You are on page 1of 93

DAPANDETHI.BLOGSPOT.

COM

MỤC LỤC
Trang
ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN
1. Đôi nét về CNTB
2. Các thời kì truyền thông chính trị ở các nước TBCN
3. Báo chí ở xã hội TBCN qua 1 số giai đoạn tiểu biểu
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN
ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị
2. Báo chí là công cụ quản lý xã hội
3. Báo chí là công cụ tăng trưởng lợi nhuận
CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI
VỚI BÁO CHÍ
I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ
1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí
2. Sự liên minh, tập trung hóa trong hoạt động truyền thông
3. Can thiệp thông qua đạo đức báo chi
II. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP TRỰC TIẾP TỚI BÁO CHÍ
1. Can thiệp bằng luật báo chí
2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật
CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN
ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể về tính chân thực và tiarage
2. Độc giả mất lòng tin
CHƯƠNG V: LIÊN HỆ VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM
1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt
2. Sau 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do
3. Báo chí Việt nam hiện nay
4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm VD)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI
Hiện nay, rất nhiều quan niệm cho rằng chỉ có báo chí ở các nước TBCN
mới có tự do. Còn báo chí ở các nước XHCN hoàn toàn nằm trong sự bó
buộc, giám sát của chính quyền. Cũng không ít luận điệu của phe phản động
cho rằng Việt Nam cần phải thay đổi thể chế chính trị thì mới có thể có nền
báo chí tự do. Trên đài BBC tiếng Việt, có rất nhiều người Việt Nam phản đối
những luận điệu không đúng thực tế này. Tuy nhiên, họ mới chỉ đưa ra lời

2
phản đối mà không đưa ra được minh chứng và cũng không làm được điều
ngược lại đó là đưa ra các dẫn chứng về sự “không tự do” của báo chí TBCN.
Lấy một ví dụ về những luận điệu không đúng thực tế:
“Dưới thể chế độc tài, tại sao chính quyền lại luôn chủ trương kiểm soát
gần như tuyệt đối các phương tiện truyền thông? Tại sao không có đến thậm
chí một phương tiện truyền thông đại chúng nào được hoạt động độc lập dưới
các nhà nước cộng sản như Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam và Bắc Hàn?
Dưới thể chế dân chủ phóng khoáng (liberal democracy), tại sao các hệ
thống chính trị thường phải dồn tối đa nỗ lực, trí tuệ để khai dụng, bằng một
phương cách khôn ngoan, khéo léo nhưng không kém phần gay gắt, các
phương tiện truyền thông tự do, để thuyết phục và gây ảnh hưởng lên dân
chúng về chính sách của họ?
Hay phải chăng mọi thể chế chính trị đều nỗ lực tác động lên tư tưởng,
bằng cách thuyết phục và quảng cáo trong thể chế dân chủ, hay bằng cách
kiểm soát và tuyên truyền trong thể chế độc tài, với mục tiêu tối hậu là giành
lấy sự ủng hộ ngắn hạn và sự hậu thuẫn lâu dài của dân chúng? Nói cách khác,
trong thể chế độc tài, quan hệ giữa chính trị và truyền thông, ngoại trừ
truyền thông mật (ngoài luồng), phần lớn mang tính một chiều, mà chủ yếu
là chính trị điều khiển truyền thông. Ngược lại, trong thể chế dân chủ
phóng khoáng, tự do thông tin ngôn luận, đặc biệt từ khi xuất hiện tràn
ngập các phương tiện truyền thông đại chúng, không những là quan hệ hai
chiều giữa chính trị và truyền thông, mà nhiều khi truyền thông đã chủ
động, cả tích cực lẫn tiêu cực, uốn nắn cung cách hoạt động của giới chính
trị” (Trích từ “Truyền thông và chính trị” của Phạm Phú Đức, ngày 17/1/2007)
Thế nào là tự do báo chí? Ở các nước TBCN, tự do báo chí đạt tới ngưỡng
nào? Có phải báo chí ở các nước TBCN muốn viết gì, nói gì cũng được, chỉ
cần đó là sự thực?
Chúng tôi lấy quan điểm tự do báo chí của Karl Marx làm kim chỉ nam cho
công cuộc vạch ra những điểm không tự của báo chí TBCN:

3
"Báo chí tự do – đó là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân, là hiện
thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết
nói gắn liền các cá nhân với nhà nước và với toàn thế giới. Nó là hiện thân
của nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tinh
thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đấu tranh đó. Báo
chí tự do – đó là sự sám hối công khai của nhân dân trước bản thân mình, mà
lời thú nhận thật tâm như mọi người đều biết thì có cơ cứu rỗi. Báo chí tự do
– đó là tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình mà
sự tự nhận thức là điều kiện đầu tiên của sự sáng suốt..."
"Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người. Do đó ở đâu có
báo chí ở đó có tự do báo chí".
"Bản chất" của báo chí tự do – đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo
đức của tự do".
"Báo chí tự do là toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái gì cũng biết. Báo chí
tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực tế hiện thực và lại
chảy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí dưới hình thức của cái
tinh thần ngày càng dồi dào".
"Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân với tư cách là lý
tính, nhưng cũng không kém phần với tư cách là tình cảm. Vì vậy báo chí
không chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối
quan hệ hiện tồn từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy nhiệt
tình của bản thân cuộc sống"...
"Báo chí tự do đem tình trạng (bần cùng) của nhân dân dưới hình thái trực
tiếp của nó, không bị khúc xạ qua bất kỳ giới quan liêu nào tới ngưỡng cửa
của quyền uy (nhà vua), đưa nó tới trước quyền lực của nhà nước... Báo chí
chẳng qua chỉ là và phải là "biểu hiện" vang dội của những tư tưởng và tình
cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân –
biểu hiện thật ra đôi khi nồng nhiệt, phóng đại và sai lầm".

4
"Trong hy vọng và lo lắng có điều gì báo chí nghe được ở cuộc sống, báo
chí sẽ lớn tiếng loan tin, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những
tin tức đó một cách gay gắt, hăng say, phiến diện như những tư tưởng và tình
cảm bị xúc động thầm bảo nó vào lúc đó".
Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này bằng phương pháp chứng minh phản
chứng, với vấn đề “sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí”, để từ
đó thấy rằng, báo chí ở các nước TBCN không phải lúc nào cũng tự do, thậm
chí còn bị xâm hại về quyền lợi.
Bài tiểu luận gồm có 5 chương:
- Chương I: Khái quát chung về báo chí TBCN. Qua đó thấy rõ bức tranh
tổng thể của báo chí TBCN.

Mô hình xã hội phương Tây


- Chương II: Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của sự can thiệp của các nước
TBCN đối với báo chí.
- Chương III: Đưa ra các hình thức can thiệp của nhà nước TBCN đối với
báo chí
- Chương IV: Hệ quả của quá trình có bàn tay can thiệp của nhà nước
TBCN đối với báo chí

5
- Chương V: Liên hệ với báo chí Việt Nam để thấy rõ nền báo chí dân chủ
hoạt động tự do trong khuôn khổ cho phép và được bảo vệ quyền lợi.
Hy vọng rằng, cuốn tiểu luận này sẽ củng cố thêm cho người đọc lòng tin
vào tự do báo chí ở Việt Nam trong giai đoạn có nhiều biến động này. Tiểu
luận còn nhiều thiếu sót về dẫn chứng và nhiều chỗ phân tích, bình luận còn
chưa chặt chẽ. Vì vậy rất mong sự góp ý của Thầy và các bạn. Xin chân thành
cảm ơn!

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN


Báo chí ở các nước TBCN có gì khác so với báo chí ở các nước khác? Báo
chí TBCN hình thành, phát triển như thế nào? Và trong suốt quá trình đó, có
thực sự báo chí TBCN luôn mang trên mình “cây quyền trượng tự do ngôn
luận”? Trong chương này, chúng tôi sẽ giải quyết những vấn đề đó.

