You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ




BÁO CÁO TỐT NGHIỆP


Đề tài:
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Huynh


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cao Kỳ
Lớp: D19LUHC01
MSSV: 1923801010055

Năm học 2022-2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ


BÁO CÁO TỐT NGHIỆP


Đề tài:
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Huynh


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cao Kỳ
Lớp: D19LUHC01
MSSV: 1923801010055

Năm học 2022-2023


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của định tội danh
1.1.1 Khái niệm của định tội danh
1.1.2 Ý nghĩa của định tội danh
1.2 Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
1.2.2. Nội dung của định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3 Cơ sở pháp lý định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.2.Dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.3.Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG – NHỮNG HẠN CHẾ,
VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.1 Thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình
Dương
2.1.1.Khái quát tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Bình Dương
2.1.2. Kết quả định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành cơ
bản trên địa bàn tỉnh Bình Dương
2.1.3. Thực tiễn định tội danh đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu
thành tăng nặng
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương
2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI
DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BÌNH DƯƠNG
3.1 Hoàn thiện pháp luật
3.2 Ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về
tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.3 Nâng cao năng lực chủ thể định tội danh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự


BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
ĐTD: Định tội danh
LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Thị Kim Chi (2017) Định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
2. Ngô Văn Dinh (2016) Định tội danh tội giết người theo pháp
luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn thành phố
Đà Nẵng), Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự sửa đổi 2017, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017) Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm quyển 1, NXB Hồng
Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương (2018 - 2022) Báo
cáo tổng kết công tác năm 2018 - 2022, Bình Dương.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Định tội danh cùng với những vấn đề lý luận và thực tiễn luôn được đánh giá cao về
tầm quan trọng trong khoa học Hình sự Việt Nam bởi vì các lý do như: việc định tội
danh của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền xác định tội danh thật sự có
ảnh hưởng rất nhiều tới việc giải quyết vụ án hình sự một cách có căn cứ pháp luật,
công bằng và đúng pháp luật về trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trong
thực tiễn cho thấy, nếu các vụ án hình sự khi các cơ quan tư pháp chính xác trong
việc ĐTD, xác định đúng và phù hợp trách nhiệm hình sự của người phạm tội
không chỉ làm cho sự hiệu quả của pháp luật cũng như uy tín, sự công bằng của Tòa
án và các cơ quan tư pháp khác trước toàn thể nhân dân, Đảng và Nhà nước được
nâng cao một cách rõ rệt mà hình phạt và trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với
người phạm tội đúng và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội của người đó đối với xã hội, điều này góp phần đảm bảo tính thuyết phục đối với
pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước ta. Ngược lại, trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, vì các lý do như: vì các quy phạm pháp luật hình sự được ghi nhận trong luật
hiện hành thường là các quy phạm dưới dạng trừu tượng nhưng các tình huống diễn
ra trong thực tế khách quan của đời sống xã hội thì lại rất phong phú và đa dạng nên
không phải lúc nào các nhà làm luật cũng có thể lường trước được tất cả mọi tình
huống có thể xảy ra, cho nên sẽ có một vài trường hợp các cơ quan tư pháp hình sự
không chính xác hoàn toàn trong việc ĐTD. Do đó, các nhà khoa học, các cán bộ
nghiên cứu và cán bộ thực tiễn của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án,...
luôn xem những vấn đề lý luận về ĐTD và những vấn đề thực tiễn áp dụng các quy
phạm pháp luật Hình sự về việc ĐTD là những vấn đề quan trọng, phức tạp, đa
dạng và rất đáng được tranh luận bằng những quan điểm và ý kiến khác nhau.
Dựa trên thực tiễn giải quyết các VAHS cho thấy, hầu như những VAHS oan sai, áp
dụng không đúng các quy phạm pháp luật Hình sự, đánh giá các yếu tố quan trọng
trong việc giải quyết VAHS như: chứng cứ, các dấu hiệu phạm tội một cách chủ
quan, phiến diện dẫn đến không áp dụng đúng trách nhiệm hình sự cho người phạm
tội. Do đó, theo quan điểm của tôi, việc ĐTD không chỉ là việc xác định tên của tội
phạm theo quy định của pháp luật hình sự mà còn là một việc rất quan trọng, là một
gian đoạn khó trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự, nhất là đối với các tội
phạm mà các dấu hiệu cấu thành tội phạm đó rất dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm
khác hoặc các tội phạm gặp nhiều khó khăn trong việc xác định có hay không có
hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ đơn thuần là hành vi vi phạm dân sự, kinh tế Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Vì thế, để việc
ĐTD đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015
này được thực hiện một cách chính xác là một vấn đề không hề đơn giản do tội
phạm này rất dễ bị nhầm lẫn với tội phạm khác hoặc khó khăn trong việc xác định
có hay không hành vi phạm tội nhất là ở những địa phương đang trên đà phát triển
về kinh tế như Tỉnh Bình Dương.
Trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2022, diễn biến tình hình tội phạm về xâm
phạm sở hữu nói chung và diễn biến tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Bình Dương nói riêng có những diễn biến vô cùng phức tạp về tính chất
nghiêm trọng của hành vi vi phạm với mức độ hậu quả của hành vi không hề nhỏ,
gây ra sự phẫn nộ và bất bình trong quần chúng nhân dân. Thực tiễn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản những năm vừa qua cho thấy
về cơ bản, việc ĐTD được thực hiện tương đối đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có
một số trường hợp giữa CQĐT, VKSND, TAND trong quá trình giải quyết vụ án có
nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề ĐTD dẫn đến có nhiều vụ án phải trả hồ sơ
nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau.
