You are on page 1of 13

Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:

Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ ĐÃ QUA SỬ DỤNG:


TÌNH TRẠNG KHÔNG CHẮC CHẮN VỀ CHẤT LƯỢNG
VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG1
George A. Akerlof

I. Dẫn nhập

Bài viết này bàn về mối quan hệ giữa chất lượng và tình trạng không chắc chắn. Sự
tồn tại của những hàng hoá với nhiều thứ hạng phẩm chất khác nhau đặt ra những vấn
đề quan trọng và thú vị cho lý thuyết về thị trường. Một mặt, sự tương tác giữa những
khác biệt về chất lượng và tình trạng không chắc chắn có thể giải thích cho các thể
chế quan trọng trên thị trường lao động. Mặt khác, bài viết này là một nỗ lực khó khăn
nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết cho lời phát biểu: “Việc kinh doanh tại các quốc gia
kém phát triển thật là khó khăn”. Nói cụ thể hơn, tài liệu này cung cấp cơ sở để xác
định chi phí kinh tế của sự không trung thực. Những ứng dụng tiếp theo của lý thuyết
này bao gồm những nhận định về cơ cấu của thị trường tiền tệ, về khái niệm “có thể
bảo hiểm được”, về tính thanh khoản của những hàng hoá lâu bền, và về những mặt
hàng có tên tuổi (hàng hiệu).

Có nhiều thị trường mà trong đó người mua sử dụng một vài giá trị thống kê
thị trường để đánh giá chất lượng của hàng hoá mà họ định mua. Trong trường hợp
này, người bán có động cơ để đưa ra thị trường những hàng hóa kém chất lượng, vì
lợi nhuận cuả sản phẩm có chất lượng tốt chủ yếu được thụ hưởng bởi cả nhóm chịu
ảnh hưởng của các số liệu thống kê chứ không thuộc về cá nhân người bán. Kết quả
là, cả chất lượng hàng hoá trung bình và qui mô của thị trường có xu hướng suy giảm.
Người ta cũng nhận thấy rằng trên những thị trường này, sẽ có sự khác biệt giữa lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân, và do đó, trong một số trường hợp, sự can thiệp của
chính phủ có thể làm tăng phúc lợi của tất cả các bên. Hoặc những thể chế tư (private
institutions) có thể mọc lên nhằm tranh thủ lợi thế của sự gia tăng phúc lợi tiềm năng
có thể mang về cho tất cả các bên. Tuy nhiên, về bản chất, những thể chế này tạo nên
sự tập trung quyền lực có thể sẽ phát triển cùng với những hệ quả xấu của riêng nó.

Thị trường xe ô tô được sử dụng như một ví dụ cụ thể để minh họa và triển
khai những ý tưởng vừa được trình bày ở trên. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng thị
trường này được chọn vì tính cụ thể và dễ hiểu chứ không phải vì tầm quan trọng hay
tính thực tế.

1
Tác giả xin đặc biệt cảm ơn Thomas Rothenberg vì những nhận xét và cảm hứng vô giá. Ngoài ra, tác
giả còn mang ơn Roy Radner, Albert Fishlow, Bernard Saffran, William D. Nordhaus, Giorgio La
Malfa, Charles C. Holt, John Letiche, và người chứng nhận, đã giúp đỡ và có những ý kiến đề xuất.
Tác giả cũng xin cảm ơn Viện Thống kê Ấn Độ và Tổ chức Ford đã hỗ trợ về tài chính.

George A. Akerlof 1 Translator: Kim Chi


Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

II. Mô hình với ví dụ là thị trường xe ô tô

A. Thị trường xe ô tô

Bản chất của vấn đề được minh họa thông qua ví dụ về thị trường xe ô tô. Đôi
lúc người ta nghe nhắc đến hoặc người ta cảm thấy ngạc nhiên trước sự chênh
lệch giá quá lớn giữa những chiếc ô tô mới và những chiếc xe chỉ mới vừa rời
các cửa hàng trưng bày mà thôi. Cách giải thích thông thường cho hiện tượng
này là niềm vui sướng thuần tuý của việc sở hữu một chiếc ô tô “mới tinh”.
Chúng tôi đưa ra một cách giải thích khác. Giả sử chúng ta chỉ có bốn loại xe
ô tô (giả định này chỉ nhằm giúp việc giải thích cho rõ ràng hơn chứ không
nhất thiết phải có tính chất thực tế). Có xe mới và xe cũ. Có xe tốt và xe xấu
(mà ở Hoa Kỳ người ta gọi là “lemons” - đồ vô dụng). Một chiếc xe mới có
thể là xe tốt mà cũng có thể là đồ vô dụng, và dĩ nhiên, xe đã qua sử dụng
cũng thế, cũng có xe tốt và xe xấu.

Các cá nhân trên thị trường này mua một chiếc ô tô mới mà không biết liệu
chiếc xe họ mua có phải là xe tốt hay tồi. Nhưng họ biết rằng chiếc xe có thể là xe tốt
với một xác suất là q, và cũng có thể là xe tồi với xác suất (1 – q). Theo giả định, q là
tỷ trọng xe tốt và (1 – q) là tỷ trọng xe xấu.

Tuy nhiên, sau khi sở hữu chiếc xe trong một thời gian, người chủ sở hữu có
thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng của cỗ xe này; nghĩa là người chủ sở hữu
xây dựng được một xác suất mới về khả năng chiếc xe của ông là đồ tồi. Giá trị ước
lượng này chính xác hơn so với giá trị ước lượng ban đầu. Giả sử bây giờ người chủ
này muốn bán chiếc xe hiện có. Khi ấy tình trạng bất cân xứng về thông tin xuất hiện,
vì người bán bây giờ đã am hiểu về chất lượng của chiếc xe nhiều hơn so với người
mua. Nhưng trên thị trường xe tốt và xe tồi phải được bán với giá như nhau – vì người
mua không thể biết được sự khác biệt giữa một chiếc xe tốt và một chiếc xe xấu. Rõ
ràng là một chiếc ô tô đã qua sử dụng không thể được đánh giá bằng một chiếc xe mới
- nếu chiếc xe đã qua sử dụng được đánh giá bằng với xe mới, thì hiển nhiên người ta
sẽ có lợi khi bán một chiếc xe tồi với mức giá của xe mới, và mua một chiếc xe mới
khác, với xác suất có được xe tốt (q) cao hơn so với xác suất mua nhằm xe xấu. Như
vậy, người chủ của một chiếc xe tốt ắt sẽ bị cột chặt vào chiếc xe của mình (hoặc là
lâm vào tình thế bất lợi khi muốn bán xe). Người chủ này chẳng những không thể
nhận được giá trị thật của chiếc xe của mình, mà người ấy cũng không thể thu được
giá trị kỳ vọng của một chiếc xe mới.

