You are on page 1of 28

소나기

-황순원-

소년은 개울가에서 소녀를 보자 곧 윤 초시네 증손녀(曾孫女) 딸이라는


걸 알 수 있었다. 소녀는 개울에다 손을 잠그고 물장난을 하고 있는 것
이다. 서울서는 이런 개울물을 보지 못하기나 한 듯이.

Khi vừa nhìn thấy cô bé bên bờ suối, cậu bé đã ngay lập tức nhận ra đó là cháu gái
nhà họ Yun. Cô bé đang ngâm hai tay xuống suối và nghịch nước. Như thể nó chưa
từng nhìn thấy con suối nào như này ở Seoul vậy.

벌써 며칠째 소녀는, 학교에서 돌아오는 길에 물장난이었다. 그런데, 어


제까지 개울 기슭에서 하더니, 오늘은 징검다리 한가운데 앉아서 하고
있다.

Mấy ngày nay ngày nào cô bé cũng lại nghịch nước trên đường đi học về. Tuy
nhiên, mới hôm qua nó vẫn còn ở chân bờ suối mà hôm nay nó đã ra ngồi trên
những tảng đá nằm giữa con suối.

소년은 개울둑에 앉아 버렸다. 소녀가 비키기를 기다리자는 것이다.

요행 지나가는 사람이 있어, 소녀가 길을 비켜 주었다.

다음 날은 좀 늦게 개울가로 나왔다.

Cậu bé ngồi trên bờ suối. Như nó đang chờ đợi cô bé tránh đi.

Tình cờ có người đi qua nên cô bé đã nhường đường cho.

Hôm sau cậu bé ra bờ suối hơi trễ hơn một chút.

이 날은 소녀가 징검다리 한가운데 앉아 세수를 하고 있었다. 분홍 스워


터 소매를 걷어올린 목덜미가 마냥 희었다.

1 NHÓM 8 - 소나기
Hôm ấy cô bé đang ngồi ở chiếc cầu đá giữa suối rửa mặt. Phần cánh tay dưới ống
tay áo cuộn lên của chiếc áo len màu hồng và phần gáy cổ áo rất trắng.

한참 세수를 하고 나더니, 이번에는 물 속을 빤히 들여다 본다. 얼굴이라


도 비추어 보는 것이리라. 갑자기 물을 움켜 낸다. 고기 새끼라도 지나가
는 듯.

Sau khi rửa mặt một lúc, lần này cô bé nhìn chằm chằm vào trong nước. Có lẽ nó
đang ngắm nhìn gương mặt phản chiếu của mình. Bất chợt nó chụp vào nước. Chắc
là do những con cá nhỏ bơi ngang qua.

소녀는 소년이 개울둑에 앉아 있는 걸 아는지 모르는지 그냥 날쌔게 물


만 움켜 낸다. 그러나, 번번이 허탕이다. 그대로 재미있는 양, 자꾸 물만
움킨다. 어제처럼 개울을 건너는 사람이 있어야 길을 비킬 모양이다.

Cô bé không hề biết rằng cậu bé có ngồi ở đó hay không mà chỉ mãi thoăn thoắt
chụp vào nước. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác đều trượt. Cô bé vẫn cứ chụp
vào nước như là một niềm vui vậy. Và vẫn như hôm qua, có lẽ nó lại phải tránh
đường vì có người qua suối.

그러다가 소녀가 물 속에서 무엇을 하나 집어 낸다. 하얀 조약돌이었다.


그리고는 벌떡 일어나 팔짝팔짝 징검다리를 뛰어 건너간다.

Sau đó nó nhặt một thứ gì từ dưới nước lên. Là một viên đá cuội màu trắng. Rồi nó
bất chợt đứng dậy và nhảy lon ton qua những tảng đá.

다 건너가더니만 홱 이리로 돌아서며,

Khi vừa đi qua hết nó bất thình lình quay lại.

“이 바보.”

“Tên ngốc kia”

조약돌이 날아왔다.

2 NHÓM 8 - 소나기
Viên đá cuội bay tới.

소년은 저도 모르게 벌떡 얼어섰다.

Cậu bé cũng bất ngờ đứng dậy trong vô thức.

단발 머리를 나풀거리며 소년가 막 달린다. 갈밭 사잇길로 들어섰다. 뒤


에는 철량한 가을 햇살 아래 빛나는 갈꽃뿐.

Cô bé lắc lư mái tóc ngang và chạy đi. Nó đi vào con đường mòn giữa ruộng lau.
Phía sau chỉ còn những bông hoa lau lấp lánh dưới những tia nắng trong trẻo mùa
thu.

이제 저쯤 갈밭머리로 소녀가 나타나리라. 꽤 오랜 시간이 지났다고 생


각됐다. 그런데도 소녀는 나타나지 않는다. 발돋움을 했다. 그러고도 상
당한 시간이 지났다고 생각됐다.

Lúc này cô bé đã bên kia bờ lau. Cậu bé nghĩ đã trôi qua một lúc lâu. Nhưng cô bé
vẫn chưa xuất hiện lại. Cậu bé nhón chân lên. Cậu lại cảm thấy thêm một quãng
thời gian khá lâu nữa qua đi.

저 쪽 갈밭머리에 갈꽃이 한 옴큼 움직였다. 소녀가 갈꽃을 안고 있었다.


그리고, 이제는 천천한 걸음이었다. 유난히 맑은 햇살이 소녀의 갈꽃머리
에서 반짝거렸다. 소녀 아닌 갈꽃이 들길을 걸어가는 것만 같았다.

Phía bên kia bờ lau có một chùm hoa lau động đậy. Cô bé đang ôm bó hoa lau. Và
đang bước những bước chầm chậm vào lúc này. Những tia nắng mùa xuân rực rỡ lạ
thường nhấp nháy trên đầu những bông hoa lau của cô bé. Dường như là bông hoa
lau đang băng qua cánh đồng chứ không phải cô.

소년은 이 갈꽃이 아주 뵈지 않게 되기까지 그대로 서 있었다. 문득, 소


녀가 던지 조약돌을 내려다 보았다. 물기가 걷혀 있었다. 소년은 조약돌
을 집어 주머니에 넣었다.

3 NHÓM 8 - 소나기
Cậu bé vẫn cứ đứng mãi ở đó cho tới khi không nhìn thấy được những bông hoa lau
ấy nữa. Bất chợt nó nhìn xuống viên đá cuội mà cô bé đã ném cho mình. Viên đá đã
khô rồi. Cậu nhặt lấy viên đá và bỏ vào túi.

다음 날부터 좀더 늦게 개울가로 나왔다. 소녀의 그림자가 뵈지 않았다.


