You are on page 1of 105

Nh÷ng bµi v¨n chän läc – V¨n 10 – P2

Tìm hiểu bài "Độc Tiểu Thanh ký" (Nguyễn Du)

Bài liên quan:

Tác giả Nguyễn Du

Thơ Nguyễn Du: Long thành cầm giả ca

I.ĐẶT VẤN ĐỀ:

1. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và
nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII –
nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều”
mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.

2. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể
hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con
người – nạn nhân của chế độ phong kiến.

3. Trong đó, Đọc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác
đưọc nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng
Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo
cao cả của nhà thơ.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

A. Định hướng phân tích:

1. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký”


của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách
Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả
ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng
sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên
đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần

1
dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm
thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.

2. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn
khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn
Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về
một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực
chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.

B. Chi tiết:

1. Hai câu đề: Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc
hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với
tiếng lòng của Tiểu Thanh :

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư


Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi
phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du
không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi
của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của
cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng
trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc
sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ –
một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng
trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò
hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến
thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm
“bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện
tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót
ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.

b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với
dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc
điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất

2
chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh
300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng
thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể
hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy
cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh,
“điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là
tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm
vào trong hồn nhà thơ.

2. Hai câu thực:

Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng
ngậm ngùi trong hai câu đề :

Chi phấn hữu thần liên tử hậu


Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

a) Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương”
để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần
của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan
niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh
anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai
câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu
Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và
văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.

b) Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô
giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người
như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm
xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người
qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh
xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người
đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng
phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ
bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn
của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng

3
thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy
cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn
với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như
thế, huống chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của
thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của
Nguyễn Du.

3. Hai câu luận:

Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành


cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :

Cổ kim hận sự thiên nan vấn


Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà
còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí
“kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời
nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du
còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ
– những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao
người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc
của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp
ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ
phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với
thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn
Du.

b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm


thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự
cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì
nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của
Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa
nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.

c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã

4
từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã
từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là
mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi
văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu
sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu
Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế.
Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc
bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người
đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của
riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời
bấy giờ.

4. Hai câu kết:

Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :

Bất tri tam bách dư niên hậu


Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)

a) Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt
lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa
nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải
tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm
đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm.
Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu
hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng
tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất
Nguyên – “người đời say cả một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn
Du hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn
năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”)

b) Nhà thơ tự thể hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không
phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi
lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn
của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc ngưòi xưa, nhà thơ tự
khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng

5
hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng
khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần
của những ngưòi tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám
của một xã hội rẻ rúng tài năng.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

1. Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn
còn lưu giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân
thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất
phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân
tộc.

2. Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời
đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng
dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam.
Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang
nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta
vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi
buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế
tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần
nhân bản dân tộc ấy :

Hỡi Người xưa của ta nay


Khúc vui xin lại so dây cùng Người

Đề bài: “Em hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu
nhất”

Bài làm:

Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để
chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao
giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa?
Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh

6
chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi,
hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi
ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này.

Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác.
Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong
sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa
chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh
tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại
xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe
mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ.

Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay:
Thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là
một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng
lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn
mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm
mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy
nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình.Gia đình
tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc
vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm
đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố
gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi
người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động
của mình từ nghề xe lai.

Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt
trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong
sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình
thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ
có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sốc thì
những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát.

Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng


to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay những ngày mưa ngâu rả
rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh
giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong
khách qua đường. Tôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi

7
người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu
thương, chịu khó như vậy.

Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như
vậy thì khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố.
Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà
bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố
như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố
ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình
thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay
biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được
vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không?

Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ
muốn với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy
sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được
tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc
chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm.

Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới
những chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn
học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng
tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ
học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày
dạy cho mấy chị em học bài.

Trong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống,
cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc
hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh
ngôn nổi tiếng…

Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm
một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng
dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi
trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi
một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn,
chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ
luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để

8
noi theo.

Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang,
là một người cao cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn
bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố. Mặc dù những thời
gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và
chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh
tươi.

Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào
mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang
trên mình một cái lá héo nào? Những cây hoa lan, hoa nhài
có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó
luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không những
yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật.

Tuy nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo
và có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim đẹp nữa.
Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với
bệnh tật, tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng
điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố
luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể
làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn.

Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia
đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì
bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế
giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được
gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và
đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai
nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa.

Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình
không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng
cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là
trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những
gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình
hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình,

9
tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố
luôn là người yêu thương nhất của chúng ta.

Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn


bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố
hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn
thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng
mà bố đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ
trong lòng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho
con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của
mình.

Nguyễn Thị Hậu


(Lớp 10A2, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, TP Vinh, Nghệ
An)
__________________
Bản chất của thành công (bài văn hay lớp 10)

Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc


đời mình theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong
công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói
khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu
sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút
thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn
có những người đạt được thành công theo một cách giản dị
đến bất ngờ.

Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp,
nấu những món ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có
thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại
ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn
cười. Bởi vì hai bố con không thể thành công trên “chiến
trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá
hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món
quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.

Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân,

10
không bao giờ đi lại bình thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi
ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ
luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng
nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó
không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu
bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng
hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công
ấy, liệu có mấy người đạt được?

Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết
mình trở thành “tử sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng
cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra
không phải là thất bại, chỉ là khi thành công - bị - trì - hoãn
mà thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan
trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là ý
nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của
thành công.

Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động.
Truyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ - người
phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người
mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn
nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại
là người mẹ - người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành
trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại.
Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó
chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà
ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng
hơn thế?

Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò
nghèo thi đậu đại học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là
một thành công lớn. Nhưng có một thành công khác, lặng
thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần
20 năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi
vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ.
Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá -
học - của - một- người – cha.

11
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại
ưu gần hai mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể
gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và danh vọng.
Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ
hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một
người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây
giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi
rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là
một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước
mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ,
và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.

Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo
đuổi thành công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu
có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp
đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin
bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người
hiểu được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có
tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.

Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như
đến với Abramovich – ông chủ của đội bóng toàn những ngôi
sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian
chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận
được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không
nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công đến
với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!

Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và
mẹ. Trách nhiệm của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn
thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc
sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người
Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là
cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”. Còn đối với tôi,
thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ
chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ
của mình vào trang viết, với tôi, đó là một thành công.

12
Đây là một bài văn rất hay của Hà Minh Ngọc , bài văn này
một thời đã làm xôn xao dư luận Việt Nam

Tìm hiểu Truyện An Dương Vương và Mị Châu -Trọng


Thuỷ
Tìm hiểu Truyện An Dương Vương và Mị Châu -Trọng
Thuỷ

Mục đích :
- Nắm được đặc trưng thể truyền thuyết : lịch sử gắn với
tưởng tượng , thể hiện quan điểm của nhân dân .
- Nắm được bài học lịch sử từ bi kịch mất nước , bi kịch tình
yêu .

I.Tìm hiểu chung

- Thể truyền thuyết : là loại truyện dân gian , kể về các sự


kiện , nhân vật lịch sử , thể hiện nhận thức , quan điểm của
nhân dân về lịch sử . đặc điểm nổi bật của thể truyền thuyết
: có sự hoà quyện giữa tưởng tượng và lịch sử , không chú
trọng đến tính chân thực , xây dựng những hình tượng độc
đáo .

- Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ :

+ Xuất xứ : Trích trong truyện “ Rùa vàng” , in trong quyển


“ Lĩnh Nam chích quái” ( thế kỉ 15 )

+ Bố cục : 2 phần : An Dương Vương là vua Âu Lạc xây


thành , chế nỏ , giữ nước thành công và Bi kịch tình yêu của
Mị Châu gắn liền bi kịch mất nước của An Dương Vương .

- Tóm tắt :

An Dương Vương xây thành Cổ Loa , xây mãi vẫn đổ , nhờ

13
có Rùa Vàng giúp mới xây xong . Rùa cho nhà vua lẫy nỏ ,
nhờ đó mà đánh bại quân xâm lược Triệu Đà . Triệu Đà cầu
hoà , cho con trai Trọng Thuỷ sang kết thân với Mị Châu ,
con gái An Dương Vương và ở rể trong thành Cổ Loa . Trọng
Thuỷ ăn cắp lẫy nỏ , Triệu Đà liền cử quân sang tái xâm lược
Âu Lạc . An Dương Vương thua trận , đem theo Mị Châu
chạy trốn . Đến bờ biển , Rùa Vàng hiện lên kết tội Mị Châu ,
vua chém đầu con gái rồi đi xuống biển . Trọng Thuỷ tiếc Mị
Châu , tự vẫn ở giếng trong thành . Mị Châu chết , máu
thành ngọc trai , xác thành ngọc thạch , ngọc đem rửa nước
giếng trong thành thì sáng hơn .

- Chủ đề : Truyện đưa ra bài học giữ nước và bài học mất
nước của An Dương Vương đồng thời bộc lộ thái độ với các
nhân vật liên quan .

II. Tìm hiểu chi tiết .


1. Nhân vật An Dương Vương
a. Trong quá trình giữ nước .

- An Dương Vương trong những năm đầu đã làm được những


việc trọng đại , thu được những thành công to lớn : chuyển
đô từ miền núi về đồng bằng , xây được thành cao hào sâu ,
chế được nỏ tốt , chiến thắng Triệu Đà , bảo vệ độc lập chủ
quyền đất nước .

- Nguyên nhân thành công :

+ do An Dương Vương kiên trì , quyết tâm , không nản chí


trước khó khăn , thất bại tạm thời .

+ do An Dương Vương thành tâm cầu tài : lập đàn cầu .

+ do ADV được sự sự ủng hộ của nhân◊trợ giúp của cả


người và thần linh ( cụ già và Rùa vàng ) dân .

+ vua có tinh thần cảnh giác cao , có sự lo tính , chuẩn bị

14
sẵn sàng đối phó với nguy cơ xâm lược của kẻ thù ( xây
thành , chế nỏ ) .

=> Nhận xét : ADV là vị vua anh hùng , thủ lĩnh sáng suốt
của người Âu Lạc , có trách nhiệm , tinh thần cảnh giác cao
độ .

- Thái độ của nhân dân : tôn vinh, ngưỡng mộ ADV . Hình


ảnh Rùa Vàng và nỏ thần mà nhân dân sáng tạo ra chính là
sự kỳ ảo hoá , thần thánh hoá , bất tử hoá sự nghiệp dựng ,
giữ nước chính nghĩa , hợp lòng dân của ADV . Nỏ thần là sự
kỳ ảo hoá vũ khí tinh xảo của người Việt xưa .

b. Trong quá trình mất nước .

- Nguyên nhân mất nước :

+ do ADV lơ là cảnh giác , không nhận ra dã tâm nham hiểm


của Triệu Đà .

+ Vua liên tiếp mắc sai lầm : nhận lời cầu thân của Triệu
Đà , cho phép Trọng Thuỷ ở rể trong thành mà không chút
đề phòng , dạy dỗ con gái không nghiêm , lơ là trong việc
phòng thủ bảo vệ nước , chủ quan khinh địch , sớm có mong
muốn hưởng nhàn .

=> Nhận xét : ADV đã tự đánh mất mình , tự mãn , thiếu


sáng suốt , cảnh giác , không hiểu bản chất nham hiểm của
kẻ thù nên chuốc thất bại thảm hại . Ông thua là thua ở mưu
kế hiểm độc , do bị phá ngầm bên trong chứ không phải
thua do kém binh kém tướng .

- Kết cục của ADV : Nhà vua rơi vào bi kịch nước mất nhà
tan . Ông chỉ tỉnh ngộ khi thành đã mất , lâm vào bước
đường cùng , phía sau lưng là giặc , phía trước mặt là biển
khơi mênh mông , không lối thoát ; tự tay ông phải chém
đầu con gái yêu và kết thúc cuộc đời mình . Đó là hành động
trừng phạt nghiêm khắc , đích đáng , đau đớn , đầy bi kịch .

15
- Thái độ của nhân dân với ADV :

+ một mặt nêu ra bài học đắt giá cho người thủ lĩnh mất
cảnh giác , để mất nước một cách bi thảm . Đó là sự trừng
phạt nghiêm khắc của lịch sử .

+ mặt khác nhân dân vẫn kính trọng những việc ông đã làm
cho đất nước nên đã giảm nhẹ tội cho ông bằng cách sáng
tạo ra lỗi lầm của Mị Châu và để ông cầm sừng tê đi xuống
lòng biển về với Lạc Long Quân bất tử .

+ cách hoá thân của An Dương Vương có ý nghĩa răn dạy vô


cùng sâu sắc nếu so sánh với cách hoá thân của Thánh
Gióng . Thánh Gióng có công cứu nước , khi hoá thì bay lên
trời khiến người đời sau nhớ đến thì ngước nhìn lên ngưỡng
vọng . ADV mang tội đánh mất nước , có cách hoá đi xuống
lòng biển khiến người đời sau khi nhớ đến ông phải cúi nhìn
sâu vào mà luôn cảnh giác với chính bản thân mình .

2. Mối tình Mị Châu-Trọng Thuỷ .


a. Mị Châu .

- Có vị trí cao trong đất nước lẽ ra phải ý thức sâu sắc được
trách nhiệm cá nhân của mình với đất nước nhưng lại chỉ
biết đắm chìm trong hạnh phúc lứa đôi cá nhân .

- Nàng ngây thơ cả tin đến mức sử dụng bí mật quốc gia cho
tình riêng , để bảo vật giữ nước bị đánh tráo mà không hay
biết .

- Khi nước đã mất vào tay Triệu Đà , trên đường chạy trốn ,
vẫn ngây thơ đánh dấu đường cho chồng , để nên nỗi hai
cha con bị dồn vào đường cùng không lói thoát .

- Hậu quả của sự ngây thơ , thiếu ý thức trách nhiệm : Mị


Châu bị kết đây là sự trừng tội là giặc , tình yêu , niềm tin
tan vỡ , bị vua cha chặt đầu phạt nghiêm khắc của lịch sử .

16
Mị Châu phải trả giá đắt cho tội lỗi của mình .

- Thái độ của nhân dân với Mị Châu :

+ một mặt đưa ra bản án nghiêm khắc , đích đáng trừng trị
tội lỗi của nàng . Từ bi kịch của Mị Châu , nhân dân muốn
nhắc nhở con cháu , đặc biệt là thế hệ trẻ cần có thái độ
đúng đắn trong việc giả quyết mối quan hệ giữa nước và nhà
, chung và riêng .

+ một mặt thương cho nàng , bao dung cho nàng vì nàng có
tâm hồn trong sáng , phạm tội do vô tình chứ khong phải cố
ý . Vì vậy , nhân dân đã sáng tạo ra lời khấn linh nghiệm của
Mị Châu : máu biến thành ngọc trai , xác biến thành ngọc
thạch .

b. Nhân vật Trọng Thuỷ .

- Là nhân vật truyền thuyết khá phức tạp , có nhiều mâu


thuẫn .

+ trong thời kỳ đầu , Trọng Thuỷ đóng vai trò gián điệp ,
theo lệnh vua cha sang dò la bí mật quốc gia của Âu Lạc ,
đánh cắp lãy nỏ .

+ trong quá trình sống chung với Mị Châu , có thể Trọng


Thuỷ đã yêu nàng thực sự . Câu nói trước lúc chia tay MC về
nước phàn nào thể hiện chân tình , sự lo lắng của Trọng
Thuỷ về sự tan vỡ của hạnh phúc . Khi Mị Châu chết , Trọng
Thuỷ ôm xác vợ khóc lóc , sau đó thì tự tử .

- cái chết của Trọng Thuỷ : cho thấy sự bế tắc , sự ân hận


muộn màng của y . Trọng Thuỷ vừa là kẻ thù của nhân dân
Âu Lạc vừa là nạn nhân trong tham vọng bá quyền của Triệu
Đà . Trọng Thuỷ bị kẹt giữa 2 tham vọng quyền lực và hạnh
phúc lứa đôi . Hai tham vọng đó không dung hoà được với
nhau , tạo nên mâu thuẫn không thể giải quyết trong chính

17
con người Trọng Thuỷ , do đó ,y chỉ còn mỗi cách kết liễu
cuộc đời vì bế tắc .

- Thái độ nhân dân với Trọng Thuỷ :

+ một mặt nhân dân ta vẫn kết tội cướp nước của Trọng
Thuỷ , cái chết vì mâu thuẫn giằng xé là cái giá hắn phải
trả .

+ mặt khác , nhân dân ta vẫn bao dung vì dù sao Trọng


Thuỷ đã hối lỗi và phải trả giá , nên đã sáng tạo ra chi tiết
ngọc trai biển Đông nơi Mị Châu chết sẽ sáng hơn nếu đem
vào rửa nước giếng nơi Trọng Thuỷ tự vẫn thể hiện , đó coi
như sự tha thứ của Mị Châu cho hắn .

III. Tổng kết .

- Truyện nêu ra bài học sâu sắc , thấm thía về ý thức cảnh
giác trong dựng , giữ nước , bài học về cách xử lý mối quan
hệ giữa nước và nhà .

- Truyện có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố thần kỳ và cốt lõi
lịch sử , sáng tạo nhân vật giàu tính tư tưởng , sử dụng
nhiều hình ảnh ấn tượng .

( Sưu tầm )

Tìm hiểu về Ca dao


Ca dao than thân , yêu thương tình nghĩa

Bài liên quan : Tìm hiểu về Ca dao than thân, yêu


thương tình nghĩa

Ca dao ra đời từ ngàn xưa, gắn với cuộc sống trăm đắng
ngàn cay nhưng đậm tình nặng nghĩa. Những câu hát phản
chiếu đời sống tâm hồn, đời sống tình cảm của người bình

18
dân, chứa đựng những đạo lí dân gian sâu sắc.

