You are on page 1of 10

Tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Cơ sở hình thành TTHCM


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa,
là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước
ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc, là tài sản tinh
thần vô giá của dân tộc Việt Nam, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của cách
mạng Việt Nam, phản ánh khát vọng của thời đại, tìm ra giải pháp đấu tranh giải phóng loài người và
cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.

a) Cơ sở thực tiễn: (cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX)


Sự vận động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đến
những năm 20 của thế kỷ XX; là sự gặp gỡ giữa trí tuệ mẫn cảm, thiên tài của Hồ Chí Minh
với trí tuệ thời đại, chủ nghĩa Mác - Lênin, đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

• Thực tiễn Việt Nam. Yếu tố bên ngoài: Năm 1858 Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, nhiều
cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng đều thất bại. Yếu tố bên trong: Chính quyền nhà Nguyễn lần lượt kí các
hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của Pháp. Đây là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác
- Lênin truyền bá, xâm nhập vào nước ta, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt
Nam.

• Thực tiễn thế giới: Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô-
viết, Quốc tế Cộng sản (3/1919) và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh
hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước.

b) Cơ sở lý luận:
• Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam: Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường;
đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo...
Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản. Truyền thống
yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc tới đến quá trình hình thành nhân cách và
bản lĩnh của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn
hoá dân tộc Việt Nam là tiền đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm
đường cứu nước.

• Tinh hoa văn hoá nhân loại: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán quan điểm của các trường phái triết
học, quan điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập, tự do của các dân
tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các
giá trị tư tưởng nhân loại trở thành tư tưởng của mình. Đặc biệt, Người đã kế thừa, phát triển các giá
trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, chủ nghĩa Tam dân và văn hóa tư sản…

• Chủ nghĩa Mác - Lênin: Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng Việt Nam
cuối TK XIX - đầu TK XX. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong
phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới.

c) Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh:


• Phẩm chất Hồ Chí Minh:
- Có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực để đuổi
kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
- Có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng.
- Có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của
cách mạng thế giới.
- Suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng thế giới.
• Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận:
- Có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường.
- Thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng ĐCS.

2. Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc
Thứ nhất, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
- Phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa Hồ Chí Minh nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là
mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là
giải phóng dân tộc.
- Trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Hội nghị
Trung ương 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đều đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”.
- Đến với Lênin và Quốc Tế III, vì ở đó Người tìm thấy chủ trương giải phóng dân tộc bị áp
bức. Người xác định mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở các nước thuộc địa chưa phải là giành
quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà phải là lợi ích chung của toàn dân tộc. Tuy nhiên,
do tả khuynh, Hội nghị lần thứ nhất BCH TW Đảng 10.1930 đã phê phán quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc. Với bản lĩnh cách mạng kiên cường, bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã chủ trương tạm gác lại những vấn
đề về ruộng đất. Tức chỉ chống kẻ thù của dân tộc, chứ không phải là giai cấp địa chủ nói
chung, nhằm đánh lại kẻ thù dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Thắng lợi của CMT8, cũng
như đại thắng Mùa xuân 1975 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
- Các cuộc đấu tranh giành độc lập cuối thế kỷ XIX như của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Hoàng Hoa Thám.. diễn ra theo hệ tư tưởng phong kiến đều thất bại là do chưa có đường lối
và phương pháp cách mạng đúng đắn. Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước
của ông cha, nhưng HCM không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một
con đường cứu nước mới.
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh
trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
là con đường cách mạng vô sản.
- Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết. Theo
Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam phải là: giải phóng dân tộc - giải
phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam: làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
- Trong Đường Cách mệnh (1927), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công.”
- Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam. => Đây là luận điểm Người đã phát triển học thuyết MLN
về Đảng Cộng sản, nhờ nó mà Đảng Cộng sản Việt Nam có sự gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
với toàn dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam.
- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh
của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là ưu
điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.