Thực tế có xảy ra trường hợp Tòa án quyết định một tội danh đối với bị cáo mà tội
danh đó lại khác với tội danh mà VKS đã truy tố hoặc thậm chí có trường hợp, VKS
đã truy tố bị cáo bằng một tội danh nhưng Tòa án lại tuyên bị cáo không phạm tội.
Thực trạng này xảy ra trên thực tế bất nguồn từ các nguyên nhân khác nhau nhưng
suy cho cùng là đã có xảy ra một số các trường hợp vì các lí do khác nhau mà áp
dụng không đúng các quy phạm pháp luật Hình sự hay chưa nhận thức đầy đủ,
chính xác về tính khách quan của hành vi phạm tội, nhận thức chưa đúng về quy
định của BLHS nên dẫn đến việc ĐTD còn chưa chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn
còn tồn tại ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc còn có sự nhầm lẫn giữa tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm giảm hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, uy tín của các cơ quan
tiến hành tố tụng nói riêng. Chính vì thế, tôi chọn đề tài “ Pháp luật Hình sự Việt
Nam về định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương”
cho bài Báo cáo tốt nghiệp của mình với hy vọng đóng góp làm rõ các cơ sở lý luận
và cơ sở thực tiễn cho quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tội danh Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo liên quan đến đề tài mà
tôi đã chọn, bao gồm:
Lí luận chung về định tội danh của tác giả Võ Khánh Vinh năm 2013, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam của tác giả Lê
Văn Đệ năm 2004, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1 của Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2007, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Định tội danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập) của tác giả Lê Cảm – Trịnh
Quốc Toản năm 2015, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phương pháp định tội danh với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm
2017 của tác giả Đoàn Tấn Minh – Nguyễn Ngọc Điệp năm 2018, Nxb Lao động,
Hà Nội.
Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Hoàng Thị Kim Chi năm 2017,
Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Tập 2 của tác giả Đinh Văn Quế năm 2003,
Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần các tội
phạm của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số
liệu từ địa bàn thành phố Đà Nẵng của tác giả Ngô Văn Định năm 2015, Luận văn
thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên
cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn tỉnh Đăk Lăk) của tác giả Trương Thị Đông năm
2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đều là những công trình có giá trị về
mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhất định. Tuy nhiên nội dung các công trình trên
mới chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội
phạm nói chung, về vấn đề định tội danh nói riêng. Vì vậy, theo quan điểm của tôi,
mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài khác nhau đề cập đến vấn
đề về xác định tội phạm nói chung, việc ĐTD nói riêng. Mặt khác, chưa có công
trình, đề tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện gắn với địa bàn cụ thể như tỉnh Bình Dương.
Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu nêu trên là một trong những
nguồn tài liệu cơ sở lý luận quan trọng mà tôi có thể vận dụng, kế thừa và bổ sung
để hoàn thiện cho đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về xử lý tội phạm này trong tương lai dựa trên các nghiên cứu về lý luận của Tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các vấn đề lý luận về việc ĐTD cùng với những phân
tích thực tiễn việc ĐTD về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua các số liệu thống kê
cụ thể cùng với những vụ án thực tiễn xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong
gian đoạn 2018 – 2022.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã được xác định như trên, để thực hiện đề tài cần thiết
phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung
và định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng
của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được
quy định trong Bộ luật hình sự.
- Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân
của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018 - 2022.

- Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh Tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài nghiên cứu chính là các vấn đề lý luận về định tội danh, các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực
tiễn định tội danh trong các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn
tỉnh Bình Dương.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu,phân tích và đánh giá thực tiễn hoạt động định tội danh Tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản được dựa trên cơ sở là tổng các số liệu thực tế về tình hình
giải quyết các vụ án về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàng tỉnh
Bình Dương từ năm 2018-2022, và từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, nhiều phương pháp khác nhau
như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê đã được kết hợp lại với nhau để cùng
làm rõ những nội dung của các vấn đề, ngoài ra góp phần không ít đưa ra các giải
pháp nhằm cải thiện và duy trì sự hiệu quả trong hoạt động định tội danh đối với
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về ĐTD Tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài. Bên cạnh những giá trị về mặt lý luận, trên thực tiễn kết quả
nghiên cứu của đề tài còn có thể sẽ giúp ích một phần để cho việc vận dụng trong
quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan tới việc ĐTD Tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài bao
gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật Hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Dương – Những hạn chế, vướng măc trong thực tiễn định tội danh Tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của định tội danh
1.1.1 Khái niệm của định tội danh
Đối với những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động tố tụng
hình sự thì vấn đề định tội danh luôn là một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức
quan trọng và luôn được quan tâm hàng đầu do có tính chất then chốt trong việc áp
dụng đúng pháp luật Hình sự, ra bản án đúng pháp luật, qua đó người phạm tội mới
chịu nhận tội và mới đạt được yêu cầu của việc xét xử là xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Trên thực tế diễn ra phức tạp và đa dạng, quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật
Hình sự được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn định tội danh, giai đoạn định khung
hình phạt và giai đoạn quyết định hình phạt. Trong đó, giai đoạn định tội danh đóng
vai trò then chốt nhất bởi lí do là việc định tội danh sẽ được tiến hành trong suốt tất
cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
đến cả giai đoạn thi hành án.
ĐTD là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm
tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác, ĐTD là việc
xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm của tội nào trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS.