Những đề tài ca dao bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao


động sản xuất và những sinh hoạt đời thường, từ những
rung động tinh tế trước thiên nhiên, từ đời sống thuần hậu
chất phác của người lao động. Chính vì thế, những hình ảnh
ca dao mộc mạc nhưng mang theo bao hơi thở tâm tình,
những nỗi niềm thân phận. Toát lên từ những lời ca là ý
thức về phẩm giá, nhân cách, là những tình cảm thương nhớ
đợi chờ, là khát vọng được sẻ chia, là ước ao về cuộc sống
thủy chung mặn nồng.

Ta hãy nghe những lời tình tự trong mô-tip thân em quen


thuộc của ca dao:

Thân em như tấm lụa đào


Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Không ngẫu nhiên đâu, khi những ví von về người phụ nữa
lại gắn với hình ảnh “tấm lụa đào” gợi cảm, vừa mềm mại
dịu dàng như bản tính cố hữu của người phụ nữ, vừa tươi
tắn sắc đào tươi như sức sống mãnh liệt của tâm hồn. Thế
nhưng tấm lụa cao quí ấy đã trở thành món hàng trao đổi –
phất phơ giữa chợ. Thân phận người phụ nữ ngày xưa là
thế, mỏng manh, phụ thuộc không biết đi đâu về đâu giữa
dòng đời trong đục khó phân. Bởi thế, lời ca dao như một
tiếng than, ngậm ngùi trong câu hỏi vọng lên biết vào tay
ai? Dẫu phải rơi vào những nghịch cảnh như vậy, những lời
ca về thân em vẫn toát lên một niềm kiêu hãnh về phẩm
giá:

Thân em như củ ấu gai


Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Trong lời ca dao này, chứa đựng cái nhìn dân gian quanh
việc đánh giá hình thức - nội dung, hiện tượng - bản chất

19
qua một so sánh trực quan với củ ấu gai nhỏ bé. Vẫn là cách
nói nhún nhường thân em, nhưng kín đáo bộc lộ vẻ đẹp
“ruột trong thì trắng” đối lập với vẻ bề ngoài đen đủi xấu xí.
Lời nhắn nhủ “ai ơi nếm thử mà xem” vừa như trách móc,
vừa như thiết tha mong mỏi ai ơi kia sẽ đến với nhau vì cái
“ngọt bùi” nồng nàn tình nghĩa. Không chỉ là tiếng nói tỏ
bày tấm lòng, bài ca dao còn ẩn chứa nỗi niềm cay đắng
thân phận, bởi lẽ người đời đôi khi lại phũ phàng thờ ơ với
những vẻ đẹp thực chất mà đuổi theo cái hào nhoáng bề
ngoài. Bởi thế, những tâm tình cất lên như một sự cảnh
tỉnh, một lời nhắc nhở con người đến với nhau bằng tấm
lòng.

Ca dao có khả năng chắt lọc nghệ thuật sống từ chính


những cái cụ thể gần gũi trong đời sống hàng ngày để tạo
ra những liên tưởng gắn với thế giới tâm hồn phong phú tinh
tế, với những tình cảm phức tạp của con người. Một vị khế
chua mang theo bao xót xa cho tình duyên không trọn vẹn.
Những nghịch cảnh bất công trong cuộc đời cũ luôn là lực
cản khiến cho đôi lứa phải chia lìa. Trong những trái ngang
ấy, lời ca dao cất lên bao thiết tha nhung nhớ:

… Mặt trăng sánh với mặt trời


Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi! có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời

Tâm sự “mình –ta” biết bao quyến luyến! Mô-tip mình - ta


bao giờ cũng đọng lại những ân tình sâu nặng trong đời
sống tình cảm của người bình dân. Tình yêu đôi lứa được
sánh với ánh sáng mặt trăng, mặt trời, đặc biệt là các liên
tưởng gắn với sao Hôm sao Mai –tuy hai mà một thật khắng
khít. Từ đó hướng tới những giá trị cao cả bất tử của tình
nghĩa dành cho nhau. Và cũng thật thú vị biết bao khi ánh
sao kia lại biến thành “sao Vượt” băng qua bao trở lực đón
nhận tình cảm nồng nàn. Ca dao đã diễn tả nỗi lòng hướng
về nhau thật tinh tế:

20
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…

Ta nghe như có bao dùng dằng thương nhớ trong từng lời
nồng nàn. Khăn thương nhớ ai, đèn thương nhớ ai… từng
động tác, từng cái nhìn như mang theo cái bồn chồn lo lắng
cho duyên tình trắc trở. Nhịp thơ dàn trải, mong manh. Có
thể hình dung ra từng cử chỉ, từng động tác dồn nén nhớ
thương. Lời ca dao gợi lên bao suy ngẫm về hoàn cảnh trớ
trêu của người phụ nữ không tự định đoạt được duyên tình
của mình. Bức tranh tâm trạng ấy vừa được tạo nên bằng
những hình ảnh nối kết khăn – đèn – mắt, vừa là điệp khúc
tâm trạng đầy day dứt “… thương nhớ ai” – hàm chứa trách
móc giận hờn . Khoảnh khắc người con gái đối diện chính
mình cũng là lúc ta nhận ra chiều sâu tâm hồn đằm thắm
thủy chung, nhận ra nỗi lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò.
Bài ca dao này cũng như một lời ca dao tương tự : đêm qua
ra đứng bờ ao/ trông cá cá lặn trông sao sao mờ…. Mỗi vật
được nhắc đến như chứa đựng trong đó cả tấm tình hướng
về nhau. Nhịp lục bát khép lại tâm tư trĩu nặng:

Đêm qua em những lo phiền


Lo vì một nỗi không yên mọi bề

Lời ca dao kín đáo như oán như than, hé mở bao bất công
ngang trái, trắc trở tình duyên. Không gian cảnh vật như
chứa đựng nỗi niềm con người, thành tâm trạng cất lên lời
nhắn nhủ tha thiết. Nhưng có thể thấy cùng với niềm tin son
sắt, tình cảm nhớ nhung, không bao giờ ca dao lại đem đến
cảm giác ủy mị yếu đuối mà luôn đau đáu một tấm òng
chung thủy.

Ngay trong những hoàn cảnh đắng cay chua xót, trong sự
cách xa chia lìa, tấm lòng người bình dân dành cho nhau
thật bền bỉ:

21
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Có xa nhau đi nữa ba vạn chín nghìn ngày mới xa

Hình tượng “muối mặn – gừng cay” từ lâu đã gắn với cuộc
sống bình dị của người dân quê: “Tay bưng đĩa muối chấm
gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Cái mặn
nồng của ân tình, cái cay cực cùng nếm trải đã kết lại những
tấm lòng. Thời gian dù có cách xa, vị đời có thể nhạt nhẽo,
nhưng những ân tình đã thành gừng cay muối mặn thì
không có một trở lực nào có thể làm lạt phai. Ân tình ấy
được đo bằng thời gian đời người ba vạn chín nghìn ngày –
trăm năm, đã trở thành lẽ sống đậm đà tình nghĩa thủy
chung của dân tộc. Thật cụ thể và sâu sắc biết bao những
lời lẽ mộc mạc mà chắc nịch chi li như vậy, Tình yêu, lòng
chung thủy đã gắn kết nên đôi lứa, giúp con người vượt qua
qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Độ nồng nàn của tình cảm,
sức mạnh của tình yêu vượt lên cả cái chết.

Tình nghĩa trong ca dao phong phú , tinh tế và sâu sắc, trở
thành nền tảng đạo lý và vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc. Mỗi
lời ca dao mang theo bao tâm tư, khát vọng, giúp con người
vượt lên nghịch cảnh, sống với nhau trọn vẹn nghĩa tình.
Cũng nhờ vậy, những vẻ đẹp cuộc đời đi vào ca dao đáng
yêu, đáng quí biết bao. Sức sống ca dao mãi mãi trường tồn
cùng dân tộc, gắn với vẻ đẹp của những tâm hồn nhân hậu,
cao cả, trong sáng của người bình dân.

Bài ca dao Khăn thương nhớ ai

Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, 1


cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam
.

22
Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của 1 cô gái. Nhớ
thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn cào gan ruột mà
không dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt
mình. Những câu hỏi không có câu trả lời càng nén chặt nỗi
thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hạnh
phúc:

Đêm qua em những lo phiền


Lo vì một nỗi ko yên một bề

Mở đầu, chiếc khăn đc hỏi đến đầu tiên và đc hỏi nhiều


nhất:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt

Chiếc khăn thường là vật trao duyên, vật kỷ niệm gơi nhớ
người yêu. Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy
lại 6 lần từ "khăn" ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần
câu "khăn thương nhớ ai" như 1 điệp khúc bất tận, thể hiện
nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là nỗi
nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó không biết " thương
nhớ", không biết tự "rơi xuống", "vắt lên", " chùi nước mắt",
nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người đã
hiện lên hình ảnh con người với tâm trạng ngổn ngang niềm
thương nhớ cùng nỗi lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ tỏa
theo chiều hướng của ko gian (" khăn rơi xuống đất rồi lại "
khăn vắt lên vai"), cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm
("khăn chùi nước mắt").

Nỗi nhớ trong 6 câu lan tỏa vào không gian, đến 4 câu tiếp
lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi nhớ ban ngày kéo dài
sang cả ban đêm:

23
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn chẳng tắt

Vẫn là điệp khúc "thương nhớ ai", nhưng nỗi nhớ đã chuyển
từ " khăn" sang "đèn". Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya
vò võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là
hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn
mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng
như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.

Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn
cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hoá.
Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực
tiếp:

Mắt thương nhớ ai


Mắt ngủ không yên

Thuơng nhớ đến ko ngủ đc, cứ trằn trọc thao thức là cách
thức biểu lộ quen thuộc trong ca dao:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường,


Trông cho mau sáng ra đường gặp anh"

Tuy nhiên, cũng là 1 tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này,
hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. "Mắt ngủ
không yên" tạo nên 1 đối xứng rất đẹp với "đèn chẳng tắt" ở
trên, gợi lên 1 khung cảnh rất thực: cô gái giữa đêm khuya
1 mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì "mắt
ngủ chẳng yên" nên "đèn không tắt". Nói đèn cũng chỉ là nói
người mà thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy
nỗi nhớ thương vời vợi không nguôi.

Mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc "
thương nhớ ai" trở đi trở lại như xoáy vào 1 nỗi niềm khắc
khoải, da diết. Năm lần " thương nhớ" và 5 lần từ " ai" xuất
hiện. Bản thân từ "ai" mang ý phiếm chỉ, gợi lên 1 nỗi nhớ

24
thương sâu thẳm mênh mông, không giới hạn. Từ "ai"
không xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn
toàn hiểu được "ai" ấy là ai. Hỏi không có trả lời, nhưng thực
câu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia.
Không cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã được bộc lộ 1
cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt.

Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc. Vần chân và vần
lưng xen kẽ nhau (ai-ai,mắt-tắt), vần bằng vần trắc luân
phiên, tất cả tạo nên 1 âm điệu luyến láy liên hoàn khiến
cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa nén lại, vừa như kéo dài
ra mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian.
Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc... Nhưng bài
ca phải có điểm dừng. Khi cô giá không hỏi nữa thì niềm
thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền :

Đêm qua em những lo phiền


Lo vì một nỗi không yên một bề

Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp
thơ lục bát nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giãi
bày niềm lo ây của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không
phải ngẫu nhiên mà chữ "lo" được nhắc đền 2 lần. Nhớ
thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình
"không yên một bề", tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa
phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết
nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.

Bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại
trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh
biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình
ảnh, cách gieo vần linh họat, cách cấu tạo truyền thống kết
hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bvát cuối cùng...
Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu đc diễn tả trong bài ca, ta
nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của
ngừơi bình dân xưa.

Một số bài ca dao than thân bắt đầu bằng mô típ "

25
Thân em " :

Thân em như cá trong lờ


Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu

Thân em như cái cọc rào


Một thời anh đổi chớ sao anh phiền.

Thân em như cái quả xoài trên cây


Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc
Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai vô tình rụng xuống, biết vào tay ai ?

Thân em như cánh buồm trước gió


Nay đây mai đó thiệt khổ làm sao
Biết đâu nhơn nghĩa đặng vào gởi thân

Thân em như hạt mưa sa (2)


Hạt sa xuống biển, hạt sa lên rừng.
Hạt sa gặp gió bay tung
Sa đâu ấm đấy oán cùng trách aị

Thân em như hạt mưa sa (3)


Hạt vào đài các hạt ra ngoài đồng.

Thân em như lá từ bi,


Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

Thân em như miếng cau khô


Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày

Thân em như tấm lụa đào (4)


Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai
Đông đào tây liễu lấy ai bạn cùng

Thân em như thể bèo trôi


Sóng dập gió dồi biết tựa vào đâu

26
Thân em như thể cánh bèo
Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôị

Thân em như trái bần trôi,


Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

Thân em vất vả trăm bề


Sớm đi ruộng lúa tối về ruộng dâu
Có lược chẳng kịp chải đầu
Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn

Thân em vừa đẹp vừa giòn


Bước chân đi làm mọn, vô cúi ra lòn khổ thay
Thân gái bến nước mười hai
Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ.

Ca dao hài hước

Bên cạnh mảng ca dao trữ tình, ca dao hài hước cũng phản
chiếu một khía cạnh khác trong tâm hồn của người bình dân
ngày xưa, chứa đựng tinh thần lạc quan, sức sống mạnh mẽ
và tinh thần phản kháng của nhân dân. Không những thế,
tiếng cười trong ca dao cũng chính là những uất ức bất
bình , những thái độ ứng xử , điều chỉnh hành vi , hướng tới
một cuộc sống tốt đẹp công bằng hơn.

Ca dao hài hước chứa đựng cái nhìn, thái độ, tình cảm của
người bình dân trước các hiện tượng đời sống, mối quan hệ
tình cảm giữa người với người. Không những thế tiếng cười
còn là vũ khí tinh thần giúp họ vượt lên bao khó khăn của
đời sống. Tiếng cười trong ca dao phong phú nhiều cung
bậc, có khi là tiếng cười trào lộng dí dỏm, có khi là tiếng
cười chua chát trước sự thật đáng cười đáng chán, cũng có
khi là tiếng cười phản kháng trước thực trạng xã hội còn
nhiều bất công ngang trái.

27
Từ thực tại còn nhiều vất vả cay cực, người bình dân đến với
nhau trong tiếng đùa vui, mượn tiếng cười ngỏ bày tâm tình
một cách ý vị:

Cưới nàng anh toan dẫn voi


Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn…

Chàng trai ngỏ lòng với cô gái bằng lối nói khoa trương để
cho thấy ngay rằng anh đang đùa. Nhưng liệu có phải hoàn
toàn là một lời nói đùa không? Có thể hình dung ra hoàn
cảnh của đôi nam nữ yêu nhau qua bài ca dao : họ sống
nghèo khổ nhưng vô cùng lạc quan. Lời đối đáp có chút tinh
nghịch nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi cho phận nghèo.
Ngôn ngữ phóng đại khoa trương khỏa lấp đi một sự thật
mà người đời quen gọi là “nói khoác” thực ra đã mang một ý
vị chua chát đả phá vào những hủ tục ngăn cách con người
tìm đến với nhau. Chàng trai đã có những lễ vật dẫn cưới
thật sang trọng: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò… nhưng cuối
cùng lại là con chuột béo thật ấn tượng. Lí giải thật hợp tình
hợp lẽ : con voi to đùng kia là hàng quốc cấm – phép nước
luật vua không cho phép, dẫn trâu dẫn bò thì lo họ hàng
nhà gái máu hàn, rút gân – chứng tỏ chàng trai là người
“chu đáo” với đàng gái biết bao! Sợ cho nhà gái hay là một
lời đay nghiến, mỉa mai những người đã nghĩ ra chuyện
thách cưới ác nghiệt khiến cho đôi lứa phải chịu cảnh dở
khóc dở cười. Con chuột béo là một thái độ đáp lại bằng
cách giễu cợt cay chua. Nhưng lời đáp lại của cô gái dù đùa
vui mà lại ẩn chứa một nỗi lòng đáng quí :

Chàng dẫn thế em lấy làm sang


Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang…

Ngầm chứa trong lời đáp là sự động viên chàng trai vững
tâm để đi đến hạnh phúc. Vẫn là thách cưới nhưng chàng
trai hoàn toàn có thể đáp ứng được bằng chính sức lao động
của mình. Cái tinh tế trong lời cô gái vừa là phản ứng trước

28
việc thách cưới phá ngang , vừa là mong mỏi chàng trai là
người cần cù siêng năng xứng đáng với tấm tình của cô.
Không những thế, cô còn đem tới lời nhắn nhủ về sự cần
kiệm: củ to mời làng, củ nhỏ mời họ, và không bỏ sót củ
mẻ, củ rím, củ hà. Lời đáp khéo léo ấy đem lại niềm hy
vọng và lạc quan về hạnh phúc.

Ca dao hài hước còn mang theo những suy ngẫm về thực
trạng xã hội phong kiến vốn dành ưu ái đặc quyền cho nam
giới. Vẫn là mô típ làm trai cho đáng nên trai nhưng không
phải là lời ca ngợi vào khả năng “vá trời lấp bể” mà chỉ là :

Làm trai cho đáng sức trai


Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng

Từ bản chất của những người yêu lao động, người bình dân
phê phán và chế giễu những kẻ lười biếng mà huênh hoang.
Ý nghĩahài hước toát ra từ hình ảnh đối nghịch : sức dài vai
rộng mà lại khom lưng chống gối chỉ để gánh hai hạt vừng.
Động tác kia chẳng khác nào mô phỏng hình ảnh các vị chức
sắc quan lại chỉ giỏi khom lưng luồn cúi, chống gối quì lụy
để tiến thân. Người bình dân chế giễu những kẻ vô tích sự
ấy, mang tiếng là gánh vác sơn hà nhưng thực tế chẳng
khác nào những bọn vô công rỗi nghề ăn bám người khác.
Thật bất hạnh cho những ai vớ phải một ông chồng như thế!
Ca dao cũng sẵn những lời ta thán của những người phụ nữ
:

Chồng người đi ngược về xuôi


Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo

Trong quan hệ gia đình, có lẽ phải gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ
thì người vợ mới có chuyện so sánh chồng mình với chồng
người. Hình ảnh anh chồng thật thảm hại trong tương quan
đi ngược về xuôi với sờ đuôi con mèo. Bất cứ người phụ nữ
nào cũng mong muốn chồng mình giỏi giang cáng đáng việc
quốc gia đại sự hay chí ít cũng là trụ cột gia đình. Còn anh
chồng trong bài ca dao này cứ quẩn quanh xó bếp, nhu

29
nhược hèn kém. Nhưng lời than thở giận hờn ấy không thay
đổi được số phận. Than thở thế thôi, dẫu gì cũng vẫn là
chồng em , vẫn là nghĩa tình duyên nợ với nhau. Đàng sau
lời ca dao ấy là nỗi lòng trĩu nặng, phản chiếu một mong
mỏi chồng mình cũng được bằng anh bằng em, để người vợ
có thể mở mày mở mặt.