6
1. Đôi nét về CNTB
Nền văn hóa, quan điểm văn minh ảnh hưởng rất lớn tới phong cách,
đường lối của báo chí. Đặc biệt dưới hình thái xã hội tư bản, báo chí có
những nét riêng biệt nhất định. Tìm hiểu về cơ sở xã hội để thấy rõ hơn về
bản chất của báo chí tại đây.
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội phát triển cao của xã hội
loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng
xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã
hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18
hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn
toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý
tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra
khắp châu Âu và thế giới.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu tư nhân đối
với phương tiện sản xuất và quyền tự do kinh doanh được xã hội bảo vệ về
mặt luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của
con người. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở
hữu nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một số thời
điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ, nhưng điều cơ
bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội
cộng sản là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện
sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền
sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định.
Còn chủ nghĩa cộng sản loại trừ quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân
để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận
thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân
chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào
quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là

7
thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các
yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh
tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động,
định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái
niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2. Các thời kì truyền thông chính trị
Chúng tôi tạm chia truyền thông trong chính trị ra làm 4 thời kì, đánh dấu
những bước phát triển quan trọng sứ mệnh chính trị của truyền thông. Từ đó
thấy rằng, ở nhà nước TBCN, truyền thông không thể tách rời chính trị và
không thể chối bỏ nhiệm vụ là công cụ của chính quyền.
2.1 Thời kỳ ‘0’
Có thể được xem là thời kỳ khai sinh nền truyền thông. Truyền thông vào
lúc này chủ yếu là báo chí, mà báo chí lại đi đôi với chính trị (chính quyền)
ngay từ ban đầu.
Thí dụ, đối với Úc, báo chí là một chi nhánh của chính quyền, điển hình
như tờ Sydney Gazette xuất bản năm 1803, chủ yếu là để đưa thông tin của
chính quyền đến người dân, và mãi cho đến năm 1826, chính quyền Úc gần
như nắm hoàn toàn quyền hành đối với báo chí (Theo Schultz, Julianne,
Reviving the Fourth Estate. Democracy, Accountability and them media,
Cambridge University Press, Cambridge, 1998 - Trang 81). Tuy nhiên, vào
năm 1824, một số tờ báo bắt đầu được xuất bản tại tiểu bang NSW mà không
có sự đỡ đầu nào từ chính quyền, từ đó khai mào cho sự hoạt động độc lập sau
này. Tuy nhiên, cả một thế kỷ tiếp theo đó, quan hệ giữa truyền thông và
chính trị là một sự chồng chéo phức tạp giữa kinh tế cũng như quyền lực và
ảnh hưởng. Ngay cả đến cuối thập niên 1930, truyền thông vẫn chủ yếu thiên
đảng (tức nghiên về một đảng nào đó), chứ vẫn chưa đứng khách quan, độc
lập... Ông Keith Murdoch, bố của Rupert Murdoch (là một trong những chủ
nhân sở hữu nhiều phương tiện truyền thông đại chúng nhất trong nhiều thập
niên qua), lúc đó chỉ sở hữu vài tờ báo trên nước Úc, nhưng từng tuyên bố về

8
cựu Thủ Tướng Úc, Joseph Lyons (1932-1939), rằng "Tôi đã đưa ông ấy vào
ghế đó và tôi sẽ đưa ông ra khỏi ghế đó" (ông Murdoch đã thực sự làm được
việc đó). Cho nên, nói tóm lại, quan hệ giữa truyền thông và chính trị là một
mối phức tạp, luôn thay đổi nhưng vẫn luôn chặt chẽ không thể tách rời, dù
trên lý thuyết (như hiến pháp) nó phải được tách rời hẳn hoi.
2.2. Thời kỳ 1
Đó là hai thập niên sau Thế chiến thứ hai, được xem là thời kỳ hoàng kim
của các đảng phái chính trị. Trong thời gian này, hệ thống đảng là nơi chủ
chốt đề xướng các cuộc tranh luận để cải tổ xã hội, và là nơi chủ yếu quyết
định chính sách. Cử tri thì thường có một sự liên hệ (cảm tình viên, ủng hộ
viên...), với các đảng phái vững mạnh và hiện hữu lâu dài. Sự tin tưởng và
đồng thuận của quần chúng đối với các định chế chính trị rất cao, do đó truyền
thông chính trị chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin cũng như các định chế chính
trị vững mạnh và ổn định. Vào lúc này, các nhà lãnh đạo chính trị thường nói
về những vấn đề họ quan tâm, đặc biệt là những thay đổi họ muốn thấy từ
chính quyền cũng như các chính sách và nguyên tắc mà phân biệt họ với các
phiá đối lập. Nói chung, vào lúc này, các thông điệp chính trị đúng đắn
thường dễ được các phương tiện truyền thông loan tải, phổ biến.
2.3. Thời kỳ 2
Đó là thời điểm mà truyền hình xuất hiện, với một số đài giới hạn phát
hình toàn quốc, và sau đó trở thành phương tiện truyền thông chính trị chính.
Sự xuất hiện của truyền hình, thể hiện rõ nhất qua cuộc tranh cử tổng thống
Hoa Kỳ năm 1960 giữa John Kennedy và Richard Nixon, đã thay đổi bộ mặt
truyền thông chính trị. Lúc này, phần lớn các cơ quan truyền thông bắt đầu
đứng độc lập, không nghiêng hẳn về đảng nào, đề cao tính cách công bằng,
không thiên vị, khách quan và trung lập. Các giá trị này dần dần được xem là
tiêu chuẩn mẫu mực để đánh giá sản phẩm truyền thông. Do các yếu tố nêu
trên, các đảng chính trị không còn nhiều ảnh hưởng như trước đối với truyền
thông, và ngay cả các cơ quan truyền thông do các đảng chính trị nuôi dưỡng

