâu;

Một lưng bận áo: lưng người;

Hai lưng ở trần: hai lưng trâu.

- Ba bà đi chợ cầu Nôm

Bà đi sau rốt luôn mồm: nhanh lên

Bà đi trước thì thiếu hàm trên

Bà đi giữa thì thiếu hàm dưới

Chỉ bà đi cuối đủ nguyên hai hàm.

- Người và trâu đi bừa.

1.2.3.3. TGĐBK về phong tục - tập quán

- TGĐBK về các tập tục nói chung là những hiểu biết của NĐ và NG về những
phong tục, tập quán của người nông dân xưa trong cúng giỗ, hôn nhân, vinh quy bái tổ
, cả gia đình ăn cơm chung ...

80. Có cây mà chẳng có cành

Có quả để dành chắp nối tơ duyên.

Hoặc:

Có cây mà chẳng có cành

Có quả để dành mà cúng tiên sư.


- Cây cau

Theo "Sự tích trầu cau", trầu và càu thường dùng làm sính lễ trong hôn nhân,
phong tục thờ cúng của người Việt từ xưa.

167. Cây xanh xanh rễ mọc trên cành

Không nấu canh để dành ăn sống.

- Cây trầu không.

636. Một người mà đánh ba làng,

Máu chảy cùng đàng ruồi chẳng dám bâu.

- Ăn trầu.

1234. Đem giăng sườn núi bắt được nai Con khóc mẹ ru cậy đến mày Cửa võ ba
tầng, xong bước nhảy Tòn teng chồng vợ cả và hai.

- Cái võng.

Cửa võ: do bởi chữ Vũ Môn, tên một khúc núi ở thượng lưu sông Trường Giang,
Trung Quốc, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, chân núi có cái vực rất sâu, tương truyền đến mùa
thu nước lũ lớn, cá đua nhau tới đó nhảy thu con nào vượt qua được ba cấp sóng Vũ
Môn thì hóa rồng. Nước ta, ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh cũng có vực sâu ở cạnh
núi như thế (?). Sách tàu có câu "Vũ Mân tam cấp lăng", tục ngữ của ta cũng có câu
"Cá vượt Vũ Môn " dùng để chỉ học trò thi đỗ.

TGĐBK của câu đố này là hiểu biết về phong tục vinh quy bái tể khi người đi thi
đỗ cao, vợ chồng được khiêng bằng kiệu, bằng võng từ kinh đô về quê nhà để bái yết
tổ tông, dòng tộc.

- Vừa bằng miệng thúng

Lăn đúng giữa nhà

Con cháu ông bà

Toàn gia quây lại.

- Mâm cơm
Ngày trước nông dân vốn có thói quen sắp xếp thức ăn trên một cái mâm tròn,
không đặt mâm trên bàn ăn như ngày nay mà đặt ở dưới nền nhà và cả gia đ1nh xúm
xít, quây quần xung quanh mâm khi ăn cơm. (Hiện nay ở nhiều vùng nông thôn vẫn
còn giữ sinh hoạt này)

1.2.3.4.TGĐBK về cuộc đời con người

- TGĐBK của loại câu đố này là những hiểu biết của NĐ và NG về những giai
đoạn sinh trưởng, phát triển của cuộc đời con người. Nói chung đây là những hiểu biết
được tích lũy trong cuộc sông, có thể xem như là những kinh nghiệm sống được rút ra
từ cuộc đời. Những hiểu biết loại này đối với người càng nhiều tuổi thì càng có ưu thế
hơn, vốn kiến thức phong phú hơn.

516. Sớm đi bôn chân, trưa đi hai chân

Chiều đi ba chân, tối đi tám chân.

- Con người.

TGĐBK của câu đố này là hiểu biết về đặc điểm vòng đời con người: lúc còn
nhỏ chưa biết đi phải bò (bốn chân), trưởng thành đi bằng hai chân, về già đi lại phải
chống gậy (ba chân), đến khi qua đời thường có bốn người khiêng quan tài đưa ra
ngoài đồng (tám chân).

1.2.3.5. TGĐBK liên quan đến các nhân vật - sự kiện

Là những TGĐBK về vốn hiểu biết có liên quan đến các nhân vật - sự kiện văn
hoa - văn học - lịch sử.

620. Đem chuông lên đánh Sài Gòn

Để cho nữ giới biết con ông đồ.

- Sương Nguyệt Anh.

Bà là con gái thứ năm của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (Nguyễn Đình Chiểu dạy
học nên còn gọi là ông Đồ Chiểu), chủ bút tờ báo "Nữ giới chung" (Tiếng chuông nữ
giới), tờ báo phụ nữ đầu tiên xuất bản tại Sài Gòn (1918).

- Truyện Kiều chàng đã thuộc làu


Đố chàng kể được một câu năm người.

- Đó là câu: Này chồng, này mẹ, này cha

Này là em ruột, này là em dâu.

619. Ai vừa ra khỏi trường thi

Nghe tin mẹ vãng, vật mình khóc thay

Ai mà bị bỏ vào hang về sau thi đỗ làm quan đại trào.

- Lục Vân Tiên

- Dưới đào thề thốt đinh ninh

Trời xui hào kiệt kết thành chân tay

Lửa hương đã quyết phen này

Không cho tấc đất vào tay Tôn, Tào.

- Lưu, Quan, Trương kết nghĩa vườn đào.

703. Sẵn sàng sáu cái tô tô

Đổi hai chục chén con sò nhỏ hơn

Chén sao khéo vẽ khéo sơn

Có sông có núi xanh rờn bốn bên.

- Nam kì lục tỉnh .

(Sáu tỉnh: Long, An, Hà, Biên, Định, Gia, sau chính quyền cai trị Pháp đổi ra 20
tỉnh: Gia, Châu, Hà, Rạch, Trà, Sa, Bến, Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên, Mỹ, Bày
Chợ, Vĩnh, Gò, cầu, Bạc)

TGĐBK của loại câu đố có liên quan ít nhiều đến lịch sử - văn hóa là những hiểu
biết về các các nhân vật, sự kiện văn học - văn hóa -lịch sử trong và ngoài nước. Loại
câu đố này có lẽ ra đời trong thời gian sau này, chủ yếu do giới trí thức sáng tác và lưu
truyền trong giới m1nh chứ không phải sản sinh và lưu hành trong giới b1nh dân. Nó
có thể vốn là những bài thơ vịnh về một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử nào đó
mà trở thành câu đố.
1.2.3.6. TGĐBK về phương ngữ:

Ai cũng biết câu đố được sản sinh ra từ từng địa phương cụ thể. Do đó, trong
nhiều câu đố có chứa các từ địa phương (phương ngữ).

Trong quá trình giải câu đố, người giải phải hiểu nội dung câu đố đề cập đến vấn
đề gì, muốn nói gì. Do đó việc giải thích các từ ngữ địa phương trong các câu đố là
yêu cầu tiên quyết cho việc tiếp cận, tìm hiểu câu đố.

Ví dụ như câu đố:

851. Cái chi bằng cái cổ cò

Ăn ba hòn ru chẳng no cái diều.

- Cái rựa

Hòn rú - phương ngữ Nghệ Tĩnh, tiếng toàn dân là "hòn núi". Phải nắm được
nghĩa của từ này thì người ở các vùng khác mới hiểu được câu đố muốn nói gì, và từ
đó mới suy luận để giải được câu đố.

Nhiều nhà nghiên cứu phương ngữ dựa vào đặc trưng ngôn ngữ địa phương của
nước ta mà chia thành các vùng phương ngữ: Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung bộ
và Nam Bộ. Luận văn sẽ trở lại vấn đề phương ngữ ở phần III, chương này.

1.2.3.7. TGĐBK về các thủ pháp nghệ thuật ngôn từ

Đó là những thủ pháp quen thuộc về mặt hình thức ngôn từ được sử dụng trong
quá trình sáng tác câu đố như chiết tự, nói lái, nói trại, dùng chữ Hán, dùng từ đồng
âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, từ đa nghĩa v.v... và những TGĐBK khác.

- TGĐBK về câu đố loại này là hiểu biết về những thủ pháp mà NĐ sử dụng
trong lúc sáng tác câu đố.

Những câu đố bằng chữ Hán hoặc có liên quan đến Hán tự thì yêu cầu NG phải
có những hiểu biết nhất định về chữ Hán:

463. Phi điểu, phi ngư, cư tại thủy

Cấu mộc vi sào thực nhục hương.

(Không phải chim, không phải cá, sống dưới nước


Kết gỗ làm tổ, thịt ăn thơm)

- Con cà cuống.

Là một loài bọ cánh, nửa sống ở nước, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh
dầu mùi thơm, vị cay, dùng làm gia vị; thịt và trứng con cái ăn thơm ngon. (TĐ)

4. Một mẹ mà đẻ tám con

Bốn con bạc bụng, ba con xanh đầu

Còn một con nữa chia nhau ăn cùng.

- Trái đất.

Theo thuyết Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền.

708. Thinh thinh đất rộng trời cao

Đố ai biết được xứ nào trời dư.

- Thừa Thiên.

Thừa = dư, thiên = trời

- Chiết tự chữ Hán:

1466. Hỡi anh cắp sách đi thi

Ba xe chập lại chữ gì hỡi anh ?

Hay:

Ba xe kéo lê trên đàng, ầm vang như sâm.

- Chữ OANH.

Ba chữ xa : xe, hợp lại thành chữ oanh ồn ào

- Chiết tự chữ quốc ngữ:

64. Nửa làm mứt, nửa nấu canh

Đến khi mất sắc, theo anh học trò.

- Chữ BÍ
Chữ BÍ, là trái bí thường dùng để nấu canh hoặc làm mứt, bỏ dấu sắc thành chữ
BI, là thứ đồ chơi của học trò .

- Hiểu biết về các vị thuốc :

1088.Chồng nàng mới thác nằm đâu

Chồng tôi mới thác nằm đầu ván kia.

- Chỉ xác (chỉ cái xác của chồng)

"Chỉ xác" là một vị thuốc đông y chế biến từ quả già phơi sấy khổ của một số
cây họ cam quýt.

1089.Bà già đầu bạc tuổi cao

Chèo ghe mỏi mệt cắm sào nghỉ ngơi.

- Bã đậu .

Cây, lá "bã đậu" dùng làm thuốc để cho xổ, dễ đi cầu.

- Hiểu biết về cuộc sống:

+ Xe ngừng bánh chạy, xe chạy bánh ngừng.

Hỏi là xe gì ?

Phương ngữ Nam bộ: ngừng = dừng lại.

bánh: Bộ phận của xe hoặc máy, có dạng đĩa tròn hoặc vành lắp nan hoa, quay
quanh một trục; bánh xe.

bánh2: Món ăn chín có hình khối nhất định, chế biến bằng bột, thường có thêm
chất ngọt, mặn, béo; bánh kẹo.

Ở đây NĐ có sử dụng hiện tượng đồng âm giữa bánh! và bánh2 gây nhầm lẫn,
khó phân biệt cho NG.

Giải đố là xe khách. TGĐBK của câu đố là hiểu biết quang cảnh khi xe khách
dừng, những người bán hàng rong tranh nhau chạy đến bán bánh trái cho khách trên
xe, khi xe chạy đi thì hàng rong dừng bán vì không còn khách mua.

- Hiểu biết về thủ pháp chơi chữ nói lái:


+ Đi cưa ngọn, về cũng cưa ngọn.

- Con ngựa

- Hiểu biết về thủ pháp chơi chữ đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa...

1203. Ngả lưng cho thế gian ngồi

Kẻ chê bất nghĩa, người cười bất trung.

- Cái phản

phải 1: Thay đổi hẳn thái độ, hành động chống lại, làm hại người có quan hệ gắn
bó với m1nh. Lừa thầy phản bạn.

phản2: Là phương ngữ chỉ bộ ván, đồ vật có chức năng như giường, thường làm
bằng gỗ nguyên tấm dày. Cái phản gỗ.

phảni (động từ) đồng âm với phản2 (danh từ), đồng thời phảĩỉị cũng đồng nghĩa
với bất nghĩa, bất trung.

Người giải đố từ các từ ngữ giả thiết có trong câu đố là bất nghĩa, bất trung mà
suy ra nghĩa của phản 1 rồi từ nghĩa của phản 1 mà suy ra nghĩa của phản 2 .
R R R R R R

- Hiểu biết về địa lí:

1034. Vốn xưa quê ở Thổ Hà

Ai ai cũng gọi tên là con quan

Dốc lòng việc nước lo toan

Đầy vơi phó mặc thế gian ít nhiều.

- Âm nước.

Thổ Hà: một làng ở Bắc Ninh chuyên làm đồ gốm.

Con quan được tập ấm sinh, nghĩa là đi thi đỗ được cấp bằng, gọi là ấm sinh, gọi
tắt là cậu ấm. Hai từ đồng âm là cái ấm = cậu ấm.

707. Chỗ này không cạn không sâu

Năm xưa tàu đã chìm đâu lối này.

- Rạch Giá
Không sâu là con rạch; tàu chìm thì phải vá, nói trại thành giá.

Có thể khái quát hoa các tiền giả định bách khoa trong câu đố tiếng Việt qua
bảng sau:

1.2.4. Nhận xét

Qua việc tìm hiểu TGĐBK của câu đố Việt, chúng ta nhận thây rằng trở ngại lớn
nhất đối với NG trong thời đại ngày nay chính là sự ít am hiểu về những kiến thức đòi
hỏi phải có chung giữa NG và NĐ.

Hoàn cảnh sản sinh và sử dụng câu đô" "là khung cảnh sông hay không gian cư
ngụ của người đố và người giải gồm gia súc, cây cỏ, nhất là đồ dùng làm ra, gần gũi
quen thuộc vì trông thấy luôn trước mắt hoặc sử dụng hằng ngày ai cũng biết" [72,
tr.16]

Thế nhưng đối với những người trong thời đại ngày nay thì việc làm chủ tất cả
những kiến thức ấy là một khó khăn vì sự khác biệt không chỉ trong hoàn cảnh sông
của hai thời đại, mà những đồ vật vốn quen thuộc ngày xưa, hiện nay đã trở nên xa lạ,
ít thây. Đối với những người xuất thân từ nông thôn thì có phần thuận lợi hơn. Với
những người sinh trưởng ở thành thị thì khó khăn ấy còn nhân lên gấp bội. Ngày nay
có được bao nhiêu người - nhất là trẻ em - biết được những sự vật vốn gần gũi, thân
thiết với người nông dân xưa như: cây rơm, cái cày, cái bừa, cái yếm, cái cối giã gạo,
cái gàu dai, cái mõ cá... thậm chí cả cây bút châm mực; hay những công việc lao động
thường nhật của người nông dân như: cày bừa ruộng, cấy lúa, nhổ mạ..., những sinh
hoạt, tập tục như: ăn trầu, hút thuốc lào, thờ cúng... và những kiến thức phong phú về
nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống.