Trong ca dao không chỉ có tiếng cười chế giễu mà còn bao
tiếng cười đầm ấm tình thương yêu gắn bó với nhau. Người
bình dân biết cười đời và cũng biết cách cường điệu phóng
đại những tật xấu của mình để tự cười mình. Không phải là
tiếng cười thiên lệch dành cho nam giới mà cả giới nữ cũng
có nhiều cái đáng cười. Điểm đặc biệt là tất cả những sự
lệch chuẩn ấy đã thành cái đáng yêu trong một gia đình
hạnh phúc:

Lỗ mũi em mười tám gánh lông


Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!

Chắc không người phụ nữ nào lại tự lôi ra tất cả những “thói
hư tật xấu” của mình đầy đủ đến thế với một cách nói
phóng đại tô đậm những cái ngược hoàn toàn với chuẩn mực
“Công – Dung – Ngôn – Hạnh” phong kiến. Không hề gò
mình ép khuôn vào một cách sống giả tạo gò bó, điều mong
muốn của người bình dân là có một gia đình hạnh phúc, một
sự thông cảm chia sẻ trong đời sống vợ chồng. Điệp khúc
chồng yêu chồng bảo… không hề che giấu niềm tự hào có
một người chồng tuyệt vời. Có lẽ các triết lí của các học giả
đáng kính cũng rút tỉa ra từ thực tại cuộc sống phong phú
đáng yêu này mà thôi: “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng
thiếu nữ mà ở trong đôi mắt của kẻ tình si” (Kant). Người
chồng yêu vợ như thế quả là hiếm có trong một xã hội vốn

30
khắt khe với những chuẩn mực nặng nề, những qui tắc cứng
nhắc . Không những thế, đó chính là sự điều chỉnh hành vi
của người bình dân bởi lẽ không người phụ nữ nào lại muốn
giữ những nét xấu trong mắt chồng. Cười vui là thế nhưng
cũng có ý nghĩa cảnh tỉnh nhẹ nhàng cho việc giữ gìn hạnh
phúc. Bởi lẽ chồng yêu thì hạnh phúc nhưng chồng ghét thì
là tai họa, là tan vỡ.

Tiếng cười dân gian trong ca dao quả thật đã chứa đựng
nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa. Tiếng cười ấy
phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết
vượt lên hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó
khăn thực tại để lạc quan yêu đời. Tiếng cười ấy là sức sống
tâm hồn khoẻ khoắn của những con người luôn ý thức giá trị
bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.
Tìm hiểu bài Bạch Đằng giang phú
I. Giới thiệu chung

+ Trương Hán Siêu là vị quan thời Trần , tính tình cương trực
học vấn uyên thâm ,vừa có tài về trính trị , vừa có tài về văn
chương . Ông cùng Nguyễn Trung Ngạn theo lệnh của vua
trần Dụ Tông soạn bộ Hoành Triều đại điển ( nói về những
điều lệ quy tắc lớn của triều đại ) và bộ Hình thư ( nói về
pháp luật ) để ban hành cho xã hội.

Tác phẩm của Trương Hán Siêu hiện còn 4 bài thơ và 3 bài
văn , trong đó Bặch Đằng giang phú là tác phẩm đặc sắc của
lịch sử văn học Việt Nam.

+ Bạch Đằng giang phú là tác phẩm xuất sắc của Trương
Hán Siêu , đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học
yêu nước thời Lý - Trần ,một đỉnh cao nghệ thuật của thể
phú trong văn học Việt Nam

+ Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự
hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống
đạo lý nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam .Do
đó,Bặch Đằng giang phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn

31
cao đẹp của việc đè cao vai trò , vị trí của con người trước
lịch sử .

II.Phân tích

1.Sơ lược vài nét về tác phẩm:

- Bặch Đằng là một nhánh của sông Kinh Thầy .Tại đây ,
năm 938 Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán ,giết Lưu
Hoằng Thao ( con vua Nam Hán ), năm 981 Lê Hoàn chiến
thắng quân Tống và năm 1288 , Trần Hưng Đạo đánh tan
quân Nguyên – Mông bắt sống Ô Mã Nhi. Sông Bặch Đằng
thành di thích lịch sử lừng danh và trơ thành nguồn cảm
hứng cho bao tác phẩm nghệ thuật.

- Trương Hán Siêu nhân dịp dạo chơi sông Bạch Đằng đã làm
bài phú này . Chưa rõ bài phú viết năm nào , chỉ ước đoán
sáng tác khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc
Nguyên – Mông thắng lợi.

- Bạch Đằng giang phú được viết theo phú cổ thể , nguyên
tác viết bằng chữ Hán . Cấu tứ của tác phẩm theo hình thức
đối đáp giữa chủ và khách.Khách là người yêu cảnh trí thiên
nhiên ,có thú du ngoạn , tâm hồn khoáng đạt , tâm huyết
với lịch sử dân tộc .Khách tìm đến sông Bạch Đằng không
chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có
chiến công oanh liệt và khát vọng tìm hiểu lịch sử dân tộc ,
noi gương của Tử Trường xưa ( sử gia nổi tiếng Trung Quốc
đời Hán ) .Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà
khách gặp , vừa là dân địa phương , vừa là những người đã
từng chứng kiến , từng tham gia chiến trận .Cũng có thể
nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cât\ú , tác giả
xây dựng lên đẻ dễ dàng bộc lộ cảm xúc , suy nghĩ về đất
nước , dân tộc.

2. Bài phú đã làm sống dậy hào khí chiến thắng của
trận Bạch Đằng:

32
- Cảnh sông Bạch Đằng được khắc hoạ hùng vĩ , hoành tráng
qua cái nhìn của khách

Bát ngát sóng kình muôn dặm,


Thướt tha đuôi trĩ một mầu.
Nước trời:một sắc,
Phong cảnh :ba thu

- Giữa lúc khách đang hồi tưởng về quá khứ thì các bô lão
xuất hiện cho khách nghe về những trận đánh thuỷ chiến đã
xảy ra nơi đây:

Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa , thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Các bô lão đã nhắc lại hai chiến thắng lớn theo dòng hồi
tưởng ,năm 1288 Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã ,kể đến là
chiến thắng của Ngô Quyền năm 938.Bài phú chủ yếu tái
hiện trận đánh năm 1288.

- Lúc đầu ta ra quân trong thế trận giằng co , ngang tài


ngang sức bất phân thắng bại , báo hiệu một cuộc thuỷ
chiến ác liệt:

Thuyền tàu muôn đội,


Tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.

- Kẻ thù xuất hiện với tư thế hung hăng kiêu ngạo , cậy
đông và mạnh có thể quyết sạch cả nước ta :

Kìa:
Tất Liệt thế cường,

33
Lưu Cung chước dối.
Nhưng tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.

- Cuối cùng , quân ta với lòng yêu nước , tinh thần quyết
chiến , ngọn cờ chính nghĩa đã chiến thắng :

Khác nào như khi xưa :


Trận Xích Bích , quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì , giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Nghệ thuật so sánh nhằm đề cao trận thuỷ chiến Bạch Đằng
ngang tầm với những trận oánh liệt nhất trong lịch sử Trung
Quốc.

- Cách miêu tả trận đánh thật tình đã làm sống dậy hào khí
chiến thắng của Bạch Đằng .Lời kể súc tích , ngắn gọn mà
vẫn cụ thể , tỉ mỉ khiến người đọc tưởng như cuộc kháng
chiến đang diễn ra trước mắt , chuyện quá khứ mà như đang
xẩy ra trong hiện tại.Câu văn dài gợi không khí trang
nghiêm , thiêng liêng ; câu văn ngắn gợi không khí gấp
gáp , căng thẳng.

3. Bài phú làm sáng lên những chân lý muôn đời của
dân tộc:

- Trước hết , qua lời kể của các bô lão , bài phú muốn nói
khẳng định vai trò , sức mạnh của con người:

Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc điện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân : có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : có cuốc sĩ họ Hàn.
Kìa trân Bặch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

34
Ta thắng giặc vì ta có thiên thời , địa lợi trời cho nơi hiểm
trở, nhưng điều quyết định là ta có nhân tài.Mượn những
danh nhân và điển tích của Trung Quốc , bài thơ phú nhằm
ca ngợi con ngươi Đại Việt , đặc biệt là Trần Hưng Đạo ,
người có tài mưu lược , phán đoán tình hình, lãnh đạo thắng
lợi cuộc kháng chiến .

- Nếu lời nói của các bô lão khẳng định con người là yếu tố
quyết định thì khách trong lời ca của mình đã bổ sung
thêm , có người tài là cần thiết nhưng quan trọng hơn , đó là
đức cao , tức là có tình nghĩa , đạo lý của dân tộc:

Anh minh hai vị thánh quân,


Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đát hiểm , cốt mình đức cao.

- Cuối cùng , bài phú muốn nêu lên chân lý về sự bất tử của
những anh hùng như dòng sông kia hùng vĩ và bất biến:

Sông Đằng một dải dài ghê,


Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong ,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!

III.Tổng kết

- Bạch Đằng giang phú đạt đỉnh cao về nghệ thuật phú ,
khẳng định niềm tự hào về truyền thống anh hùng , nhân
nghĩa , ca ngợi người tài của dân tộc

- Chân lý mà Bặch Đằng giang phú nêu lên mãi mãi là bài
học về việc giữ nước và dựng nước.

Tìm hiểu bài Cảnh ngày hè


KIẾN THỨC CƠ BẢN

Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn

35
thương đau đều được đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời
gian đời người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản
vô cùng quý giá.

Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia
đã không có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có
văn, lại có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập
thơ chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải
đặc biệt chú ý vị trí vai trò của tập Quốc âm thi tập. Tác
phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được
này, không những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn
học nước nhà mà còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch
sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm những bài thơ viết
rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm thi tập đã giúp người
đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ
bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt
Nam.

Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong
đó phần vô đề gồm toàn bộ những bài thơ không có tựa đề,
được chia thành các nhóm : ngôn chí, mạn thuật, trần tình,
thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính
cảnh giới (Gương báu mình) có 61 bài. Những câu thơ trong
Bảo kính−răn mình - bài 43 luyến láy du cảnh giới dương, có
chút vui điểm vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn
Trãi.

Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài
thơ lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do,
tự nhiên như lời nói thường ngày :

Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường

Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người
an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm
trong một lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh,
trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ
sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với

36
thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì
thế mà câu thơ cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật
để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống
chốn sơn lâm.

Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng,
đạo cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường
cộng hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày.
Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.

Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều
lần ông đã bày tỏ ý nguyện "công thành thân thoái". Nếu
phải viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn
bó rất chân thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức
tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong
bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ
giàu có thì sang trọng :

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương


Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó,
nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thôi.

Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè :
hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã
tiễn mùi hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như
cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện
ngẫu nhiên. Lá hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành
từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu
không còn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này
Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng
của mùa hè :

Dưới trăng quyên đã gọi hè,


Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.

37
Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những
chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm
vào cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết
mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm
chồi nảy lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè
là lúc nó phô diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất
của sự trưởng thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi
chuẩn bị cho sự hoá thân vào mùa đông. Thiên nhiên trong
bài thơ này là thế : dường như nó đang ở trạng thái căng
đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên
tưởng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy.

Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật
của người lao động :

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự
náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no
ấm thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ
là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô
cùng.

Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực -
luận - kết xem ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận
bài thơ này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên
là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là
ước vọng của nhà thơ :

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,


Dân giàu đủ khắp đòi phương.

là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc
lòng ái ưu luôn chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ
gắn với một điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều
đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ
sống theo bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình
mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn

38
(gọi là Ngu cầm). Vua thường hay dạo khúc Nam phong
trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân
chi tài hề" nghĩa là "gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta
thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã không
giấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang
được đủ đầy no ấm.

Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật
Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng
chân thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống
thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người.

Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau
cái vui của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một
cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân.

Trần Thánh Tông (1240 - 1290) cũng có bài thơ Hạ cảnh


(Cảnh mùa hạ) :

Yểu điệu hoa đường, trú cảnh tràng


Hà hoa suy khởi bắc song lương
Viên lâm vũ quá, lục thành ác
Tam lưỡng thuyền thanh náo tịch dương.

Dịch nghĩa :

Cảnh trí ở hoa đường êm dịu, ngày mùa hè lại dài


(Khi ấy) có luồng gió lùa qua cửa sổ phía Bắc, thoảng mùi
hoa sen thơm mát
Khi cơn mưa đã tạnh, cây cỏ trong rừng, trong vườn xanh
tươi um tùm coi như bức màn màu xanh che phủ vậy
(Ngồi ngắm cảnh hoa đường) biết bao vui vẻ, thỉnh thoảng
lại có hai ba tiếng ve sầu du dương như nhịp sáo ở dưới
bóng nắng chiều hôm.

Dịch thơ :

39
Hoa đường êm dịu ngày dài
Gió lùa cửa bắc thoảng mùi hương sen
Tạnh mưa xanh ngát cây vườn
Giọng ve ánh ỏi ngâm rền chiều hôm.
(Vũ Huy Chiểu dịch, Hoàng Việt thi tuyển trích dịch,
Đại học Sư phạm Sài Gòn, 1965)

(Trích Đọc hiểu văn bản ngữ văn 10)

--------------------------

Bài cảm nhận tham khảo :

CẢNH NGÀY HÈ - NGUYỄN TRÃI

Nguyễn Trãi (1380 -1442) là đại thi hào dân tộc, người anh
hùng cứu quốc thuở “Bình Ngô”, danh nhân văn hoá Đại
Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi
đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt
Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ,
được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21
bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Báo kính cảnh
giới (61 bài) .v.v… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi
tập” không có nhan đề. Đây là bài thơ số 43 trong “Bảo kính
cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kinh cảnh giới” hàm chứa
nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà
chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân
tộc. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến v.v… đều có thơ viết
về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu
biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại,
thời Lê, thế kỷ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và
nỗi ước mong của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh
phúc.

40
Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu
thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy
“Hài cỏ dẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô quen cật vận xềnh
xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng
buộc bởi vòng “danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn
ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày
trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, thong
thả, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản
ánh một nếp sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày dài rỗi rãi,
lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có
thể phán đoán Ức Trai viết bài thơ này khi ông đã lui về Côn
Sơn ở ẩn.

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa.
Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh
chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá
hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá
“đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy
sức sống:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

Tán hòe tỏa bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “giương”
lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét
vẽ màu sắc tạo hình gởi tả sức sống của cảnh vật đồng quê
trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp giương. Ngôn
ngữ thơ bình dị, hàm súc và hình tượng.

Cây hòe vốn được trồng nhiều ở làng quê: vừa làm cảnh,
vừa cho bóng mát. Hòe nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm
dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hòe thường
gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hòe”
(chỉ nơi cha mẹ ở ). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút

41
thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ Ức
Trai, hình ảnh cây hòe xuất hiện nhiều lần được miêu tả
bằng một thứ ngôn ngữ trau chuót, đậm đà:

“Có thuở ngày hè trương tán lục,

Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”.

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. Thức tiếng cổ chỉ màu
vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đóa hoa lựu
như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những
tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được dùng rất hình tượng
và thần tình.

“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm
bông” - Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, đến hình ảnh “đầu tường
lửa lựu lập lòe đơm bông” là cả một quá trình sáng tạo ngôn
ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ
“Quốc âm thi tập” đến “Truyện Kiều”. Vẻ đẹp ngôn ngữ thi
ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền
diệu là như thế đó!

Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. “Tiễn” là
ngát (tiếng cổ). Sen hồng nở thắm ao làng, hương thơm tỏa
ngát. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta.
Sen trong ao làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng
quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục. Nguyễn Trãi
đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa
vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ
đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình
quê đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng
cuốc tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng
cười nói “lao xao” của đời thường:

Câu 5,6 :

42
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Sau khi tả hòe màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã
“tiễn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc
nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa
vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân đã đầy muối mặn và
mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao
niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào,
nhộn nhịp. Hòa điệu với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve
vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả
âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa
là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi
lầu buổi xế chiều trở nên náo động rộn ràng. Nhà thơ lấy
tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc
hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một
nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả
một chiều hè nơi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Trở về “Côn sơn quê cũ” Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng
cuốc kêu xuân đã muộn”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong
khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc
hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn
đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã
trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang
xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn
lên bao niềm vui cuộc đời.

Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khẵp đòi phương”.

“Dẽ có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh

43
ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có….”. Ngu cầm là
cây đàn thần của Thuấn (Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời
cổ đại Trung Quốc - triều đại lý tưởng: nhân dân được sống
trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết cảm xúc trữ tình
được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp
của Nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây
đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”,
cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi
phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc
nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được
ấm no và nguyện hy sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc
của dân tộc.

Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng
sáng những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu
kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh
mẽ:

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ


Đêm ngày cuồn cuồn nước triều đông”
(Thuật hứng - số 5)

Bài thơ nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình
mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị
văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu.
Nhiều tiếng cổ cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn.
Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ,
thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa
hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần
nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu
thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống,
một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ
đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói
đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

44
Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) được biết đến nhiều vì
tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời
kỳ Lê-Mạc phân tranh cũng như tài tiên tri các tiến triển của
lịch sử Việt Nam

Tiểu sử

Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng
Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải
Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải
Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ
ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân
mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn
Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh
Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.