다행이었다.

Hôm sau cậu bé ra bờ suối có hơi muộn hơn một chút. Nó không thấy hình bóng cô
bé đâu. May mắn thật.

그러나, 이상한 일이었다. 소녀의 그림자가 뵈지 않는 날이 계속될수록


소년의 가슴한 구석에는 어딘가 허잠함이 잡는 것이었다. 주머니 속 조
약돌을 주무르는 버릇이 생겼다.

Tuy nhiên, có một chuyện kì lạ đã xảy ra. Khi những ngày không nhìn thấy bóng
dáng cô bé cứ kéo dài dường như một góc trong tim nó đâu đó đã tồn tại một nỗi
trống trải. Nó cứ mân mê viên đá cuội trong túi quần.

그런한 어떤 날, 소년은 전에 소녀가 앉아 물장난을 하던 징검다리 한가


운데에 앉아 보았다. 물 속에 손을 잠갔다. 세수를 하였다. 물 속을 들여
다보았다. 검게 탄 얼굴이 그대로 비치었다. 싫었다.

Rồi cứ thế vào một ngày nọ, cậu ngồi giữa những tảng đá nơi cô bé đã từng ngồi
nghịch nước. Nó ngâm đôi tay vào trong nước. Rửa mặt. Thử nhìn chằm vào dòng
nước. Phản chiếu lại là một gương mặt sạm đem. Thật ghét bỏ.

소년은 두 손으로 물 속의 얼굴을 움키었다. 몇 번이고 움키었다. 그러다


가 깜짝 놀라 일어나고 말았다. 소녀가 이리로 건너오고 있지 않느냐.

Cậu lấy hai tay mình khuấy tan gương mặt dưới nước đi. Cứ làm như thế cho đến
khi gương mặt ấy biến mất. Và rồi bỗng dưng nó bất ngờ đứng dậy. Không phải là
cô bé đang đi về phía mình hay sao.

4 NHÓM 8 - 소나기
‘숨어서 내가 하는 일을 엿보고 있었구나.’ 소년은 달리기를 시작했다.
디딤돌을 헛디뎠다. 한 발이 물 속에 빠졌다. 더 달렸다.

“Thì ra cô ấy trốn và nhìn lén những việc mình làm” Cậu nhận ra và bắt đầu chạy.
Rồi bước hụt chân lên tảng đá. Một chân rớt xuống nước. Lại càng bỏ chạy nhanh
hơn.

몸을 가릴 떼가 있어 줬으면 좋겠다. 이 쪽 길에는 갈밭도 없다. 메밀밭


이다. 전에 없이 메밀꽃 냄새가 짜릿하게 코를 찌른다고 생각됐다. 미간
이 아찔했다. 찝찔한 액체가 입술에 흘러들었다. 코피였다.

Ước gì có chỗ cho nó nấp đi thì tốt biết mấy. Nhưng trên con đường hướng này chả
có cây lau nào. Chỉ có đồng kiều mạch. Nó cảm thấy mùi hoa kiều mạch chọc
mạnh vào mũi nó là việc chưa từng có trước đây. Đầu nó choáng váng. Một thứ
chất lỏng mằn mặn chảy vào miệng nó. Là máu mũi.

소년은 한 손으로 코피를 훔쳐내면서 그냥 달렸다. 어디선가 ‘바보, 바


보’ 하는 소리가 자꾸만 뛰따라오는 것 같았다.

Nó vừa lấy một tay lau máu mũi đi vừa chạy tiếp. Hình như vẫn có một giọng nói ở
đâu đó cứ liên tục vọng tới từ phía sau “Đồ ngốc, đồ ngốc”.

토요일이었다.

개울가에 이르니, 며칠째 보이지 않던 소녀가 건너편 가에 앉아 물장난


을 하고 있었다. 모르는 체 징검다리를 건너기 시작됐다. 얼마 전에 소녀
앞에서 한 번 실수를 했을 뿐, 여태 큰길 가듯이 건너던 징검다리를 오
늘은 조심스럽게 건넌다.

Đã là Thứ Bảy.

Khi cậu đi đến bên bờ suối, cô bé mà nhiều ngày không gặp đang ngồi ở phía bên
kia nghịch nước.

5 NHÓM 8 - 소나기
Cậu bắt đầu giả vờ đi ngang qua những tảng đá. Mới không lâu trước vừa mắc lỗi
trước mặt cô bé nên hôm nay phải bước thật cẩn thận qua những tảng đá mà như
thể trước giờ đi qua con đường lớn.

“얘.”

“ Này ”

못 들은 체했다. 둑 위로 올라섰다.

Cậu giả vờ không nghe thấy. Và bước lên bờ.

“얘, 이게 무슨 조개지?”

“Này, cái này là sò gì vậy?”

자기도 모르게 돌아섰다. 소녀의 맑고 검은 눈과 마주쳤다. 얼른 소녀의


손바닥으로 눈을 떨구었다.

Cậu tự động quay lại. Nhìn vào đôi mắt đen long lanh của cô bé. Rồi nhanh chóng
nhìn từ mắt nhìn xuống bàn tay cô bé.

“비단조개.”

“Sò lụa”

“이름도 참 곱다.”

“Cái tên cũng đẹp nữa”

갈림길에 왔다. 여기서 소녀는 아래편으로 한 삼 마장쯤, 소년은 우대로


한 십 리 가까운 길을 가야 한다.

Đã đi đến lối rẽ. Từ đây cô bé phải xuống dốc khoảng ba dặm, cậu bé phải lên dốc
gần 10 lý.

6 NHÓM 8 - 소나기
--------------
소녀가 걸음을 멈추며,

“너, 저 산 너머에 가 본 일 있니?”

벌 끝을 가리켰다.

Cô bé dừng bước, chỉ tay về đằng xa và hỏi cậu “Cậu đã từng đến ngọn núi kia bao
giờ chưa?”

“없다.”

Cậu đáp: “Chưa từng”.

“우리, 가 보지 않으련? 시골 오니까 혼자서 심심해 못 견디겠다.”

“Vậy chúng ta cùng đến đó đi! Về quê chỉ có một mình thật buồn chán.”

“저래 봬도 멀다.”

“Chỗ đó nhìn xa vậy mà...”

“멀면 얼마나 멀기에? 서울 있을 땐 사뭇 먼 데까지 소풍 갔었다.”

“Xa thì sao chứ? Hồi còn ở Seoul, mình còn đi chỗ xa hơn để ngắm cảnh nữa cơ.”

소녀의 눈의 금새 “바보, 바보” 알 것만 같았다.