Do đó có thể đưa ra khái niệm ĐTD như sau: Định tội danh là việc xác định và ghi
nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội
cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong
BLHS
1.1.2. Ý nghĩa của định tội danh
* Đối với hoạt động định tội danh đúng
- Thứ nhất, các nguyên tắc được cải tiến, tiến bộ được thừa nhận trong hệ thống
pháp luật Hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật Nhà nước pháp quyền nói chung
như: nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật, nguyên tắc pháp chế sẽ được đảm bảo thực hiện hiệu quả.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và nâng cao
uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vì khi
ĐTD đúng sẽ thể hiện rằng hoạt động ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức trách nhiệm
trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm từ đó nâng cao uy tín, chất lượng
hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng như hỗ trợ cho
việc củng cố và tăng cường pháp chế XHCN.
- Thứ ba, ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm
pháp luật TTHS Việt Nam về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử cũng như
một số hoạt động tố tụng khác qua đó góp phần hữu hiệu cho việc đảm bảo, bảo vệ
các quyền tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Thứ tư, khi việc ĐTD được thực hiện đúng sẽ dẫn đến quyết định hình phạt đúng,
điều này làm cơ sở vững chắc cho việc ban hành một bản án đúng và phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội. Từ đó, làm tiền đề
cho sự nhận thức của người phạm tội cũng như những người tham gia xét xử nói
riêng và xã hội nói chung được đầy đủ, chính xác về tính nghiêm minh, khách quan
và công bằng của pháp luật, điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tuân thủ, chấp
hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật cho nhân dân.
Cuối cùng, ĐTD đúng sẽ đảm bảo hiệu quả hoạt động trấn áp tội phạm trên thực tế.
* Đối với hoạt động ĐTD sai
Ngoài những lợi ích to lớn khi ĐTD đúng mang lại, ngược lại khi ĐTD sai cũng sẽ
dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có
căn cứ của pháp luật, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm
phạm thô bạo danh dự nhân phẩm cũng như các quyền tự do dân chủ của công
dân - là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà nước.
ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, làm giảm
lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với pháp luật XHCN từ
đó ảnh hưởng đến hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Những vụ án oan sai xảy ra trên thực tế phần lớn là do ĐTD chưa chính xác mà
nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện, thiếu thận
trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam hoặc do suy diễn chủ quan của những người
tiến hành tố tụng [1, tr 11 – 12].
1.2 Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản
* Khái niệm tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
ĐTD là một quá trình xem xét, đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội xảy ra
trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS của các
chủ thể có thẩm quyền với mục đích quyết định hình phạt phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với xã hội. Vì thế, có thể nói rằng,
ĐTD Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quá trình các chủ thể có thẩm quyền xem xét,
đánh giá và sử dụng các quy định của PLHS và PLTTHS xác định hành vi của
người phạm tội có thỏa mãn các yếu tố cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 174 BLHS hay không, từ đó quyết định mức hình phạt
tương ứng phù hợp với mức độ, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội.
Như vậy, dựa trên cơ sở quy định tại Điều 8 BLHS, Điều 174 BLHS và các quy
định của BLTTHS có thể hiểu định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
ĐTD đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định của các chủ thể
có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ để xác định
hành vi chiếm đoạt tài sản, có hay không có sự phù hợp giữa hành vi đã xảy ra với
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại
Điều 174 Bộ luật Hình sự để phán quyết làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
* Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ định nghĩa trên, tôi có thể đưa ra các đặc điểm của ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản như sau:
- Thứ nhất, ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động nhận thức mang tính
logic nhằm xác định hành vi chiếm đoạt tài sản có hay không có sự phù hợp giữa
hành vi đã được thực hiện đó và các dấu hiệu của Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 174 BLHS. Tính logic của quá trình định tội danh Tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện ở quá trình tiến hành các hoạt động cần thiết
trước khi đưa ra kết luận về tội danh của người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của các cơ quan có thẩm quyền, đó là quá trình nhận thức, so sánh, đối
chiếu sự tương đồng giữa hành vi phạm tội gây nguy hiểm với xã hội của người
phạm tội với các yếu tố cấu thành tội phạm của Điều 174 BLHS để tìm ra điểm
giống nhau. Từ đó rút ra kết luận rằng hành vi đó có phải hay không phải tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bắt
buộc phải dựa trên các quy phạm pháp luật của BLHS và các quy phạm pháp luật
trình tự, thủ tục của BLTTHS. Quá trình hoạt động này được các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng, cụ thể hóa các quy phạm pháp luật Hình sự vào chính đời sống
hàng ngày. Việc xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội đã xảy ra thực tế với
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại
Điều 174 BLHS phải được dựa trên các cơ sở của quá trình xác định đúng đắn, đầy
đủ các tài liệu đã thu thập được, các chứng cứ và các tình tiết của hành vi phạm tội
đã xảy ra.
Vì thế, tôi cho rằng đây là một quá trình rất khó khăn, phức tạp và dễ gây nhầm lẫn
với các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu khác dẫn đến sự sai sót trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Do đó, để thực hiện được quá trình này có hiệu quả các cơ
quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ những quy định của BLHS và BLTTHS, bên
cạnh đó các cơ quan này cũng có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật
cho phép để xác định chính xác hành vi phạm tội Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đó là cơ sở để đưa ra mức hình phạt hợp lý nhất đối với người phạm tội.