Ông khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã
nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền
miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không
quên chữ nào.

Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng
Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ,
thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen
ngợi.

Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất
đầu, lộ diện, đành ở ẩn một nơi. Năm Đại Chính thứ sáu
(1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi
và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang
Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong
tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần
nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.

Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư

45
sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông
là "Tuyết giang Phu tử". Bạn của ông là những tài danh lỗi
lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa
Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên
Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như
Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ
Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc
công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp
Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn
Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ...

Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông
có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng
dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người
được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất
lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng
vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước
Thái phó Trình Quốc công.

Tác phẩm văn chương

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm
văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài
thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch
vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập,
hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ
chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi
tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn
mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý
đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn
dạy đời.

Tiên tri

Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền
cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học,
tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm
quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong

46
cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544),
ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống
như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó
được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc
công.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra
500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền".
Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và
suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra
đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi
là "Sấm Trạng Trình".

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các


nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể
Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là
"khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể
dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được
nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà
Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi
nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao
Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông
và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê -
Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh
Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai
người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói
với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ
là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo,
sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê
Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn
tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự,
còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai
bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn
có câu: "Lê tồn Trịnh tại".

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú

47
đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí:
"Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở".

La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn


Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm
đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài
"Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi xen vào công
việc của tạo hóa).

Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng
Trình và nói rằng danh tiếng Trạng :

Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu


Nghìn năm sau như vẫn một ngày.

Giai thoại
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn
Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước
vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong
quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.

Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ
hát:

"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".

Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại
ngay:

"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".

Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị
bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong
làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).

Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát

"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai

48
vàng".

Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về
tội khi quân nên sửa lại:

"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".

Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh
Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.

Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra


Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở
thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm
vua.

Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài
đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số
làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng
Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.

Tác giả Nguyễn Du


Cuộc đời

Nguyễn Du (1765–1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên ,


biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ , là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê
mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam . Nguyễn Du được xem như là
một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng
gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được
UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng,


tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện
Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà
Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

49
Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng
Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ
đã từng đỗ đạt làm quan.
Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị
giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước
Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại thần, ông
Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học.
Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai. Người
con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến
sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con
bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời,
thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều
đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ
tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi
là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một
người thuộc hạ làm chức câu kế , người xã Hoa Thiều, huyện
Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là
vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà
sinh được năm con, bốn trai và một gái.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc


sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi
cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải
đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản ( khi ấy
ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi ) .

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật
án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm
thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp
Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi,
ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng.
Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo
đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây
sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh
em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi
người phải mỗi ngả .

50
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau
đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ
quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên
đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất,
Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái
Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà .

Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây
Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân
Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo
vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở
về quê vợ , quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà
người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin
ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động
mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ
An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy,
bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật
vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa
Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được
gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung
(nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi
làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:
Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh,
Trung Quốc.

Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.


Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh
sứ đi Trung Quốc.

51
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham
tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi,
Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng
chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch
khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô
Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9
năm 1820 .

Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện


Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về
Tiên Điền (Hà Tĩnh)[7].

Tác phẩm

Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi
bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan
trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với
cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé,
bất hạnh ( Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái
Bình mại ca giả v.v.) . Cái nhìn nhân đạo này khiến ông
được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo
chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”.
Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần
ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”

Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên


bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ
ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở
thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài
làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện
Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải
nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”

Tác phẩm bằng chữ Hán

Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập

52
được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như
sau:

•Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài,
viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà
Nguyễn.

•Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam)
gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những
địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.

•Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang
phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang
Trung Quốc.

Nhận xét về mảng thơ này, Sách Ngữ văn 10 tập 2 ( NXB
GD ) viết:
"Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách
của ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung
tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt
nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về
cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục,
những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được
thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca
ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán
những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong
kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với
những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt
hủi..."(tr. 94)

Tác phẩm bằng chữ Nôm

Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:

• Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt
ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều) , được viết bằng chữ
Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của
truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh

53
Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay
quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của
Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài
sắc.

Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học ghi: Có thuyết cho
rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-
1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào
khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809).
Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn (tr. 1844)
Ngữ văn 10 tập 2 đánh giá: "Trên nền tảng nhân đạo chủ
nghĩa vững chãi, với tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể
loại truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả chất tự sự và chất
trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân
cũng như ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo
nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học trung đại Việt
Nam." (tr.94)

• Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch
nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm
sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có
dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần
báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một
mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non
sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta
đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn
chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở
Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song
thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.

Ngữ văn 10 tập 2 nhận xét: "Nguyễn Du viết bài thơ chiêu
hồn cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người
thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái
của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới
đáy xã hội...Do giá trị nhân đạo sâu sắc mà Văn Chiêu hồn
đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà chùa."
(tr. 95)

54
• Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục
bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ
tình với cô gái phường vải.

• Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối
văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái
phường vải khác.

Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về
sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.

Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì: "Bài Thác lời trai phường
nón rất tình tứ, mang âm hưởng của ca dao, của vè còn đậm
nét. Bài Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, tác giả cũng học tập
ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được nhuần
nhuyễn; nhiều chỗ tác giả tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính
sáng tạo của mình.

Nỗi lòng Nguyễn Du

Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà
nghiên cứu văn học thường dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên
Điền và các tác phẩm của ông (đặc biệt là Truyện Kiều) để
rút ra một số nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay
vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau một
cách sâu sắc.

Trích một số ý kiến:

Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:

"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra


rằng Truyện Kiều chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của
Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ
(hoài Lê). Thuyết trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ
rõ ràng. Thái độ phò Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu
toan chống Tây Sơn. Về sau, bất đắc dĩ phải ra hợp tác với

55
Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo, nếu không nói là lãnh
đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất
khó nói. Nỗi lòng ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ
trong bài Truy điệu cụ Tiên Điền vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.

"Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả
nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng. Nhiều bài thơ chữ Hán của ông
trong Thanh Hiên tập, Bắc hành tập, đầy ý điếu cổ thương
kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong
chính Truyện Kiều tả thân thế người con gái lưu lạc cũng
gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả..." .

Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:

"Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra


khí phách hơn người. Nhưng công việc không thành, nhà
chính trị trẻ tuổi (Nguyễn Du) bỏ về quê, lấy thú chơi săn
bắn ở núi Hồng Lĩnh... "Và như phần đông nho sĩ đương thời,
ông cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới là một trạng
thái “thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông cũng buồn rầu,
ân hận..."

Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:

"Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của
người dồn phải dồn vào thế hàng thần. Như chúng ta đã
biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên đã từng
mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến khi nhà Tây
Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống
lại, nhưng những người như Nguyễn Du vẫn không quên
mình và ông cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải
làm tôi cho Gia Long là một vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng,
một sự tủi nhục..."

Năm 1978, GS. Trương Chính viết:

56
"Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể
giải quyết được một vấn đề trước nay ý kiến rất phân tán:
thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại."

"Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà
(1786) cho đến khi Tây Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn
Du có tính việc phục quốc (phù Lê)." Nhưng những chiến
thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người
có tư tưởng chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi
quan, chán nản."

"Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng
Lĩnh, chí phục quốc vẫn chưa nguôi. Thế là, theo Gia phả,
ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh."

"Và sau này, cũng theo Gia phả thì: Mùa hạ, tháng 6 năm
Nhâm Tuất (1802), vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra
Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón xe yết kiến vua và được
đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm ấy, ông
được bổ tri huyện huyện Phù Dung. "Về điểm này, Đại Nam
chính biên liệt truyện chép hơi khác: Đến khi có lệnh (Gia
Long) gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Ở đây,
chưa bàn Gia phả hay Liệt truyện chép đúng, nhưng cũng
như một số nhà nho đương thời, thái độ của Nguyễn Du đối
với nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là những
cựu thần nhà Lê này vẫn có thể ra phò giúp mà lương tâm
không cắn rứt."

"Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà


thái độ hình như là bất đắc chí. Sách Đại nam chính biên liệt
truyện cho biết Đối với nhà vua thì ông chỉ giữ hết bổn phận,
chứ không hay nói năng điều gì” khiến có khi bị nhà vua quở
trách... "Qua những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm, kể
cả những bài thơ làm trong khi đi sứ, quanh quẩn chỉ bấy
nhiêu ý: ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người cầu
phú quí công danh, nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên
nghĩ, cho đời là một cuộc bể dâu...Nghĩa là Nguyễn Du đã
nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng bị áp bức, đã

57
thấy được cái mục nát, tàn khốc trong triều đình nhà
Nguyễn, cho nên ông đã gửi tâm sự vào hai câu thơ :

Bất tri tam bách dư niên hậu,


Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như."

Và ý kiến của Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới),
xuất bản năm 2004:

"Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu


Thống, và như một số tài liệu nói, ông từng có ý định chống
nhà Tây Sơn; nhưng trong các sáng tác của ông, những thái
độ này rất mờ nhạt. Trong khi những người khác có hàng
tập thơ khóc vua Lê thì ông chỉ ít nhiều rõ nét trong mỗi bài
My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù) và đả kích nhà Tây
Sơn, thì Nguyễn Du không có một bài nào đả kích. Với nhà
Nguyễn, ông được trọng vọng, mà trong thơ ông có cái gì
như chán chường nhà Nguyễn. Cũng giống như Thanh Hiên
thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm, chưa bao giờ Nguyễn
Du nói rõ cái tâm sự thật của mình; rải rác đây đó, trong thơ
chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng chán, là
vô nghĩa, là bãi bể nương dâu.

Trong Bắc hành thi tập, nhà thơ có viết về Thăng Long (2
bài) để nói lên những đổi thay đáng buồn của một đế đô.
Tuy bài thơ toát lên một tình cảm nhớ cổ, thương kim da
diết, mông lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ
nhà Lê được. Còn ở Long thành cầm giả ca, thì bài thơ không
có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây Sơn, mà trái lại, trong khi
thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ
như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của triều đại trên...Thái độ
của ông như thế nào, thật hết sức khó hiểu.

Bởi còn đôi điều khác biệt trên, nên chỉ có thể tạm kết luận:

Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống


đương thời, có thái độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu,
nhưng không sao thoát khỏi buồn phiền vì không giải thích

58
nổi cuộc đời và không biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc
đời đó.

Tác giả Nguyễn Trãi ( Ngữ Văn 10 )


Nguyễn Trãi , hiệu là Ức Trai , (1380–1442 ), là đại thần nhà
Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông được xem là một anh
hùng dân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế
giới.

Nguyễn Trãi quê gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương, sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan
Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi,
xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai
của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng
Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần
Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý
tộc nhà Trần.

Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà
Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên
nước là Đại Ngu .

Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn Phi
Khanh và làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu sau
(1407) quân Minh sang đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua
trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị bắt sang
Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh.

Tương truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu,
đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung
Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm
cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị quân Minh
bắt giữ ở Đông Quan.

Nguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói khác
nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài
liệu nói ông tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420
hoặc 1423 ông mới theo Lê Lợi.

59
Theo gia phả họ Đinh kể về thân thế Đinh Liệt, một tướng
Lam Sơn khác, có đề cập đến việc Nguyễn Trãi gia nhập
quân Lam Sơn. Theo đó, mùa xuân năm Quý Mão (1423)
Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn, Trần Nguyên Hãn lấy tên là
Trần Võ vào Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trong
khi Bình Định Vương lại cho Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn
Trãi ở Đông Quan. Vì không biết rõ lai lịch hai vị này,
Nguyễn Như Lãm (cận thần của Lê Lợi) đã giao cho Trần Văn
làm Ký lục quân lương, Trần Võ thì đi chở thuyền. Mãi đến
khi Nguyễn Trãi dâng "Bình Ngô sách", Lê Lợi mới biết rõ hai
người này và giữ lại bên mình để lo giúp việc. Tài liệu này có
cơ sở vì các sử sách khi nói về giai đoạn đầu của khởi nghĩa
Lam Sơn cũng không nhắc tới Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành
quân sư đắc lực của Lê Lợi (vua Lê Thái Tổ sau này) trong
việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời
quân Minh cho Lê Lợi.

Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà
thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn
Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ
hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.

Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc
chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn
giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương
Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua
Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm
hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng
trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào
và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông
hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người,
quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh
úp, phải trả giá cao bằng việc mất 3 tướng giỏi: Lê Triện,
Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn

60
Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.

Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông


Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc
Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm
đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp
thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó,
phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi,
binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của
địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau,
đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng
khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên
quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một
phen mà thu lợi gấp hai."

Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê
Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết
được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông
trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa
thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan",
xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.

Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo
để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi
là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ
Nam quốc sơn hà).

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu
và cho theo họ Lê của vua.

Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần
Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định
mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn
nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của
Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên
quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc

61
tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không
còn được trọng dụng như trước nữa.
Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có
động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần;
đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa
các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê -
do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu
biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại
còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê
Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được
Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê
Sát ủng hộ).

Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán
bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:

Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,


Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.

Dịch:
Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung

Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi,
tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ
chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua
mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà
vua:

"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để


nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".

Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng
cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà
vua đối với non sông đất nước.

Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi
cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải

62
Dương ngày nay.

Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi
nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế
mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh
triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê
Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có
Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức
vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi
việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo).
Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy
được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn
thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.

Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh
liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con
mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu
Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2
tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà
này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó
một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh,
hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế
nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người
vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi
giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh
Tông sau này).

Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn


Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn
Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Trên đường về kinh
Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia
Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu
Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ
(tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc"
là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên
mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những
người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ
Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ

63
bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong
họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử
tử.

Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được
lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông

Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:


• Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn
Phù.
• Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
• Bà Thị Lộ: Không có con.
• Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ
Chi Viên)
• Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất -
huyện Kim Môn, Hải Dương.

Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị


Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít
thoát nạn là:

• Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù


Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;
• Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ
sang họ Bế Nguyễn.
• Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về
Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
• Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba
tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa
bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại
về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh
Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy
sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm
Anh Vũ.

Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết
của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà
đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.

64
Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan
khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân
Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để
giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật
đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi
báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn
Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi,
tức là Lê Thánh Tông.

Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn
Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út
sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh
Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh
Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng
không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn
Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai
Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy
ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ .

Minh oan cho Nguyễn Trãi, vua Thánh Tông ca ngợi ông: "Ức
Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm lòng Ức Trai soi sáng
văn chương). Năm 1467, vua Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di
cảo thơ văn Nguyễn Trãi.

Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao
một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê
Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công
thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là
Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian
nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn
được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần
khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng
tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.

Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn
Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế
giới.

65
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và
bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên.
Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam
thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.

Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau
khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến
chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–1427). Tác phẩm
này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt
cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu như:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một
phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(trích theo bản dịch của Ngô Tất Tố)

Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là
"thiên cổ hùng văn".

Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm
thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí,
Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần
đạo bi, Ngọc Đường di cảo.

Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là
của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng.
tác phẩmQuốc âm thi tậplà tác phẩm viết bằng chữ Nôm
đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam .

66
Vụ án Lệ chi viên
VỤ ÁN LỆ CHI VIÊN

Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) vua Lê Thái Tông đi duyệt


binh ở thành Chí Linh (Hải Dương). Lúc ấy, đất nước đang
hồi thái bình, Nhà vua thì đang ở độ tuổi thanh xuân sung
sức, không ai nghĩ rằng đó là chuyến tuần du cuối cùng của
Nhà vua, nhưng tiếc thay, sự thực lại như vậy. Vua Lê Thái
Tông đã đột ngột qua đời tạt Lệ Chi Viên (Gia Lương, Bắc
Ninh) vào đêm mồng 4 tháng 8 (1442), khi đang trên đường
trở về kinh đô, hưởng dương 19 tuổi. Sau cái chết đột ngột
của Nhà vua, một vụ án lớn đã xảy ra và kết quả là cả ba họ
của Nguyễn Trãi đã bị tru di một cách thảm khốc. Sử thường
gọi đó là vụ án Lệ Chi Viên. Sách Đại Việt sử kí toàn thư
(bản kỉ, quyển 11, tờ 55 a-b và tờ 56 a-b) chép như sau :

“Ngày 27 (tháng 7 năm 1442 - ND), Vua tuần du về phía


Đông, đến thành Chí Linh (Hái Dương - ND) để thân duyệt
quân đội. Nguyễn Trãi (lúc này đã nghỉ hưu ở Côn Sơn, Hải
Dương - ND) mời Vua về ngự ở chùa Côn Sơn (tức chùa Tư
Quốc cũ, do Thiền sư Pháp Loa, người đời Trần dựng lên -
ND). Chùa này nằm trong làng của Nguyễn Trãi. Vua đi
thuyền từ bến Đông, vào sông Thiên Đức đến khu mộ Bạch
Sư thuộc Cầu Bông, xã Đại Toán, huyện Quế Dương thì
thuyền ngự không sao đi được nữa. Quan quân lấy hết sức
mà kéo, thuyền vẫn nằm yên, cứ y như có người đang níu
thuyền lại. Vua bèn sai Trung sứ đi hỏi khắp các vị bô lão
quanh vùng, xem đất này có vị thần nào không. Các vị bô
lão thưa rằng :

-Xưa, có người là Bạch Sư rất tinh thông pháp thuật. Khi


mất, chôn ở bờ sông, thường rất linh hiển, người xứ này vẫn
tế thần long trọng lắm.

Trung sứ hỏi :

- Tế thần bằng gì ?

67
Các vị bô lão trả lời :

- Tế bằng bê con.

Trung sứ về tâu vua. Vua sai đem con bê con đến tế thần, tế
xong thuyền ngự mới đi được.

Tháng 8, ngày Mồng 4, vua về đến Lệ Chi Viên (tên nôm là


Trại Vải - ND), thuộc huyện Gia Định (nay thuộc Gia Lương,
Bắc Ninh - ND) thì bỗng bị bạo bệnh rồi mất.