9
cũng không thể hoạt động hiệu quả trong thời kỳ cạnh tranh này, bởi cảm
nhận của đa số người dân là không còn xem nó là khách quan và trung thực
nữa. Do đó, các đảng chính trị phải đưa ra những sáng kiến và chiến thuật mới
để thu hút giới truyền thông, để được truyền thông loan tải tin tức theo chiều
hướng có lợi cho mình, và để ảnh hưởng lên chương trình nghị sự của giới
truyền thông, ví dụ như họp báo là hình thức có thể chủ động để đưa ra các
quan điểm đã chuẩn bị sẵn. Cũng vào lúc này, các chủ đề vận động tranh cử
phải được thử nghiệm trước, và các chính trị gia không được khuyến khích nói
ra những gì mình suy nghĩ như trước kia mà thường phải tham khảo ý kiến
của giới chuyên gia để lượng định kết quả (tích cực hay tiêu cực) trước khi sự
việc xảy ra, để rồi đi đến kết luận và lấy quyết định nên hay không nên nói
những gì qua truyền thông.
2.4. Thời kỳ 3 (đã, đang và vẫn còn tiếp diễn)
Giai đoạn này được đánh dấu bởi sự tràn ngập của các phương tiện truyền
thông đại chúng, từ báo chí, truyền thanh, truyền hình, đến truyền thông mới
(Internet). Hai giáo sư của lĩnh vực truyền thông Blumler và Kavanagh cho
rằng có 5 chiều hướng bao gồm các đặc điểm truyền thông chính trị như sau:
1- Sự gia tăng chuyên nghiệp trong cung cách vận động chính trị
2- Sự gia tăng áp lực cạnh tranh
3- Đại chúng hoá và chủ nghĩa quần chúng phản trí thức (hay phản ưu tú,
tức Anti-elitist)
4- Sự đa dạng hoá ly tâm (Centrifugal diversification)
5- Sự tiếp nhận của khán - thính - độc giả về chính trị
Để dễ phân tích và nhận định, xin tóm tắt 5 đặc điểm lại như sau:
Gia tăng sự cạnh tranh và vận động chính trị: Trong thời đại này, các
nguồn gây ra áp lực trên chính trị và truyền thông là nhiều hơn bội phần so
với hai thời kỳ trước. Trong môi trường mới như thế, để thông tin, thuyết phục
hay đặt để vấn đề gì, chính trị phải có khả năng thu hút các nhà báo, chủ báo
và khán - thính - độc giả. Sự tràn ngập thông tin đã làm cho khán thính độc

