You are on page 1of 67

Chương nhập môn

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đối tượng nghiên cứu của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình ra đời,
phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó tập trung vào các
nội dung sau:
Một là, nghiên cứu hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, bao gồm quá trình Đảng ra đời,
phát triển và lãnh đạo cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa, những sự kiện lịch sử này được thể hiện qua Cương lĩnh, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
Hai là, nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo, tổ chức quần chúng tiến hành các cao trào
cách mạng rộng lớn như: cao trào 1930-1931, cao trào 1936-1939 và cao trào giải phóng dân tộc
1939-1945; Đảng lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975); lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo
vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước (1975-2019).
Ba là, làm rõ những thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo
đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc và trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng đã rút ra những
bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác lãnh đạo: Phải nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; phát huy sức mạnh của toàn dân trong chiến tranh cách mạng; không ngừng
củng cố, tăng cường khối đoàn kết trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế để chiến thắng kẻ thù;
và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Bốn là, làm rõ hệ thống tổ chức đảng, công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ lịch sử về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường
lối, củng cố chính trị nội bộ và nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng; về tư tưởng “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Xây dựng Đảng về tổ chức: củng cố, phát triển hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức cơ bản” [2]. Xây dựng những chuẩn mực về đạo đức
trong Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. Chức năng của khoa học Lịch sử Đảng
Chức năng nhận thức:
Nghiên cứu và học tập môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giúp người học nhận
thức đầy đủ, có hệ thống tri thức lịch sử Đảng, kể từ khi Đảng ra đời, đấu tranh cách mạng và
Đảng cầm quyền. Nhận thức đúng bản chất, quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư
1
cách là một Đảng chính trị, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nòng cốt, dưới sự tổ chức và lãnh đạo
của giai cấp công nhân.
Chức năng giáo dục:
Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có chức năng giáo dục tư tưởng chính trị sâu
sắc, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc. Tinh
thần đó hình thành trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát triển đến đỉnh cao ở
thời kỳ Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Giáo dục lý tưởng cách mạng với mục
tiêu chiến lược là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao nhận thức về con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam. Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần chiến đấu bất
khuất, đức hy sinh, tính tiên phong gương mẫu của các tổ chức đảng, những chiến sĩ cộng sản
tiêu biểu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
Ngoài hai chức năng trên, khoa học lịch sử Đảng còn có chức năng dự báo và phê phán.
Từ việc nắm được diễn biến lịch sử sẽ hiểu rõ được hiện tại và dự báo tương lai của sự phát
triển.
2. Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng
Khoa học Lịch sử Đảng có nhiệm vụ hàng đầu là khẳng định, chứng minh giá trị khoa
học và hiện thực của những mục tiêu chiến lược và sách lược mà Đảng đề ra trong Cương lĩnh,
đường lối từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng: Từ hiện thực lịch sử, các nguồn
tư liệu, khoa học Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những sự kiện lịch sử nổi bật qua các thời
kỳ, giai đoạn và dấu mốc phát triển căn bản của Đảng.
Tổng kết lịch sử của Đảng: Môn học tổng kết từng chặng đường và trong suốt tiến trình
lịch sử, làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Làm rõ vai trò, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở trong
lãnh đạo, tổ chức thực tiễn. Những truyền thống nổi bật của Đảng.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của khoa học Lịch sử Đảng thuộc phương pháp luận khoa học lịch sử,
được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, chỉ lối cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Do đó, nghiên cứu, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa
quan trọng để hiểu rõ lịch sử Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong cách khoa học của
Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ quan duy ý chí.
2. Các phương pháp cụ thể
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu các sự kiện trong bối cảnh lịch sử nhất
định, theo trình tự thời gian phát sinh, phát triển và kết thúc của nó, làm rõ những nét đặc biệt
của sự kiện, phân biệt sự kiện này với sự kiện khác. Phương pháp này đi sâu vào nghiên cứu để
tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ biến, thấy được bước quanh co, có khi thụt lùi tạm
2
thời của quá trình lịch sử. Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu thấu đáo mọi chi tiết lịch sử
để hiểu vai trò, tâm lý, tình cảm của quần chúng, từ tổng thể đến cụ thể, chú trọng về không
gian, thời gian, tên đất, tên người để tái hiện lịch sử đúng như nó đã diễn ra, từ đó lý giải được
tính sáng tạo cách mạng trong đường lối, chủ trương của Đảng. Vì vậy, cần phải quán triệt quan
điểm lịch sử cụ thể khi nghiên cứu lịch sử Đảng.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức
tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung của sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng, từ đó khái quát thành lý luận. Phương pháp logic đi sâu tìm
hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng, các sự kiện, phân tích, so sánh,
tổng hợp với tư duy khái quát để tìm ra bản chất các sự kiện, hiện tượng.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có quan hệ mật thiết với nhau và đó là sự
thống nhất của phương pháp biện chứng mác xít trong nghiên cứu và nhận thức lịch sử. Các
phương pháp đó không tách rời mà luôn luôn gắn với nguyên tắc tính khoa học và tính đảng
trong khoa học lịch sử và trong chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngoài ra, trong nghiên cứu và học tập môn Lịch sử Đảng cần đảm bảo một số phương
pháp khác như: Phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp so sánh, thống kê, đối chiếu, phân
tích, phương pháp vận dụng lý luận vào thực tiễn. Trong đó khi vận dụng lý luận vào thực tiễn
đòi hỏi nắm vững lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm triết học, kinh tế chính trị,
chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn nghiên cứu lý luận với thực
tiễn Việt Nam để nhận thức đúng đắn bản chất của mỗi hiện tượng, sự kiện của lịch sử lãnh đạo,
đấu tranh của Đảng.
Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về Đảng, đội quân tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi đến thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam, khẳng định vị trí, vai trò của Đảng Cộng
sản đối với cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa to lớn của đường lối cách mạng trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Nêu các phương pháp nghiên cứu môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2. Tại sao khi nghiên cứu LSĐ cần phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 3: Khái quát đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của khoa học lịch sử Đảng.

Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG (2-1930)
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

3
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, biến các dân tộc
nhỏ yếu thành thuộc địa của chúng. Sự áp bức và thôn tính của chủ nghĩa đế quốc càng tăng,
mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và thực dân đế quốc ngày càng gay gắt. Phong trào đấu
tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề mang tính thời đại. Điều này đã
tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới và tác động mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Điều đó làm
cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa liên hệ chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh cùng chống kẻ thù chung.
Tháng 3-1919, Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến
đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch
ra phương hướng chiến lược cho cách mạng vô sản, mà còn giúp đỡ, thúc đẩy phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa phát triển. Năm 1920, tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản, Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin được thông qua, với khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại. Luận cương đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng
các dân tộc bị áp bức. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
b. Tình hình trong nước
Là một nước phong kiến lạc hậu có vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam là
một trong những mục tiêu xâm lược của thực dân Pháp. Đêm ngày 31-8, rạng ngày 1-9-1858,
thực dân Pháp chính thức nổ súng đánh chiếm Việt Nam bằng cuộc tấn công vào bán đảo Sơn
Trà - Đà Nẵng. Trước sức ép của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn từng bước khuất phục và
đầu hàng. Ngày 6-6-1884, nhà Nguyễn ký kết với Pháp Hiệp ước Partơnốt, thừa nhận sự thống
trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành
các cuộc khai thác thuộc địa. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam biến
chuyển trên tất cả mọi lĩnh vực:
Về chính trị, Pháp thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền
hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, vua quan Nam triều trở thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố các cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thi hành triệt để chính sách chia để trị. Xã hội Việt Nam từ xã
hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Về kinh tế, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa với quy mô lớn (lần
thứ nhất từ 1897-1914, lần hai từ 1919-1929). Âm mưu của Pháp là nhằm biến Việt Nam và
Đông Dương thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, nơi vơ vét tài nguyên, bóc lột
sức lao động rẻ mạt của người bản xứ.
Về văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thực hiện triệt để chính sách văn hóa nô dịch, “ngu
dân” để dễ cai trị, gây tâm lý tự ti vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
phong bại tục, mở nhà tù nhiều hơn trường học; cấm đoán mọi hoạt động yêu nước của nhân
dân; bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
Dưới áp bức của thực dân Pháp, các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với
địa vị kinh tế khác nhau, và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.

4
Giai cấp địa chủ phong kiến là giai cấp tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam. Giai cấp
địa chủ bị phân hóa thành ba bộ phận: tiểu, trung và đại địa chủ. Một bộ phận địa chủ câu kết với
thực dân Pháp và làm tay sai cho Pháp, bộ phận còn lại nêu cao tư tưởng dân tộc khởi xướng và
lãnh đạo các phong trào chống Pháp.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất, khoảng hơn 90% dân số. Đồng thời là
một giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Vì thế, đây là lực lượng có tinh thần
đấu tranh kiên cường bất khuất và khao khát giành lại độc lập và ruộng đất nên khi được tổ chức
lại và có lực lượng tiên phong lãnh đạo sẽ phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp công nhân được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ XIX, gắn với các cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam khi mới ra đời chỉ chiếm
khoảng 1% dân số, sống tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ những đặc
điểm của giai cấp công nhân quốc tế như: đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý
thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, mang bản chất quốc tế, giai cấp công
nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: phải chịu ba tầng áp bức bóc lột, phần lớn xuất
thân từ nông dân, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán
về lực lượng và sức mạnh. Với những đặc điểm ưu việt của mình, giai cấp công nhân Việt Nam
sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong quá
trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân hóa thành hai bộ phận. Một bộ phận có lợi ích gắn
liền với lợi ích tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân
Pháp, được gọi là tư sản mại bản. Một bộ phận là tư sản dân tộc, bao gồm những tư sản bị thực dân
Pháp chèn ép, kìm hãm, lệ thuộc, nhỏ bé về địa vị kinh tế. Phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có
tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách
mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm: Trí thức, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, sinh viên. Họ có
địa vị kinh tế bấp bênh, luôn bị đe dọa phá sản, bị đế quốc, tư bản chèn ép nên có tinh thần dân
tộc, yêu nước, nhạy bén với cái mới, do đó họ đi vào lực lượng cách mạng ngày càng đông đảo.
Dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, Việt Nam từ xã hội
phong kiến thuần túy trở thành một xã hội thuộc địa. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
cũng thay đổi, ngoài mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện thêm mâu
thuẫn mới là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó
mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai. Yêu cầu cấp bách đặt ra cho cách mạng Việt
Nam lúc này là giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản đó.
c. Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Ngay từ khi Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra liên tục, rộng khắp
theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau.
Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần
Vương (1885-1896) của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết diễn ra sôi nổi với các cuộc khởi
nghĩa: Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh). Cuộc khởi nghĩa của

5
Phan Đình Phùng thất bại năm 1896 là dấu mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo của các sĩ phu phong
kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam.
Phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ 1884-1913 dưới sự lãnh đạo của thủ
lĩnh Hoàng Hoa Thám. Nhưng do phong trào mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả
năng mở rộng hợp tác và thống nhất với phong trào giải phóng dân tộc nên cuối cùng bị thực dân
Pháp dập tắt.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu dân chủ
tư sản, tiêu biểu là Phan Bội Châu với xu hướng bạo động và Phan Châu Trinh với xu hướng cải
cách.
Ngoài ra còn các phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản Việt Nam: phong trào “tẩy chay
Khách trú” (1919); phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh
trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố, đòi cải cách tự do dân chủ tiếp tục phát triển.
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng ra đời: Đảng lập hiến (1923); Đảng Thanh
niên (3-1926); Đảng thanh niên cao vọng (1926); Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sau nhiều lần đổi
tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; trên cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu
tư sản, trí thức, Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập (12-1927) tại Bắc Kỳ. Mục đích là
đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản,
với phương pháp đấu tranh vũ trang. Ngày 9-2-1930, với khẩu hiệu “không thành công cũng
thành nhân”, cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra nhưng nhanh chóng bị thất bại.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước Việt Nam thời kỳ này diễn ra rất mạnh mẽ, quyết
liệt, liên tục và rộng khắp, tuy nhiên, tất cả đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác
định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho thế
hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu
nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
a. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Trước yêu cầu cấp thiết của lịch sử dân tộc, với lòng yêu nước sâu sắc, ngày 5-6-1911
Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc tại bến cảng nhà
Rồng.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã tác động mạnh tới nhận thức của
Nguyễn Tất Thành. Người đánh giá đây là một cuộc “cách mạng đến nơi”, và hướng sự chú ý
của mình tới cuộc cách mạng này, tới nhà nước Nga - Xô viết.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp vì đây là tổ chức chính
trị tiến bộ ở Pháp lúc bấy giờ. Tháng 6-1919, các nước thắng trận trong đại chiến thế giới thứ
nhất đã tổ chức cuộc họp tại Vécxây (Pháp) để phân chia thị trường thế giới. Thay mặt Hội
những người An Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây Bản Yêu sách
gồm 8 điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách không được Hội nghị chú ý,
nhưng được báo chí Pháp công bố rộng rãi và gây một tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên tờ báo L’Humanite’ (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17-7-
1920. Qua Luận cương, Người đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

6
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản
tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc cùng với những người bỏ
phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản -
tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước
chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
b. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Về tư tưởng chính trị: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt
động cách mạng của các nước thuộc địa ở châu Á, Phi, Mỹ La-tinh tham gia thành lập Hội liên
hiệp các dân tộc thuộc địa, sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), viết nhiều bài trên các
báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Thư tín Quốc tế nhằm tố cáo chính sách
cai trị, áp bức của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái
Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mat-xcơ-va, tham gia nhiều hoạt động như
tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản. Năm
1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tại Pari, đã tố cáo chế độ
bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, làm thức tỉnh nhân dân các dân tộc
bị áp bức, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét ở nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên từ năm 1925 đến năm 1927, được Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành sách với tên gọi Đường Cách mệnh. Đây là cuốn
sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của Nguyễn Ái Quốc
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Về tổ chức, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6-1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên làm
cơ quan ngôn luận, ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo
chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi được thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “Vô sản hóa”, đưa các hội viên vào các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sống và làm việc với công nhân, đồng thời truyền bá lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
c. Sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam
Trước năm 1919, phong trào công nhân mang tính chất tự phát, với các hình thức đấu
tranh sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký sau đó phát triển thành
những hình thức: bãi công, biểu tình.
Từ năm 1919-1925, giai cấp công nhân phát triển nhanh về số lượng, chất lượng. Nhiều
cuộc bãi công đã nổ ra, có mục đích chính trị rõ ràng, đánh dấu sự chuyển biến của phong trào
công nhân sang thời kỳ đấu tranh tự giác.
Từ năm 1926-1929, với những yêu sách về kinh tế và chính trị bước đầu phong trào công
nhân đã có sự liên kết nhiều ngành, địa phương, chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã
nâng lên rõ rệt, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
7
a. Các tổ chức cộng sản ra đời
Đến năm 1929, các phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tổ chức Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình
đó, tháng 3-1929 Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập do Trần Văn Cung làm Bí
thư.
Tháng 5-1929, Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương
Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập Đảng
Cộng sản. Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc kỳ họp tại số nhà 312 phố
Khâm Thiên, Hà Nội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, xuất bản tờ báo Búa
Liềm làm cơ quan ngôn luận và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Tháng 8-
1929, những thanh niên yêu nước ở Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản đã thành lập An Nam Cộng
sản Đảng.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng - một tổ chức thanh niên yêu nước chịu tác động
mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tháng 9-1929, ra tuyên ngôn thành lập
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam. Tuy nhiên, cả ba tổ chức
đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu sự
thống nhất về tổ chức. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở
nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
b. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên
của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc) triệu
tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam) họp tại Cửu Long, Hương Cảng (Hồng
Kông).
Hội nghị bắt đầu từ ngày 6-1 và ngày 8-2, các đại biểu về nước. Tham dự Hội nghị có 2
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu
của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), và Nguyễn Ái Quốc, đại biểu
của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản vào ngày 18-2-
1930 nêu rõ: “Chúng tôi họp vào ngày 6-1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có
đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói
cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một Đảng. Chúng tôi
cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản… Các đại
biểu trở về An Nam ngày 8-2” [5]. Ngày 24-2-1930 mở cuộc hội nghị ra quyết nghị chấp nhận
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu quá trình
hoàn tất việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.
Về nội dung, Hội nghị đã thông qua Năm điểm lớn do đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra, thông
qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong những văn kiện được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, có hai văn kiện đã phản
ánh đầy đủ đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
8
mạng Việt Nam, đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng, hợp thành
bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (hay còn gọi là Cương lĩnh Nguyễn Ái Quốc). Nội
dung cơ bản như sau:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng chiến lược đã chỉ rõ tính chất và
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Nhiệm vụ chính trị chủ yếu là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công
nông.
Về kinh tế, thủ tiêu hết quốc trái, thâu hết sản nghiệp lớn (công nghiệp, vận tải, ngân hàng,
v.v…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch
thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho
dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành ngày luật làm tám giờ.
Về văn hóa - xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ được bình quyền, phổ thông
giáo dục theo hướng công nông hoá.
Về lực lượng cách mạng, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là lực lượng cơ bản, trong
đó giai cấp công nhân là lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết các giai cấp, các lực lượng tiến
bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng phải thu phục được đại bộ phận giai cấp
mình, phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt,v.v… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải
đánh đổ.
Về đoàn kết quốc tế, cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự
đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp, “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền
và thực hành liên lạc với những dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới” [7].
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” [8].
“Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng” [9].
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, dù “vắn tắt” nhưng
đã phản ánh một cách đầy đủ những luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh là
sản phẩm của sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
sáng tạo, phát triển trong điều kiện lịch sử mới, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, Cương lĩnh đã đánh giá đúng đắn thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp, nhiệm vụ và lực lượng cách mạng
để đưa cách mạng Việt Nam sang một giai đoạn lịch sử mới.