Trước, Vua vẫn thích vợ của quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi, tên
là Nguyễn Thị Lộ. Thị Lộ đẹp người lại có tài văn chương,
Vua gọi vào cung, cho làm Lễ Nghi học sĩ, ngày đêm hầu
cận. Khi đi tuần du miền Đông về, qua Lệ Chi Viên (xã Đại
Lại, ven sông Thiên Đức), Vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị
Lộ rồi mất. Các quan bí mật đưa linh cữu về. Ngày mồng sáu
thì đến kinh sư, vào đến cung là nửa đêm, lúc ấy mới phát
tang. Ai cũng nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua".

"Ngày 16 (tháng 8 năm 1442 - ND), giết quan Hành khiển là


Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ. Trước
kia, Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy
lấy làm thích, liền cợt nhả với thị. Nay, Vua đi tuần miền
Đông, lại ghé nhà Nguyễn Trãi chơi rồi sau mới bị bạo bệnh
mà mất, cho nên, khép Nguyễn Trãi vào tội ấy".

Chuyện này, sách, Khâm định Việt sử thông giám cương mục
(chính biên, quyển 17, tờ 23) chép gọn hơn, nhưng lại có
thêm một chi tiết cụ thể hơn về nguyên nhân cái chết dột
ngột của vua Lê Thái Tông.

“Trước, vợ lẽ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, đẹp người,


hay chữ, Vua nghe tiếng, mời đến, phong làm Lễ Nghi học sĩ,
ngày đêm hầu cận, nhân đó mà cợt nhả với Nguyễn Thị Lộ.
Đến đây Vua đi tuần du phía Đông, xa giá quay về đến Lệ
Chi Viên (làng Đại Lại, huyện Gia Định) thì Vua mắc chứng

68
sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm. Nhà vua mất. Trăm quan
đều giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về cung. Nửa
đêm, vào đến cung mới phát tang. Người ta nói Thị Lộ giết
vua, bèn bắt Thị Lộ".

Lời bàn :

Sau chiến tranh, hàng loạt anh hùng Lam Sơn lẩn lượt bị tha
hóa, lo vinh thân phì gia mà sao nhãng việc ích nước lợi dân,
người đức độ như Nguyễn Trãi bỗng dưng trở thành cái gai
khó chịu trước mắt họ. Nguyễn Trãi đã cáo quan xin về trí sĩ,
lùi xa chốn kinh thành hỗn tạp mà nào có được sống yên.

Vua Lê Thái Tông đã loại bỏ bốn trong số năm bà vợ, còn


một bà thì đang bận con thơ, nhân đó mà cho Lễ Nghi học sĩ
Nguyễn Thị Lộ là người xinh đẹp, ngày đêm hầu cận, rồi sàm
sỡ với Nguyễn Thi Lộ, thiết tưởng, nhân cách Nhà vua ra
sao, khỏi bàn cũng rõ rồi.

Sau nhiều ngày tuần du mệt nhọc, Vua lại thức suốt đêm với
một người phụ nữ bên bờ sông, nếu sốt rét không giết chết
Vua, ắt cũng chẳng thiếu nguyên nhân đủ để giết Vua hoặc
giả là làm cho Vua bị bại hoại. Lỗi của Vua rành rành, tiếc là
triều đình lúc ấy chẳng ai dám nói đến lỗi của Vua. Mới hay,
Vua vẫn được quyền hơn người ở chỗ không có lỗi gì.

Bấy giờ, ai cũng nói là Thị Lộ giết Vua, dẫu chẳng ai thấy bà
làm việc thất đức tày trời đó. Sự có vẻ hợp lí này mới nguy
hiểm làm sao. Ở đời, thật chẳng còn có gì vừa hài hước vừa
xót xa bằng quan niệm : chân lí là điều tôi thích.

Bình sinh, tiếng nói và ngòi bút của Nguyễn Trãi có sức
mạnh như hàng vạn tinh binh, biết bao thành trì kiên cố của
quân xâm lăng đã sụp đổ bởi tiếng nói và ngòi bút thiên tài
ấy. Vậy mà đến đây, ngọn đại bút không cứu nổi thân ông,
lời tuyệt vời thuở nào không ngăn nổi tội ác của đồng liêu
thiển lậu. Ôi, bị vài ba người bạn phản bội còn nguy hơn cả
bị kẻ thù ba bốn mặt bao vây.

69
Vụ án Lệ Chi Viên là vết nhơ nhục nhã của muôn đời vậy.
Triều thần bấy giờ chém được Nguyễn Trãi, tru di được tam
tộc của Nguyễn Trãi, có biết đâu tên tuổi của Nguyễn Trãi lại
đời đời bất diệt với non sông.

( Theo Việt sử giai thoại tập 5- NXB Giáo dục )


Ra ma buộc tội ( Trích Ramayana- Sử thi Ấn Độ )

I. GIỚI THIỆU CHUNG:

1.Nguồn gốc tác phẩm.

Theo truyền thuyết câu chuyện về hoàng tử Ra ma được lưư


truyền trong dân gian từ xưa về sau được tu sĩ Bàla môn tên
là Vamiki – người có nguồn cảm hứng đặc biệt và trí nhớ kì
lạ ghi lại bằng văn vần bằng tiếng Xăngcrít vào khoảng thế
kỉ III trước công nguyên.

2. Xuất xứ đoạn trích

Ở chương 78 (gặp gỡ) tác giả đã dự báo cuộc tái ngộ của
Rama và Xita có điều không bình thường. Điều không bình
thường đó thể hiện qua không khí chuẩn bị và tâm trạng chờ
đợi gặp gỡ của Rama và Xita. Tâm trạng của hai người
không giống nhau, có phần đối nghịch nhau. Cứu được Xita
giải phóng đảo lanka, tiêu diệt kẻ thù đúng lúc hết hạn đi
đày => nếu tác phẩm dừng lại ở đây thì chỉ là một sử thi
bình thường => tác giả đa xtạo ra bước ngoặt lớn trong quá
trình diễn biến truyện ở chương 79.=> không khí gặp gỡ
giống như một phiên tòa thật nặng nề và cũng từ đây tâm
trạng của nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất.

3. Vị trí đoạn trích

Khúc ca thứ 6 chương 79

70
4. Bố cục

Đoạn 1: … Ra-va-na đâu có chịu được lâu”: cơn giân dữ và


diễn biến tâm trạng của Rama.

Đoạn 2: còn lại: tự khẳng định mình và diễn biến tâm trạng
của Xita.

5. Đại ý

Miêu tả quá trình diễn biến tâm trạng của hoàng tử Rama và
Xita sau khi Rama cứu được Xita.

II. ĐỌC HIỂU

1.Diễn biến tâm trạng của Rama

- Cùng với sự giú đỡ của những người bạn hảo hán như Ha
nu man (tướng khỉ) và Vi-phi sa-na (em quỷ vương Va-ra-na
từng khuyên anh trả Xita cho Rama không được chàng từ bỏ
người anh sang chiến đấu bên phe Rama).

- Rama nói với tất cả mọi người. Đó là anh em bạn hữu với
quân đội của loài khỉ Va na ra

Rama khẳng định chiến thắng và tài năng của mình.

Rama bộc lộ rõ lý tưởng chiến đấu, sức mạnh của cả cộng


đồng.

- Tự đề cao sức mạnh chiến đấu, người anh hùng Rama còn
bộc lộ thái độ, tâm trạng :

“Thấy người đẹp với gương mặt bông sen, với những cuộn
tác lượn sóng đứng trước mặt mình, lòng Rama đau như dao

71
cắt”

- Giải quyết xong xung đột lớn có tính cộng đồng, Rama tự
giải quyết xung đột cá nhân. => nghi ngờ đức hạnh của Xita
=> tính ích kỉ bộc lộ dần dần.

- Ngôn ngữ và diễn biến tâm trạng của Rama :

Gọi Xita bằng lời lẽ không bình thường: “Hỡi phu nhân cao
quý” => ngôn ngữ thiếu sự âu yếm chân thành mà lạnh lùng
kênh kiệu.

Rama nói với Xita trước mặt mọi người: “Phải biết chắc điều
này: chẳng phải vì nàng mà ta đánh thắng kẻ thù với sự
giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để
xoá bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ
lừng lẫy tiếng tăm của ta. Nay ta phải nghi ngờ tính cách
của nàng. Vì nàng đã lưu lại nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây nàng
đang đứng trước mặt ta nhưng trông thấy nàng ta không
chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng đối với một kẻ đau
mắt” .Như vậy từ sự tức giận ghen tuông đến nghi ngờ đức
hạnh. “Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có
thể nào lấy về một người vợ từng sống trong nhà một kẻ
khác. Đơn giản mụ ta là một vật để yêu đương”.

“Ta không cần đến nàng nữa, nàng muốn đi đâu tuỳ ý”.

=>Mâu thuẫn giữa danh dự dòng họ và tình yêu

=> Từ sự nghi ngờ trinh tiết, đức hạnh đến việc Rama không
nhận và ruồng bỏ Xita => sỉ nhục Xita bằng cách gợi ý nàng
đến với bất cứ một người khác.

Rama sinh trưởng trong một gia đình quý tộc đã dám hy
sinh tình yêu vì bổn phận người anh hùng, một ông vua mẫu
mực => Ruồng bỏ Xi ta trước hết vì danh dự dòng họ sau vì
ghen tuông

72
Chàng yêu hết mình nhưng cũng ích kỉ, ghen tuông cực độ,
có lúc oai phong lẫm liệt nhưng cũng có lúc tầm thường nhỏ
nhen, có lúc cương quyết rắn rỏi nhưng có lúc mềm yếu.
Bản chất cái tôi có lúc sáng/ tối; tốt /xấu; thiện/ ác luôn tồn
tại trong con người Rama.

- Trước hành động của Xita.

Thái độ của Rama khi Xita bước lên giàn lửa thiêu không nói
một lời => tỏ thái độ kiên quyết, dám hy sinh tình yêu để
bảo vệ danh dự.

Hãy nhìn vào thái độ cử chỉ của chàng “Rama vẫn ngồi, mắt
dán xuống đất lúc đó mon chàng khủng khiếp như thần chết
vậy”

Động cơ và thái độ của Rama là đúng không sai. Song thấu


lí mà không đạt tình, coi trọng lý tính chất cộng đồng trong
sử thi là ở chỗ◊tưởng, danh dự mà coi nhẹ tình cảm đó.

Chúng ta cần hài hoà giữa danh dự bổn phận và tình cảm
riêng trong Rama. Thực lòng Rama không khinh thường Xita
nhưng vì trước đông đủ mọi người chàng không muốn gánh
chịu những tai tiếng nên nổi cơn giận dữ, tính chất cộng
đồng trong sử thi là ở chỗ đó.

Đoạn trích đẩy nhân vật Rama vào tình Rama◊huống ngặt
nghèo đòi hỏi có sự lựa chọn quyết liệt. Danh dự hay tình
yêu tuy cáchg lựa chọn chưa thấu tình đạt lý nhưng bộc lộ
phẩm chất◊chọn danh dự cao quý của một anh hùng, một
đức vua mẫu mực.

=> Dù là quân vương (thần thánh) nhưng Rama cũng chỉ là


một con người => ngòi bút của tác giả thật sắc sảo, tinh tế.
Oâng đã lột tả được một Rama rất người khiến cho nhân vật
sử thi vượt qua mọi ước lệ cứng nhắc và khuôn sáo.

73
2.Diễn biến tâm trạng của Xita.

Trước lời lẽ buộc tội của Rama Xita đã thể hiện thái độ và
tâm trạng qua nét mặt, lời lẽ, hành vi .

“Khiêm nhường đứng trước Rama” bộc lộ niềm vui và hạnh


phúc của nàng sau khi được Rama cứu khỏi vòng tay của
quỷ vương.

Sự tức giận và thái độ lời lẽ của Rama => Xita ngạc nhiên
đến sững sờ “mở tròn đôi mắt đẫm lệ” và “đau đớn đến
nghẹt thở như một cây dây leo bị vòi voi quật nát” , nước
mắt nghẹn ngào.

Xita nói với Rama bằng sự thanh minh và khẳng định tấm
lòng chung thuỷ của mình :Số phận của thiếp đáng chê
trách. .Nhưng cái gì nằm trong sự kiểm soát của thiếp, tức
trái tim thiếp đây là thuộc về chàng.

Điều ấy có nghĩa một người phụ nữ mềm yếu làm sao cưỡng
lại được sức mạnh quyền lực của quỷ dữ. Chỉ có tái tim và
tình yêu của nàng vẫn dành cho Rama. Phải chăng Xita
muốn khẳng định tấm lòng chung thuỷ của mình. Xita không
dừng lại ở đó, nàng phê phán Rama bằng những lời lẽ hết
sức cụ thể :

“Hồi chàng phai Ha-nu-man tới dò tin tức về thiếp, có sao


chàng không gửi cho thiếp lời nhắn nhủ chàng từ bỏ thiếp”
và “Chàng chẳng cần phải mạo hiểm để có thể nguy hại đến
thân mình và bạn hữu của chàng khỏi phải chịu những phiền
muộn đau khổ”. Lời trách móc ấy mạnh mẽ hơn: “Hỡi đức
vua! Như một người thấp hèn bị cơn giày vò, người đang
nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường” và “vì không thể
suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất
của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi thanh niên
chàng cưới thiếp”.

Ta nhận thấy diễn biến trong tâm trạng của nàng : từ mừng

74
rỡ đến ngạc nhiên ;từ tin yêu đén thất vọng; từ bối rối đến
điềm tĩnh; từ đau khổ đến tuyệt vọng => một người phụ nữ
bản lĩnh, đáng khâm phục.

Nàng nói với Lắc-ma-na (em trai của Rama) => bình thản
bước vào giàn hoả sau khi cầu nguyện thần lửa chứng giám.

Nghi lễ thử lửa là sự kiểm chứng đức hạnh con người nên
Xita chỉ còn cách bước lên ngọn lửa thiêu để thể hiện lòng
chung thuỷ của mình.

Thần lửa Anhi không xâm phạm đến nàng mà trong ngọn lửa
thân hình nàng lại càng rực rỡ hơn như đoá sen nở xoè,
khoe nhị vàng toả hương thơm ngát.

Xita nhảy vào giàn hoả thiêu là chi tiết mang tính huyền
thoại.=> càng làm cho con người nhân cách của Xita thêm
toả sáng.Nàng không chết => (tăng thêm tính bi hùng cho
sử thi) nàng không bị lửa thiêu vì phẩm chất của nàng. Lửa
thử vàng. Nàng đúng là vàng mười

3. Nghệ thuật

Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.

Tính cách của Rama: trọng danh dự, hy sinh cả tình yêu.

Xita: chứng minh, khẳng định tấm lòng thuỷ chung nên đã
hy sinh tình yêu. Cả hai đều hy sinh tình yêu để bảo vệ danh
dự và nhân phẩm.

Tác phẩm mang đậm đà tính giáo huấn, tính xung đột gắy
gắt về đạo lý, tính đa dạng về hệ thống nhân vật.

III. TỔNG KẾT.

“Rama buộc tội” đặt nhân vật vào tinh thế thử thách ngặt
nghèo đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc bản chất

75
con người. Rama vào sinh ra tử, chiến đấu với quỷ dữ giành
lại người vợ yêu quí nhưng cũng dám hy sinh tình yêu vì
danh dự, bổn phận một người anh hùng, một đức vua mẫu
mực. Như một người vợ lý tưởng xứng đáng với Rama Xita
cũng sẵn sàng đem thân mình thử lửa để chứng minh tình
yêu và đức hạnh thuỷ chung.

Tác giả đã miêu tả xung đột tâm lý của Rama và XiTa trong
cuộc gặp lại đầy thử thách và éo le. Tâm trạng hai người cứ
biế đổi theo nhịp điệu đối thoại. Đỉnh điểm của xung đột là
cảnh Xita nhảy vào lửa, mâu thuẫn được cởi nút. Tính cách
của Ra ma và Xita ở đây cũng được khẳng định nhất quán.

Qua đoạn trích ta hiểu một vài nét đặc trưng trong cách thể
hiện nhân vật anh hùng của sử thi Ấn Độ .Bắt buộc xảy ra
chiến tranh, nhưng tác phẩm không coi trọng miêu tả chiến
tranh mà miêu tả xung đột giữa cái thiện và cái ác, đạo lý và
phi đạo lý. Rama là người anh hùng hiện diện cho cái thiện
và đạo lý. Quỷ vương là hiện diệncho cái xấu, phi đạo lý.
Đoạn trích đã thể hiện tính xung đột găy gắt về đạo lý.

Rama xuất hiện từ thế giới thần linh, mang yếu tố nửa
người, đã xuất hiện nhiều trong thần thoại và truyền thuyết
cùng với Xita và Ha-nu-man.

Qua nhân vật anh hùng Rama, ta nhận thấy sử thi Ấn Độ


nặng về giáo huấn. Đó là trọng danh dự sẵn sàng hy sinh
tình yêu, đem thân bảo vệ đạo lý lẽ phải.

Về truyện cổ tích Tấm Cám


Đã là người Việt Nam, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai
không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám, và hình ảnh cô
Tấm mồ côi ao ước chiếc yếm đào, ngồi khóc bên giếng vì
mất bống, bị hắt hủi tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim
nhân hậu. Kiểu truyện Người mồ côi rất quen thuộc trong
truyện cổ tích Việt Nam và nước ngoài, trong đó Tấm Cám là
kiểu truyện phổ biến. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cô

76
Tro Bếp, Trung Quốc có Nàng Diệp Hạn, Thái Lan có Con cá
vàng, Mianma có Truyện con rùa, Cămpuchia có Nêang -
Cantóc.... Nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có những
truyện tương tự Tấm Cám: Tua Gia Tua Nhi (Tày), Ý Ưởi Ý
Noọng (Thái), Gầu Nà - Gầu Rềnh (Mông), Đôi giày vàng
(Chăm), Ú và Cao (Hơ rê), Gơ liu- Gơ lát (Xơ rê)... Khác với
những truyện tương tự Tấm Cám ở phương Tây, thường kể
về cô gái mồ côi bất hạnh, chăm chỉ hiền lành được vào
hoàng cung, lấy chồng hoàng tử và kết thúc ở đó. Truyện
Tấm Cám còn có phần thứ hai, phản ánh cuộc đấu tranh
gian nan và quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm.
Cả hai phần của truyện đều thể hiện mơ ước thiện thắng ác
và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam
xưa.

1. Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô


gái mồ côi

Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể đã
xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn
của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ thiệt thòi nhất là thiếu mẹ.
Tục ngữ có câu “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá
đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của
đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ còn thiệt
thòi, đau khổ hơn nhiều. Mọi đau khổ của Tấm đều bắt
nguồn từ quan hệ với mẹ con người dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ
biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép,
mất hi vọng có cái yếm đào, Tấm khóc. Cái yếm đào chỉ là
một món quà bé nhỏ, nhưng với cô Tấm nghèo khó, mồ côi,
đang ở tuổi trăng tròn, lại chẳng bao giờ được nhận một
món quà nào thì nó thật đáng quý. Vì vậy, dường như Tấm
không chỉ khóc vì bị mất yếm đào mà còn vì chút hi vọng
được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Bị lừa đi chăn trâu
đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu
bạn với Tấm, Tấm lại khóc. Chú bống nhỏ bé, được cô
nhường nhịn, chăm chút yêu thương trong bát cơm hẩm san
sẻ cho bống và câu gọi thiết tha “Bống bống bang bang, lên
ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà

77
người”. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm sóc nào
như Tấm thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm,
nhu cầu được chăm chút và sẻ chia. Vì vậy, việc giết bống
đâu phải để thoả mãn sự tham ăn của mẹ con Cám mà là để
hành hạ Tấm, phá đi chỗ dựa tình cảm của cô gái đơn côi.
Cục máu bầm nổi trên mặt giếng như bằng chứng không lời
về sự tàn bạo, độc ác của hành động giết bống. Lần thứ ba
Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Dì ghẻ trộn thóc
với gạo bắt Tấm nhặt. Đến đây, sự hành hạ chẳng cần phải
che đậy như những lần trước. Hội làng là ngày vui nhất
trong năm. Mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều
được đi hội và chia sẻ niềm vui chung, thế mà riêng Tấm bị
bắt ở nhà, cô càng lẻ loi hơn. Tấm lại khóc và dường như
tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau khổ của cô lên cao
hơn.

Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân
phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương
thiện trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì
ghẻ không chỉ là mâu thuẫn dì ghẻ – con chồng mà còn là
biểu hiện cụ thể của xung đột thiện - ác trong cuộc đời. Tấm
đại diện cho nhân vật thiện chăm chỉ, lương thiện, đôn hậu
(bắt được đầy giỏ tép, đi chăn trâu đồng xa, nhịn cơm dành
nuôi bống,...) Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua
hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé
nhỏ của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bống là
giết chết người bạn bé nhỏ của Tấm; trắng trợn trộn thóc với
gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm
với đời của cô,… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị
chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi
dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.

Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai
tác quái thì mâu thuẫn thiện - ác thể hiện càng sâu sắc,
không thể dung hoà, tạo nên không khí căng thẳng buộc
phải thay đổi.

Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn ấy theo

78
hướng: dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào,
song thiện nhất định sẽ thắng ác và người lương thiện nhất
định sẽ được nhận hạnh phúc. Con đường đến với hạnh phúc
của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn
rất đặc trưng của cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó,
truyện cổ tích thường sử dụng yếu tố kì ảo.

Truyện Tấm Cám, giải quyết mối xung đột thiện - ác cũng
theo hướng thiện thắng ác và nhờ sự giúp sức của nhân vật
Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi Tấm khóc, an ủi,
nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm
mất yếm đào - Bụt cho cá bống. Tấm mất bống - Bụt cho hi
vọng đổi đời. Tấm không được đi hội - Bụt cho chim sẻ đến
giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng
hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Bụt (tên gọi dân gian
của Phật) vốn là nhân vật của Phật giáo, đã được dân gian
hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, nhiều quyền
năng, xuất hiện đúng lúc để nâng đỡ mơ ước, chữa lại số
phận hẩm hiu cho người nghèo. Cùng với Bụt, con gà biết
cảm thông với Tấm, chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra
thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tấm trên
đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất
về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi
nghèo, cô đơn trong xã hội xưa.

Những đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ biến, còn
hạnh phúc mà họ được hưởng thường rất hiếm hoi, phần lớn
chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc qua nhân
vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may
mắn cho họ. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi
vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

Trong truyện Tấm Cám Việt Nam và những truyện tương tự


của nước ngoài, các cô gái mồ côi đến với hạnh phúc nhờ đôi
giày, vật báu trực tiếp đem lại may mắn. Nhờ chiếc giày cô
gái đánh rơi mà nhà vua hay hoàng tử nhận ra người đẹp và
kết hôn với cô. Hình ảnh đôi giày trong văn hoá một số nước
có ý nghĩa giao duyên, là vật làm tin các chàng trai cô gái

79
thường trao cho nhau trước hôn lễ. Các chú rể người Đức
thường tặng cho vị hôn thê của mình một đôi giày trong lễ
đính hôn. Khi cô gái ướm chân vào giày, chàng trai phải tự
tay mình đóng nốt những chiếc đinh cuối cùng với hi vọng
hôn nhân của họ sẽ bền chặt. Ở Trung Quốc, các cô gái dù
chưa biết mặt người chồng tương lai của mình là ai vẫn cứ
khâu một đôi giày vải hoặc tết một đôi giày rơm làm món
quà tặng đầu tiên cho chồng. Ở Việt Nam, đôi giày không có
ý nghĩa giao duyên, nhưng khi những người phụ nữ bình dân
nghe tin loa truyền, ai đi vừa giày sẽ được làm hoàng hậu thì
“đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào
giày”. Ướm chân hay chính là được một lần thử vận may của
mình! Có ai không mơ ước hạnh phúc và có ai lại bỏ qua cơ
hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một
may mắn tình cờ nào đó sẽ dẫn mình đến tương lai tốt đẹp.
Nhưng truyện cổ tích không bao giờ có ngẫu nhiên cho
những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc
nhất mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may
mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau luỹ tre làng yên
tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của người
nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và
nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể.
Tấm nhờ chăm chỉ, lương thiện mà được Bụt giúp đỡ, từ cô
gái mồ côi nghèo trở thành hoàng hậu. Đó cũng là con
đường đến với hạnh phúc của các nhân vật thiện như Tấm
trong truyện cổ tích châu Âu và thế giới. Điều đó một mặt
phản ánh ước mơ thiện thắng ác, mặt khác còn nêu triết lí “ở
hiền gặp lành”, một triết lí phổ biến trong truyện cổ tích.

2. Cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc của cô gái


mồ côi

Các truyện cổ tích châu Âu cùng kiểu với truyện Tấm Cám
của Việt Nam thường kết thúc khi cô gái mồ côi kết hôn với
hoàng tử và hưởng hạnh phúc. Truyện Tấm Cám không chỉ
dừng ở kết thúc phổ biến đó mà còn tiếp thêm một chặng
nữa của cuộc đời nhân vật. Tấm trở thành hoàng hậu nhưng
vẫn bị cái ác tiêu diệt. Cô Tấm lương thiện, hiếu thảo trèo

80
cau hái quả cúng cha đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết.
Cô Tấm hiền lành, ngây thơ vừa ngã xuống, một cô gái
mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hoá thân trở về với
cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc
chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp
dẫn đối với người nghe, người đọc truyện cổ tích. Bởi trong
cuộc đời, những gì người mồ côi yếu thế, nhỏ nhoi không thể
làm được thì cô Tấm đã thay họ thực hiện “ oán thì trả oán,
ân thì trả ân” đến tận cùng.

Tấm thảo hiền bị dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu
chết. Cô hoá vàng anh, bay vào cung vua báo hiệu sự có
mặt của mình trong lời nhắc nhở “Giặt áo chồng tao, thì giặt
cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ
rào, rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết. Tấm hoá cây
xoan đào (khung cửi), tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ
dội hơn “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khung cửi bị
đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hoá cây thị (quả
thị) trở lại với đời. Trong sự hoá thân ấy có sự kiên nhẫn và
lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự
dịu dàng và tính cách bất khuất của phụ nữ Việt Nam từ xa
xưa.

Tấm đã hoá thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức
trong im lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách
tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản
ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa
thiện với ác, đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt,
không thể bị tiêu diệt của cái thiện. Phải chăng cô Tấm có
thể chết đi sống lại, có thể tự mình hoá thân để trở lại với
đời? Chính những người dân nhân hậu và giàu tình thương
đã không nỡ để một cô gái lương thiện như Tấm phải chết
oan ức trong thầm lặng. Họ đã mượn yếu tố kì ảo, thổi sức
sống mãnh liệt cho nhân vật, di dưỡng sức sống tiềm tàng
trong đó, vực nhân vật dậy “đi trả thù và sống tự do”. Nhân
dân đã gửi gắm vào nhân vật Tấm lòng nhân đạo, tình yêu
thương con người sâu sắc của mình.

81
Chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi), cây thị (quả thị)
là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình
dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Đó cũng là những
hình ảnh đẹp của làng quê, làm nên ấn tượng thẩm mĩ cho
câu chuyện. Nếu như ở phần đầu truyện, mỗi lần Tấm khóc
Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì ở phần sau,
cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không
còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ
thấy Tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng
chính nhân dân lao động, những người có thân phận như
Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt
thòi, đã gửi vào nhân vật ấy ý thức mãnh liệt giành và giữ
hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã gửi gắm một
chân lí: Hạnh phúc chỉ bền chặt khi ta biết dũng cảm giành
và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết
ngồi khóc, còn Bụt làm thay tất cả, thì đến đây chim vàng
anh, khung cửi, quả thị (yếu tố kì ảo) không thay Tấm trong
cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hoá thân, tạm ẩn mình để
trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.

Sau bao lần hoá thân chống lại kẻ thù, Tấm trở về với cuộc
đời, với làng quê bình dị, vẫn là cô gái đảm đang khéo léo
trong miếng trầu têm cánh phượng. Nhờ miếng trầu mà nhà
vua nhận ra người vợ đảm của mình và đưa Tấm về cung.
Miếng trầu là hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống văn
hoá Việt Nam, gắn với phong tục hôn nhân người Việt
“Miếng trầu nên dâu nhà người”, “Miếng trầu ăn ngọt như
đường, đã ăn lấy của phải thương lấy người”…Miếng trầu
mang ý nghĩa giao duyên như vậy đã có mặt trong sự hội
ngộ của nhà vua và Tấm.

Nhưng sau nhiều lần chết đi sống lại trong lốt chim, cây,
quả... dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc
trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con
Cám còn hiện diện. Cô lừa Cám để nó sai người đào hố, giội
nước sôi, tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu triết lí dân
gian “ác giả ác báo”, phù hợp với mong ước của nhân dân về
sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng, hạnh phúc đã trở

82
về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng chung thuỷ
và sự dũng cảm của cô.

Sự hoá thân nhiều lần rồi trở về với cuộc đời của Tấm là biểu
hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh
phúc. Người lương thiện phải được nhận hạnh phúc, còn kẻ
ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo,
tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi
hạnh phúc đẹp và mơ hồ ở cõi nào khác, mà tìm và giữ hạnh
phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó, ở nơi
trần thế. Những lần hoá thân ấy của Tấm đã hàm chứa
nhiều triết lí dân gian sâu sắc về hạnh phúc và đấu tranh,
đúng như có nhà thơ đã viết:

Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta,


Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
Rơi vào tay người đó là định luật,
Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam.

Khi bàn về sự hoá thân của Tấm, có người cho đó là ảnh


hưởng từ thuyết luân hồi nhà Phật (luân: vòng tròn, bánh
xe; hồi: quay trở lại. Luân hồi là sự xoay vần liên tục. Một
sinh vật sau khi chết sẽ chuyển sang hình hài một sinh vật
khác: người, vật, cây cỏ... để trả nợ cho những gì kiếp trước
mình đã phạm). Nhưng nếu có mượn thuyết luân hồi thì
truyện Tấm Cám chỉ mượn hình thức để thể hiện mơ ước,
tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi. Bởi luân hồi
nhà Phật là để chịu đau khổ do tội lỗi từ kiếp trước của
mình, rồi sau đó tìm hạnh phúc ở cõi Niết bàn cực lạc xa xôi.
Còn cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần không phải để chịu
khổ đau, cũng không định tìm hạnh phúc đẹp nhưng mơ hồ
ở cõi Niết bàn mà để quyết giành và giữ hạnh phúc có thực
của mình ngay ở thế giới này. Đó là lòng lạc quan, yêu đời
và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo truyện
cổ tích.

Cuộc chiến đấu giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết
liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng

83
tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và lạc quan theo
quan niệm của nhân dân. Kết thúc có hậu trong truyện cổ
tích là biểu hiện tập trung những ước mơ của tác giả dân
gian. Hầu hết truyện cổ tích đều kết thúc có hậu: người
nghèo sẽ giàu có, người mất vợ sẽ tìm lại được và sống hạnh
phúc, người xấu xí, dị dạng trở nên xinh đẹp, người bị áp
bức nhiều nhất sẽ bước lên địa vị tối cao, được làm vua hay
hoàng hậu... Kết thúc đó mang đến ánh sáng và vẻ đẹp lãng
mạn cho truyện cổ tích, làm cho nó có sức hấp dẫn đặc biệt
đối với mọi thế hệ, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và
niềm khát khao vươn tới cái đẹp, cái thiện của nhân dân lao
động Việt Nam xưa. Cô Tấm nghèo khổ, bị hành hạ, chết đi
sống lại, cuối cùng đã tiêu diệt cái ác, gặp lại chồng, trở về
làm hoàng hậu bên những người dân hiền lành tốt bụng. Kết
thúc đó còn mang mơ ước đổi đời của những người lao động
nghèo, là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua hiền, tôi
giỏi”. Trong xã hội mơ ước đó, người lao động hiền lành,
lương thiện đã được hưởng hạnh phúc.

Cũng như nhiều truyện dân gian khác, truyện Tấm Cám có
nhiều dị bản. Những bản kể ra đời ở thời trung đại đều kết
thúc khi Tấm giết Cám, làm mắm gửi về cho dì ghẻ. Mụ ăn
cứ tấm tắc khen ngon, đến khi ăn hết mới nhận ra đầu lâu
con mình ở đáy hũ liền lăn đùng ra chết. Không ít người từng
hài lòng trước sự trừng phạt ấy, bởi Tấm đã thay mặt cái
thiện để tiêu diệt cái ác, thực hiện công lí mang tính nhân
dân; thể hiện quan niệm và mơ ước về sự chiến thắng tuyệt
đối, tự mình tiêu diệt tận gốc kẻ thù. Mẹ con Cám đã không
từ thủ đoạn độc ác nào để hành hạ Tấm, từ lừa gạt đến
trắng trợn bóc lột, từ lén lút giết Tấm đến công khai đốt cô
thành tro bụi…Tội ác man rợ đó đáng bị trừng trị, hơn thế
theo quan niệm “làm ác trả ác”, “hại nhân nhân hại” thì sự
trừng phạt ấy là đích đáng. Nhưng hiện nay, tính chất thời
đại đã thay đổi, hình thức trừng phạt ấy khiến cho nhiều
người cảm thấy rùng rợn và ấn tượng đẹp về một cô Tấm
thảo hiền, đôn hậu bị giảm đi. Vì vậy truyện cổ tích Tấm
Cám lại tiếp tục số phận lịch sử của nó trên chặng đường
truyền miệng, lời kể đã được thay đổi cho phù hợp với nhu

84
cầu và quan niệm thẩm mĩ ở thời hiện đại mà nó đang lưu
truyền.

( Sưu tầm từ Internet)


Danh tướng Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão sinh năm Ất Mão (1255), tại làng Phù Ủng,
huyện Đường Hào, nay là Ân Thi, Hưng Yên, mất năm Canh
Thân (1320), thọ 65 tuổi. Ông là bậc danh tướng của triều
Trần, từng có công lớn trong cuộc chiến tranh chống quân
xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba
(1288). Khi Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo ráo riết
chuẩn bị cho cuộc đọ sức lần thứ hai với quân Nguyên, Phạm
Ngũ Lão xin ứng nghĩa theo quân đi đánh giặc. Nhờ có đức
độ hơn người lại có biệt tài võ nghệ, Phạm Ngũ Lão được
Trần Hưng Đạo vừa trọng dụng vừa thương như con.

Trần Hưng Đạo đã đem con gái nuôi của ông là Nguyên công
chúa gả cho Phạm Ngũ Lão, đồng thời đem tiến cử cho vua
Trần. Vua Trần phong ông đến chức Điện súy Thượng tướng
quân, cho lập phủ đệ ngay trong vườn cau của triều đình tại
kinh thành. Khi Phạm Ngũ Lão mất, vua thương tiếc mà nghỉ
chầu đến năm ngày.

Đó là một ân điển đặc biệt mà đương thời, ngay cả quý tộc


họ Trần cũng không mấy ai có được. Vì sao Phạm Ngũ Lão
lại được hưởng ân huệ đặc biệt này? Sách Đại Việt sử ký
toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 38 a=b) chép:

“Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích
đọc sách, sống phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ,
xem qua có vẻ như không để ý đến việc võ bị nhưng quân
do ông chỉ huy thực là đội quân trên dưới như cha con, hễ
đánh là thắng. Ông có làm bài thơ (Thuật hoài) như sau:

Vung gươm sông núi đã bấy lâu,

85
Ba quân như cọp nuốt trôi trâu.
Công danh trai tráng còn mang nợ,
Những thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu.