Cũng không phải tất cả mọi người đều biết về phương ngữ, nói trại của các địa
phương; các thủ pháp nghệ thuật mà NĐ vận dụng trong câu đố như chiết tự, nói lái,
dùng từ đồng âm, đồng nghĩa, đa nghĩa, trái nghĩa v.v...

Đối tượng yêu thích câu đố nhất chính là trẻ em thì von kiến thức của các em
còn mỏng, chưa có nhiều kinh nghiệm sông, lại có quá nhiều khoảng cách trong nhận
thức giữa hai thời đại nên việc đoán giải đối với các em vẫn còn là một thách thức lớn.

Đỗ Hữu Châu có một nhận xét rất xác đáng: "Về- mặt thông tin mà nói, giao tiếp
là nhằm làm biến đổi tiền giả định bách khoa (quan yếu và không quan yếu) của từng
người. Theo diễn tiến của cuộc giao tiếp, người này cung cấp cho người kia những
lương tin mới, điều chỉnh lượng tin cũ, làm tăng dần phần tiền giả định bách khoa
chung so với lúc khởi đầu cuộc giao tiếp. "[7, tr.19]

Tìm hiểu TGĐBK của câu đố tiếng Việt là góp phần cung cấp thêm nhiều kiến
thức mới về câu đố cho các thế hệ người đọc, làm tăng dần phần tiền giả định bách
khoa của câu đố cho NG, thu hẹp khoảng cách trong vốn hiểu biết về câu đố giữa NĐ
và NG.

1.3. PHƯƠNG NGỮ TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

Ở 1.2.3.6., luận văn đã sơ lược đề cập đến phương ngữ như một yếu tố tất yếu
của tiền giả định khi xem xét câu đố trong hoạt động đố -giải. Bởi vì, nếu không nắm
được các tiền giả định thuộc phương ngữ, người giải chắc chắn sẽ không bao giờ tìm
ra vật đố.

Đến đây, thông qua các ngữ liệu, chúng tôi sẽ làm rõ hơn vai trò của các yếu tố
phương ngữ như là chiếc ch1a khoa giúp người giải tìm ra đối tượng quy chiếu.
1.3.1. Khái niệm phương ngữ

"Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ
toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ
toàn dân hay với một phương ngữ khác." [8, tr.24]

Thật ra, phương ngữ cũng chính là biến thể địa phương của ngôn ngữ toàn dân
được hình thành trong quá trình lịch sử.

Trong quá trình tìm hiểu câu đố Việt Nam, chúng tôi nhận thấy trong các câu đố
có rất nhiều từ ngữ đặc trưng cho từng vùng đất nước và muốn giải được câu đố thì
nhất thiết người giải phải hiểu nội dung câu đố đề cập đến vấn đề gì, muốn nói gì. Do
đó việc giải thích các từ ngữ địa phương (phương ngữ) trong các câu đố là yêu cầu
tiên quyết cho việc tiếp cận, tìm hiểu câu đố.

Câu đố là một loại hình văn học dân gian có tính giải trí, được sản sinh ra qua
quá trình lao động, sinh hoạt của nhân dân từng địa phương và được lưu hành sang
các địa phương khác theo phương thức truyền miệng. Do đó có thể thấy rằng bản sắc
địa phương - trong đó có phương ngữ, đã để lại nhiều dấu ấn trong chính các văn bản
câu đố, cả ở phần lời đố và phần lời giải.

Tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất cao và hệ thống phương ngữ xét từ bình
diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng đều có sự khác biệt so với hệ thống ngôn ngữ toàn
dân (tiếng Việt phản ánh trên chữ viết). Do vậy, có thể coi mỗi phương ngữ là một
biến thể của tiếng Việt toàn dân. Tuy nhiên các biến thể này lại được hiện thực hoá
trong giao tiếp của từng vùng miền và trong quá trình tiếp xúc giữa các phương ngữ,
các biến thể này ngày càng xích lại gần nhau.

Xuất phát từ cách hình dung như trên, có thể nói rằng: Hệ thống ngữ âm tiếng
Việt toàn dân là một hệ thống lớn, các phương ngữ là những biến thể. Tương tự, hệ
thông ngữ pháp tiếng Việt là một hệ thống lớn, mỗi phương ngữ có chứa đựng những
biến thể và hệ thông từ vựng tiếng Việt là một hệ thống lớn, mỗi phương ngữ cũng
bao gồm những biến thể.
Cũng phải nói ngay rằng, sự khác biệt chủ yếu tập trung ở ngữ âm, từ vựng, còn
ở ngữ pháp là không nhiều; tuy nhiên, luận văn sẽ cố gắng mô tả và phân loại một
cách tỉ mỉ các ngữ liệu đã thu thập được.

1.3.2. Biến thể ngữ âm

Ta có thể dễ dàng tìm thấy các biến thể ngữ âm trong câu đố:

1.3.2.1. Biến thể ngữ âm trong phương ngữ Nam Bộ (PNNB):

* Âm chính: i —> a, a —> ô

i. sanh (sinh)

148. Một nàng đứng giữa đồng ma

Đầu đội nón lá ngó ra kia cà

Cha mẹ nàng ở Diêm la

Sanh con đẻ cháu, xuất gia tu hành.

-Sen

ii.hột (hạt)

37. Cây cao ngùn ngút, hót dột lon xon

Nấu ăn thì ngon, nướng ăn không được.

- Hạt mưa

* Vần : àu-» ào - té (nhào)

136. Cây chi chi không leo mà té

- Cây nhào (nhàu)

1.3.2.2. Biến thể ngữ âm trong phương ngữ Bắc Bộ (PNBB)

* Âm đầu: tr—>gi, d->r

i. giăng (trăng)

905. Răng đen nhưng nhức, mặt điểm hình giăng

Chồng con chẳng lấy, đi ở với làng


Bao nhiêu trộm cướp, đòn cũng chịu

Lúc chết làng lại phải để tang.

- Cái trông

ii. giời (trời)

169. Con rắn bắt leo cây thục địa

Ngựa nhà giời ăn cỏ chỉ thiên

Nam nhân đối được nữ hiền theo không.

- Cây trầu không

iii. ráp (dấp, nhúng, người một số vùng ở tỉnh Thái Bình phát âm đồng nhất hai
âm đầu: ái r, ví dụ năm Ất Dậu->Ất Rậu)

585. Một cây mà có năm cành

Ráp nước thì héo để dành thì tươi.

- Bàn tay

1.3.3. Biến thể về ngữ pháp

Về mặt ngữ pháp, ta chỉ thấy những khác biệt nhỏ giữa các phương ngữ. Trước
hết là hiện tượng rút gọn của các từ xưng hô thường gặp trong phương ngữ Nam Bộ:

+ ông ấy -> ổng

97. Vô chùa lạy Phật cầu chồng

Ông Phật ổng nói đàn ông hết rồi

Giá - góa

+ bà ấy bả

1089. Bà già đầu bạc tuổi cao

Chèo ghe mỏi mệt cắm sào nghỉ ngơi

- Cây bã đậu

PNNB: phát âm đồng nhất thanh ngã -» thanh hỏi: bã = bả .


Bên cạnh đó còn thấy sự khác biệt trong đại từ chỉ trỏ và đại từ nghi vấn, đặc
biệt là trong phương ngữ Trung Bộ.

+ mô (đâu)

766. Tròn tròn như lá tía tô

Đông tây nam bắc đi mo cũng về.

- Cái nón

+ tề (kìa)

1367. Cây khô có lá, đã lạ chưa tề

Đông thu thì trốn, mùa hè lại ra.

- Xe đạp nước

Từ sự đối sánh các phương ngữ trên với ngôn ngữ toàn dân, ta thấy bản thân
ngôn ngữ toàn dân thoạt tiên cũng là một phương ngữ (ít sai sót nhất) được chọn làm
chuẩn; nhưng từ góc nhìn của những người ở các vùng khác như Trung Bộ và Nam
Bộ ít có điều kiện tiếp xúc với cư dân Bắc Bộ, chỉ sử dụng từ địa phương, không phải
ai cũng có thể hiểu được các từ toàn dân vốn là phương ngữ Bắc Bộ. Một số từ trong
các câu đố sau chẳng hạn:

- quả (trái, khác với "quả" ở miền Nam là cái tráp)

80. Có cây mà chẳng có cành

Có quả để dành mà cúng tiên sư.

- Cây càu

- mồm (miệng)

Mồm bò, không phải mồm bò, mà lại mồm bò.

- Con ốc

- vứt (ném)

117. Eo lưng thắt đáy cổ bồng

Buộc lưng cho chặt vứt sông đại hà.


- Bó mạ

- bẩn (PNNB-TB: dơ)

372. Tôi là bạn của nông gia

Thân đen đủi bẩn, nhưng mà công to.

- Con trâu

- bát (PNNB-TB: cái chén)

376. Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng.

- Lỗ chân trâu

-lọ (PNNB-TB: hũ)

478. Thân em bé nhỏ biết bao

Em có chút lửa chói vào sáng ghê

Trẻ em chẳng đứa nào chê

Chúng bắt em về bỏ lo mà chơi.

- Con đom đóm

- thẹn (PNNB-TB: xấu hổ, mắc cỡ)

792. Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng

Khom lưng uốn gối cả đời cong

Lưỡi to bởi thế ăn ra phết

Cái kiếp chui lòn có then không.

- Cái cày

Căn cứ vào phương ngữ xuất hiện trong câu đố ta có thể phỏạg đoán được xuất
xứ của câu đố đó là từ vùng nào của đất nước ta; tuy nhiên cũng có một số câu đố mà
trong đó nhiều phương ngữ cùng song song tồn tại, gây khó khăn cho việc xác định
xuất xứ, như:
- nhơn ngãi (PNNB, có nghĩa là: người tình), sấu (PNBB phát âm đồng nhất âm
đầu s -> X, nên sấu -» xấu)

290. Thân em nghĩ đã đẹp rồi

Ai ngờ thiên hạ chẳng coi ra nào

Lời ăn tiếng nói ngọt ngào

Chanh chua thứ nhất lẽ nào ai ưa

Vậy mà có kẻ say sưa

Yêu em nhơn ngãi sớm trưa mặn mà.

- Trái san

- đàng (PNNB, có nghĩa là: đường), vào (PNBB, có nghĩa là: vô)

514. Nhà vàng lại đóng đô" vàng

Khách đi qua đàng chẳng dám vào chơi

- o ong vò vẽ

- vô (PNNB, có nghĩa là: vào), đoi (PNTB, có nghĩa là: cái bát)

534. Nhập nhị, nhập nhị, cho chị em nghe

Đâm vo một cái, thẳng lè lè

Rút ra cái bóc, cho đai nước chè uống chơi.

- Người thổi kèn

- sắc (PNBB, có nghĩa là: bén) - trùn (PNNB-TB, có nghĩa là: con giun)

934. Cuốc sắc sánh với cuốc cùn Rủ nhau lên núi đào trùn đi câu.

- Cửu sách (tổ tôm)

1.3.4. Biến thể về từ vựng

Theo chúng tôi, đây là những từ ngữ của địa phương có sự khác biệt với ngôn
ngữ toàn dân. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do những từ ngữ chỉ sản vật
chỉ có ở từng vùng, hoặc do các hiện tượng về phương ngữ tạo nên.
1.3.4.1. Các từ ngữ chỉ đặc sản

Từ chỉ các đặc sản, đồ vật, cây cối, con vật... chỉ có ở địa phương này mà không
có ở địa phương khác. Những từ này sau một quá trình sử dụng sẽ nhập vào ngôn ngữ
toàn dân.

* Những loại cây trái ở Nam Bộ:

- trái măng cụt:

265. Bằng trang trái cà Có hoa dưới đít.

- trái sầu riêng

288. Thơ thẩn chỉ có một mình

Chồng con chẳng có, gia đình quạnh hiu

- trái chôm chôm

241. Mình tròn lông mọc rậm ri

Sao không uống rượu, mặt thì đỏ au

Cởi trần da trắng phau phau

Đã chẳng có đầu lại chẳng có đuôi

Tên nghe thú vị nhất đời

Hễ gọi đến thời nhớ đến số ta.

1.3.4.2. Các hiện tượng phương ngữ khác

Để chỉ một đối tượng hay một sở chỉ, mỗi một phương ngữ có cách định danh
khác nhau, khai thác đặc điểm riêng, câu đố dùng nó để tạo ra sự liên tưởng dễ sai lạc
nơi người giải.

Ví dụ như từ "bậu" (PNNB), là từ nam giới dùng để gọi vợ hay người yêu một
cách thân thiết, không hề xuất hiện trong PNBB và PNTB.

954. Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra


Bậu ra cho khỏi tay ta

Kẻ than người khóc rên la ngập trời.

- Trái nổ

Đôi khi, đó có thể là các yếu tố biến thể phát âm địa phương. Như "luật sạp"
(PNNB)

187. Ruộng đồng thì gió thổi luôn

Khi vui con chị, khi buồn con em.

Là câu đố về "rau muông luộc", trong phương ngữ Nam Bộ, muôn (mong muốn)
phát âm thành muống (âm cuối n -» ng) và luột -> luộc (âm cuối t —» c); muốn luột
—» muống luộc.

(Luật sạp: Hết tất cả, không chừa một cái gì, không trừ một ai (Đại từ điển),
mượn ý người đàn ông cưới cả cô chị lẫn cô em làm vợ, như các thành ngữ: hoa thơm
đánh cả cụm, mít ngon đánh cả xơ, mía ngọt bòn cả vỏ...)

Lại có khi đó chỉ là một biểu thức diễn đạt tồn tại trong một phương ngữ.

Như "ra phết" (có nghĩa là rất nhiều, ví dụ như hay nói: "vui ra phết" nghĩa là rất
vui, vui lắm); từ này chỉ có ở PNBB.

792. Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng

Khom lưng uốn gối cả đời cong

Lưỡi to bởi thế ăn ra phết

Cái kiếp chui lòn có thẹn không.

- Cái cày

Nhiều trường hợp, những sự vật có cả ở hai vùng nhưng cách gọi khác nhau; từ
ngữ sử dụng không giông nhau nhưng cùng chỉ một khái niệm (loại này chiếm đa số)

+ Trong phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Nam Bộ-Trung Bộ (PNNB-TB)


-cái quả (PNNB-TB, có nghĩa là: cái tráp, cái hòm nhỏ hình hộp tròn, thường
làm bằng gỗ hoặc sắt, có nắp đậy để đựng đồ vật trong những dịp trang trọng như cưới
hỏi, lễ hội..., cách định danh mang tính ẩn dụ)

430. Tám thằng dân khiêng cái quá

Hai ông hương cả đi không.

- Con cua

- má (PNNB-TB, có nghĩa là: mẹ)

76.Hồi nào má đẻ con ra

Bây giờ má chết ai mà nuôi con.

- Cây chuối

- đặng (PNNB, có nghĩa là: được)

6. Có người mặt trắng như bông

Có một ông chồng mặt đỏ như son

Ban đêm thấy đăng trăm con

Ban ngày trốn hết chẳng còn một ai.

- Mặt trăng, mặt trời, sao.