Cậu bé dường như cảm nhận được thoáng trong đôi mắt cô bé hiện lên “đồ ngốc,
thật ngốc”.

논 사잇길로 들어섰다. 벼 가을걷이하는 곁을 지났다.

Sau đó họ cùng nhau chạy đến con đường mòn trước mắt. Cùng băng qua một cánh
đồng đang bước vào mùa gặt lúa.

7 NHÓM 8 - 소나기
허수아비가 서 있었다. 소년이 새끼줄을 흔들었다. 참새가 몇 마리 날아
간다. “참, 오늘은 일찍 집에서 돌아가 텃논의 참새를 봐야 할걸.”하는 생
각이 든다.

Những con bù nhìn đứng hiên ngang. Cậu bé chạy đến rung sợi dây thừng, lũ chim
sẻ thấy động vẫy cánh bay lên. Cậu bé thầm nghĩ “Hôm nay phải về nhà sớm để
ngắm những chú chim sẻ ở ruộng làng mới được”

“야, 재밌다!”

소녀가 허수아비 줄을 잡더니 흔들어 댄다. 허수아비가 자꾸 우쭐거리며


춤을 춘다. 소녀의 왼쪽 불에 살포시 보조개가 패었다.

“Oaa, vui quá”

Cô bé cầm lấy và rung sợi dây trên con bù nhìn làm nó nhún nha nhún nhẩy nhảy
múa. Cô gái thích thú đến nỗi để lộ má núm đồng tiền bên trái đầy đáng yêu, duyên
dáng.

저만큼 허수아비가 또 서 있다. 소녀가 그리고 달려간다. 그 뒤를 소년도


달렸다. 오늘 같은 날은 일찍 집으로 돌아가 집안일을 도와야 한다는 생
각을 잊어버리기라도 하려는 듯이.

Cách đó không xa có rất nhiều chú bù nhìn đang đứng. Cô bé vui vẻ chạy về phía
trước, cậu ấy cũng chạy theo cô. Cậu chạy như thể muốn quên đi suy nghĩ phải về
nhà sớm để phụ giúp cha mẹ.

소녀의 곁을 스쳐 그냥 달린다. 메뚜기가 따끔따끔 얼굴에 와 부딪친다.


쪽빛으로 한껏 갠 가을 하늘이 소년의 눈앞에서 맴을 돈다. 어지럽다. 저
놈의 독수리, 저놈의 독수리, 저놈의 독수리가 맴을 돌고 있기 때문이다.

Cậu ấy chạy qua cô bé, bị con châu chấu bay đập vào mặt. Trước mắt cậu thiếu
niên là bầu trời thu xanh thẳm đang xoay vòng. Lòng cậu ấy phức tạp khi nhìn
những con đại bàng cứ bay, bay mãi, bay mãi trên bầu trời kia.

8 NHÓM 8 - 소나기
돌아다보니, 소녀는 지금 자기가 지나쳐 온 허수아비를 흔들고 있다. 좀
전 허수아비보다 더 우쭐거린다.

Ngoảnh đầu lại thì thấy cô gái vẫn đang lắc lư con bù nhìn. Nhìn cô gái còn lắc lư,
nhún nhảy hơn chú bù nhìn ấy. Trông rất đáng yêu.

논이 끝난 곳에 도랑이 하나 있었다. 소녀가 먼저 뛰어 건넜다.

거기서부터 산 밑까지는 밭이었다.

Ở cuối cánh đồng có một con mương nhỏ. Cô gái nhảy qua trước. Từ đó đến chân
núi đều là cánh đồng.

수숫단을 세워 놓은 밭머리를 지났다.

Họ đi qua bờ ruộng, ở đó có một ụ rơm.

“저게 뭐니?”

“Chỗ đó là gì thế?”

“원두막.”

“Chòi gác ruộng dưa.”

“여기 참외, 맛있니?”

“Dưa lê ở đây có ngon không?”

“그럼, 참외 맛도 좋지만 수박 맛은 더 좋다.”

“Tất nhiên là ngon rồi, nhưng dưa hấu còn ngon hơn.”

“하나 먹어 봤으면.”

“Mình muốn ăn thử một trái...”

9 NHÓM 8 - 소나기
소년이 참외 그루에 심은 무우밭으로 들어가, 무우 두 밑을 뽑아왔다. 아
직 밑이 덜 들어 있었다. 잎을 비틀어 팽개친 후, 소녀에게 한개 건넨다.
그리고는 이렇게 먹어야 한다는 듯이, 먼저 대강이를 한 입 베물어 낸
다음, 손톱으로 한 돌이 껍질을 벗겨 우쩍 깨문다.

Nghe vậy, cậu thanh niên bước vào ruộng cải được trồng trên gốc dưa lê và bẻ hai
củ củ cải. Dưới đất vẫn còn sót lại một ít thân. Sau khi bẻ lá và vứt đi, cậu ấy đưa
cho cô bé một củ. Biết cô gái không biết cách ăn, cậu ấy đã ăn trước bằng cách cắn
bỏ phần cuống củ, sau đó dùng tay lột vỏ ra và cắn miếng thật to.

소녀도 따라 했다. 그러나, 세 입도 못 먹고,

“아, 맵고 지려.”

하며 집어던지고 만다.

Nhìn cậu ấy ăn, cô ấy đã làm theo. Nhưng khi cắn miếng đầu tiên

“Mùi cay và hắc quá” khiến cô bé không thể ăn được.

“참, 맛 없어 못 먹겠다.”

소년이 더 멀리 팽개쳐 버렸다.

Cậu thấy thế “Chẳng ngon gì cả nên đừng ăn nữa”

Nói xong cậu ném đi thật xa.

산이 가까워졌다.

단풍이 눈에 따가웠다.

Khoảng cách đến núi ngày càng gần.

Màu lá thu vàng trở nên chói lóa.

10 NHÓM 8 - 소나기
“야아!”

소녀가 산을 향해 달렸갔다. 이번은 소년이 뒤따라 달리지 않았다. 그러


고도 곧 소녀보다 더 많은 꽃을 꺾었다.

Cô bé chạy về phía ngọn núi. Lần này cậu bé không còn chạy đằng sau nữa. Cậu ấy
cũng hái được nhiều hoa hơn cô gái.

“이게 들국화, 이게 싸리꽃, 이게 도라지꽃....”

“Đây là hoa cúc dại, đây là cỏ bốn lá, còn đây là hoa cát cánh...”

“도리지꽃이 이렇게 예쁜 줄은 몰랐네. 난 보랏빛이 좋아!...... 그런데, 이


양산 같이 생긴 노란 꽃이 뭐지?”