9
4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước những năm đầu thế kỷ XX, chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng ra đời đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
vô sản thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua đã đáp
ứng nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định
hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Khẳng định sự lựa
chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển
của dân tộc Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
1. Phong trào cách mạng 1930-1931 và khôi phục phong trào 1932-1935
a. Phong trào cách mạng 1930-1931 và Luận cương chính trị (10-1930)
Trên thế giới, những năm 1929-1933, Liên Xô đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc
xây dựng đất nước. Các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn với
những hậu quả nặng nề, làm cho mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong
trào cách mạng thế giới dâng cao.
Ở trong nước, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng
nổ ra liên tiếp nhiều nơi.
Từ tháng 5-1930 đến tháng 9-1930, phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với
những hình thức đấu tranh quyết liệt. Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền thực
dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã. Cách mạng đã giành quyền làm
chủ ở một số nơi. Các tổ chức đảng ở những địa phương này chủ động lãnh đạo Ban Chấp hành
nông hội đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Các “khu đỏ” tự do hình thành ở nhiều vùng
nông thôn của Nghệ An, Hà Tĩnh … trong đó hình thành một chính quyền cách mạng của nông
dân theo hình thức các Uỷ ban tự quản kiểu Xô-viết.
Từ cuối năm 1930, thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp thủ
đoạn bạo lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức rước cờ
vàng, nhận thẻ quy thuận. Đầu năm 1931, hàng ngàn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu
nước Việt Nam bị bắt, bị giết hoặc tù đày. Tháng 4-1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị
bắt, không còn một ủy viên nào. Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết, bị tổn
thất nặng nề. Cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh đầy khó khăn gian khổ.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách mạng 1930-1931 cũng để lại cho Đảng
những bài học kinh nghiệm quý báu về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống
phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân,
10
thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, kết hợp phong trào đấu
tranh ở thành thị và nông thôn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10-1930
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã
họp tại Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Trần Phú. Hội nghị quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị bầu Trần Phú làm Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua Nghị quyết Về tình hình hiện tại ở Đông
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng; thảo luận bản Luận cương chánh trị của
Đảng Cộng Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng).
Luận cương xác định mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương diễn ra gay gắt giữa một bên là
thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc chủ
nghĩa.
Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân
quyền, có tính chất thổ địa và phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách
mạng. “Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi. Lúc đó sự tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm rộng, làm cho
cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con đường cách mạng vô sản. Sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh
các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hiện cách mạng ruộng đất một cách
triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập” [13]. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít, mật thiết với nhau,
có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm thổ địa được thắng lợi; mà có
phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Luận cương nhấn mạnh “vấn đề thổ
địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” [14], là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Về lực lượng cách mạng, giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính, trong đó giai
cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương xác định điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản. Đảng phải có một đường lối chính trị
đúng, kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, từng trải tranh đấu mà trưởng thành.
Về phương pháp cách mạng, “võ trang bạo động giành chính quyền không phải là một việc
thường, chẳng những là theo tình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh,
cho nên cần phải chú ý” [15].
Về quan hệ quốc tế, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, vì thế vô sản Đông Dương phải có quan hệ đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản trên thế
giới, nhứt là giai cấp vô sản Pháp. “Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, quần chúng cách mạng
Đông Dương lại phải liên lạc với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa và bán thuộc địa,
nhứt là ở Tàu và Ấn Độ, v.v..” [16].
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến
lược cách mạng mà Chánh cương vắt tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu. Tuy nhiên, Luận cương
chưa phân tích và làm rõ mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp xâm lược, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai
cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản,
11
phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả
năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc,
cho nên không đề ra liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc,
tay sai. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã
không chấp nhận những quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trước đó.
b. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng (1932-1935). Đại hội
Đảng lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)
Trong năm 1931 nhiều cán bộ Trung ương bị bắt và bị giết hại, trong đó có Trần Phú,
Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam.
Năm 1932, Lê Hồng Phong thành lập Ban Chỉ huy ở hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông
Dương nhằm khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng trong nước. Tháng 3-1935, Đại
hội lần thứ nhất họp ở Ma Cao (Trung Quốc), có 13 đại biểu tham dự Đại hội. Đại hội đề ra ba
nhiệm vụ trước mắt:
Một là, củng cố và phát triển Đảng, phát triển lực lượng của Đảng trong các xí nghiệp, nhà
máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng. Đồng thời phải đưa nông dân lao động và
trí thức cách mạng đã qua rèn luyện thử thách vào Đảng.
Hai là, đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc ít người, phụ nữ,
binh lính… Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên cộng sản, Công
hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ. Lập Mặt trận thống nhất phản đế. Thâu phục quảng đại quần
chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời.
Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ
cách mạng Trung Quốc…
Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết về vận động quần
chúng. Đại hội bầu Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm ủy viên dự khuyết của Đảng bên cạnh Quốc tế
Cộng sản. Đại hội đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức đảng và phong trào cách mạng quần
chúng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Đảng lãnh đạo phong trào dân chủ 1936-1939
a. Hoàn cảnh lịch sử
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và nguy cơ của chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa
bình, an ninh quốc tế. Tháng 7-1935, Quốc tế Cộng sản họp Đại hội lần thứ VII tại Mat-xcơ-va xác
định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh,
bảo vệ dân chủ và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít.
Ở Việt Nam, để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế và ngột ngạt về chính trị do
chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp gây ra, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có
những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau thời gian đấu tranh gian
khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi xây dựng, phát triển hệ thống tổ chức đảng và các tổ chức quần
chúng rộng rãi để tăng cường lực lượng cách mạng.
b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

12
Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 2 tại Thượng
Hải (Trung Quốc) do Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị chủ trương “sửa chữa những sai lầm” trước
đó và “định lại chính sách mới”. Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư
sản dân quyền có nhiệm vụ phản đế và điền địa, nhiệm vụ trước mắt là: chống phát xít, chống chiến
tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân Việt
Nam là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Hội nghị quyết định “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng
rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các
dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ” [17].
Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức
tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất
hợp pháp. Tại Hội nghị, Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong Văn kiện
“Chung quanh vấn đề Chiến sách mới” công bố tháng 10-1936, Đảng nêu quan điểm: Cuộc dân
tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể
nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề
điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà
ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước.
Các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937)
đã tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của
cách mạng, đặt ra nhiệm vụ chính trị cụ thể, tập hợp rộng rãi những lực lượng chính trị dù là nhỏ
bé, sử dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mục tiêu cụ thể nhằm
động viên hàng triệu quần chúng vào trận tuyến đấu tranh cách mạng.
Tháng 3-1938, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa I quyết định lập Mặt
trận Dân chủ Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào và quyết định
củng cố và phát triển cơ sở đảng, lập thêm cơ sở mới, bầu Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay
Hà Huy Tập.
Cuối năm 1938, từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc, Người chú ý theo dõi và
chỉ đạo phong trào cách mạng ở Đông Dương. Tháng 3-1939, Đảng ra Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống
nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế
quốc.
c. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi cuốn
đông đảo quần chúng tham gia với những nội dung và hình thức đấu tranh phong phú.
Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đến nông
thôn đã lập ra các “Ủy ban hành động” để tập hợp quần chúng và bầu đại biểu đi dự Đại hội
Đông Dương (riêng ở Nam Kỳ đã có 600 Ủy ban hành động).
Bên cạnh đó, Đảng khôn khéo lợi dụng mọi khả năng để xuất bản và lưu hành báo chí
công khai. Nhiều báo chí của Đảng và các tài liệu được phổ biến rộng rãi trong quần chúng như:
Tin tức, Đời nay, Tranh đấu, Nhành lúa, Bạn dân, Kinh tế, Dân mới, Phổ thông, Lao động, …
Đặc biệt, báo Dân chúng là cơ quan ngôn luận của Đảng lúc đó mỗi ngày xuất bản từ 5.000 đến
13
15.000 bản. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích thẳng thắn
chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm và chỉ ra những bài học cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng. Đây là tác phẩm có ý nghĩa lý luận, thực tiễn về xây dựng Đảng, trong đó nhấn mạnh tự
phê bình và phê bình để nâng cao năng lực lãnh đạo và bản chất cách mạng của Đảng.
Từ năm 1937-1939, Đảng và Mặt trận dân chủ đã giành được nhiều thắng lợi trong các
cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ, Viện dân biểu Bắc Kỳ, Hội đồng thành phố Hà Nội,
Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương và đã thắng lợi trong việc bác
bỏ dự án tăng thuế thân và thuế điền thổ của Viện dân biểu Trung Kỳ.
Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ cũng phát triển mạnh từ năm 1937 nhằm tạo điều kiện
để quần chúng hiểu biết về chủ trương, chính sách của Đảng. Do đó, lôi cuốn đông đảo quần
chúng tham gia với các hình thức tổ chức như Hội Tương tế, Hội Ái hữu, Hội Thể thao, Hội đọc sách
báo... Từ đó, Đảng không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn đấu tranh cho những quyền
lợi thiết thực của nhân dân.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945
a. Bối cảnh lịch sử
Trên thế giới, ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp, chính phủ
của Thủ tưởng Pêtanh (Pe’tain) ký văn bản đầu hàng Đức. Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên
Xô. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật lần lượt đánh chiếm
nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển, trong đất liền.
Tại Đông Dương và Việt Nam, bộ máy đàn áp của thực dân Pháp được tăng cường, lệnh
thiết quân luật được ban bố. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên
truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ngoài
vòng pháp luật, giải tán các Hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng
cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người. Pháp thi hành chính sách thời
chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính
sách “kinh tế chỉ huy” nhằm vơ vét sức người sức của để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc.
Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới Việt Nam - Trung Quốc, đánh vào Lạng Sơn, chính
thức xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và cấu kết với Nhật thống
trị, bóc lột nhân dân Việt Nam, làm cho nhân dân phải chịu cảch “một cổ hai tròng”.
b. Chủ trương chiến lược mới của Đảng
Trước tình hình trên, ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi thông báo Hoàn cảnh Đông
Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng. Thông cáo cho các cấp bộ Đảng vạch ra một
số phương hướng và biện pháp cần kíp trước mắt nhằm chuyển hướng các mặt hoạt động.
Tháng 11-1939, Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng xác định: “Bước đường sinh tồn
của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập.
Chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế
mới. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn
đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.
“Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống
cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho
dân cày” [19]. Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho
14
Mặt trận dân chủ Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu
nước ở Đông Dương, nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phát xít, đánh đổ đế quốc
Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Hội nghị đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược cách mạng và mở ra một thời kỳ đấu
tranh mới - thời kỳ chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị điều kiện giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong thời điểm đó, ngày 17-1-1940, Nguyễn Văn Cừ cùng nhiều cán bộ Trung ương bị địch
bắt.
Trước tình hình đó, tháng 11-1940 Hội nghị Trung ương họp lập lại Ban Chấp hành Trung
ương (Hội nghị Trung ương lâm thời lần thứ 7). Hội nghị quyết định một số vấn đề cơ bản như
cách mạng phản đế và cách mạng điền địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước, cái làm
sau. Tại Hội nghị, Trung ương Đảng còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Nghị quyết Trung ương tháng 11-1939.
Trước yêu cầu cấp bách của cách mạng, ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước
ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tại Cao Bằng, tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề chính là nhận định cuộc
cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt
Minh, khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn
cách mạng ruộng đất” [21]. Từ đây, Hội nghị nhận định:
Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa Việt
Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Do vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập
cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng.
Thứ hai, “Cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”. Hội nghị quyết định
tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng các khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công
bằng, giảm tô, giảm tức”.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
đúng đắn chính sách “dân tộc tự quyết”. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương
một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú
nông, địa chủ, tư bản bản xứ vào mặt trận Việt Minh. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận
Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.
Thứ năm, sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
theo tinh thần dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung toàn thể dân tộc” [24].
Thứ sáu, xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, tháng 5-1941 đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược
cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đó là đường lối giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Những quyết định của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã khẳng định lại quan điểm đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, là ngọn cờ thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc.
15
c. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang
Phong trào chống Pháp - Nhật
Sau Hội nghị lần thứ 8, ngày 6-6-1941 Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:
“Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế
quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” [27]. Trong khi đó Pháp - Nhật
ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn
Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hoóc Môn, Gia
Định. Ngày 6-9-1942, Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái
Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh trên đường đi Trung Quốc bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ.
Chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
Về xây dựng lực lượng chính trị, ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ
Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) ra đời. Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, tỉnh Phúc Yên) nay thuộc Hà Nội đề ra những biện pháp cụ
thể để phát triển phong trào quần chúng. Hội nghị chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, liên
minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh,
xúc tiến cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương, để khoét sâu
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù. Năm 1943, Đảng công bố Đề cương văn hóa Việt Nam, xác định
văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Cuối 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời,
thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đảng rất chú trọng xây dựng và phát triển các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ
trang. Tháng 6-1941, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Đội du
kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên là Cứu quốc quân. Cứu quốc quân tiến hành tuyên truyền
vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ từ Cao Bằng khu căn cứ được mở rộng sang
các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, thông báo chủ trương của
Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương
châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm
tắt của Đảng. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp
tổ chức đã ra đời và trở thành cơ sở chính trị, vũ trang cho khởi nghĩa sau này. Thực hiện nhiệm
vụ, Đội đã đánh thắng đồn Phay Khắt (25-12-1944), và đồn Nà Ngần (26-12-1944). Đội đẩy mạnh
vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố
và mở rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng.
d. Cao trào kháng Nhật cứu nước
Hoàn cảnh lịch sử
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên
Xô đang truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu và giải phóng nhiều nước ở Đông Âu
và tiến về Béclin. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp, tiến quân về
phía Tây nước Đức. Nước Pháp được giải phóng. Phát xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn,
chuyển sang phòng ngự và thất bại liên tiếp. Mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp trở nên gay gắt.
Vào 20 giờ ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, đảo chính lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông
16
Dương, Pháp chống cự yếu rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau đảo chính, Nhật giữ nguyên bộ máy
cai trị của Pháp ở Đông Dương để làm tay sai cho chúng.
Ngay đêm ngày 9-3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do Trường Chinh chủ trì. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ ra chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ rõ bản chất hành động của phát xít Nhật là
đảo chính chứ không phải là cuộc cách mạng. Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật lật Pháp
dẫn đến khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông Dương, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự
chín muồi, tuy vậy đang có những cơ hội tốt để đi đến chín muồi nhanh chóng. Kẻ thù chính, cụ
thể, trước mắt và duy nhất của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Thay khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời, kêu gọi:
“Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật.
Chỉ thị phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Chỉ thị
xác định đây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, nên phải có những hình thức đấu tranh, tuyên truyền cho
thích hợp như đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang, biểu tình, tuần hành, bãi công chính trị, phá kho
thóc của Nhật để cứu đói, thành lập căn cứ cách mạng sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi
có đủ điều kiện.
Chỉ thị dự kiến thời cơ thuận lợi để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền như khi quân
Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật chống đỡ, phía sau sơ hở. Hoặc cách mạng Nhật
bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật ra đời. Hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm
1940, quân đội viễn chinh Nhật hoang mang, mất tinh thần. Tuy nhiên, không được trông chờ, ỷ
lại vào bên ngoài, mà phải chủ động nắm bắt thời cơ và phải dựa vào sức mình là chính.
Bản Chỉ thị đã thể hiện sự nhận định sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng, nhờ đó thúc
đẩy tình thế cách mạng mau chóng chín muồi, là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng,
toàn dân trong cao trào chống Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
Cao trào kháng Nhật cứu nước
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung và hình thức.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp,
chuẩn bị thành lập Uỷ ban giải phóng Việt Nam. Ngày 15-4-1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ do
Trường Chinh chủ trì, họp ở Hiệp Hoà, Bắc Giang, quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng
đầu, gấp rút chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Hội nghị thống nhất sát nhập Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân và Cứu quốc quân và các lực lượng vũ trang khác thành Việt Nam giải phóng
quân.
Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập hội nghị để
quyết định thành lập khu giải phóng Việt Bắc.
Giữa lúc phong trào đấu tranh của quần chúng cả nước lên cao, thì nạn đói diễn ra nghiêm
trọng trong các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ làm hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Xuất phát từ lợi
ích sống còn trước mắt của đồng bào, Đảng đề ra chủ trương “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách
mạng, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, kết hợp với phong trào đấu tranh
chính trị của quần chúng, chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa là điểm độc đáo, sáng tạo của Đảng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được
17
mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ
động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
e. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và Đồng minh. Tháng 8-1945, quân đội
Liên Xô đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu. Mỹ ném hai quả bom
nguyên tử xuống Nhật Bản, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện. Vào
thời điểm này ở Việt Nam, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đang hoang mang cực độ, phát
xít Nhật đã mất hết tinh thần và gục ngã.
Trước tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước
rút với quân Đồng minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ, không chỉ để tranh
thủ thời cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách mạng đến thành công. Ngày 13-8-1945,
Ủy ban khởi nghĩa ra Lệnh Khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa), kêu gọi nhân
dân cả nước nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong toàn quốc.
Ngày 14 và 15-8-1945, Nghị quyết của Toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương
họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị cũng
quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại sau khi giành được chính quyền, cụ
thể về đối nội sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền
cách mạng. Còn về đối ngoại sẽ thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn, bớt thù; triệt
để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hoá, cô lập chúng; tranh thủ sự ủng hộ của
Liên Xô và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và Trung Quốc.
Ngày 16 và 17-8-1945, tại Tân Trào, Quốc dân Đại hội họp, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương
tổng khởi nghĩa của Đảng và thông qua 10 chính sách của Việt Minh; quyết định lập Uỷ ban dân
tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Từ ngày 14-8, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ
động, lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương,
Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số
tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và
huyện.
Tại Hà Nội, ngày 19-8, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội đã làm chính quyền tay
sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ các thành phố khác nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23-8, Ủy
ban khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế huy động quần chúng từ các huyện đã giành được chính quyền
ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân nội thành Huế xuống đường biểu dương lực lượng.
Ở Nam Kỳ, sáng ngày 25-8, ở Sài Gòn hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân
khởi nghĩa đã chiếm được các công sở. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Những cuộc
khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý
nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước. Từ ngày 27 đến ngày 28-8-1945, tổng khởi nghĩa kết
thúc với tỉnh cuối cùng là Hà Tiên (Kiên Giang). Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã
thành công trên cả nước chỉ trong vòng nửa tháng.
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng
về Hà Nội. Ngày 28-8-1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tuyên bố cải tổ thành Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chiều ngày 30-8, trước cửa Ngọ Môn, Bảo Đại
đọc lời thoái vị và nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
18
Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Thay mặt
Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với
quốc dân đồng bào và thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. “Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”…“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do và
độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [32].
4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, đã
tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc. Lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân tộc. Thành lập được chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc,
dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ
phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Ý nghĩa
Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu
một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc, đã đập tan sự thống trị của
thực dân Pháp trong 87 năm, lật nhào chế độ quân chủ hàng nghìn năm và ách thống trị của phát
xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc
lập, tự do, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng Tám đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, cổ vũ
nhân dân các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng mình, giành độc lập tự do.
Đối với thế giới, Cách mạng Tháng Tám cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh
đạo của một đảng Mác - Lênin với đường lối đúng đắn, có thể giành thắng lợi.
Kinh nghiệm
Thứ nhất, về đường lối chiến lược. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn
hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu,
nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng. Trên cơ sở khối liên minh công-nông-trí thức vững chắc
đã khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước
trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về
huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng
bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, dự đoán đúng thời cơ, chớp lấy thời
cơ, hành động mau lẹ, kịp thời, kiên quyết và khôn khéo khi thời cơ xuất hiện.
Thứ tư, về xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng cách mạng tiên phong vững mạnh, thống nhất
19
ý chí và hành động, trung thành tuyệt đối với dân tộc và giai cấp, có đường lối đúng với đội ngũ
cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch
sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hóa của dân tộc.
Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã ra đời, dù trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố,
vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm, Đảng đã lãnh
đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1: Nêu các giai cấp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, làm rõ đặc điểm
của giai cấp công nhân và tư sản?
Câu 2: Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra theo những
khuynh hướng chính trị nào? Đại biểu điển hình cho những khuynh hướng đấu tranh đó là ai?
Câu 3: Những dấu mốc quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc và
chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc.
Câu 4: Trình bày phương hướng chiến lược, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên.
Câu 5: Những mốc thời gian tiêu biểu thể hiện sự phát triển của phong trào cách mạng 1930-
1931.
Câu 5: Kể tên các phong trào đấu tranh thời kỳ 1936-1939?

Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN HOÀN THÀNH
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975)

I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC 1945-1954
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng sau Cách mạng Tháng Tám
a. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm1945, bên cạnh những thuận lợi, Đảng và
nhân dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới.
Về thuận lợi: Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành. Liên Xô trở thành thành
trì của chủ nghĩa xã hội. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở
thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng vươn lên mạnh mẽ.
Ở trong nước, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính quyền dân chủ nhân dân
được kiến lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Địa vị của nhân dân thay đổi, từ thân phận
của những người nô lệ mất nước, trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh
dân tộc. Lực lượng vũ trang ngày càng được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt
Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Về khó khăn: Trên thế giới, các nước lớn bắt tay, dàn xếp với nhau tiếp tục tấn công phong
trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Chưa có nước nào ủng hộ lập trường
20
độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng ba
nước Đông Dương phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức.
Nền kinh tế Việt Nam vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại thêm
hậu quả của nạn đói năm 1945 do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ
hoang, công nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Kho
bạc trống rỗng, chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, ngân hàng Đông Dương -
ngân hàng duy nhất phát hành giấy bạc vẫn đang nằm trong tay tư bản Pháp. Bên cạnh đó, bọn
Tưởng Giới Thạch tung tiền quan kim và quốc tệ vào Việt Nam, gây rối loạn thị trường.
Văn hoá: hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho 95% dân số mù chữ,
các hủ tục lạc hậu, thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn nặng nề.
Giặc ngoại xâm và nội phản: Với danh nghĩa quân Đồng minh, quân đội các nước đế quốc
ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam, khuyến khích Việt gian chống phá chính quyền cách mạng
nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt lâu dài Việt Nam. Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra), gần
20 vạn quân Tưởng kéo vào, sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu
chính quyền cách mạng và cướp bóc nhân dân Việt Nam. Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào),
trên một vạn quân Anh cũng dưới danh nghĩa quân Đồng minh kéo vào mở đường cho thực dân
Pháp quay lại đánh chiếm Việt Nam. Ngày 2-9-1945, thực dân Pháp trắng trợn gây hấn, bắn vào
cuộc mít tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn. Ngày 23-9-1945 dưới sự yểm trợ của 2 sư đoàn
thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn - Chợ lớn, chính thức xâm lược Việt Nam lần
thứ 2. Ở Việt Nam lúc này còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp, một số quân Nhật
theo lệnh của quân Anh, cầm súng dọn đường cho Pháp mở rộng vùng chiếm đóng miền Nam
Việt Nam.
Nền độc lập của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm trọng; vận mệnh chính quyền cách mạng như
“ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và thù trong, giặc ngoài.
b. Xây dựng chế độ mới và bảo vệ chính quyền cách mạng
Tình hình khó khăn trên đặt ra cho Đảng và nhân dân Việt Nam những nhiệm vụ nặng nề và
cấp bách. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”
vạch ra những chủ trương cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nội dung Chỉ thị nêu rõ:
Về chỉ đạo chiến lược, cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Về xác định kẻ thù, bản chỉ thị nêu rõ, kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam lúc này là thực
dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Lập mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp
nhân dân, thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập
tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Về nhiệm vụ, bao gồm: Củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ củng cố chính quyền cách
mạng là quan trọng nhất, bởi vì “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”, đặc biệt
trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”.
Phương hướng, biện pháp cụ thể:
Về nội chính, xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập hiến pháp,
bài trừ nội phản và cải thiện đời sống nhân dân.

21
Về quân sự, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện
khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Những chủ trương trên đây của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đáp ứng những yêu
cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam; định hướng tư tưởng và trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đưa
đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
c. Sự chỉ đạo của Đảng
Về chính trị, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ tổ chức Tổng tuyển
cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-
1-1946, cả nước đã tham gia Tổng tuyển cử với hơn 89% cử tri đi bỏ phiếu và bầu ra 333 đại
biểu vào Quốc hội.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên, bầu ra Chính phủ chính thức gồm 10 bộ,
kiện toàn bộ máy nhân sự do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông
qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở
rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng. Tháng 5-1946, Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam
(gọi tắt là Liên Việt) được thành lập. Các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt
ra đời như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7-1946), Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10-1946).
Về kinh tế, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên đông
đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào lớn: tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, lập hũ gạo tiết kiệm. Trên lĩnh vực tài chính, Đảng phát động Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập,
Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến... để xây dựng ngân quỹ quốc gia giải
quyết những khó khăn về tài chính. Nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ được xóa bỏ, thực hiện
chính sách giảm tô 25%; phát hành giấy bạc Việt Nam (1946)... Nhờ chính sách linh hoạt của
chính phủ, đầu năm 1946 nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần dân
tộc được phát huy cao độ.
Về văn hóa, Đảng chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ” toàn dân học chữ
quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động nhân dân xây dựng đời sống mới, nền văn hóa
mới, từng bước đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ cản trở tiến bộ... Đến cuối năm 1946 cả
nước có thêm 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Về tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ. Từ ngày 23-9-
1945, Đảng và Chính phủ phát động phong trào Nam tiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư,
khích lệ, động viên đồng bào Nam Bộ kháng chiến, tuyên dương và tặng nhân dân Nam Bộ danh
hiệu “thành đồng Tổ quốc”.
Về công tác bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng
mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc”, tránh gây xung đột vũ trang với quân
Tưởng. Ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực ra là rút vào hoạt động bí mật
để làm mất mục tiêu quấy rối của kẻ thù, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh
nghĩa: “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”; Chính phủ Việt Nam chấp nhận cung
cấp lương thực, thực phẩm, chỗ ăn ở cho 20 vạn quân Tưởng; tiêu tiền mất giá “quan kim”, “quốc tệ”; bổ
22
sung 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt cách, Việt quốc; mở
rộng thành phần Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người không
đảng phái và một số nhân vật tay sai của quân Tưởng.
Đầu năm 1946, do sự thỏa thuận, dàn xếp của phe đế quốc, Chính phủ Pháp và Chính phủ
Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản “Hiệp ước Trùng Khánh” (còn gọi là Hiệp ước Hoa-
Pháp, ngày 28-2-1946), Chính quyền cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế vô cùng khó
khăn.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội, J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ. Trong
đó nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện,
tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Việt
Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước
và sẽ rút dần về nước trong 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để giải
quyết quan hệ Việt - Pháp.
Ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ
trương hòa hoãn, khả năng phát triển của tình hình và nêu rõ cần nêu cao tinh thần cảnh giác,
tích cực sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào.
Theo tinh thần của Hiệp định sơ bộ, từ ngày 19-4 đến 10-5-1946, đại diện Việt Nam và
Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ ngày 31-5 đến 20-10-1946, theo lời mời của
Quốc hội và Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch dẫn đầu phái đoàn của Chính phủ Việt Nam thăm
nước Pháp; phái đoàn Quốc hội Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đàm phán
chính thức với Pháp tại Hội nghị Phôngtenơblô (Paris - Pháp) từ ngày 6-7 đến 10-9-1946. Tuy
nhiên, do thực dân Pháp vẫn giữ lập trường thực dân, nên các cuộc gặp gỡ, đàm phán đều không
đạt kết quả tích cực. Vì vậy, để có thêm thời gian hòa bình, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu
dài, trước khi lên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện của Chính phủ Pháp
bản Tạm ước 14-9 tại Mác-xây (Pháp), nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế,
văn hóa ở Việt Nam, đồng thời hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm
phán....
Ở trong nước, dưới sự chỉ đạo của cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã khám xét bất ngờ trụ sở của
Quốc dân đảng ở số nhà 132 Đuyvinhô (nay là phố Bùi Thị Xuân - Hà Nội), khống chế bọn phản
động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động, kết thúc vụ án ở số
7 phố Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Thắng lợi này đã đập tan hoàn toàn mưu
đồ thâm độc, lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản động câu kết với thực dân
Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng.
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam từ Pháp về đến cảng Hải
Phòng an toàn. Từ đây công cuộc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, điều mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện (1946-1950)
a. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
Hoàn cảnh lịch sử
Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp tấn công đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó
chiếm đóng trái phép Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các vùng tự do ở Nam Trung Bộ và
23
Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng phản động xúc tiến thành lập “Chính phủ Cộng hòa Nam kỳ”
và triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương... Trong 2 ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp ở
Hà Nội tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12, chúng
bắn đại bác gây ra vụ thảm sát nhân dân Việt Nam ở phố Yên Ninh, Hàng Bún. Ngày 18-12, đại
diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa liên
tiếp 3 tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp, phải phá bỏ công sự, chướng ngại vật trên
đường phố Hà Nội, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ
an ninh, trật tự thành phố....
Trước tình hình đó, ngày 12-12-1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
Ngày 18-12-1946, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn
Phúc, Hà Đông kịp thời đề ra chủ trương đối phó; quyết định phát động toàn dân kháng chiến.
Ngày 19-12-1946 quân và dân ta và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra đồng loạt nổ súng
chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Vào 20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, pháo đài Láng bắn loạt đại bác đầu tiên vào Thành Hà
Nội, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Tại thủ đô, cuộc chiến đấu diễn ra trên từng
căn nhà, góc phố vô cùng ác liệt. Nhiều trận đánh giằng co, quyết liệt, một mất một còn giữa
quân dân Hà Nội và Pháp ở Bắc Bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ, Chợ Đồng Xuân, Ga Hàng Cỏ, Ô Cầu
Dền…với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện
quan trọng như: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945); Chỉ thị toàn dân kháng chiến (12-
12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946); Tác
phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (8-1947). Về cơ bản nội
dung đường lối kháng chiến đề cập đến các vấn đề sau:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự
do, thống nhất hoàn toàn.
Phương châm kháng chiến, phát động chiến tranh nhân dân, tiến hành kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, động viên toàn dân, đoàn kết toàn dân tham
gia cuộc kháng chiến “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là
một mặt trận”.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ đánh địch
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa tư tưởng, trong đó quân sự là mặt
trận hàng đầu.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong bối cảnh so sánh lực
lượng ban đầu quá chênh lệch, không cân sức, đồng thời có thời gian, vật chất để chuyển hóa lực
lượng nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không phải là kéo dài vô thời
hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước tiến nhảy vọt về
chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, phải tự lập, tự cường, tự cấp, tự túc về mọi mặt;
phải dựa vào nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn lực vật chất, tinh thần vốn có trong

24
nhân dân làm sức mạnh, chỗ dựa chủ yếu của cuộc chiến tranh, làm cơ sở để sử dụng và phát
huy ngoại lực khi có điều kiện.
Đường lối kháng chiến của Đảng là ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược,
được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng và trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
b. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội rút
về hoạt động tại các căn cứ ATK Việt Bắc an toàn, trực tiếp chỉ đạo cách mạng.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quan tâm đến phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp,
tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân. Tiếp tục duy trì phong trào bình
dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông các cấp. Tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của
lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Về quân sự, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự
lớn tiến công địch dọc biên giới Việt - Trung từ Đình Lập (Móng Cái) đến thị xã Cao Bằng (Cao
Bằng) (Chiến dịch Biên giới thu đông 1950) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ với Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cuộc kháng chiến lên giai đoạn mới.
Trên mặt trận ngoại giao, Đảng chủ trương tích cực tranh thủ và đặt quan hệ ngoại giao
với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Với Lào và Campuchia, Đảng, Nhà nước Việt Nam
chủ trương “mở rộng mặt trận Lào - Miên” để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu.
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951-1954)
a. Đại hội đại biểu lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Để đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951,
Đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ II tại thôn Chinh, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên Quang.
Ở trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giành được nhiều thắng lợi quan
trọng. Cách mạng Lào và Campuchia có nhiều chuyển biến tích cực.
Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định mỗi nước Việt Nam, Lào và Campuchia cần có một
đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam
[4]. Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo
Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội của
Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương…
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân của Việt Nam. Nội dung cơ bản của đường lối này phản ánh trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam, cụ thể:
Tính chất của xã hội Việt Nam có ba tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và
nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến là để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa tính chất dân chủ
nhân dân và một phần thuộc địa.
25
Đối tượng của cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: Đối tượng chính là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, cụ thể là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ, đối tượng phụ là bọn phong kiến mà cụ
thể là phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc
lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến làm
cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”.
Ba nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong đó nhiệm vụ chính cần tập trung lực
lượng giải quyết là chống xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc.
Động lực của cách mạng là giai cấp nông dân, công nhân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Ngoài ra còn có các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó nền tảng là công, nông và
lao động trí óc, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Cách mạng Việt Nam trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn
thành giải phóng dân tộc. Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh
chế độ dân chủ nhân dân. Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết
liên hệ, xen kẽ với nhau.
Về triển vọng của cuộc cách mạng, cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ II là Đại hội “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây
dựng Đảng Lao động Việt Nam”.
b. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
Đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt
Về quân sự, để đối phó và làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở
liên tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự quy mô lớn như: Trần Hưng Đạo (12-1950), Hoàng Hoa
Thám (3- 1951), Quang Trung (5-1951) đánh vào vùng chiếm đóng của địch ở một số địa bàn
Trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển
cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tiếp đó, là các chiến dịch: Hòa Bình (12-1951),
Tây Bắc - Thu đông (1952). Tháng 4-1953, phát huy thắng lợi của các chiến dịch quân sự trong
nước, Đảng quyết định phối hợp với cách mạng Lào mở chiến dịch Thượng Lào (địa bàn 2 tỉnh
Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giải phóng thêm một phần đất đai, giúp Chính phủ kháng chiến
Lào xây dựng và mở rộng khu căn cứ địa, đồng thời phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp
ở Bắc Đông Dương.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức chăm lo phát
triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương kháng chiến. Đi đôi với đẩy
mạnh sản xuất, Đảng, Chính phủ quan tâm chấn chỉnh lại chế độ thuế khóa, tài chính, xây dựng
ngành thương nghiệp, ngân hàng. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng nếp sống mới cũng
được phát triển và đạt được nhiều thành tựu... Đặc biệt từ đầu năm 1953, Đảng và Nhà nước đề
ra nhiều chủ trương, chính sách thực hiện triệt để giảm tô và bước đầu thí điểm cải cách ruộng
đất, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng ở một số vùng nông thôn tự do...
Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải cách ruộng đất.
Ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất. Thực
26
hiện chủ trương này, hàng ngàn hécta ruộng đất và các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất
nông nghiệp đã được chia cho nông dân nghèo, nhất là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức
lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm giết giặc lập công, góp phần tích cực động viên
sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ…
Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1953-1954)
Thắng lợi của các chiến dịch quân sự lớn trên chiến trường của quân và dân ta đã đẩy địch
vào tình thế khó khăn, ngày càng nguy khốn. Giới quân sự Pháp tuyệt vọng, tìm mọi cách cố
gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm một lối thoát trong danh dự.
Tháng 5-1953, Chính phủ Pháp quyết định cử Đại tướng H. Nava đang đảm nhiệm chức
vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị - quân sự mới lấy tên là
Kế hoạch Nava và được Hội đồng Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua. Kế hoạch Nava dự
kiến thực hiện trong vòng 18 tháng nhằm “chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao
nhất của Pháp với sự giúp sức của Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Với kế hoạch chiến
lược này, trong quá trình thực hiện Nava đã dần biến Điện Biên Phủ - một địa danh vùng Tây
Bắc Việt Nam thành một căn cứ quân sự mạnh nhất Đông Dương, được giới quân sự, chính trị
Pháp - Mỹ đánh giá là một “pháo đài không thể công phá”, “một cỗ máy để nghiền Việt Minh”.
Cuối tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị họp và quyết định thông qua chủ trương tác chiến
đông xuân 1953-1954 với phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Tháng 12-1953,
Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp đi đến kết thúc thắng lợi. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng
Tư lệnh quân đội được giao trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Quân ta đã tập
trung 5 vạn quân với mọi nỗ lực cao nhất bao vây chặt Điện Biên Phủ. Để bảo đảm chắc thắng, Đại
tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán kịp thời chuyển hướng phương châm tác chiến
từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”. Ngày 13-3-1954,
quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn chiến dịch
Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra 3 đợt, từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954, đánh
chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cátơri chỉ huy trưởng và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, kiên
cường, thông minh, sáng tạo và vô cùng anh dũng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Không còn sự lựa chọn nào khác, Chính phủ Pháp cùng các nước Mỹ, Anh, Liên Xô,
Trung Quốc đồng ý triệu tập Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) để bàn về lập lại hòa bình ở Đông
Dương. Với thiện chí hòa bình, mong muốn chấm dứt chiến tranh, ngày 8-5-1954 phái đoàn
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm
Văn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng.
Sau 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23
phiên họp hẹp và phải chịu nhiều tác động, áp lực khách quan, sức ép từ các nước lớn, nhưng
với tinh thần chủ động, kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc nhân nhượng có điều kiện, ngày
21-7-1954, Việt Nam đã chấp nhận ký kết bản Hiệp định Giơnevơ. Hội nghị đã thông qua bản
tuyên bố cuối cùng về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương có chữ ký của các
bên (riêng đại biểu Mỹ không ký nhưng tuyên bố cam kết tôn trọng Hiệp định). Tinh thần cao
nhất của bản Hiệp định là: Pháp và các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia gồm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