- ú (PNNB, có nghĩa là: mập, béo)

33. Quê cha thì ở trên trời

Quê mẹ dưới đất xuống chơi phàm trần

Đường đi không ngại mỏi chân

Mùa hè thì úi mùa xuân thì gầy.

- Mưa

- cây chùm gửi (PNNB-TB, có nghĩa là: cây tầm gửi)

194. Rừng than không đất cắm dùi

Kiếm nơi nương dựa nhờ trời hứng sương.


- Cây chùm gửi

- heo (PNNB-TB, có nghĩa là: lợn)

322. Bốn cột một kèo

Có lọ mắm heo

Mèo bò không tới.

- Con bò

- xài (PNNB, có nghĩa là: dùng, sử dụng), hòm (PNNB, có nghĩa là: quan tài).

1419.Người xài không mua

Người mua không xài

Đố là cái chi?

- Cái hòm

- bằng trang (PNNB, có nghĩa là: bằng cỡ, cỡ như)

49. Bằng trang cây kim

Mà chìm đáy bể.

-Cát

- sồn sồn (như sòn sòn, đều đặn), đậu phông (PNNB, có nghĩa là: đậu phụng)

110. Thân em thịt trắng, da hồng

Chúc xuống dưới đất lấy chồng đẻ con

Đất tốt thì đẻ sồn sồn

Đất xấu em đẻ ít con gầy gò

- Cây đậu phộng

- nhang (PNNB-TB, có nghĩa là: cây hương)

120. Tay bưng quả nếp vô chùa

Thắp nhang lạy Phật xin bùa dưỡng thai

- Cây mãng cầu con


- hay (PNNB, có nghĩa là: biết), méc (PNNB, có nghĩa là: mách)

121. Bà ôi, tôi nói bà hay

Thằng nhỏ nó vác cái cày đâm tiêu.

- Cây mét (méc)

- dòm (PNNB-TB, có nghĩa là: nhìn, trông)

126. Tựa như cây trúc ngoài đồng

Trâu dòm thấy ngán, người trông thây thèm.

- Cây mía

-ngó (PNNB-TB, có nghĩa là: nhìn), rầy (PNNB, có nghĩa là: la, mắng), xán
(PNNB-TB, có nghĩa là: ném, liệng)

138. Ai đi ngoài ngõ ngó vô

Bà tôi đi khỏi hỏi cô tôi rầy

Tới đây thì phải ngồi đây

Mựa đừng rục rịch xán cây lên đầu.

- Cây nín

- bông (PNNB-TB, có nghĩa là: rỗng)

193. Cây suôn đuồn đuột, trong ruột bông phao.

- Cọng hành

- trái con chàng (PNNB, có nghĩa là: trái bắp non)

242. Con thì của thiếp sở sanh

Cớ sao khôn lớn thì anh lại giành?

- Trái con chàng

- trái thơm (PNNB-TB, có nghĩa là: quả dứa)

244. Dầu hư tiếng vẫn thơm hoài

Cả trăm con mắt đố ai thấy đường.


Trái thơm

lại cái (PNNB-TB, có nghĩa là: ái nam ái nữ)

302. cưới nhầm lai cái mẹ ơi

Em tôi mẹ gả nhầm nơi đàn bà.

- Rễ cái dâu đực

- tai con muỗi (PNNB, có nghĩa là: nơi đậu đỗ của thuyền bè, đồng âm với lỗ tai
của con muỗi)

1372. Đầu bằng thúng, bụng bằng nia

Ngày thì đi khắp mọi nơi

Tối về chui vào tai con muỗi.

- Thuyền đậu cuối bãi

- kèo (PNNB-TB, có nghĩa là: xà gồ, đòn tay)

368. Cây kèo là cây kèo cong

Làm người quân tử nằm trong cây kèo.

- Con thằn lằn

- táp (PNNB-TB, có nghĩa là: đớp, cắn), nhác/ nhát (PNNB-TB, có nghĩa là: sợ)

413. Chèo đò sợ sấu táp chân Xuống ao sợ đỉa, lên rừng sợ ma.

- Chim mỏ nhác

- rạch (PNNB, có nghĩa là: lạch nước nhỏ), cù lao (PNNB-TB, có nghĩa là: đảo
nhỏ), vịt xiêm (PNNB-TB, có nghĩa là: con ngan)

417. Dầm son hai má dầm son

Chơi sông chơi rách, chơi hòn cù lao.

- Con vít xiêm

tợ (PNNB, có nghĩa là: tựa như, giống như)

465. Đầu tợ hổ, đuôi tợ đình Phi vân, phi kiếm tiền trình đáo lai.
- Con chuồn chuồn

đậu (PNNB-TB, có nghĩa là: đỗ)

467. Cha truyền con nối,

Hành tội người ta

Chẳng đâu thủ khoa

Đậu đầu thiên hạ.

- Con chấy

tựa, tày (PNNB, có nghĩa là: bằng, cỡ như, như)

768. ở nhà bằng tưa bắp tay

Ra ngoài bành trướng to tàỵ cái nia.

- Cái dù

+ Trong phương ngữ Trung Bộ (chủ yếu ở Bắc Trung Bộ) o (PNTB, có nghĩa là
"cô": chị hoặc em gái của bố)

26. Sinh ra liền, tử đi liền

Sinh ra các xã, các miền đều trông

Sinh ra không chú không o

Sinh ra một nó nằm có một mình.

- Cầu vồng

- trôn (PNTB, có nhiều nghĩa, trong trường hợp này được hiểu là: đuôi, phần sau,
hậu môn)

52. Ba chục mà lại nhốt chung

Một chục có mùng, hai chục không trôn

Tháng đủ

378. Một chổi mà quét hai hè

Quét đi quét lại, lại đè chỗ trôn.


-Đuôi trâu

- tróc (PNTB, có nghĩa là: cái đâu)

435. Cù lân cù lân

Có chân mà không có tróc

Cù lốc cù lốc

Có tróc mà không có chân.

- Con cua và con cá.

- tru (PNTB, có nghĩa là: con trâu)

440. Thân em như miếng cao su

9. ,

Ở ăn tâm huyết ngựa tru với người

Dù cho vật đổi sao dời

Đất khô nước cạn mà đời vẫn yên.

- Con đỉa

rú (PNTB, có nghĩa là: núi)

754. Vừa bằng mảnh sành, chạy quanh hòn ru.

- Cái lược

nỏ (PNTB, có nghĩa là: không)

907. M1nh vàng mặc áo da ch1

Ruột gan nỏ có lấy gì nuôi thân.

Ông quan cho chí ông dân

Ông vua cũng trọng, ông thần cũng yêu.

- Cái trông

đợi (PNTB, có nghĩa là: cái bát)

928. Sóng sánh như đoi nước chè


Đẹp thời thật đẹp nhưng què một chân.

- Con Nhất vạn (một quân bài trong trò chơi tổ tôm) côi (PNTB, có nghĩa là:
trên)

1314. Nước dưới, lửa côi Không sôi mà cạn.

- Cái đèn

ngái (PNTB, có nghĩa là: xa)

137. Ở gần mà gọi bằng xa

Ở đất ông bà có trái không bông.

- Cây ngái

Ngái là một loài cây độc mọc hoang khắp nước ta, thân gỗ cao 5-7my cành non
có nhiều lông ráp, cành già nhẩn, lá to phiến hình bầu dục hay trái xoan, quả loại sung,
độc. (ĐTĐ)

- tra (PNTB, có nghĩa là: già)

1146. Không cây không trái không hoa

Sinh ra toàn hạt, ăn tra đời người.

- Hạt muối

+ Trong phương ngữ Bắc Bộ

- đanh (PNBB, có nghĩa là: đinh)

157. Trong trắng ngoài xanh

Đóng đanh từng khúc.

- Cây tre

- thợ rào (PNBB, có nghĩa là: thợ rèn)

260. Quả gì năm múi, năm khe

Quả gì nứt nẻ như đe thớ rào.

- Quả khế, quả na


- đánh chén (PNBB, có nghĩa là: ăn)

316. Vừa bằng ngón tay, thay lay những thịt

Thin thít những lông, bố bảo đem trồng

Mẹ bảo đem bán, con bảo đem luộc

Đánh chén một bữa.

-Củ từ

- hẻm mép (PNBB, có nghĩa là: lắm lời, nhiều lời, lắm mồm); thợ ngợi (PNBB,
có nghĩa là: thợ cạo, như thợ hớt tóc ngày nay).

546. Dao sắc gh1m trong túi áo nâu

Lang thang chẳng biết phải đi đâu

Tiếng là bẻm mép, không hay nói

Thỉnh thoảng dài hơi cất tiếng: "đầ...u...u..."

- Thợ ngơi (cạo đầu)

- cái (PNBB, có nghĩa là: con gái, giới nữ, xưng hô thân mật)

1358. Cha mẹ ở chung một nhà

Con cháu đông đủ toàn là nữ nhi

Sinh sao không sinh con trai

Sinh toàn con gái mà ai cũng dùng.

- Đồ gôm.

(Đất sét là cha mẹ chung. Đồ gốm đều gọi là cái: cái bát, cái nồi, cái ấm...
Phương ngữ miền Bắc gọi con gái (nữ nhi) là cát ví dụ: cái Đào, cái Mơ, cái Huệ ...)

1.3.5. Nhận xét

Tìm hiểu các phương ngữ tiếng Việt giúp ta chỉ ra được những nét tương đồng
và dị biệt giữa các phương ngữ, giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân; thấy được
một số đặc điểm và quy luật của tiếng Việt; sự lan toa và tiếp nhận giữa phương ngữ
với ngôn ngữ toàn dân.
Trong lĩnh vực câu đố, hiểu được phương ngữ là yêu cầu thiết yếu giúp cho việc
giải đố.

Trong quá trình tiếp cận câu đố, việc tìm hiểu tiền giả định bách khoa và phương
ngữ là yêu cầu tiên quyết mang tính thực tiễn cao, giúp ta hoàn thiện thêm vốn tri thức
bách khoa để có thể giải mã được những bí mật ẩn tàng trong câu đố và có thể rộng
đường khám phá kho tàng di sản văn hóa phong phú và thú vị đó.

1.4. CẤU TRÚC CỦA CÂU ĐỐ

Như đã thuyết minh, dù là một văn bản tối giản vẫn có thể tiến hành khảo sát cả
cấu trúc hình thức lẫn cấu trúc nội dung của văn bản đố. Và như ai nấy đều biết, mỗi
văn bản là một hệ thống. Nói đến hệ thống, không thể không nhắc đến cấu trúc. cấu
trúc được hiểu là tổ chức bên trong của hệ thống, là tập hợp tất cả các mối quan hệ, ở
đây là quan hệ giữa các yếu tố làm nên văn bản và cũng là quan hệ giữa yếu tố với cả
chỉnh thể hệ thống. Trên cơ sở lí luận này, luận văn sẽ tiến hành xem xét hai b1nh
diện của văn bản đố.

1.4.1. Cấu trúc hình thức

Thông thường, về mặt hình thức, kết cấu các câu đố gồm có hai phần là phần đố
(A) và phần giải (B). Chúng ta có thể rút từ phần đố A ra một phần khác là c - là lời
gợi ý. Nói cách khác, c chính là những ngữ đoạn, những từ ngữ tập trung các tiêu
điểm, được hiểu là chiếc ch1a khoa để mở ra câu trúc vật đố. Cách thức tổ chức văn
bản như thế nào đó, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể hiển lộ hay hàm ẩn giúp
cho người giải dựa vào đó để suy luận. Có thể khái quát cấu trúc hình thức bằng lược
đồ sau:
Trong lược đồ trên, C như một hằng thể. Có thể hình dung cấu trúc hình thức của
văn bản đố bằng một mô hình khác.

1.4.2. Câu trúc nội dung

Câu đố được sáng tạo trên cơ sở vật đố đã có sẵn, đã được người ra đố tìm hiểu
kĩ, rút ra những nét bản chất, tiêu biểu của nó, rồi mô tả trở lại một cách kì lạ, khác
thường. Có thể gọi đây là quá trình dị hoá vật đố. Quá trình dị hoá này có thể dùng thủ
pháp nhân hoá (biến con vật, đồ vật thành người)

Vừa bằng thằng bé lên ba

Thắt lưng con còn, chạy ra ngoài đồng

- Bó mạ

vật hoá (biến con người thành đồ vật, con vật):


Con gì buổi sáng thì đi bốn chân

Buổi trưa đi hai chân

Buổi chiều đi ba chân

Buổi tối đi tám chân

Con người

Đố giải giống như trò chơi xếp hình. Người sáng tác câu đố tháo tung các
"mảnh" đặc điểm của vật đố ra, dị hoa nó bằng thủ pháp tưởng tượng, chuyển hoá; còn
người giải đố thì dựa vào óc suy luận, loại suy mà ráp các "mảnh" đặc điểm ấy lại để
tìm ra vật đố. Như vậy, về mặt tư duy, ta thấy có hai cấu trúc là câu trúc nổi (nghĩa bề
mặt) và cấu trúc ch1m (nghĩa bề sâu).

Ví dụ câu đố về cái bàn tay ở trên :

Năm ông cùng ngồi một bàn

Cùng lo việc nước, cùng toan việc nhà

Bốn ông tuổi đã lên ba

Một ông đã già tuổi mới lên hai.

Cấu trúc nổi: năm ông/ ngồi cùng bàn/ bốn ông ba tuổi/ một ông hai tuổi/ cùng
làm việc nước, việc nhà.

Câu trúc chìm: năm ngón tay/ cùng một bàn tay/ bốn ngón ba đốt/ một ngón hai
đốt/ khi cầm nắm thì cả năm ngón phối hợp nhau.

Câu trúc nổi chính là lời đố, bao gồm các đặc tính, đặc điểm của vật đố đã bị dị
hoa còn vật đố với các đặc tính, đặc điểm thật được giấu đi chính là cấu trúc chìm. Vật
đố được giấu đi nhờ các thao tác dị hoa, chuyển hoa bằng các phương thức ẩn dụ,
hoán dụ, nhân hoa, vật hoa, đồng âm, đồng nghĩa, nói lái... dựa trên cơ sở sự tương
đồng.

Hãy xem xét hai quy trình, quy trình đố và quy trình giải qua lược đồ sau:
Hai quá trình đố và giải diễn ra ngược chiều nhau.

Trong đó: - A : vật đố.

-a,b,c, d, ... n: các đặc tính của vật đố.

-a’, b, c’, d’ ... n’: các đặc tính của vật đố đã bị dị hoá trên cơ sở
sự tương đồng.

-A’: vật đố đã bị dị hoá.

