You are on page 1of 116

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BỘ MÔN LSĐ – TT HCM

GIẢNG VIÊN
ĐỖ THỊ THANH HUYỀN

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HƯNG YÊN, 2022


Chương 1

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG


PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. Đối tượng nghiên cứu của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Đối tượng nghiên của của khoa học Lịch sử Đảng là sự ra đời, phát triển và hoạt
động lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử.

1.Các sự kiện Lịch sử Đảng

- Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống các sự kiện
lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, bản chất, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền
với sự lãnh đạo của Đảng.

- Các sự kiện lịch sử Đảng thể hiện quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đoạ
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dưng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự,…

- Vậy sự kiện lịch sử Đảng là gì?

Là hoạt động lãnh đạo, đấu tranh phong phú và oanh liệt của Đảng làm sáng rõ
bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng chính trị “là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động,
của cả dân tộc”.

2. Nghiên cứu Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nhằm làm sáng tỏ nội dung của
Cương lĩnh, đường lối của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của đường
lối trong tiến trình cách mạng Việt Nam.

3. Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng làm rõ thắng lợi, thành tựu, kinh nghiệm, bài
học của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
kháng chiến giành độc lập, thống nhất, thành tựu của công cuộc đổi mới.

4. Nghiên cứu lịch sử Đảng làm rõ hệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng
Đảng qua các thời kỳ lịch sử về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

II. Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng

1. Chức năng của khoa học Lịch sử Đảng

2
- Chức năng nhận thức

+ Nhận thức đầy đủ, có hệ thống những tri thức lịch sử sự lãnh đạo, đấu tranh,
cầm quyền của Đảng, nhận thức rõ về Đảng với tư cách là một Đảng chính trị - tổ chức
lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.

+ Nhận thức về thời đại mới của dân tộc – thời đại Hồ chí Minh, góp phần bồi đắp
nhận thức lý luận từ thực tiễn Việt Nam.

- Chức năng giáo dục

+ Giáo dục sâu sắc tinh thần yên nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự
cường dân tộc.

+ Giáo dục lý tưởng cách mạng với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội

+ Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng

+ Giáo dục truyền thống của Đảng và dân tộc

+ Giáo dục đạo đức cách mạng, nhân cách, lối sống cao đẹp

- Chức năng dự báo và phê phán

+ Dự báo tương lai của sự phát triển

+ Để tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao sức chiên đấu của Đảng, tự phê bình và
phê bình là quy luạt phát triển của Đảng.

2. Nhiệm vụ của môn học

- Trình bày có hệ thống Cương lĩnh, đường lối của Đảng nhằm khẳng định, chứng
minh giá trị khoa học và hiện thực của những mục tiêu chiến lược và sách lược Đảng đề
ra từ khi Đảng ra đời và suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.

- Tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng qua từng giai đoạn

- Tổng kết lịch sử của Đảng. Tổng kết từng chặng đường và suốt tiến trình lịch sử,
làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.

- Làm rõ vai trò sức chiến đấu của hệ thống tổ chức Đảng từ trung ương đến cơ sở
trong lãnh đạo, tổ chức thực tiễn.

III. Phương pháp nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng

3
1. Quán triệt phương pháp luận sử học

- Dựa trên phương pháp luận khoa học Mác xít, đặc biệt nắm vững chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một cách
khách quan, trung thực và đúng quy luật.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng.

2. Các phương pháp cụ thể

a. Phương pháp lịch sử

Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự
vật, hiện tượng theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra (quá
trình ra đời, phát triển, tiêu vong)

b. Phương pháp logic

Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình
thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự
vận động của chúng

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có quan hệ mật thiết với nhau và đó
là sự thống nhất của phương pháp biện chứng macxit trong nghiên cứu và nhận thức lịch
sử. Nắm vững hai phương pháp trên mới có thể hiểu rõ bản chất , nhận thức đứng đắn,
giảng dạy và học tập Lích sủ Đảng cộng sản Việt Nam một cách có hiêụ quả, với tư cách
là một môn khoa học.

c. Các phương pháp khác

- Phương pháp tổng kết thực tiễn lịch sử

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp làm việc nhóm

- Phương pháp vận dụng lý luận vào thực tiễn. v.v…

IV. Mục đích, yêu cầu của môn học Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

1. Mục đích

4
- Hiểu rõ quá trình hình thành, phát triển của tổ chức Đảng và những hoạt động
toàn diện của Đảng.

- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam

- Làm rõ những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.

- Tổng kết những kinh nghiệm của lịch sử giúp định hướng cho giai đoạn xây
dựng CNXH hiện nay của đất nước.

- Từ những kiến thức cơ bản trên để hình thành lòng tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và đường lối đổi mới của đất nước. Nhận thức rõ hơn những truyền thống vẻ vang
của Đảng.

2. Yêu cầu khi nghiên cứu

- Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và có hệ thống, có sự so sánh với
những yêu cầu thực tiễn của các sự kiện cơ bản trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách
mạng.

- Khẳng định được những thắng lợi, những thành tựu, những sai lầm khuyết điểm
trong quá trình lãnh đạo của Đảng là tất yếu khách quan trong quá trình nhận thức và lãnh
đạo của Đảng.

- Thông qua những sự kiện, những biến cố lịch sử để tìm ra bản chất, khuynh
hướng chung và những quy luật khách quan chi phối sự vận động lịch sử.

- Phải biết sử dụng những kiến thức đã biết từ những môn học trước (nhất là các
môn lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh) để hiểu sâu hơn những nội dung của
môn học.

- Phải căn cứ vào những nguồn sử liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
công bố.

5
Chương 2

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)

I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 2/1930).

1. Bối cảnh lịch sử

a. Tình hình thế giới

- Từ nửa sau thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản phương Tây đã chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và
nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh.

- Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi đã làm biến đổi sâu
sắc tình hình thế giới.

- Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến
đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại
Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng
các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường
cách mạng vô sản.

b. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng

*)Tình hình Việt Nam

Nǎm 1858, đế quốc Pháp xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng ( Hiệp ước 1862, 1874, 1883). Ngày 6 - 6 -1884, triều đình nhà Nguyễn
đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở
thành thuộc địa của đế quốc Pháp.

- Một số chính sách cai trị của Thực dân Pháp:

+ Về chính trị: thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa,
thâu tóm mọi quyền lực chính trị; duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai; thi
hành chính sách “chia để trị”, v.v...

6
+ Về kinh tế: tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn: lần thứ nhất 1894-1914
và lần thứ hai 1919-1929. Mục đích của chúng là biến Vệt Nam cũng như Đông Dương
thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của “chính quốc”, đông thời vơ vét tài nguyên thiên
nhiên và bóc lột sức lao động, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề.

+ Về văn hoá - xã hội: TD Pháp thi hành chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập
nhà tù nhiều hơn trường học; du nhập những giá trị phản văn hoá; khuyến khích tệ nạn xã
hội; tuyên truyền chính sách “khai hoá văn minh”, …

Dưới sự thống trị của Thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam, có sự chuyến
biến sâu sắc. Bên cạnh các giai cấp cũ, giai cấp mới đã ra đời.

- Giai cấp địa chủ phong kiến: Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp
để duy trì quyền lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề
xướng và lãnh đạo các phong trào chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục triều đình
phong kiến.

- Giai cấp nông dân: chiếm > 90% dân số. Họ là nạn nhân của chính sách cướp
đoạt ruộng đất và bị bóc lột nặng nề nhất bởi nhiều thủ đoạn nên có mâu thuẫn sâu sắc
với chế độ thực dân, phong kiến. Giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng
để lật đổ chế độ thực dân phong kiến khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo.

- Giai cấp công nhân Việt Nam: ra đời sớm. Họ là con để của chế độ khai thuộc
địa. Ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, công nhân Việt Nam còn có
đặc điểm riêng. Nên giai cấp công nhân đã sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiến tiến của
thời đại, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.

- Giai cấp tư sản Việt Nam: ra đời muộn. Tư sản Việt Nam vừa ra đời đã bị sự
chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc.

- Tầng lớp tiểu tư sản : bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh rẻ nhưng họ có lòng yêu
nước và tinh thân tự tôn dân tộc sâu sắc. Tuy nhiên do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ
hay dao động, thiếu kiên định nên họ không thể lãnh đạo cách mạng.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho Việt Nam đã có những
biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong
kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội nửa thuộc địa. Trong lòng chế độ thuộc địa của
thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu

7
thuẫn cơ bản và chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp và phong kiến phản động.

*) Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh yêu nước chống thục
dân Pháp đã diễn ra sôi nổi mạnh mẽ và rộng khắp.

- Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): Ngày 13/7/1885, Vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy
(Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh) ... Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt
nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.

- Phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884, nghĩa quân Yên
Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại suốt gần
30 năm nhưng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.

- Đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác động của
trào lưu dân chủ tư sản đã diễn ra liên tục rộng khắp theo nhiểu xu hướng khác nhau.

+ Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu ( 1867-1941) khởi xướng: chủ trương
dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở
Nhật Bản. Năm 1905 tổ chức phong trào Đông Du. Năm 1908 phong trào Đông Du thất
bại. Năm 1912 lập tổ chức Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi
thực dân pháp, khôi phục đất nước, thành lập cộng hoà dân quốc Việt Nam. Nhưng cuối
cùng cũng bị thất bại.

+ Xu hướng cải cách với đại diện là Phan Châu Trinh: chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân
trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài.

+ Phong trào của tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng (12/1927) : Đây là một đảng
chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản do Nguyễn Thái Học lãnh đạo .

Mục đích : đánh đuổi thực dân pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế đọ công
hoà tư sản nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân….với đỉnh cao là khởi nghĩa Yên

8
Bái. Cuộc khởi nghĩa nở ra trong tình thế hoàn toàn bị động nên đã bị thực dân Pháp
nhanh chóng dập tắt.

Tóm lại, những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh
chống Pháp diễn ra sôi nổi, quyết liệt, liên tục, rộng khắp. Mục tiêu của các cuộc đấu
tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc nhưng cuối cùng các cuộc
đấu tranh đều thất bại.

Nguyên nhân thất bại : thiếu đường lối chính trị đúng đắn đắn để giải quyết triệt đẻ
những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập
hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định đuợc phương pháp đấu tranh thích
hợp để đánh đổ kẻ thù.

Ý nghĩa: cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước lựa chọn một con
đường mới, một giả pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại.

Bởi vậy, Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong có
đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng

*) Lựa chọn con đường cứu nước

- Truớc yêu cấu cấp thiết của lịch sử dân tộc, bằng thiên tài trí tuệ và nhãn quan
chính trị sắc bén của mình, 5/6/1911 Nguyễn Ái quốc đã ra đi tìm đường cứu nước .

- Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới
Người. Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng
về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.

- Tháng 6-1919, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Versailles bản Yêu sách gồm
tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.

- Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Luận cương đã giải
đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc.

- Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại

9
thành phố Tua (Tour). Tại đây, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những
sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh
dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái
Quốc.

- Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản
ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận tại Đại hội V
Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế
Cộng sản.

Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục
khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.

* Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng

- Về tư tưởng : năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc
địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo
Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...

+ Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.

+Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”1.

- Về chính trị: Người khẳng định: con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức
là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước
mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.

+ Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
hỗ trợ cho nhau .

10
+ Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: phải thu phục và lôi cuốn
được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng.

+ Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết
phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy.

- Về tổ chức. tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 2-
1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng
sản đoàn.

+ Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn, cơ quan tuyên truyền của Hội
là tuần báo Thanh niên.

+ Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội tở chức các huấn luyện chính trị tại
Quảng Châu (Trung Quốc) do Nguyễn Ái Quốc phụ trách.

+ Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng sản
cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở về Châu Á và hoạt động ở
Xiêm (tức Thái Lan).

Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đường Cách mệnh xác định rõ con
đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng.

Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu
phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội chưa phải
là một chính đảng nhưng là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của
giai cấp công nhân ở Việt Nam

3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng

a. Các tổ chức cộng sản ra đời

11
Năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo
phong trào.

- Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đuợc thành lập

- Ngày 17-6-1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312
phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm
làm cơ quan ngôn luận.

- Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản
Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp
chí Bônsơvích.

- Tại Trung Kỳ, tháng 9-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng
đảng họp bàn thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929
đã khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản dẫn đến khỏi phân tán về lực lượng và thiếu
thống nhất về tổ chức trên cả nước.

Tình hình đó đặt ra nhu cầu bức thiết thành lập một chính đảng cách mạng có đủ
khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc.

b. Hội nghị thành lập Đảng

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung
Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.

- Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930.

- Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
(Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu

12
Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-đại biểu của
Quốc tế Cộng sản.

- Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:

“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản Đông Dương;

2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;

3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;

4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;

5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...” .

Hội nghị thảo luận thông qua các văn kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm
tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn nộp đơn xin gia nhập Đảng
Cộng sản Việt Nam và được chấp nhận.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc có giá trị, tầm vóc như một Đại hội Đảng.

c. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

- Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam : “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.

- Nhiệm vụ của cách mạng: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.

- Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: Dân chúng được tự do tổ chức,
Nam nữ bình quyền, Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”... Về phương diện kinh tế,
Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông
nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ…

13
- Lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân là lực lượng cơ bản, trong đó giai
cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng
tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.

- Phương pháp tiến hành cách mạng : bạo lực cách mạng của quần chúng

- Về đoàn kết quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Vì vậy phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

- Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng” .

Cương lính chính trị đầu tiên của Đảng phản ánh những luận điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam; thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh
giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20
của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó,
đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc.

4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt
Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật
khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

14
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách
mạng vô sản.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.

II. Đảng lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)

1. Phong trào cách mạng 1930-1935 và khôi phục phong trào 1932-1935

a. Phong trào cách mạng 1930-1931 và Luận cương chính trị ( 10-1930)

- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 diễn ra trên qui mô lớn với những
hậu quả nặng nề, làm cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt.
Phong trào cách mạng thế giới dâng cao.

- Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột để bù đắp những hậu quả của
cuộc khủng hoảng ở chính quốc. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và
tay sai càng phát triển gay gắt.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã “lãnh đạo ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt
chống thực dân Pháp” .

- Từ tháng 1 đến tháng 4-1930, bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy
xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng,
nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy… Phong trào đấu tranh
của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh…

- Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào với hàng trăm cuộc đấu
tranh của các tầng lớp nhân dân diễn ra khắp mọi nơi.