27
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước; cam kết chấm dứt chiến tranh và lập lại
hòa bình trên bán đảo Đông Dương…
Hiệp định Giơnevơ được ký kết là sự kiện lịch sử đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng (từ ngày 23-9-1945 đến 21-7-
1954), lập lại nền hòa bình ở Đông Dương, mở ra trang sử mới của dân tộc Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ
Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
Đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến ở Việt Nam và trên bán đảo Đông
Dương, là thắng lợi có ý nghĩa vô cùng to lớn, có tính lan tỏa rộng, mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Bảo vệ được thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám, củng cố và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, bảo đảm quyền lợi căn bản của người dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mang đến
niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo ra tiền đề về chính trị - xã hội vững chắc để miền Bắc
phát triển mạnh mẽ, trở thành hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần
cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ của các dân tộc châu Á, Phi
và Mỹ Latinh.
Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng
chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Ba là, Đảng đã đề ra và ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành
cuộc chiến tranh phù hợp với đặc điểm từng giai đoạn cách mạng.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của nhiệm vụ của
cuộc kháng chiến.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện
của Đảng đối với cuộc kháng chiến.
II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ KHÁNG
CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG
NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)
1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam - Bắc giai đoạn 1954-1964
a. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954 - 1960)
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ (7-1954), miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen.
Về quốc tế, thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhất là Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ La tinh tiếp tục phát triển. Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các
28
nước tư bản. Khó khăn là đế quốc Mỹ có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến lược toàn
cầu phản cách mạng, chống lại hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thế giới bước vào
thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang. Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc…
Ở trong nước, thuận lợi là lực lượng cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn sau 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Miền Bắc đã được giải phóng, trở thành căn cứ địa,
hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Nhân dân có ý chí độc lập, thống nhất. Tuy nhiên,
khó khăn lớn nhất là đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau.
Đế quốc Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam. Miền Bắc
với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, hậu quả của chiến tranh để lại rất nặng nề.
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế
quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời
sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại
bình thường, chuẩn bị điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định
Giơnevơ. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai… điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc,
đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam [10]. Hai Hội nghị đã
thông qua kế hoạch 3 năm lần thứ nhất ở miền Bắc với nhiệm vụ cơ bản là khôi phục và hàn gắn
vết thương chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất, đồng thời chống làn sóng dân di cư vào
Nam.
Ngày 10-10-1954, giải phóng tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Ngày 30-10-1954, tiếp quản thị xã
Hải Dương, ngày 13-5-1955, tiếp quản thành phố Hải Phòng, ngày 16-5-1955, tên lính viễn
chinh cuối cùng của Pháp rời đảo Cát Bà, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
Mặc dù miền Bắc được giải phóng, song một số nội dung của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân chưa hoàn thành. Vì vậy, nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh và thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” được Đảng chú trọng lãnh đạo thực hiện
ngay khi miền Bắc có hòa bình.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (9-1956) đã nghiêm khắc
kiểm điểm những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, công khai tự phê bình
trước nhân dân, thi hành kỷ luật đối với một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung ương
Đảng. Công tác sửa sai trong các năm 1956-1957 đã được Đảng chỉ đạo, tiến hành một cách
thành khẩn, kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ nên đã từng bước khắc
phục được những sai lầm đã xảy ra [11].
Hội nghị lần thứ 14 (11-1958) đã thông qua kế hoạch 3 năm lần thứ hai với nhiệm vụ trọng
tâm: phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư
bản tư doanh (1958-1960). Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
thông qua Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh.
Ở miền Nam, ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, với mưu đồ biến miền Nam Việt
Nam thành căn cứ quân sự, thuộc địa kiểu mới, tạo thành “con đê” ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa

29
xã hội tràn xuống Đông Nam Á, làm bàn đạp tấn công ra miền Bắc, đế quốc Mỹ đã dựng lên
chính quyền Ngô Đình Diệm, tiến hành “trưng cầu dân ý” ở miền Nam, dùng bạo lực phản cách
mạng đàn áp, khủng bố dã man nhân dân yêu nước miền Nam.
Chính quyền Sài Gòn tay sai đã ráo riết thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, lập “khu
trù mật”, “khu dinh điền” nhằm bắt bớ, trả thù những người yêu nước, đàn áp phong trào đấu
tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa II (15 đến 17-7-1954), Đảng nhận
định kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ. Nghị quyết Bộ Chính trị
(9-1954) xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là đấu tranh đòi thi hành Hiệp định
Giơnevơ; chuyển hướng công tác cho phù hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân tộc,
dân chủ, hòa bình, thống nhất, độc lập, đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ,
hoàn thành thống nhất Tổ quốc.
Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị làm Bí
thư. Tháng 8-1956, Lê Duẩn đã dự thảo Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam,
nêu rõ: chế độ thống trị của Mỹ Diệm ở miền Nam là chế độ độc tài, phát xít, hiếu chiến. Do đó,
để chống đế quốc Mỹ và tay sai, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình
là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác.
Từ năm 1958, kẻ địch đẩy mạnh khủng bố, mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế
quốc Mỹ và tay sai ngày càng gay gắt. Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã họp về
cách mạng miền Nam với tinh thần là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử
dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang, tiến
tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã mở
đường chi viện cho cách mạng miền Nam với hai tuyến đường vận tải Hồ Chí Minh cả trên bộ (559,
19-5-1959), trên biển (759, 23-10-1961). Ngày 17-1-1960, phong trào Đồng Khởi chính thức được
phát động, mở đầu ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre) do Nguyễn Thị Định lãnh đạo, sau đó lan nhanh ra
các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên, các tỉnh Nam Bộ... vùng giải phóng mở rộng trên
phạm vi rộng lớn nối liền từ Tây Nguyên sang miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập tại xã
Tân Lập (Tây Ninh) do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch, trở thành một tổ chức chính trị -
xã hội đầu tiên của nhân dân miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử
hết sức to lớn. Nghị quyết đã phản ánh và đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường cho cách
mạng miền Nam tiến lên, thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng
trong những thời điểm khó khăn của cuộc kháng chiến.
b. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền
Nam (1960-1965)
Tháng 9-1960, Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai
mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà” [14]. Đại hội đã thảo luận và thông qua:
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm
trong nước, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải
thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội
30
chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng,
song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất
nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng mỗi miền, Đại hội nêu
rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa
của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và
đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, giữ vững đường lối hòa bình thống nhất nước nhà, vì chủ
trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân
yêu chuộng hòa bình thế giới. Song, phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó
với mọi tình thế.
Về triển vọng của cách mạng, cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một
quá trình đấu tranh gian khổ, phức tạp, lâu dài song nhất định thắng lợi.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá
trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng,
tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Về đường lối chung là đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước và lao động cần cù,
tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ
lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ;
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, đưa Việt Nam thành
một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học
tiên tiến.
Đại hội lần thứ III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của
cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.

31
Trong bối cảnh phức tạp của Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của Đại hội thể hiện
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ,
vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), nhiều hội nghị chuyên đề nhằm cụ
thể hóa đường lối, đưa nghị quyết của Đại hội Đảng vào thực tiễn đã được tổ chức như: Đảng
phát động, tổ chức nhiều cuộc vận động và phong trào thi đua sôi nổi trong nhân dân ở các
ngành và các địa phương. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua theo gương của Hợp tác xã
Đại Phong (Lệ Thủy, Quảng Bình), trong công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy cơ khí
Duyên Hải (Kiến An, Hải Phòng), trong tiểu thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác
xã thủ công nghiệp Thành Công (Nga Sơn, Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào thi
đua học tập Trường cấp II Bắc Lý (Lý Nhân, Hà Nam), trong quân đội có phong trào thi đua "Ba
nhất" (cao nhất, nhanh nhất, đều nhất),... Nhất là phong trào "Mỗi người làm việc bằng hai để
đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt" theo Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh tại Hội nghị
chính trị đặc biệt tháng 3-1964.
Đánh giá chung về thời kỳ này, Hồ Chí Minh cho rằng: qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây
dựng chế độ mới, “miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất
nước, xã hội, con người đều đổi mới” [16]. Đó là những cơ sở để Đảng phát động cuộc kháng chiến
chống Mỹ trên cả nước, nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đảng lãnh đạo đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” từ 1-1961 đến 5-1965
Ngày 20-1-1961, J.Kennơđi lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, thông qua chiến lược toàn cầu
mới của Mỹ với tên gọi “Phản ứng linh hoạt”. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (Special War
Strategy) là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”. Với công thức: cố vấn
Mỹ, vũ khí Mỹ và quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển
khai thực hiện bình định miền Nam trong vòng 18 tháng với Kế hoạch Stalay -Taylo (1961-
1963). Xương sống của kế hoạch này là quốc sách lập ấp chiến lược với chiến thuật “trực thăng
vận” và “thiết xa vận”. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa dự định lập 17.000 ấp chiến
lược, thực hiện “tát nước, bắt cá”, tách nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng, bình định nông
thôn miền Nam.
Trước tình hình đó, tháng 1-1961 và tháng 2-1962, các Hội nghị của Bộ Chính trị đã phân
tích, đánh giá tình hình và ra chỉ thị về “Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của
cách mạng miền Nam”, quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam từ khởi nghĩa
từng phần sang chiến tranh cách mạng. Để tăng cường sự chỉ đạo của Đảng đối với cách mạng
miền Nam, tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Văn Linh
làm Bí thư. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng, quân và dân miền Nam đã
chiến đấu và lập chiến công ở Ấp Bắc (2-1-1963). Chiến thắng Ấp Bắc thúc đẩy phong trào đấu
tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức,
học sinh, sinh viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh của đồng bào Phật
giáo năm 1963. Nội bộ chính quyền Sài Gòn rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Ngày 1-11-
1963, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực lượng quân đảo chính đã lật đổ chính quyền Sài Gòn do Ngô
Đình Diệm làm Tổng thống. Từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính
quân sự lật đổ lẫn nhau trong nội bộ. Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ năm

32
1961 đến giữa năm 1965), lực lượng cách mạng đã làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc
biệt" của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước 1965-1975
a. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
Nhằm cứu vãn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, từ giữa năm 1965, đế quốc
Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (Local War Strategy), ồ ạt đưa
quân viễn chinh vào miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam, tạo ra tình thế cả nước có chiến tranh.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-
1965) đề ra đường lối cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới, gồm các
nội dung sau:
Nhận định tình hình: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ tiến hành ở miền Nam vẫn
là chiến tranh xâm lược kiểu mới nhưng được đề ra trên thế thua, bị động nên chứa nhiều mâu
thuẫn về chiến lược. Vì vậy, dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh
và chư hầu, nhưng so sánh lực lượng trên cả thế và lực vẫn không thay đổi lớn.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cố
gắng đến mức cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến
công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân
sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây
dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, động viên
sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, tích
cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng Chiến tranh
cục bộ ra cả nước.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền
Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải
phóng miền Nam. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu
hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 đã thể hiện tư tưởng nắm vững,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng của Đảng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc trong tình hình mới.
b. Xây dựng hậu phương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; giữ
vững thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ (1965-
1968)
Ở miền Bắc
33
Từ ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ đã dùng không
quân và hải quân đánh phá rất ác liệt miền Bắc Việt Nam. Đầu tháng 2-1965, đế quốc Mỹ đã trút
hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, xóm làng, nhiều
công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học, nhà ở, dân thường bị
giết hại.
Trước tình hình đó, ngày 17-7-1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi cả nước tiến
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong đó nêu rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [17].
Dưới ánh sáng của những Nghị quyết của Đảng, quân và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào
chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, với niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ.
Thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, nông dân có
phong trào “Tay cày tay súng”, công nhân có phong trào “Tay búa, tay súng”, trong chiến đấu
có tinh thần “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, trong chi viện tiền tuyến có “Thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người”, trong bảo đảm giao thông vận tải có khẩu hiệu hành động
“Xe chưa qua, nhà không tiếc”,... Đó thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại hào hùng, sáng tạo với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tất
cả vì miền Nam ruột thịt”.
Tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc (từ Nghệ An vào Vĩnh Linh)
và ngày 1-11-1968, chấm dứt không điều kiện đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Sau
bốn năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, miền Bắc đã đạt được những thành tích đáng tự hào trên tất cả
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến
miền Nam, góp phần cùng quân dân miền Nam đánh bại cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Ở miền Nam
Mùa khô 1965-1966, Mỹ huy động 70 vạn quân trong đó có 20 vạn quân Mỹ, mở cuộc hành
quân chiến lược lần thứ nhất vào: Tây Nguyên, đồng bằng khu V, miền Đông Nam Bộ nhằm thực
hiện tìm diệt quân giải phóng, giành quyền chủ động trên chiến trường, bình định các vùng nông
thôn, đồng bằng quan trọng. Những thắng lợi ở Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-1965), Plâyme
(11-1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965)… góp phần bẻ gãy cuộc phản công chiến lược mùa khô
1965-1966, làm thất bại kế hoạch tìm diệt và bình định của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Mùa khô 1966-1967, mặc dù, Mỹ và chính quyền Sài Gòn huy động lực lượng hùng hậu
(39 vạn quân Mỹ, hơn 5 vạn quân chư hầu và 54 vạn quân nguỵ cùng máy bay, xe tăng…)
nhưng nhân dân miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương cục miền Nam bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích từng bước bẻ gãy tất cả các cuộc hành quân của
địch khiến chúng bị tổn thất nặng nề, và phải chuyển sang sách lược phòng ngự, co cụm quân cố
thủ trong suốt mùa mưa năm 1967.
Cuối năm 1967, “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ được đẩy đến đỉnh cao, nhưng đế quốc Mỹ
không thực hiện được các mục tiêu chính trị và quân sự đặt ra, tình hình nước Mỹ bất ổn, phong
trào phản chiến tăng cao. Trên cơ sở đó, ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III) quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế, bè bạn, mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm, phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp bàn về chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam
sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định và đưa ra chủ trương: Tiến hành tổng công

34
kích - tổng khởi nghĩa, đưa chiến tranh về đô thị, nơi được coi là căn cứ và hậu phương vững
chắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; mở những đòn tiến công quân sự dồn dập, kết hợp với nổi
dậy đồng loạt của quần chúng ngay tại địa bàn chiến lược của chúng.
Đêm 30, rạng ngày 31-1-1968, tổng công kích, tổng khởi nghĩa đồng loạt diễn ra, trọng
điểm là các đô thị ở Sài Gòn - Gia Định, Huế. Quân và dân ta liên tiếp mở ba đợt tiến công vào
4/6 thành phố, 37/42 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, hầu hết các cơ quan đầu não của địch
ở trung ương và địa phương, căn cứ quân sự Mỹ, và làm chủ nhiều đô thị, trung tâm lớn.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là đòn tiến công bất ngờ đánh vào hang ổ của kẻ
thù, góp phần quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng phải
xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm bàn phán Pari từ ngày 13-5-1968. Đến tháng 1-1969,
đế quốc Mỹ chấp nhận cuộc đàm phán tại Pari với sự tham dự của bốn bên: Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa
và Mỹ.
c. Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc (1969-1975)
Ở miền Bắc
Tranh thủ thời gian Mỹ ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, từ tháng 11-1968, Đảng lãnh
đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn hạn nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh,
tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường chi viện cho miền Nam.
Sau ba năm (1969-1972), tình hình khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội có
nhiều chuyển biến tốt đẹp trên các mặt: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, lưu thông phân
phối, văn hóa, giáo dục, quốc phòng. Đó là cơ sở để miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền
Nam, hỗ trợ đắc lực cho cách mạng miền Nam vượt qua khó khăn sau cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy năm 1968, góp phần tạo nên chiến thắng to lớn trên chiến trường miền Nam.
Từ tháng 4-1972, đế quốc Mỹ rải thảm bom bằng pháo đài bay B.52 tại Hà Nội, Hải Phòng
và một số địa phương, trung tâm kinh tế - chính trị ở miền Bắc trong 12 ngày đêm (từ ngày 18
đến ngày 30-12-1972). Quân dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu,
làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng lực lượng mọi mặt, ra sức chi viện cho
miền Nam. Đến năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế đã trở lại hoạt động bình thường.
Ở miền Nam
Đầu năm 1969, Nichxơn trúng cử Tổng thống, cho ra đời học thuyết mang tên mình: “Học
thuyết Nichxơn”, dựa trên ba nguyên tắc “trụ cột” là: cùng chia sẻ; sức mạnh của Mỹ và sẵn
sàng thương lượng. Trong đó đưa ra 2 chiến lược chiến tranh áp dụng ở Việt Nam và Đông
Dương đó là Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh.
“Việt Nam hoá chiến tranh” là một loại chiến tranh rất thâm độc của Mỹ nhằm “dùng
người Việt Nam đánh người Việt Nam”, tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền
Nam. Thực hiện chiến lược này, Mỹ tăng cường viện trợ, xây dựng quân đội Sài Gòn về mọi
mặt; tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho miền Nam; đồng
thời Mỹ tìm mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn
viện trợ chủ yếu của Việt Nam.