- Thứ ba, việc ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự, vì thế, hoạt động này nhất định phải đảm bảo tính chính xác, tính khách
quan tuyệt đối. Mọi hành vi ĐTD nhầm lẫn và sai sót cho dù là nhỏ nhất cũng có
thể dẫn tới hậu quả lớn cho cá nhân, gia đình và xã hội, do đó hoạt động này cần
được tiến hành đúng theo các trình tự, thủ tục là: Xác định hành vi nguy hiểm cho
xã hội xảy ra trên thực tế. Tiếp đến là nhận thức, xem xét và đánh giá các tình tiết
cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện sau đó đưa ra lựa chọn
đúng về các điều khoản trong Phần các tội phạm của BLHS quy định phải chịu
trách nhiệm hình sự đối với tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi so sánh, đối
chiếu các dấu hiệu cấu thành của tội phạm này với các tình tiết cụ thể của hành vi
phạm tội đã thực hiện. Cuối cùng là ra văn bản áp dụng pháp luật, trong đó đưa ra
kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi gian dối
và hành vi chiếm đoạt đã được thực hiện trong thực tế khách quan với cấu thành tội
phạm cụ thể tại Điều 174 BLHS.

- Thứ tư, hoạt động ĐTD phải là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan tiến
hành tố tụng bao gồm: CQĐT, VKS và Tòa án mà không thể được tiến hành bởi bất
kỳ chủ thể nào khác. Do đó, đối tượng bị áp dụng cũng không thể lựa chọn tội danh
cho mình mà chỉ có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp
đặt trên cơ sở và theo quy định của pháp luật. Vì vậy, có thể nói ĐTD đối với Tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng [1, tr 14 – 15].
* Ý nghĩa của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Ý nghĩa về phương diện pháp lý: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là một hoạt động mang tính pháp lý to lớn, thể hiện như sau:
Thứ nhất, muốn áp dụng các quy định của PLHS và PLTTHS vào thực tiễn cuộc
sống, thể hiện sự đánh giá khách quan, công bằng của pháp luật đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế thì việc xác định đúng hành vi của một
người có phải là hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay không ? Có
thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 174 BLHS hay không ? Chính là cơ sở và
tiền rất quan trọng để thực hiện điều đó.
Thứ hai, muốn áp dụng đúng các thủ tục tố tụng hình sự như thẩm quyền điều tra,
truy tố, xét xử; áp dụng biện pháp tạm giam; thực hiện đúng các loại thời hạn tố
tụng; ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan, bắt sai người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, tránh tình trạng tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang
vật…thì việc ĐTD nói chung và việc ĐTD đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nói riêng được thực hiện chính xác là cơ sở quan trọng để áp dụng các thủ tục tố
tụng trên. Ngược lại, nếu ĐTD sai sẽ làm giảm tính hiệu quả của công tác đấu tranh
với loại tội phạm này, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và
các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, định tội danh đúng với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tiền đề cho việc
quyết định hình phạt đúng, là tiền đề cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác,
phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo cũng
như những người tham dự phiên tòa và dư luận xã hội nhận thức đầy đủ tính
nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật. Từ đó nâng cao hiệu quả tuân
thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả tuyên truyền giáo dục về
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho nhân dân. Trong chương các tội xâm phạm sở
hữu thì Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản rất dễ bị nhầm lẫn, tức là dễ bị ĐTD sai so
với các loại tội phạm khác. Do đó, định tội danh đúng với tội phạm này là cơ sở để
Tòa án căn cứ vào các yếu tố khác nhau để quyết định hình phạt một cách nghiêm
minh và phù hợp [2, tr. 11- 12].
- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Bên cạnh ý nghĩa pháp lý thì hoạt động
định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu
sắc, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản của công dân là quyền con người được pháp luật
quốc gia và quốc tế ghi nhận, do đó, việc quy định Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong BLHS nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế của quyền này, ngoài
ra, ĐTD đúng đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ góp phần vào việc cụ thể
hóa các cam kết quốc tế của nhà nước Việt Nam là thành viên, nhất là các cam kết
liên quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Hai là, những đường lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của Hiến pháp, các quy
định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS sẽ được thể chế hóa thông
qua việc ĐTD đúng đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngoài ra còn góp phần
củng cố lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vào công lý,
sự chí công, vô tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nước
trên thế giới, của các nhà đầu tư nước ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của hệ
thống pháp luật Việt Nam góp phần nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường
quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Nội dung của định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế xảy ra ở tất cả các lĩnh vực với thủ đoạn
ngày càng đa dạng và tinh vi xảo quyệt. Muốn chứng minh có hay không Tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra là vấn đề không hề đơn giản đối với cơ quan tiến
hành tố tụng. Vì thế, hoạt động ĐTD đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản càng
cần thiết phải được tiến hành một cách chính xác, thận trọng, khách quan và khoa
học trong từng giai đoạn với những nội dung cụ thể sau:
- Bước thứ nhất là: Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự
thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đúng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Trong thực tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt động định tội danh của các
chủ thể có thẩm quyền như Điều tra viên trực tiếp thụ lý điều tra vụ án, Kiểm sát
viên được phân công giám sát vụ án và Thẩm phán xét xử vụ án. Tiếp theo là trên
cơ sở các tình tiết vụ án đã được làm rõ, các chủ thể có thẩm quyền phải phân tích
một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình tiết
có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án cũng như đối với định tội danh Tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
- Bước thứ hai là: Nghiên cứu, nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật hình
sự nói chung như hiệu lực áp dụng, cơ sở trách nhiệm hình sự, các khái niệm về lỗi,
các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng; phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với các tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế với các tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt khác gần giống với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản …
- Bước thứ ba là: So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy
định của Điều 174 BLHS để xác định sự tương đồng. Các cơ quan tiến hành tố tụng
phải đối chiếu từng tình tiết của vụ án đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm
tương ứng của Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS.