- Tháng 9-1930, phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, đặc biệt là cuộc
biểu tình của nông dân Hưng Nguyên (12-9-1930)s.

- Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở
nhiều nơi tan rã. Một chính quyền cách mạng dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo
kiểu Xô viết được thành lập

15
- Cuối năm 1930, thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp
thủ đoạn bạo lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức
rước cờ vàng, nhận thẻ quy thuận... Đầu năm 1931, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng
vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Tháng 4-1931, toàn bộ Ban Chấp hành
Trung ương Đảng bị bắt, không còn lại một ủy viên nào . “Các tổ chức của Đảng và của
quần chúng tan rã hầu hết” .

- Ý nghĩa của phong trào cách mạng 1930-1931: “khẳng định trong thực tế quyền
lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta; đem
lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản và đem lại cho quần chúng công
nông lòng tự tin ở sức lực cách mạng vĩ đại của mình…” .

- Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai
nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công
nhân với phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào
cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang v.v…” .

b. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 10-1930

- Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của
Đảng; thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo.

- Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có các nội dung chính:

+ Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt giữa một bên à thợ thuyền, dân
cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ
nghĩa.

+ phương hướng chiến lược của cách mạng: lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư
sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua
thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.

+ Nhiệm vụ của cách mạng : đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc
lột theo lối tiền tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến

16
lược đó có quan hệ khăng khít với nhau nhưng Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa
là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân
cày.

+ Lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản và nông dân là hai động chính của cách
mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh.

+ Lãnh đạo cách mạng: là Đảng cộng sản. Do đó, Đảng Cộng sản phải có một
đường chánh trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải
tranh đấu mà trưởng thành”.

+ Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động giành chính quyền

+ Mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: Cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản
Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa.

- Hạn chế:

+ Không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn
mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng
đất

+ Không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.

- Nguyên nhân hạn chế: nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa
và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh trong Quốc tế Cộng sản.

c. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng lần
thứ nhất (3-1935)

- Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh
cực kỳ gian khổ. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc
đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ thù và đề ra các biện
pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh.

17
- Ngày 11-4-1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản
Đông Dương là chi bộ độc lập. Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.

- Trong nhà tù đế quốc, các đảng viên của Đảng nêu cao khí tiết người cộng sản.
Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận Mác-Lênin,
đường lối chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng; tổ chức học văn hóa,
ngoại ngữ v.v. Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và
đấu tranh tư tưởng. Ở nhà tù Hỏa Lò có các tờ báo Đuốc đưa đường và Con đường chính,
Người tù đỏ , tạp chí Ý kiến chung…

- Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt
giam. Đầu năm 1934, sau khi ra tù, trở lại làm việc ở Quốc tế Cộng sản (Mátxcơva-Liên
Xô).

- Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số
đồng chí công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương

Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (15-6-1932) vạch ra
nhiệm vụ đấu tranh trước mắt để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào
cách mạng, đặc biệt cần phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt,
cứng như sắt, vững như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con
đường giai cấp chiến đấu” .

- Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nước như
chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương.

- Đến năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó là cơ sở để tiến tới
Đại hội lần thứ nhất của Đảng.

- Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung
Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: 1- Củng cố và phát triển Đảng, 2- Đẩy mạnh cuộc
vận động tập hợp quần chúng, 3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc… Đại hội thông qua Nghị quyết
chính trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng. Đại hội bầu Ban Chấp
hành Trung ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu di dự Đại

18
hội VII Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh
Quốc tế Cộng sản.

Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong
trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới.

2. Phong trào dân chủ 1936-1939

a. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng

* Điều kiện lịch sử

- Thế giới:

+ Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã khiến cho mâu thuẫn nội
tai ở các nước tư bản ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm thời thắng
thế ở một số nơi.

+ Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (Liên Xô) (7-1935), xác định kẻ
thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt
: là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh bảo vệ dân chủ và hòa bình. Chủ trương
lập mặt trận nhân dân rộng rãi.

+ Tháng 5-1935 Mặt trân nhân dân Pháp được thành lập. Năm 1936, Chính phủ
Mặt trận nhân dân Pháp ban bố nhiều quyền tự do dân chu và chính sách tiến bộ.

- Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ
nhằm thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính sách khủng bố
trắng do thực dân Pháp gây ra.

* Chủ trương của Đảng:

- Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 2 tại
Thượng Hải (Trung Quốc), do Lê Hồng Phong chủ trì với nội dung cụ thể sau:

+ Nhiệm vụ trước mắt: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản
động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; lập Mặt trận nhân dân
phản đế rộng rãi; chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật,
bất hợp pháp. Đồng chí Hà Huy Tập là Tổng Bí thư của Đảng từ tháng 8-1936 đến tháng
3-1938.

19
- Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp
đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm
áo, hòa bình.

- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938 lập Mặt trân dân chủ
Đông Dương.

* Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa.

- Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936), Đảng nêu
quan điểm: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng
điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách
mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết
ấy có chỗ không xác đáng”. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn
trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước” .

Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn
phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính
trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10-1930. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp
với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tại Hội nghị thành lập Đảng
(2-1930) và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

b. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn,
lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú.

- Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp cử một ủy ban điều tra thuộc địa
đến Đông Dương, Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng,
mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” nhằm thu thập
nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương.

- Nămăm 1937, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng dưới
danh nghĩa “đón rước”, mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”.

- Trên mặt trận báo chí: báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, Mặt trận Dân
chủ Đông Dương ra đời. Nhiều sách chính trị phổ thông được xuất bản để giới thiệu chủ

20
nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày (1938) của
QuanNinh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và
phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng.
Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937 phong trào truyền bá quốc ngữ phát
triển mạnh.

- Hội nghị Trung ương Đảng (3-1938) quyết định lập Mặt trận Dân chủ Đông
Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào. Hội nghị bầu đồng chí
Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng.

- Trên lĩnh vực đấu tranh nghị trường: Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận
động tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ,…

Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích thẳng
thắn chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm, nêu rõ những bài học cần thiết trong lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn áp cách
mạng. Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc.

* Ý nghĩa của phong trào dân chủ

- Là một phong trào cách mạng sôi nổi, có tính quần chúng rộng rãi, nhằm thực
hiện mục tiêu trước mắt.

- Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố và
phát triển.

- Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến
lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây
dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và công
khai để tập hợp quần chúng và các hình thức, phương pháp đấu tranh.

Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng
được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám sau này.

3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945

a. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng

21
* Bối cảnh lịch sử:

- Tình hình thế giới:

+ Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Đalađiê
(Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong
trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ.

+ Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng làm tay sai cho
Đức.

+ Tháng 6-1941 Đức tiến công Liên Xô. Tính chất cuộc chiến tranh thế giưới có
sự thay đổi căn bản.

+ Thang 12/1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ

- Tình hình trong nước:

- Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường. Ngày 28/9/1939, Toàn quyền
Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương
ra ngoài vòng pháp luật; bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ; thi hành chính sách thời
chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện
chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc
chiến tranh đế quốc.

+ Tháng 9-1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và
câu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông
Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.

* Chủ trương chiến lược mới của Đảng:

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ,Ban chấp hành trung ương
Đảng đã họp, phân tích tình hình và đưa ra nhũng chủ trương chiến lược trong giai đoạn
mới.

- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 6 (11-1939) họp tại Bà Điểm
(Hóc Môn, Gia Định)

+ Chủ trương: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô

22
luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Đặt vấn đề dân tộc lên hết
thảy các nhiệm vụ khác.

+ Tạm gác khảu hiệu cách mạng ruộng đất, thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô
cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của địa chủ , việt gian chia cho dân cày
nghèo.

+ Quyết định: thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.

- Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 7 (11-1940 ) tại Đình Bảng – Bắc Ninh

+ Chủ trương: Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến hành.
Họi nghị chưa dứt khoát đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

+ Quyết định: Rút kinh nghiệm từ khởi nghĩa Bắc Sơn, Hội nghị quyết định tạm
hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ

- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 ( tháng 5/1941) tại Bắc Pó -
Cao Bằng.

+ Nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh. Trung ương bầu đồng chí Trường Chinh làm
Tổng Bí thư. Hội nghị nêu rõ những nội dung quan trọng:

Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật

Thứ hai, khẳng định cách mạng ở Đông Dương hiện tại chỉ phải giải quyết một
vấn đề cần kíp là “dân tộc giải phóng”; quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị chỉ rõ:
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu không đòi
được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được ”.

Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi
hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Từ đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước
Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba
dân tộc chống kẻ thù chung.

23
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc trong mặt trận Việt Minh lấy tên là
hội “cứu quốc”

Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn
thể dân tộc” .

Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân. Thực hiện khởi nghĩa từng phần để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi
nghĩa sau này.

- Ý nghĩa:

+ Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn
chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930

+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc.

+ Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị
lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.

b. Phong trào chống Pháp – Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang

- Ngày 27-9-1940, quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy qua
đường Bắc Sơn-Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa
phương nổi dậy khởi nghĩa làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành
lập.

- Ngày 23-11-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra. Cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp
đàn áp khốc liệt, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề.

- Ngày 13-1-1941, một cuộc binh biến nổ ra ở đồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương,
tỉnh Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy, nhưng cũng bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.

24
=> Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương là “những tiếng
súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các
dân tộc ở một nước Đông Dương” .

- Pháp - Nhật ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Nhiều chiến sĩ
cách mạng dã bị bắt và bị tử hình. Trước quân thù tàn bạo các chiến sĩ cộng sản đã nêu
cao ý chí kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.

- Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) ra đời”. Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước
của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh, mặc dù bị kẻ thù
khủng bố gắt gao.

Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh,
Phúc Yên) nay thuộc Hà Nội, đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào
quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong
tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.

Đảng và Việt Minh cho xuất bản nhiều tờ báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt
xiềng, Cứu quốc, Độc lập, v.v… Trong các nhà tù đế quốc, những chiến sĩ cách mạng
cũng sử dụng báo chí làm vũ khí đấu tranh.

Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa
cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt
Nam ra đời.

=> Việt Minh là mặt trận đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi tập hợp, giác ngộ
và rèn luyện lực lượng chính trị rộng lớn, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định
trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền sau này.

Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng chú trọng chuẩn bị
lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

- Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc
Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân.

- Ở Bắc Sơn-Võ Nhai, Cứu quốc quân tiến hành tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở
chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang,

25
Vĩnh Yên… Từ Cao Bằng, khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn,
Lạng Sơn.

- Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên
Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Đội đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị
và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao-
Bắc-Lạng.

c. Cao trào kháng Nhật cứu nước

- Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng
quân Liên Xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở
Đông Âu và tiến về phía Berlin (Đức). Ở Tây Âu, Anh-Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân
lên đất Pháp (2-1945) rồi tiến về phía Tây nước Đức. Nước Pháp được giải phóng, chính
phủ Đờ Gôn về Paris.

- Mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh đánh vào Miến Điện nay là Myanmar.
Quân Mỹ đổ bộ lên Philippin. Thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ráo riết
chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khôi phục lại quyền
thống trị của Pháp.

- Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương.
Pháp nhanh chóng đầu hàng.

- Ngày 12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: “ Nhật, Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”. Xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của
nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “đánh đuổi
phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập
chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật.

+ Quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa.

=> Chỉ thị ngày 12-3-1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó
là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu
nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
năm 1945.

26
- Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy ban giải phóng
Việt Nam.

- Ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang): thống nhất các lực lượng vũ trang thành
Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến khu
trong cả nước.

- Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng
lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm thời khu giải phóng
được thành lập và thi hành các chính sách của Việt Minh.

- Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, Đảng và Việt Minh phát động phong trào
“phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Tại nhiều địa phương, quần chúng tự vũ trang, xung
đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành những cuộc khởi nghĩa từng phần,
giành quyền làm chủ.

Tóm lại, Cao trào kháng Nhật cứu nước không những động viên được đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

d. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:

* Bối cảnh lịch sử:

- Giữa tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau khi phát xít Đức
đầu hàng Liên Xô và Đồng minh (9-5-1945) và sau đó Liên Xô tuyên chiến với Nhật

- Ngày 15-8-1945, Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều
kiện. Quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang
mang cực độ. Thời cơ cách mạng xuất hiện.

- Một nguy cơ mới đang dần đến. Theo quyết định của Hội nghị Posdam,
(Pốtxđam, 7-1945), quân đội Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra
và quân đội của Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp quân đội Nhật. Pháp
toan tính sẽ trở lại xâm lược Việt Nam.

Như vậy, Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian từ khi Nhật tuyên
bố đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, vào khoảng
nửa cuối tháng Tám năm 1945.

27
* Chủ trương tổng khởi nghĩa

- Ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu.

- Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban
Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân
lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

- Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ
Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì . Hội nghị quyết định :

+ phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít
Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

+ Khẩu hiệu đấu tranh: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân
dân!

+ Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương
hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,
không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã
tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh.

+ Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.

- Ngày16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội tán thành quyết định
tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt
Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” .

- Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn
binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái v.v… hỗ
trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

- Ngày 16-8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ
Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, ở hầu hết các

28
tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy
giành chính quyền ở cấp xã và huyện.

- Tại Hà Nội, ngày 17-8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các tổ
chức cứu quốc ở nội và ngoại thành biến cuộc mít tinh đó thành cuộc mít tinh ủng hộ
Việt Minh.

- Sáng ngày 19-8, Thủ đô Hà Nội, quần chúng cách mạng xuống đường để dự
cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Sau đó, cuộc mít tinh chuyển thành biểu
tình vũ trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm Phủ Khâm sai, Tòa
Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền thân Nhật.
Trước khí thế và sức mạnh áp đảo của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội
không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.

- Ngày 23-8, giành chính quyền ở Huế

- Sáng 25-8, tại Sài Gòn hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi
nghĩa chiếm các công sở. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng.

- Ngày 30-8-1945, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình, Hà
Nội. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Bản Tuyên ngôn nêu rõ:

“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước
tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” .

Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực
tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở
Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận

29
lợi để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao
của 15 năm đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp
là cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có
đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu
tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Tính chất: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam” .

Ý nghĩa

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế
quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót
nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.

Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm
quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm
công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử
dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên
giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân
cũ.

Cách mạng Tháng Tám cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới.

30
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.

Kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu.

Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất.

Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi
dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.

Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của
quần chúng

Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam.

Chương 3

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975)

31
I. Lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)

a. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám

* Thuận lợi:

+ thế giới : hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ
Latinh dâng cao.

+ trong nước: Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở
thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước.

* Khó khăn :

- Trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống
thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới.

- Tình hình kinh tế- chính trị - xã hội: Hệ thống chính quyền cách mạng mới được
thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu kinh nghiệm quản lý; kinh tế xơ xác, tiêu điều, công
nghiệp đình đốn, nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nạn đối đầu năm
1945 chưa qua , nguy cơ một nạn đối mới đang ập đến, đe doa đời sống nhân dân; nền tài
chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng, 95% dân số thất học, mù chữ, tệ nạn xã hội
diễn ra phổ biến.

- Về thù trong giặc ngoài: Ở phía Nam , Quân đội Anh đã mở đường cho thực dân
Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai

Ở Bắc vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Tưởng kéo vào Việt Nam. Đồng thời, trên đất
nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật Hoàng thua trận chưa được giải giáp.

=>Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt
Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói,
nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.

b. Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng

32
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau
khi giành được chính quyền.

Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, xác định
rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng” ; nêu rõ mục tiêu vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân
tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; Chị thị nêu nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt “là củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho
nhân dân” .

Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp
hiện thời của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử
Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực
lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên
tắc độc lập về chính trị; đối với Tưởng nêu chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với
Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.

Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ
thị kháng chiến, kiến quốc đã đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ và đạt đuợc kết quả to lớn

-Về kinh tế: Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp
bách. Đảng đã vận động nhân dân thục hiện : tăng gia sản xuất, lập hũ gạo tiết kiệm, tổ
chức Tuần lễ vàng, .v.v. thực hiện chính sách giảm tô 25%. Sản xuất lương thực tăng lên
rõ rệt, cả về diện tích và sản lượng hoa màu. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi.
Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.

- Về văn hoá – xã hội: Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng. Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “Bình
dân học vụ”; vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới để đẩy lùi
các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Đến cuối năm 1946, cả nước đã
có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.

- Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng: Đảng chủ trương tiến
hành tổng tuyển cử theo lối phổ thông đầu phiếu. theo đó, Ngày 6-1-1946, cả nước tham
gia cuộc bầu cử và có hơn 89% số cử tri đã đi bỏ phiếu và bầu ra 333 đại biểu. Quốc hội

33
khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3-1946 và lập ra Chính
phủ chính thức, gồm 10 bộ. Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Các địa phương cũng tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn Ủy
ban hành chính các cấp. Tháng 11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946). Mặt trận dân tộc
thống nhất tiếp tục được mở rộng. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được
thành lập. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an
được tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân, tự vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí
Nam...

c. Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu
tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ

Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài
Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Nam Bộ bắt
đầu. Ngày 25-10-1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái Bè
(Mỹ Tho) quyết định những biện pháp cấp bách củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng cơ
sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô; tổ chức và phát động toàn dân kháng chiến,
kiên quyết đẩy lùi cuộc tấn quân của quân Pháp, ngăn chặn bước tiến của chúng...

Chính phủ, Hồ Chí Minh và nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp
thời chi viện, chia lửa với đồng bào Nam Bộ kháng chiến.

Trong những ngày đầu, so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, các tỉnh
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã tổ chức lại lực lượng, củng cố các khu căn cứ và lực
lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn dân đứng lên ngăn chặn bước tiến
của thực dân Pháp; tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài sau này.

Đối với quân Tưởng, Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách
lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” đề ra
nhiều đối sách khôn khéo như: Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật bằng việc ra
“Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý tự giải tán, ngày 11-11-1945”, chỉ để lại
một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông
Dương” ; Chính phủ Việt Nam đồng ý việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần
thiết cho 20 vạn quân đội Tưởng , được sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ, nhượng 70
ghế trong Quốc hội khôn thông qua bầu cử.

34
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và Chính
phủ Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp ước Hoa-
Pháp, ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra Bắc
thay thế cho quân Tưởng. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình thế vô
cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và
Tưởng, trong khi thực lực cách mạng vẫn còn non kém.

Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung ương
Đảng, Hồ Chí Minh chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích
kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam, đẩy nhanh
quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6-3-1946, tại Hà Nội, Ta đã kí
với Pháp bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định sơ bộ nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt
Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm
trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; về phía Việt Nam đồng ý để
15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế cho quân Tưởng và sẽ rút dần trong thời hạn
5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt-
Pháp...

Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã
ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát
triển của tình hình.

Từ ngày 19-4 đến ngày 10-5-1946, Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị
ở Đà Lạt. Từ ngày 31-5-1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa
Pháp. Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng
dẫn sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, (Phôngtenơblô, Paris-Pháp) từ ngày 6-7 đến
ngày 10-9-1946, song không thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp. Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng và để đảm bảo an
toàn cho phái đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký với Pháp một bản Tạm ước 14-9 đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền
lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục
đàm phán...

35
Ở trong nước, bọn tay sai phản động Đại Việt-Quốc dân đảng, ráo riết chuẩn bị
một âm mưu thâm độc đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
kiên quyết, sáng suốt của Đảng và Chính phủ, rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công
an đã khôn khéo, mưu trí, sáng tạo, quyết đoán tổ chức một cuộc đột nhập, tấn công bất
ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt- Quốc dân đảng ở số nhà 132 Duvigneau (Đuyvinhô nay
là phố Bùi Thị Xuân -Hà Nội), nhanh chóng khống chế bọn phản động có vũ trang, tổ
chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động. Với thắng lợi quan trọng này ta
đã đập tan hoàn toàn mưu đồ thâm độc lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai
phản động câu kết với thực dân Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng.

Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng đã đem
lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược
Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ
thù; củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng; tạo thêm thời gian hòa
bình, hòa hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu
dài.

Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập. Triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến”. Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sự ủng hộ vật chất là chính trị,
tinh thần của toàn dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đó là những thành công và kinh
nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, giai đoạn 1945-1946.

2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm
1946 đến năm 1950

a. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng

Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng,sau
đó đổ quân lên Đà Nẵng và Lạng Sơn. Trong các ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp
ở Hà Nội ngang nhiên tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công
chính của ta; bắn đại bác gây ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng
Bún. Ngày 18-12, Thực dân Pháp gửi tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải tán lực
lượng tự vệ chiến đấu và trao quyền thủ đô ccho chúng… Vì vậy, khả năng hoà hoãn
không còn nữa. Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là cầm
súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

36
Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

Ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp tại
làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) đã đánh giá mức
độ nghiêm trọng của tình hình, quyết định phát động toàn dân, toàn quốc tiến hành cuộc
kháng chiến chống xâm lược Pháp với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một
lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...” .

Từ 20 giờ ngày 19-12-1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quân và dân Hà
Nội và ở các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra đã đồng loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ.

Tại Hà Nội, vào lúc 20 giờ 3 phút, pháo đài Láng bắn loạt đại bác đầu tiên vào
thành Hà Nội, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu . Cuộc chiến đấu ở mặt trận
Hà Nội là quyết liệt nhất, diễn ra liên tục trong suốt 60 ngày đêm khói lửa với tinh thần
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Quân ta đã chống trả quyết liệt, đánh tiêu hao nhiều
sinh lực địch, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não, lãnh đạo của Trung ương và nhân dân
rút ra ngoại thành; hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bước đầu làm
thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn lực lượng.

Ở các địa phương khác, như Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc
Giang quân và dân ta cũng đồng loạt nổ súng tấn công vào các vị trí đóng quân của địch
trong các đô thị, ngăn chặn địch trên các tuyến giao thông, đánh phá các cơ sở hạ tầng
chiến tranh của địch; kìm giữ chân địch không cho chúng mở rộng địa bàn chiếm đóng
xung quanh thành phố, thị xã, thị trấn; tiếp tục di chuyển nhân tài, vật lực lên các khu căn
cứ địa và ATK...

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ
sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947.
Đường lối được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng như: Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc (25-11-1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-

37
1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của
đồng chí Trường Chinh (8-1947),... với nội dung như sau:

Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc
lập, tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế
giới...

Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân
tích cực tham gia kháng chiến , thực hiẹn “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là
một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”.

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận
quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định.

Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng
chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực
lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta;
lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh, từng bước để đi đến
thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát
huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu,
nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy
cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều
kiện.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn
toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta tiến lên giành những thắng lọi to lớn.

b.Tổ chức chỉ đạo cuộc kháng chiến từ 1947 đến 1950

Ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung
ương, nhấn mạnh việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng
cố chính quyền nhân dân ở vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du kích, đẩy

38
mạnh công tác ngoại giao và tăng cường công tác xây dựng Đảng Nhiều quần chúng ưu
tú công, nông, trí đã gia nhập Đảng.

Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong
trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân
dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông các cấp.

Về quân sự, Thu Đông 1947, Pháp đã huy động khoảng 15.000 quânhình thành ba
mũi tiến công chính tiến lên vùng ATK Việt Bắc, trong đó có mũi thọc sâu, đột kích nhảy
dù xuống trung tâm thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, hòng bắt gọn Chính phủ Hồ Chí
Minh. Các mũi khác tiến theo đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng; một mũi tiến theo
đường sông Hồng lên sông Lô, sông Gâm tiến công vào ATK Tuyên Quang.

-Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá tan
cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp chủ trương tiến hành chiến tranh du kích ở đồng
bằng Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc
tiếp ứng cho nhau; tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân, đồng loạt tấn công đánh địch trên
tất cả các hướng tiến công của chúng cả đường bộ và đường sông.

Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21-12-1947, quân và dân
ta đã lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp. Ta đã bảo toàn
được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.

Từ năm 1948, tình hình quốc tế có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt, ngày 1-
10-1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, Nhà nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa ra đời.

Trên mặt trận ngoại giao, đầu năm 1950, Chính phủ Trung Quốc, Liên Xô và các
nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công nhận và đặt quan hệ ngoại giao
với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam. Với Lào và Campuchia, Đảng chủ trương “mở rộng mặt trận Lào-Miên”,
thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu Việt-Miên-Lào để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu.

Tháng 11-1949, Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Lực
lượng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) được phát triển
nhanh chóng và trưởng thành về mọi mặt.

39
Tháng 2-1950, Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương tổng động viên, ra sắc lệnh huy
động nhân lực, vật lực, tài lực của toàn dân để phục vụ đẩy mạnh công cuộc kháng chiến
tiến lên giành thắng lợi lớn hơn.

Trong vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du
kích để “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”.

Từ giữa năm 1949, tướng Revers (Rơve) -Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp
đề ra kế hoạch mở rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt
biên giới Việt-Trung. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở
Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát
triển lên giai đoạn mới. Cuộc chiến đấu ta diễn ra từ ngày 16-9 đến 17-10-1950 và đã
giành được thắng lợi to lớn. Chiến thắng này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng
chiến chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn.

3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951-1954

a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)

* Hoàn cảnh lịch sử:

- Tthế giới: Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở
châu Âu bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình và
phong trào cách mạng. Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp can
thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.

- Trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi
quan trọng. Cách mạng Lào và Campuchia cũng có những chuyển biến tích cực. Điều
kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Đông Dương các yêu cầu bổ sung và hoàn
chính đường lối cách mạng phù hợp với mỗi nước ở Đông Dương để đưa kháng chiến đi
đến thắng lợi.

Nội dung đại hội:

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-
1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham

40
dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000
đảng viên toàn Đảng. Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam

Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa
xã hội của Trường Chinh.

Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng
Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam gồm các nội dung quan trọng sau đây:

- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân
dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến”.

- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Nhưng nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với
nhau, nhưng nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành
công cuộc giải phóng dân tộc.

- Động lực của cách mạng Việt Nam được xác định gồm có bốn giai cấp là: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có
những thân sĩ (thân hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ.

- Triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là quá trình lâu dài, có các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ
trung tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong
kiến, thực hiện triệt để người cầy có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng trong giai đoạn
hiện ta nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc
gia, thực hiện chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam, làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy
viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên

41
dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được
bầu lại làm Tổng Bí thư.

b. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt

Nhằm làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi (Jean de Lattre de Tassigny), từ
đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự có quy mô tương
đối lớn đánh vào các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung du và ĐBBB; Chiến dịch
Hòa Bình (12-1951) và Chiến dịch Tây Bắc Thu Đông 1952; chiến trường Liên khu V,
chiến dịch Thượng Lào,… phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên, Bắc Quảng Nam, Khánh Hòa, Nam Bình Thuận...

Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy
mạnh việc chăm lo phát triển thực lực, củng cố và tăng cường sức mạnh hậu phương
kháng chiến.

Đầu năm 1953, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư đã họp kiểm
điểm về thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và quyết định tiến tới cải cách ruộng
đất ở một số vùng nông thôn Việt Nam. Tháng 11-1953, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc của Đảng lần thứ nhất quyết nghị thông
qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam.

Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải cách
ruộng đất và ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh Luật cải
cách ruộng đất. Song, do còn hạn chế trong nhận thức, việc tiếp thu kinh nghiệm đấu
tranh giai cấp của nước ngoài đã mắc vào giáo điều chủ nghĩa, vi phạm khuyết điểm
nghiêm trọng là độc đoán, chuyên quyền, định kiến chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh.

c. Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến

Bước vào năm 1953, quân đội Pháp ở Đông Dương bị mắc kẹt trong mâu thuẫn
giữa tập trung binh lực và chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa bảo vệ đồng
bằng Bắc Bộ và bảo vệ vùng Tây Bắc, Thượng Lào.

Tháng 5-1953, Pháp cử Đại tướng H. Navarre (Hăngri Nava) đang đảm nhiệm
chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội
viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị-quân
sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18

42
tháng nhằm “chuyển bại thành thắng”. Nava chủ trương tăng cường tập trung binh lực,
hình thành những “quả đấm thép” để quyết chiến với chủ lực của Việt Minh. Trong quá
trình triển khai kế hoạch, Nava đã từng bước biến Điện Biên Phủ-một địa danh vùng Tây
Bắc Việt Nam trở thành một căn cứ quân sự khổng lồ và là trung tâm điểm của kế hoạch.
Đến đầu năm 1954, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một
“pháo đài khổng lồ không thể công phá”, được giới quân sự, chính trị Pháp-Mỹ đánh giá
là “một cỗ máy để nghiền Việt Minh”.

Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953-1954. Từ đầu tháng 9-1953, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy chỉ
đạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu, đánh giá toàn diện
tình hình quân sự trên chiến trường và vạch ra kế hoạch tác chiến mới. Cuối tháng 9-
1953, Bộ Chính trị họp bàn và thông qua chủ trương tác chiến chiến lược Đông Xuân
1953-1954, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta, giữ vững thế chủ
động, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Nghị quyết quan trọng này của Bộ
Chính trị đã mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tháng 12-1953, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng xong các kế hoạch tác chiến cụ
thể cho các chiến trường. Ngày 6-12-1953 Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch
Điện Biên Phủ.

Phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ , ta mở nhiều cuộc tấn công trên các hướng
chiến lược quan trọng, như: Lai Châu (12-1953); Trung Lào (12-1953), Hạ Lào và Đông
Bắc Campuchia (12-1953); mặt trận Tây Nguyên (1-1954); Thượng Lào (1-1954)…

Chiến dịch Điện Biên Phủ với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc
thắng”, ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung tâm
Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tiến
công lớn, vào hồi 17 giờ 30 phút chiều 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh
chiếm hầm chỉ huy, bắt Đờ Cátơri chỉ huy trưởng và Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống. Chiến dịch
Điện Biên Phủ kết thúc đã đưa cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và cuộc
kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi vẻ vang..

43
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí và khát vọng độc lập, tự
do của nhân dân Việt Nam. Với nước Pháp “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng
khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây...” . Thắng lợi ở
Điện Biên Phủ là “thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”, được ghi nhận là một chiến công
vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX và “đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân” .

Thắng lợi trên mặt trận quân sự quyết định thắng lợi trên bàn phán ngoại giao.
Ngày 8-5-1954, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm
Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị Giơnever ( Thuỵ Sĩ) với tư thế một dân tộc chiến thắng.
Trong 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp ngày 21-7-1954 ta đồng ý chấp
nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.

Nội dung cơ bản như sau: Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó;
cam kết chấm dứt cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương... Kết
quả Hội nghị phản ánh xu thế chung và cục diện tình hình quốc tế lúc bấy giờ.

Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam và mở
đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ba nước
Đông Dương sau này.

4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ

a. Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn
dân ta đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám;
củng cố, phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội; mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề
về chính trị- xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã

44
hội, xây dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến
lớn miền Nam.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn, có ý
nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân
tộc, một nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một cường quốc thực dân, nó có tác dụng
cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ ở các châu lục Á,
Phi, Mỹ Latinh.

b. Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến

Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc
kháng chiến ngay từ những ngày đầu.

Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ
bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến. Kết hợp nhuần
nhuyễn hình các thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố phát triển cơ sở hạ tầng
chính trị-xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ chức cuộc
kháng chiến của Đảng, Chính phủ trên thực tế.

Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng
chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng
đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch,
đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện.

Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến.

Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.

II. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975)

1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng 2 miền Nam-Bắc (1954-1965)

45
a. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công (1954-1960)

*Tình hình nước ta sau tháng 7/1954

+ Thuận lợi: Về thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh
tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn mạnh của Liên Xô. Phong trào giải phóng
dân tộc tiếp tục phát triển. Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.

Ở trong nước, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương
cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn trước sau 9 năm kháng chiến.
Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước

+ Khó khăn: Thế giới xuất hiện đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế
giới, với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Thế giới đi vào thời kỳ chiến tranh
lạnh, chạy đua vũ trang. Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa,
nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc.

Trong nước, đất nước chia làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau, miền Nam
do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hòa bình thống nhất đất nước. Kinh tế
miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt
Nam.

Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải
vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với
tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.

*Chủ trương của Đảng về khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn
gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân

Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa II) đã nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền
Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hoà bình được lập lại, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo đúng
lịch trình quy định.

46
Ngày 10-10-1954, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955,
toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.

Truóc hết, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp làm
trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và
vận động đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho
nông nghiệp.

Về khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn
thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị,
một số nhà máy mới được xây dựng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển
nhanh.

Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh.. Đến
tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền
núi.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, ta đã phạm
phải một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình hình thực
tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn miền Bắc
sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông
thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh; sử dụng hình thức, phương pháp
không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt Nam

Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tháng 9-1956, đã
nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức,
công khai tự phê bình trước nhân dân, thi hành kỷ luật đối với một số Ủy viên Bộ Chính
trị và Ủy viên Trung ương Đảng.

Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá
thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong
giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).

47
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua
Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp

Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-
1960) đã tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc
nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu
phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

*Ở miền Nam

Năm 1954, đế quốc Mỹ đã nhảy vào thay chân Pháp thống trị miền Nam Việt
Nam. Âm mưu xâm lược của Mỹ đối với miền Nam là biến nơi đây thành thuộc địa kiểu
mới, chia cắt lâu dài Việt Nam; xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự để tiến
công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đông Nam khi có điều kiện; biến
miền Nam thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn
chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng này.

Để thực hiện những âm mưu đó, Mỹ đã nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền
tay sai Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống. Mỹ và chính quyền Ngô
Đình Diệm đã xé bỏ Hiệp định Geneve, cự tuyệt tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Tháng 7-1954, Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu
tranh chính trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi đối phương phải thi hành Hiệp định,
tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, trong tình hình mới.

Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 9-1954, nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt của
cách mạng miền Nam là: đấu tranh đòi thi hành Hiệp định; chuyển h-ướng công tác cho
phù hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, độc
lập, đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ, hoàn thành thống nhất Tổ quốc.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền
Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ
Chính trị làm Bí thư. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam,
tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở
miền Nam, nêu rõ chế độ thống trị của Mỹ Diệm ở miền Nam là một chế độ độc tài, phát
xít, hiếu chiến. Để chống đế quốc Mỹ và tay sai, nhân dân miền Nam chỉ có con đường
cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không

48
có một con đường khác ... Bản Đề cương là một trong những văn kiện quan trọng, góp
phần hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.

Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã
man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều
nơi quần chúng đã lấy vũ khí chôn giấu khi có Hiệp định đình chiến, cư¬ớp súng địch,
dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những tên phản động chỉ điểm,
ác ôn. Nhiều khu căn cứ được củng cố lại, nhiều đội vũ trang được thành lập.

Từ năm 1958, kẻ địch càng đẩy mạnh khủng bố dã man, liên tiếp mở các cuộc
hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung. Tháng 3-1959, chính
quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh”. Với luật
10/59, địch dùng Tòa án quân sự đặc biệt để đư¬a những người bị bắt ra xét xử và bắn
giết tại chỗ.

Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và
tay sai với nhân dân miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, làm cho tình thế cách mạng chín
muồi, dẫn đến bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của quần chúng. Đáp ứng yêu cầu đó, tháng
1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam với
tinh thần cơ bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực
cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ tranh giành chính quyền về tay nhân dân... Nghị
quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam, tạo đà cho cuộc
khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn.

Từ giữa năm 1959, một số cuộc khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh vũ trang đã bùng
nổ ở Tà Lốc, Tà Léc (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận); Trà Bồng (Quảng Ngãi) và ở Gò
Quảng Cung (Đồng Tháp)... Ngày 17-1-1960, ở Bến Tre, hình thức khởi nghĩa đồng loạt
(đồng khởi) bắt đầu bùng nổ do đồng chí Nguyễn Thị Định lãnh đạo ở huyện Mỏ Cày,
sau đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi
nhanh chóng mở rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số
nơi thuộc các tỉnh Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng
mảng lớn.

Đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở
địch ở nhiều vùng nông thôn, có 1.383 xã/2.627 xã nhân dân lập chính quyền tự quản.

49
Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Tây
Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị và các đồn điền, nhà máy.

Từ thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây
Ninh), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, do Luật sư
Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Từ đây cách mạng miền Nam đã có một tổ chức chính trị
để tập hợp rộng rãi quần chúng, nhân dân đoàn kết đấu hướng tới mục tiêu đánh đổ chế
độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng
một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất nước
nhà.

Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách
mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công, từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới
của Mỹ.

a. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng
miền Nam (1961-1965)

Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà
Nội. “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa
bình thống nhất nước nhà” .

Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn
mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,… .

- Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: thực hiện đồng thời hai chiến
lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

- Về mục tiêu chiến lược chung: cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam
thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào
mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.

50
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ
địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

- Về hòa bình thống nhất Tổ quốc: chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa
bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải
luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ
và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước
ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

-Về triển vọng của cách mạng: Cuộc đấu tranh sẽ diễn ra gay go, gian khổ, phức
tạp và lâu dài . Song thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất
định sum họp một nhà.

-Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc
điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt

Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của
nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền
Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước
nhà.

Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư
doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ

51
nghĩa bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp
hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.

- Ý nghĩ đường lối:

+ Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt
chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.

+ Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt
Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của
hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng
trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, do đó
tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1958-1960), Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm
năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là
tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu
thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Kế hoạch này mới thực hiện được hơn bốn năm (tính đến ngày 5-8-1964) thì được
chuyển hướng do phải đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, song
những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.

Trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc
xã hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cách mạng miền Nam thông qua

52
hai tuyến đường : đường mòn Hồ Chí Minh và đường Hồ Chí Minh trên biển. Đây là một
thành công lớn, có ý nghĩa chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy sinh anh
dũng của cán bộ chiến sĩ, góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại
chiến tranh xâm lược thức dân mói của đề quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961-1965….

Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, Miền Bắc đã trở
thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước với chế độ chính trị ưu việt, với lực
lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.

Ở miền Nam, từ năm 1961, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” , một bộ phận trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”, với vai trò
của Tổng thống Mỹ John F Kennedy (J. Ken nơ dy). Với công thức “cố vấn, vũ khí Mỹ
và quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa”, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai
thực hiện kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, dự định lập 17.000 ấp
chiến lược là “quốc sách”. Chúng đã có hai kế hoạch quân sự-chính trị để thực hiện mục
tiêu của chiến tranh đặc biệt là kế hoạch Stalay-Taylo (1961-1963) và L. Johnson –
Robert S McNamara (Giôn xơn-Mắc Namara 1964-1965). Chiến thuật quân sự được
chúng áp dụng là “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.... Từ ngày 10-8-1961, Mỹ bắt đầu
rải chất độc Dieoxin (chất đọc màu da cam) xuống miền Nam Việt Nam

- Tháng 1-1961 và tháng 2-1962, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị về “Phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Chủ trương đẩy mạnh đấu tranh
vũ trang song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược: đô
thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rùng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính
trị và binh vận.

- Tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Văn
Linh làm Bí thư. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập
trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ . Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam còn làm chức năng của chính quyền cách mạng.

- Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên
gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Ngày 2-1-1963, quân ta giành thắng lợi vang dội tại Ấp Bắc (Mỹ Tho) đã thể
hiện sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh
vận, chống địch càn quét và nổi dậy giành quyền làm chủ.

53
- Từ đầu năm 1963, phong trào đấu tranh phá “ấp chiến lược” phát triển mạnh mẽ,
đồng thời, phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi cuốn đông đảo các tầng
lớp nhân dân lao động, trí thức, học sinh, sinh viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là
phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo năm 1963.

- Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nội bộ kẻ địch ngày càng khủng
hoảng trầm trọng. Ngày 1-11-1963, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực lượng quân đảo chính lật
đổ anh em Diệm – Nhu đưa Dương Văn Minh lên làm tổng thống.

- Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn
đề quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của
Đảng. Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trò
quyết định trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường.

- Cuối 1964 đầu 1965, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dịch với hàng
trăm trận đánh lớn nhỏ trên khắp các chiến trường, như ở An Lão, Việt An, Ba Gia , Bình
Giã, Đồng Xoài .... Các chiến dịch quân sự và phong trào đấu tranh chính trị dồn dập, có
hiệu quả của quân và dân miền Nam đã làm cho ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ lầ quân đội
chính quyền Sài Gòn, hệ thống “ấp chiến lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc.

- Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ đầu năm 1961 đến giữa năm
1965), lực lượng cách mạng ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.

- Đến đầu năm 1965, các công cụ, chỗ dựa của “chiến tranh đặc biệt” là ngụy quân
ngụy quyền, ấp chiến lược, đô thị đều bị lung lay tận gốc. Chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Thắng
lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.

2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965-1975)

a. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng

*Bối cảnh lịch sử:

Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu
vãn chính quyền và quân đội Sài Gòn, Mỹ quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào tham chiến ở miền Nam Việt
Nam. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân

54
đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của
miền Bắc cho cách mạng miền Nam.

*Nội dung đường lối

Trước tình hình mới, Đảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần
thứ 12 (12-1965) để tập trung phân tích đánh giá tình hình và đưa ra chử trương, chiến
lược trong giai đoạn mới:

- Nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng nhân định
“Chiến tranh cục bộ” vẫn là loại hình chiến tranh thực dân xâm lược được thực hiện trên
thế thua và thế thất bại nên ngay từ đầu đã chứa đựng đầy mâu thuẫn. về tính chất không
thay đổi nhưng về mức độ sẽ diễn ra ác liệt hơn. Từ đó, Trung ương Đảng chủ trương
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc

- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

- Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh
càng mạnh; cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở
những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian
tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh
quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba
vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực
tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có
chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn

55
bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục
bộ ra cả nước.

- Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương
lớn. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu
chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

*Ý nghĩa: Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của
dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ va

b. Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc;
giữ vững thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc
Mỹ 1965-1968

Ở miền Bắc: Ngày 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ
dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ.

- Mục đích: của Tổng thống Mỹ Jonhson đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá
hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện của miền
Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc Việt
Nam, buộc chúng ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện do Mỹ đặt ra.

- Chủ trương của Đảng: Một là, kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù
hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại; Hai là, tăng cường lực lượng quốc phòng cho
kịp với sự phát triển tình hình cả nước có chiến tranh; Ba là, ra sức chi viện cho miền
Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến trường chính miền Nam; Bốn là, phải kịp
thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới.

Thực hiện những nghị quyết của Đảng và theo Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, quân
và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu,
với niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ. Thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ

56
có phong trào “Ba đảm đang”, nông dân có phong trào “Tay cày tay súng”, công nhân có
phong trào “Tay búa, tay súng”,... Đó thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại hào hùng, sáng tạo với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên
bố hạn chế ném bom miền Bắc, và ngày 1-11-1968, Mỹ buộc phải chấm dứt không điều
kiện đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân..