35
Trước những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của địch, tháng 4-1969, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết về: “tình hình và nhiệm vụ trước mắt” nhấn mạnh tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng
khởi nghĩa, phát triển chiến lược tiến công một cách liên tục toàn diện và mạnh mẽ. Hội nghị lần
thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ Chính trị (6-1970) kiểm điểm
những khuyết điểm từ mùa xuân năm 1968 và đưa ra chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy
nông thôn làm hướng chính, tập trung ngăn chặn và đẩy lùi chương trình “bình định” của địch.
Năm 1971, quân và dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại cuộc hành
quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh vào đường 9 Nam Lào,
phá tan âm mưu cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh - con đường tiếp tế quan trọng của miền Bắc
đối với miền Nam và phong trào kháng chiến Campuchia.
Những thắng lợi trên tạo điều kiện thuận lợi để mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch tại
các địa bàn xung yếu Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Trên mặt trận ngoại giao, sau 4 năm 8 tháng 14 ngày, với 202 phiên họp công khai, 45
cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1000 cuộc phỏng vấn… Ngày 27-1-1973, hiệp định
về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” được ký kết. Điều 1 của Hiệp định ghi rõ:
Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của nước Việt Nam; Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính
líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của
Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ
tất cả các căn cứ quân sự; Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân miền Nam Việt Nam…
Mặc dù, Hiệp định Pari được ký kết nhưng miền Nam vẫn chưa có hoà bình, chính quyền
tay sai ngang nhiên tiến hành nhiều hành động khủng bố trong vùng tạm bị chiếm và lấn chiếm
vùng giải phóng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) nêu rõ: con
đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình
huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, thực hiện
nhiệm vụ giành dân, giành đất, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng để chuẩn bị
tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là tranh thủ, bất ngờ cao độ, đảm bảo thắng
lợi giòn giã, ngày 10-3-1975, quân và dân ta nổ súng tấn công thị xã Buôn Ma Thuột, mở màn
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 và giành thắng lợi. Ngày 18-3-1975, Bộ Chính
trị đã quyết định: giải phóng miền Nam trong năm 1975. Phối hợp với chiến trường Tây
Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch tiến công Huế bắt đầu. Ngày 26-3, thành phố Huế được giải
phóng. Ngày 26-3, chiến dịch tiến công giải phóng thành phố Đà Nẵng bắt đầu. Ngày 29-3, Đà
Nẵng được giải phóng. Cách mạng miền Nam phát triển với nhịp độ “một ngày bằng 20 năm”.
Ngày 26-4-1975, trận đánh lịch sử mang tên: Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Đúng 11
giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng
của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sài Gòn được giải phóng. Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu giải
phóng các địa phương còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long và các đảo, quần đảo ở Biển Đông đã
kết thúc thắng lợi.
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm đánh dấu sự toàn thắng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm đấu
tranh kiên cường chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, mở ra thời kỳ mới cho lịch sử Việt Nam.
36
3. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm của Đảng thời kỳ 1954-1975
Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mở ra kỷ nguyên mới cho dân
tộc, kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất và
tinh thần, thế và lực cho cách mạng Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc trên trường
quốc tế; nâng cao khí phách, niềm tự hào và để lại những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng
nước và giữ nước.
Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã góp phần đẩy lùi và làm
suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở
Đông Nam Á, đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch, tác động đến nội tình nước Mỹ, đồng thời cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và
hòa bình thế giới. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi
qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi
được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
tính thời đại sâu sắc” [18]. Đây là “sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của bản
lĩnh và trí tuệ Việt Nam”.
Nguyên nhân thắng lợi: cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi trước hết là nhờ
có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, sáng tạo; là
thắng lợi của cuộc chiến đấu hy sinh, gian khổ, ngoan cường, bền bỉ, anh dũng của quân và dân
cả nước; là thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Miền Bắc vừa hoàn
thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, vừa đảm bảo chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; có sự đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương,
với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của nhân dân Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước xã hội
chủ nghĩa và sự ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, các lực lượng, dân chủ, hoà
bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ.
Kinh nghiệm
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, huy động sức mạnh toàn
dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hai là, Đảng có phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Đó là phương pháp
sử dụng bạo lực cách mạng với sự kết hợp của lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân; bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách
mạng; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao; kết hợp nổi dậy, tiến công và
đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, bằng 3 mũi giáp công; kết hợp lực lượng 3 thứ quân...
Ba là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, kịp thời của Trung ương Đảng và công tác tổ chức
chiến đấu tài giỏi của Đảng bộ các cấp.
Bốn là, Đảng hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng
miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1: Khái quát những khó khăn của nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945?
37
Câu 2: Nội dung cơ bản của Chính cương Đảng lao động Việt Nam.
Câu 3: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945) xác định nhiệm vụ và giải pháp của cách
mạng Việt Nam thời kỳ này như thế nào?
Câu 4: Nêu nội dung đường lối chung của cách mạng Việt Nam, vai trò, vị trí, nhiệm vụ cụ thể
của từng chiến lược cách mạng mỗi miền được đề ra tại Đại hội III (9/1960).
Câu 5: Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước thể hiện qua nội dung HNTW
11 và 12 của Đảng.

Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (TỪ 1975 ĐẾN NAY)
I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO
VỆ
TỔ QUỐC (1975-1986)
1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc từ 1975 đến 1981
a. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước (1975-1976)
Đất nước đã độc lập, hòa bình và thống nhất, song về mặt Nhà nước vẫn còn hai chính
quyền tồn tại ở hai miền đất nước, đó là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam. Một nước thống
nhất không thể có hai chính quyền. Vì vậy, Hội nghị lần thứ 24 của Đảng (8-1975) khẳng định
phải khẩn trương hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Thực hiện chủ trương trên, tại Sài Gòn, từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, đoàn đại biểu hai
miền Nam - Bắc đã tổ chức Hội nghị hiệp thương thống nhất đất nước. Ngày 3-1-1976, Bộ
Chính trị ra chỉ thị về việc lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước và giao
trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đi bỏ phiếu,
đạt tỷ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ
họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (Quốc hội khoá VI) được tiến hành tại Hà
Nội. Quốc hội đã quyết định đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ nền đỏ,
ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh; Thủ đô là Hà Nội; Quốc ca là bài Tiến quân ca; Quốc huy mang
dòng chữ “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành
Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, Nguyễn Lương
Bằng và Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước, Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội, Phạm
Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thành lập Ủy
ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tổ chức chính trị - xã hội

38
được thống nhất trên cả nước với tên gọi mới: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Lao động Hồ Chí Minh, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam...
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976)
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang tiếp tục lớn mạnh, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển mạnh mẽ, uy tín Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Ở trong
nước, chiến tranh kết thúc, đất nước hòa bình, thống nhất; nguồn lực lao động dồi dào, nhân dân
cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã tạo dựng
được một số cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng ở cả hai miền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội. Đại hội quyết định đổi tên
Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung Đại hội
Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và khẳng định: Thắng lợi của
nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như một
trong những trang sử chói lọi nhất, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
Đại hội nêu ra ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, nước ta đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với
nhiều thuận lợi lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ
nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, song cuộc đấu tranh giữa thế lực phản cách mạng
và lực lượng cách mạng trên thế giới vẫn đang rất gay go, quyết liệt.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới
là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học - kỹ thuật;
cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xây dụng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Xoá bỏ chế độ
người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên
củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội. Xây dựng thành công Tổ quốc
Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nêu trên đã làm nổi bật bốn đặc trưng cơ
bản của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đó là: Xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa
mới; xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, Đảng khẳng định coi chuyên chính
vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
Về đường lối xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, Đại hội nêu rõ:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
39
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển
lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc
phòng; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời phát triển
quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có
lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp
hiện đại, văn hoá và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh,
hạnh phúc”.
Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm (1976-1980) là phát triển và
cải tạo kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật nhằm thực hiện hai mục tiêu vừa cơ bản, vừa cấp bách:
đảm bảo nhu cầu đời sống nhân dân và tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) của Đảng là Đại hội toàn thắng của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xă hội. Đại hội
đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
c. Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc từ năm 1976 đến năm 1981
Trong quá trình thực hiện đường lối, những tư duy mới của Đảng về đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế bắt đầu xuất hiện. Tháng 8-1979, Hội nghị Trung ương 6 khóa IV chủ trương tháo gỡ
từng bước những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất
“bung ra”, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống. Hội
nghị không xem kế hoạch hoá là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế mà khẳng định cần
thiết phải kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ thị trường. Đây được coi là bước đột phá đầu tiên
trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế.
Trước hiện tượng khoán chui trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi
tổ chức thí điểm ở các tỉnh Hải Phòng, Vĩnh Phúc, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100-
CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp.
Trong lĩnh vực công nghiệp, ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định
25-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh
và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Về tiền lương, Chính phủ ban hành Quyết định 26-CP (ngày 21-1-1981) nêu rõ: mở rộng hình
thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh của Nhà nước, thúc đẩy người lao động hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng
thu nhập.
Cùng với Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư, Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ
đã tạo điều kiện cho nông nghiệp, công nghiệp có những bước chuyển biến mới.
Về công tác bảo vệ Tổ quốc, cuối tháng 12-1977, chính quyền Pôn Pốt huy động 19 trong
tổng số 23 sư đoàn, mở cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn vào vùng biên giới Tây Nam Việt
Nam. Ngày 23-12-1978, ba sư đoàn lính Khơ me đỏ tấn công vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu với
mục tiêu nhanh chóng chiếm tỉnh Tây Ninh, sau đó tiến sâu vào nội địa Việt Nam. Trước hành
động xâm lược của tập đoàn Pôn Pốt, quân và dân ta đã đánh trả mạnh mẽ, mở các chiến dịch
đánh đuổi bọn chúng ra khỏi lãnh thổ, lập lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
40
Từ năm 1978, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam xấu đi rõ rệt. Ngày 17-2-1979, quân
đội Trung Quốc đồng loạt đánh sang biên giới 6 tỉnh nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây
cho Việt Nam những thiệt hại nặng nề. Trong ngày 5-3-1979, Trung Quốc rút quân, nhưng chưa
từ bỏ những hoạt động chống phá tuyến biên giới. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân và
dân Việt Nam vẫn diễn ra trong nhiều năm sau đó, đặc biệt là trên mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang.
Ngày 18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hoà bình, an ninh ở
biên giới, giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ. Trong thời gian nay, quân và dân cả nước
cũng kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các lực lượng Fulro vũ
trang ở Tây Nguyên, lực lượng lưu vong vũ trang xâm nhập về nước, bảo vệ vững chắc thành
quả cách mạng.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi
mới kinh tế 1982-1986
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982)
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện bao vây cấm vận đối với Việt
Nam. Các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc ra sức xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt
Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông
Dương.
Đất nước xuất hiện nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu đề ra tại Đại
hội IV chưa hoàn thành; lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4,5 lần
xuất khẩu; những biểu hiện của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội xuất hiện.
Nội dung của Đại hội
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế đề ra từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, đồng thời khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam phải trải qua nhiều chặng đường, chặng đường đầu gồm 5 năm 1981-1985 và những
năm còn lại của thập kỷ 80 của thế kỷ XX, và những chẳng đường tiếp theo.
Về mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát trong chặng đường đầu tiên là: “Ổn định dần dần,
tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất trên phạm vi cả
nước; Đáp ứng nhu cầu củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội”.
Đại hội khẳng định cách mạng Việt Nam thời kỳ này có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hai là, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Về nội dung, bước đi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Đảng chỉ rõ: tập trung sức phát triển
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Thời kỳ này công nghiệp nặng làm vừa sức, có
mức độ và phải phục vụ cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982) đã có những đổi mới trong bước đi
và biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là sự đổi mới tư duy kinh tế trên một số lĩnh
vực nhưng còn khuyết điểm là trong khâu tổ chức thực hiện nên đã không có sự sửa chữa, khắc
phục những hạn chế kịp thời, đúng mức và cần thiết.
b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế từ năm 1981 dến năm 1986
Tiếp theo bước đột phá thứ đầu tiên (năm 1979), bước đột phá thứ hai trong quá trình hình
thành đường lối đổi mới của Đảng là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985). Tại Hội nghị,
41
Đảng chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá;
xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang
cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực chất, chủ trương này là sự thừa nhận sản
xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.
Bước đột phá thứ ba là: Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-l986), với quan điểm mới một số
vấn đề về kinh tế, như: bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư; về cải tạo xã hội chủ nghĩa; về cơ chế
quản lý kinh tế... Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm với các bước đột phá có tính cách mạng nói
trên có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng một cách căn bản nội dung Dự thảo Báo cáo chính
trị trình Đại hội VI của Đảng (12- 1986).
Đánh giá chung 10 năm (1975-1985) cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ
VI của Đảng (12-1986) nêu lên 3 thành tựu nổi bật: 1) Thực hiện thắng lợi chủ trương thống
nhất nước nhà về mặt Nhà nước; 2) Đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội; 3) Giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiến lên.
Sai lầm, khuyết điểm nổi bật trong thời kỳ này là không hoàn thành các mục tiêu về kinh tế -
xã hội đề ra. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội, sản xuất tăng chậm và
không ổn định, lạm phát cao, nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt. Đất nước bị bao vây, cô
lập, đời sống nhân dân khó khăn, lòng tin đối với Dân tộc, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm
trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn trên là do nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn,
lạc hậu, phổ biến là sản xuất nhỏ, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, hậu quả của 30 năm chiến tranh
để lại nặng nề, thêm vào đó là hai cuộc chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước, nguồn chi viện
của các nước xã hội chủ nghĩa giảm. Về chủ quan, do sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình,
xác định mục tiêu, bước đi, bố trí cơ cấu kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong phân phối,
lưu thông và duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp... Đôi khi trong đó có cả buông
lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu chống phá của các lực lượng
thù địch.
II. LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (1986 - 2018)
1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1986-1996)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) và thực hiện đổi mới toàn diện
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật lần thứ hai phát triển mạnh mẽ. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu được tiến hành nhưng càng ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 1976-1980 chỉ đạt 1,6%, sản xuất trong
nước không đủ tiêu dùng. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng khan hiếm; lạm phát tăng từ
300% năm 1985 lên tới 774% năm 1986. Các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận,
kích động, lôi kéo người vượt biên trái phép…
Nội dung của Đại hội
Đại hội nêu 4 bài học: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh
42
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Chủ trương cơ bản là: Phát triển nhiều thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh, kết hợp
kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt
chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ. Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển.
Đại hội cũng nêu ra 5 phương hướng phát triển kinh tế: (1) Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều
chỉnh cơ cấu đầu tư, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; (2) Sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; (3) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; (4) Phát huy mạnh mẽ
động lực khoa học - kỹ thuật; (5) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội đã thông qua 4 nhóm chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển trong chặng
đường mới, bao gồm: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện
công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội;
chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân;
xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh
dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới
cho cách mạng Việt Nam. Đại hội đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, thể
hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội diễn ra trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu khủng hoảng
và có nguy cơ sụp đổ. Ở trong nước, sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế -
xã hội tuy có những biến chuyển, song vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng. Các thế lực thù địch tăng
cường thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng.
Nội dung của Đại hội
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung Cương lĩnh có 4 phần, 12 vấn đề lớn. Trong đó, Cương lĩnh tập trung làm rõ những vấn đề cơ
bản sau:
Tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nêu ra năm bài học lớn cần
quán triệt trong thời gian tới như: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường
đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo
đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đưa ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng trong thời
kỳ mới: 1) Do nhân dân lao động làm chủ. 2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. 3) Có nền văn hoá
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
43
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân. 5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. 6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới [6].
Nêu ra 7 phương hướng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:1) Xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2) Phát triển lực lượng
sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm.3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. 4) Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. 5) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội. 6) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. 7) Thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đại hội thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 là củng
cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện
đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất
công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu tổng quát của
chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu v-
ượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng
và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã tiếp tục sự nghiệp đổi mới mà Đại hội VI
đề ra - kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới -
dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù
hợp với đặc điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Thành công của Đại hội đã củng cố thêm niềm tin tưởng của nhân dân đối với công cuộc đổi
mới.
2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế (1996 - 2018)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) và bước đầu thực hiện công cuộc
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996-2001)
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình
độ ngày càng cao. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi bước
đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, phá được thế bị bao vây, cô lập
nhưng vẫn là nước nghèo, kém phát triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải
quyết; lạm phát từ 67,1% (1991) giảm còn 12,7% (1995).
Nội dung của Đại hội
Kiểm điểm, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng kết 10 năm
đổi mới (1986-1996), Đại hội nhận định: mặc dù còn một số mặt chưa vững chắc nhưng sau 10
năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, đất nước
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang
thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