“Mình không biết là hoa cát cánh lại đẹp đến vậy! Mình cực thích màu
tím!...Nhưng mà, bông hoa giống hình cây dù này là hoa gì vậy?”

“마타리꽃.”

“Nó tên là Matari.” Nói xong cậu đưa nó cho cô bé.

소녀는 마타리꽃을 양산 받듯이 해 보인다. 약간 상기된 얼굴에 살포시


보조개를 떠올리며.

Cô bé trông giống như vừa nhận được một chiếc ô che nắng vậy. Làm cậu đột
nhiên nhớ đến cái má lúm đồng tiền của cô.

다시 소년은 꽃 한 옴큼을 꺾어 왔다. 싱싱한 꽃가지만 골라 소녀에게


건겐다.

Cậu ấy lại hái tiếp một nắm hoa. Chỉ chọn những bông tươi nhất, rực rỡ nhất đưa
cho cô bé.

그러나 소녀는

11 NHÓM 8 - 소나기
“하나도 버리지 마라.”

Bỗng nhiên, cô nói “Đừng vứt đi bông nào hết nhé!”

산마루께로 올라갔다.

Cuối cùng họ cũng đến được đỉnh núi.

맞은편 골짜기에 오순도순 초가집이 몇 모여 있었다.

Ở thung lũng đối diện là mấy căn nhà tranh nằm san sát nhau.

누가 말할 것도 아닌데, 바위에 나란히 걸터앉았다. 유달리 주위가 조용


해진 것 같았다. 따가운 가을 햇살만이 말라가는 풀 냄새를 퍼뜨리고 있
었다.

Không cần nói lời nào, họ yên lặng ngồi cạnh nhau trên tảng đá. Phong cảnh xung
quanh yên bình đến lạ. Chỉ cảm nhận được mùi cỏ khô phảng phất và ánh nắng ấm
áp của mùa thu.

--------------

"저건 또 무슨 꽃이지?"

"Hoa gì kia vậy?"

적잖이 비탈진 곳에 칡덩굴이 엉키어 꽃을 달고 있었다.

Bên kia sườn dốc, những cánh hoa cuối cùng của mùa thu bùng nở trên dây sắn leo
rối beng.

"꼭 등꽃 같네. 서울 우리 학교에 큰 등나무가 있었단다. 저 꽃을 보니까


등나무 밑에서 놀던 동무들 생각이 난다.”

"Có vẻ là hoa tử đằng. Trường mình ở Seoul có cây tử đằng bự lắm. Nhìn những
dây hoa này mình nhớ đến tụi bạn thường hay chơi chung dưới cây kia."

12 NHÓM 8 - 소나기
소녀가 조용히 일어나 비탈진 곳으로 간다. 꽃송이가 많이 달린 줄기를
잡고 끊기 시작한다. 좀처럼 끊어지지 않는다. 안간힘을 쓰다가 그만 미
끄러지고 만다. 칡덩굴을 그러쥐었다.

Cô bé đứng dậy đi tới sườn dốc. Nó nắm lấy một dây leo có nhiều hoa đang nở và
giật mạnh, nhưng không bứt ra được. Nó cố thêm tí nữa và bị trượt chân. Rồi nó
chộp được một dây leo.

소년이 놀라 달려갔다. 소녀가 손을 내밀었다. 손을 잡아 이끌어 올리며,


소년은 제가 꺾어다 줄 것을 잘못했다고 뉘우친다. 소녀의 오른쪽 무릎
에 핏방울이 내맺혔다. 소년은 저도 모르게 생채기에 입술을 가져다 대
고 빨기 시작했다. 그러다가, 무슨 생각을 했는지 홱 일어나 저 쪽으로
달려간다.

Cậu bé hoảng hồn chạy vội đến, cô bé chìa bàn tay ra. Cậu nắm lấy tay cô bé kéo
lên rồi xin lỗi vì đã không tự mình hái hoa cho nó. Có mấy giọt máu rỉ ra nơi đầu
gối phải cô bé. Cậu tự động áp miệng vào vết trầy và mút. Rồi, không hiểu nghĩ gì,
cậu đứng dậy bỏ đi.

좀 만에 숨이 차 돌아온 소년은

Lát sau trở lại, cậu hổn hển nói:

"이걸 바르면 낫는다."

"Đắp cái này vào sẽ đỡ hơn."

송진을 생채기에다 문질러 바르고는 그 달음으로 칡덩굴 있는 데로 내려


가, 꽃 많이 달린 몇 줄기를 이빨로 끊어 가지고 올라온다. 그리고는,

Cậu đắp chút nhựa thông vào vết trầy, rồi chạy đến chỗ dây nho, lấy răng cắn đứt
mấy dây có hoa, lấy đem về cho cô bé. Rồi nó nói:

"저기 송아지가 있다. 그리 가 보자."

13 NHÓM 8 - 소나기
"Đằng kia có con bê. Tới xem đi."

누렁송아지였다. 아직 코뚜레도 꿰지 않았다.

Con bê màu vàng nhạt, mũi chưa đeo chuông.

소년이 고삐를 바투 잡아 쥐고 등을 긁어 주는 체 훌쩍 올라탔다. 송아


지가 껑충거리며 돌아간다.

Cậu bé nắm chặt dây cương, vờ cào lên lưng con vật rồi nhảy vọt lên. Con bê nhảy
chồm lên và quay tròn.

소녀의 흰 얼굴이, 분홍 스웨터가, 남색 스커트가, 안고 있는 꽃과 함께


범벅이 된다. 모두가 하나의 큰 꽃묶음 같다. 어지럽다. 그러나, 내리지
않으리라. 자랑스러웠다. 이것만은 소녀가 흉내 내지 못할, 자기 혼자만
이 할 수 있는 일인 것이다.

Gương mặt tái xanh của cô bé, chiếc áo hồng, cái váy màu chàm, cộng thêm mấy
cái hoa nó cầm trong tay, tất cả xoay vòng mù mịt. Trông giống như cả một chùm
hoa lớn. Cậu bé thấy chóng mặt, nhưng cậu không muốn dừng lại. Cậu thấy hãnh
diện. Đây là chuyện cô bé không thể bắt chước. Chỉ mình cậu làm được thôi.

"너희, 예서 뭣들 하느냐?"

"Này, mấy đứa đang làm trò gì vậy?"

농부(農夫)하나가 억새풀 사이로 올라왔다.

Một bác nông dân đi tới từ đám cỏ cao.

송아지 등에서 뛰어내렸다. 어린 송아지를 타서 허리가 상하면 어쩌느냐


고 꾸지람을 들을 것만 같다.