Sau đó, phải so sánh, đối chiếu tổng thể tất cả các tình tiết của vụ án với tổng thể
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tiếp theo phải
phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ án với các dấu hiệu
pháp lý được mô tả trong Điều 174 BLHS. Trường hợp có căn cứ khẳng định hành
vi khách quan của vụ án xảy ra phù hợp với những quy định tại Điều 174 BLHS là
người phạm tội có hành vi lừa dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người
khác… thì kết luận hành vi đó phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp
không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra, đối chiếu lại. Sau khi xác định chắc chắn
không có sự đồng nhất với cấu thành tội phạm Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì có
thể chuyển sang kiểm tra các quy phạm PLHS khác để kết luận có hay không có tội
phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra không thuộc trường hợp Tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản thì cấu thành tội phạm nào khác.
- Bước thứ tư là: Đưa ra kết luận về tội danh và ra quyết định áp dụng pháp luật đối
với người đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự. Lúc này việc
so sánh hành vi phạm tội với quy định tại Điều 174 tiếp tục được thực hiện để xác
định cấu thành tội phạm là cơ bản hay cấu thành tội phạm tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các giai đoạn định tội danh nêu trên chỉ
mang tính chất tương đối. Các bước của quá trình định tội danh nhiều khi cũng
không rõ ràng mà có tính chất đan xen. Trong nhiều trường hợp các chủ thể định tội
danh có sự lồng ghép giai đoạn này vào giai đoạn khác. Cũng có những trường hợp
cá biệt như việc ĐTD đã được thực hiện xong nhưng lại phải quay lại quy trình bắt
đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả ĐTD hoặc để ĐTD được đúng
đắn, phù hợp với sự thật khách quan và quy định của pháp luật nếu như chủ thể định
tội danh có những sai lầm nào đó trong quá trình ĐTD.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Để hoạt động ĐTD được đảm bảo được tính chính xác, có căn cứ, hợp pháp đối với
các loại tội phạm nói chung và định tội danh đối với Tội Lừa đảo chiếm được tài
sản nói riêng, các chủ thể tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm túc, chính xác
việc đánh giá khách quan, toàn diện giữa yếu tố khách quan và chủ quan trong quy
trình tiến hành tố tụng, cụ thể như sau:
* Các yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt
động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để tránh trường hợp oan sai, sót
lọt do việc áp dụng pháp luật không chính xác thì sự hoàn thiện của PLHS và pháp
luật TTHS chính là cơ sở, là nền tảng pháp lý quan trọng để chủ thể có thẩm quyền
quyết định việc định tội danh đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đầu tiên, dựa theo đặc điểm hoạt động ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hoạt
động ĐTD đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được căn cứ vào những quy
định của PLHS bởi vì theo Điều 8 BLHS thì tội phạm chỉ được quy định trong
BLHS mà ĐTD đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là quá trình xác định
hành vi phạm tội của một người có thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 174
BLHS hay không? Thuộc khoản nào? Điểm nào của điều luật. Ngoài ra, khi tiến
hành ĐTD đối với Tội Lừa đảo chiếm được tài sản cũng phải căn cứ vào những quy
định trong phần chung của BLHS như: những quy định về năng lực trách nhiệm
hình sự, các quy định về lỗi, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay các giai đoạn
thực hiện tội phạm… Đây là những quy định chung do đó các chủ thể tiến hành
hoạt động ĐTD phải tuân thủ và áp dụng để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa với hoạt động này và cũng là cơ sở để quyết định hình phạt một cách
chính xác.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho thấy có trường
hợp hành vi lừa đảo kết thúc ở giai đoạn tội phạm chưa đạt, không phải tội phạm
hoàn thành. Do đó, khi tiến hành định tội danh đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở giai đoạn tội phạm chưa đạt cần nắm chắc chắn kiến thức lý luận về trường
hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 BLHS để áp dụng PLHS một cách
chính xác. Hay trường hợp vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra có nhiều đối
tượng tham gia tức là vụ án lừa đảo có đồng phạm thì các chủ thể có thẩm quyền
phải xem xét vai trò của từng đối tượng khác nhau trên cơ sở quy định tại Điều 16
BLHS để xác định trách nhiệm của mỗi người từ đó đưa ra mức hình phạt tương
ứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội.
Bên cạnh các quy định của PLHS thì các quy định của pháp luật TTHS cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc thu thập, đánh giá, bảo quản chứng cứ trong các vụ án
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn của
quá trình tố tụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS mà cụ thể là những nội
dung liên quan đến việc áp dụng PLHS đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
* Các yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan là những nhân tố bên trong nhưng lại là nhân tố vô cùng quan
trọng quyết định việc định tội danh đúng hay sai. Yếu tố chủ quan quan trọng nhất
đó chính là năng lực của chủ thể có thẩm quyền trong việc định tội danh. Hoạt động
định tội danh đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có thể được tiến hành bởi
các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mà những người tiến hành tố tụng bao
gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và hội thẩm đó là những người có
trình độ, có kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ phát hiện và xử lý tội phạm nên năng lực
của bản thân họ là vấn đề quan trọng nhất quyết định tính chính xác của hoạt động
định tội danh. Định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động tố tụng
hình sự được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền khác nhau nên mỗi chủ thể
phải có nền tảng kiến thức pháp luật hình sự, tố tụng hình sự cũng như các quy định
khác của pháp luật nhất định, có đạo đức, có tinh thần trách nhiệm, am hiểu và vận
dụng tốt các quy định đó vào trong các vụ án thực tế cụ thể mới đảm bảo cho việc
định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được chính xác. Ngoài ra, Tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm có nhiều điểm tương đồng với pháp luật dân sự
và bản thân tội phạm này cũng bắt nguồn từ các giao dịch dân sự nên để tránh việc
hình sự hóa các quan hệ dân sự hay dân sự hóa các quan hệ hình sự thì các chủ thể
có thẩm quyền cần phải có vốn kiến thức hiểu biết nhất định về pháp luật dân sự, về
các giao dịch dân sự. Từ đó mới có thể kết luận đó là Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản hay là vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế, hành chính để có thể đưa ra kết luận
chính xác về tội danh của người phạm tội.