44
Đại hội nêu ra 6 bài học chủ yếu của mười năm đổi mới: Một là, giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới. Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội đưa ra 6 quan điểm chỉ đạo quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ đổi
mới: 1) Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài. 2) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3) Lấy việc phát huy nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường. 4) Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu
quyết định. 5) Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn
dự án đầu tư và công nghệ. 6) Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đánh dấu bước ngoặt, đưa đất nước bước
sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại
hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta
sắp bước sang thế kỷ XXI.
Chú ý: Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) nhấn mạnh coi giáo dục - đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội. Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (7-1998) đã ban hành Nghị quyết xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết của Hội nghị
được ví như Tuyên ngôn văn hóa của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001), tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước (2001-2006)
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội:
Đại hội diễn ra vào đầu thế kỷ XXI, khi cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục có
bước phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức. Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ lợi dụng chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào
công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương trở thành
khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định.
Việt Nam sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới
thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Tuy nhiên, nước ta cũng đang đứng trước nguy cơ
như: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
Nội dung của Đại hội:
45
Đại hội đã nêu lên những chuyển biến to lớn của thế giới và Việt Nam trong thế kỷ XX.
Trong đó nhấn mạnh: Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc:
Khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; hai cuộc chiến tranh thế giới diễn ra gây
nhiều tổn thất; đầu thế kỷ phong trào cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ
nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào. Đối với Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ của
những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam; thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi
của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội khẳng định bốn bài học cơ bản: 1) Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 2) Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. 3) Phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 4) Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn và làm rõ quan điểm
về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Về nội
dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện này hướng vào và động lực chủ yếu để
phát triển đất nước. Đại hội chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-
2010) nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá,
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại…Về đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đưa nước ta
bước vào thiên niên kỷ mới, thế kỷ mới với những triển vọng lớn lao. Đại hội tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng thành về nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển và cụ thể hóa Cương lĩnh 1991 của Đảng trong thực
tiễn Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XXI.
c. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) của Đảng và quá trình thực hiện nghị
quyết Đại hội (2006-2010)
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội được tổ chức trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học có bước phát triển nhảy vọt. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp
tục phục hồi và phát triển nhưng tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường.
Đất nước sau 20 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, một sự
thay đổi cơ bản, toàn diện, làm cho thế và lực, uy tín quốc tế của Việt Nam tăng lên nhiều so với
trước. Tuy nhiên, đất nước cũng đang đứng trước thách thức lớn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.
Nội dung của Đại hội
46
Đại hội rút ra bài học của 20 năm đổi mới: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao
độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Đại hội bổ sung thêm hai đặc trưng của chủ nghĩa xã hội so với Cương lĩnh năm 1991. Một
là: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; Hai là: có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Điều chỉnh một số đặc trưng khác cho phù hợp với đất nước trong thời kỳ mới như sau:
Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đại hội giữ nguyên đặc trưng: Có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2006-2010 là “sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội X, lần đầu tiên khẳng định nhiệm vụ then
chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điểm mới của Đại hội X là làm sáng tỏ bản chất của Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Đại hội X là cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Ý nghĩa: Đại hội X là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân
quyết tâm đổi mới, phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ mới.
d. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011) và Cương lĩnh bổ sung, phát triển
năm 2011 của Đảng
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp
chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên toàn thế giới.
Nội dung của Đại hội
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) gồm bốn phần cơ bản giống như Cương lĩnh 1991. Trong đó, cơ
bản là các vấn đề như:
Nêu ra năm bài học kinh nghiệm lớn cần tiếp tục quá triệt trong thời gian tới: Một là, nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

47
Cương lĩnh năm 2011 bổ sung hai vấn đề cấp bách là chống khủng bố; vấn đề ứng phó với
biến đổi khí hậu toàn cầu. Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh nêu tám đặc
trưng cơ bản: Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hai là, do nhân dân làm chủ. Ba là, có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Bốn là,
có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tám là, có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Cương lĩnh chỉ rõ tám phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta: Một là,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường; Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là,
xây dựng nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt
trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, mục tiêu tổng quát: Phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội
ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng
lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai
đoạn sau.
Đại hội nêu ra ba đột phá chiến lược là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, và
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, có một số công trình hiện đại.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã định hướng cho toàn Đảng,
toàn dân tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
e. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016), tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng họp từ ngày 21 đến ngày 28-1-2016, trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường. Đất nước đã qua
30 năm đổi mới, thế và lực tăng lên rõ rệt, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó
khăn, thách thức gay gắt.
Nội dung Đại hội
Đại hội kiểm điểm, đánh giá thành quả quan trọng, những hạn chế yếu kém trong 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, tổng kết 30 năm đổi mới (1986-2016) và rút ra một số kinh
nghiệm: Một là, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
48
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải
phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm
bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ,
giải pháp cho phù hợp. Ba là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Bốn là, kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung nguồn lực
thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách
tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển; phát huy mọi nguồn lực trong và
ngoài nước đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người.
Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Quản lý tài nguyên; bảo vệ môi
trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc phòng,
an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao
hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Các chỉ tiêu cụ thể
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020,
GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong
GDP khoảng 85%. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 - 40%. Về xã hội: Đến năm 2020, tỷ lệ
lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường
bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình
quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm. Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư
nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải
y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Đại hội nhấn mạnh 6 nhiệm vụ trọng tâm: 1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. 2) Xây dựng tổ chức bộ máy của
toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu. 3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược. 4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất
nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. 5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ
mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải
49
quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội,
an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. 6) Phát huy
nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Ý nghĩa: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là Đại hội của đoàn kết, đổi mới,
kỷ cương và dân chủ. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại
chặng đường 30 năm đổi mới của đất nước; đưa ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội thể hiện nhiều kỳ vọng của nhân dân trong thế kỷ XXI.
3. Thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 mang tầm vóc và ý nghĩa cách
mạng sâu sắc, toàn diện đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Trên lĩnh vực kinh tế: Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước
đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được
nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh.
Các khu công nghiệp (cả nước có khoảng 280 khu công nghiệp) và các vùng kinh tế trọng lớn
hình thành. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan
hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với
hơn 100 nước.
Về văn hóa, xã hội: Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân có nhiều thay đổi; an sinh xã
hội được bảo đảm. Chú trọng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, giữ gìn và phát huy
giá trị văn hóa dân tộc. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng
nông thôn mới” và các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa…đạt được những kết quả
tích cực.
Việc giải quyết các vấn đề xã hội: Các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước
ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp giáo dục: Từ năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ
lệ người lớn biết chữ đạt 90,39%, trong khi các nước thu nhập thấp chỉ đạt 69%.
Về quốc phòng an ninh: Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội. Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng với
chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động
trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để gây mất ổn định.
Về đối ngoại, đến năm 2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng
số 193 nước thành viên Liên hợp quốc. Mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như:
Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ và các nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Đức, Ý…; tăng cường
hợp tác với Trung Quốc; quan hệ hợp tác chiến lược với nhiều nước trên thế giới. Cùng với việc
tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại Đảng và ngoại giao nhân dân được mở rộng,
nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương.
Về xây dựng hệ thống chính trị: Hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng bước được
kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả bước đầu.
50
Quốc hội từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Bộ máy Chính phủ
và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động.
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới ở Việt Nam cũng còn những hạn chế, yếu kém như: bốn nguy
cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến
phức tạp hơn, như nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới
tinh vi và thâm độc chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong Đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư tưởng và đạo đức, phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; tha hóa về lối sống, quan liêu, xa rời quần chúng. Tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí đang gây bất bình trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng,
Nhà nước.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận
lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị.
Chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được quan tâm đúng mức,
đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển
biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất
lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết tám mối quan hệ
lớn còn hạn chế. Đổi mới thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực phẩm
chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân
dân.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh nước ta sau ngày 30/4/1975.
Câu 2: Các bước đột phá lớn trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng từ năm 1975 đến
1985.
51
Câu 3: Khái quát các kỳ Đại hội (thời gian diễn ra, chủ đề, nội dung chính và ý nghĩa)

Chương 4
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THỦY LỢI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THỦY LỢI THỜI KỲ
TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Đảng lãnh đạo công tác thủy lợi trước ngày thống nhất đất nước (1975)
a. Chủ trương của Đảng về công tác thủy lợi
Thủy lợi, theo từ điển Bách Khoa là “khoa học tổng hợp nghiên cứu ứng dụng các vấn đề
kinh tế, kỹ thuật nhằm phát triển, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, phòng chống và
khắc phục hậu quả các tác hại do nước gây ra. Bao gồm: đánh giá, dự báo diễn biến tài nguyên
và môi trường nước (cả nước mặn, nước dưới đất); xác định nhu cầu nước cho dân sinh và các
ngành kinh tế quốc dân theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, cân bằng nước trong lưu
vực, khu vực, vùng và quốc gia; xác lập các biện pháp cấp thoát nước cho các đô thị, khu vực
kinh tế và các vùng nông thôn; khảo sát thiết kế và xây dựng kể cả các biện pháp chỉnh trị sông
và bờ biển; quản lý khai thác có hiệu quả công trình và hệ thống thủy lợi, phòng chống lụt bão
và quản lý đê điều, quản lý khu vực, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái”.
Theo cách hiểu thông thường, thủy lợi hay công tác thủy lợi là một thuật ngữ, tên gọi
truyền thống của việc nghiên cứu khoa học công nghệ, đánh giá, khai thác sử dụng, bảo vệ
nguồn tài nguyên nước và môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.
Nói về vai trò của công tác thủy lợi, V.I. Lênin khẳng định: “Công tác thủy lợi là đặc biệt
quan trọng để khôi phục cho kỳ được nền nông nghiệp và ngành chăn nuôi… Công tác thủy lợi
là việc cần thiết hơn cả, chính nó sẽ tái tạo đất nước, sẽ phục hưng đất nước, sẽ chôn vùi quá
khứ, sẽ củng cố bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Do vị trí quan trọng của thủy lợi đối với nền kinh tế quốc dân và trong đời sống của người
dân nước ta, tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc (14-9-1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Việt
Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước, thì mới thành
52
Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh. Nước cũng có thể làm lợi nhưng cũng có
thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là làm
cho đất với nước điều hoà với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã
hội… Vậy thì bây giờ muốn có đủ nước, muốn điều hoà nước thì cũng phải toàn dân làm thuỷ
lợi”.
Như vậy, đối với Việt Nam, thủy lợi có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước. Một là cấp nước tưới, phục vụ sản xuất, điều hoà, sử dụng và bảo vệ
các nguồn nước, hạn chế những thiệt hại do nước gây ra. Hai là, góp phần tích cực cho công
tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường, phát triển ngành du lịch

Ngay khi đặt ách thống trị trên lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp đã rất quan tâm tới việc
xây dựng hệ thống các công trình thủy lợi và đê điều nhằm mục đích mở mang phát triển nông
nghiệp và mục vụ mưu đồ thống trị của chúng. Ở Nam Bộ, mục tiêu của việc đào kênh mương
làm thủy lợi chủ yếu để khai phá vùng đất mới, giải quyết một phần tiêu úng, chứ chưa thực sự
giải quyết vấn đề tưới và xổ phèn cho đất đai sản xuất nông nghiệp. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, việc
xây dựng, khai thác thủy lợi của Pháp bắt đầu từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 –
1914) chủ yếu để tăng lợi nhuận của các đồn điền của Pháp. Nghiên cứu xây dựng các hệ thống
thủy nông Liễn Sơn, Sông Cầu để phục vụ cho khu vực tập trung nhiều đồn điền nằm giữa ba
tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phú, trong đó, hệ thống Sông Cầu trở thành đường vận tải
thủy kinh tế lớn nhất nhằm đưa nông - lâm, khoáng sản khai thác từ Thái Nguyên về cảng Hải
Phòng sau đó đưa về Pháp.
Việc xây dựng thủy lợi ở Trung Bộ cũng ít được quan tâm do Pháp chưa đầu tư thành lập
các đồn điền nông nghiệp ở đây. Hệ thống thủy nông đầu tiên được xây dựng là Sông Chu với
công trình đầu mối đập Bái Thượng, có nhiệm vụ dâng mực nước Sông Chu mùa kiệt để dẫn vào
khu tưới, được khởi công năm 1920, hoàn thành năm 1928. Sau Bái Thượng, Pháp xây dựng hệ
thống thủy nông Tuy Hòa ở Phú Yên.
Trong khoảng thời gian 30 năm chiến tranh (1945-1975), mặc dù nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, nguồn ngân quỹ quốc gia nghèo nàn nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
thủy lợi. Việc đầu tư toàn bộ nguồn ngân khố ít ỏi để đắp đê Bắc Bộ trong những năm 1945-
1946, đầu tư cho Đại Thủy nông Bắc Hưng Hải, một công trình mà thực dân Pháp cho là ngân
sách không kham nổi đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc làm chủ nguồn
nước. Vùng ven sông Hồng, Nhà nước luôn đặt trị thủy lên trước khai thác, xác định thủy điện
Hòa Bình mục tiêu chống lũ hạ du là chủ yếu, điện là hàng thứ yếu, đều xuất phát từ tư tưởng:
đảm bào an toàn và nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Sự chỉ đạo của Đảng
Công tác thủy lợi thời kỳ này chủ yếu được triển khai nhằm phục vụ sản xuất nông
nghiệp và phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đánh giá chung về công tác thủy lợi sau 20 năm
xây dựng 1954-1974, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu rõ: “Tuy có khuyết điểm, công tác thủy lợi
cũng đã thu được thành tích quan trọng là đã tạo nên những cơ sở vật chất kỹ thuật đáng kể
nhất cho nền nông nghiệp nước ta. Do đó, hạn chế được nhiều tác hại của thiên tai, đưa các vụ
sản xuất đi dần vào thế ổn định và góp phần đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất và tăng vụ
trên nhiều vùng rộng lớn”.
2. Công tác thủy lợi trong những năm 1975 - 1985
a. Chủ trương của Đảng