14 NHÓM 8 - 소나기
Cậu bé nhảy xuống lưng con bê. Cậu chờ bị la. "Cháu cỡi trên lưng nó như thế lỡ
nó bị đau thì tính sao?"Thế nhưng bác nông dân râu dài chỉ liếc nhìn cô bé, cầm lấy
dây cột con bê, rồi nói:

"어서들 집으로 가거라. 소나기가 올라."

"Cháu nên về nhà nhanh đi. Sắp có mưa rào đấy".

참, 먹장구름 한 장이 머리 위에 와 있다. 갑자기 사면이 소란스러워진


것 같다. 바람이 우수수 소리를 내며 지나간다. 삽시간에 주위가 보랏빛
으로 변했다.

Thật vậy, mây đen kéo phủ đầy trên đầu chúng. Hai đứa chợt nghe tiếng động khắp
bốn phía chung quanh. Có tiếng gió xào xạc. Sau tia chớp mọi vật chuyển màu tối
sẫm.

산을 내려오는데, 떡갈나무 잎에서 빗방울 듣는 소리가 난다. 굵은 빗방


울이었다. 목덜미가 선뜻선뜻했다. 그러자, 대번에 눈앞을 가로막는 빗줄
기.

Khi hai đứa đi xuống đồi, tiếng mưa rơi đập vào lá cây sồi. Mưa to quá. Chúng thấy
lạnh sau gáy. Rồi trong thoáng chốc một màn mưa chặn đường phía trước.

비안개 속에 원두막이 보였다. 그리로 가 비를 그을 수밖에.

Chúng thoáng thấy một túp lều giữa đồng. Chúng có thể chạy đến núp ở đó.

그러나, 원두막은 기둥이 기울고 지붕도 갈래갈래 찢어져 있었다. 그런


대로 비가 덜 새는 곳을 가려 소녀를 들어서게 했다.

Nhưng mấy cái cột thì xiêu vẹo còn mái lá thì rách tơi tả. Cậu bé giúp cô bé bước
vào, tìm một chỗ mái lá ít rách nhất.

소녀의 입술이 파아랗게 질렸다. 어깨를 자꾸 떨었다.

15 NHÓM 8 - 소나기
Môi cô bé tím tái, nó run cả hai vai.

무명 겹저고리를 벗어 소녀의 어깨를 싸 주었다. 소녀는 비에 젖은 눈을


들어 한 번 쳐다보았을 뿐, 소년이 하는 대로 잠자코 있었다. 그리고는,
안고 온 꽃묶음 속에서 가지가 꺾이고 꽃이 일그러진 송이를 골라 발 밑
에 버린다. 소녀가 들어선 곳도 비가 새기 시작했다. 더 거기서 비를 그
을 수 없었다.

Cậu bé cởi chiếc áo khoác bông vải của mình đắp lên vai nó. Cô bé ngước lên nhìn
cậu, không nói gì, cứ để mặc cậu muốn làm gì thì làm. Sau đó, cậu lấy trong bó hoa
cô bé ôm trong tay những hoa nào bị gẫy cuống và cánh hoa nhàu nát bỏ xuống trải
dưới chân cô bé. Giờ thì mưa lại nhỏ giọt xuống chỗ nó đứng. Chúng không thể
núp ở đây được nữa rồi.

밖을 내다보던 소년이 무엇을 생각했는지 수수밭 쪽으로 달려간다. 세워


놓은 수숫단 속을 비집어 보더니, 옆의 수숫단을 날라다 덧세운다. 다시
속을 비집어 본다. 그리고는 이쪽을 향해 손짓을 한다.

Nhìn ra bên ngoài, cậu bé chợt nghĩ ra, rồi chạy về phía đám ruộng kê. Cậu tách rời
những đụn rơm bằng cách dựng những thân cây kê đứng lên, rồi gom thêm
một đống nữa bỏ thêm vào chỗ trước. Cậu tiếp tục tách các đụn rơm nữa, rồi vẫy
tay gọi cô bé đến.

수숫단 속은 비는 안 새었다. 그저 어둡고 좁은 게 안 됐다. 앞에 나앉은


소년은 그냥 비를 맞아야만 했다. 그런 소년의 어깨에서 김이 올랐다.

Mưa không rơi xuyên qua đụn thân kê. Chỉ là một khoảng không gian rất chật và
tối. Cậu bé ngồi bên cạnh đụn kê và để mưa thấm qua người. Hơi nước bốc lên từ
hai vai cậu.

소녀가 속삭이듯이, 이리 들어와 앉으라고 했다. 괜찮다고 했다. 소녀가


다시, 들어와 앉으라고 했다. 할 수 없이 뒷걸음질을 쳤다. 그 바람에, 소
녀가 안고 있는 꽃묶음이 망그러졌다. 그러나, 소녀는 상관없다고 생각했

16 NHÓM 8 - 소나기
다. 비에 젖은 소년의 몸 내음새가 확 코에 끼얹혀졌다. 그러나, 고개를
돌리지 않았다. 도리어 소년의 몸기운으로 해서 떨리던 몸이 적이 누그
러지는 느낌이었다.

Cô bé thì thầm bảo nó bước vào ngồi bên trong. Tớ ổn thôi, cậu bé đáp. Cô bé lại
nói nó đi vào ngồi bên trong. Cậu không thể làm gì khác hơn là bước thụt lùi đi vào.
Làm như thế, cậu vô tình đụng nát những bông hoa cô bé đang cầm. Nhưng cô bé
nghĩ là chuyện đó chẳng sao cả. Thân thể ướt át của cậu bé bốc lên mùi khó chịu
xông vào mũi cô bé, nhưng nó cũng không quay đầu đi. Ngược lại, nó cảm thấy
mình bớt run nhờ hơi ấm từ cơ thể cậu bé.

----------

소란하던 수숫잎 소리가 뚝 그쳤다. 밖이 멀개졌다.

Tiếng lá cây xào xạc đã dừng. Bên ngoài bầu trời đã sáng.

수숫단 속을 벗어 나왔다. 멀지 않은 앞쪽에 햇빛이 눈부시게 내리붓고


있었다. 도랑 있는 곳까지 와 보니, 엄청나게 물이 불어 있었다. 빛마저
제법 붉은 흙탕물이었다. 뛰어 건널 수가 없었다.

Hai đứa từ đụn kê bước ra. Trước mặt chúng, không xa lắm ánh mặt trời đã chiếu
chói lọi. Đi đến con đê, chúng thấy nước đã ngập hết cả rồi. Dòng nước đỏ ngầu,
đầy bùn tuôn chảy như suổi dưới ánh nắng. Chúng không thể nào nhảy qua con đê
được.