10
giả tự nhiên thấy cần phải chọn cái gì thích hợp với mình nhất, từ đó văn hoá
“lựa và chọn” nảy sinh, cho nên truyền thông không còn mang nặng tính thiên
đảng nữa. Những chương trình chính trị hoàn toàn nghiêm chỉnh không còn
được xem là thu hút đối với đại đa số quần chúng hỗn hợp (thay vào đó là
phương cách nửa thông tin nửa giải trí - infotainment). Giới chính trị (đảng
phái và chính trị gia) đã phải tìm phương cách mới để ảnh hưởng lên truyền
thông, và do đó phải lệ thuộc khá nhiều vào sự giúp đỡ của giới chuyên môn
trong lãnh vực truyền thông để trau dồi, gia tăng khả năng thuyết phục. Kể từ
đó, đại đa số các chính quyền và đảng phái ở Hoa Kỳ, Anh, Úc đều bắt đầu
hình thành các bộ phận truyền thông (tuy trước đây đã có nhưng không mang
tầm quan trọng, chuyên môn và chiến lược như lúc này) để quản lý thông tin
và quan hệ quần chúng.
Đại chúng hoá, chủ nghĩa quần chúng và đa dạng hoá theo chiều hướng
phản trí thức: Đầu thập niên 1990 xuất hiện các làn sóng đại chúng hoá và chủ
nghĩa quần chúng mang tính cách phản trí thức trong lĩnh vực chính trị và
truyền thông. Trong các thời kỳ trước, thí dụ như thời kỳ 2, khán thính độc giả
nói chung rất giống nhau, và nội dung các chương trình của truyền thông đại
chúng thật ra không khác nhau nhiều lắm. Phần lớn, truyền thông chính trị là
từ trên đi xuống, và đa số các vấn đề (chính sách, chiến lược v.v...) được
hoạch định và thảo luận trong đảng, nhưng cũng chủ yếu do giới ưu tú/ trí
thức cầm đầu. Những thông điệp chính trị thì nhắm vào đại đa số cử tri. Tuy
nhiên, trong thời kỳ 3, khi có quá nhiều chọn lựa thì số lượng khán thính độc
giả cho bất cứ một chương trình nào đó đều bị giảm đi, và họ có thể chọn
nghe hoặc không nghe, do đó các chương trình tin tức mang tính cách nặng nề
và áp đặt rất khó được chấp nhận như trước. Các chương trình truyền thông về
chính trị phải được thực hiện một cách hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Giới chính trị
phải nói theo ngôn ngữ bình dân hơn, và phải tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của
người dân thường, điển hình qua các chương trình hội luận (talk-shows, hay
talk-back radios). Sự xuất hiện của phương tiện truyền thông mới Internet, và

11
chính trị trên Internet, đã ngày càng gây nhiều ảnh hưởng và trở thành một
phương tiện có thể dùng để vận động chính trị cho các nhóm có chung quyền
lợi, sở thích ở trong hay ngoài lục địa quốc gia.
Khả năng tiếp thu của dân chúng về chính trị: Khi văn hoá “lựa và chọn”
xuất hiện, và khi thông tin bị tràn ngập và do ảnh hưởng của các quan điểm
chính trị khác nhau tác động, cách thu nhận các luồng thông tin của khán thính
độc giả cũng bị ảnh hưởng sâu rộng. Người dân được tiếp cận với các loại
chương trình chính trị mang tính cách ngoạn mục, gây cảm xúc mạnh, và lắm
khi tiêu cực. Ngoài ra, họ cũng tiếp thu luồng thông tin chỗ này và chỗ kia nên
cũng không biết hư thực ra sao, và không thể đan kết lại với nhau để hệ thống
hoá và không thể tiêu hoá nổi lượng thông tin đó. Cho nên nhiều khi mức độ
hiểu biết/ kiến thức của dân chúng có thể kết luận là phát triển bề rộng nhiều
hơn là bề sâu.
Nói chung, truyền thông chính trị đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu
không muốn nói hàng đầu, đối với mọi hoạt động chính trị và mọi giới chính
trị trong thời đại này. Cho nên, mọi quyết định chính trị hiện nay, không nhiều
thì ít, đều bao gồm yếu tố truyền thông trong đó.

3. Báo chí ở xã hội TBCN qua một số giai đoạn tiêu biểu
Chúng tôi tổng hợp 2 giai đoạn theo cách phân loại của Pierre Albert
trong bộ sách Que sais je?: giai đoạn thế kỉ 17, 18- báo chí có sự tiến bộ và
đa dạng hóa và giai đoạn đầu thế kỉ 19 đến năm 1871- thời kì công nghiệp
hóa và dân chủ hóa báo chí. Qua nền báo chí ở nhiều nước TBCN trong hai
giai đoạn này, chúng tôi làm rõ được phần nào bức tranh mang tên Tự Do
của báo chí TBCN. Từ khi ra đời đến khi bắt đầu có những bước phát triển,