Qui luật Gresham đã được tái hiện với ít nhiều sửa đổi. Vì hầu hết những chiếc
ô tô được mua bán sẽ là “đồ vô dụng”, và những chiếc xe tốt có thể hoàn toàn không
còn được mua bán nữa, nên những chiếc ô tô “xấu” có xu hướng đánh bật những
chiếc xe tốt ra khỏi thị trường (theo một cách thức cũng giống như những đồng tiền cũ
xấu sẽ lưu hành trên thị trường nhiều hơn những đồng tiền mới đẹp). Nhưng sự tương
đồng với qui luật Gresham không hoàn chỉnh: những chiếc xe xấu đẩy lùi những chiếc
xe tốt ra khỏi thị trường vì được bán với giá bằng với xe tốt; tương tự, những đồng
tiền cũ xấu được lưu hành nhiều hơn những đồng tiền đẹp vì giá trị trao đổi của chúng
cũng như nhau. Nhưng những chiếc xe xấu được bán theo giá ngang với xe tốt bởi vì
người mua không thể phân biệt được giữa xe tốt và xe xấu; chỉ có người bán biết mà
thôi. Tuy nhiên, trong qui luật Gresham, hẳn là người mua và người bán đều biết sự
George A. Akerlof 2 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

khác nhau giữa đồng tiền đẹp và đồng tiền xấu. Vì thế, phép so sánh này chỉ có tính
chất minh họa, nhưng không hoàn chỉnh.

B. Thông tin không cân xứng

Chúng ta đã thấy rằng những chiếc xe tốt có thể bị các xe tồi loại ra khỏi thị
trường. Nhưng ngay cả khi chất lượng hàng hóa là một biến có tính liên tục cao hơn
thì tình trạng tồi tệ hơn cũng vẫn có thể tồn tại. Cũng có thể những chiếc xe xấu sẽ lấn
át những chiếc xe không xấu lắm, rồi những chiếc xe không xấu lắm lại lấn át những
chiếc xe trung bình, những chiếc xe trung bình lại lấn át những chiếc xe không tốt
lắm, và những chiếc xe không tốt lắm lại lấn át những chiếc xe tốt theo một chuỗi sự
kiện liên tục cho đến mức cuối cùng thị trường không còn tồn tại nữa.

Người ta có thể giả định rằng nhu cầu đối với xe ô tô đã qua sử dụng phụ
thuộc nhiều vào hai biến số - giá của xe ô tô p và chất lượng bình quân µ của xe ô tô
đã qua sử dụng được mua bán trên thị trường, hay Qd = D(p, µ). Cả nguồn cung xe ô
tô đã qua sử dụng và chất lượng bình quân µ đều phụ thuộc vào mức giá, hay µ = µ(p)
và S = S(p). Và ở trạng thái cân bằng, cung phải bằng cầu ứng với một mức chất
lượng bình quân cho trước, hay S(p) = D(p, µ(p)). Khi giá giảm, thông thường chất
lượng cũng sẽ giảm. Và cũng có thể là không còn hàng hoá được mua bán trên thị
trường ứng với bất kỳ mức giá nào.

Chúng ta có thể suy ra một ví dụ như vậy từ lý thuyết thỏa dụng (utility
theory). Giả định rằng có hai nhóm người mua bán: nhóm một và nhóm hai. Nhóm
một có hàm thỏa dụng là:
n
U1 = M + ∑ x i
i =1

trong đó M là việc tiêu dùng những hàng hoá khác ngoài ô tô, xi là chất lượng của
chiếc ô tô thứ i, và n là số ô tô.

Tương tự, ta cho:


n
U2 = M + ∑ 3 / 2x
i =1
i

trong đó M, xi và n được định nghĩa như trên.

Chúng ta có thể có ba nhận xét về hàm thỏa dụng: (1) Nếu không sử dụng hàm
thỏa dụng tuyến tính (ví dụ như sử dụng hàm thỏa dụng lô-ga-rit) người ta có thể sa
lầy vào việc tính toán đại số phức tạp. (2) Việc sử dụng hàm thỏa dụng tuyến tính cho
phép ta tập trung vào những tác động của thông tin không cân xứng; với một hàm
thoả dụng lõm, chúng ta phải xử lý một cách kết hợp những ảnh hưởng về rủi ro -
phương sai (risk-variance effects) thông thường của tình trạng không chắc chắn và
những ảnh hưởng đặc biệt mà chúng ta muốn thảo luận ở đây. (3) Hai hàm thoả dụng
U1 và U2 có một đặc điểm khác thường là: việc có thêm một chiếc ô tô thứ nhì, hay
tổng quát hơn là chiếc ô tô thứ k sẽ làm tăng thêm cùng một độ thoả dụng như chiếc ô

George A. Akerlof 3 Translator: Kim Chi


Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

tô đầu tiên. Một lần nữa, chúng ta đành chấp nhận giảm bớt tính chất thực tế của mô
hình để tránh tình trạng mất tập trung vào trọng tâm nghiên cứu.

Để tiếp tục, chúng ta giả định rằng : (1) cả hai nhóm người mua bán đều là
những người muốn tối đa hoá độ thỏa dụng kỳ vọng theo Von Neumann –
Morgenstern; (2) nhóm một có N chiếc ô tô với chất lượng x được phân phối đồng
đều trong đoạn 0 ≤ x ≤ 2, và nhóm hai không có chiếc ô tô nào cả; (3) giá của “những
hàng hoá khác” (M) là bằng 1 đơn vị.

Ta ký hiệu thu nhập (bao gồm cả thu nhập có được từ việc bán xe ô tô) của tất
cả những người mua bán trong nhóm một là Y1, và thu nhập của tất cả những người
mua bán trong nhóm hai là Y2. Cầu đối với xe ô tô đã qua sử dụng sẽ là tổng cầu của
cả hai nhóm. Khi ta bỏ qua tính không thể chia (indivisibilities), cầu xe ô tô của nhóm
một sẽ là:

D1 = Y 1 / p µ/p>1

D1 = 0 µ/p<1

Và cung xe ô tô của nhóm một là:

(1) S2 = pN / 2 p≤2

với chất lượng bình quân là:

(2) µ=p/2

(Để suy ra (1) và (2), chúng ta sử dụng giả định là chất lượng xe ô tô có phân phối
đều.)