Cần thấy vai trò của liên tưởng trong quá trình giải - đố. Đối với quá trình đố,
dù là dị hoá bằng các hình thức biểu đạt như đánh tráo khái niệm, gài bẫy, đánh lạc
hướng, các biểu thức nghịch lí v.v. thì liên tưởng, có thể nói là thủ pháp có tính chất
bao trùm, ở đây người ta dựa vào sự tương đồng hoặc tương cận để tạo lập văn bản
đố. Ngược lại, đối với quá trình giải cũng vậy, muốn nắm bắt được vật đố, người giải
cũng phải dựa vào liên tưởng, và cũng dựa vào tương đồng và tương cận. Do vậy, có
thể nói rằng, quá trình đố - giải là trò chơi của trí tuệ; hơn thế nữa, đó còn là nghệ
thuật của ngôn từ.
1.5. TIỂU KẾT

Bên trên, luận văn đã xem xét một số vấn đề có liên quan mật thiết đến văn bản
đố. Như đã nói, đây chưa phải tất cả những gì cơ bản nhất của văn bản đố, nhưng lại là
những tri thức quan yếu giúp sức đắc lực cho chúng tôi trong việc miêu tả và phân loại
đối tượng. Chương này có thể xem là chương lí thuyết, cần nói rõ, như phần lịch sử
vấn đề đã đề cập, lâu nay các công trình nghiên cứu về câu đố ở Việt Nam chủ yếu là
SƯU tập và phân loại, còn việc xác lập một lí thuyết còn là một khoảng trống. Việc
miêu tả bộ khung lí thuyết trên đây là một nỗ lực rất lớn của chúng tôi. Tất cả không
gì khác là nhằm xác lập một số đặc điểm quan trọng của một loại hình văn học dân
gian gắn liền với đời sống tinh thần của người Việt, một hoạt động trí tuệ mang tính
dân gian của người Việt mà một giai đoạn rất phổ biến trong các trò chơi dân gian.
CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC CHƠI CHỮ TRONG CÂU
ĐỐ TIẾNG VIỆT
2.1. ĐỒNG ÂM TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

Theo một quan niệm phổ biến trong giới Việt ngữ học, do tiếng Việt là một ngôn
ngữ đơn lập, âm tiết trùng với hình vị; hơn thế nữa, về mặt ngữ âm, khi nói, trên dòng
ngữ lưu ranh giới giữa các âm tiết bao giờ cũng tách bạch rõ ràng nên có thể đây là
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng âm rất phổ biến trong tiếng Việt. Trên cơ sở
này, câu đố đã khai thác mạnh mẽ tính chất đó để tạo nên hiện tượng chơi chữ dựa vào
sự đồng nhất về mặt vỏ ngữ âm.

Câu đố là một thể loại văn học dân gian có mức độ sử dụng biện pháp chơi chữ
đồng âm khá cao. Khảo sát 2.092 câu đố tiếng Việt, chúng tôi thống kê được hơn 200
câu đố có sử dụng biện pháp chơi chữ đồng âm, chiếm tỷ lệ xấp xỉ 10%.

2.1.1. Hiện tượng đồng âm - Chơi chữ đồng âm

Hiện tượng đồng âm là hiện tượng phổ biến trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Nó bao gồm các đơn vị đồng âm, đó là những đơn vị không có quan hệ đồng nhất và
đối lập về ngữ nghĩa với nhau, mà chỉ là những đơn vị khác biệt về ngữ nghĩa. Những
từ trùng nhau về hình thức âm thanh, nhưng khác nhau hoàn toàn về ý nghĩa được gọi
là từ đồng âm [75, tr.83]

Hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt thường xảy ra giữa hai từ (như đường để
ăn và đường để đi), giữa hai hình vị nhưng cũng có khi là cả ba hoặc bốn từ có cùng
vỏ ngữ âm. Ví dụ trong tiếng Việt có các từ hay trong:

1.Động từ: Làm đến đâu hay đến đó.

2.Tính từ: Anh Y hát hay.

3.Phụ từ: Cô X hay hát.

4.Kết từ: Mình đọc hay tôi đọc?

Từ một góc độ khác, nếu hình dung như Ferdinand de Sausure, mọi kí hiệu ngôn
ngữ đều lưỡng phân thành hai mặt: mặt vỏ âm thanh là cái biểu đạt và mặt nội dung
ngữ nghĩa là cái được biểu đạt thì hiện tượng đồng âm chính là sự đồng nhất về cái
diễn đạt và sự khác biệt về cái được diễn đạt. Có thể hình dung hiện tượng đồng âm
trong tiếng Việt như sau:

Chơi chữ đồng âm là sử dụng phương tiện từ vựng từ đồng âm, gần âm với tác
dụng chính là tạo ra những liên tưởng bất ngờ, thú vị, kích thích tình cảm, trí tuệ con
người. [41, tr.176]

2.1.2. Chơi chữ đồng âm trong câu đố

Chơi chữ đồng âm trong câu đố là việc người ra đố đưa các hiện tượng đồng âm
có sấn trong ngôn ngữ tiếng Việt vào trong câu đố với dụng ý giấu kín vật đố và yêu
cầu người giải đố phải huy động óc liên tưởng, suy luận, kết hợp với vốn ngôn ngữ
phong phú của m1nh để tìm ra lời giải. Người giải đố nhất thiết phải tìm ra hiện tượng
đồng âm mới giải được loại câu đố này. Như vậy, người ra đố sử dụng hiện tượng
đồng âm trong câu đố như một loại ổ khóa, một cách kí mã, và người giải đố phải tìm
ra chiếc ch1a khóa đồng âm đó mới có thể giải mã được câu đố. Chẳng hạn, câu đố:

Trùng trục như con chó thui

Con gì chín cẳng, chín đuôi, chín đầu?

Người giải suy nghĩ nát óc không tìm ra con vật quái dị có đến những chín cái
chân, chín cái đuôi, chín cái đầu (kiểu như voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng
mao) đó, thì người đố trả lời: là con chó thui, vì từ chín đồng âm vừa có nghĩa là số 9,
vừa có nghĩa là nấu chín, nướng chín...

2.1.3. Phân biệt từ đồng âm, từ đa nghĩa và nói trại

Cách hình dung hiện tượng đồng âm bên trên có phần đơn giản hoa. Thật ra, đây
là một vấn đề phức tạp, tại đây cần thiết phải tiếp tục phân biệt với các hiện tượng gần
gũi khác.

Các hiện tượng đồng âm và đa nghĩa đều quan hệ với tính đẳng danh; cùng một
vỏ ngữ âm liên hệ với nhiều ý nghĩa khác nhau. [23, tr.183]

Chúng ta phân biệt từ đồng âm và từ đa nghĩa trên các cơ sở :

- Xác định nguồn gốc

Nếu giữa hai từ trùng nhau về ngữ âm, không phát hiện được mối quan hệ nguồn
gốc của chúng thì đó là hai từ đồng âm; còn nếu xác định được nguồn gốc của chúng
thì đó chỉ là một từ có hiện tượng đa nghĩa.

- Xác định từ loại

Trong tiếng Việt có hiện tượng chuyển từ loại, khi hai từ có hình thức ngữ âm
trùng nhau, được dùng với tư cách là hai từ thuộc hai từ loại khác nhau, nếu nghĩa của
chúng có thể có quan hệ với nhau mà đã tương đối mờ nhạt, đứt đoạn, chúng tôi vẫn
cho đó là hai từ đồng âm, trừ trường hợp mối quan hệ nghĩa phái sinh quá rõ rệt. [Xem
thêm TL 10, tr.193-194]

Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng không thể hoàn toàn thuần nhất mọi mặt trong
từng trường hợp cụ thể.

Vả lại, câu đố là một thể loại dân gian do quần chúng nhân dân sáng tác nên từ
lâu đời, nên ở ít nhiều câu đố sự phân biệt giữa khái niệm từ đồng âm và từ đa nghĩa
là chưa thật rõ ràng, ranh giới giữa hai hiện tương hãy còn mơ hồ. Như trường hợp
câu đố sau:

1375. Đến đây hỏi khách tương phùng

Chim chi một cánh, bay cùng nước non.


- Thuyền buồm

Trong câu đố này có liên tưởng đến hiện tượng đồng âm: cánh chim = cánh
buồm. Nhưng thực chất "cánh" đây chỉ là một từ nhiều nghĩa, trong đó nghĩa trong
"cánh chim" là nghĩa gốc, còn nghĩa trong "cánh buồm" là nghĩa phái sinh.

Do đó, trong đề tài này, chúng tôi tạm thời chấp nhận xem các hiện tượng đa
nghĩa như là các hiện tượng đồng âm một cách khiên cưỡng, không chính danh;
nhưng thực chất chúng vẫn là những hiện tượng đa nghĩa theo cơ sở phân biệt trên.

Nói trại là cách phát âm chệch sang âm khác gần giông với âm góc. Cách định
danh nói trại là theo cách hiểu của dân gian, còn thực chất, đây là biến thể ngữ âm địa
phương. Việc xác định nói trại thuộc phương ngữ nào không phải là khó, tuy nhiên
khi thật cần thiết chúng tôi mới nhắc đến phương ngữ mà hiện tượng đang khảo sát
trong câu đố tồn tại. Như miền Bắc, từ trồng, phát âm thành chồng, mọc phát âm
thành mộc; từ sa phát âm thành xa', Nam bộrtừ vừa phát âm thành dừa, nhàu phát âm
thành nhào v.v... do đó hiện tượng đồng âm được tạo nên trong câu đố chỉ là hiện
tượng đồng âm lâm thời mang tính cục bộ địa phương mà thôi, câu đố loại này khi lưu
hành ra ngoài phạm vi bản quán mà nó được sản sinh thì hiện tượng đồng âm trong
câu đố không còn giá trị như một ch1a khóa để giải mã câu đố ấy nữa. Ví dụ như
những câu đố sau:

147. Đứng gần lại bảo là xa

Có chồng lại bảo rằng ta không chồng.

- Cây sa mộc .

Chồng = trồng; không chồng = không trồng = tự mọc = mộc

- mọc đồng âm với mộc . (!)

- xa đồng âm với sa. (!)

136. Cây chi chi không leo mà té

- Cây nhàu.

Trong phương ngữ Nam bộ té đồng nghĩa với nhào, vần "âu" phát âm thành "ào"
nên khi nói cây nhào tức là cây nhàu .
Nhàu đồng âm với nhào . (!)

1251. Tấm thân cưa xẻ khổ hay chưa

Lòng trắng mà mang tiếng nói vừa

Thân thế rêu phong đền nợ nước

Đắm chìm bao độ cũng chưa vừa.

- Cái gáo dừa

Nói trại: dừa đồng âm với vừa. (!)

Theo quan điểm của chúng tôi thì đây không phải là hiện tượng đồng âm, nên
câu đố có sử dụng hiện tượng này cũng là câu đố đồng âm không chính danh, và
chúng tôi hạn chế xét các trường hợp câu đố nói trại như trên .

2.1.4. Kết hợp đồng âm - đồng nghĩa, trái nghĩa trong câu đố

Như đã nói, trong tổ chức văn bản, cùng một lúc văn bản đố thường sử dụng kết
hợp nhiều phương thức chơi chữ cụ thể. Hiện tượng mô tả trong tiểu mục này chỉ là
một trong những hiện tượng thường gặp.

Từ đồng âm là từ có vỏ ngữ âm giống nhau, nhưng khác nhau về nghĩa. Từ đồng


nghĩa là từ có nghĩa giống nhau, nhưng có vỏ ngữ âm khác nhau. Từ trái nghĩa là
những từ thuộc cùng một trường nghĩa có nghĩa trái ngược nhau, không quan tâm đến
mặt ngữ âm. Trong nhiều câu đố, để diễn tả cho được khái niệm hoặc miêu tả sự vật,
hình tượng, người ra đố phải dùng đến thủ pháp bắc cầu từ hiện tượng trái nghĩa, hiện
tượng đồng nghĩa đến hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn các câu đố sau:

1202. Đem thân che gió cho người

Rồi ra mang tiếng con người chả khôn.

-Cái giại (dại)

dại 1 : Trái với khôn.


R R

dại 2 = giại : Đồ dùng hình tấm thường đan bằng tre nứa, đặt ở hiên nhà để che
R R

nắng gió.
Ở đây, dại 1 trái nghĩa với khôn, chả khôn (không khôn) đồng nghĩa với dại 1 và
R R R R

dại 1 đồng âm với dại 2 .


R R R R

Người giải đố suy từ chả khôn mà tìm ra từ dạiị đồng nghĩa, tiếp tục suy từ dạiị
ra từ đồng âm dại 2 (giại). R R

về mặt thao tác, bước chơi chữ đầu tiên (chả khôn) có thể nói đây là khâu đi tìm
sự thế đồng nghĩa phủ định, bước sau mới khai thác tính chất đồng âm.

1203. Ngả lưng cho thế gian ngồi

Kẻ chê bất nghĩa, người cười bất trung.

- Cái phản

phản 1 : Thay đổi hẳn thái độ, hành động chống lại, làm hại người có quan hệ gắn
R R

bó với mình. Lừa thầy phản bạn.

phản 2 : Là phương ngữ chỉ bộ ván, đồ vật có chức năng như giường, thường làm
R R

bằng gỗ nguyên tấm dày. Cái phản gỗ.

phản 1 (động từ) đồng âm với phản 2 (danh từ), đồng thời phản 1 cũng đồng nghĩa
R R R R R R

với bất nghĩa, bất trung.

Người giải đố từ các từ ngữ giả thiết có trong câu đố là bất nghĩa, bất trung mà
suy ra nghĩa của phảnh rồi từ nghĩa của phảrii mà suy ra nghĩa của phản 2 . R R

Câu đố loại này là câu đố đồng âm gián tiếp.

Câu đố đồng âm trực tiếp là câu đố có sử dụng hiện tượng đồng âm mà không
phải qua một khâu bắc cầu nào khác như mượn hiện tượng đồng nghĩa hay hiện tượng
trái nghĩa.

1288. Cha già cha được sáu mươi

Con mới lên mười con được làm quan.

- Quan tiền

2.1.5. Một số dạng chơi chữ đồng âm phổ biến trong câu đố

Với tư cách là một trò chơi chữ, từ đồng âm trong câu đố được sử dụng theo
những cách sau:
2.1.5.1. Câu đố có nhiều từ đồng âm

Là những câu đố có nhiều từ đồng âm cùng xuất hiện, gây nên sự tương phản
giữa âm và nghĩa, thậm chí có thể dẫn đến hiện tượng lẫn lộn, hiểu nhầm.

467. Cha truyền con nối

Hành tội người ta

Chẳng đậu thủ khoa

Đậu đầu thiên hạ.

- Con chấy (chí)

đậu 1 : (Phương ngữ: đỗ): Đạt yêu cầu để được tuyển chọn trong cuộc thi cử. Đậu
R R

thủ khoa.

đậu 2 : (Phương ngữ: đỗ): Ở vào trạng thái yên một chỗ, tạm thời không di
R R

chuyển. Ruồi bu kiến đậu.

đầu 1 : Vị trí thứ nhất, trên hoặc trước tất cả những vị trí khác: đỗ đầu trong kỳ thi.
R R

đầu 2 : Phần trên cùng của thân thể con người, nơi có bộ óc và nhiều giác quan
R R

khác. (Thực ra hai từ đầu trong câu đố này chỉ là một từ nhiều nghĩa, chứ không phải
là hai từ đồng âm, nhưng ở đây tạm xem như là hai từ đồng âm, chúng tôi đã lý giải ở
2.1.3.)