Thứ tư, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
- Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh vĩ đại và
năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng nhân dân là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng định lực lượng cách mạng là bao gồm
cả dân tộc.
- Trong lực lượng toàn dân tộc, Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của nó là công -
nông. Phải nhớ: “Công nông là gốc cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh,
của công nông thôi”, và phải thực hiện theo đúng nguyên tắc: “Trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thoả hiệp”.
- Hồ Chí Minh chưa bao giờ vì vấn đề dân tộc mà quên đi hoặc coi nhẹ vấn đề giai cấp, ngược
lại, Người luôn tìm thấy mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy
nhiên, để có thể tập hợp lực lượng thì phải đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước
để cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc, trong đó bộ phận trung tâm là công nhân, nông
dân và khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Thứ năm, Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc mà còn có thể giành thắng lợi trước. Luận điểm sáng tạo này dựa trên các
cơ sở:
• Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, cách mạng ở thuộc
địa có vai trò rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
• Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa.
- Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ
ra, đã chứng minh cho quan điểm của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn.
Thứ sáu, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo
lực
- Theo Mác: bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng, vì giai cấp thống trị bóc lột
không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách
mạng bạo lực được quy định bởi các yếu tố: Một là, sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc
địa vô cùng hà khắc, không hề có một chút quyền tự do dân chủ nào, không có cơ sở nào cho
thực hành đấu tranh không bạo lực. Hai là “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành
động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
- Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực
nhưng vẫn gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình.
- Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, là bạo lực của quần chúng với hai lực
lượng chính trị và quân sự, với hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang.

3. Tư tưởng HCM về tính tất yếu, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tính tất yếu:
Theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu sau khi nước nhà
giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội là để tiếp tục sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội là cơ sở vững chắc để bảo vệ độc lập dân tộc.

Mục tiêu:
- Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ.
- Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục
tiêu về chính trị.
- Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hoá mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng
và tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại.
- Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải đảm bảo dân chủ, công bằng, văn minh.
Để hoàn thành mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đào tạo,
xây dựng con người - Bởi con người là mục tiêu cao nhất và là động lực quyết định nhất của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Động lực:
- Động lực của chủ nghĩa xã hội theo nghĩa rộng được Hồ Chí Minh chỉ ra là sử dụng đồng bộ
các đòn bẩy về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội để kích thích tính tích cực của người lao
động. Ở phương diện này Người nhấn mạnh 2 nội dung Tính đồng bộ của các đòn bẩy và
Trình độ năng lực của cán bộ quản lý nhà nước
- Động lực của chủ nghĩa xã hội theo nghĩa hẹp được Hồ Chí Minh chỉ ra là vấn đề con người.
Ở phương diện này Người khẳng định là Đại đoàn kết dân tộc và Con người mới XHCN.
- Động lực của chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nêu rõ cụ thể, nhưng cũng rất phong phú
đa dạng, có thể khái quát như sau:
+ Thứ nhất, động lực chính trị tư tưởng, tinh thần.
+ Thứ hai, phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân tộc.
+ Thứ ba, thoả mãn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của người lao động
+ Thứ tư, để tạo động lực cho CNXH, còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố
tinh thần khác như chính trị, đạo đức, văn hoá, pháp luật.
+ Thứ năm, ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được sức mạnh thời
đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, phải sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật thế
giới,…Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất,
ngoại lực là rất quan trọng.
- Để phát huy cao độ những động lực của CNXH, cần phải khắc phục những trở lực kìm hãm nó.
Đó là:
+ Phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (giặc nội xâm), vì nó là kẻ địch hung
ác của CNXH, là "bệnh mẹ" đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác.
+ Phải thường xuyên đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan liêu, vì nó là bạn đồng minh của
thực dân phong kiến, nó phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính.
+ Chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, vì nó làm giảm sút uy tín và ngăn trở sự
nghiệp của Đảng.
+ Chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập,…