Tương tự, cầu của nhóm người mua bán thứ hai là:

D2 = Y 2 / p 3µ /2 > p

D1 = 0 3µ /2 < p

Và cung của nhóm hai:

S2 = 0

Như vậy, tổng cầu D(p, µ) là:

D(p, µ) = (Y2 + Y1) / p nếu p < µ

D(p, µ) = Y2 / p nếu µ < p < 3µ / 2

D(p, µ) = 0 nếu p > 3µ / 2

Tuy nhiên, với mức giá p, chất lượng bình quân là p/2 và do đó không có một giao
dịch nào xảy ra ứng với bất kỳ mức giá nào, bất chấp sự kiện là ứng với một mức giá

George A. Akerlof 4 Translator: Kim Chi


Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

bất kỳ giữa 0 và 3, vẫn có những người trong nhóm một sẵn lòng bán xe ô tô của họ
với một mức giá mà những người trong nhóm hai sẵn lòng chi trả.

C. Thông tin cân xứng

Phần thảo luận ở đây về thông tin cân xứng tương phản với trường hợp thông tin bất
cân xứng ở trên. Giả sử chất lượng của xe có phân phối đều, 0 ≤ x ≤ 2. Khi đó, đường
cung và đường cầu có thể viết lại như sau:

Cung: S(p) = N p>1

S(p) = 0 p<1

Và đường cầu là:

D(p) = (Y2 + Y1) / p nếu p < 1

D(p) = Y2 / p nếu 1 < p < 3/2

D(p) = 0 nếu p > 3/2

Ở trạng thái cân bằng:

(3) p=1 nếu Y2 < N

(4) p = Y2 / N nếu 2Y2/3 < N < Y2

(5) p = 3/2 nếu N < 2Y2/3

Nếu N < Y2, có sẽ có một khoản lợi về độ thoả dụng là N/2 so với trường hợp thông
tin không cân xứng. (Nếu N > Y2, trong trường hợp mà thu nhập của nhóm hai không
đủ để mua toàn bộ N chiếc ô tô, thì có một khoản lợi về độ thỏa dụng là Y2/2 đơn vị.)

Cuối cùng, ta cũng nên lưu ý rằng trong ví dụ này, nếu những người mua bán
thuộc nhóm một và nhóm hai có cùng những giá trị ước lượng xác suất như nhau về
chất lượng của mỗi chiếc ô tô – cho dù những giá trị ước lượng này có thể khác nhau
giữa những chiếc ô tô khác nhau – các phương trình (3), (4), và (5) vẫn sẽ mô tả trạng
thái cân bằng với một thay đổi nhỏ: khi đó p sẽ tiêu biểu cho giá trị kỳ vọng của một
đơn vị chất lượng.

III. VÍ DỤ VÀ ỨNG DỤNG

A. Bảo hiểm

Có một sự kiện mà ai cũng biết là những người trên 65 tuổi thật khó mà mua
được bảo hiểm y tế. Câu hỏi tự nhiên đặt ra là: Thế tại sao không tăng giá (phí bảo
hiểm) lên để cân xứng với rủi ro?

Câu trả lời của chúng ta là: khi giá tăng, những người bảo hiểm cho chính
mình sẽ là những người chắc chắn rằng họ đang cần mua bảo hiểm; vì những sai sót
khi kiểm tra sức khoẻ, vì sự thông cảm của bác sĩ đối với những bệnh nhân già nua,

George A. Akerlof 5 Translator: Kim Chi


Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

v.v. sẽ làm cho người xin mua bảo hiểm dễ dàng đánh giá những rủi ro có liên quan
hơn so với công ty bảo hiểm. Kết quả là tình trạng sức khoẻ bình quân của những
người xin mua bảo hiểm sẽ giảm xuống khi mức giá (phí bảo hiểm) tăng lên – từ đó
dẫn đến không có doanh vụ bảo hiểm nào xảy ra ở bất kỳ mức giá nào.2 Điều này hết
sức tương đồng với trường hợp xe ô tô của chúng ta, trong đó chất lượng bình quân
của ô tô đã qua sử dụng được cung ứng trên thị trường sẽ giảm xuống theo sự giảm
sút tương ứng của mức giá. Điều này nhất quán với cách giải thích trong các sách giáo
khoa về bảo hiểm:

Nói chung, không có các hợp đồng bảo hiểm dành cho lứa tuổi ngoài sáu mươi lăm…
Phí bảo hiểm định kỳ quá cao khiến cho không ai cảm thấy hấp dẫn cả ngoại trừ
những người được bảo hiểm bi quan nhất (và cũng có nghĩa là những người có tình
trạng sức khoẻ yếu kém nhất). Như vậy, có một vấn đề về sự lựa chọn ngược (adverse
selection)3 nghiêm trọng ở lứa tuổi này.4

Số liệu thống kê cũng phù hợp với kết luận này. Cho dù nhu cầu về bảo hiểm
y tế tăng lên theo tuổi tác, nhưng điều tra mẫu quốc gia năm 1956 cho 2.809 gia đình
với 8.898 người cho thấy rằng mức thanh toán bảo hiểm y tế giảm từ 63 phần trăm
cho những người ở lứa tuổi trong khoảng 45 đến 54, chỉ còn 31 phần trăm cho những
người ở lứa tuổi ngoài 65. Và thật là ngạc nhiên, điều tra này cũng nhận thấy chi phí y
tế bình quân cho nam giới ở tuổi từ 55 đến 64 là 88 đô-la, trong khi nam giới tuổi
ngoài 65 trả một mức chi phí y tế bình quân là 77 đô-la.5 Trong khi chi tiêu y tế ngoài
bảo hiểm tăng từ 66 đô-la lên 80 đô-la trong những nhóm tuổi này, thì thanh toán bảo
hiểm giảm từ 105 đô-la xuống 70 đô-la. Kết luận xem ra là các công ty bảo hiểm đặc
biệt cảnh giác trong việc cung ứng bảo hiểm y tế cho người già.