2.1.5.2. Câu đố đồng âm liên tưởng

Là những câu đố chỉ có một vế của cặp đồng âm xuất hiện, nhưng người đọc,
người nghe vẫn liên tưởng đến vế còn lại, rất đa dạng, bao gồm:

- Câu đố đồng âm cùng trường nghĩa

Là những câu đố mà ngữ cảnh chứa đựng nhiều từ có quan hệ đồng âm với các
từ khác cùng thuộc một phạm vi ý nghĩa.

593. Đầu xa con mắt hai gang

Lưng nàng đi trước, bụng nàng theo sau.

- Ống chân
bụng 1 : Bộ phận cơ thể người hoặc động vật chứa ruột, dạ dày...
R R

bụng 2 : Phần phình to ở giữa của một số vật.


R R

Làm người giải liên tưởng đến trường nghĩa các bộ phận con người, động vật.

Thật ra, ở đây việc định danh lưng, bụng để mô tả ống chân có thể coi là một
hiện tượng ẩn dụ.

- Câu đố đồng nghĩa với một vế của cặp đồng âm

Là câu đô" có một từ hoặc một ngữ đồng nghĩa với một trong hai vế của cặp
đồng âm.

1129. Dĩnh dịch tròn tròn, khô đòn ướt dẻo

Dù còn tí tẹo, cũng gọi rằng nhiều.

-Bánh đa

đa 1 : nhiều
R R

đa 2 : tên một loại bánh (Nam bộ, Trung bộ gọi là bánh tráng) đa 1 đồng âm với
R R R R

đa 2 , đồng thời đai cũng đồng nghĩa với nhiều.


R R

- Câu đố có yếu tố nhắc gợi

Là loại câu đố mà ngữ cảnh có những từ có quan hệ đồng âm với những từ hạn
chế luôn luôn đi kèm theo, có giá trị nhắc gợi lẫn nhau.

1035. Con chi có vỏi có vòi

Không chân không cẳng, có đôi tay dài

Bụng thì như con cóc mài

Ăn thì chẳng muốn, cả ngày đái luôn.

-Cái bình tích.

Vời 1 : Phần mũi rất dài của con voi, có thể cuộn tròn lại để lấy và giữ đồ vật. Voi
R R

voi vòi voi

vòi 2 : Vòi ấm , bộ phận của ấm có hình giông cái vòi voi.


R R
2.1.5.3. Câu đố đồng âm ẩn - hiện

Là những câu đô" chứa đựng nhiều từ có quan hệ đồng âm với nhau, trong đó,
một sô" từ của loạt đồng âm cùng xuất hiện, số còn lại được người đọc, người nghe tự
liên tưởng tới.

589. Đi nằm, đứng nằm, ngồi nằm, nằm thì đứng.

- Cái bàn chân

đứng 1 ! Có vị trí thẳng góc với mặt đất


R R

đứng 2 : Dừng lại.


R R

nằm 1 : Ngả thân m1nh trên một vật nào đó, thường để nghỉ: nằm nghỉ.
R R

nằm 2 : Được đặt yên một chỗ nào đó với diện tiếp xúc tối đa: sách nằm trên bàn.
R R

(Phân loại theo Nguyễn Thiện Giáp: [23, tr.178-182])

2.1.5.4. Phân loại theo tổ chức văn bản

Căn cứ vào việc tổ chức văn bản, có thể phân biệt các loại câu đô" đồng âm.

- Đồng âm trong phần đố, từ nội dung đi đến hình thức

324. Giúp người trải mây ngàn thu

Sao người lại bảo ta ngu vô cùng

Sách ta mang luôn trong lòng

Sao người bảo dốt lạ lùng lắm thay

Của ta ta mang xưa nay

Sao người lại bảo của ngay đàn bà.

- Con bò đực Đồng âm theo trục liên tưởng:

yếm 1 : Đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời trước.


R R

yếm 2 : Phần da trễ xuống thành tấm mỏng chạy dọc trước ngực của bò.
R R

Sách 1 của quyển sách đồng âm với sách 2 là nói tắt của dạ lá sách, phần của dạ
R R R R

dày động vật nhai lại, có nhiều vách ngăn giông như những tờ giấy trong quyển sách.
- Đồng âm trong phần giàu từ hình thức ái đến nội dung

32. Một họ chia làm ba phe

Một phe giúp nước, một phe giúp nhà

Một phe làm hại người ta.

- Mây trời, cây mây, mây mắt

mây1 : Loài cây leo có gai, thân dài và mềm, thường dùng để buộc hoặc đan các
R R

đồ dùng trong nhà.

mây2 : Đám mây trên trời. mây 1 và mấy2 đồng âm.


R R

mây3 . Mắt kéo mây, mắt bị mờ,


R R

mây3 đồng âm với mây 1 , nhưng so với mây2 thì chỉ là một từ đa nghĩa.
R R R R R R

1205.Đánh liều nhắm mắt đưa chân

Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.

- Cái kệ (thây kệ, mặc kệ)

kệ trong mặc kệ đồng âm với kệ trong cái kệ (giá để sách hoặc đồ dùng)

1206.Việc mình không phải việc ai

Nay làm không hết thì mai sẽ làm.

- Cái bàn (bàn tới bàn lui) bàn trong bàn bạc đồng âm với bàn trong cái bàn.

- Đồng âm giữa phần giải và phần đố

Câu đố đồng âm loại này chiếm tỉ lệ đến trên 80% câu đố đồng âm nói chung, ở
đây luận văn chỉ đơn cử một số ví dụ tiêu biểu.

1. Làm ông mà chẳng làm ông

Khi ơn khi oán, khi công khi thường.

-Ông trời

Ông 1 : Người đàn ông thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ. Ông nội.
R R
ông 2 : Từ dùng để gọi tôn vật được sùng bái hay kiêng sợ: ông ba mươi, ông bếp,
R R

ông trời.

3. Tròn tròn như quả cà

Mà đựng cả nhân gian.

- Quả đất

Qủa 1 : Bộ phận của cây do bầu nhụy hoa phát triển mà thành, bên trong chứa hạt.
R R

quả 2 : Từ dùng để chỉ những vật có hình (tròn) giống như quả cây.
R R

827. Có mây mà không có mưa

Có đầu có đít mà chưa có m1nh.

- Quang mây (cái quang gánh bện bằng cây mây)

mây1 : Mây trời, cùng trường nghĩa hiện tượng thiên nhiên với mưa, gió, bão...
R R

mây2 : Cây mây, thuộc trường nghĩa thực vật.


R R

42. Trông ra thăm thẳm lại mênh mông

Chẳng có một người lại bảo đông

Đứng mái lầu tây nhìn ngoảnh lại

Xa xa chỉ thấy đám mù không.

- Biển Đông

Đông 1 : Có nhiều người tụ tập lại cùng một nơi.


R R

đông 2 : Một trong bốn phương chính, ở về phía mặt trời mọc, đối lập với phương
R R

tây.

Chẳng có một người = vắng người, trái với đông người.

86. Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

-Cây cách
Cách 1 : Không tiếp liền nhau vì ở giữa có một vật hay một khoảng không gian,
R R

thời gian nào đó.

cách 2 : Loại cây dùng làm gia vị, trái tròn, chát.
R R

456. Trai thanh tân vui thú giang hà

Sao anh trẻ mãi không già hả anh?

-Con trai

Trai 1 ! Người thuộc nam tính, thường chỉ người còn ít tuổi.
R R

trai 2 : Động vật thân mềm, sống ở đáy nước, có hai mảnh vỏ cứng.
R R

2.1.5.5. Phân loại theo đặc điểm cấu tạo từ và từ loại

Dựa vào đặc điểm cấu tạo từ và từ loại, ta có thể xác định được một số loại câu
đố đồng âm khác nhau.

- Đồng âm cùng cấp độ

Đồng âm từ với từ, trong trường hợp các từ trong nhóm đồng âm đều thuộc cấp
độ từ.

Loại này có thể chia thành hai tiểu loại:

a) Đồng âm từ vựng

Là tất cả các từ đồng âm đều thuộc cùng một từ loại.

226. Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời

Lơ lửng giữa vời mà đeo bị tép.

-Quả bưởi

Tép 1 ! (danh từ) Động vật cùng họ với tôm, nhưng nhỏ hơn và không có càng.
R R

Con tép

tép 2 : (danh từ) Sợi mọng nước trong múi bưởi, cam, quýt... : tép chanh.
R R

790. Đi nhe răng, về cũng nhe răng

Đi lè lưỡi, về cũng lè lưỡi


- Cái bừa và cái cày

răng 1 : Phần xương cứng mọc trên hàm của động vật, dùng nhai thức ăn
R R

răng 2 : Bộ phận ch1a ra, nhọn, sắp thành hàng trên cái bừa. Răng bừa.
R R

lưỡi 1 : Bộ phận mềm trong miệng, dùng nếm thức ăn, ở người còn dùng để phát
R R

âm.

lưỡi 2 : Bộ phận mỏng và sắc ở cái cày dùng để rạch đất.


R R

b) Đồng âm từ vựng - ngữ pháp

Là các từ trong nhóm đồng âm với nhau khác nhau về từ loại. 538. Trót vì tay đã
nhúng chàm

Cỏ phai màu áo nhuộm non da trời (Đố Kiều).

- Thợ nhuộm

nhuộm 1 : (động từ) Động tác dùng thuốc làm cho một vật gì đó đổi màu: nhuộm
R R

tóc, nhuộm vải.

nhuộm 2 : (danh từ) Tên gọi của một nghề, thợ nhuộm.
R R

895. Trèo lên nghi ngút, đánh xuống thì thụp

Chẳng đánh chẳng ra, đánh thì vãi ra đầy chiếu.

- Cái chuông

Vãi 1 ! (động từ) Có nghĩa là để chảy ra do cơ thể không điều khiển, không kiềm
R R

chế được.

vãi 2 : (danh từ) Bà vãi, là phương ngữ để gọi sư nữ: người phụ nữ tu ở chùa.
R R

Đây là câu đố tục giảng thanh.

Từ đồng âm vãi.

Loại câu đố đồng âm này chiếm đa số trong câu đố đồng âm tiếng Việt. Đây là
loại câu đố đồng âm chính danh.

- Đồng âm khác cấp độ


Đồng âm giữa từ với hình vị (tiếng/ âm tiết), trong trường hợp hiện tượng đồng
âm diễn ra giữa các đơn vị khác nhau về cấp độ và kích thước ngữ âm của chúng cũng
không giống nhau. Cũng như hiện tượng đồng âm nói chung, câu đố đồng âm tiếng
Việt chủ yếu gồm những hiện tượng từ đơn âm, tuy nhiên, cũng có trường hợp từ đơn
âm lại đồng âm với một hình vị trong từ đa âm.

+ Từ một hình vị đồng âm với một hình vị trong từ đa âm

582. Trái gì chua

Bánh gì ngọt

Món nào chát

Trong thân ta.

- Trái khế, bánh chè, bắp chuối.

trái khế 1 : Một loại quả có năm múi, mọng nước, vị chua, ăn được.
R R

trái khế 2 : (phương ngữ) Một phần ống tiêu hóa, nằm tiếp sau khoang miệng và
R R

trước thực quản (từ toàn dân gọi là hầu).

bánh chè 1 ! Món ăn ngọt, thường nấu bằng đường, đậu, bột...
R R

bánh chè 2 : Chỗ xương có hình tròn, dẹt ở đầu gối chân người.
R R

+ Từ đơn âm đồng âm với một hình vị trong từ đa âm

560. Ba ông ngồi lại một lồng

Một ông có tóc hai ông trọc đầu.

- Cái đầu và hai đầu gối

đầu 1 : Phần trên cùng của thân thể con người, nơi có bộ óc và nhiều giác quan
R R

khác.

đầu 2 : hình vị trong đầu gói: Mặt trước của chỗ ống chân khớp với đùi.
R R

+ Một hình vị trong hai từ đa âm đồng âm với nhau

341. Bốn anh cùng ở một nhà

Cùng sinh một giáp cùng ra một hình


Một anh thì đỗ cống sình

Một anh quỷ quái như tinh trong nhà

Một anh thì xấu nết na

Một anh ăn vụng cả nhà đều ghen.

- Bốn loại chuột (chuột cống, chuột nhắt, chuột chù, chuột đồng)

cống 1 : Tên gọi loài chuột sống ở dưới công thoát nước.
R R

cống 2 : Nói tắt của cống sinh là người đỗ hương cống trong chế độ khoa cử thời
R R

phong kiến.

Hình vị cống trong công sinh đồng âm với công trong chuột cống.

- Những hiện tượng đồng âm khác

Ngoài ra, ta còn có thể tìm thây trong câu đố đồng âm một số hiện tượng đồng
âm thú vị khác.

+ Từ thuần Việt đồng âm với từ thuần Việt

912. Hai mẹ sinh ba chục con

Ở chung mà còn sinh sự đánh nhau

Đánh nhau thì đánh trên đầu

Thiên hạ chạy tới coi lâu nó mòn.

- Cờ tướng

Con 1 : Người thuộc thế hệ sau, trong quan hệ với người trực tiếp sinh ra, như mẹ
R R

con, cha con.

con 2 : Danh từ chỉ đơn vị cá thể động vật, hoặc đồ vật có đặc điểm hoạt động linh
R R

hoạt như con vật. Con cờ.

Đánh 1 : Làm đau, tổn thương bằng tác động của một lực. Đánh nhau chí tử.
R R

đánh 2 : Đánh cờ, dùng tay di chuyển con cờ trong trò chơi cờ. Các cặp từ thuần
R R

Việt đồng âm: Đánh nhau = đánh cờ . Con cờ = con cái

- Xe ngừng bánh chạy, xe chạy bánh ngừng.


- Xe khách và hàng rong

Phương ngữ: ngừng = dừng

Bánh 1 : Món ăn chín có hình khối nhất định, chế biến bằng bột, thường có thêm
R R

chất ngọt, mặn, béo.

bánh 2 : Bộ phận của xe hoặc máy, có dạng đĩa tròn hoặc vành lắp nan hoa, quay
R R

quanh một trục.

Kiến thức nền của câu đố là hiểu biết quang cảnh khi xe khách dừng, những
người bán hàng rong tranh nhau chạy đến bán bánh trái cho khách trên xe, khi xe chạy
đi thì hàng rong dừng bán vì không còn khách mua.

Cặp từ thuần Việt đồng âm: Bánh ngọt = bánh xe + Từ Hán -Việt đồng âm với từ
Hán - Việt 1301.

Một cây mà nở trăm hoa

Chỉ có một quả khi gia khi non.

- Cái cân

Hoa 1 ! bông hoa


R R

hoa 2 : đơn vị đo khôi lượng, bằng một phần mười lạng, khắc dâu trên cán cân.
R R

Qủa 1 : quả cây (trái cây).


R R

quả 2 : trái cân . Đồng âm giữa các cặp từ Hán - Việt: Hoa (bông hoa) = hoa (hoa
R R

cân); Quả (quả cây) = quả (quả cân).