12
báo chí TBCN chưa từng có khoảng thời gian “tự do” theo đúng nghĩa mà
TBCN vẫn rêu rao.
Kiểm soát truyền thông - Những thành tích ngoạn mục của tuyên truyền
(Media control - The spectacular achievements of propaganda) của Noam
Chomsky là một cuốn sách viết về vấn đề và tư tưởng trong các xã hội dân
chủ đương đại. Rất nhiều người lầm tưởng rằng vấn đề kiểm soát truyền thông
và tư tưởng chỉ có trong các xã hội toàn trị, nhưng thực chất nó tồn tại trong
tất cả các quốc gia hiện nay, kể cả Mỹ và Tây Âu, tuy ở các hình thức khác
nhau thô thiển hay tinh vi, đơn giản hay phức hợp, công khai hay che giấu.
Chomsky viết rằng: "Tuyên truyền của nhà nước, khi được các tầng lớp có
học ủng hộ và khi không có sự trệch hướng được cho phép, có thể có hiệu quả
lớn. Đó là bài học được Hitler và nhiều người khác học thuộc và nó vẫn còn
được tiếp tục cho đến tận hôm nay." Nền dân chủ khán giả và quan hệ công
chúng chính là các hình thức kiểm soát truyền thông và tư tưởng hữu hiệu.
Mục đích của quan hệ công chúng (public relations) chính là "kiểm soát nhận
thức của công chúng" (Chomsky sử dụng từ public mind). Nhiều người lầm
tưởng rằng quan hệ công chúng chỉ là một hình thức quảng cáo hay kinh
doanh thuần túy. Nhưng đó chỉ là bề nổi, là bộ mặt bên ngoải, còn bản chất
bên trong chính là kiểm soát tư tưởng thông qua truyền thông. Khi hệ thống
chính trị áp dụng một cách nhuần nhuyễn quan hệ công chúng đó là lúc tuyên
truyền nhà nước thu được các kết quả ngoạn mục. Chomsky còn có nhận xét
thế này: "Lý thuyết dân chủ tự do và chủ nghĩa Marx - Lenin rất gần nhau
trong những giả định tư tưởng chung của chúng."
Chomsky nêu ví dụ rất hay về tuyên truyền qua hình thức quan hệ công
chúng. Đó là trận đình công ngành thép vào năm 1937 ở Tây Pennsyvalnia.
Các phương thức cũ chống đình công không hiệu quả. Và thế là người ta nghĩ
ra cách mới chống đình công: quan hệ công chúng. Mục đích của quan hệ
công chúng là làm sao để tất cả mọi người phản đối những người đình công,
và cho mọi người thấy những người đình công như là những kẻ phá hoại và

13
gây hại đối với những lợi ích chung và công cộng. Và thế là các giá trị Mỹ
(Chomsky dùng từ Americanism, chúng tôi tạm dịch là các giá trị Mỹ) được
đề cao cổ vũ mọi người trong một tinh thần hòa hợp. Truyền thông được huy
động làm việc này. Ai có thể chống lại giá trị Mỹ? Ai có thể chống lại sự hòa
hợp? Không ai cả. Nhận thức của công chúng được điều chỉnh theo tuyên
truyền. Mọi người cứ tưởng rằng tư tưởng và nhận thức của mình rất được tự
do, rất được dân chủ, nhưng thực chất đều đã bị điều chỉnh, đã bị kiểm soát
một cách rất tinh vi. Và kết quả đình công bị dập tắt. Những khẩu hiệu được
đưa ra, những khẩu hiệu không ai cảm thấy không thể đồng ý hay phản đối,
nhưng thực ra rỗng tuếch, không chứa bất cứ một nội dung thực tế nào, làm
cho công chúng không còn nhận ra bản chất thực sự của vấn đề.
Ví dụ gần đây, không phải do Chomsky viết trong sách, là chiến dịch tuyên
truyền Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt. Cực kỳ hiệu quả, không chỉ trong
nước Mỹ, mà gần như trên toàn thế giới. Điều kỳ lạ là khi không ai có thể tìm
ra vũ khí hủy diệt ở Iraq, công chúng vẫn không cảm thấy mình bị lừa, hay bị
tuyên truyền. Sự kiểm soát truyền thông và tư tưởng có thể nói đạt tới cảnh
giới rất cao, cấp độ mà giới truyền thông ở một số nước còn lâu mới đạt tới.
Sự thành công của tuyên truyền nhà nước không khỏi không có sự ủng hộ của
tầng lớp có học. Nhưng có một điều lạ nữa là những tầng lớp có học ủng hộ
tuyên truyền này không bị (hay tự) dán mác "phò". (Tài liệu dịch).
Trích tiểu sử tác giả: Avram Noam Chomsky, Ph.D (sinh 7 tháng 12,
1928 tại East Oak Lane thuộc vùng ngoại ô của Philadelphia, Pennsylvania)
là Giáo sư về hưu (Emeritus) về ngôn ngữ học tại Massachusetts Institute of
Technology. Chomsky nhận bằng Ph.D về ngôn ngữ học từ Đại học
Pennsylvania vào năm 1955. Ông tiến hành các nghiên cứu cho luận án của
mình trong suốt 4 năm ở Đại học Harvard như là Harvard Junior Fellow.
Trong luận án tiến sỹ, ông bắt đầu phát triển một số ý tưởng về ngôn ngữ của
mình, phát triển thêm trong cuốn sách xuất bản năm 1957 Syntactic
Structures (Các cấu trúc ngữ pháp), có lẽ là công trình được nhiều người biết