Nguyên tắc “lựa chọn ngược” xuất hiện tiềm tàng trong mọi loại hình bảo
hiểm. Nhận định sau đây đã được đưa ra trong một quyển sách giáo khoa về bảo hiểm
ở trường Wharton:

Có một sự lựa chọn ngược tiềm ẩn trong sự kiện là những người có hợp đồng bảo
hiểm y tế định kỳ có thể quyết định chấm dứt hợp đồng khi họ trở nên già hơn và phí
bảo hiểm tăng cao. Hành động này có thể làm cho công ty bảo hiểm có một tỷ lệ rủi
ro bình quân thấp một cách thái quá và các khoản yêu cầu thanh toán bảo hiểm có thể
trở nên cao hơn dự tính. Sự lựa chọn ngược “xuất hiện (hay ít ra là có thể xuất hiện)
bất kỳ khi nào cá nhân hay nhóm người được bảo hiểm có quyền tự do mua hay
không mua bảo hiểm, có quyền quyết định giá trị hay kế hoạch bảo hiểm, và có quyền
duy trì hay không tiếp tục hợp đồng bảo hiểm nữa.”6

2
Bài báo rất hay của Arrow “Tình trạng không chắc chắn và chăm sóc y tế” (“Uncertainty and Medical
Care”, American Economic Review, Vol. 53, 1963), không trình bày luận điểm này một cách chính
thức. Ông nhấn mạnh vào “tâm lý ỷ lại” (moral hazard) hơn là vào sự “lựa chọn ngược”. Theo ý nghĩa
chặt chẽ, sự hiện hữu của tâm lý ỷ lại cũng gây bất lợi như nhau cho các chương trình các chính phủ và
tư nhân; theo ý nghĩa rộng hơn, trong đó bao hàm cả “sự lựa chọn ngược”, “tâm lý ỷ lại” mang lại một
lợi thế quyết định cho các chương trình bảo hiểm của chính phủ.
3
Ở một số tài liệu khác “lựa chọn ngược” (adverse selection) được dịch là “tâm lý ỷ lại”
4
O. D. Dickerson, Bảo hiểm y tế (“Health Insurance”, Homewood, Ill.: Irwin, 1959), trang 333.
5
O. W. Aderson (với J.j. Feldman), Bảo hiểm và chi phí y tế gia đình, (“Family Medical Costs and
Insurance”, New York: McGraw-Hill, 1956).
6
H. S. Denenberg, R. D. Eiler, G. W. Hoffman, C. C. Kline, J. J. Melone, và H. W. Snider, Rủi ro và
bảo hiểm (“Risk and Insurance”, Englewood Cliffs, N. J.: Prentice Hall, 1964), trang 446.
George A. Akerlof 6 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

Việc bảo hiểm nhóm, hình thức bảo hiểm y tế phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, cũng
chọn ra những người khoẻ mạnh, vì tình trạng sức khoẻ đầy đủ nói chung là điều kiện
tiên quyết để tuyển dụng lao động. Đồng thời điều này cũng có nghĩa là bảo hiểm y tế
ít khi dành cho những người cần đến nó nhất, vì chính các công ty bảo hiểm cũng thực
hiện việc “lựa chọn ngược” của riêng họ.

Điều này bổ sung thêm một lập luận chính ủng hộ sự chăm sóc y tế.7 Trên cơ sở chi
phí và lợi ích, việc chăm sóc y tế cơ bản có thể đáng để thực hiện: vì có thể mỗi cá
nhân trên thị trường sẽ sẵn lòng thanh toán chi phí kỳ vọng của việc chăm sóc y tế và
mua bảo hiểm, nhưng không một công ty bảo hiểm nào sẵn lòng ký kết hợp đồng bảo
hiểm với cá nhân đó cả - ứng với bất kỳ mức giá nào cũng sẽ thu hút quá nhiều “đồ
vô dụng”. Kinh tế học phúc lợi về chăm sóc y tế, theo quan điểm này, tương đồng một
cách chính xác với lập luận kinh điển về chi tiêu chính phủ cho việc xây dựng đường
sá (hàng hoá công).

B. Tuyển dụng những người thuộc cộng đồng thiểu số

Nguyên tắc “đồ vô dụng” cũng làm sáng tỏ việc tuyển dụng những người thuộc cộng
đồng thiểu số. Chủ lao động có thể từ chối tuyển dụng những thành viên của cộng
đồng thiểu số cho một số loại hình công việc. Quyết định này có thể chẳng phải xuất
phát từ quan điểm phi duy lí hay sự thành kiến nào đó – mà chỉ đơn thuần vì lý do tối
đa hoá lợi nhuận, vì nòi giống có thể đóng vai trò như một giá trị thống kê tốt cho nền
tảng xã hội, chất lượng học tập, và những năng lực làm việc tổng quát của người lao
động.

Thành tích học tập tốt có thể đóng vai trò thay thế cho giá trị thống kê này;
thông qua xếp hạng sinh viên, hệ thống trường học có thể đưa ra một chỉ báo về chất
lượng tốt hơn so với cách chỉ căn cứ vào những đặc điểm bề ngoài khác. Như T. W.
Schultz viết: “Cơ cở giáo dục khám phá và trau dồi những tài năng tiềm ẩn. Năng lực
của trẻ em và những sinh viên trưởng thành có thể không bao giờ được biết tới cho
đến khi được phát hiện ra và bồi dưỡng.”8 (Những chữ in nghiêng là được tác giả bổ
sung thêm). Một người lao động không qua đào tạo có thể có những tài năng tự nhiên
đáng giá, nhưng những tài năng này phải được chứng nhận bởi “cơ sở giáo dục” trước
khi một công ty có thể sử dụng họ; tính không đáng tin cậy của những trường học
không tên tuổi làm giảm triển vọng kinh tế của các sinh viên của trường.