소년이 등을 돌려 댔다. 소녀가 순순히 업히었다. 걷어올린 소년의 잠방


이까지 물이 올라왔다. 소녀는 '어머나'소리를 지르며 소년의 목을 끌어안
았다.

Cậu bé đưa lưng về phía cô bé, cô bé ngoan ngoãn để cậu bé cõng đi. Nước ngập
đến chân quần xắn lên của cậu bé. Cô bé la lớn “ trời ơi” và ôm chặt lấy cổ của cậu
bé.

17 NHÓM 8 - 소나기
개울가에 다다르기 전에, 가을 하늘이 언제 그랬는가 싶게 구름 한 점
없이 쪽빛으로 개어 있었다.

Trước khi đi đến con suối, bầu trời mùa thu đã sáng lên, không còn đám mây nào
mà rất trong xanh, giống như trước đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

그 뒤로 소녀의 모습은 뵈지 않았다. 매일같이 개울가로 달려와 봐도 뵈


지 않았다.

Sau hôm đó cậu bé không còn nhìn thấy cô bé nữa. Ngày nào cậu cũng chạy ra bờ
suối nhưng cũng chẳng thấy bóng dáng cô bé đâu cả.

학교에서 쉬는 시간에 운동장을 살피기도 했다. 남 몰래 5 학년 여자 반


을 엿보기도 했다. 그러나, 뵈지 않았다.

Vào giờ ra chơi ở trường, cậu bé tìm quanh sân vận vận động. Cậu bé còn lén nhìn
vào phòng học lớp 5 của các bạn nữ sinh. Nhưng cũng không thấy cô bé.

그날도 소년은 주머니 속 흰 조약돌만 만지작거리며 개울가로 나왔다.


그랬더니, 이 쪽 개울둑에 소녀가 앉아 있는 게 아닌가.

Cũng vào ngày hôm đó, cậu lại ra bờ suối, trên tay xoa mãi những viên sỏi trắng ở
trong túi. Và thế là, cậu bé đã nhìn thấy cô bé đang ngồi bên bờ suối.

소년은 가슴부터 두근거렸다.

Cậu bé cảm thấy tim của mình đập rất nhanh.

"그 동안 앓았다."

“Tớ bị ốm mấy bữa nay”

어쩐지 소녀의 얼굴이 해쓱해져 있었다.

Quả thật gương mặt cô bé tái mét.

18 NHÓM 8 - 소나기
"그 날, 소나기 맞은 탓 아냐?"

“ Do bị ướt mưa hôm trước à?”

소녀가 가만히 고개를 끄덕이었다.

Cô bé lặng lẽ gật đầu.

"인제 다 났냐?"

“ Giờ đã đỡ hơn chưa”

"아직도……."

“Vẫn chưa”

"그럼, 누워 있어야지."

“Vậy thì phải nghỉ ngơi đi chứ”

"하도 갑갑해서 나왔다. ……참, 그 날 재밌었어……. 그런데그 날 어디서


이런 물이 들었는지 잘 지지 않는다."

“Tại tớ thấy bí bức quá... Hôm đó vui nhỉ... Nhưng có vết bẩn mà giặt mãi không
sạch”

소녀가 분홍 스웨터 앞자락을 내려다본다. 거기에 검붉은 진흙물 같은


게 들어 있었다

Nói rồi cô bé nhìn xuống phía cái áo len hồng. Có một vết bẩn trông như vết bùn đỏ
sẫm.

소녀가 가만히 보조개를 떠올리며, "그래 이게 무슨 물 같니?"

Cô bé im lặng để lộ má lúm đồng tiền rồi hỏi “ Có thể là vết bẩn gì nhỉ”

소년은 스웨터 앞자락만 바라보고 있었다.

19 NHÓM 8 - 소나기
Cậu bé nhìn chằm chằm vào vết bẩn thì cô bé nói

"내, 생각해 냈다. 그 날, 도랑을 건너면서 내가 업힌 일이 있지? 그 때,


네 등에서 옮은 물이다."

“Tớ nhớ ra rồi. Hôm nọ, đi qua con đê cậu cõng tớ đúng không? Vết này là từ lưng
cậu ra đấy”

소년은 얼굴이 확 달아오름을 느꼈다. 갈림길에서 소녀는

Cậu bé đỏ mặt. Đến chỗ ngã rẽ, cô bé nói tiếp

"저, 오늘 아침에 우리 집에서 대추를 땄다. 낼 제사 지내려고……."

“Hôm nay nhà tớ hái táo tàu chuẩn bị cho đám giỗ ông ngày mai...”

대추 한 줌을 내준다. 소년은 주춤한다.

Cô bé đưa cho cậu bé một nắm táo. Cậu bé ngập ngừng

"맛봐라. 우리 증조(曾祖)할아버지가 심었다는데, 아주 달다."

“ Cậu ăn thử đi. Là do ông cố của tớ trồng đấy, ngọt lắm”

소년은 두 손을 오그려 내밀며

Cậu bé đưa hai bàn tay ra

“"참, 알도 굵다!"

“Quả to nhỉ!”

"그리고 저, 우리 이번에 제사 지내고 나서 좀 있다. 집을 내주게 됐다."

“Mà lần này, sau khi làm đám giỗ xong, còn có chuyện khác nữa. Nhà tớ sẽ chuyển
đi”

20 NHÓM 8 - 소나기
소년은 소녀네가 이사해 오기 전에 벌써 어른들의 이야기를 들어서, 윤
초시 손자(孫子)가 서울서 사업에 실패해 가지고 고향에 돌아오지 않을
수 없게 되었다는 걸 알고 있었다. 그것이 이번에는 고향 집마저 남의
손에 넘기게 된 모양이었다.

Trước khi gia đình của cô bé dọn về đây, cậu bé đã nghe ba mẹ mình nói chuyện,
cậu biết công việc làm ăn của nhà họ Yun ở Seoul thất bại, họ không thể trở về nhà
được nữa. Có vẻ như ngôi nhà đó sắp sang tay cho chủ khác.

"왜 그런지 난 이사 가는 게 싫어졌다. 어른들이 하는 일이니 어쩔 수


없지만……."

“Vì nhiều lý do, tớ ghét dọn nhà lắm. Nhưng đây là quyết định của bố mẹ, tớ chẳng
làm gì được”

전에 없이, 소녀의 까만 눈에 쓸쓸한 빛이 떠돌았다.

Lần đầu tiên, đôi mắt đen của cô bé lộ vẻ buồn rầu.

소녀와 헤어져 돌아오는 길에, 소년은 혼잣속으로, 소녀가 이사를 간다는


말을 수없이 되뇌어 보았다. 무어 그리 안타까울 것도 서러울 것도 없었
다. 그렇건만, 소년은 지금 자기가 씹고 있는 대추알의 단맛을 모르고 있
었다.