- Kết quả, ý nghĩa:. Chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở miền Bắc lúc
đó đã vượt qua được nhiều thử thách nghiêm trọng và ngày càng phát huy tính ưu việt
trong chiến tranh, đạt đuọc nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Sản xuất nông
nghiệp không những không giảm sút mà còn có bước phát triển tiến bộ. Cơ sở vật chất-kỹ
thuật trong nông nghiệp được tăng cường so với trước chiến tranh; có 4.655 hợp tác xã
được trang bị cơ khí nhỏ. Phong trào thâm canh tăng vụ được đảy mạnh ở nhiều địa
phương. Nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội vẫn bảo đảm.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy trì mặc dù gặp nhiều
khó khăn gay gắt. Nhiều nhà máy và xí nghiệp lớn phải sơ tán hoặc phân nhỏ để tiế tục
sản xuất trong điều kiện có chiến tranh. Công nghiệp địa phương phát triển mạnh.

Đời sống nhân dân căn bản được ổn định. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, ý tế, đào
tạo cán bộ chẳng những không ngừng trệ mà còn phát triển mạnh mẽ trong thời chiến và
đạt nhiều kết quả tốt. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên
được đẩy mạnh, vừa phục vụ sự nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn bị cho
nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong chiến đấu, quân dân miền Bắc đã bắn rơi hơn 3.200 máy bay, bắn cháy 140
tàu chiến của địch. Nhiệm vụ chi viện tiền tuyến được hoàn thành xuất sắc, góp phần
cùng quân dân miền Nam đánh bại cuộc “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.

Ở miền Nam: Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ tiến hành là cuộc chiến tranh có
quy mô lớn nhất, mạnh nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự tham gia của
quân đội Mỹ và nhiều nước chư hầu.

- Mùa khô 1965-1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã huy động 70 vạn quân, trong đó
có gần 20 vạn quân Mỹ, mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào ba hướng chính:

57
Tây Nguyên, đồng bằng Khu V và miền Đông Nam Bộ bao gồm cả vùng ngoại thành Sài
Gòn.

- Theo đường lối kháng chiến của Đảng và được hậu phương miền Bắc ra sức chi
viện, quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu chống lại cuộc “chiến tranh cục bộ” của
Mỹ và tay sai. Năm 1965, quân dân ta bẻ gẫy cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-
1966, làm thất bại kế hoạch tìm và diệt, bình định của Mỹ.

- Chiến thắng Vạn Tường (5/8/1965), một cao trào đánh Mỹ, diệt ngụy được dấy
lên mạnh mẽ khắp chiến trường miền Nam.

- Mùa khô 1966-1967, với lực lượng hùng hậu, gồm 39 vạn quân Mỹ, hơn 5 vạn
chư hầu và 54 vạn quân ngụy cùng với 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng và xe bọc thép, Mỹ
đã mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm vào hướng từ Tây Nguyên đến Sài
Gòn. Song đều bị quân ta bẻ gẫy.

- Trên mặt trận chống phá “bình định”, quân và dân các vùng nông thôn kiên trì
phương châm “bốn bám” và đẩy mạnh “ba mũi giáp công” đã chặn đánh quyết liệt các
cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ - ngụy.

- Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục phát triển, mức độ ngày càng quyết
liệt ở hầu khắp các thành thị miền Nam, nhất là ở Huế và Đà Nẵng, với các khẩu hiệu đòi
lật đổ chính phủ bù nhìn tay sai Mỹ, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam.

Đến cuối năm 1967, cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã được đẩy đến đỉnh cao,
số quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên 48 vạn, mọi thủ đoạn và biện pháp chiến
tranh đã được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không sao thực hiện được các mục
tiêu chính trị và quân sự đã đề ra. Mặt khác, phong trào phản chiến tranh, đòi rút quân
Mỹ về nước ngày càng lan rộng trong các tầng lớp nhân dân ở Mỹ. Kết hợp với những
thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của quốc tế, bè bạn, mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, phát huy sức mạnh tổng hợp
để đánh Mỹ.

- Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã ra một nghị quyết chuyển cuộc chiến tranh cách
mạng miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng
phương pháp tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào tất cả các đô thị, dinh lũy của Mỹ-ngụy

58
trên toàn miền Nam. Nghị quyết này của Bộ Chính trị đã được Hội nghị lần thứ 14 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp tháng 1-1968 thông qua.

- Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Quân giải phóng mở chiến dịch
đường 9 Khe Sanh từ 24-1 đến 15-7-1968 như là cuộc nghi binh chiến lược. Đêm 30 rạng
ngày 31-1-1968, đúng vào dịp giao thừa Tết Mậu Thân, thừa lúc địch sơ hở, cuộc tổng
tiến công và nổi dậy đợt I đã được phát động trên toàn miền Nam. Quân và dân ta đồng
loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/42 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu
quân sự, kho tàng, hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và địa phương, căn cứ
quân sự của Mỹ, từ Đường 9-Khe Sanh đến đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt mạnh mẽ
là ở Sài Gòn-Gia Định, Huế.

- Tháng 5 và tháng 8-1968, quân và dân ta tiếp tục tiến công đã tiêu diệt và loại
khỏi vòng chiến đấu hàng chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải
phóng thêm hàng triệu đồng bào, làm tê liệt nhiều cơ quân đầu não của chính quyền địch.

- Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và sáng
tạo của Đảng, là một đòn tiến công chiến lược đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới
cầm quyền Mỹ, vào tận hang ổ kẻ thù. Đây là thất bại chiến lược có tính chất bước ngoặt,
khởi đầu quá trình đi đến thất bại hoàn toàn của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ phá sản. Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với
Việt Nam tại Paris (Pháp) từ ngày 13-5-1968.

- Hội nghị paris chính thức mở ra. Phái đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Xuân Thủy làm Trưởng đoàn và đồng chí Lê Đức Thọ
ủy viên Bộ Chính trị làm cố vấn. Tháng 1-1969, Mỹ phải chấp nhận cuộc đàm phán với
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris, có sự tham gia của đoàn đại biểu
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam được thành lập ngày 6-6-1969 do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát
làm Chủ tịch và cử đoàn đại biểu tham gia đàm phán ở Paris do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Nguyễn Thị Bình làm Trưởng đoàn.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động quân sự năm 1968 đã có biểu hiện
chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế. Đặc biệt là sau
đợt tấn công trong Tết Mậu Thân, ta đã không kiểm điểm, rút kinh nghiệm kịp thời,
không đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch cũng như âm mưu đối phó của

59
chúng, chủ trương tiếp tục mở các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện và
yếu tố bất ngờ “là sai lầm về chỉ đạo chiến lược” . Địch đã phản kích quyết liệt, đẩy chủ
lực ta ra xa khỏi các thành thị, các vùng ven, vùng đồng bằng, tiến hành bình định trên
quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng
miền Nam. Cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ khó khăn nghiêm trọng do bị tổn thất
lớn về lực lượng và thế trận.

c. Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-1975)

*Miền Bắc nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục cuộc xây dựng miền Bắc
và tăng cường lực lượng cho miền Nam.

- Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được nhiều thành tựu
to lớn.Trong nông nghiệp, năm 1969 diện tích các loại cây trồng đều vượt năm 1968,
riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, chăn nuôi cũng phát triển mạnh. Trong
công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị địch đánh phá được khôi phục, sửa chữa. Hệ thống
giao thông, cầu phà, bến bãi được khẩn trương khôi phục và xây dựng thêm. Trong lĩnh
vực giáo dục, y tế có bước phát triển tốt so với trước, nhất là hệ thông giáo dục đại học,
tăng lên 36 trường và phân hiệu với hơn 8 vạn sinh viên.

- Những kết quả đạt được đã làm cho tiểm lực mọi mặt của hậu phương lớn miền
Bắc được tăng cường, cải thiện đời sống nhân dân, cho phép miền Bắc chi viện sức
người, sức của cho tiền tuyến ngày càng cao, góp phần quyết định tạo nên chiến thắng to
lớn trên chiến trường miền Nam.

- Tháng 4-1972, đế quốc Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là cuộc rải thảm bom bằng pháo đài
bay B.52 trong 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương. Trước hành
động chiến tranh điên cuồng của địch, Trung ương Đảng đã phát động quân dân miền
Bắc nhanh chóng phát triển cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại đến
đỉnh cao, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện miền Nam, giữ vững lập trường
đàm phán. Trong 9 tháng chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, quân
dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhất là trong 12 ngày
đêm cuối năm 1972, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn cuộc

60
chiến tranh phá hoại của Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền
Bắc và trở lại bàn đàm phán ở Pais.

Sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, miền Bắc có hòa bình, Trung ương Đảng đã
đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế 1974-1975. Với khí thế chiến
thắng, nhân dân miền Bắc đã lao động hăng hái, khẩn trương, thực hiện có hiệu quả kế
hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế
đã trở lại hoạt động bình thường và tiếp tục tăng cường chi viện cho tiền tuyến miền Nam
về sức người sức của.

- Qua hai lần chống chiến tranh phá hoại, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy
bay trong đó có nhiều B.52, bắn cháy 271 tầu chiến của Mỹ, bắt và tiêu diệt hàng ngàn
giặc lái Mỹ.

Miền Bắc còn hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền
Nam và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.

Ở miền Nam, sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, từ đầu năm 1969,
Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã đề ra chiến lược toàn cầu mới mang tên “Học thuyết
Níchxơn” chủ trương thay chiến lược “chiến tranh cục bộ” bằng chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” một chính sách rất thâm độc nhằm “dùng người Việt Nam đánh người
Việt Nam” để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam.

- Trước âm mưu và thủ đoạn của Mỹ, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ Chính trị (6-1970) đã đề ra chủ trương mới nhằm
chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh", lấy nông thôn làm hướng tiến công
chính, tập trung ngăn chặn và đẩy lùi chương trình “bình định” của địch.

- Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh
bại cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ-ngụy đánh vào Đường 9-Nam
Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, cắt đứt con đường tiếp tế quan trọng của
miền Bắc đối với miền Nam và phong trào kháng chiến Campuchia. Cũng vào thời gian
này, quân và dân ta cùng với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng
1-1971” của Mỹ-ngụy đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông-Bắc Campuchia.

- Xuân-Hè năm 1972, quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn,
cường độ mạnh, hướng chủ yếu là Trị-Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở

61
Đường 9, sau đó mở rộng ra Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, rồi đến đồng bằng Khu V
và đồng bằng sông Cửu Long, giành thắng lợi to lớn. Buộc đế quốc Mỹ điên cuồng đối
phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đánh phá trở lại
miền Bắc lần thứ hai từ đầu tháng 4-1972 bằng những thủ đoạn chiến tranh hủy diệt tàn
bạo, song không cứu vãn được tình thế.

- Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Paris đã kéo dài 4 năm 8 tháng 14
ngày, với 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao giữ cố vấn Lê Đức Thọ với
cố vấn H. Kissinggers, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và kết thúc vào ngày 27-
1-1973 với việc ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Trong đó, Điều 1 của Hiệp định về chấm chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam ghi rõ:
“Hoa Kỳ và các nước khác khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm một nghìn chín trăm năm mươi tư đã
công nhận”

- Sau khi Hiệp đinh paris được ký kết, đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ
dã tâm xâm lược Việt Nam, mà âm mưu tiếp tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ
nghĩa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành quân
lấn chiếm vùng giải phóng của ta.

- Trước tình hình trên, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa III) đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con
đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm
vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành dân, giành quyền
làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai
đoạn mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là tích cực phản công, chuẩn bị tiến
lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

- Thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ cuối năm 1973 và cả năm 1974, quân và dân
ta ở miền Nam đã liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường. Đặc
biệt, cuối năm 1974 đầu năm 1975, quân ta đánh chiếm thị xã Phước Long (ngày 6-1-
1975), giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, địch không có khả năng đánh chiếm trở
lại.

62
- Hội nghị Bộ Chính trị họp đợt 1 (từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974) và đợt 2 (từ
ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975) đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Trong khi Bộ Chính trị đang họp thì quân ta giải phóng giành thắng lợi lớn ở
Phước Long (6-1-1975). Chiến thắng Phước Long và tình hình chiến sự sau Phước Long
đã tạo thêm cơ sở để Hội nghị Bộ Chính trị đi tới nhận định: Chưa bao giờ ta có điều kiện
đầy đủ về quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.

- Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai
năm 1975-1976 theo tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp,
tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn
toàn miền Nam. Bộ Chính trị còn dự kiến một phương hướng hành động linh hoạt là nếu
thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong
năm 1975.

- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu bằng Chiến dịch Tây
Nguyên, mở tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975 đã giành được thắng
lợi. Trước tình hình quân ta thắng lớn ở Tây Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18-3-
1975 đã quyết định: giải phóng miền Nam trong năm 1975.

- Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch tiến công
giải phóng Huế bắt đầu. Ngày 26-3, thành phố Huế được giải phóng. Ngày 26-3, chiến
dịch tiến công giải phóng thành phố Đà Nẵng bắt đầu. Ngày 29-3, Đà Nẵng được giải
phóng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế, Đà Nẵng, ngày 25-3-1975,
Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Ngày
6-4 -1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh: Thần tốc, thần tốc
hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, sốc tới chiến trường giải phóng miền Nam, quyết
chiến và toàn thắng.

- Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn-Gia Định bắt đầu.
Sau 4 ngày đêm tiến công, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ chiến thắng đã
được cắm trên dinh Độc Lập. Sài Gòn được giải phóng.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra trong 55 ngày đêm từ ngày 10-3 đến
ngày 30-4-1975. Vào 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng được cắm trên

63
nóc dinh Độc lập. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã toàn thắng, đánh dấu kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.

3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954 - 1975

a. Ý nghĩa lịch sử

- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết
thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117
năm chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

- Kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả
nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng
chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; làm tăng thêm sức mạnh vật
chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng
và dân tộc trên trường quốc tế; nâng cao khí phách, niềm tự hào và để những kinh
nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

- Làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ nghĩa
xã hội và cách mạng thế giới; đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài
ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các
chiến lược chiến tranh thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tác động đến nội tình nước
Mỹ; làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ
phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.

b. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

- Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối chính trị,
quân sự, ngoại độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo;

- Sự đoàn kết, phấn đấu hy sinh của đồng bào và chiến sĩ cả nước; nhờ sức mạnh
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cả về chính trị, tinh thần và vật chất với tư cách
là hậu phương lớn;

- Tình đoàn kết chiến đấu của quân, dân Việt Nam, Lào, Campuchia và kết quả
của sự ủng hộ và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ

64
nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có
nhân dân tiến bộ Mỹ.

c. Bài học kinh nghiệm

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động
sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.

Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa
toàn dân và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp.

Ba là, phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi
ủy quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.

Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng
ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự
đồng tình, ủng hộ của quốc tế.

65
Chương 4

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ


TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975 ĐẾN NAY)

I. Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-
1986)

1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1981)

a. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất đặt ra cho
Đảng ta là lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước.

- Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ
trương: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.

- Ngày 27-10-1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thống nhất nước nhà về mặt nhà
nước. Hội nghị cử đoàn đại biểu để dự hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.

- Ngày 5 đến 6/11/1975, tại Sài Gòn đã diễn ra hội nghị Liên tịch các đoàn đại
biểu miền Nam và cử đoàn đại biểu do Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp thương với đoàn đại
biểu miền Bắc.

- Ngày 15 đến 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu
Bắc, Nam đã họp tại Sài Gòn.

- Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam
thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỉ lệ 98,77% tổng số cử tri đi bầu, đã

66
bầu ra 492 đại biểu. Thắng lợi của công việc bầu cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc
và nguyện vọng thống nhất nước nhà.

- Ngày 24-6 đến 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống
nhất đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là
bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thành
phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các tổ chức chính trị-xã hội được thống nhất cả nước với tên gọi mới: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Tổng Công đoàn Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,…

- Ý nghĩa: cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực khác, nhanh chóng tạo ra
sức mạnh toàn diện của đất nước; là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Điều đó còn thể hiện tư duy chính trị nhạy bén của Đảng trong thực hiện
bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.

b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc 1976-1981

* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng

Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Có
1.008 đại biểu tham dự thay mặt cho 1,5 tr đảng viên trong cả nước.

Nội dung đại hội:

- Đại hội đã thông qua: Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu kế hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết
định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ
Đảng.

- ĐH tổng kết cuộc kháng chiến, chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.

- Chỉ ra ba đặc điểm điểm lớn của CMVN trong giai đoạn mới. Trong đó đặc điểm
đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức và bước đi của CMXHCN ở nước ta.

- Về đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới:

67
+ Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-
kỹ thuật là then chốt

+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;

+ Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa;

+Xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu;

+ Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự xã hội;

+ Xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội
chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội .

- Về đường lối xây dựng, phát triển kinh tế: Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN
bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế
trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường
quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh
tế với các nước khác.

- Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976-1980)
nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích
luỹ để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an
ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của
Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô;
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

68
- Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.

- Hạn chế: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc . Vì vậy, chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ
sau chiến tranh. Từ đó đã đưa ra những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện
được.

* Quá trình thực hiện nghị quyết đại hội IV:

+ Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế
của Đảng với chủ trương: khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế,
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.

+ Tháng 10-1979, Chính phủ quyết định tận dụng đất đai nông nghiệp để khai
hoang, phục hoá; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự
do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường

+ Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp

+ Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền
tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.

+ Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà
nước…Đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế
quản lý kinh tế.

- Tháng 12-1980, Hiến pháp mới của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội thông qua.

* Đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc

- Bảo vệ biên giới phía Tây Nam:

+ Tháng 4-1975, tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng ở Campuchia
và tăng cường chống Việt Nam.

+Ngày 3-5-1975, chúng cho quân đổ bộ chiếm Thổ Chu, Phú Quốc. Cuối tháng
12-1978, chính quyền Pôn Pốt huy động tổng lực tiến công xâm lược quy mô lớn trên

69
toàn tuyến biên giới Tây Nam với mục tiêu nhanh chóng tiến sâu vào nội địa Việt Nam.
Nhưng đã bị quân dân Việt Nam đánh bại.

+ Ngày 26-12-1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và giúp đỡ Campuchia
tổng tiến công

+ Ngày 7-1-1979 giải phóng Phnôm Pênh, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

+ Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và
hợp tác.

- Bảo vệ biên giới phía Bắc:

+ Ngày 17-2-1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng loạt tấn công
toàn tuyến biên giới nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh.

+ Ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng chưa từ bỏ hoạt động
chống phá trên tuyến biên giới, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân, dân ta
vẫn diễn ra trong nhiều năm sau đó.

Tóm lại, sau 5 năm 1975-1981, quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống
nhất nước nhà về mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã
khắc phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Tuy nhiên, kết quả
nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả
tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, rất khó khăn.

Nguyên nhân: về khách quan, điểm xuất phát thấp, thiên tai nặng nề liên tiếp xảy
ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù
địch. Về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và
quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp
tục đổi mới kinh tế (1982-1986)

a. Đại hội lần thứ V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội

- Đại hội V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế
giới trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới.

- Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước, có 47
đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

70
- Nội dung đại hội:

+ Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường.

- Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng
quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong
cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý.

Như vậy, Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới. Nhưng chưa thấy
được sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa kết hợp kế hoạch với thị
trường, vẫn đầu tư csvc cho công nghiệp nặng, v.v…

b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế

- Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề
cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy
mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều
chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.

- Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi
mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.

- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong
quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá
để chuyển sang cơ chế hoạch toán, kinh doanh XHCN.

- Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề
thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời
cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới
có tính đột phá là:

71
+ Về cơ cấu sản xuất: lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng ở mức độ vừa sức và phải phục vụ đắc lực
yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng,
trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương trình quan trọng về lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.

+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần
thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc
làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ
nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ
phân phối

+ Về cơ chế quản lý kinh tế: bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ
chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát
huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng
đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước
với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp
bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt,
quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh
của cơ sở.

Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện
thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu
quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.

Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do
Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt,
không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm
trọng.

72
Nguyên nhân: về khách quan là xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước
ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh ở biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan là
do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm
trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân
phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên
chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.

II. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế (1986 đến nay)

1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội (1986-
1996)

a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện

* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

- Thời gian, địa điềm: từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, tại Hà Nội. Tham dự ĐH
có 1.129 đại biểu, thay mặt cho gần 2 triệu đảng viên trong cả nước.

- Bối cảnh:

+ Thế giới: cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang phát triển mạnh, thế giới
chuyển từ xu thế đối đầu sang xu thế đối thoại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều
tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng CNXH.

+ Trong nước: Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận
và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội kéo dài.

Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng, khởi xướng đường lối toàn
diện đất nước.

73
- Đại hội VI với tinh thần: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của
Đảng trong thời kỳ 1975-1986.

- Đại hội VI đã rút ra bốn bài học quý báu:

+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng’’lấy
dân làm gốc’’.

+ Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.

+ Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.

+ Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra thể hiện trên các lĩnh vực nổi
bật:

- Về kinh tế:


+ Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế.
+ Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
+ Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh
tế hợp lý, chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là LTTP – HTD - HXK. Thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển.

+ Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều
chỉnh cơ cấu đầu tư, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh
mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

- Về xã hội:

+ Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài, xác định được nhiệm vụ phù hợp với
yêu cầu của chặng đường đầu tiên.

74
+ Bốn nhóm chính sách xã hội là: KHH dân số và giải quyết việc làm cho người
lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ
cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ
và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.

- Về quốc phòng, an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và
an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo
đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.

- Về đối ngoại:

+ Góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội,

+ Tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa

+ Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại

+ Tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.


- Về xây dựng hệ thống chính trị :
+ Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế, đổi mới công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
+ Đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
+ Đổi mới công tác quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;
- Ý nghĩa: là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt
phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách
mạng Việt Nam.

+ Hạn chế: chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối lưu thông.

* Quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VI:

- Bối cảnh:

+ Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi
vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn (12-1991).

75
+ Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi
Campuchia, tiếp tục bao vây, cấm vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt Nam.

+ Xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục diễn ra: Vị Xuyên (Hà Giang),
chiến tranh Gạc Ma (1988)…

+ Ở trong nước, những năm 1987-1988, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn ra
nghiêm trọng.

+ Sự dao động về tư tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con đường xã hội chủ
nghĩa ngày càng lan rộng.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần,
chỉ đạo đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật là ở các lĩnh vực sau:

- Về kinh tế;

+ Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) chủ trương về một số biện pháp cấp bách về
phân phối lưu thông. Trọng tâm là thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm
nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân.

+ Quyết định số 217-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (14-11-1987) trao quyền tự
chủ cho các doanh nghiệp.

+ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988) về khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm hộ và hộ xã viên (gọi tắt là Khoán 10).

+ Tháng 1/1988, Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua.

+ Trong công nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các
đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh XHCN nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng
hoá.

+ Về cải tạo XHCN, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Kết quả: Đến năm 1991 lạm phát từ 774,7% năm 1986 giảm còn 67,1%. Cuối năm
1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Lương thực đến năm 1989 đã đáp
ứng được nhu cầu, có dự trữ và xuất khẩu. Hàng tiêu dùng đa dạng, lưu thông tương đối

76
thuận lợi. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh hơn trước.

- Về xây dựng hệ thống chính trị:


Hội nghị Trung ương 6 (3-1989) chính thức dùng khái niệm hệ thống chính trị, đề
ra sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới:
+ Kiên trì con đường XHCN.
+ Kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.

+ Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta.

+ Xây dựng nền dân chủ XHCN là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây dựng
XHCN.

+ Kết hợp mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- Về tư tưởng:

+ Hội nghị Trung ương 8 (3-1990) đã kịp thời phân tích tình hình các nước xã hội
chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc, đề ra nhiệm vụ của Đảng ta. Trung ương
chỉ rõ cần nhận rõ nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng ở Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu. Từ đó, cần rút ra bài học từ sự khủng hoảng đó, đổi mới mô hình
và con đường xây dựng CNXH; Đảng phải tích cực nâng cao trình độ lãnh đạo và sức
chiến đấu của mình; cần cảnh giác và kiên quyết chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch.

- Về đối ngoại:

+ Thực hiện chính sách “thêm bạn, bớt thù”; mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vì hoà bình và phát triển ở
khu vực và trên thế giới .

+ Chủ trương : bình thường hoá quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Hoa
Kỳ; từng bước xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á, thiết lập
quan hệ ngoại giao Việt Nam và các nước Châu Âu.

77
+ Để thực hiện chủ trương đó, từ tháng 5-1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân
và Bộ tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về nước và rút hết quân tình nguyện về
nước vào tháng 9-1989.

- Về đổi mới tư duy của Đảng, Hội nghị Trung ương 6 (3-1989) và Hội nghị Trung
ương 8 (3-1990) tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng . Yêu cầu Đảng phải đổi mới tư duy; Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng;
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng.

b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất

* ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

- Thời gian, địa điểm: từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có
1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước.

- Bối cảnh: Đất nước sau hơn 4 năm đổi mới cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề
kinh tế-xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.

- Đại hội VII là thông qua hai văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) và Chiến
lược, ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000.

- Nội dung Cương lĩnh năm 1991:

+ Cương lĩnh năm 1991 đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam; chỉ ra những thành công, khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn:
1.Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH.
2.sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3.Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết
4.kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.

+ Về mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng có 6 đặc trưng cơ bản là:

 Do nhân dân lao động làm chủ.

78
 Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công
hữu về các TLSX chủ yếu.
 Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
 Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ.
 Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

+ Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Xây dựng
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới
quan Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc
phòng-an ninh, đối ngoại.

+ Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị:

 Xây dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
 Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
 Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống
đó.
 Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

+ Ý nghĩa: Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của
cách mạng Việt Nam; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo
ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.

79
- Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000:

+ Mục tiêu tổng quát đến năm 2000: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh
tế-xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP năm 2000
tăng gấp đôi so với năm 1990.

+ Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược là:

Xây dựng CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp
bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với nhiều dạng sở hữu và hình
thức tổ chức kinh doanh, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.N

Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và
thu nhập hợp pháp.

- ĐH VII đã tổng kết bài học bước đầu qua 5 năm đổi mới:

+ Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới

+ Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp.

+ Ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước.

+ Bốn là, tiếp tục phát huy sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

+ Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát
hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mới.

- Lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động.

- Ý nghĩa: Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ
cương-đoàn kết” hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc

80
điểm của Việt Nam. Kỳ họp thứ 11 (4-1992), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm
1992.

* Quá trình chỉ đạo thực hiện nghị quyết ĐH VII:

- Trên lĩnh vực kinh tế:

+ Nông nghiệp: HNTW 5 (6-1993), đưa ra các chính sách đối với nông dân, nông
nghiệp và nông thôn . Xác định ba mục tiêu chủ yếu là: Xây dựng nông thôn mới; phát
huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, giữ
vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.

+ Về công nghiệp: HNTW 7 (7-1994) xác định mục tiêu của CNH, HĐH là cải
biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh. .

Kết quả, sau 5 năm 1991-1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã
hoàn thành vượt mức, GDP đạt 8,2% . Nền kinh tế có tích lũy nội bộ. Lạm phát từ mức
67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN tiếp tục được xây dựng.

- Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại:

Hội nghị Trung ương 3 (6-1992) đã thảo luận và đưa ra ba quyết sách quan trọng,
đúng đắn về củng cố quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, đổi mới và chỉnh
đốn Đảng.

+ Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang gồm quân đội nhân dân và
công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.

+ Đối ngoại: chủ trương mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối
ngoại trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, gìn
giữ và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc.

81
Kết quả: tháng 11-1991, Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ và
từng bước khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt; tăng cường quan
hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển
quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á ngày 28-7-1995 (ASEAN) và thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam -
Hoa Kỳ ngày 11-7-1995. Đến cuối năm 1995, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 160
nước, quan hệ buôn bán với trên 100 nước… Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh
thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Ngày 28-7-1994, Việt Nam phê chuẩn tham gia
Công ước về Luật biển 1982 của Liên hiệp quốc.

+ Về công tác tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, mục tiêu: nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng
nước ta trong tình hình mới. Nguyên tắc; là quán triệt và vận dụng sáng tạo CN Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng XHCN, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Yêu cầu: xây dựng Đảng về
chính trị và tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước chuyển biến quan trọng về
công tác cán bộ; đổi mới và tăng cường công tác dân vận; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.

+ Về Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường củng cố Mặt trận Dân
tộc thống nhất: Ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07 về đại đoàn
kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất.

* Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng

- Từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994, Đảng tổ chức Hội nghị giữa nhiệm kỳ.

- Hội nghị khẳng định, đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền lệ, song Đảng
đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ bản có tính chất quyết định
nhất là Đảng ta đã giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và
sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn Việt Nam, phát huy
được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng hợp tác quốc tế.

- Hội nghị giữa nhiệm kỳ là chỉ rõ những thách thức và cơ hội lớn trước mắt của
nhân dân ta; Chỉ rõ các nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc; nguy cơ

82
chệch hướng XHCN; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động
lẫn nhau.

- Lần đầu tiên trong Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng khẳng định xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hội nghị
Trung ương 8 (1-1995) đã chủ trương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước . Nhận thức
mới của Đảng là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường pháp chế XHCN. Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội.

- Hội nghị Trung ương 4 đã ban hành 5 Nghị quyết liên quan đến chăm sóc, bồi
dưỡng, phát huy nguồn lực con người.

2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế (1996 đến nay)

a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu thực hiện công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2001)

* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

- Thời gian, địa điểm: ĐH VIII họp từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội

- Bối cảnh: cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ cao hơn.
CNXH hiện thực lâm vào thoái trào. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân Việt Nam đã giành
được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, phá được thế bị bao vây, cô lập nhưng vẫn là nước nghèo, kém phát triển, xã hội
còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.

- Nội dung:

ĐH thông qua báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã bổ sung đặc
trưng tổng quát về mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam là: Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh và nổi bật những vấn đề trọng tâm sau:

83
+ Tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996) đất nước thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.

+ ĐH nêu ra 6 bài học qua 10 năm đổi mới: Một là, giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH. Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Ba là,
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.

+ ĐH đã nêu lên quan điểm về CNH trong thời kỳ mới gồm: 1) Giữ vững độc lập,
tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại. Kết hợp nội lực với ngoại lực. 2) CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3) Lấy việc phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 4) Khoa học
và công nghệ là động lực của CNH, HĐH.. 5) Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để
xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. 6) Kết hợp kinh tế
với quốc phòng và an ninh.

+ Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Đảng phải tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của mình.

- Ý nghĩa: ĐH VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN.

* Thực hiện nghị quyết ĐH VIII:

- Về kinh tế:

+ Quan điểm của Đảng: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền
kinh tế; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, xây dựng quan hệ sản xuất, từng

84
bước quá độ lên CNXH. Hướng mạnh về xuất khẩu. Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng
Nhà nước phải quản lý và điều tiết theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế
phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.

+ Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều
chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có
hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài
chính-tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xoá đói giảm
nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế- xã hội.

+ Kết quả: Đến năm 2000, kinh tế đất nước tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản
xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập
khẩu đều phát triển. Năm 2000, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.

- Về xây dựng hệ thống chính trị:

+ HNTW 3 khoá VIII(6-1997) đã thông qua Nghị quyết về phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân .

+ HNTW 3 khoá VIII còn đề ra Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
hoá đất nước.

+ Trong công tác xây dựng Đảng , HNTW 6 (lần 2) (2/1999) đã ra nghị quyết số
10-NQ/TW ngày 2/2/1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong cong tác xây dựng
Đảng hiện nay.

+ Để đáp ứng yêu cầu tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong thời kỳ đẩy
mạnhCNH, HĐH, Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đã ban hành hai nghị
quyết quan trọng, trong đó nhấn mạnh coi giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội.

85
- Về Văn hóa : Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (7-1998) đã ban hành Nghị
quyết số 03-NQ/TW xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.

+ Quan điểm:

1,Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.

2,Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu vǎn hóa, vì xã hội công bằng,
vǎn minh, con người phát triển toàn diện.

3,Nền vǎn hóa mà chúng ta xây dựng là nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.

4, Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.

5, Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

6,Vǎn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.

+ Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển vǎn hóa là: Xây dựng con người
Việt Nam; xây dựng môi trường vǎn hóa; phát triển sự nghiệp vǎn học-nghệ thuật; bảo
tồn và phát huy các di sản vǎn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo và khoa học-
công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát
huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số; chính sách vǎn hóa đối với tôn giáo; củng
cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế vǎn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về vǎn hóa.

NQTW 5 khoá VIII được coi như tuyên ngôn của Đảng về văn hoá trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

b) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

- Thời gian, địa điểm: Đại hội IX của Đảng họp từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 tại
thủ đô Hà Nội.
- Bối cảnh:

86
+ Thế giới: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá
diễn ra mạnh mẽ. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực
phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
+ Trong nước: Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực mới. Tuy nhiên các nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-
1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta.
- Nội dung đại hội:
Đại hội IX đã thông qua các Văn kiện quan trọng, Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội 2001-2010, bầu đồng chí Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư Đảng.
Đại hội IX của Đảng với nội dung nổi bật với những nhận thức mới:
+ Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Khoa học
và công nghệ phát triển mạnh; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế kỷ
phong trào cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện
thực tạm thời lâm vào thoái trào.
+ Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của
những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tiếp theo (2001-2010): Mục tiêu
tổng quát: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạp nền tảng đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; tiếp tục đưa GDP
năm 2010 lên gấp đôi so với năm 2000.
- Đại hội IX đã nêu ra 4 bài học kinh nghiệm:
Một là, trong quá trình đổi mới, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn sáng tạo
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
- Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN
trên nền tảng CN Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Khẳng định lấy CN Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.

87
- Con đường phát triển quá độ lên CNXH của nước ta là bỏ qua chế độ TBCN, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
TBCN nhưng tiếp thu những thành tựu mà loài người đãđạt được dưới chế độ TBCN, đặc
biệtlà về KH&CN.
- Đại hội đã có nhận thức mới về nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện
nay: đó là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục
tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái;
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo
vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc.

+ Động lực chủ yếu để phát triển đất nước: là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội.
- Đảng,Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
đi lên CNXH. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
- Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy cách mạng; làm
cho CN Mac –Lênin va tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Đối ngoại: Chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
* Ý nghĩa:
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước
trưởng thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát triển và cụ thể hóa Chương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng trong những
năm đầu của thế kỷ XXI.

88
Sự chỉ đạo của Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(2001- 2006):
* Chỉ đạo phát triển kinh tế
Hội nghị Trung ương 3, Khóa IX (9-2001) đã chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo bước phát triển mới, tạo thế và lực cho
các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nghị Trung ương 5, Khóa IX (3-2002) đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết
và nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân đối với phát triển kinh tế tập thể. Hội nghị đã thảo luận và
thống nhất coi phát triển kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài; tiếp tục đổi mới cơ chế chính
sách phát triển kinh tế tư nhân.
Hội nghị Trung ương 7, Khóa IX (3-2003) đã thống nhất nhận thức coi đất đai là
tài nguyên quôc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và
nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
* Chỉ đạo đổi mới công tác tư tưởng của Đảng
Hội nghị Trung ương 5, Khóa IX (3-2002) đã đưa ra những nhiệm vụ chủ yếu của
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới. Cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn
và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi liên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyê truyền,
giáo dục lý luận chính trị; chủ động tấn công, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa
bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới nhằm làm cho toàn
Đảng, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vai trò của tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định và làm cho chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam.
* Chỉ đạo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Hội nghị Trung ương 7, Khóa IX (3-2003) đã ban hành ba Nghị quyết quan trọng.

89
Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”: Xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo bền vững phát triển đất nước.
Nghị quyết về công tác dân tộc: Cần nhận thức rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết dân
tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách
mạng Việt Nam.
Nghị quyết về công tác tôn giáo: Xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược
có ý nghĩa rất quan trọng. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và
đảm bảo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước.
Bộ Chính trị khóa IX (3-2004) ban hành Nghị quyết số 36 chủ trương coi người
Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời, là một nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị
giữa Việt Nam với các nước.
* Chỉ đạo xây dựng Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Hội nghị Trung ương 8, Khóa IX (7-2003) đã ra kịp thời thảo luận và ban hành
Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, quốc gia, trật
tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững an ninh chính trị và môi trường hòa bình.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Lợi ích cao nhất cao nhất của Tổ quốc là giữ vững môi trường hào bình, ổn định để phát
triển kinh tế. Kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

c) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình thực hiện 2006-
2011

90
- Thời gian,địa điểm: Đại hội X của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại
thủ đô Hà Nội, gồm 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên.
- Bối cảnh: Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Đất
nước trải qua 20 năm đổi mới với thế và lực được tăng cường, uy tín quốc tế tăng lên
nhiều so với trước, nhưng còn nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường.
Với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển”, Đại hội đã thông qua các Văn kiện chính trị và bầu lại đồng
chí Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Ðại hội X đã tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn của 20 năm đổi mới và nêu
ra năm bài học kinh nghiệm:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp.

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng: Dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.

91
- Đại hội X đã làm sáng tỏ bản chất của Ðảng: Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc.
- Ðại hội X, lần đầu tiên đặt chú trọng hàng đầu đến nhiệm vụ then chốt là xây
dựng, chỉnh đốn Ðảng; cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng yêu cầu phải tuân
thủ Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước.

Nội dung mới trong thành tố thứ hai chủ đề Đại hội X là “phát huy sức mạnh toàn
dân tộc”. Điểm mới của Đại hội là chỉ ra nhiều biện pháp, hình thức, nhằm phát huy dân
chủ, có chính sách bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công
bằng xã hội.

Nội dung mới trong thành tố thứ ba chủ để Đại hội X là “đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới”. Tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
Nội dung mới trong mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
* Ý nghĩa:
Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Các văn kiện thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí của
toàn Đảng, toàn dân quyết tâm đổi mới toàn diện, phát triển với tốc độ nhanh và bền
vững hơn trong thời mới.
Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006-2011)
* Chỉ đạo phát triển kinh tế
Hội nghị Trung ương 4 (2-2007), Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020; ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành,
nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu
quả cao với tầm nhìn dài hạn. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo
đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công

92
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi
trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các
nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế.
Hội nghị Trung ương 6 (1-2008) đã ra Nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Quan điểm chỉ đạo: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt Nam, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Bảo đảm tính đồng
bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại
thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà nước thị trường và
xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát
triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị
trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị.
Hội nghị Trung ương 7, Khóa X (7-2008) ra Nghị quyết về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Quan điểm chỉ đạo: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực; phát huy cao nội lực; đồng
thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân
trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội
* Chỉ đạo xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
Nghị quyết Trung ương 4 khóa X (4-2007) đã sắp xếp bộ máy các cơ quan Đảng,
Nhà nước ở Trung ương gọn hơn. Còn 6 ban tham mưu của Trung ương. Chính phủ có 22
bộ và cơ quan ngang bộ.
Hội nghị Trung ương 5 (7-2007) đã chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Chủ trương tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng. Quan điểm chỉ đạo là: Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy mạnh phân cấp, tăng

93
chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Phải chủ động, tích cực, có quyết
tâm cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm, vừa tổng kết, vừa rút
kinh nghiệm. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách
quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng.
Hội nghị Trung ương 6, Khóa X (1-2008) đã ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết
về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết về “Cải cách chính
sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008-2012”
Hội nghị Trung ương 7, Khóa X (7-2008) đã ban hành Nghị quyết về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 11-2006, Bộ Chính trị khóa X quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân. Mục đích là
làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội cơ bản, giá trị to lớn của tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạ đức của Người; đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
d) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng bổ sung, phát triển Cương
1991

Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 19-1-2011. Dự Ddại hội
có 1.377 đại biểu, thay mặt cho 3,6 triệu đảng viên trong cả nước. Đồng chí Nguyễn Phú
Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược, phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020.

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốn phần cơ bản
giữ như Cương lĩnh năm 1991 có bổ sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung
từng phần.

+ Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm.

94
Cương lĩnh năm 2011 có diễn đạt mới về những thắng lợi của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra còn bổ sung ý nghĩa của những thành quả do
các thắng lợi trên mang lại và đánh giá tổng quát sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân,
thái độ của Đảng trước những sai lầm đó.

Cương lĩnh khẳng định những bài học kinh nghiệm lớn:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.

+ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến phức tạp.

Về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri
thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu
tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua
vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên,
cạnh tranh quyết liệt về kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình
Dương và Đông Nam Á phát triển năng động những vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn
định.

Đánh giá về chủ nghĩa xã hội: “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến
hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục” .

Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một
chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục

95
xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân
dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.

Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó
khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để
bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc.

Những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người bổ sung hai
vấn đề là chống khủng bố và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Đặc điểm nổi bật hiện nay của thời đại là: các nước có chế độ chính trị và trình độ
phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội” .

+ Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản:


Mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới.
Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội XHCN là quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, nhất thiết phải trải
qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội đan xen.
Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.
Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ 8 phương hướng cơ bản xây dựng CNXH:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

96
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh năm 2011 bổ sung cần nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXHvà bảo vệ Tổ quốc
XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ.
+ Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Cương lĩnh năm 2011 đã làm rõ hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng CSVN là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Đại hội nhấn mạnh:
+ Quan điểm phát triển: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt.
+ Ba đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ; Xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại.
+ Định hướng phát triển kinh tế-xã hội: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế; thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
Nhà nước với thị trường; hoàn thiện bộ máy nhà nước, chuyển mạnh về cải cách hành
chính; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước.
* Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011- 2016)
- Chỉ đạo phát triển kinh tế

97
+ Hội nghị TW 4, Khóa XI (1/2012) chủ trương xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020.
+ Hội nghị TW 6, khóa XI (10/2012) ban hành Kết luận về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
- Chỉ đạo đổi mới, chỉnh đốn Đảng
+ Bộ Chính trị đã Ban hành Chỉ thị số 03 (5/2011) về tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Hội nghị TW 4, khóa XI (1/2012) đã ban hành Nghị quyết: Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay; đưa ra kết luận tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
+ Hội nghị TW 6 (10/2012) khẳng định những thành tựu, ưu điểm, khuyết điểm
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; chủ trương quyết định tái lập Ban Kinh tế TW và Ban Nội
chính TW; chủ trương tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ TW đến cơ sở.
+ Hội nghị TW 7 (5/ 2013) chủ trương tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
- Chỉ đạo phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ Tổ Quốc
+ Hội nghị TW 6 (10/2012) ra Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
+ Hội nghị TW 8 (11/2013) đã ra Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.
+ Hội nghị TW 9, (5/2014) chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển văn hoá,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
+ Hội nghị TW 5 (5/2012) chủ trương giải quyết một số vấn đề về chính sách xã
hội giai đoạn 2012-2020.
+ Hội nghị TW 7 (6/2016) đã ra Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
+ Hội nghị TW 8 khóa XI (10/2013) đã ra Nghị quyết “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”.
e) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế

Đại hội XII của Đảng họp từ ngày 20 đến 28/1/2016 tại thủ đô Hà Nội. Đại hội
diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó
lường. Đất nước đã qua 30 năm đổi mới, thế và lực tăng lên rõ rệt, có cả những thuận lợi,
thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt.