Sự thiếu thốn này có thể đặc biệt bất lợi cho thành viên của những cộng đồng
thiểu số vốn dĩ đã kém ưu thế rồi. Người chủ lao động có thể đưa ra một quyết định có
tính duy lý là không tuyển dụng bất kỳ một thành viên nào thuộc cộng đồng này vào

7
Trích đoạn sau đây, cũng rút ra từ một quyển sách giáo khoa về bảo hiểm, cho thấy thị trường bảo
hiểm y tế cách biệt như thế nào so với sự cạnh tranh hoàn hảo:
“… Các công ty bảo hiểm phải sàng lọc những hồ sơ xin mua bảo hiểm. Lẽ tự nhiên, đúng là
nhiều người tự nguyện tìm kiếm sự bảo hiểm đầy đủ bằng cách tự mình đến với công ty bảo hiểm.
Nhưng trong các tuyến bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn, các công ty bảo hiểm có thể không quan tâm
nhiều đến những người tình nguyện tìm mua bảo hiểm mà không được tiếp cận bởi một đại lý bảo
hiểm.” (F. J. Angell, Bảo hiểm, nguyên tắc và thực hành, New York: Nhà xuất bản Ronalt, 1957, trang
8-9.)
Điều này cho thấy rằng bảo hiểm không phải là một hàng hoá để bán trên thị trường mở.
8
T. W. Schultz, Giá trị kinh tế của giáo dục (New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia, 1964), trang
42.
George A. Akerlof 7 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

những vị trí có trách nhiệm cao, vì thật khó mà phân biệt những người có phẩm chất
làm việc tốt với những người có phẩm chất làm việc kém. Kiểu quyết định này rõ
ràng là những gì mà George Stigler đã nghĩ đến khi ông viết “trong một thể chế ngu
muội, có lẽ Enrico Fermi chỉ là một người làm vườn, và Von Neumann chỉ là một
nhân viên thu tiền trong một hiệu thuốc.”9

Tuy nhiên, kết quả là, phần thưởng cho những công trình nghiên cứu tại những
trường học không tên tuổi có xu hướng mang về cho toàn bộ tập thể – là làm tăng chất
lượng bình quân của nhà trường – chứ không phải cho cá nhân. Chỉ đến khi nào
những thông tin khác ngoài thông tin về giống nòi được sử dụng thì mới có động cơ
thôi thúc hoạt động đào tạo.

Thêm một mối lo nữa là Văn phòng Cơ hội Kinh tế (Office of Economic
Opportunity) đang sắp sửa sử dụng phép phân tích lợi ích và chi phí để đánh giá các
chương trình của cơ quan này, vì có thể có nhiều lợi ích ngoại tác (những lợi ích có
hiệu ứng lan toả). Sự gia tăng lợi ích của việc đào tạo cộng đồng thiểu số thông qua
nâng cao chất lượng bình quân của cộng đồng thì cũng đáng kể ngang với sự gia tăng
lợi ích nhờ nâng cao chất lượng của từng cá nhân người được đào tạo. Và cũng tương
tự như vậy, sinh lợi có thể được phân phối cho cả nhóm hơn là cho cá nhân.

C. Chi phí của tính không trung thực

Mô hình “đồ vô dụng’’ có thể được sử dụng để đưa ra những nhận định về chi phí của
tính không trung thực. Ta hãy xem xét một thị trường trong đó hàng hoá được bán
một cách trung thực hay không trung thực; chất lượng có thể được thể hiện ra, nhưng
cũng có thể bị thể hiện sai. Dĩ nhiên, vấn đề của người mua là nhận diện chất lượng.
Sự hiện diện trên thị trường của những người muốn chào bán những hàng hoá thứ cấp
(inferior goods) có xu hướng đẩy thị trường đi đến chỗ không còn tồn tại nữa – cũng
giống như trong trường hợp những chiếc ô tô vô dụng của chúng ta. Đây chính là khả
năng có thể dẫn đến những chi phí chủ yếu của tính không trung thực, vì những doanh
vụ không trung thực có xu hướng đẩy lùi những doanh vụ trung thực ra khỏi thị
trường. Có thể có những người muốn mua những hàng hoá có chất lượng tốt và những
người muốn bán những sản phẩm chất lượng tốt như thế với những mức giá thích
hợp; tuy nhiên, sự hiện diện của những kẻ muốn tống khứ những món hàng tồi tệ như
những món hàng tốt có xu hướng đánh bật việc kinh doanh chính đáng. Do đó, chi phí
của sự không trung thực không chỉ nằm ở số tiền mà người mua bị đánh lừa; mà chi
phí đó còn phải bao gồm cả những thiệt hại do đánh bật những hoạt động kinh doanh
chính đáng ra khỏi thị trường.

Tính không trung thực trong kinh doanh là một vấn đề nghiêm trọng tại các
quốc gia kém phát triển. Mô hình của chúng tôi trình bày một cơ cấu khả dĩ cho nhận
định này và phác họa bản chất của những nền kinh tế ‘‘ngoại tác’’ (external
economies). Nói một cách cụ thể, trong mô hình kinh tế vừa mô tả, tính không trung
thực hay sự biểu thị sai về chất lượng của xe ô tô đã làm thiệt hại ½ đơn vị thoả dụng
trên mỗi chiếc ô tô; hơn nữa, sự biểu thị sai này còn làm giảm qui mô của thị trường
xe ô tô đã qua sử dụng từ N chiếc xuống còn bằng 0. Như vậy, chúng ta có thể đánh
giá được chi phí của tính không trung thực một cách gián tiếp – ít ra là trên lý thuyết.

9
G. J. Stigler, “Thông tin và thị trường lao động”, Journal of Political Economy, tập 70 (tháng 10 năm
1962), phần bổ sung trang 104.
George A. Akerlof 8 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

Có những bằng chứng đáng kể cho thấy rằng sự biến thiên chất lượng tại các
quốc gia kém phát triển phổ biển hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn như nhu
cầu kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu và các Công ty Thương mại Nhà nước có
thể được xem như một chỉ báo. Lấy ví dụ, ở Ấn Độ, theo Đạo luật giám định và kiểm
tra chất lượng hàng xuất khẩu năm 1963, “khoảng 85 phần trăm hàng xuất khẩu của
Ấn Độ được chứng nhận bởi một loại kiểm tra chất lượng nào đó”10. Các bà nội trợ
Ấn Độ phải cẩn thận sàng lọc gạo mua về từ các khu chợ địa phương để nhặt ra những
hạt sạn có cùng màu sắc và hình dạng giống như gạo đã được người bán cố ý trộn vào.
Bất kỳ sự so sánh nào về sự khác biệt chất lượng trên các phố chợ và chất lượng hàng
hoá đóng hộp của các siêu thị Hoa Kỳ cũng có thể cho chúng ta thấy rằng sự biến
thiên chất lượng hàng hoá ở phương Đông là một vấn đề lớn hơn nhiều so với phương
Tây.