Sau khi chia tay, trên đường về nhà, cậu bé cứ lặp đi lặp lại trong đầu không biết
bao nhiêu lần việc cô bé chuyển nhà. Cậu không cảm thấy luyến tiếc hay buồn
phiền. Tuy nhiên cậu không thấy vị ngọt của miếng táo đang nhai trong miệng nữa.

---------

이 날 밤, 소년은 몰래 덕쇠 할아버지네 호두밭으로 갔다.

Tối hôm đó, cậu bé đã lén đến cánh đồng cây óc chó của ông Deokso.

21 NHÓM 8 - 소나기
낯에 봐 두었던 나무로 올라갔다. 그리고, 봐 두었던 가지를 향해 작대기
를 내리쳤다. 호두송이 떨어지는 소리가 별나게 크게 들렸다. 가슴이 선
뜩했다. 그러나 다음 순간, 굵은 호두야 많이 떨어져라, 많이 떨어져라,
저도 모를 힘에 이끌려 마구 작대기를 내리 치는 것이었다.

Cậu trèo lên cái cây mà cậu đã thấy lúc sáng. Sau đó, cậu đập cây gậy dài hướng về
phía cành cây mà cậu nhìn thấy. Cậu nghe thấy âm thanh lớn một cách kì lạ của quả
óc chó rơi xuống. Trong lòng cậu cảm thấy vô cùng sợ hãi. Tuy nhiên khoảnh khắc
sau đó, không biết nhờ sức mạnh nào đó mà cậu đã đập cây gậy xuống một cách dữ
dội để rồi những quả óc chó to đã rơi xuống rất nhiều.

돌아오는 길에는 열 이틀 달이 지우는 그늘만 골라 디뎠다. 그늘의 고마


움을 처음 느꼈다.

Trên đường trở về, cậu đi theo bóng của ánh trăng gần tròn soi xuống. Đó là lần
đầu tiên cậu cảm thấy biết ơn những cái bóng đến như vậy.

불룩한 주머니를 어루만졌다. 호두송이를 맨손으로 깠다가는 옴이 오르


기 쉽다는 말 같은 건 아무렇지도 않았다. 그저 근동에서 제일 가는 이
덕쇠 할아버지네 호두를 어서 소녀에게 맛보여야 한다는 생각만이 앞섰
다.

Cậu vuốt ve chiếc túi căng phồng. Cậu không quan tâm đến câu nói rằng bệnh ngứa
có thể dễ dàng lan ra khi cắt chùm quả óc chó bằng tay không. Suy nghĩ duy nhất
trước mắt cậu đó là cho cô gái nếm hương vị quả óc chó của ông nội Deokso – loại
ngon nhất ở Cận Đông.

그러다, 아차 하는 생각이 들었다. 소녀더러 병이 좀 낫거들랑 이사 가기


전에 한 번 개울가로 나와 달라는 말을 못해 둔 것이었다. 바보 같은것,
바보 같은것.

22 NHÓM 8 - 소나기
Vào lúc đó, một ý nghĩ bật ra trong đầu cậu. Đó là cậu đã không thể nói với cô gái
rằng hãy đi ra bờ suối lần cuối trước khi cô ấy khỏi bệnh và chuyển đi. Đúng là đồ
ngốc! Đồ ngốc mà!

이튿날, 소년이 학교에서 돌아오니, 아버지가 나들이옷으로 갈아입고 닭


한 마리를 안고 있었다.

어디 가시느냐고 물었다.

Ngày hôm sau, khi cậu đi học về, cậu nhìn thấy cha mình đã thay một bộ quần áo
để ra ngoài và đang ôm một con gà.

Cậu đã hỏi cha mình đi đâu.

그 말에도 대꾸도 없이, 아버지는 안고 있는 닭의 무게를 겨냥해 보면서,

"이만하면 될까?"어머니가 망태기를 내주며,

"벌써 며칠째 '걀걀'하고 알 날 자리를 보던데요. 크진 않아도살은 쪘을


거여요."소년이 이번에는 어머니한테 아버지가 어디 가시느냐고 물어 보
았다.

Không thèm trả lời, người cha cân con gà đang ôm trên tay

“Vậy được chưa nhỉ?”

Người mẹ đưa cho cậu một cái túi lưới

“Nó đã loanh quanh tìm chỗ đẻ trứng mấy ngày nay rồi. Có thể trông nó không to
lắm, nhưng chắc là mập thôi”

Lần này cậu bé thử hỏi mẹ xem cha đi đâu.

"저, 서당골 윤 초시 댁에 가신다. 제삿상에라도 놓으시라고……."

23 NHÓM 8 - 소나기
“Chà, ông ấy sẽ đến nhà của Yun Choshi ở Seodanggol. Ông ấy đặt nó làm lễ vật
trên bàn thờ...”

"그럼, 큰 놈으로 하나 가져가지. 저 얼룩수탉으로……."

“Nếu vậy, cha nên lấy một con thật lớn. Con gà trống đằng kia đó....”

이 말에, 아버지는 허허 웃고 나서,

"임마, 그래도 이게 실속이 있다."

Nghe lời nói đó, cha cậu đã cười thành tiếng và nói rằng:

“Cái thằng này! Được đấy”

소년은 공연히 열적어, 책보를 집어던지고는 외양간으로가, 쇠잔등을 한


번 철썩 갈겼다. 쇠파리라도 잡는 체.

개울물은 날로 여물어 갔다.

소년은 갈림길에서 아래쪽으로 가 보았다. 갈밭머리에서 바라보는 서당


골 마을은 쪽빛 하늘 아래 한결 가까워 보였다.

Cậu bé vô cùng hăng hái, cậu vứt bao sách của mình xuống rồi đi ra ngoài. Cậu
chạy lại vuốt ve sống mũi con bò mà vờ như mình đang bắt con ruồi trâu vậy.

Nước suối càng ngày càng chảy đọng lại.

Cậu bé nhìn xuống phía dưới ngã ba đường. Ngôi làng Seodanggol nhìn từ đầu
cánh đồng trông như nổi bật hơn dưới bầu trời màu chàm.

어른들의 말이, 내일 소녀네가 양평읍으로 이사 간다는 것이었다. 거기


가서는 조그마한 가겟방을 보게 되리라는 것이었다.

Người lớn nói rằng gia đình cô gái sẽ chuyển đến thị trấn Yangpyeong vào ngày
mai. Ở đó họ sẽ mở một cửa hàng nhỏ.