98
Dự Đại hội có hơn 1.510 đại biểu, thay mặt cho 4,6 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đại hội đã tổng kết 30 năm đổi mới, bầu BCH TW và bầu lại đồng chí Nguyễn
Phú Trọng làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định;
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

- Đại hội XII rút ra một số kinh nghiệm sau:

+ Một là, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức
chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

+ Hai là, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực
tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời
xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp.

+ Ba là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của
xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

+ Bốn là, kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời
tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải
quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ
phát triển; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước.

+ Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ,
lấy lợi ích quốc gia-dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Đại hội XII khẳng định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ đổi mới, đặc biệt chú trọng
tập trung lãnh đạo, chỉ sáu nhiệm vụ trọng tâm:
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực,

99
phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức.
+ Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
+ Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá
chiến lược; chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới..
+ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại.
+ Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm
lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm an sinh xã hội. Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (2016- 2020)
- Chỉ đạo phát triển kinh tế
+ Hội nghị khóa XII đã ra Nghị quyết số 05/NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số
chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
+ Hội nghị TW 4, khóa XII (10/2016) đã chủ trương “Thực hiện hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia-dân tộc là
định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế quốc tế là
trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho
hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân,
doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế.

Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ
động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện
cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực,
vấn đề liên quan đến ổn định chính trị-xã hội.

100
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới.

Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập
quốc tế.
+ Hội nghị TW 5 (5/2017) chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Q
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và
bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.

Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn.

Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.

Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

+ Hội nghị TW 5 (5/2017) chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Quan điểm chỉ đạo:Doanh nghiệp nhà nước là
doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối ở
những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; là
lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy
hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh
bình đẳng và có vai trò nòng cốt, dẫn dắt phát triển các với doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác. Trung ương đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm
2020 và năm 2030 và đưa ra những nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
+ Hội nghị TW 5 (5/2017) chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành một

101
động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Hội nghị TW 8 (10-2018) để ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- Chỉ đạo đổi mới, chỉnh đốn Đảng
+ Bộ Chính trị khoá XII ban hành Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (5/2016)
tiếp tục đẩy mạnh “Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,
+ Hội nghị TW 4 (10/2016) ra Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
+ Hội nghị TW 7 khoá XII (5/2018) đã ban hành Nghị quyết tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ.
+ Tháng 10-2018, Hội nghị TW 8 của Đảng đã ban hành Quy định trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên.
+ Ngày 23-10-2018, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã bầu Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng giữ cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nhiệm kỳ
2016-2021.
- Chỉ đạo phát triển giải quyết các vấn đề xã hội
+ Hội nghị TW 6 (10/2017) đã ban hành Nghị quyết tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới và Nghị quyết về công tác
dân số trong tình hình mới.
+ Hội nghị TW 7 (52018) đã ban hành Nghị quyết cải cách chính sách tiền lương
đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh
nghiệp và Nghị quyết cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
g) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1 đến ngày 1/2/2021 tại thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.587 đại biểu, đại diện cho hơn 5 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội
đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm 200 đồng chí, đồng chí Nguyễn
Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.

Chủ đề của ĐH: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi

102
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đén giữa thế kỉ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội XIII của đảng:

+ Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, đánh giá 35 năm đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.

+ Đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 2021-2025

+ Xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước
đến năm 2045.

- Đại hội XIII đã xác định quan điểm chỉ đạo:

+ Quan điểm 1 nêu những vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc đổi mới:
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với các đại hội trước, Đại hội XIII bổ sung “kiên định các
nguyên tắc xây dựng Đảng”. Đây là những quan điểm có tính nguyên tắc, bất di, bất
dịch.

+ Quan điểm 2 nêu chiến lược tổng thể phát triển đất nước nhanh, bền vững: Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển
nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong
đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa
là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
+ Quan điểm 3 nêu động lực phát triển: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững
đất nước.
+ Quan điểm 4 nêu nguồn lực phát triển: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác

103
quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là
nguồn lực con người là quan trọng nhất.
+ Quan điểm 5 nêu những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa
quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Đại hội XIII đã xác định mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
So với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung “năng lực cầm quyền” vào nội dung
“nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng”; bổ sung “hệ thống chính trị”, “
toàn diện”, “tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa”; xác định “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Về những nhiệm vụ trọng tâm:
Đại hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII
cũng nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị có 2 điểm mới: (1)
Về cơ cấu: Đại hội XII dành nhiệm vụ 1 và 2 về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và đội
ngũ cán bộ; Báo cáo chính trị dành nhiệm vụ thứ nhất về xây dựng Đảng, hệ thống chính
trị và đội ngũ cán bộ, thêm nhiệm vụ về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu; (2) Nội
dung từng nhiệm vụ trọng tâm có những nội dung mới. Cụ thể như sau:
+ Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Báo cáo chính trị bổ sung yêu cầu đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế
độ xã hội chủ nghĩa.

104
+ Về phát triển kinh tế, Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện
đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập;
phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển
kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy
động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh
và bền vững.
+ Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Giữ vững độc lập,
tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước.
+ Về văn hóa, xã hội, Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh: Khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, nâng
cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
+ Về dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc, Báo cáo chính trị bổ
sung và nhấn mạnh: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm
phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng
cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp
luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên, tăng cường
đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, Báo cáo chính trị nêu: Quản lý chặt
chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động,
tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Về các đột phá chiến lược
Ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác định có ý nghĩa, giá
trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá trị và sẽ được cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát
triển. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh những nội dung sau:
+ Về thể chế, Báo cáo chính trị mở rộng phạm vi thành thể chế phát triển, trước hết
là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu
tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng,
thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả,

105
đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu
hiệu.
+ Về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Báo cáo chính trị bổ
sung ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then
chốt trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về
chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Về hệ thống kết cấu hạ tầng, Báo cáo chính trị nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội theo hai hướng ưu
tiên: Một là, phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng
với biến đổi khí hậu. Hai là, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền
tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Sự cụ thể hóa 3 đột phá chiến lược của Đại hội XI, XII vào giai đoạn 5 năm 2021-2025
là một điểm mới của Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của Đảng.

3. Thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới

a. Thành tựu

Kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá
là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Đất nước đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi
trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-
2010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng
7,26% /năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra; GDP 5 năm 2011-2015 bình quân 5,9%;
năm 2018 đạt 6,7%. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình trên thế giới.

Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ USD).
Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047 USD, năm 2010
đạt 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con người (HDI)

106
của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia và lãnh thổ, thuộc
nhóm trung bình cao của thế giới. Năm 2018, GDP tăng trưởng đạt 7,08%, thu nhập bình
quân đầu người đạt hơn 2.500 USD.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và
phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được quan tâm xây
dựng và từng bước hoàn thiện. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên
tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới.

Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây dựng tăng lên
đáng kể, nhất là đường bộ, sân bay, bến cảng, cầu.

Văn hóa-xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa được mở rộng. Sự lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến bộ; các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về văn
hóa, con người từng bước được đổi mới, hoàn thiện; đội ngũ làm công tác văn hóa có
bước trưởng thành.

Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Các
chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng
phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ số phát triển
con người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham
gia xếp hạng. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu
nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004
và 2 lần năm 2008. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn
mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra cho năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước
giảm bình quân 1,5-2%/năm. Tỷ lệ nghèo của cả nước năm 1993 là 58% đến năm 2018
còn khoảng 6%. Đến năm 2018, hơn 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo 19 tiêu chí
Chính phủ đề ra. Việt Nam đã đạt phổ cập trung học cơ sở. Chăm sóc sức khỏe nhân dân
đã có nhiều tiến bộ, coi trọng cả về xây dựng thể chế, y tế dự phòng, y học cổ truyền,
quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính
sách ưu đãi người có công đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả.

Giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Việc kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kinh tế với quốc phòng,

107
an ninh, đối ngoại; xây dựng khu kinh tế-quốc phòng có chuyển biến quan trọng; nhất là
kết quả về hoàn thành phân giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ, phân định ở Vịnh Bắc
Bộ với Trung Quốc; từng bước hoàn thiện việc phân giới, cắm mốc đường biên giới trên
bộ với Lào, Campuchia. Những kết quả nói trên góp phần nâng cao thê và lực của đất
nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.

Đối ngoại đạt nhiều thành tựu mới. Từ định hướng coi “đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” từng bước chuyển
sang đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn”
đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là “thành viên có trách nhiệm” của
cộng đồng quốc tế. Đổi mới nhận thức về hợp tác và đấu tranh, từ quan niệm về địch, ta,
chuyển sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích
quốc gia-dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhận thức thực tế hơn quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thông và quan hệ với các nước láng giềng, khu
vực, các nước lớn; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Từ “phá thế bị bao vây, cấm
vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện.

Đến năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193
nước thành viên Liên hợp quốc. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, quan
hệ đối tác toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và
thế giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Việt Nam là Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Ngày 7-6-2019, Đại
hội đồng Liên hiệp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu cao 192/193. Năm 1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn
kinh tế Á-Âu (ASEM). Ngày 14-11-1998, Việt Nam gia nhập tổ chức Hợp tác kinh tế
Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao
APEC năm 2006 và năm 2017.

Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại đảng và ngoại
giao nhân dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa
phương. Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố
và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan hệ Việt Nam-
Campuchia được củng cố và tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc có

108
những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Đã ký Hiệp định biên
giới trên bộ Việt Nam-Trung Quốc 1999, phân giải cắm mốc xong trên thực địa toàn
tuyến biên giới; phê chuẩn Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc
Bộ.

Nhận thức về xây dựng và phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ. Về xây dựng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa: Đảng đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò
của xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định dân chủ là bản chất của
chế độ, vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Đảng đã nhận thức rõ
hơn cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”, chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị-xã hội trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội.

Đã nhận thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xác định đây là một trong tám đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, vừa tiếp thu thành tựu của nhân loại về
nhà nước pháp quyền, vừa thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng của Việt Nam.

Đảng đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng. Quy định rõ hơn vai trò,
thẩm quyển và trách nhiệm của Đảng. Đã xác định ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn nền
tảng tư tưởng của Đảng.

Những thành tựu chủ yếu nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những
thành tựu trên đây là do Đảng có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng đã
nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kế thừa và phát huy truyền thông dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng
kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý
tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp

109
thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình
hình thế giới và trong nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực
hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.

b. Hạn chế

Thực tiễn phát triển công cuộc đổi mới cũng bộc lộ những hạn chế cần phải khắc
phục. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học
cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn có một số vấn đề cần phải qua
tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực
tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ
tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động
xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền
vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.

Nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa
được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ
mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được
thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không đạt được mục tiêu đề ra.

Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá ta
và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

3.3. Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu

110
Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn,
phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác
động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ
hội chính trị.

Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được quan tâm
đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế
so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình chậm và thiếu chính xác làm
ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và
giải quyết tám mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới thiếu đồng bộ, lúng túng trên một
số lĩnh vực.

Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn
chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng
đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ
trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một
số chính sách không phù hợp với thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.

Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường
xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thông
nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến
phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bô" trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan
tâm đến việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.

3.4. Một số bài học kinh nghiệm

Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn
diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên
định, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo
và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

111
Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm
chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi
phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa
giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới, kế thừa
và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội.

Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động,
bất ngờ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình.

Chương 5
TỔNG KẾT
1. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam

112
Từ năm 1930 đến nay, Đảng CSVN do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, giành được những thắng lợi vĩ đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”2.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị,
đường lối quân sự, độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Với đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, đã đưa kháng chiến đến
thắng lợi.
Trong cuộc chống Mỹ, cứu nước, Đảng lãnh đạo đồng thời thực hiện hai chiến
lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cách mạng XHCN ở
miền Bắc, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH., Đảng phải phát triển sáng
tạo về phương pháp cách mạng. Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: lực lượng
chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Tiến hành khởi nghĩa từng phần
ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng. Kết hợp đấu tranh
quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Kết hợp khởi nghĩa của quần
chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch
trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Đánh địch bằng
ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ. Nắm vững
phương châm chiến lược đánh địch lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời
cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực
hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch để giành thắng lợi cuối cùng.
Đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng do Đảng đề ra “đã tạo
nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn” để đánh thắng thế lực đế quốc giàu mạnh nhất,
hung bạo nhất trong thời đại ngày nay. Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở Việt Nam
chứng minh: “một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ
và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lênin có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH,
lại được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước XHCN, các lực lượng cách mạng

113
và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm
lược”3.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Qua 30 năm đổi mới, kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên;
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát. Đất nước đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển trung bình.
Năm 2010, GDP đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ USD).
Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đạt 1.047 USD, năm 2010 đạt
1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia và lãnh thổ, thuộc nhóm
trung bình cao của thế giới. Năm 2018, GDP tăng trưởng đạt 7,08%, thu nhập bình quân
đầu người đạt hơn 2.500 USD.
Văn hóa-xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra
cho năm 2015. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng
đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao.
Giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Từ “phá thế bị bao vây,
cấm vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện.
Đến năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193
nước thành viên Liên hợp quốc. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, quan
hệ đối tác toàn diện với 11 nước.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
2. Những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng
Từ thực tiễn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng đã có những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
Độc lập dân tộc và CNXH là ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây

114
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ
dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và
của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành
công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao
tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp
yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan
liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
3. LSĐCNVN đã làm nổi bật những truyền thống vẻ vang của ĐCSVN.
- Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng vì lý tưởng cách mạng cao
cả, vì nước, vì dân.
- Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thống nhất trong nhận thức, ý chí và
hành động.
- Truyền thống tự phê bình và phê bình nghiêm túc.
- Truyền thống gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân
tộc.

115
116

You might also like