Ông huấn luyện quân đội rất có kỉ luật, đối đãi với tướng
hiệu tựa như đối đãi với người nhà, đồng cam cộng khổ với
binh lính, cho nên đi đâu cũng không ai dám chống, chiến lợi
phẩm thu được đều sung vào kho quân, coi của cải như
không, ấy là bậc danh tướng của một thời vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Tôi từng thấy các danh tướng nhà
Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm
Điện Súy thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, chứ không phải chỉ
chuyên về nghề võ, thế mà dùng binh thì tinh diệu, hễ đánh
là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không
một ai vượt nổi các ông''...

(Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXBGD


Ảnh hưởng của văn học chữ Hán Trung Quốc đối với
thơ ca dân gian người Việt
GS.TS Nguyễn Xuân Kính

1. Vài nét về văn học của người Việt

Văn học Việt Nam là nền văn học của nhiều dân tộc, trong
đó văn học của người Việt (Kinh) đóng vai trò rất quan
trọng. Văn học của người Việt có hai bộ phận: văn học dân
gian và văn học cao nhã (tức văn học viết). Văn học dân
gian ra đời sớm hơn, dồi dào về số lượng, đa dạng về thể
loại. Văn học cao nhã chính thức được xây dựng từ thế kỷ X
trở đi. Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX, trong bộ phận văn
học cao nhã, xét về mặt văn tự, có hai loại tác phẩm: một
loại viết bằng chữ Hán, một loại viết bằng chữ Nôm. Các tác
giả nổi tiếng như Nguyễn Trãi (1380-1442), Đoàn Thị Điểm
(1705-1748), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (thế
kỷ XVIII-XIX), Cao Bá Quát (1808-1855), Nguyễn Khuyến
(1835-1909) đều sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm khi sáng

86
tác. Cả văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm của người Việt
đều chịu ảnh hưởng của văn học dân gian. Có thể dẫn ra tập
truyện viết bằng chữ Hán Truyền kì mạn lục được sáng tác
vào thế kỷ XVI của Nguyễn Dữ và bài thơ chữ Nôm Thác lời
trai phường nón của Nguyễn Du làm minh chứng cho nhận
xét này.

Văn học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt đều chịu ảnh
hưởng đậm nét của văn học Trung Quốc: từ tư liệu, điển cố
văn chương, thể thơ, thể văn đến cả lối khắc bản gỗ để in
sách.

Văn học dân gian của người Việt cũng chịu ảnh hưởng của
văn học chữ Hán Trung Quốc, văn học chữ Hán của người
Việt và văn học chữ Nôm. Trong khuôn khổ của chủ đề hội
thảo, ở báo cáo này, chúng tôi chỉ bàn về ảnh hưởng của
văn học chữ Hán Trung Quốc đối với thơ ca dân gian người
Việt.

2. Hai dạng ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián


tiếp của văn học Trung Quốc đối với thơ ca dân gian
người Việt

2.1. Ảnh hưởng trực tiếp

Thơ ca dân gian người Việt (còn gọi là ca dao) được sáng tác
từ rất sớm, song việc ghi chép lại mới chỉ được tiến hành từ
cuối thế kỷ XVIII trở lại đây. Căn cứ vào những tài liệu đã
sưu tầm được, hiện có khoảng 13.000 bài ca dao. Ca dao
người Việt có khi chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc
một cách trực tiếp. Thí dụ, đây là lời của một chàng trai ở
Nam Bộ:

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự


Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Ai hỏi đón chi đó giống in tiếng con bạn hiền
Đây anh lo phản mại kiếm tiền nuôi thân(1).

87
Hai dòng đầu của bài ca dao là hai câu thơ trong bài Phong
Kiều dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều) của Trương Kế
(đời Đường), có nghĩa là: Ngoài thành Cô Tô có ngôi chùa
Hàn Sơn, nửa đêm tiếng chuông vẳng đến thuyền khách. Hai
dòng này gợi lên tính chất khuya khoắt về mặt trời gian và
chỉ liên hệ với hai dòng sau của bài ca dao về mặt vần
(thuyền vần với hiền). Có thể nói đây là trường hợp vận
dụng văn học chữ Hán không thật nhuần nhuyễn, bởi vì xét
cho kĩ nội dung giữa hai dòng đầu với hai dòng sau không có
mối liên hệ hữu cơ. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng,
trong các cuộc hát đối đáp ngày trước, nhiều câu mở đầu chỉ
có tính chất bắt vần đưa đẩy để cho cuộc hát không bị gián
đoạn.

Một thí dụ khác, ở bài ca dao sau, tác giả dân gian đã sử
dụng các điển tích Trung Hoa rất thành công trong việc thể
hiện nội dung bài ca:

Chẳng thà em chịu đói chịu rách


Học theo cách bà Mạnh, bà Khương
Không thèm như chị Võ Hậu đời Đường
Làm cho bại hoại cang thường hư danh(2).
Bài ca dao đã nhắc đến nhiều điển tích văn học Trung Quốc:

+ Bà Mạnh: Mạnh mẫu, là thân mẫu Mạnh Tử (372-289


trước Công nguyên). Bà Mạnh là người hiền đức.

+ Bà Khương: Khương Hậu, vợ hiền của Chu Tuyên Vương.


Tuyên Vương thường ngủ muộn, Khương Hậu muốn can
ngăn liền bỏ trâm cài đầu, ngọc đeo tai rồi tự giam mình
trong cung để chịu tội (ý nói lỗi của Tuyên Vương là do
mình). Tuyên Vương cảm động, từ bỏ thói xấu, chuyên cần
công việc.

+ Võ Hậu: Võ Tắc Thiên sinh năm 662, vợ Đường Cao Tông.


Khi Cao Tông chết, bà lập và phế hai vua rồi sau tự làm vua.

2.2. Ảnh hưởng gián tiếp

88
Ca dao người Việt còn chịu ảnh hưởng của văn học Trung
Quốc một cách gián tiếp. Quá trình này diễn ra như sau: Lúc
đầu những điển tích, tên đất, tên người của tác phẩm văn
học Trung Quốc đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết
của người Việt, sau đó các tác giả thơ ca dân gian người Việt
đã tiếp thu những điển tích này. Thí dụ, Kim Vân Kiều truyện
là tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân (đời Thanh, Trung
Quốc). Tác phẩm này đã vào Việt Nam khoảng những năm
60, 70 của thế kỷ XVIII(3). Dựa theo nó, Nguyễn Du đã viết
Truyện Kiều với 3.254 câu thơ lục bát. Ca dao người Việt đã
tiếp thu văn học Trung Quốc qua Truyện Kiều. Đây là bài ca
dao, là lời chàng trai dặn dò người yêu hãy gìn giữ mối tình
chung thuỷ:

Đất Liêu Dương anh về tang chú


Mối tình chung lặn lội lao đao
Dặn Kiều dù sóng gió ba đào
Cũng giữ lời thề non hẹn biển, chớ lúc nào lãng quên(4).

Còn đây là cuộc hát đối đáp thử tài văn học giữa nam và nữ:

Đồn em hay truyện Thuý Kiều


Lại đây mà giảng mấy điều cho minh
Vì đâu Kiều gặp Kim Sinh?
Vì đâu Kiều phải bán mình chuộc cha?
Vì đâu Kiều phải đi xa?
Vì đâu Kiều phải vào nhà lầu xanh?
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Vì đâu mắc phải Sở Khanh nói lừa?
Vì đâu kết tóc xe tơ?
Vì đâu Kiều phải lên chùa làm sư?
Vì đâu Kiều gặp họ Từ?
Báo ân báo oán trả thù sạch không?
Vì đâu Kiều bị mất chồng?
Vì đâu Kiều phải xuống sông Tiền Đường
Bao nhiêu nghĩa thảm tình thương
Em ơi giảng hết mọi đường anh nghe!

89
- Em đây thông truyện Thuý Kiều
Em xin giảng hết mọi điều mọi tinh
Chơi xuân Kiều gặp Kim Sinh
Vì thằng hàng tấm, Kiều phải bán mình chuộc cha
Vì ba trăm lạng Kiều phải đi xa
Vì mụ Tú Bà, Kiều mắc lầu xanh
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Sơ mưu mắc phải Sở Khanh nói lừa
Vì chàng Thúc kết tóc xe tơ
Vì Hoạn Thư, Kiều phải lên chùa làm sư
Ba năm Kiều gặp họ Từ
Báo ân báo oán trả thù đã xong
Vì lời nói, Kiều phải mất chồng
Vì Hồ Tôn Hiến, Kiều phải xuống sông Tiền Đường
Bao nhiêu nghĩa thảm tình thương
Em đã giảng hết mọi đường anh nghe(5).

Chúng tôi vừa trình bày hai dạng thức ảnh hưởng trực tiếp
và ảnh hưởng gián tiếp của văn học Trung Quốc đối với ca
dao người Việt. Trong thực tế có khi rất khó xác định đâu là
ảnh hưởng trực tiếp, đâu là ảnh hưởng gián tiếp. Thí dụ, ca
dao xứ Nghệ có bài:

Đồn đây là chốn Đào Nguyên


Trăng thanh gió mát cầm thuyền dạo chơi(6).

Đào Nguyên là tên ngọn núi ở phía tây nam huyện Đào
Nguyên, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Dưới núi có động Đào
Nguyên. Về động này, trong bài Đào hoa nguyên ký, Đào
Tiềm (365-427) có kể rằng: “Một người đánh cá ở Vũ Lăng
bơi thuyền ngược dòng suối, hai bên bờ suối trồng đầy hoa
đào. Đi mãi, người ấy đến một nơi có dân cư ăn mặc theo y
phục đời Tần. Người ấy hỏi thăm mới biết họ tránh chế độ hà
khắc của Tần Thuỷ Hoàng đến đó ở đã nhiều đời rồi và sống
ở đó rất sung sướng, hạnh phúc. Người đánh cá về thuật
chuyện lại với mọi người, về sau mấy lần muốn vào lại Đào
Nguyên nhưng không tìm được lối vào cửa động”. Văn học
cổ dùng Đào Nguyên để chỉ nơi có cảnh đẹp, người đẹp ở, để

90
chỉ cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, hoặc cõi tiên(7).

Trong Truyện Kiều có điển tích này:

Chào mừng đón hỏi dò la


Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây.

Tuy vậy, khó mà nói rằng nhờ có Truyện Kiều của Nguyễn
Du mà các tác giả dân gian mới biết được điển tích Đào
Nguyên, bởi không ít nhà nho xứ Nghệ am hiểu văn học
Trung Quốc. Mặt khác, cũng không loại trừ khả năng người
sáng tác lời ca dao vừa dẫn đã tiếp thu điển tích Đào Nguyên
từ Truyện Kiều.

3. Kiểu tiếp thu nguyên vẹn và kiểu tiếp thu có biến


cải trong ca dao người Việt

3.1. Tiếp thu nguyên vẹn

Nhiều khi ca dao người Việt chịu ảnh hưởng của văn học
Trung Quốc trong việc sử dụng các điển tích đúng như người
Trung Quốc quan niệm; chẳng hạn bà Mạnh, bà Khương
dùng để chỉ những người phụ nữ đức hạnh; Đào Nguyên
dùng để chỉ nơi có cảnh đẹp, người đẹp ở, chỉ cõi tiên; hình
ảnh cây trúc biểu trưng cho người quân tử. (Chúng tôi sẽ
còn phân tích cách tiếp thu nguyên vẹn này ở tiểu mục 4
dưới đây).

3.2. Tiếp thu có biến cải

Trong những trường hợp dưới đây, ý nghĩa của các hình ảnh
trong ca dao người Việt lại khác với ý nghĩa của các hình ảnh
cùng tên trong văn học Trung Quốc và văn học chữ Hán Việt
Nam. Trong văn học chữ Hán, rồng tượng trưng cho nhà
vua, tùng, trúc, mai tượng trưng cho những người quân tử
có phẩm cách cao cả. Ngược lại, trong ca dao người Việt,
rồng, mây, tùng, trúc, mai là những đôi bạn tình, tượng
trưng cho nam nữ bình dân người Việt:

91
+ Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời
Đêm qua vật đổi sao dời
Tiếc công gắn bó nhớ lời giao đoan(8).

+ Đợi chờ trúc ở với mai


Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng(9).
+ Mận chào tùng, cúc, liễu, mai
Mận chào đằm thắm một vài ba câu(10).

Theo thần thoại Trung Quốc, chim quạ (ô) và chim khách
(thước) khuân đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để
Chức Nữ qua gặp Ngưu Lang vào đêm mồng bảy tháng bảy
âm lịch. Trong văn học, cầu Ô Thước trở thành biểu tượng
tình yêu. Có khi tác giả dân gian có ý thức dùng đúng tên
gọi của điển tích này:

Cầu Ô Thước trăm năm giữ vẹn


Sông Ngân Hà giữ trọn đừng phai
Sợ em ham chốn tiền tài
Dứt đường nhân ngãi lâu dài bỏ anh(11).

Cũng là thể hiện tình yêu, nhưng có khi khác, người bình
dân lại dân gian hoá điển tích này:

Cầu Ô chín thước vật thường


Tìm nơi kiếm chốn, tìm đường giả ơn
Mưa sầu gió thảm từng cơn
Lấy ai chắc phận thờn bơn một bề(12).

Thế là với “cầu Ô chín thước” thì không còn cái ý nghĩa tên
chim quạ (ô) và tên chim khách (thước) hợp lại thành tên
cầu Ô Thước nữa.

Như vậy, khi chịu ảnh hưởng của văn học chữ Hán, có khi
tác giả dân gian người Việt đã tiếp thu khá nguyên vẹn, có
khi họ tiếp thu bằng cách biến cải. Ở đây, vai trò của các trí

92
thức bình dân người Việt là rất quan trọng.

4. Một “nghịch lý” của hiện tượng chịu ảnh hưởng văn
học chữ Hán

“Nghịch lý” này thể hiện ở các vùng văn hoá với các truyền
thống Nho học khác nhau.

Trong tập sách của nhiều tác giả Các vùng văn hoá Việt Nam
do GS. Đinh Gia Khánh và nhà thơ Cù Huy Cận đồng chủ
biên, các tác giả phân Việt Nam thành chín vùng văn hoá
lớn. Đó là: vùng văn hoá đồng bằng miền Bắc, vùng văn hoá
Việt Bắc, vùng văn hoá Tây Bắc, vùng văn hoá Nghệ Tĩnh,
vùng văn hoá Thuận Hoá - Phú Xuân (hay là xứ Huế), vùng
văn hoá Nam Trung Bộ, vùng văn hoá Tây Nguyên, vùng
văn hoá đồng bằng miền Nam. Thăng Long - Hà Nội có vai
trò đặc biệt trong lịch sử văn hoá Việt Nam nên được xếp
thành một vùng văn hoá lớn(13).

Nhìn một cách khác, văn hoá của người Việt có thể chia
thành ba vùng lớn hơn: Bắc (trung tâm là văn hoá đồng
bằng miền Bắc), Trung (với các vùng Nghệ Tĩnh (còn gọi là
xứ Nghệ), xứ Huế, xứ Quảng), Nam (tức Nam Bộ).

So với các vùng khác, vùng Thăng Long - Hà Nội nói riêng
và cả vùng văn hoá đồng bằng miền Bắc nói chung tiếp thu
ảnh hưởng của Nho học và văn học Trung Quốc sớm nhất.
Sự phát triển của nền văn hoá bác học gắn liền với sự phát
triển của giáo dục. Ở đây, từ năm 1070 đã có Văn Miếu và
năm 1076 đã có Quốc Tử Giám, việc giáo dục Nho học có từ
lâu đời và phát triển hơn các vùng khác. “Trong thời kỳ Đại
Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính
theo tỉ lệ dân số, thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác.
Trong lịch sử 854 năm (1065-1915) khoa cử dưới các triều
vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở vùng
đồng bằng miền Bắc”(14).

Vùng Nghệ Tĩnh có sự phát triển giáo dục đến mức người ta

93
gọi đây là “đất học”. Từ đời Lý đến hết đời Lê, Nghệ Tĩnh có
1/16 số tiến sĩ toàn quốc. Từ thế kỷ XVIII, việc học hành ở
nơi đây đã đuổi kịp vùng đồng bằng miền Bắc. Từ đầu thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX, tức là dưới triều Nguyễn, khi kinh đô
được đặt ở Huế, số người đỗ tiến sĩ ở Nghệ Tĩnh chiếm hơn
1/6 tổng số tiến sĩ của cả nước(15).

Nam Bộ là vùng đất mới, do các thế hệ lưu dân Việt trải qua
vô vàn gian khổ, hy sinh cùng với người Hoa, người Khơ Me
chung sức khai phá và xây dựng nên. Về giáo dục Nho học,
từ giữa thế kỷ XVIII ở đây có những trường tư thục. Đầu thế
kỷ XIX, nhà Nguyễn đã mở các trường công học gọi là nhà
tỉnh học, nhà phủ học. Khoa thi hương đầu tiên mở vào năm
1813; khoa thi hương cuối cùng tổ chức vào năm 1862, sau
đó cả Nam Bộ bị thực dân Pháp thôn tính. Trong vòng 50
năm (1813-1862) cả Nam Bộ có 22 khoa thi hương, tuyển
chọn được 296 cử nhân; trong số cử nhân này có một số ra
kinh đô Huế thi hội, trong số ra thi này có năm người đỗ tiến
sĩ(16). Như thế, Nho học ở Nam Bộ bắt đầu muộn và kết
thúc sớm hơn so với Nho học ở miền Bắc và miền Trung.

Trong quá trình văn hoá Việt tiếp xúc, giao lưu với văn hoá
Hán, dần dần văn hoá Việt đồng văn với văn hoá Hán, nhiều
từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt, được gọi là từ ngữ Hán Việt.
Xét theo nguồn gốc, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam phân
từ tiếng Việt thành hai loại: từ thuần Việt và từ ngoại nhập;
trong bộ phận từ ngoại nhập, từ Hán Việt chiếm một số
lượng rất lớn. Nếu được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì từ
Hán Việt sẽ “góp phần làm cho tiếng Việt trở thành phong
phú hơn, với những khả năng phân biệt tế nhị hơn”(17).
Ngược lại, nếu ai lạm dụng từ Hán Việt thì người đó sẽ
không thành công.