Bên cạnh đó hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng trong
việc định tội danh đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có thể bị tác động, bị
ảnh hưởng bởi các lợi ích khác nhau. Mỗi chủ thể có thẩm quyền cần có sự kiên
định, bản lĩnh vững vàng để vượt qua những cám dỗ về lợi ích vật chất, lợi ích tinh
thần cũng như những ảnh hưởng từ các chủ thể khác từ đó có sự chắc chắn trong
việc nhận định hành vi của người phạm Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mới có thể
đưa ra quyết định đúng đắn. Chính vì vậy, chủ thể tiến hành tố tụng khi ĐTD ngoài
việc cần mạnh dạn đưa ra những quan điểm mang chính kiến cá nhân và tìm cách để
bảo vệ quan điểm đó thì còn cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu biết về các
quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, của Nhà nước, chủ động vận
dụng sáng tạo, linh hoạt các quy định của pháp luật trong thực tiễn đối với việc giải
quyết từng vụ án, tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới.
Để làm được điều này thì sự thay đổi trong cách thức tổ chức, quản lý là điều rất
cần thiết nhằm tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết VAHS trên cơ sở có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; sự kết hợp và trao đổi
ý kiến, quan điểm để đưa ra kết luận chính xác và thống nhất về hành vi của người
phạm tội, đồng thời cần có chính sách hậu cần, lương, thưởng hợp lý để đảm bảo
điều kiện sống, làm việc của các chủ thể tiến hành tố tụng để họ an tâm công tác,
làm việc và cống hiến, từ đó mới có cơ sở để nâng cao chất lượng của hoạt động
ĐTD.
1.3. Cơ sở pháp lý của định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tổng kết từ thực tiễn công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng
cho thấy, tội LĐCĐTS là loại tội xảy ra khá phổ biến trong cơ cấu tội phạm nói
chung. Tội phạm LĐCĐTS đang có những diễn biến hết sức phức tạp, không chỉ
gây thiệt hại nặng nề tới tài sản của nhà nước, của công dân mà còn làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển của xã hội, đe dọa đến sự ổn định chính trị và công
cuộc xây dựng đất nước. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống loại tội
phạm này nhất thiết các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nghiên cứu và hiểu rõ khái
niệm tội LĐCĐTS và các vấn đề có liên quan.
Tội phạm LĐCĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (Điều 174) không định
nghĩa rõ thế nào là tội phạm LĐCĐTS, do đó để hiểu rõ khái niệm về tội phạm
LĐCĐTS thì trước hết tôi xin phép đề cập đến khái niệm tội phạm được quy định
trong BLHS.
Khoản 1, điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự” [3, tr.4].
Về khái niệm tội phạm LĐCĐTS cũng đã được đề cập rất nhiều trong các công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều khái niệm khác nhau. Căn cứ vào
những quy định của BLHS có thể đưa ra khái niệm về tội LĐCĐTS như sau:
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng các thủ đoạn
gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm nên trao tài sản để
người phạm tội chiếm đoạt”.
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS 2015 như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối CĐTS của người khác trị giá từ
20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi CĐTS mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản
là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị
hại.
2. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07
năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều
này.
3. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều
này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1
Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Căn cứ vào quy định tại Điều 174 BLHS, có thể nhận thức các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm này như sau:
- Khách thể của tội LĐCĐTS: Cũng tương tự như các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt khác được quy định trong BLHS nhưng tội LĐCĐTS không xâm
phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu cụ thể là quyền
sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan của tội LĐCĐTS: Mặt khách quan của tội LĐCĐTS là hành vi
chiếm hữu trái phép tài sản của người khác và tạo cho mình khả năng định đoạt tài
sản của người đó một cách gian dối. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho
người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi
gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là hành vi gian
dối và hành vi chiếm đoạt.
Hành vi phạm tội của tội LĐCĐTS gồm hai hành vi khác nhau là hành vi lừa dối và
hành vi chiếm đoạt có liên hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để
hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả
của hành vi lừa dối. Tội phạm dùng những hành vi cụ thể đánh lừa chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản làm cho họ tin và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội,
tin rằng việc giao tài sản hoàn toàn hợp pháp. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội
phải luôn luôn có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm
tội.
Thông thường hành vi chiếm đoạt xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi gian dối. Nhưng
cũng có trường hợp giữa hai hành vi này có khoảng cách nhất định về mặt thời gian.
Trong trường hợp này tội phạm hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt đã xảy ra.
Gian dối là thủ đoạn đặc trưng cơ bản của tội LĐCĐTS nhưng không phải là dấu
hiệu duy nhất của tội phạm, mà ngoài thủ đoạn gian dối, người phạm tội còn phải có
hành vi chiếm đoạt tài sản thì mới đủ yếu tố cấu thành tội LĐCĐTS.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại về tài sản, cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Đối với trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc
rất lớn thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội
LĐCĐTS nhưng những trường hợp ấy là trường hợp phạm tội chưa đạt. Trường hợp
người phạm tội có ý định chiếm đoạt giá trị tài sản dưới hai triệu đồng, tuy chưa
chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt
chưa được xoá án tích thì cũng đã cấu thành tội LĐCĐTS, nhưng ở giai đoạn phạm
tội chưa đạt, nếu mới chuẩn bị phạm tội thì chưa cấu thành tội LĐCĐTS.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội LĐCĐTS bao gồm các yếu tố:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết mình có hành vi
lừa dối và mong muốn hành vi lừa dối đó có kết quả để có thể chiếm đoạt được tài
sản. Về mặt ý chí của người phạm tội lừa đảo bao giờ cũng nảy sinh ý định chiếm
đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo, đây là điểm phân biệt với cấu thành
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vì trong một số trường hợp phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bao giờ ý định chiếm đoạt tài sản cũng phát
sinh sau khi nhận tài sản thông qua một hình thức giao dịch nhất định.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội LĐCĐTS là người có đủ năng lực TNHS và
đạt độ tuổi theo luật định.