4. Tư tưởng HCM về tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng cộng sản,chính đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo”. Luận điểm đó của Mác, Ăngghen,và Lênin trước hết bắt nguồn từ vai trò của
Đảng đối với cách mạng và từ địa vị, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh đã nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm trên của các nhà kinh điển Mác
- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, khẳng định ĐCSVN có vai trò là người lãnh đạo CM và
là nhân tố quyết định hàng đầu đưa sự nghiệp CM đi đến thành công. HCM khẳng định: “Cần có sự
lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể ở
nước ta thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và CMXHCN thành công.’’
Muốn làm cách mạng, trước hết phải có Đảng, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công.”
Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân,có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi
tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ĐCSVN là tất yếu, sự lãnh đạo của Đảng
CSVN là một tất yếu, các điều đó đều xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam lúc bấy
giờ. ĐCSVN ra đời đó là sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác –Lênin, phong trào công nhân và phong trào
yêu nước VN.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở những vấn đề sau:
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, từ đó xây dựng đường lối chiến lược,
sách lược cách mạng. Từ khi Đảng ra đời chỉ ra cho dân tộc Việt Nam đi theo con đường
CMVS.Nhờ đó CMVN đã đi đúng với quy luật của lịch sử, không những phù hợp với lịch sử
dân tộc mà còn phù hợp với lịch sử của thời đại. Vì vậy, CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
- Xác định phương pháp cách mạng: Đường lối đúng còn phải có phương pháp cách mạng đúng.
HCM và Đảng ta đã xác định phương pháp CM để giải phóng dân tộc là dùng bạo lực CM để
đập tan bạo lực phản CM. Đó là sự vận dụng sáng tạo phương pháp CM bạo lực của CN Mác-
Lênin vào điều kiện VN.
- Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn khỏi đi lạc
phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định
phương châm cho đúng.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng
Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh là đúng đắn.
- Đảng nhận thức và giải quyết các mối quan hệ giữa CMVN với CMTG, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đoàn kết lực lượng cách mạng trong nước không đủ, HCM còn chỉ
ra phải đoàn kết với lực lượng CM thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè và nhân dân tiến
bộ thế giới, đưa Cách mạng VN trở thành một bộ phận của CM thế giới.
- Vai trò của ĐCSVN còn được thể hiện ở vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên.Với quan điểm “Cán bộ là gốc của mọi việc”, HCM và Đảng ta đã luôn đề cao, chú trọng
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để qua đó, uy tín của Đảng không chỉ dựa vào uy tín
của riêng 1 cá nhân nào, mà là uy tín của cả tập thể, của toàn Đảng.

Như vậy, tất cả những điều đó 1 lần nữa đã chứng minh và khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất yếu - điều đó xuất phát
từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.

5. Tư tưởng HCM về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
*Nhà nước của nhân dân:
Quan niệm của HCM về dân chủ: Người đưa ra một quan niệm dân chủ hết sức ngắn gọn, giản dị
mà sâu sắc, có giá trị như một định nghĩa khoa học: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”.
- “Là chủ” thể hiện vị thế, vai trò của dân, họ là người chủ, là chủ thể chứ không phải nô lệ.
- “Làm chủ” thể hiện năng lực của người dân với tư cách người chủ, chủ động, tích cực, sáng
tạo trong mọi việc làm, mọi hoạt động đem lại lợi ích cho mình và cho xã hội.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp
và dân chủ gián tiếp.
- Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên
quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh luôn coi
trọng hình thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo mọi
điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp. Cùng với dân chủ trực tiếp.
- Dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực
thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực
của mình thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ
lập nên.

*Nhà nước do nhân dân:


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên
sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, việc phát huy quyền làm chủ của dân được thể hiện và thực hiện qua việc phát huy vai trò của
dân trong xây dựng Đảng.

Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Khi các cơ quan đó không đáp ứng được
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó.

*Nhà nước vì nhân dân:


Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền
đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống
đều là công bộc của dân.

Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con
người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm thoả mãn những nhu cầu
thiết yếu của nhân dân, mà trước hết là: “Làm cho dân có ăn Làm cho dân có mặc Làm cho dân có
chỗ ở Làm cho dân có học hành “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, Việc gì có hại đến dân
ta phải hết sức tránh”

Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo, hướng
dẫn nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở
người cán bộ nhà nước vì dân. Từ đó có thể đạt được mục đích lâu dài là cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc của nhân dân.