Trong một mô thức phát triển truyền thống, những nhà buôn của thế hệ tiền
công nghiệp đã chuyển thành những nhà sáng lập kinh doanh của thế hệ kế tiếp.
Trường hợp được thể hiện rõ nhất qua tư liệu là trường hợp của Nhật Bản,11 nhưng
đây có lẽ cũng là mô thức phát triển của Anh và Mỹ.12 Trong bức tranh của chúng ta,
kỹ năng quan trọng của một nhà buôn là biết nhận diện chất lượng của hàng hoá;
những người nào có thể nhận biết được những chiếc ô tô đã qua sử dụng trong ví dụ
của chúng ta và có thể đảm bảo về chất lượng hàng hoá thì có thể hưởng lợi nhuận
bằng với mức chênh lệch giữa giá mua của nhóm thứ hai và giá bán của nhóm thứ
nhất. Những người này là các nhà buôn. Trong sản xuất, những kỹ năng này cũng cần
thiết tương tự như vậy - cần phải có khả năng nhận biết chất lượng của các yếu tố đầu
vào và có khả năng chứng nhận chất lượng các yếu tố đầu ra. Và đây lại là một lý do
nữa giải thích một cách hợp lý tại sao các nhà buôn có thể trở thành những nhà sáng
lập kinh doanh đầu tiên.

Lẽ dĩ nhiên, vấn đề là ở chỗ: tinh thần kinh doanh có thể là một nguồn lực
khan hiếm; không một sách giáo khoa về phát triển nào mà không nhấn mạnh vào tinh
thần kinh doanh. Một số sách giáo khoa xem vấn đề này là trọng tâm.13 Vậy thì, một
khi cho rằng tinh thần kinh doanh là khan hiếm, chúng ta thấy có hai cách thức để qua
đó sự biến thiên chất lượng hàng hoá gây cản trở cho sự phát triển. Thứ nhất, do việc
trao đổi mua bán mang lại lợi nhuận to lớn đối với những doanh nhân tương lai, cho
nên họ dời bỏ hoạt động sản xuất; thứ hai, lượng thời gian kinh doanh trên một đơn vị
sản lượng càng lớn, thì sự biến thiên chất lượng hàng hoá càng lớn.

D. Thị trường tín dụng tại các quốc gia kém phát triển

(1) Thị trường tín dụng tại các quốc gia đang phát triển thường phản ánh mạnh mẽ
tác động của Nguyên tắc Đồ vô dụng. Ở Ấn Độ, có một tỷ trọng lớn các doanh nghiệp
công nghiệp được kiểm soát bởi các cơ quan quản lý (căn cứ theo một điều tra mới
đây, những “cơ quan quản lý” này kiểm soát 65,7 phần trăm của cải ròng của các

10
Thời của Ấn Độ, ngày 10 tháng 11 năm 19667, trang 1.
11
Tìm đọc M. J. Levy, Jr., “Những yếu tố tương phản trong sự hiện đại hoá của Trung Quốc và Nhật
Bản” trong Tăng trưởng kinh tế: Brazil, ẤN Độ, Nhật Bản, hiệu đính bởi S. Kuznets và những người
khác, (Durham, N. C.: Nhà xuất bản Đại học Duke, 1955).
12
C. P. Kindleberger, Phát triển kinh tế (New York: McGraw-Hill, 1958), trang 86.
13
Ví dụ, tìm đọc tài liệu của W. Arthurs Lewis, Lý thuyết tăng trưởng kinh tế (Homewood, III: Irwin,
1955), trang 196.
George A. Akerlof 9 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

công ty trách nhiệm hữu hạn công cộng và 66 phần trăm tổng tài sản).14 Sau đây là
cách giải thích của các nhà sử học về chức năng và nguồn gốc của “hệ thống cơ quan
quản lý”:

Việc quản lý hoạt động thương mại Nam Á vẫn còn là chức năng của các nhà buôn và
một loại tổ chức đặc thù của Nam Á được gọi là Cơ quan quản lý. Khi một công ty
mới được sáng lập (ví dụ như một nhà máy sản xuất, một xí nghiệp, hay một công ty
thương mại), người sáng lập sẽ tìm đến một cơ quan quản lý kỳ cựu. Người sáng lập
có thể là người Ấn hay người Anh, và họ có thể có những nguồn lực tài chính hay
nguồn lực kỹ thuật, hay chỉ đơn thuần là có đất đai. Trong bất kỳ trường hợp nào, họ
cũng tìm đến cơ quan quản lý bởi tiếng tăm tên tuổi của cơ quan này sẽ khuyến khích
sự tin cậy vào công ty mới thành lập và kích thích đầu tư.15

Đổi lại, đặc điểm chính thứ hai của hoạt động công nghiệp Ấn Độ là sự thống
lĩnh của các cơ quan quản lý này theo đẳng cấp xã hội (hay nói chính xác hơn là theo
công xã). Như vậy, các công ty thường được phân loại căn cứ vào nguồn gốc công
xã.16 Trong môi trường này, nơi mà các nhà đầu tư bên ngoài có thể bị lừa đảo tài sản,
có hai khả năng có thể xảy ra: (i) các công ty xây dựng tên tuổi về hoạt động kinh
doanh trung thực, nhờ đó mang lại cho họ một đặc lợi độc quyền vì việc cung ứng
những dịch vụ của họ chỉ có giới hạn trong một phạm vi nào đó mà thôi, hoặc là (ii)
nguồn lực tài chính được giới hạn trong các nhóm công xã địa phương; ở đó, người ta
có thể sử dụng những mối quan hệ công xã hay cũng có thể là những mối quan hệ gia
đình để khuyến khích sự giao dịch trung thực trong phạm vi cộng đồng. Trong lịch sử
kinh tế Ấn Độ, rất khó nhận biết lý do khiến tiền tiết kiệm của những người chủ đất
giàu có không được đầu tư vào khu vực công nghiệp có phải là do (i) người ta sợ đầu
tư vào những công ty mạo hiểm thuộc sự kiểm soát của những cộng đồng khác, hay là
do (ii) xu hướng tiêu dùng tăng lên do lạm phát, hoặc là bởi (iii) suất sinh lợi thấp từ
đầu tư.17 Tuy nhiên, ít ra người ta cũng thấy rõ là các cơ quan quản lý thuộc sở hữu
của người Anh có xu hướng có một số vốn sở hữu mà nguồn gốc về mặt công xã của
nguồn vốn sở hữu này có tính chất hỗn tạp hơn so với những cơ quan kiểm soát của
người Ấn, và thường bao gồm cả những nhà đầu tư người Ấn lẫn người Anh.