+ Từ thuần Việt đồng âm với từ Hán - Việt

1150. Tay cầm một nắm bo bo

Trước lo việc nước, sau lo việc trào.

- Nâu nước trà

nước 1 !: Trong đất nước.


R R

nước 2 : Trong nước uống.


R R

trào 1 : (triều) Nói tắt và nói trại của triều đ1nh (từ Hán-Việt).
R R
trào 2 : Tràn ra do dâng lên quá miệng của vật đựng (từ thuần Việt).
R R

1170. Phong lưu đài tạ trong nhà

Khi vào là rắn, khi ra là rồng.

- Cái xà nhà

Rắn = xà = xà nhà (đòn vông/ xà gồ.) Rồng = long .Ý nói khi dỡ nhà thì các cây
xà long ra / rời ra . Trong câu đô" này có các cặp từ đồng âm: Long: rồng (từ Hán-
Việt) = long (rời ra),(từ thuần Việt). Xà: rắn (từ Hán-Việt) = xà (xà nhà),(từ thuần
Việt). + Đồng âm ngẫu nhiên

Là câu đố có hiện tượng đồng âm ngẫu nhiên giữa từ thuần Việt và từ vay mượn
từ một nguồn khác.

287. Trai Đà Lạt cưới vợ Sài Gòn

Môn đăng hộ đối cô còn chê xa.

-Trái xacôchê(còn gọi là sabôchê, hồng xiêm)

+ Đồng âm "chiết tự"

Là câu đố có hiện tượng đồng âm theo kiểu chiết tự các tiếng ra khỏi từ.

255. Trái chi chẳng thiếu, chẳng thừa

Những người nhạy cảm hãy chừa nó ra.

-Trái đu đủ

(Đô" tục giảng thanh dựa trên cách phát âm của người khu Bôn thanh hỏi luôn
phát âm thành thanh nặng).

571. Cả đời luông chịu gian nan

Đi buôn mất vốn lại mang nợ nần.

- Lỗ tai

lỗ 1 : Thu không đủ bù chi sau một việc buôn bán kinh doanh.
R R

lỗ 2 : Lỗ tai, cơ quan thính giác của người và động vật.


R R

Tai 1 :Điều rủi ro lớn bất ngờ xảy tới.


R R
tai 2 : Cơ quan ở hai bên đầu người hoặc động vật, dùng để nghe. Lỗ (lỗ lãi) đồng
R R

âm với hình vị lỗ trong lỗ tai. Tai (tai nạn) đồng âm với hình vị tai trong lỗ tai.

1414. Làm quan tôi có biệt tài

Cho nên tôi có những hai tên liền

Tưởng rằng chết được vùi sâu

Ai ngờ còn ép làm cầu rửa chân.

- Quan tài

Quan (quan lại) đồng âm với hình vị quan trong quan tài

Tài (tài năng) đồng âm với hình vị tài trong quan tài

Một điều cần lưu ý nữa là hầu hết các câu đố sử dụng nghệ thuật chơi chữ đồng
âm luôn gắn liền với các trường nghĩa liên tưởng với mục đích "gài bẫy" nhằm tạo ra
sự nhầm lẫn nơi người giải. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa
theo hai dạng quan hệ là quan hệ tuyến tính và quan hệ đối vị, tạo nên hai loại trường
nghĩa là trường nghĩa ngang và trường nghĩa dọc. Rất nhiều câu đố đồng âm cố tình
tạo sự nhầm lẫn khi hướng người giải đến sự liên tưởng, hoặc giữa các bộ phận của
vật đố tương ứng với các bộ phận của cơ thể con người như: đầu, m1nh, tay, chân,
lưng, bụng, mũi, mồm...

1322. Có cay mà chẳng có thơm

Có lưỡi có mũi mà không có mồm.

- Con dao

1235. Đã sông mà lại còn cay

Hỉnh mũi lên trời, lè lưỡi ra luôn.

- Con dao

cay: có vị như vị của ớt đồng âm với cay là một bộ phận của dao

Cay: phần để cắm vào chuôi (hoặc cán) của một sô" dụng cụ: cay dao, liềm long
cay (Bài Vịnh cái quạt li của Hồ Xuân Hương: Rộng hẹp dường nào, cắm một cay).
1199. Sừng sững đứng một góc nhà

Người vô thấy kệ, người ra mặc lòng

Có cánh mà chẳng có lông

Làm gương cho khách má hồng thử coi.

- Tủ gương

Cánh 1 : Bộ phận để bay của chim, hình tấm, ở hai bên thân, khép vào mở ra khi
R R

bay. Cánh chim.

cánh 2 : Bộ phận hình tấm có thể khép vào mở ra được. Cánh tủ.
R R

gương 2 : Vật để soi, gương soi.


R R

Gương 1 : Cái được coi là mẫu mực để noi theo. Noi gương .
R R

1235. Trong nhà có bà hai đầu.

- Cái võng

đầu người - đầu võng.

1342. Có cánh có mỏ mà nỏ biết bay

Đi đêm về ngày lại chui xuống nước.

- Cái mỏ neo

Phương ngữ bắc miền Trung: nỏ = không

Cái neo: Vật nặng, thả chìm dưới nước cho cắm chặt ở đáy để giữ cho tàu thuyền
hoặc vật nổi nào đó ở vị trí nhất định, khỏi bị trôi.

Đánh lừa người giải bằng cách đưa từ vào trường nghĩa chim và các hoạt động
của chim: cánh, mỏ, bay, đi, về, chui...

1351. Cây chi không cội không cành

Chỉ có một lá ta m1nh trao tay.

-Lá thư

Lá cây đồng âm lá thư.


1359. Cây gì không lá không hoa

Không cành không trái dặm xa hơn nghìn.

- Cây số

Cây cối đồng âm cây số.

Đố về đồ vật nhưng lại gài bẫy người giải bằng cách dẫn dụ họ vào một trường
thực vật: cây, lá, hoa, trái, cội, cành, nở, già, non...

2.1.6. Nhận xét

Nghệ thuật chơi chữ đồng âm là một thủ pháp phổ biến trong câu đố Việt, được
vận dụng một cách hết sức phong phú và đa dạng .

Nghệ thuật chơi chữ đồng âm trong câu đố là sự vận dụng linh hoạt tiềm năng về
ngữ âm của tiếng Việt để tạo nên phần tin mới, bất ngờ, khác loại với phần tin cơ sở,
nhằm gây tác dụng nhầm lẫn cho người giải đố.

Nghệ thuật chơi chữ đồng âm trong câu đố là một cách chơi chữ ngữ âm với
phương thức dùng âm thanh để "tạo ra một lượng nghĩa mới bất ngờ, thú vị" [41,
tr.219]. Lượng nghĩa mới được tạo nên ở đây nhằm ngụy trang vật đố, khoác cho vật
đố một bộ áo mới hết sức xa lạ, nhằm cố tình gài bẫy, đánh lừa người giải, làm cho
câu đố thêm hóc hiểm, khó đoán giải và càng khó đoán thì khi giải ra, cuộc đố càng
thú vị.

Chơi chữ đồng âm là tạo ra những diễn ngôn có nhiều từ đồng âm cùng xuất
hiện, gây nên sự tương phản giữa âm và nghĩa, hoặc dẫn đến lẫn lộn hiểu nhầm. [64,
tr.60]

Cũng như những biện pháp chơi chữ từ vựng khác (từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa,
từ đa nghĩa, từ trái nghĩa), tác dụng chính của chơi chữ ngữ âm là tạo ra những liên
tưởng bất ngờ, kích thích tình cảm và trí tuệ con người. Nó mang cả hai chức năng
nhận thức và tình cảm.
2.2.ĐỒNG NGHĨA TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

2.2.1. Khái niệm

Đồng nghĩa là một hiện tượng phổ quát của mọi ngôn ngữ. "Hiện tượng đồng
nghĩa (còn được gọi là hiện tượng tương đương) là những hiện tượng biểu đạt có hình
thức biểu đạt khác nhau, mang nội dung biểu đạt đại đồng tiểu dị (giống nhau trên đại
thể, khác nhau về chi tiết)." [73, tr.30]

Câu đố là một thể loại dân gian, ra đời ở từng địa phương và lưu truyền chủ yếu
bằng phương thức truyền miệng, mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa, phương ngữ.
Trong câu đô" đồng nghĩa (câu đố có sử dụng hiện tượng đồng nghĩa), hiện tượng
đồng nghĩa là một trong những phương thức chủ đạo mà người sáng tác câu đố sử
dụng có tác dụng gợi mở, định hướng cho người giải trong quá trình suy luận để giải
đô".
2.2.2. Phân loại đồng nghĩa

Khảo sát tài liệu, chúng tôi xác định được 113 câu có hiện tượng đồng nghĩa,
chiếm tỉ lệ hơn 5,5%. Có thể nói hiện tượng đồng nghĩa trong câu đô" tuy không nhiều
nhưng được sử dụng hết sức phong phú và đa dạng.

Dựa vào các tiêu chí như tính chất, cấp độ, hình thức..., nhiều nhà ngữ học phân
định hiện tượng đồng nghĩa thành: đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa lời nói (Đỗ Hữu
Châu), đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa tu từ (Nguyễn Thái Hoà), đồng nghĩa cố
định và đồng nghĩa lâm thời, đồng nghĩa cùng cấp độ và đồng nghĩa khác cấp độ
(Nguyễn Nguyên Trứ), đồng nghĩa tuyệt đối và đồng nghĩa tương đối...

Cũng có những ý kiến trái ngược nhau về đồng nghĩa: Hiện tượng đồng nghĩa là
đồng nghĩa biểu vật hay đồng nghĩa biểu niệm? Thậm chí có ý kiến cực đoan cho rằng
không có hiện tương đồng nghĩa mà chỉ có hiện tượng gần nghĩa!

Chúng tôi nghĩ rằng, thực ra trong hai hay hàng loạt từ (đơn vị) được cho là đồng
nghĩa với nhau, sẽ không bao giờ có những từ trùng khớp hoàn toàn các nét nghĩa với
nhau. Nếu có thì cũng chỉ trùng một hoặc một số nét nghĩa mà thôi; bởi vì theo quy
luật loại trừ, nếu có hai từ hoàn toàn trùng nghĩa với nhau thì tất yếu sẽ chỉ có một từ
tồn tại, từ còn lại theo thời gian sẽ dần dần bị loại ra khỏi từ vựng. Chẳng hạn hai từ
"tử thi" và "xác chết" là đồng nghĩa với nhau, nhưng rõ ràng từ "tử thi" với đặc điểm
trang trọng và tác dụng "uyển ngữ" của từ Hán-Việt trong nhiều trường hợp không thể
thay thế bằng từ "xác chết" được.

Xem xét câu đố đồng nghĩa, chúng tôi nhất trí với quan điểm xếp hiện tượng
đồng nghĩa trong câu đố, nhìn chung là đồng nghĩa trong lời nói, đồng nghĩa văn cảnh,
đồng nghĩa biểu vật; vì cả phần đố lẫn phần giải cùng một sở chỉ (dù nghĩa biểu niệm
của các đơn vị - như trên đã nói - không bao giờ có thể trùng nhau hoàn toàn được).

Ta thấy có những kiểu đồng nghĩa trong câu đố như sau:

2.2.2.1. Đồng nghĩa cùng cấp độ

Đồng nghĩa cùng cấp độ thuộc dạng đồng nghĩa giữa các từ với nhau. Loại này
xuất hiện trong trường hợp ở phần đố có từ đồng nghĩa với tên của sự vật trong phần
giải, nhưng được gọi khác đi. Sự khác biệt này dựa trên cơ sở đồng sở chỉ giữa từ
thuần Việt với từ Hán Việt, thuần Việt - thuần Việt, giữa từ địa phương với từ toàn
dân..., ví dụ:

213. Hoa nào không phải lẳng lơ

Mà người kêu bướm ỡm ờ đến hay.

- Hoa điệp

267. Dài dài chiều dọc một gang

Cha ai mà lại nghênh ngang tôn m1nh.

- Trái đậu phụ

185. Đêm nằm luống những ngẩn ngơ

Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ thì không.

- Cây lá mơ

Cũng có trường hợp đồng nghĩa từ vựng lâm thời, chỉ có giá trị trong văn cảnh,
trong đó nghĩa ngữ cảnh đóng vai trò chủ đạo [29, tr.73]

50. Một vùng nước biếc cỏ xanh

ít lâu con nít đua tranh bòn vàng

Người lớn thấy vậy la làng

Sao bay lại dám cắp vàng của tao.

- Ruộng lúa

2.2.2.2. Đồng nghĩa khác cấp độ

Đồng nghĩa khác cấp độ cũng thuộc loại đồng nghĩa lâm thời, biểu vật. Hiện
tượng đồng nghĩa trong câu đố có thể diễn ra giữa:

- từ với từ tổ

1134. Nhớ em lệ chảy ngùi ngùi

Khăn lau không ráo, áo chùi không khô.

- Bánh ướt
- văn bản với từ

Có thể nói, toàn bộ các câu đố đều có hiện tượng đồng nghĩa khác cấp độ, giữa
văn bản (phần đố) với từ, ngữ, câu (phần giải). Cả phần đố và phần giải đều cùng chỉ
một sự vật, nhưng ở phần đố thì được trình bày để sự tri giác sự vật không đầy đủ, nửa
kín nửa hở; còn trong lời giải thì sự vật được gọi thẳng tên ra bằng từ hoặc từ tổ định
danh và biểu thị sự vật, hiện tượng.

Bên cạnh đồng nghĩa giữa phần đố và phần giải, còn có đồng nghĩa trong phần
đó:

126. Tựa như cây trúc ngoài đồng

Trâu dòm thấy ngán, người trông thấy thèm.

- Cây mía

Đồng nghĩa trong phần giải:

1198. Một mình có những hai tên

Khoe hay khoe đẹp đứng bến phòng trà

Yêu hoa yêu rất đậm đà

Yêu cho tới lúc hoa ra rã rời

Lại tìm hoa khác mà chơi

Bỏ rơi bạn cũ nên đời mới chê

Đặt cho danh hiệu rất quê

Mà chàng họ Sở chẳng hề oán chi!

- Lọ hoa (bình bông)

2.2.2.3. Đồng nghĩa gián tiếp

Tất cả những kiểu đồng nghĩa trong câu đố trên là đồng nghĩa trực tiếp, ngoài ra
còn có kiểu đồng nghĩa gián tiếp. Trong kiểu đồng nghĩa này, chỉ có một yếu tố hiện
ra trong câu đố, yếu tố còn lại do người giải tự suy luận, liên tưởng ra để tìm lời giải,
nó không tường minh trong phần giải:
620. Đem chuông lên đánh Sài Gòn

Để cho nữ giới biết con ông đồ.

- Sương Nguyệt Ánh

(là chủ bút tờ Nữ giới chung)

855. Mình tròn lưng lại cong cong

Tơ vương vấn vít con ong giữa vời

Ngày ngày dạo gót đi chơi

Bắt con long thể ghẹo người thủy cung.