14
nhất trong ngành ngôn ngữ học. Chomsky gia nhập như là giảng viên của
Massachusetts Institute of Technology vào năm 1955 và vào 1961 được phong
hàm giáo sư trong Khoa Ngôn ngữ hiện đại và ngôn ngữ học (nay là Khoa
ngôn ngữ học và Triết học). Từ 1966 đến 1976 ông nắm Ferrari P. Ward
Professorship of Modern Languages and Linguistics. Vào 1976 ông được
phong Institute Professor. Chomsky giảng dạy tại MIT một cách liên tục trong
50 năm qua.
Và 2 giai đoạn phát triển của lịch sử báo chí sau đây sẽ chứng minh nhận
định kiểm soát truyền thông của Noam Chomsky:
3.1. Thế kỉ XVII và XVIII
Đây là thời kì báo chí có sự tiến bộ và đa dạng. Tuy nhiên, để có được
thành quả này, báo chí đã phải vượt qua chế độ kiểm duyệt khắt khe kìm hãm,
bất chấp chế độ đặc quyền và bất chấp mọi sự kiểm duyệt.
3.1.1. Báo chí Anh: đấu tranh giành quyền lực (1621 – 1791)
Từ 1621 đến 1662, thực ra báo chí Anh sống dưới chế độ độc quyền, mà
tình hình chính trị bất an (do nội chiến) làm cho rắc rối thêm. Những tờ báo
hợp pháp có đời sống vất vả và ngắn ngủi. Dưới triều Tudor và đầu triều
Stuart, báo chí được đăng những tin chính thức của triều đình, thậm chí từ
1632 đến 1641 còn bị cấm không đăng các tin tức nước ngoài. Nghị viện thiết
lập chế độ kiểm duyệt chặt chẽ báo chí, do đó năm 1644 mới ra đời cuốn
Aeropagitica của Milton đấu tranh kịch liệt đòi tự do báo chí, tuy nhiên nói về
sách nhiều hơn báo.
Nền quân chủ được khôi phục năm 1660 càng làm chế độ đối với báo chí
thêm khắc nghiệt. Năm 1662, các báo bị cấm không được tường thuật các
phiên họp của Nghị viện, và pháp lệnh licensing act củng cố thêm việc ra báo
phải xin phép trước và bị kiểm duyệt. Chỉ đến 1695, sáu năm sau cuộc Cách
mạng 1688, pháp lệnh này mới hết hiệu lực. Trong vòng một thế kỷ, báo chí
Anh được hưởng tự do tương đối và đóng vai trò quyết định trong cuộc đấu
tranh giữa phái whigs (cấp tiến) và tories (bảo thủ). Tuy nhiên tính độc lập của