53
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước hòa bình, độc lập,
thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ IV (12 - 1976) của Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng - Thủ
tướng Chính phủ đã khẳng định: thủy lợi là biện pháp hàng đầu để mở rộng diện tích, thâm canh
tăng vụ, cải tạo đất, quyết định thắng lợi của toàn bộ công cuộc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Do đó: “Khối lượng xây dựng các công trình thủy lợi trong 5 năm (1976 - 1980) của cả nước dự
kiến sẽ tăng gấp đôi tổng khối lượng đã thực hiện trong 20 năm qua ở các tỉnh phía Bắc. Khởi
công sớm, hoàn thành nhanh các công trình thủy lợi, chúng ta sẽ tận dụng được đất đai sẵn có
với hiệu quả cao, thu hút được nhiều lao động vào sản xuất, có thêm nhiều sản phẩm, trước hết
là lương thực. Chúng ta phải có những biện pháp đặc biệt mạnh mẽ, nhanh chóng phát triển
mạnh lưới thủy lợi ở khắp các địa phương, trước hết ở các vùng trọng điểm lúa và cây công
nghiệp quan trọng… Phải dấy lên một phong trào cách mạng rộng lớn, thu hút hàng triệu quần
chúng ở nông thôn, thành thị, quân đội, học sinh, công nhân, viên chức, tiến quân mạnh mẽ vào
mặt trận thủy lợi bằng những ngày công lao động xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3 - 1982) của Đảng tiếp tục đề ra mục tiêu: “Phấn đấu
khoảng 3 kế hoạch 5 năm sử dụng cả 10 triệu hécta đất nông nghiệp, 15 triệu hécta lâm nghiệp,
gieo trồng bình quân hai vụ trên đất trồng cấy hàng năm”. Phương hướng chung là “hoàn chỉnh
những công trình thủy lợi đã có, làm mới những công trình thủy lợi vừa và nhỏ là chủ yếu,
chuẩn bị điều kiện để xây dựng những công trình thủy lợi lớn, đặc biệt phát triển thủy lợi hợp lý,
có hiệu quả thiết thực ở Đồng bằng sông Cửu Long và tích cực thu hẹp diện tích bị úng ở Đồng
bằng Bắc Bộ”.
b. Sự chỉ đạo của Đảng và thành tựu của thủy lợi trong những năm 1975 - 1985
Về phát triển thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, sau năm 1975, công tác thủy lợi ở
miền Bắc đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên ở miền Nam còn nhiều khó khăn do hậu
quả chiến tranh để lại. Nhiều vùng rộng lớn hàng triệu hécta vẫn còn bị bỏ hoang như: Đồng
Tháp Mười, Tây bán đảo Cà Mau, Tứ Giác Long Xuyên, Tây Nguyên ... Trước tình hình đó,
ngày 19-8-1977, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 03-NQ/TW nêu ra nhiệm
vụ và những yêu cầu cụ thể về thủy lợi đối với từng vùng như sau: Đối với đồng bằng sông Cửu
Long, cần tập trung vào nạo vét các hệ thống kênh mương cũ, đào thêm nhiều kênh, rạch tiêu
nước, rửa phèn và tưới nước, đắp đập ngăn nước mặn, xây dựng các hệ thống bơm điện và bơm
dầu. Ở miền Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh về cây lương thực nên “cần xây dựng nhiều hồ,
đập chứa nước, nhiều trạm bơm và phát triển nhanh các loại giếng để khai thác nước ngầm nhằm
tăng nhanh diện tích ruộng hai vụ lúa, bảo đảm nước cho các vùng chuyên canh quy mô lớn về
ngô, đậu tương, mía, chăn nuôi, và phục vụ sinh hoạt của nhân dân. Đối với các tỉnh duyên hải
Khu V cũ và Tây Nguyên cần xây dựng nhanh nhiều hồ, đập, trạm bơm và đào giếng, bảo đảm
tưới cho vùng lúa, vùng bông, một số vùng chuyên canh màu và cây công nghiệp, bảo đảm nước
cho chăn nuôi bò và cho sinh hoạt của nhân dân. Đồng thời, tích cực xây dựng thuỷ nông ở các
tỉnh trung du, miền núi Bắc Bộ để mở rộng diện tích tưới nước cho ruộng hai vụ lúa, tưới cho
màu, cây công nghiệp, phục vụ chăn nuôi, phục vụ sinh hoạt của nhân dân.
Công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai thời kỳ này tập trung nhằm nâng cao tính chủ
động trước thiên tai, bão lũ, chống lũ sớm đầu vụ.
Đánh giá chung kết quả công tác thủy lợi miền Bắc đã tiếp tục xây dựng mới được các công
trình như: cống thủy lợi An Thổ (1976-1979), Trà Linh II - Thái Bình (1977-1980), cống Múc II (Hà
Nam Ninh), cống Rỗ (1981-1983), cống An Sơn, Hải Phòng (1983-1984),…hoàn chỉnh 6 hệ thống
bơm tiêu lớn (Hà Nam Ninh) - Bắc Khu IV (cũ). Khởi công xây dựng hệ thống tiêu úng sông Lý,
54
sông Hoàng với các cống lớn như Quảng Châu, Ngọc Giáp cho Nam Thanh Hóa, hệ thống tiêu úng
Diễn Yên Quỳnh, Nam Hưng Nghi (Nghệ An). Ngoài những công trình lớn, Đảng, Nhà nước và
nhân dân tiếp tục xây dựng thêm những công trình tưới nước đã được nghiên cứu kỹ trong thời gian
chiến tranh, có tác dụng phục vụ cho những vùng lúa trọng điểm như: công trình Hồ Yên Lập
(Quảng Ninh), Hồ Núi Cốc (Bắc Thái - Thái Nguyên ngày nay), Hồ Pakhoang (Lai Châu), Hồ Sông
Mực, Yên Mỹ (Thanh Hóa), Hồ kẻ Gỗ, Vực Mấu (Nghệ Tĩnh), Hồ Tiên Lang, Vực Tròn (Quảng
Bình)…
Công tác thủy lợi trước năm 1986 vẫn chủ yếu đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất nhỏ, nguồn
đầu tư hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, trong đổi mới tổ chức, nội
dung, phương thức hoạt động vẫn còn chậm và lúng túng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn
cán bộ không theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới ở nông thôn, công tác nghiên cứu và
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chưa được chú trọng đúng mức. Chính sách về phòng chống
lụt bão chưa được đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới, nhân dân vẫn vi phạm quy định Điều lệ
bảo vệ đê điều.
II. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THỦY LỢI TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
1. Những yêu cầu đặt ra đối với công tác thủy lợi trong thời kỳ đổi mới
a. Thủy lợi phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng vụ, hiện
đại và bền vững
Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là tiến tới xây
dựng một nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững. Yêu cầu trên đặt
ra phải chủ động điều tiết nguồn nước, dẫn nước phục vụ sản xuất, tạo bước đột phá trong
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
Tuy nhiên, đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, các công trình thủy lợi mới đảm bảo
tưới tiêu gần 40% diện tích đất nông nghiệp, nhiều nơi hệ thống chưa hoàn chỉnh, công trình
hiện có mới khai thác được dưới 60% công suất thiết kế và chủ yếu là phục vụ sản xuất lúa
nước. Hệ thống cấp thoát nước ngọt, nước mặn cho nuôi trồng thủy sản chưa đồng bộ và chưa
đảm bảo kỹ thuật”. Yêu cầu đặt ra đối với thủy lợi là phải hướng tới phục vụ xây dựng nền
nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn trên cơ sở phát huy các tiềm năng, lợi thế của
từng vùng và ứng dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Nâng cao hiệu
quả sử dụng đất đai, nguồn nước, lao động và nguồn lực đầu tư, nhằm thực hiện tốt mục tiêu
lớn của thời kỳ là tăng nhanh thu nhập và mức sống của lao động nông thôn, gắn với giảm
nghèo nhanh và bền vững.
b. Thủy lợi đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, biến đổi khí
hậu
Ở Việt Nam, thủy lợi đóng góp quan trọng vào việc phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Nằm ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, và là một trong những vùng bão phát sinh và hoạt
động mạnh. Mùa bão ở khu vực Biển Đông thường kéo dài từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm.
Số lượng các trận bão đổ bộ vào Việt Nam gia tăng, đặc biệt là trong mấy thập kỷ gần đây.
Bão vào Việt Nam không chỉ gây gió xoáy mạnh, gió giật mà còn gây mưa to kéo dài, lũ lụt và
nước biển dâng cao... Có tới 80% dân số Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão. Bão là
loại thiên tai nguy hiểm nhất trực tiếp làm đổ nhà cửa, tàn phá hoa màu, phá huỷ các công
trình hạ tầng, gây ra lũ ống, lũ quét, nước dâng. Khi bão đổ bộ vào gặp triều cường và gió
55
thuận, dọc theo vùng duyên hải, hệ thống đê biển luôn trong tình trạng báo động, gia cố và sửa
chữa quanh năm nhưng nạn úng lụt vẫn diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng lớn tới việc cấp nước cho hoạt động sản xuất của các
ngành kinh tế. Mưa lớn sẽ làm gia tăng trượt lở đất và xói mòn, làm tăng lượng phù sa chuyển
tới và lắng đọng trong lòng hồ, làm giảm dung tích hữu ích của các hồ chứa. Chế độ dòng chảy
thay đổi cũng làm cho vấn đề điều tiết của hồ trở nên khó khăn hơn, khả năng cung cấp nước
giảm đi. Các công trình thuỷ lợi như: hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, giếng nước ngầm... cũng bị
ảnh hưởng vì nguồn nước bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng.
Xã hội ngày càng tiến bộ đòi hỏi thủy lợi phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng và
phong phú của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Năng lực hệ thống công trình thủy lợi
không đáp ứng được nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân, tất yếu dẫn đến kìm hãm sự phát
triển kinh tế - xã hội. Làm tốt công tác thủy lợi cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và các
lĩnh vực kinh tế khác, đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no, an toàn và ổn định là yêu
cầu đặt ra.
2. Đảng lãnh đạo công tác thủy lợi phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
a. Chủ trương của Đảng về thủy lợi
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12-1986), Đảng chỉ rõ: yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp. Do đó, phải đưa nông
nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hoá nông
sản. Để thực hiện mục tiêu trên, giải pháp hàng đầu là “mở rộng và hoàn chỉnh các hệ thống thuỷ
lợi, ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh
học..., chủ động phòng, chống lụt bão...”.
Đại hội VII (6-1991) của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, giải
quyết về căn bản vấn đề tưới tiêu nước cho những vùng trọng điểm lương thực và cây công nghiệp
tập trung... Từng bước cơ giới hoá có hiệu quả các khâu sản xuất chủ yếu” [25].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng xác định trọng tâm của quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, tiếp tục đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia trong mọi tình huống, ổn định mọi mặt đời sống nhân dân. Đại hội tiếp tục nhấn
mạnh: một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải “phát triển nhanh hệ thống thủy
lợi ở tất cả các vùng, đặc biệt là khôi phục, sửa chữa, nâng cấp và mở rộng hệ thống thủy lợi đã
có ở hai đồng bằng lớn của đất nước; thực hiện chương trình chống nhiễm mặn, chua phèn và
chống lũ toàn diện ở đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng các hồ chứa ở một số vùng trung du,
miền núi vừa phục vụ sản xuất, vừa cải thiện nguồn nước sinh hoạt cho dân cư. Dự kiến trong 5
năm 1996-2000, năng lực tưới tăng lên 20 vạn hecta, năng lực tiêu úng tăng thêm 25 vạn hecta,
tạo nguồn nước tưới ở Nam bộ 50 vạn hecta, ngăn mặn 10 vạn hecta” [26].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) xác định nhiệm vụ quan trọng hiện nay là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa Việt Nam vững bước đi vào thế kỷ XXI. Công tác thủy
lợi được Đại hội IX của Đảng xác định là có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và cần phải tạo ra những chuyển biến
lớn. Trong bối cảnh mới, Đại hội nhấn mạnh đặc biệt chú trọng triển khai thực hiện ba nội dung
trọng yếu sau:

56
Một là, “Phát triển mạng lưới thủy lợi, bảo đảm cải tạo đất, thâm canh, tăng vụ và khai
thác các vùng đất mới. Hoàn thành xây dựng các công trình thủy lợi kết hợp với phòng, tránh lũ
ở miền Trung... Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển và các công trình ngăn mặn, thủy lợi cho
nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long. Kiên cố hóa các tuyến đê xung yếu; tiếp tục
thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương.
Hai là, gắn liền công tác thủy lợi với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng vùng. Cụ
thể: Đối với vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, những nơi có khả năng trồng cây lương thực
đầu tư xây dựng những công trình thủy lợi nhỏ, đưa các loại giống mới phù hợp với điều kiện
sinh thái trong vùng để phát triển sản xuất lương thực tại chỗ. Khu vực đồng bằng sông Hồng và
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, khai thác, sử dụng hiệu quả các công trình thủy lợi sẵn có phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu, chỉnh trị, nạo vét các hồ đập, cửa sông, ven biển đồng
bằng sông Hồng, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Đối với khu vực Bắc Trung Bộ, duyên
hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, “nghiên cứu đưa vào xây dựng một số
công trình phòng, chống lũ theo quy hoạch phát triển khu vực lũ lụt miền Trung, thực hiện các
biện pháp dự phòng hạn chế tác hại của thiên tai, lũ lụt và hạn hán nặng…” [29]. Vùng Tây
Nguyên, hoàn thành xây dựng thủy điện Yaly. Các hồ thủy điện khu vực miền Trung - Tây Nguyên
như Đa Nhim, Ialy, sông Tranh... điều tiết hàng tỷ m3 nước cho sản xuất lúa, hoa màu, cây công
nghiệp cà phê, ca cao.... gần đây là việc chống hạn, đẩy mặn cho khu vực hạ lưu. Một lợi ích
khác mà hồ thủy điện mang lại là bảo vệ môi trường, giảm phát thải.
Ba là, phấn đấu đến năm 2005, đưa năng lực tưới tiêu lên 6,5 triệu hecta gieo trồng lúa và
1,5 triệu hecta rau màu, cây công nghiệp (tăng 60 vạn hecta so với cùng kỳ năm trước) [30].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) nhận định: “Hệ thống thủy lợi
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn; các hồ chứa nước ở khu vực miền
Trung, Tây Nguyên và miền núi chưa được đầu tư hoàn chỉnh; chất lượng một số công trình
thấp, hiệu quả sử dụng kém. Các công trình thủy lợi tập trung nhiều cho sản xuất lúa, chưa phục
vụ tốt cho phát triển cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Hệ thống thủy lợi ở đồng bằng
sông Cửu Long đầu tư thiếu đồng bộ, còn nhiều yếu kém, bất cập...Quản lý nguồn nước còn bị
buông lỏng” [31].
Khắc phục điểm hạn chế này, các giải pháp cụ thể được nêu ra là: “Ưu tiên nâng cấp và xây
dựng mới hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới quản lý để khai thác có hiệu quả các công
trình đã đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cho
công nghiệp, dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn...Củng cố hệ thống hồ đập, đê, kè ven
sông, ven biển; nâng cấp hệ thống cảnh báo, chủ động phòng, chống lụt bão và giảm nhẹ thiệt hại
do thiên tai, bảo vệ môi trường nước”.
Thủy lợi không chỉ tích trữ, điều hòa, phân phối, tưới tiêu và thoát nước phục vụ sản xuất lúa,
hoa màu, cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản; cung cấp nguồn nguyên liệu sản xuất muối; cung
cấp, tiêu thoát nước cho sinh hoạt và các ngành kinh tế khác, mà còn đóng góp tích cực vào việc
phòng, chống thiên tai và bảo vệ môi trường trước những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu;
bảo đảm an ninh nguồn nước, và cung cấp điện cho nhân dân... Do vậy, các công trình thủy lợi phải
được thiết kế xây dựng theo hướng đa mục tiêu. Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI (1-2011) của Đảng khẳng định: phải xây dựng nhiều hơn nữa những công trình thủy lợi đa
mục tiêu nhằm nâng cao năng lực tưới tiêu cho các loại cây trồng, vật nuôi và đáp ứng các nhu cầu
an sinh xã hội khác.
Về cơ bản, công trình thủy lợi đa mục tiêu là những công trình vừa phải đảm bảo cung cấp
nước cho sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, vừa cấp và tiêu thoát nước sinh hoạt,
57
kết hợp với phát điện phục vụ cuộc sống người dân, và đặc biệt là đóng vai trò quan trọng trong
phòng, chống thiên tai, giảm lũ cho vùng hạ du.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh nhu cầu về quy mô, chất
lượng nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp thì nhu cầu chất lượng nguồn nước sinh
hoạt người dân ngày càng tăng cao, khí hậu diễn biến phức tạp, hạn hán, mặn xâm nhập sâu,
nước biển dâng có chiều hướng gia tăng nên hệ thống công trình thủy lợi phải được thiết kế xây
dựng đáp ứng tất cả yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.
Tháng 1-2016, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII diễn ra, Đảng nhận định: sau 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, công tác thủy lợi được chú trọng, đạt nhiều kết quả; năng lực
cảnh báo, dự báo thiên tai ngày càng được nâng cao, cần tiếp tục làm tốt hơn nữa trong thời gian
tới. Phương hướng là “chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra giám sát việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn.
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng phó với thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm
kiếm cứu nạn, cứu hộ. Đầu tư thích đáng và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế cho các
công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Sử dụng năng
lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính”.
Những chủ trương, quan điểm của Đảng đã định hướng cho ngành thủy lợi Việt Nam phát
triển, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đất nước, nhất là trong
việc xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, bền vững hiện nay.
b. Quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện
Quá trình triển khai thực hiện nghị quyết các kỳ Đại hội, Đảng đặc biệt chú trọng chỉ đạo
thực hiện các nội dung sau:
Phát triển thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, hiện đại
Hội nghị lần thứ 5 khóa VII (6-1993), nhấn mạnh: nhiệm vụ cần làm ngay là “xây dựng các
công trình tạo nguồn nước ngọt và ngăn mặn...phục vụ xây dựng vùng lúa xuất khẩu. Đối với thủy
lợi miền núi, một mặt Nhà nước huy động nhân dân làm nhiều công trình nhỏ, thích ứng với tình
hình ruộng đất ít và phân tán, mặt khác chú ý xây dựng các công trình loại vừa có liên quan đến
nhiều xã, huyện. Chú ý phát triển nhiều hồ chứa nước nhỏ, đập ngăn suối, cọn tự động, đắp bờ
thành ruộng bậc thang quanh đồi, làm hồ vây cá, đào mương quanh đồi, chân núi để điều khiển
dòng nước chống lũ, chú trọng trồng cây, gây rừng, bảo vệ rừng, chống lũ ống, lũ quét. Xây dựng
các công trình chứa nước phục vụ cho sản xuất và cung cấp nước sinh hoạt cho người dân… Ở
đồng bằng Bắc Bộ, thủy lợi tập trung chủ yếu vào tiêu úng, ngăn mặn, giữ ngọt. Ở các tỉnh miền
Trung, tập trung đầu tư lớn với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm xây dựng cơ sở vật
chất thủy lợi, khắc phục khó khăn do thiên tai thường xuyên gây ra. Vùng Tây sông Hậu, bán đảo
Cà Mau, nhiều trục kênh mới mang tên KH đã đưa được nước sông Hậu vào sâu đến gần U Minh,
nhanh chóng tiêu thoát nước chua phèn, hạn chế được mặn trên sông Cái Lớn. Đồng thời đã
khoanh vùng, đắp đê biển, làm cống ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn, dẫn ngọt, nạo vét và đào mới
các kênh hình thành các khu ngọt hóa. Đối với Đồng Tháp Mười, nhờ nỗ lực của Đảng và nhân
dân đã chuyển được nguồn nước ngọt sông Tiền vào bằng các trục kênh lớn như: Tân Hội - Long
Khốt, Tân Thành - Lò Gạch, An Bình - Đồng Tiến, Anh Phong - Mỹ Hòa, kênh Nguyễn Văn Tiếp,
Hồng Ngự để thau rửa chua phèn… Từ một vùng hoang hóa, Đồng Tháp Mười trở thành một vùng
dân cư đông đúc, trù phú, kinh tế, xã hội phát triển.
Đến thập kỷ 90 của thế kỷ XX, công tác thủy lợi miền Bắc về cơ bản đã giải quyết được
nạn hạn hán, úng lụt ở những vùng trọng điểm lúa, chấm dứt được cảnh chiêm khô, mùa thối
trên những vùng trũng của đồng bằng Bắc Bộ và Bắc khu IV. Ở miền Trung, tuy công tác thủy
58
lợi còn gặp nhiều khó khăn và mới tiến hành nhưng đã giải quyết được hạn hán ở một số cánh
đồng lớn thuộc các tỉnh duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, góp phần tăng vụ, tăng năng suất cây
trồng, tăng tổng sản lượng nông nghiệp.
Theo đánh giá của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (2-2002): trong thời kỳ đổi mới hệ
thống thủy lợi được đầu tư lớn và liên tục, đảm bảo tưới cho 84% diện tích gieo trồng lúa,
hàng vạn hecta rau màu và cây công nghiệp, hệ thống đê điều được củng cố.
Ngày 09-10-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt Chiến lược phát triển thuỷ lợi
đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến
2050. Chiến lược nêu rõ phải triển khai thường xuyên công tác vận hành hệ thống thủy lợi bảo
đảm nguồn nước ổn định phục vụ sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Riêng 12 tỉnh,
thành phố Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, bảo đảm đủ nước phục vụ gieo cấy khoảng 620.000
ha lúa, thời gian lấy nước rút ngắn 4,5 ngày so với kế hoạch, với tổng lượng nước điều tiết từ
các hồ chứa thủy điện là 4,67 tỉ m3.
Năm 2017, ngành thủy lợi đã tiến hành rà soát, đánh giá các mô hình tổ chức hợp tác
dùng nước, xây dựng kế hoạch hiện đại hóa hệ thống thủy lợi đặc trưng cho từng vùng làm cơ
sở để đào tạo, hướng dẫn các địa phương. Song song với đó, triển khai chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, ngành thủy lợi đã xây dựng các văn bản hướng dẫn thực
hiện “hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng” phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện
đại; “hướng dẫn thực hiện các tiêu chí về thủy lợi” trong điều kiện mới. Kết quả là hiện có
80% diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu chủ động, 70% số xã đạt tiêu chí thủy lợi; có
21.300 tổ chức thủy lợi cơ sở
Ngày 19-6-2017, Luật Thủy lợi được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-7-2018.
Luật Thủy lợi là khung pháp lý đầy đủ, bảo đảm thủy lợi được thực hiện một cách bền vững.
Luật đã thể chế hoá các chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về thủy lợi, góp phần quan
trọng trong việc xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, có năng lực cạnh tranh cao trong hội nhập
quốc tế; góp phần quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn nước, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc
Luật Thủy lợi được thông qua là thành công lớn của ngành trong việc hoàn thiện văn bản quy
phạm pháp luật, là cơ sở cho việc quản lý và điều hành của ngành thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước.
Ngày 7-01-2020, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký Quyết định số 33/QĐ-TTg phê
duyệt Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược này có
sự điều chỉnh một số nội dung so với Chiến lược thủy lợi ban hành năm 2009. Chiến lược thủy
lợi năm 2020 xác định mục tiêu chung là: Phát triển thủy lợi theo hướng hiện đại, bảo đảm
cấp, thoát nước cho dân sinh, các ngành kinh tế, góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, bảo đảm an ninh nguồn nước, lợi ích quốc gia, quốc phòng. Mục tiêu cụ thể trong
thời gian tới phải cấp nước kịp thời “cho diện tích đất trồng lúa 2 vụ với mức đảm bảo tưới
85%, trong đó đến năm 2030 có 30%, năm 2050 có 60% diện tích trồng lúa thực hiện phương
thức canh tác tiên tiến. Đến năm 2030 diện tích cây trồng cạn được tưới đạt 70%, trong đó tưới
tiên tiến, tiết kiệm nước đạt 30%; đến năm 2050 đạt 100%, trong đó tưới tiên tiến, tiết kiệm
nước đạt 60%. Chủ động tiêu, thoát nước ra sông chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực, đảm
bảo tiêu thoát ở vùng đồng bằng, vùng trũng phục vụ dân sinh, nông nghiệp với tần suất từ 5-
10%; đáp ứng yêu cầu tiêu, thoát cho khu đô thị tiêu vào hệ thống công trình thủy lợi. Đảm
bảo cấp, thoát nước chủ động cho nuôi trồng thủy sản thâm canh tập trung, công nghiệp, ứng
dụng công nghệ cao; vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa có giá trị cao và các mục tiêu khác
trong sản xuất nông nghiệp. Cấp nước cho hoạt động kinh tế ven biển, các đảo có đông dân cư,
59
dịch vụ nghề cá...”. Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, đáp ứng các yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng các công trình thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, theo hướng
đa mục tiêu
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX là Hội nghị được đánh giá có nhiều quan điểm mới trong
việc chỉ đạo xây dựng các công trình thủy lợi, tạo bước đột phá. Hội nghị chỉ rõ: “xây dựng
công trình thủy lợi mới để mở rộng diện tích tưới các loại cây trồng đối với những nơi có điều
kiện, cấp nước cho dân sinh, cải tạo môi trường, tưới cho cây trồng cạn, cây công nghiệp, cây
ăn quả, nuôi trồng thủy sản, nhất là ở miền núi. Khôi phục, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo hệ
thống thủy lợi hiện có nhằm khai thác tối đa năng lực công trình thủy lợi theo thiết kế phục vụ
đa mục tiêu. Kiên cố hóa kênh mương phải đồng thời với việc phân công, phân cấp quản lý các
hệ thống công trình, thực hiện việc chuyển giao quyền quản lý công trình thủy lợi trên địa bàn
cho người hưởng lợi, gắn trách nhiệm với quyền lợi của họ, giảm bao cấp của Nhà nước, khai
thác công trình hiệu quả cao. Đổi mới công nghệ xây dựng, quản lý, điều hành công nghệ tưới,
ứng dụng vật liệu mới... đảm bảo công trình an toàn, sử dụng bền lâu, giảm được giá thành xây
dựng và chi phí quản lý thấp. Cung cấp nước sinh hoạt cho người dân nông thôn, đảm bảo vệ
sinh môi trường, sức khỏe cho người dân”.
Trong thiết kế xây dựng, Hội nghị chủ trương: ứng dụng các phần mềm để thiết kế các
công trình thủy lợi với chất lượng đảm bảo. Về quản lý, ứng dụng các công nghệ hiện đại trong
quản lý các công trình thủy lợi như: các thiết bị đặt sẵn, các thiết bị đo đạc để kiểm tra an toàn đập,
ứng dụng các thiết bị khởi động mềm và tiết kiệm năng lượng cho các động cơ điện, sử dụng công
nghệ tin học, ứng dụng các phần mềm trong quản lý điều hành hệ thống thủy lợi, đánh giá tài
nguyên nước dưới đất, ứng dụng rađa xuyên đất để dò tìm khuyết tật và tổ mối trong đê, đập...”.
Hội nghị cũng chủ trương “thực hiện việc phân công, phân cấp đầu tư, giữa Trung ương và địa
phương, giữa Nhà nước và nhân dân, thực hiện việc chuyển giao cho nông dân quản lý khai
thác công trình thủy lợi trên địa bàn thông qua tổ chức “hợp tác dùng nước” với quy
mô thích hợp, không phụ thuộc địa giới hành chính theo Pháp lệnh khai thác và bảo vệ
công trình thủy lợi, đảm bảo tự chủ về tài chính, tạo thêm việc làm cho nông dân, giảm được
phần đóng góp thủy lợi phí, bảo vệ được công trình ít hư hỏng, tiết kiệm nước.
Sau Hội nghị Trung ương 5, vấn đề xây dựng công trình thủy lợi đa mục tiêu tiếp tục được
Hội nghị Trung ương 7 khóa X (8-2008) của Đảng đề cập tới. Hội nghị chỉ rõ: tiếp tục đầu tư
các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng lực tưới tiêu chủ động cho các
loại cây trồng, trước hết cho lúa, nuôi trồng thủy sản và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao,
cấp nước sinh hoạt cho dân cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng hồ chứa nước ở
vùng thường xuyên bị khô hạn, phát triển thủy lợi nhỏ kết hợp thủy điện ở miền núi.
Chiến lược phát triển thuỷ lợi đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và môi
trường đến năm 2020, tầm nhìn đến 2050, cũng nhấn mạnh: “phải khai thác sử dụng nước hợp
lý, phục vụ đa mục tiêu, thống nhất theo lưu vực sông và hệ thống công trình thủy lợi, không
chia cắt theo địa giới hành chính. Khai thác, sử dụng đi đôi với bảo vệ, chống suy thoái, cạn kiệt
nguồn nước, tái tạo nguồn nước bằng biện pháp công trình và phi công trình. Chú ý đến bảo vệ
môi trường nước, đặc biệt môi trường nước trong hệ thống công trình thủy lợi”.
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược, kết quả là nhiều hệ thống thủy lợi lớn đa
mục tiêu đã được xây dựng như Cửa Đạt, Ngàn Trươi - Cẩm Trang, Bản Mồng, Tả Trạch, Vân
Phong... Ngoài ra còn có 5.656 hồ chứa; 8.512 đập dâng; 5.194 trạm bơm điện, cống tưới tiêu
các loại; 10.698 các công trình khác.
60
Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng các công trình thủy
lợi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045, thông qua ngày 7-01-2020, nêu rõ: trong thời gian tới phát triển hệ thống công trình
thủy lợi phải đảm bảo sự liên kết đồng bộ với hệ thống kết cấu hạ tầng của các ngành, lĩnh vực
khác. Nhà nước đầu tư xây dựng công trình thủy lợi quan trọng đặc biệt, công trình thủy lợi lớn,
công trình thủy lợi khó huy động các nguồn lực xã hội; công trình thủy lợi kết hợp phục vụ quốc
phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai; công trình thủy lợi ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước,
vùng bị ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu; đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức,
cá nhân đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác công trình thủy lợi theo quy định của pháp luật.
Thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: 1) Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi lớn đảm bảo
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, công trình gắn với chương trình mục tiêu tái cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư, Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; 2) Đầu tư xây dựng công trình thủy lợi cấp nước
tưới và phục vụ sinh hoạt ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, trên các đảo có đông
dân cư, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước, vùng ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn; 3) Sửa chữa, nâng cấp, hoàn thiện các hệ
thống công trình thủy lợi hiện có theo hướng hiện đại, đồng bộ; xây dựng hệ thống giám sát vận
hành để nâng cao hiệu quả công trình; 4) Tập trung sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa thủy lợi
nhằm đảm bảo an toàn công trình và vùng hạ du đập; 5) Tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống
công trình thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp, cải tạo môi
trường sinh thái; 6) Đầu tư xây dựng công trình thủy lợi để thoát lũ, giảm lũ, kiểm soát lũ, kiểm
soát mặn, ngọt, trữ nước ngọt, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển....
Với chủ trương và sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước, sự chủ động triển khai thực
hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, của các cấp, các ngành liên quan, nhiều công
trình thủy lợi lớn, đa mục tiêu đang và sẽ tiếp tục được đầu tư xây dựng. Đây là điều kiện đảm bảo
an ninh nguồn nước, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn
chặn sự suy giảm tài nguyên nước, tích nước, điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội.
Chỉ đạo phát triển thủy lợi góp phần quan trọng vào việc phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
Trước những diễn biến phức tạp của thời tiết để giảm nhẹ thiệt thại đối với sản xuất và đời
sống nhân dân, ngày 16-11-2007, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt Chiến lược
quốc gia về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020. Chiến lược chỉ rõ nhiệm vụ đối
với ngành thủy lợi là “xây dựng, củng cố và nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển ở mức thiết kế
phù hợp, kết hợp thực hiện đa mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng nâng cao
chất lượng thân đê, chống xuống cấp, xóa dần các vị trí xung yếu ở nền đê, cống dưới đê, hoàn
thiện mặt cắt đê theo thiết kế, cứng hóa mặt đê kết hợp với giao thông nông thôn. Tăng cường
trồng cây phòng hộ đê điều, rà soát quy hoạch, nâng cao khả năng thoát lũ của các công trình
phân lũ, chậm lũ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Thường xuyên kiểm tra,
đánh giá hiện trạng công trình hồ chứa nước, sửa chữa, nâng cấp và bổ sung các công trình tràn
sự cố để đảm bảo an toàn cho đập, hoàn thành các quy trình vận hành để công trình sử dụng đa
mục tiêu, đặc biệt các hồ chứa lớn tham gia điều tiết cắt giảm lũ cho hạ lưu và cấp nước cho mùa
kiệt”.