1.3.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
Quá trình nghiên cứu thực tiễn cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh nói chung và định tội danh đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng, đặc biệt là đối với các trường
hợp mà hành vi của người phạm tội không thể hiện hết các yếu tố cấu thành tội
phạm một cách đặc trưng. Đối với những trường hợp này, đòi hỏi người tiến hành tố
tụng phải có trình độ lý luận, có kinh nghiệm thực tiễn vững chắc trên cơ sở phân
tích, đánh giá, tổng hợp các yếu tố của vụ án, áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự một cách linh hoạt để định tội danh chính xác.
* Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Tội LĐCĐTS và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều được quy định
trong Chương XVI về các tội xâm phạm sở hữu. Hai tội này có các yếu tố cấu thành
về khách thể, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm giống nhau, cụ thể: Tội
LĐCĐTS và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm hại khách thể là quyền
sở hữu tài sản của người khác được thực hiện bởi hành vi cố ý nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản; chủ thể của cả hai tội này có thể là bất kỳ cá nhân nào trong xã
hội có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện về độ tuổi theo quy định của
BLHS.
Bên cạnh những điểm tương đồng ấy thì hai tội này có những biểu hiện khác nhau
về dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm, như sau:
Một là: Sự khác nhau về dấu hiệu “dùng thủ đoạn gian dối” để chiếm đoạt tài sản.
Hành vi gian dối ở tội LĐCĐTS là hành vi đưa ra những thông tin sai sự thật bằng
những thủ đoạn rất đa dạng như qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người
khác để người có tài sản tin đó là thật và tự nguyện giao tài sản cho người có hành
vi gian dối. Hành vi gian dối này luôn có trước hành vi nhận được tài sản từ người
khác, có trước hành vi chiếm đoạt tài sản hay nói cách khác là hành vi gian dối
chính là điều kiện để thực hiện hành vi chiếm đoạt, còn hành vi chiếm đoạt là mục
đích của hành vi gian dối.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội cũng dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, hành vi gian dối trong tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ xuất hiện sau khi người có hành vi gian dối đã nhận
được tài sản do người có tài sản tín nhiệm giao cho. Việc nhận được tài sản của
người khác là hoàn toàn ngay thẳng, hợp pháp thông qua những hợp đồng có thể
bằng miệng, bằng văn bản mà người có tài sản giao cho để sử dụng, sửa chữa, vận
chuyển, bảo quản… Hành vi gian dối trong Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản xuất hiện sau khi người có hành vi gian dối đã nhận được tài sản từ người khác,
còn đối với tội LĐCĐTS thì hành vi gian dối xuất hiện trước khi người có hành vi
gian dối nhận tài sản.
Hai là, sự khác biệt về thời điểm hoàn thành tội phạm. Đối với Tội LĐCĐTS, người
phạm tội có ý thức chiếm đoạt tài sản ngay từ đầu và để đạt được mục đích ấy họ
chủ động thực hiện hành vi gian dối để nhận được và sau đó chiếm đoạt tài sản. Tội
LĐCĐTS hoàn thành tại thời điểm người phạm tội nhận được tài sản từ người có tài
sản.
Đối với lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện
bằng việc người phạm tội không trả lại tài sản cho người có tài sản như cam kết
trong hợp đồng, đến hẹn phải trả tài sản nhưng người phạm tội không trả lại tài sản
mà chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Do đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản hoàn thành khi người phạm tội cố ý không thực hiện nghĩa vụ phải trả lại tài sản
(theo hợp đồng) cho người giao tài sản mà mình đã chiếm đoạt tài sản đó.
Ba là, việc giao nhận tài sản giữa người có tài sản với người phạm tội. Trong Tội
LĐCĐTS thì người có tài sản tự giác giao cho người phạm tội đã có hành vi gian
dối, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để tạo dựng lên những điều giả tạo,
không đúng sự thật nhưng người có tài sản lại tin những điều đó là sự thật mà tự
giác giao tài sản cho người phạm tội hay nói cách khác là do người có tài sản đã bị
người phạm tội lừa dối mà tự nguyện, tự giác giao tài sản.
Đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì khi giao tài sản người có tài
sản hoàn toàn biết rõ và tin tưởng vào khả năng thực tế của người phạm tội có đủ
mọi điều kiện thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng đã cam kết nên đã tín nhiệm giao tài
sản.
Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp giật tài sản Tội LĐCĐTS và
Tội cướp giật tài sản có hành vi khách quan khác nhau hoàn toàn nhưng trên thực
tế đối với tội cướp giật tài sản vẫn có những trường hợp người phạm tội đã có hành
vi gian dối trước khi chiếm đoạt tài sản. Do đó để tránh nhầm lẫn khi định tội danh
đối với hai tội này cần phân biệt hai tội như sau:
Thứ nhất: Về mục đích của thủ đoạn gian dối: Tội LĐCĐTS người phạm tội chỉ
chiếm đoạt được tài sản khi dùng thủ đoạn gian dối và chỉ có dùng thủ đoạn gian
dối mới chiếm đoạt được tài sản. Còn đối với tội cướp giật tài sản: Người phạm tội
dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản gần chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
rồi nhanh chóng giật lấy tài sản.