6. Tư tưởng HCM về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc

Ý chí và tinh thần đoàn kết được xác định là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã từng nói: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công". Vậy theo TTHCM, vai trò của đại đoàn kết dân tộc
được thể hiện ở hai điều dưới đây:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng
- Về khái niệm: Chiến lược được hiểu là phương châm và biện pháp có tính toàn cục được vận
dụng trong suốt tiến trình cách mạng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Đoàn kết là một chiến lược chứa đựng hệ thống những luận
điểm thể hiện những nguyên tắc, biện pháp giáo dục, tập hợp những lực lượng cách mạng tiến
bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và quốc tế trong sự nghiệp độc lập dân tộc, dân
chủ và CNXH. Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau,
chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần thiết điều chỉnh cho phù hợp với
từng đối tượng, song đại đoàn kết luôn là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách
mạng.

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách
mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc
là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất quán chứ không thể là một thủ đoạn
chính trị.
- Cách mạng muốn thành công, đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, mà trên cơ sở đường lối đúng,
Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử.
- Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Từ trong đấu tranh mà nảy sinh nhu cầu khách quan về đoàn
kết, hợp tác. Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng; chuyển những nhu
cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát đó thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong
khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn để hoàn thành các mục tiêu cách mạng.

7. Tư tưởng HCM về đạo đức


*Quan niệm về vai trò và sức mạnh của đạo đức:
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng. Đạo đức là
nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng, là
sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Đó là nhân tố quyết định của sự thành bại
trong mọi công việc, phẩm chất mỗi con người. Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của
con người. Vì vậy, thực hành tốt đạo đức cá nhân giúp tôn vinh giá trị của bản thân và tạo ra sức
mạnh nội sinh giúp vượt qua mọi thử thách.

Thứ hai, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội trước hết nằm ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản
ưu tú, bằng tấm gương sáng và hành động, chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện thực.
Theo Hồ Chí Minh, chính phẩm chất đạo đức cao quý đã làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một
sức mạnh vô địch.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nêu ra, đức và tài phải thống nhất làm một. Trong
đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng
đạo đức.

*Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:


Một là, Trung với nước, hiếu với dân. Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người
với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức
quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con
đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân dân là chủ của đất
nước. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương
dân, tin dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết
lòng.

Hai là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư.
- Cần: lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng.
- Kiệm: tiết kiệm, không xa xỉ hoang phí, không bừa bãi.
- Liêm “là trong sạch, không tham lam”, liêm khiết.
- Chính nghĩa là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng
phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải tiên phong trước nhất. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm,
chính là bốn đức tính cơ bản của con người: “Thiếu một đức, thì không thành người.”
- Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi, hết sức công bằng, không thiên
tư, thiên vị: phải công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, nhân dân, của dân tộc lên trên hết.

Ba là, thương yêu con người, sống có tình nghĩa. Tình yêu thương con người là yếu tố cốt lõi
đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, đạo đức và
nhân văn của Hồ Chí Minh. Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vị rất
rộng lớn, đó là tình thương bao la dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức,
bóc lột không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Yêu thương con người là nghiêm khắc với
mình, độ lượng với người khác; phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố
gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người.

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung. Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng
Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai
cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên
toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc….v.v.
*Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Thứ nhất, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức
truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh xem đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng
nền đạo đức mới, “nói đi đôi với làm” là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nêu
gương về đạo đức là nét đẹp truyền thống văn hoá phương Đông. Để đạo đức cách mạng thấm sâu,
bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói, việc làm.

Thứ hai, xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những
chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ
gia đình, nhà trường, đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó,
phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. Xây đi đôi với chống, muốn chống
phải xây, chống nhằm mục đích xây. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách
mạng, đạo đức mới chỉ có thể xây dựng thành công dựa trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa
đế quốc, chống những thói quen tập tục lạc hậu, và phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân.

Thứ ba, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc
cách mạng trường kỳ, gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng dựa trên cơ sở tự
giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Đạo đức không có tính “nhất thành bất biến”, mà được hình
thành, phát triển do môi trường giáo dục, do sự rèn luyện, phấn đấu và tu dưỡng bản thân. Do đó, Hồ
Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục về mặt đạo đức.

You might also like