24 NHÓM 8 - 소나기
소년은 저도 모르게 주머니 속 호두알을 만지작거리며, 한 손으로는 수
없이 갈꽃을 휘어 꺾고 있었다.

Cậu bé vừa xoa quả óc chó ở trong túi, vừa dùng một tay bẻ gãy một loạt bông cỏ
lau trong vô thức.

그 날 밤, 소년은 자리에 누워서도 같은 생각뿐이었다. 내일 소녀네가 이


사하는 걸 가 보나 어쩌나. 가면 소녀를 보게 될까 어떨까.

Đêm hôm đó, cậu bé nằm xuỗng và trong đầu chỉ có một suy nghĩ. Ngày mai cô gái
đó chuyển nhà rồi, phải làm sao đây? Nếu đi gặp cô gái thì như thế nào nhỉ?

그러다가 까무룩 잠이 들었는가 하는데,

"허, 참 세상일도……."

마을 갔던 아버지가 언제 돌아왔는지,

"윤 초시 댁도 말이 아니야, 그 많던 전답을 다 팔아 버리고, 대대로 살


아오던 집마저 남의 손에 넘기더니, 또 악상까지 당하는걸 보면……."

Sau đó cậu bé đã ngủ thiếp đi.

“Haizz.. chuyện ở đời này cũng thật là....”

Người cha đã từ ngôi làng trở về lúc nào không biết.

“Nhà của Choshi-Yun không còn gì nữa, họ đã bán hết tất cả ruộng, ngay cả ngôi
nhà họ đã sống qua nhiều thế hệ cũng được giao cho người khác và thậm chí còn tệ
hơn nữa...”

남폿불 밑에서 바느질감을 안고 있던 어머니가,

"증손(曾孫)이라곤 계집애 그 애 하나뿐이었지요?"

Mẹ cậu bé đang ngồi khâu vá dưới ngọn đèn dầu nói rằng :

25 NHÓM 8 - 소나기
“Chỉ có duy nhất một đứa cháu cố là con gái phải không?”

"그렇지, 사내 애 둘 있던 건 어려서 잃어버리고……."

“Phải, có hai cậu con trai nhưng họ đã mất cả hai khi chúng còn nhỏ...”

"어쩌면 그렇게 자식복이 없을까."

“Sao con cái của gia đình đó lại bất hạnh đến như vậy”

"글쎄 말이지. 이번 앤 꽤 여러 날 앓는 걸 약도 변변히 못써 봤다더군.


지금 같아서 윤 초시네도 대가 끊긴 셈이지.……그런데참, 이번 계집앤
어린 것이 여간 잔망스럽지가 않아. 글쎄, 죽기전에 이런 말을 했다지 않
아? 자기가 죽거든 자기 입던 옷을 꼭그대로 입혀서 묻어 달라고……."
(끝)

“Thì đó. Lần này cô bé đó đã bị ốm vài ngày rồi và họ thậm chí không thể mua
được thuốc. Bây giờ thế hệ nhà họ Yun đã bị cắt đứt...... Nhưng cô gái nhỏ này
không hèn kém chút nào. Xem nào, không phải cô bé đã nói điều này trước khi chết
sao? Khi chết, cô bé muốn họ chôn cô bé trong bộ quần áo mà cô bé hay mặc hàng
ngày...”

26 NHÓM 8 - 소나기
TÓM TẮT

Khi đọc tác phẩm “Mưa rào” (소나기) của tác giả Hwang Sun Won (황순
원) người đọc có thể cảm nhận được tình yêu ngây thơ thuần khiết của một cậu bé
miền quê và cô bé mới chuyển tới từ Seoul. Tác giả đã cho ta người đọc hình dung
được khung cảnh hoàng hôn của một buổi chiều mùa thu với những tia nắng chiếu
trên đồng lúa chín vàng. Câu chuyện trở nên bình yên và nhẹ nhàng theo từng bước
chân của nhân vật khi chơi đùa trong khung cảnh bình yên ấy. Những rung cảm đầu
đời của tình yêu tuổi trẻ từ việc chờ đợi để nhìn thấy cô bé. Còn cô bé thì luôn trân
trọng giữ gìn những bông hoa mà cậu bé tặng. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy cho
người đọc cảm giác được quay lại những tháng ngày ngây thơ khi bé. Khi tác giả đã
mang đến cho người đọc những cảm giác nhẹ nhàng, bình yên thì cuối cùng tác giả
đã đẩy cảm xúc lên cao trào bằng cơn mưa dông kéo đến, tác giả đem đến cho
người đọc cảm giác tiếc nuối, ngỡ ngàng và nỗi buồn man mác. Sau nhiều ngày chờ
đợi thì cậu bé cũng đã gặp được cô bé, cứ ngỡ cả hai sẽ cùng nhau vui vẻ chơi đùa
như hôm ấy, thế nhưng cô bé lại mang một tin buồn cho cậu bé rằng cô sẽ chuyển
nhà đến nơi khác. Vào ngày cô bé sắp đi thì cậu bé đã chuẩn bị quà và rất mong đợi,
hồi hộp khi đến gặp cô bé. Nhưng cậu lại nhận được tin rằng cô bé đã mất, người
mà cậu ngày đêm mong để được gặp mặt thì đã không còn. Khi đó tác giả đã không
miêu tả cảm xúc của cậu bé mà để lại cảm giác ấy cho người đọc tự cảm nhận nỗi
buồn, nỗi mất mát ấy. Chính người đọc sẽ tự cảm nhận được nỗi niềm ấy. Nỗi buồn
không thể tả được, khi không thể gặp được người mà mình mong đợi.

27 NHÓM 8 - 소나기
CẢM NHẬN VỀ TÁC PHẨM

Tác phẩm "Mưa rà” (소나기) mang đến cho người đọc một câu chuyện về
tình yêu thuần khiết của những rung động đầu đời gắn liền với hình ảnh làng quê
quen thuộc, bình dị, trữ tình. Những chi tiết nhỏ nhưng đầy ngụ ý tinh tế thể hiện sự
trân trọng tình cảm từ phía đối phương dành cho nhau, những bông hoa dại không
nỡ vứt đi, những hạt óc chó khó khăn mới hái được. Cảm xúc rung động đầu đời có
chút gì ngây thơ, có những niềm vui giản dị bình thường. Bên cạnh đó, tác phẩm
còn mang đến đọc giả một nỗi buồn man mác bởi sự ra đi đột ngột của cô bé và tâm
ý chưa từng thổ lộ hay đúng hơn là chưa kịp nhận thức của cả hai đứa trẻ. Một nét
thoáng qua về mong manh phận người đưa đến cái kết ngậm ngùi mà không bi luỵ.

28 NHÓM 8 - 소나기

You might also like