61
Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được thông qua thể hiện sự ứng
phó kịp thời, linh hoạt của Đảng và Nhà nước trước những diễn biến bất thường của thời tiết xảy
ra ở nước ta trong những năm gần đây.
Ngày 23-12-2019, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1869/QĐ-TTg về Phê
duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn
đến năm 2050. Mục tiêu của quy hoạch bên cạnh việc bảo đảm tưới, cấp nước, tiêu, thoát nước
cho nông nghiệp, dân sinh, các ngành kinh tế, thì việc quy hoạch cần phải chú ý nâng cao năng
lực phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế thượng nguồn các
lưu vực sông. Do đó, việc lập quy hoạch phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa quy hoạch
này với hệ thống quy hoạch quốc gia, làm cơ sở để lập các quy hoạch có tính chất kỹ thuật,
chuyên ngành trong lĩnh vực thuỷ lợi và phòng, chống thiên tai.
Tiếp tục triển khai thực hiện quan điểm này, Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045, một lần nữa khẳng định: chủ động phòng, chống và giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai gây ra, ứng phó với trường hợp bất lợi nhất... góp phần xây dựng một xã hội an toàn
trước thiên tai. Mục tiêu cụ thể trước mắt là chủ động ứng phó có hiệu quả với các tác động bất
lợi của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, ngập lụt, xói lở bờ sông, bờ biển... kết hợp hài hòa
giữa giải pháp công trình và giải pháp phi công trình; bảo đảm an toàn trước cho các đô thị, khu
dân cư, hoạt động sản xuất trong điều kiện biến đổi khí hậu; bảo đảm an toàn công trình, vùng
hạ du đập, hồ chứa thủy lợi. Củng cố, nâng cao khả năng chống lũ tại các lưu vực sông lớn ở
Bắc bộ và Bắc Trung bộ; chủ động phòng, tránh và thích nghi với lũ để bảo vệ dân cư ở các lưu
vực sông thuộc duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ; đảm bảo sản xuất vụ Hè
Thu, Đông Xuân với tần suất lũ 5% đến 10%; chủ động sống chung với lũ tại vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, kiểm soát lũ ở vùng ngập nông, bảo đảm các điều kiện thích nghi cho dân sinh
ở vùng ngập sâu.
Song song với việc chú trọng đắp đê, tu bổ theo kiểu truyền thống, ngành thủy lợi đã gửi
chuyên gia đi học tập, trao đổi kinh nghiệm với các nước về lĩnh vực này, áp dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào củng cố đê; tiếp nhận nhiều đoàn chuyên gia quốc tế từ các nước
Australia, Hà Lan, Viện Kỹ thuật châu Á (AIT) đến Việt Nam để nghiên cứu, trao đổi học
thuật; tiếp nhận viện trợ của Tổ chức Chương trình Lương thực thế giới (PAM) để đắp một số
đê biển ở Nam Hà, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình. Triển khai thực hiện Chương trình nghị sự về
phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hiệp quốc, Đảng đặc biệt nhấn mạnh: nhiệm vụ
quan trọng hiện nay là đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế
trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên
giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng, tăng cường chia sẻ thông tin minh bạch, xây dựng
cơ chế lên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Thuỷ lợi là gì? Vai trò của công tác thuỷ lợi?
Câu 2: Thế nào là công trình thuỷ lợi đa mục tiêu?
Câu 3: Khái quát một số chiến lược, kế hoạch, điều luật về công tác thuỷ lợi được đề cập đến
trong sách bài giảng.

62
KẾT LUẬN
I. NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa
Mười lăm năm sau khi ra đời, Đảng với đường lối đúng đắn, phương thức đấu tranh cách
mạng phù hợp, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính
quyền vào Tháng Tám năm 1945 thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà
nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã
đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật kéo dài gần 90 năm, lật đổ chế độ phong
kiến tồn tại hàng nghìn năm và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
a. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp
Trong những năm 1945-1954, với đường lối kết hợp giữa kháng chiến với kiến quốc,
kháng chiến với xây dựng chế độ mới, Đảng đã huy động được sức mạnh toàn dân tộc đánh bại
các kế hoạch chiến tranh lớn của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Thắng lợi của cuộc kháng
chiến đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn,
tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
b. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Sau tháng 7-1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với đường lối sáng tạo, tiến
hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền đất nước: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm huy động sức mạnh
63
của cả nước vào thực hiện mục tiêu chung của dân tộc là độc lập và thống nhất Tổ quốc. Đảng đã
lãnh đạo thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi này đã làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế
quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời cổ vũ mạnh
mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới.
c. Thắng lợi trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc ở biên giới Tây
Nam và biên giới Phía Bắc
Với quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, quân và dân ta tiếp tục chiến đấu làm
thất bại hoàn toàn âm mưu của các thế lực thù địch ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc Tổ
quốc. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, góp
phần củng cố hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới trong những năm cuối thập kỷ
70 của thế kỷ XX.
3. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử:
Về kinh tế: đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quản lý hành chính, tập
trung, bao cấp, nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (1996); từng bước ra khỏi tình trạng của nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có
mức thu nhập trung bình (2008), phấn đấu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật chất và văn hóa tinh thần.
Về chính trị, xã hội: ổn định, hệ thống chính trị vững mạnh với vai trò của Đảng cầm quyền và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc phòng, an
ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
Về đối ngoại: Quan hệ đối ngoại mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc
tế, tạo môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh một số bài học:
Thứ nhất, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn
lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Thứ ba, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng
lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối
quan hệ mật thiết với nhân dân.
Thứ năm, không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn; về chế độ kinh tế, chính trị, xã
64
hội, văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về những nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa; biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại, đặc biệt là cách mạng công
nghiệp lần thứ 2, lần thứ 3 và nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cách mạng 4.0 đang diễn
ra mạnh mẽ.
Thứ sáu, đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ bảy, Đảng đã nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi
mới và phát triển ở Việt Nam. “Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”[5].
II. NHỮNG BÀI HỌC LỚN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng, là sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo giữa chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với thực tế cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng là quy luật dựng nước gắn liền với giữ
nước, là lý tưởng cao cả và hiện thực trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
biển, đảo của Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi
lịch sử, từ Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đến
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng đã luôn
luôn gắn bó với nhân dân, từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn
bó mật thiết với nhân dân. Nhân dân là người bảo vệ Đảng, giúp đỡ Đảng về mọi mặt trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và chính phong trào cách mạng của nhân dân đã hiện thực
hóa mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam. Nhờ sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo đã làm
nên thành công của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến cứu nước, thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới, một trong những bài học thành công của Đảng là mở
65
rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, Đảng nhấn
mạnh chiến lược đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu chung của lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm
tương đồng, tôn trọng lợi ích của các tầng lớp, giai cấp không trái với lợi ích chung, khép lại quá
khứ, xóa bỏ định kiến, hận thù, mặc cảm, hướng tới tương lai.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế
Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng
đến thắng lợi quyết định.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trước hết là do Đảng nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam để đề ra Cương lĩnh, đường lối
thích hợp. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối
nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Từ trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng thường
xuyên tự phê bình và phê bình, kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, uốn nắn những
nhận thức lệch lạc trong đội ngũ đảng viên, đảm bảo sự thống nhất về quan điểm, đường lối, về
ý chí và hành động.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam 90 năm qua cho thấy: sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạngViệt Nam. Để tiếp tục hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đẩy lùi nguy
cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân và cả nguy cơ suy thoái, biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên trong Đảng. Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người
lãnh đạo,vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong 90 năm qua đã hun đúc nên những truyền thống
vẻ vang của Đảng:
Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất vì lý tưởng cách mạng cao cả, vì nước,
vì dân, với sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, đảng viên kiên trung của
Đảng; truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tinh thần tự phê bình và phê bình, gắn bó
mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; rèn luyện phẩm chất, đạo
đức, nâng cao bản lĩnh tự vượt qua mọi khó khăn, thách thức; tinh thần chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 khóa XII (30-10-2016) của Đảng khẳng định: “Đảng ta
xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và
vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang
của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1: Khái quát những thắng lợi lớn mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
hơn 90 năm qua.
Câu 2: Nêu và phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng.

66
Digitally signed by Khoa

Khoa LLCT
DN: cn=Khoa LLCT, c=VN,
o=TLU, ou=TLU,
email=ngocdung@tlu.edu.

LLCT vn
Date: 2021.03.07 13:12:27
+07'00'

67

You might also like