Trong ca dao vùng đồng bằng miền Bắc, sự có mặt của điển
tích Trung Hoa là điều dễ hiểu:

Đôi bên thung cỗi huyên già


Xin người định liệu tôi đà được trông...(18)

94
“Thung huyên” tức “xuân huyên”. Xuân là một thứ cây thời
thượng cổ, cứ 8.000 năm mới là một mùa xuân của nó,
8.000 năm nữa mới là mùa thu của nó. Người đời sau dùng
từ “xuân” để chỉ người cha, với ý mong cho cha sống lâu như
cây xuân, chữ xuân hơi giống chữ thung, một thứ cây cổ
thụ, rồi từ chỗ viết nhầm chữ xuân ra chữ thung, nên thung
cũng dùng để chỉ người cha trong gia đình. Huyên là một
giống cây cỏ, cũng gọi là vong ưu thảo, người ta cho rằng ăn
nó thì giải được phiền. Theo tục Trung Quốc xưa, huyên
tượng trưng cho người mẹ, người ta trồng nó ở chỗ mẹ ở.
Thung huyên là cha mẹ(19).

Như trên đã nói, Thăng Long - Hà Nội nói riêng và vùng


đồng bằng miền Bắc nói chung là nơi tập trung nho sĩ, có
truyền thống Nho học lâu đời và phát triển hơn các vùng
khác. Vậy mà trong ca dao nơi đây ít điển cố Hán học, rất
hiếm có bài mà ở đó có từ một đến nhiều dòng toàn từ Hán
Việt. Trong khi đó, ca dao xứ Nghệ, ca dao xứ Huế, ca dao
Nam Bộ có nhiều điển tích, nhiều từ Hán Việt hơn.

Đây là bài ca dao xứ Nghệ:

Kì sơn, kì thuỷ, kì phùng


Lạ non, lạ nước, lạ lùng gặp nhau
Tri nhân, tri diện, tri tâm
Kháp người, kháp mặt, kháp tri âm với nường(20).

Dòng thứ nhất (đã được dòng thứ hai dịch nghĩa) và dòng
thứ ba (nghĩa là: Biết người, biết mặt, biết lòng) dùng toàn
từ Hán Việt. Còn “kháp” (ở dòng thứ tư) là tiếng địa phương,
có nghĩa là “gặp”.

Bài ca dao xứ Huế dưới đây sử dụng hai điển tích Lam Kiều
(cầu Lam), Đào Nguyên của văn học Trung Quốc:

Đất Lam Kiều ngỡ ngàng khó bước


Động Đào Nguyên lạch nước quanh co

95
Trách mình không đắn nỏ đo
Rã rời duyên nợ oan chưa, hỡi trời!(21)

Điển tích Đào Nguyên đã nhắc đến ở trên. Còn Lam Kiều là
một chiếc cầu thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung
Quốc. Bùi Hàng là người đời Đường, gặp nàng Vân Kiều và
được nàng tặng bài thơ. Bài thơ nhắc đến một người đẹp tên
là Vân Anh. Về sau, Bùi Hàng đi đến Lam Kiều, nhân khát
nước, ghé vào một ngôi nhà lá cạnh đường để xin nước
uống. Bà lão chủ nhà gọi to một người tên là Vân Anh đem
nước ra mời Bùi Hàng. Vì cảm sắc đẹp của Vân Anh, chàng
Bùi lấy cớ bị mệt, xin trọ lại. Bà lão bằng lòng. Tối đến,
chàng đem chuyện bài thơ ra hỏi bà lão, và ngỏ ý muốn hỏi
Vân Anh làm vợ. Bà lão bảo: “Trước đây thần tiên có cho ta
một thìa linh dược, cần có chày cối bằng ngọc để giã thì mới
dùng được. Bao giờ người đem đủ các thứ đó lại đây, ta sẽ
gả Vân Anh cho”. Bùi Hàng ra về, quyết tâm tìm mua bằng
được chày cối ngọc. Khi mua được rồi, Bùi Hàng liền mang
đến Lam Kiều. Thuốc tiên giã trong một trăm ngày thì xong.
Bùi Hàng được cưới Vân Anh làm vợ. Hôm làm lễ cưới, chàng
mới biết rằng, người tặng mình bài thơ trước đây chính là
Vân Kiều, chị ruột Vân Anh. Về sau cả hai vợ chồng cùng lên
cõi tiên. Lam Kiều là điển tích dùng để chỉ nơi người đẹp ở,
hoặc để nói việc nhân duyên, việc trai gái gặp gỡ mà sau
nên vợ nên chồng(22).

Những dòng dưới đây giễu anh chàng hút thuốc phiện (trích
từ một bài ca dao Nam Bộ), nhắc đến nhiều nhân vật trong
các tác phẩm văn học của Trung Quốc (Tây du ký, Tam quốc
diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc):

Anh ví vậy còn sai


Em thấy hoài thật quả
Hễ khi hút đã
Như Hành Giả loạn thiên
Gặp buổi hết tiền
Như Lưu Huyền chạy giặc
Em có nói một hai lời làm mặt Trương Phi

96
Hươi “hoả tim thương”
Dường Na Tra xuất trận
Nằm chình chòng như Tôn Tẫn xem thơ
Mắt lim dim như ông Khổng nghiệm binh cơ
Phà hơi khói như Kinh Kha oán khí
Vui thú yên hà toại chí phong lưu(23).

Bài ca dao xứ Huế dưới đây có hai dòng mở đầu dùng toàn
từ Hán Việt:

Nhất ngôn ký xuất


Tứ mã nan truy
Người đời ai có dại chi
Khúc sông eo hẹp phải tuỳ khúc sông.

Hai dòng chữ Hán có nghĩa là: Một lời đã nói ra, cỗ xe bốn
ngựa cũng không đuổi kịp. Đúng như Ưng Luận đã nhận xét,
chúng “chỉ dùng để đưa vần cho hai câu dưới chứ không có
liên hệ gì với ý nghĩa cả”(24).

Bài ca dao Nam Bộ sau đây chỉ có hai dòng thôi mà đã có


một dòng toàn là từ Hán Việt:

Đại mộc lưu giang bất đắc hồi cố dã


Ruộng đất mãi rồi chuộc lại ai cho(25).

Dòng đầu có nghĩa là: Cây gỗ lớn đang trôi trên dòng sông
không thể quay lại được.

Chúng tôi thấy không cần phải dẫn thêm những bài ca dao
Trung Bộ, Nam Bộ khác mà ở mỗi bài đó có nhiều dòng toàn
dùng từ Hán Việt(26). Trong khi đó, phần ca dao trong cuốn
Ca dao ngạn ngữ Hà Nội do Hội Văn nghệ Hà Nội công bố,
không có một dòng nào dùng toàn từ Hán Việt(27).

Đó chính là “nghịch lý”: Ca dao ở vùng có truyền thống tiếp


thu Nho học và văn học Trung Quốc lâu hơn, sớm hơn lại
không lạm dụng từ Hán Việt, ít dùng điển tích văn học Trung

97
Quốc hơn.

Một cộng đồng cũng như một cá nhân, nếu có bản lĩnh văn
hoá cao hơn những cộng đồng và cá nhân khác trong việc
tiếp thu những yếu tố văn hoá ngoại nhập thì họ sẽ sử dụng
những yếu tố ấy nhuần nhuyễn hơn, thành công hơn, không
sùng ngoại, không sính nói chữ. Xin nêu một thí dụ, nhà văn
hoá Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) là người xứ Nghệ. Sau
khi đỗ tú tài ở Hà Nội, ông sống ở Pháp 27 năm, giỏi tiếng
Pháp đến mức “Tây cũng nể”. Ông còn trau dồi và am hiểu
Hán học. Thế nhưng ông không sính dùng tiếng Tây và chữ
Hán. Cách dùng từ của ông là chính xác. Những từ đó, cách
diễn đạt đó thường quen thuộc với người Việt. Vì vậy, những
bài viết của ông vừa dễ hiểu vừa sâu sắc(28)

_________________
Trần Quốc Tuấn (1228-1300)

Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo) là anh hùng dân tộc,
được dân tôn làm thánh trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng,
ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp
công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên.
Ông là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch
tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Sau khi ông
mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương, lập đền thờ ở
Vạn Kiếp, Chí Linh (Hải Dương).
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay
thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly.
Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ
cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần
Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối
cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ
và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ
rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy
công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang.
Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một

98
đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha
chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận
của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình
thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu
nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn.

Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài.


Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất
chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy
con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa
nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một
lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền
tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã
tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết
giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại
thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam.
Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải.
Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời
một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai
anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người
chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần,
đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.

Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời
Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi
cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải...
Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò
ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của
chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc
Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van
xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho
đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử,
phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên
vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị,
sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống
gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm
dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi,
yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa

99
lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước.

Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng
người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ
Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra.
Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội
quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng "cột đá chống trời". Ông
đã soạn hai bộ binh thư: "Binh thư yếu lược", và "Vạn Kiếp
tông bí truyền thư" để dạy bảo các tướng cách cầm quân
đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết
lời ca ngợi ông: "... Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân
nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh
chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ
rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các
tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng
sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư
tưởng của một bậc "đại bút".

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng
nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con
đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi.
Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng,
ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập
công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công
của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết
theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả
ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập
công lớn.

Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông
đang ốm, có hỏi:

Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm
lấn thì kế sách làm sao?

Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu

100
sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:

Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ,
đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ
8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương
qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào
bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An
Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng,
trồng cây như cũ...

Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại
vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp
phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông
khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng
gọi ông là Hưng Đạo đại vương.

Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân
văn hóa Việt Nam.
( Theo Hà Ân - Trần Quốc Vượng )
Hồi trống Cổ Thành

( Trích Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung )

I . Giới thiệu chung

1.Nguồn gốc tác phẩm

*Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một thành tựu kì diệu


của nền văn học Trung Hoa. Nó hình thành và phát triển rực
rỡ từ thời Minh (1308–1644) và thời Thanh (1644–1911). Từ
những thoại bản, những sự kiện lịch sử được các nhà văn lỗi
lạc sáng tạo nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ mấy nghìn
trang, mấy trăm nhân vật, kết cấu chương hồi phát triển
theo dòng chảy thời gian và lịch sử.

* Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có những bộ tiêu biểu nhất

101
- Tây Du kí: 100 hồi
- Thủy Hử truyện: 120 hồi
- Tam quốc diễn nghĩa: 120 hồi
- Hồng lâu mộng: 120 hồi

2. Tác giả

La Quán Trung sống vào đầu thời Minh đã dựa vào các
chuyện kể dân gian, các truyền thuyết và sử sách để viết
nên bộ “Tam Quốc diễn nghĩa”, tác phẩm hay nhất trong
toàn bộ các tác phẩm tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.

3. Tóm tắt tác phẩm

Tam Quốc diễn nghĩa kể lại cuộc phân tranh trong vòng 87
năm giữa 3 tập đoàn phong kiến: Ngụy, (Tào Tháo), Thục,
(Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền).

- Từ hồi 1 đến hồi 14 (năm 184–190) cuộc khởi nghĩa nông


dân khăn vàng. Đổng Trác thâu tóm quyền hành. Vương
Doãn dùng mĩ nhân kế diệu Trác.

- Từ hồi 15 đến hồi 50 (năm 190–208) Viện Thiệu xưng


hùng rồi đại bại. Tào Tháo tiêu diệt sạch các tập đoàn
phương Bắc, làm chủ trung nguyên Lưu Bị đã có binh hùng
tướng mạnh nhưng chưa có đất. Tào Tháo đại bại ở Xích
Bích. Lưu Bị được đất Kinh Châu: Thế chân vạc Ngụy–Thục–
Ngô hình thành.

- Từ hồi 51 đến hết (208–280) Tào Tháo có binh hùng tướng


mạnh, lúc đánh Ngô, lúc tiến công Thục, thế trận giằng co,
thì Táo Tháo chết. Con là Tào Phi lên thay, phế vua Hán, lập
ra nước Ngụy, quyền hành rơi dần vào tay thừa tướng Tư Mã
Ý.

Lưu bị có mưu sĩ Khổng Minh, có ngũ hổ tướng, thế lực ngày


một mạnh. Lưu Bị lên ngôi vua. Quan Vũ bị Đông Ngô giết.
Trương Phi cất quân đánh báo thù cho anh mà bị hại. Lưu Bị

102
thảm bại về trận hoả công của Đông Ngô rồi ốm chết. Con là
Lưu Thiện nối ngôi. Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”,
“Lục xuất Kỳ Sơn”, sự nghiệp đang dở dang thì ốm chết.
Thục suy vong dần. Năm 263, tướng Ngụy là Đặng Ngải, diệt
Thục, Lưu Thiện đầu hàng. Nhà Ngô có địa thế Giang Đông
hiểm yếu, có binh hùng tướng mạnh, lấy thủ, làm công,
nhiều lần đánh bại Ngụy, Thục. Sau khi Tôn Quyền chết, Tôn
Hạo lên thay, thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm (cháu Tư
Mã Ý), kéo đại binh đánh Đông Ngô, Tấn Hạo đầu hàng. Tư
Mã Ý phế Ngụy, lập ra nhà Tôn thống nhất Trung Quốc.

4. Giá trị của “Tam Quốc diễn nghĩa”

- Ca ngợi những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ, trung dũng,
có tài thao lược một thời loạn lạc.

- Nêu lên khát vọng của nhân dân về một bậc minh quân, về
hòa bình ổn định.

- Xây dựng được những điển hình như Ngũ hổ tướng, (Quan
Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, Mã Siêu), “Ngũ
tuyệt” như Tuyệt nhân (Lưu Bị), Tuyệt trí (Khổng Minh),
Tuyệt nghĩa (Quan Vũ), Tuyệt gian (Tào Tháo), Tuyệt dũng
(nhiều tướng lĩnh của ba phe).

- Kể chuyện dùng mưu, tường thuật các trận đánh hào hùng,
đầy kịch tính, hấp dẫn…. “Hoa Dung lộ”, “Quá Ngũ quan
trảm lục tướng”, “Hồi trống Cổ Thành”, “Thất cầm Mạnh
Hoạch” v.v… Đọc “Tam Quốc diễn nghĩa” không ai là không
nhớ…

- “Tam Quốc diễn nghĩa” từ lâu đã đi vào tuồng, gần đây đã


đi vào Truyền hình làm chấn động 5 châu, 4 biển.

II . Phân tích “Hồi trống Cổ Thành”

1. Tóm tắtđoạn trích

103
Biết tin anh là Lưu Bị ở Hà Bắc trên đất Viên Thiệu, Quan Vũ
đưa hai chị (vợ của Lưu Bị) đi tìm anh. Tào Tháo tránh
không tiếp Quan Vũ đến từ biệt vì muốn lưu giữ Quan Vũ để
dùng. Tháo không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không cho
tướng đuổi bắt. Các tướng giữ ải vẫn không cho Quan Vũ
qua ải, Quan Vũ phải mở đường máu mà đi.

- Qua ải Đông lĩnh chém Khổng Tú


- Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thầu
- Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ
- Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực
- Đến bờ Hoàng Hà, giết Tần Kỳ
- Đến Cổ Thành, Quan Vũ ngỡ là gặp được em xiết bao vui
mừng, ai ngờ Trương Phi “mắt trợn tròn xoe” râu hùm vểnh
ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan
Công”. Bất ngờ Sái Dương lại kéo quân đến bắt Quan Vũ. Phi
càng nghi ngờ… Chỉ đến lúc đầu Sài Dương bị Quan Vũ chém
đứt, Phi mới đánh một hồi trống, Phi mới nguôi giận dần. Và
chỉ sau khi nghe tên lính kể đầu đuôi mọi chuyện,… Phi mới
tin, “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân Trường”.

2. Hình ảnh Trương Phi

Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung
thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng
phu lại thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi thì
Quan Công đã hàng Tào, “được phong hầu tử tước”, đã “bội
nghĩa” đến Cổ Thành là để lập mưu bắt Phi! Nên phải đâm
chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. “Xin hai
chị thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã…”.

- Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo
tin hai chị và Quan Vũ đến, mời Trương Phi ra đón, Phi
“chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên
ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt qua Cửa Bắc”. Hành động
dữ dội, sôi sục “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò
thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Mạt

104
sát Quan Công: “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao
nữa”.

- Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có một


điều kiện “xong 3 hồi trống phải chém đầu tướng Tào” để
làm tin. Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì
Phi mới tin: “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân Trường”. Phục thiện
và biết điều.

Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương
trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong sáng và trung nghĩa.

3. Quan Vũ – đó là một võ tướng: tuyệt nghĩa. Vượt qua


nguy hiểm để đi tìm anh, quá ngũ quan trảm lục tướng.

4. Nghệ thuật: “Hồi trống Cổ Thành” hấp dẫn bởi tình


huống và kịch tính.

Tình huống1: Trương Phi ngỡ là Quan Công đến lừa bắt mình
nộp Tào Tháo. Phi phải giết Quan Công.

Tình huống 2: Sái Dương mang quân đến hỏi tội Quan
Công… Phi ngỡ là âm mưu của Quan Công.

Tình huống 3: Trương Phi đánh ba hồi trồng thì Quan Công
phải chém chết Tào. Đầu Sái Dương bị Quan Công chém lăn
dưới đất, Trương Phi vừa đánh xong một hồi trống. Mâu
thuẫn được giải quyết, Phi khóc, thụp lạy Vân Trường.

Nhân vật được miêu tả bằng hành động các tình tiết diễn
biến nhanh, đẩy xung đột nên căng thẳng và hấp dẫn.

Tóm lại, “Tiếng trống Cổ Thành” vang lên là đầu giặc bị


chém rụng xuống đất để người anh hùng minh oan bằng tài
năng. Đó là tiếng trống hội ngộ của tình nghĩa, của lòng
trung thực, của khí phách anh hùng. Cũng là tiếng trống
thúc quân, tiếng trống thắng trận tưng bừng giòn giã.

105

You might also like