14
Báo cáo của Uỷ ban phân phối thu nhập và mức sống, phần 1, chính phủ Ấn Độ, Uỷ ban Kế hoạch,
tháng 2 năm 1964, trang 44.
15
H. Tinker, Nam Á: Một lịch sử ngắn (New York: Praeger, 1966), trang 134.
16
Bảng sau đây (và cả tỷ lệ phần trăm ít ỏi của những công ty thuộc sự kiểm soát hỗn hợp) biểu thị tình
trạng công xã hoá trong việc kiểm soát các doanh nghiệp. Nguồn: M. M. Mehta, Cơ cấu của các ngành
công nghiệp Ấn Độ (Bombay: Popular Book Depot, 1955), trang 314.
Phân phối kiểm soát công nghiệp theo công xã
1911 1931 1951
Thuộc Anh 281 416 382
Parsis (Bái hỏa giáo) 15 25 19
Gujratis 3 11 17
Do Thái 5 9 3
Hồi Giáo -- 10 3
Bengalis 8 5 20
Marwaris -- 6 96
Kiểm soát hỗn hợp 28 28 79
Tổng cộng 341 510 619
Về ngành công nghiệp sợi bông, tìm đọc tài liệu của H. Fukuzawa, “Ngành sản xuất sợi bông”, trong
V. B. Singh, hiệu đính, Lịch sử kinh tế Ấn Độ, 1857-1956 (Bombay: các nhà xuất bản liên hiệp 1965).
17
Tìm đọc hồ sơ hỗn hợp về lợi nhuận công nghiệp trong tài liệu của D. H. Buchanan, Sự phát triển
của doanh nghiệp tư bản ở Ấn Độ, (New York: Kelley, 1966, in lại).
George A. Akerlof 10 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

(2) Ví dụ thứ hai về sự vận hành của Nguyên tắc Đồ vô dụng liên quan đến những
mức lãi suất cắt cổ mà những người cho vay tiền địa phương tính cho khách hàng. Ở
Ấn Độ, những mức lãi suất cao này là yếu tố hàng đầu của tình trạng không có ruộng
đất. Cái gọi là “Phong trào hợp tác xã” là nhằm phản ứng lại trước tình trạng không có
ruộng đất ngày càng tăng thông qua thiết lập những ngân hàng cạnh tranh với những
người cho vay tiền địa phương.18 Trong khi những ngân hàng lớn tại các thành phố
trung ương có lãi suất cơ bản là 6, 8, và 10 phần trăm, những người cho vay tiền địa
phương tính những mức lãi suất 15, 25 và thậm chí đến 50 phần trăm. Câu trả lời cho
điều xem ra có vẻ nghịch lý này là: tín dụng chỉ được cung ứng khi (i) người cấp tín
dụng có những biện pháp chế tài để dễ dàng cưỡng chế hợp đồng, hay (ii) người cấp
tín dụng có những hiểu biết riêng về đặc điểm của người vay. Những người trung gian
cố gắng kinh doanh hưởng chênh lệch giữa lãi suất của người cho vay tiền và lãi suất
của ngân hàng trung ương có xu hướng thu hút tất cả những đồ vô dụng (những người
vay mượn không đáng tin cậy) và vì thế sẽ bị lỗ.

Ta có thể thấy cách diễn giải sau đây của Sir Malcolm Darling về sức mạnh
của những người cho vay tiền tại các làng xã:

Tại các làng xã Ấn Độ, người cho vay tiền thường là một người tằn tiện trong số
những người không tằn tiện nói chung; và phương pháp kinh doanh của họ, cho dù có
tính chất vô đạo xét trong những điều kiện hiện đại, nhưng lại thích hợp với lối sống
thoải mái vô tư lự của người nông dân. Người vay luôn luôn có thể tiếp cận được với
họ bất kỳ lúc nào, thậm chí vào ban đêm; họ bỏ qua những thủ tục phiền phức, không
đặt những câu hỏi bất tiện, đưa tiền trước một cách nhanh chóng và nếu người vay trả
lãi, họ không thúc ép phải hoàn trả vốn gốc. Họ duy trì sự tiếp cận cá nhân gần gũi
với khách hàng, và ở nhiều làng xã, họ còn cùng chia ngọt sẻ bùi với khách hàng. Với
những hiểu biết gần gũi với những người sống quanh họ, họ có thể tài trợ cho những
người này mà không phải gánh chịu những rủi ro nghiêm trọng, những người mà

18
Người đứng đầu hoạt động này là Ngài Malcolm Darling. Tìm đọc tài liệu của ông, Nông dân Punjab
trong trong sự phồn vinh và nợ nần. Bảng sau đây cũng có thể mang lại thêm tư liệu:

Lãi suất phổ biến nhất ứng với các khoản vay
Cho vay có bảo Cho vay không có bảo đảm Cho vay hoa màu
đảm (phần trăm) (phần trăm) (phần trăm)
Punjab 6 đến 12 12 đến 24 (18 ¾ là phổ biến nhất) 25
Các tỉnh thống nhất 9 đến 12 24 đến 37 ½ 25 (50 ở Oudh)
Bihar 18 ¾ 50
Orissa 12 đến 18 ¾ 25 25
Bengal 8 đến 12 9 đến 18 cho những “khách hàng
đáng kính nhất”; 18 ¾ đến 37 ½
(lãi suất sau phổ biến với các nhà
nông)
Các tỉnh trung 6 đến 12 24 cho tá điền ngụ cư; 37 ½ cho
ương nông dân không có quyền chuyển
nhượng
Bombay 9 đến 12 12 đến 25 (18 là phổ biến nhất)
Sind 36
Madras 12 15 đến 18 (trong những vùng 20 đến 50
không an toàn, lãi suất 24% chẳng
phải là không phổ biến

George A. Akerlof 11 Translator: Kim Chi


Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

bằng không thì chẳng thể nào đi vay được ở đâu cả. [Phần in nghiêng là do tác giả
bổ sung thêm.]19

Hay ta hãy nghe tường thuật của Barbara Ward:

Một chủ hiệu nhỏ trong một làng chài ở Hồng Kông bảo với tôi: “Tôi cung cấp tín
dụng cho bất kỳ ai bỏ neo đều đặn trong vịnh của chúng tôi; nhưng nếu có ai đó mà
tôi không biết rõ lắm, thì tôi sẽ suy nghĩ đắn đo hơn gấp đôi về việc cho vay này trừ
khi tôi có thể tìm hiểu được toàn bộ về người đó.”20

Hoặc một ví dụ khác, một loại hình kinh doanh phụ có khả năng sinh lợi của hoạt
động tỉa hạt bông ở Iran là cho vay tiền cho mùa thu hoạch kế tiếp, vì các công ty tỉa
hạt bông thường có một hạn mức tín dụng từ các ngân hàng Teheran theo lãi suất thị
trường. Nhưng trong những năm đầu hoạt động, người ta thường kỳ vọng phát sinh lỗ
lớn do những khoản nợ không được hoàn trả, bởi sự hiểu biết kém cỏi về tình hình địa
phương.21

IV. Những thể chế để ứng phó

Có muôn vàn thể chế đã được phát sinh để trung hoà ảnh hưởng của tình trạng không
chắc chắn về chất lượng. Một thể chế rõ rệt là việc bảo hành. Phần lớn những mặt
hàng tiêu dùng lâu bền đều có điều khoản bảo hành để bảo đảm cho người mua về
một số chất lượng kỳ vọng thông thường. Một kết quả tự nhiên của mô hình của
chúng ta là rủi ro sẽ được gánh chịu bởi người bán chứ không phải người mua.

Ví dụ thứ hai về một thể chế nhằm trung hoà ảnh hưởng của tình trạng không
chắc chắn về chất lượng là hàng hoá có thương hiệu (hàng hiệu). Thương hiệu không
chỉ thể hiện chất lượng mà còn trao cho người tiêu dùng một phương tiện để trả đũa
nếu chất lượng không đáp ứng đúng kỳ vọng, vì khi đó người tiêu dùng có thể cắt
giảm việc mua hàng của mình trong tương lai. Thông thường, những sản phẩm mới
cũng gắn liền với những thương hiệu lâu đời. Điều này bảo đảm cho những người tiêu
dùng tương lai về chất lượng của sản phẩm.

Chuỗi – ví dụ như chuỗi khách sạn hay chuỗi nhà hàng – cũng tương tự như
thương hiệu. Một quan sát thực tế nhất quán với phương pháp của chúng tôi là chuỗi
nhà hàng. Những nhà hàng này, chí ít là ở Hoa Kỳ, thường xuất hiện trên các xa lộ
xuyên đô thị. Khách hàng hiếm khi là người địa phương. Lý do là vì những chuỗi nhà
hàng nổi tiếng này phục vụ món hamberger ngon hơn một nhà hàng địa phương bình
quân; trong khi đó, khách hàng địa phương, những người biết rõ địa phương của
mình, có thể dễ dàng chọn một nơi mà mình ưa thích hơn.

Việc cấp giấy chứng nhận hay giấy phép cũng làm giảm tình trạng không chắc
chắn về chất lượng. Ví dụ, bác sĩ, luật sư hay thợ cắt tóc cũng phải được cấp giấy
phép hay giấy chứng nhận hành nghề. Hầu hết những người lao động có tay nghề hay

19
Darling, tài liệu đã dẫn, trang 204.
20
B. Ward, “Thu hoạch tín dụng hay tiền mặt”, Phát triển kinh tế và thay đổi văn hoá, tập 8, (tháng 1
năm 1960), in lại trong Peasant Society: A Reader, hiệu đính bởi G. Foster và những người khác
(Boston: Little Brown and Company, 1967). Trích dẫn trong trang 142. Đồng thời trong tập này cũng
nên tìm đọc tài liệu của G. W. Skinner, “Tiếp thị và cơ cấu xã hội ở nông thôn Trung Quốc”. và S.W.
Mints, “Pratick: các mối quan hệ kinh tế cá nhân của người Haiti.”
21
Trao đổi cá nhân với giám đốc nhà máy, tháng 4-1968.
George A. Akerlof 12 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giaûng daïy Kinh tế Fulbright Kinh tế học vi mô Thị trường hàng hoá đã qua sử dụng:
Nieân khoaù 2005-2006 Bài đọc Tình trạng không chắc chắn về chất
lượng và cơ chế thị trường

có kỹ năng đều phải có giấy chứng nhận để biểu thị họ đã đạt được một mức độ thành
thạo nhất định. Bằng tốt nghiệp phổ thông, bằng tú tài, bằng tiến sĩ, ngay cả giải
Nobel, trong chừng mực nào đó, cũng phục vụ cho chức năng chứng nhận này. Và
chính bản thân nền giáo dục cũng như thị trường lao động cũng có những “thương
hiệu” riêng.

V. Kết luận

Chúng ta đã thảo luận những mô hình kinh tế trong đó “sự tín nhiệm” có ý nghĩa quan
trọng. Sự bảo đảm phi chính thức không bằng văn bản là tiền đề cho thương mại và
sản xuất. Ở nơi nào mà sự bảo đảm này không được rõ ràng dứt khoát, thì hoạt động
kinh doanh phải gánh chịu tổn thất – như được biểu thị qua qui luật Gresham khái
quát hoá của chúng ta. Tình trạng không chắc chắn đã được các nhà nghiên cứu lý
thuyết trò chơi tìm hiểu, như trong Thế lưỡng nan của tù nhân, nhưng thường không
được đưa vào phương pháp tiếp cận tình trạng không chắc chắn có tính chất truyền
thống hơn của Arrow-Debreu.22 Nhưng sự khó khăn của việc phân biệt hàng hoá chất
lượng tốt so với hàng hoá chất lượng xấu tồn tại cố hữu trong thế giới kinh doanh; quả
thật điều này có thể giải thích cho lý do xuất hiện các thể chế kinh tế và đó có thể là
một trong những lĩnh vực quan trọng hơn của tình trạng không chắc chắn trên thực tế.

Trường Đại học California, Berkeley


Viện Thống kê Ấn Độ - Phòng kế hoạch, New Delhi

22
R. Radner, “Équilibre de Marchés à Terme et au Comptant en Casd’Incertitude,” trong Cahiers
d’Econometrie, tập 12 (tháng 11-1967), Centre National de la Recherche Scientifique, Paris.
George A. Akerlof 13 Translator: Kim Chi
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh

You might also like