Thứ hai: Về ý thức của nạn nhân khi hành vi chiếm đoạt xảy ra: Tội LĐCĐTS sau
khi người phạm tội chiếm đoạt tài sản được một khoảng thời gian nhất định nạn
nhân mới phát hiện được là mình bị lừa đảo. Đối với Tội cướp giật tài sản thì ngay
tại thời điểm người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản một cách nhanh
chóng thì chủ quản lý tài sản đã nhận biết được việc chiếm đoạt còn người phạm tội
thì công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát.
Thứ ba: Việc chuyển giao tài sản giữa nạn nhân và người phạm tội: Người bị hại tự
nguyện chuyển giao quyền quản lý tài sản hoặc quyền sở hữu về tài sản cho người
thực hiện hành vi lừa đảo sau khi bị người phạm tội thực hiện hành vi gian dối. Đối
với tội cướp giật tài sản: Người có tài sản không có hành vi chuyển giao quyền sở
hữu hoặc chuyển giao quyền quản lý tài sản cho người phạm tội ngoài phạm vi
kiểm soát của họ mà người có tài sản chỉ chuyển giao sự quản lý tài sản tạm thời
cho người phạm tội và họ vẫn kiểm soát được việc người phạm tội đang nắm, giữ
tài sản đó. Còn người phạm tội sau khi nắm, giữ được tài sản thì thực hiện hành vi
chiếm đoạt đối với tài sản đó.
* Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản
Sự khác nhau của hai tội phạm này thể hiện ở tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản. Còn Tội LĐCĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản mình đang sở hữu hoặc quản lý cho
người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Dấu hiệu nhận biết hai tội này có sự khác nhau cơ bản như sau:
Tội cướp tài sản có cấu thành hình thức chỉ cần sử dụng các hành vi nói trên nhằm
chiếm đoạt tài sản là tội phạm đã hoàn thành, không kể người phạm tội có chiếm
đoạt được tài sản như mong muốn hay không.
Còn Tội LĐCĐTS có đặc điểm nổi bật là người bị chiếm đoạt tài sản tự nguyện
giao tài sản cho người phạm tội và họ cho rằng việc giao tài sản cho họ là hoàn toàn
hợp pháp. Hành vi phạm tội của tội phạm này bao gồm hai hành vi kế tiếp nhau, là
hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Lừa dối là hành vi đưa thông tin không phù
hợp với thực tế khách quan nhằm làm người tiếp nhận thông tin cho nó là thật.
Hành vi lừa dối có thể thực hiện qua lời nói, qua xuất trình giấy tờ giả mạo. Chiếm
đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.
* Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS có những điểm khác biệt cơ
bản với tội LĐCĐTS như sau:
Thứ nhất: Ý nghĩa của thủ đoạn gian dối đối với việc chiếm đoạt tài sản: Đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn gian dối có ý nghĩa quyết định đối với việc
chiếm đoạt tài sản, người phạm tội chỉ chiếm đoạt được tài sản khi dùng thủ đoạn
gian dối và chỉ bằng thủ đoạn gian dối mới chiếm đoạt được tài sản.
Đối với tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn gian dối không có ý nghĩa quyết định đối với
việc chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội chỉ dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài
sản gần chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản rồi lén lút lấy tài sản của nạn nhân.
Chính hành vi “lén lút lấy tài sản” của người phạm tội mới là hành vi quyết định đối
với việc chiếm đoạt tài sản
Thứ hai: Việc chuyển giao tài sản giữa người quản lý tài sản và người phạm tội: Đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người quản lý tài sản tự nguyện chuyển giao
quyền quản lý tài sản hoặc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản cho người thực hiện
hành vi lừa đảo sau khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối. Sự tự nguyện
này xuất phát từ niềm tin giả tạo được xây dựng bằng thủ đoạn gian dối của người
phạm tội.
Đối với tội trộm cắp tài sản: Người quản lý tài sản không có hành vi tự nguyện
chuyển giao tài sản cho người phạm tội. Nếu có xảy ra việc chuyển giao tài sản một
cách tự nguyện cho người phạm tội thì việc chuyển giao này là hoạt động thực hiện
một nghĩa vụ nhất định của người quản lý tài sản một cách chính đáng, đúng đắn,
ngay thẳng, không phải là kết quả của thủ đoạn gian dối của người phạm tội.
* Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng
Tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 BLHS 2015 xâm phạm
Trật tự quản lý kinh tế, kinh doanh thương mại và lợi ích của người tiêu dùng.
Trong khi đó tội LĐCĐTS xâm phạm quyền sở hữu của con người. Đây là hai tội
phạm mà khách thể của tội phạm là hoàn toàn khác nhau nhưng trên thực tế cũng dễ
nhầm lẫn trong việc định tội danh của tội phạm vì hai tội này có những điểm tương
đồng đó là đều thực hiện hành vi phạm tội bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài
sản.Tuy nhiên hai tội này có những điểm khác biệt cơ bản như:
Về hành vi: Tội LĐCĐTS người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có
tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Đối
với tội lừa dối khách hàng người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối trong việc mua,
bán hàng hóa hoặc cung cấp các dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa,
dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để lấy tiền của khách hàng.
Về chủ thể: Chủ thể của Tội LĐCĐTS có thể là bất kỳ chủ thể nào thỏa mãn: có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Còn chủ thể của Tội lừa dối
khách hàng chủ thể phạm tội chỉ có thể là những người làm nghề mua, bán hàng
hóa.

You might also like