- Cần câu (rồng đất = giun)

Trong các câu đố, bao giờ lời đố cũng là phần mô tả nửa kín nửa hở về sự vật,
trình bày những nét nghĩa biểu niệm mang tính chất đánh giá về sự vật còn lời giải đã
nói thẳng tên sự vật ra. Giữa lời đố và lời giải cùng chỉ chung một sự vật, hiện tượng.
Suy cho cùng, mối quan hệ giữa phần đố với phần giải trong tất cả các câu đố là "hiện
tượng đồng nghĩa biểu vật" [6, tr.192]; hay có thể xem phần đố (văn bản) và phần giải
(từ, từ tổ) là những đơn vị không cùng cấp độ nhưng là những đơn vị đồng quy chiếu
[29, tr.74].

Như vậy, trong câu đố, đồng nghĩa được sử dụng có khi là "hiện tượng đồng
nghĩa cố định (có sẩn trong ngôn ngữ)" hoặc "hiện tượng đồng nghĩa lâm thời (xảy ra
tại chỗ trong ngôn từ)" [73, tr.31].

Có thể hình dung theo lược đồ sau:


2.2.3. Một Số vân đề về hiện tượng đồng nghĩa

về hiện tượng đồng nghĩa, Humboldt cho rằng "từ không đại biểu bản thân sự
vật... mà là sự thể hiện của cách chúng ta nhìn sự vật. Đây là nguồn gốc chủ yếu của
tính đa dạng trong cách thể hiện cùng một sự vật duy nhất. "(dẫn theo [74, tr. 8])

Do vậy, có khi ứng với chỉ một sự vật nhưng có rất nhiều câu đô" khác nhau
như có hàng chục câu đố về con trâu, con vật thân thiết lâu đời của người Việt Nam có
nền văn hoa gốc nông nghiệp:

369. Bôn ông đập đất, một ông phất cờ

Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân.

372. Tôi là bạn của nông gia

Thân đen đủi bẩn, nhưng mà công to.

374. Con gì trông tựa con voi

Nhưng ngà mọc ngược, mà vòi lại không?

v.v...

Ngược lại có trường hợp chỉ một câu đố lại có thể dùng để chỉ nhiều sự vật khác
nhau, như câu đố sau:

Có răng mà chẳng có mồm

Không mắt không mũi, lưng còm cong cong.

Giải đố: "cái lược" hay "cái liềm"

Tìm hiểu hiện tượng đồng nghĩa nói chung và đồng nghĩa trong câu đố tiếng
Việt nói riêng là góp phần khám phá và khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt, vì
"hiện tượng đồng nghĩa là bằng chứng rất thuyết phục về cái giàu, cái đẹp và cái trong
sáng trong ngôn ngữ Việt Nam. Nó cũng là bằng chứng của một dân tộc có văn hóa,
có lịch sử, có một tâm hồn biết yêu, biết ghét, rất tế nhị trong sự quan sát và sáng tạo
từ ngữ." [6, tr.215]
2.3. NÓI LÁI TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT

2.3.1. Khái niệm

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về phương thức chơi chữ nói lái trong tiếng Việt.
Nhìn chung, tất cả đều nhất trí rằng chơi chữ nói lái là lôi chơi chữ trong đó có sự
chuyển đổi vị trí (hoán vị) cho nhau của các phần cấu tạo nên các âm tiết tham gia nói
lái gồm phụ âm đầu, vần, thanh.

Một số tác giả phân ra thành hai kiểu nói lái là nói lái miền Bắc và nói lái miền
Nam.

Có tác giả lại phân thành các kiểu lái đôi, lái ba, lái tư...

Luận văn nhất trí với cách hiểu của Đinh Trọng Lạc "Nói lái là một biện pháp tu
từ trong đó người ta tráo đổi phụ âm đầu và phần vần giữa các âm tiết để tạo nên
những từ ngữ khác có nội dung mới, bất ngờ, hiểm hóc." [41, tr.180]

Chơi chữ nói lái trong tiếng Việt - giống như một số phương thức khác - gắn liền
với đặc điểm loại hình ngôn ngữ tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính.
Trong câu đố Việt Nam, bộ phận câu đố sử dụng biện pháp nói lái (gọi tắt là câu
đô" nói lái: CĐNL) không nhiều, nhưng chúng đặt ra nhiều vân đề khá thú vị cả về nội
dung lẫn hình thức.

Qua khảo sát câu đố Việt Nam, chúng tôi không tìm thấy các kiểu lái ba, lái tư
mà chỉ có kiểu lái đôi - nói lái song tiết, nghĩa là chỉ có hai âm tiết tham gia vào quá
trình nói lái.

Cách nói lái trong tắt cả các câu đố nói lái đều diễn ra trực tiếp, không có một
trường hợp nào phải qua nhiều bước liên tưởng, suy luận theo kiểu: đại phong -> gió
lớn -> đổ chùa

+ tượng lo -> lọ tương.

Có một số trường hợp đố lái gồm đến ba, bốn âm tiết, chẳng hạn câu đố về cây
cột nhà:

Cây chi hình dáng xinh xinh

Hễ cà thì nhột cùng mình người ta.

Âm tiết thì ở giữa hai âm tiết cà – nhột, nhưng không tác động gì đến cơ chế nói
lái và không có mặt trong phần giải đố. Có chăng nó chỉ làm cho việc nhận diện nói
lái thêm phần khó khăn mà thôi. Do đó, quan điểm của chúng tôi là cũng chỉ xem
chúng như các trường hợp lái đôi khác.

Quả thật, lái đôi - lối nói lái chỉ có sự hoán đổi bộ phần giữa hai âm tiết là lối nói
lái thông dụng nhất trong tiếng Việt nói chung và trong câu đố tiếng Việt nói riêng.

Nói lái gồm có hai vế là "vế thuận" và "vế lái" [24, tr.15]. Trong CĐNL, từ "vế
thuận" được nêu rõ trong câu đố, người giải phải tìm ra được lời giải của câu đố- đó
chính là "vếlái".

Theo cách kí hiệu của Nguyễn Hanh, quy ước lần lượt Phụ âm đầu, Vần và Dâu
thanh điệu của âm tiết đầu là p1,VI,DI và của âm tiết thứ hai là P2,V2,D2, ta có công
thức "vế thuận" là P1V1D1+P2V2D2 và 7 công thức "vế lái" như sau:
2.3.2. Phân loại

Như trên đã nói, có một số tác giả phân loại nói lái thành nói lái miền Bắc và nói
lái miền Nam. Trên thực tế, có những chuyện vui có nhiều cơ sở cho thấy nó ra đời và
lưu truyền trước tiên ở miền Bắc, trong đó lại sử dụng lối nói lái... miền Nam. Do đó
chúng tôi không phân loại theo tiêu chí nói lái miền Bắc hay nói lái miền Nam như
các tác giả trước đây, mà chủ yếu dựa vào định nghĩa trên mà phân thành hai loại
chính là nói lái triệt để và nói lái không triệt để.

Theo đó, chỉ có những trường hợp nói lái cho ra "vế lái" theo công thức số 1:
P1V2D1+P2V1D2 và công thức số 2: P1V2D2+P2V1D1 là nói lái triệt để, còn nói lái
cho ra "vếlái" theo các công thức khác đều là nói lái không triệt để.

Từ những cơ sở trên, khảo sát tư liệu, chúng tôi tìm thây 52 câu đố có sử dụng
biện pháp nói lái. Trong đó, gần 92% câu đố là CĐNL triệt để (có thể thay đổi ít nhiều
trong nội bộ âm tiết nhưng đại thể vẫn theo kết câu tráo đổi phần phụ âm đầu và phần
vần giữa hai âm tiết với nhau).

2.3.2.1. Hầu hết các CĐNL ngoài sử dụng biện pháp nói lái còn kết
hợp miêu tả đặc trưng, hình dáng, công dụng của vật đố theo kiểu
trực tiếp, gợi suy nghĩ cho người giải:

554. Bằng cha, bằng chả, bằng chà

Con nít nghe nói sợ đà thất kinh


(bà chằng, như "ngoáo ộp", "ông kẹ")

588. Bằng trang điếu thuốc

Ngủ ngày nó ngáy ton ton

(ngón tay)

Trong da ngoài thịt thấy mà ghê

(mề gà)

Hoặc gợi suy nghĩ theo kiểu phản đề, hoặc lái mẹo hóc hiểm, phải vận dụng trí
thông minh mới đoán được.

Ông khoe ông sống dài lâu

Rày ai thấy mặt ông đâu trong nhà

(cây dầu lai)

Một bầy gà mà bươi trong bếp,

Chết mất ba con hỏi có mấy con

(mười ba)

Hoặc kiểu giấu đầu hở đuôi, đánh lừa người giải bằng cách đưa cả lời giải vào
ngay trong câu đố để người giải chủ quan, cứ tưởng lời giải ở bến ngoài câu đố như
thông thường, nên đi tìm lời giải ở tận đâu đâu!

Bằng ngón chân cái, chai cứng

(ngón chân cái)

(Cách phát âm của người Nam bộ: chưng cái = chân cái)

Bằng cấy thùng, khi nào cùng mới thấy

Bằng cấy thùng, đem ra cúng thầy.

(cái thùng)

(Cách phát âm của người bắc miền Trung: cấy thùng = cái thùng)
2.3.2.2. Một số CĐNL chỉ sử dụng biện pháp nói lái đơn thuần, không nêu hình
thức đặc điểm, công dụng của vật đố qua câu đô" theo lối trực tiếp hay gián tiếp, mà
chỉ tạo nên sự bất ngờ, hiểm hóc của câu đố dựa trên biện pháp nói lái mà thôi.

218. Ai mua gì mà mãi tới lui

Thử hỏi làm vui, gì bán?

(giàn bí) Đục rồi cất, cất rồi lại đúc.

(cục đất)

361.Khi đi cưa ngon, khi về cũng cưa ngọn.

(con ngựa)

Có trường hợp biện pháp nói lái được sử dụng trong CĐNL rất khiên cưỡng:

Khoan đầu, khoan cổ, khoan lai

Bò la, bò liệt, đố ai biết nào?

(khoai lang)

1137.Miệng bà kí lớn, bà kí banh

(canh bí)

1138.Tai (tay) ông cai dài, ông cai khoanh.

(canh khoai)

Trong hai trường hợp trên, người ra đố vẫn tuân thủ mô hình nói lái triệt để
nhưng giữ lại phần âm đệm đầu vần (o) theo phụ âm đầu chứ không tráo đổi theo vần
như thường thấy, dẫn đến tình trạng người giải sẽ khó khăn hơn trong việc giải đố
theo cách giải mã thông thường, phải kết hợp tư duy và suy luận thêm mới có thể giải
được.

2.3.2.3. Một số câu đố nói lái dựa trên cơ sở sự phát âm chệch chuẩn
của phương ngữ từng vùng, như:

- Phương ngữ Nam Bộ có:

- ngón chưng cái (PNNB, phát âm đúng là: ngón chân cái)
- Bằng ngón chân cái, chai cứng.

- Ngón chân cái

Nói lái: chai cứng -» chưng cái -» chân cái. - trái mích (PNNB, phát âm đúng là:
trái mít) 1107. Con trích mái đậu trên

Nhưng chửa chắc cho nên hỏi thử.

- Trái mít

nói lái: trích mái -> trái mích, phương ngữ Nam Bộ đồng nhất vần ít —> ích,
nên nói :trái mích -> trái mít.

- cụt mũi

1392. Chiếc xuồng trong ngọn bơi ra

Là xuồng cút mũi, người ta còn dùng.

- Củi mục (cũi mút)

- Phương ngữ Trung Bộ: cấy (có nghĩa là: cái)

- Cái chi trong trắng, ngoài vàng Trên cao rụng xuống, rõ ràng cổ mây ?

- Cái mo

Nói lái: có mây- cấy mo -> cái mo.

1237. Bằng cây thùng khi nào cùng mới thây Bằng cấy thùng đem ra cúng thầy.

- Cái thùng

Nói lái: cúng thầy, cùng thấy -> cấy thùng- cái thùng.

Phương thức chơi chữ nói lái nói chung và nói lái trong câu đố tiếng Việt nói
riêng dựa trên đặc điểm của loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính của tiếng Việt.
Đó là thủ pháp hoán đổi vị trí hai bộ phận của âm tiết là âm đầu và vần, có hoặc không
kết hợp hoán đổi âm vị thanh điệu, tạo nên sự bất ngờ thú vị về mặt chữ nghĩa, số
lượng câu đố nói lái tuy không nhiều nhưng nói lái là phương thức chơi chữ độc đáo,
thú vị được sử dụng nhiều trong tất cả các loại hình nghệ thuật văn chương lẫn nghệ
thuật sân khâu, có một vai trò quan trọng trong nghệ thuật chơi chữ. Phương thức nói
lái là chỗ giấu vật đố, đồng thời cũng chính nói lái là chỗ "trổ ngầm" có giá trị ch1a
khoa, định hướng cho người giải.

2.4. TIỂU KẾT

Ở chương trên, luận văn đã đi sâu tìm hiểu ba phương thức chơi chữ tiêu biểu
được sử dụng trong câu đố tiếng Việt.

Số lượng câu đố sử dụng các phương thức chơi chữ ấy không đồng đều nhau.
Trong đó, câu đố đồng âm có số lượng nhiều nhất, kế đến là câu đố đồng nghĩa và câu
đố nói lái.

Các phương thức chơi chữ trên có những đặc trưng khác nhau về nhiều mặt, tuy
nhiên chúng giông nhau ở chỗ: đều là những điểm mâu chốt giúp người giải tìm ra vật
đố.

Ngoài ra, từ trong chiều sâu bản chất của hiện tượng chơi chữ, quá trình đố giải
luôn đem đến cho người tiếp cận những lượng thông tin mới khác loại với phần tin cơ
sở, sự thú vị đặc biệt về mặt chữ nghĩa. Nó tạo cho câu đố một màu sắc mới mẻ, một
hiệu ứng thẩm mĩ nhất định trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu câu đố tiếng Việt là một vấn đề không mới. Nhưng xưa nay hầu hết
các tác giả chỉ chú trọng tìm hiểu về mặt nội dung, ý nghĩa, còn về mặt hình thức ngôn
ngữ thì hầu như còn bỏ ngỏ.

Luận văn đã bước đầu tìm hiểu câu đố tiếng Việt về mặt ngữ học, đặc biệt là đi
sâu tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố tiếng Việt. Qua quá trình tìm
hiểu, luận văn đã bước đầu làm rõ một số đề

Vấn đề.

1. Chơi chữ là phương thức phổ biến của các ngôn ngữ trên thế giới, đặc biệt là
các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính, trong đó có tiếng Việt. Chơi chữ
trong câu đố là những phương thức chủ yếu để dị hoa các đặc tính, đặc điểm của vật
đố, biến vật đố thành một sự vật khác lạ nhằm đánh lừa người giải; người giải càng
khó đoán, quá trình giải càng gay go thì cuộc đố càng hấp dẫn và khi giải được càng
thú vị.

Tiếp cận câu đố từ góc độ ngữ học như cách hình dung của luận văn này, thực
chất là bước đầu đi tìm các hằng thể, tức cơ chế đố - giải. Nhưng do giới hạn bởi tầm
vóc của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung ở phương thức chơi chữ. Thật ra,
để xác định cơ chế trên, cần phải khảo sát toàn diện hơn. Riêng phương thức chơi chữ
đã rất phong phú nhưng trong luận văn này chúng tôi chỉ chú trọng tìm hiểu ba
phương thức tiêu biểu là đồng nghĩa, đồng âm và nói lái.

Luận văn đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề mang tính chất nền tảng cho việc
tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố như tiền giả định bách khoa (vốn kiến
thức nền), phương ngữ, câu trúc câu đố.

Luận văn đã xác định phương thức chơi chữ chủ yếu trong các câu đố và đặt tên
theo phương thức chơi chữ được vận dụng, gồm ba loại câu đố: câu đố đồng âm, câu
đố đồng nghĩa và câu đố nói lái.
2. Trong các câu đố có sử dụng phương thức chơi chữ nói trên thì chính phương
thức đó là nơi giấu kín vật đố, đồng thời cũng là ch1a khoa để tìm ra vật đố, yêu cầu
người giải đố phải huy động óc liên tưởng, suy luận, kết hợp với vốn kiến thức nền để
tìm ra lời giải.

Chơi chữ trong câu đố, một mặt nhằm giấu sự vật đi cho khó đoán giải, nhưng
mặt khác cũng chính từ các phương thức chơi chữ này (nếu phát hiện được) lại là ch1a
khoa giúp người giải đố tìm đến vật đô" bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất.
Những phương thức chơi chữ là những tiêu điểm, ch1a khóa góp phần đắc lực trong
việc gợi mở, định hướng, dẫn dắt cho người đoán giải câu đố.

3. Tìm hiểu các phương thức chơi chữ trong câu đố là tìm hiểu đặc điểm của
ngôn ngữ đồng thời tìm hiểu bản sắc văn hóa của một dân tộc vì câu đố cũng như các
thể loại văn học nghệ thuật khác, là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân và là cứ liệu phản ánh nếp sống, sinh hoạt của nông dân và nông
thôn Việt Nam xưa; hơn thế nữa, nó còn là bức tranh tri nhận đời sống của người Việt.

Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á, có nền văn hóa góc nông
nghiệp, trồng lúa nước nên 90% nội dung câu đố gắn liền với các sự vật, hiện tượng
quen thuộc trong nông nghiệp và nông thôn, điều này càng chứng tỏ mạnh mẽ cho bản
sắc văn hóa nông nghiệp của dân tộc ta.

Vả lại, câu đố tiếng Việt còn ghi rõ dâu ấn của nền văn hoa nông nghiệp lúa
nước của dân tộc ta; cách nhìn nhận sự vật hiện tượng, cách tri giác về bản chất sự vật,
cách định danh sự vật của người Việt.

4. Câu đố là đơn vị ngôn ngữ, văn hóa, nó gắn liền với phương thức truyền
miệng, đồng thời là một trò chơi giải trí trong lao động nên nó thể hiện tâm lí dân tộc,
tâm lí cộng đồng. Qua câu đố có thể thấy được bản sắc văn hoá của dân tộc ta.

5.Tìm hiểu câu đố không chỉ trên mặt văn bản mà cần phải tìm hiểu cả trong
trạng thái hành chức, không gian và thời gian trò chơi diễn ra, hoạt động diễn xướng
của nó, tìm hiểu trong môi trường giao tiếp, hoạt động của trò chơi đố - giải, tức là
nghiên cứu câu đô" ở cả hai dạng: tĩnh và động.
6.Dưới góc độ ngữ dụng học, đố - giải không cung cấp cho người tham gia cuộc
đô" những kiến thức thường thức về đời sông như nhiều người xưa nay lầm tưởng.
Những người tham gia cuộc đố phải nắm vững đặc điểm, đặc tính của vật đố, vì vậy
các vật đố phải quen thuộc, gần gũi. Trò chơi đố giải là trò chơi trí tuệ, cung cấp cho
người chơi những cách tri giác mới lạ, hóm hỉnh, thú vị bất ngờ về các sự vật hiện
tượng mà họ đã quá quen thuộc, gần gũi. Do đó, có thể nói, đố giải giúp con người rèn
luyện năng lực tư duy, tưởng tượng, suy luận qua việc ra đố và giải đố. Càng cọ xát
nhiều với mảng hiện thực thì càng có những chiêm nghiệm, suy ngẫm, đúc rút sâu sắc
thể hiện trong cách phản ánh thế giới qua câu đố.

Như vậy, ngoài chức năng giải trí, vai trò câu đố nhìn từ giác độ giáo dục học, đã
phản ánh thế giới qua cách tri giác mới lạ, phong phú, có vai trò rất lớn trong việc giáo
dục nhận thức và rèn luyện kĩ năng tư duy.

Xem xét câu đố về mặt ngôn ngữ học phải gắn liền với ngôn ngữ học - tâm lí.

7. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi đề xuất cách phân loại câu đố: phân loại
theo tiêu chí ngôn ngữ học, tức là dựa trên các phương thức chơi chữ hay hiện tượng
tu từ trong câu đố kết hợp với phân loại theo chủ đề. Những câu đố sử dụng cùng một
phương thức chơi chữ hoặc biện pháp tu từ, mà biện pháp này có tác dụng định
hướng, đẫn dắt người giải trong quá trình giải đố, thì được xếp vào một nhóm; theo
trật tự sự vật, hiện tượng thiên nhiên, sự vật hiện tượng xã hội...

Thông thường, câu đố và vật đố ứng với nhau theo quan hệ 1->1, tức là mỗi câu
đố được sản sinh trên cơ sở quan sát đặc điểm, đặc tính một vật nào đó. Tuy nhiên
cũng có hiện tượng quan hệ giữa câu đố và vật đố là n-> 1 (một vật đố được tri giác,
diễn tả bằng nhiều câu đố) hoặc l->n (một câu đố có thể trỏ nhiều vật đố):
1) Sơ đồ 1->1: Mỗi câu đố (A) ứng với một vật đô(A’)

2) Sơ đồ n->l: Nhiều câu đố(AyByC) ứng với một vật đố (A’)

3) Sơ đồ l->n : Một câu đố(A) ứng với nhiều vật đố(A\ A")

Như đã trình bày, tìm hiểu câu đố tiếng Việt trên bình diện ngôn ngữ học là một
vấn đề hiện nay chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức.

Với năng lực có hạn của mình, qua luận văn này, chúng tôi đã bước đầu tìm hiểu
một số phương thức chơi chữ trong câu đố tiếng Việt và đã có những khám phá khiêm
tốn ít nhiều có tính đặt vấn đề.

Hi vọng rằng, trong thời gian tới, nếu điều kiện cho phép, chúng tôi sẽ tiếp tục đi
sâu tìm hiểu thêm nhiều phương thức chơi chữ khác trong câu đố tiếng Việt với một
đề tài ở phạm vi rộng hơn, cấp độ cao hơn: GIẢI MÃ CÂU ĐỐ TIẾNG VIỆT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A - Đỗ Xuân Thao (2002), Giáo trình tiếng Việt 1, Nxb Giáo dục.Hà Nội.

2.Bùi Xuân Thụy An (1999), Câu đố Việt Nam, mấy vấn đề ngôn ngữ học, Luận
văn cử nhân Ngữ văn, ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh.

3.Nguyễn Trọng Báu (2003), Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.

4.Võ Bình-Lê Anh Hiền-Cù Đình Tú-Nguyễn Thái Hòa (1982), Phong cách học
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5.Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội.

6.Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.

7.Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương Ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

8.Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

9.Trương Chính (2003), Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

10.Mai Ngọc Chừ, Vũ Trọng Phiến, Hoàng Đức Nghiêu (2003), Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11.Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng họè, TI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12.Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13.Đỗ Thành Dương (2004), "Nói lái trong câu đố tiếng Việt", Ngôn ngữ & Đời
sống, (số 9), trang 22-24.

14.Đỗ Thành Dương (2006), "Đồng âm trong câu đố Việt", Ngôn ngữ &Đời
sống, (số 1+2), trang 21-24.

15.Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
16.Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2004), Ca dao dân ca - Đẹp và hay, Nxb Trẻ - Hội
NC & GD văn học Tp. Hồ Chí Minh.

17.Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội.

18.Phan Huy Đông (2002), Đố tục đố thanh, giai thoại câu đối, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.

19.Dương Kỳ Đức, Nguyễn Văn Dựng, Vũ Quang Hào (1999), Từ điển trái
nghĩa tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.

20.Dương Kỳ Đức-Vũ Quang Hào (1999), Từ điển trái nghĩa - đồng nghĩa tiếng
Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.

21.Lê Văn Đức (1970), Việt Nam từ điển, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.

22.Ninh Viết Giao (1997), Câu đố Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

23.Nguyễn Thiện Giáp (2002), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nại.

24.Nguyễn Hanh (2003), Nói lái - một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt -T/c
Ngôn ngữ & Đời sống, số 10.

25.Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, BGD, Trung tâm học
liệu, Sài Gòn.

26.Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành (2001), Từ
điển đồng âm tiếng Việt, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

27.Đặng Hấn (2004), Câu đố xưa và nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

28.Lê Trung Hoa (1995), Thú chơi chữ, Nxb Trẻ, TP.HỒ Chí Minh.

29.Nguyễn Thái Hòa (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, HN.

30.Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển Tu từ - Phong cách học - Thi pháp

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31.Đặng Thanh Hòa (2005), Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,
Trung tâm từ điển học, Hà Nội.
32.Trần Hoàng - Triều Nguyên (2005), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn
nghệ, Tp.Hồ Chí Minh.

33.I.R.Galperin -Hoàng Lộc dịch (1987), Văn bản với đối tượng nghiên cứu
ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội.

34.Bửu Kế (2005), Tầm nguyên từ điển, Nxb Thanh niên, Tp.Hồ Chí Minh.

35.Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội-những vấn đề cơ bản, Nxb
KHXH, Hà Nội.

36.Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Từ điển văn hóa dân
gian, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

37.Lê Đình Khẩn (2002), Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Nxb ĐHQG, Tp.
Hồ Chí Minh.

38.Khoa Ngữ văn Đại học cần Thơ (2002), Văn học dân gian đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

39.Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán - Việt từ điển, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.

40.Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2001), Phong cách học tiếng Việt,Giáo
dục, Hà Nội.

41.Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục! Hà Nội.

42.Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

43.Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH, HN.

44.Võ Hồng Thiên Lữ (2000), Câu đố Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.

45.Huỳnh Minh, Trúc Phương (2003), Việt Nam văn học b1nh dân, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.

46.Phan Ngọc (2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, Tp.
Hồ Chí Minh.
47.Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (2000), Tục ngữ phong dao, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.

48.Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt, Nxb
Thuận Hóa, Huế.

49.Lãng Nhân (1970), Chơi chữ, Nxb Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn. H

50.Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, T.l, Nxb KHXH, Hà Nội.

51.NXB Giáo dục (1976), Thơ ca dân gian Việt Nam, Hà Nội.

52.NXB Giáo dục(1998), Lê nin bàn về ngôn ngữ, Hà Nội.

53.Vũ Ngọc Phan (1994), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb KHXH, HN.

54.Lê Trường Phát (2001), Thi pháp văn học dân gian, Giáo dục, Hà Nội.

55.Hoàng Phê (cb) (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nấng, Trung tâm từ

điển học, Hà Nội.

56.Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Ca dao Nam Trung Bộ, Nxb
KHXH, Hà Nội.

57.Phạm Đan Quế (2003), Đố Kiều, nét đẹp văn hoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

58.Đỗ Quyên (2005), "Hình ảnh con gà trong câu đố dân gian", Ngôn ngữ & Đời
sống, (số 1 +2), trang 10-11.

59.Đỗ Quyên (2005), "Thử tìm hiểu tiền giả định bách khoa của câu đố Việt",
Ngôn ngữ & Đời sống, (số 7), trang 8-12.

60.Hoài Quỳnh (2004), Câu đố dân gian Việt Nam, Nxb Đà Nấng.

61.Nguyễn Ngọc San (2003), Tim hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb ĐHSP, HN.

62.Trương Văn Sinh (1993), Chơi chữ trong tiếng Việt, Luận án Phó tiến sĩ khoa
học Ngữ văn, Viện KH Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh.

63.Dương Thành (2005), "Tìm hiểu phương ngữ trong câu đố Việt", Ngôn ngữ
& Đời sống, ( số 11), tr.27-30.
64.Hoàng Tất Thắng (2003), Giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.

65.Lý Toàn Thắng (2005), Ngổn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

66.Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.

67.Phạm Văn Tình (2003), "Hiện tượng đồng dạng khác nghĩa và đồng nghĩa
khác dạng của câu đố", Ngôn ngữ & Đời sống, (số 11), tr. 19-21.

68.Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoa - dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy ở người Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

69.Đỗ Bình Trị (1997), Những đặc điểm thi pháp của câu đố, Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên chu k1 1997-2000 cho giáo viên THPT & THCB, Đại học Quốc gia,
Tp. Hồ Chí Minh.

70.Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.

71.Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên từ điển Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

72.Nguyễn Văn Trung (1991), Câu đố Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh.

73.Nguyễn Nguyên Trứ (2004), Bài giảng Phong cách học, ĐHSP Tp.HCM

74.Nguyễn Văn Tu (2001), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.

75.Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.

76.Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77.Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển từ mới tiếng Việt, Nxb Tp.HCM.

78.Nguyễn Trọng Văn (1987), Vài ghi nhận về cuốn "Câu đố Việt Nam" của
Nguyễn Văn Trung, Bản đánh máy, Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

79.Đông Vân (2005), Kho tàng báu truyền câu đố dân gian, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
80.Nguyễn Như Ý (cb) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa-Thông tin,
Tp. Hồ Chí Minh.

81.Nguyễn Như Ý (cồ) (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

NHỮNG BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN VĂN

1.Nói lái trong câu đố tiếng Việt, Ngôn ngữ & Đời sống, (số 9/2004), trang 22-
24.

2.Hình ảnh con gà trong câu đố dân gian, Ngôn ngữ & Đời sống, (số 1+2/2005),
trang 10-11, (Bút danh Đỗ Quyên).

3.Thử tìm hiểu tiền giả định bách khoa của câu đố Việt, Ngôn ngữ & Đời sống,
(số 7/2005), trang 8-12, (Bút danh Đỗ Quyên).

4.Tìm hiểu phương ngữ trong câu đố Việt, Ngôn ngữ & Đời sống, (sô" 11/2005),
tr.27-30, (Bút danh Dương Thành).

5.Đồng âm trong câu đố Việt, Ngôn ngữ & Đời sống, (số 1+2/2006), tr.21-24.

6.Đồng nghĩa trong câu đố Việt, Ngôn ngữ & Đời sống, (số 4/2006), tr.5-6.

You might also like