15
các báo là có giới hạn: báo chí luôn luôn bị truy tố ra tòa, và các chính phủ
thường dùng tiền bạc để khống chế báo chí. Từ 1712, Nghị viện hoảng sợ
trước thanh thế của báo chí, ra lệnh đánh tem thuế rất nặng vào từng số báo
xuất bản và vào quảng cáo; tuy nhiên biện pháp ấy không ngăn nổi số bản in
của báo chí tăng tới 8 lần từ 1712 đến 1757. Sau hơn một nửa thế kỷ chống
đối và cấm đoán, đến năm 1771, Nghị viện mới cho phép các báo tường thuật
các phiên họp. Pháp lệnh libel act được thông qua năm 1792 quy định cụ thể
các trường hợp nhà báo phải chịu truy tố trước pháp luật. Nghe có vẻ tự do,
thực ra đây là một sự cứng rắn thêm trong thái độ của chính phủ với báo chí.
3.1.2. Báo chí Đức bị kiểm duyệt đè nặng (1610 – 1792)
Các cuộc chiến tranh trong nửa đầu thế kỷ XVII không tạo thuận lợi cho
việc xuất bản tờ Gazette. Ở một đất nước có rất nhiều xưởng in, các đảng phái
đấu tranh lẫn nhau dùng các tờ bút chiến, tờ bướm khác nhau để tuyên truyền
cho mình, hơn là dùng báo. Hòa bình lập lại năm 1648 tạo điều kiện cho rất
nhiều báo định kỳ ra đời ở khắp các xứ lớn, nhỏ trong Đế chế: năm 1701 có
57 đầu báo, năm 1780 có 138, năm 1788 có 182, năm 1800 có 193. Chúng
được đặt dưới chế độ phép tắc và kiểm duyệt rất nghiêm ngặt - đặc biệt ở
nước phổ dưới thời Frédéric II - và chịu những phán quyết rất độc đoán của
chính quyền. Do đó những báo đó tồn tại không lâu và nội dung không có gì
đáng chú ý.
Tuy nhiên, một số tờ báo cũng sống lâu, như tờ Magdeburgische Zeitung
(Báo Magdeburg) (1644) hoặc tờ Berlisichen... Zeitung (Báo Berlin), còn gọi
là Vossische Zeitung, theo tên của người xuất bản, ra đời năm 1722, mà
Lessing công tác từ năm 1751 đến 1755, hoặc tờ cạnh tranh với nó là Berliner
Nachrichten (Tin tức Berlin) (còn gọi là Spenersche Zeitung), thành lập năm
1740, tờ Kolnische Zeitung (Báo Koln) ra đời năm 1763; hoặc có một số tờ
được tương đối hoan nghênh như FrankFurter Journal năm 1680 ra tới 1.500
bản. Tờ nhật báo đầu tiên xuất bản năm 1660 tại Leipzing dưới cái tên

16
Neuienlauffende Nachricht von Kriegs - und Welthandeln (Tin tức nóng sốt
về chiến tranh và thế giới).
Những tờ báo có tính toàn quốc sống rất chật vật do bị kiểm duyệt, phát
hành khó khăn do bị sự chia rẽ về chính trị cản trở. Theo gương tờ Journal des
Savants, năm 1682 tại leipzing ra đời các tờ Act eruditorum bằng tiếng Laitnh;
tập thử nghiệm Monatsgesprsche (Đàm thoại tháng) của Christian Thomasius
năm 1688 có cuộc sống ngắn ngủi, nhưng tờ tạp chí văn học và triết học này
sẽ sản sinh ra nhiều tờ kế tiếp. Ở thế kỷ XVIII, nhiều tạp chí loại này, thường
xuất bản ở Hambourg, lăm le ra mắt nhưng không thu nhiều kết quả. Những
Intelligenz blattern (Báo trí thức) là những tờ quảng cáo đơn thuần, mọc ra
như nấm: tờ đầu tiên tung ra năm 1722 tại Francfort.
Trong đế chế của triều Habsbourg, sự kiểm soát đối với báo chí còn rất
ngặt nghèo hơn, nên các báo hiếm hơn, ra đời chậm hơn ở Đức. Năm 1781,
Joseph II nới lỏng kiểm duyệt nên báo chí nở rộ, nhưng đến 1789 lại tăng
thuế, rồi 1791 lập lại chế độ kiểm duyệt làm nhiều báo buộc phải đóng cửa,
nếu không thì cũng sống vật vờ.
3.1.3. Báo chí Pháp thời kì Cách Mạng và Đế Chế (1789 – 1815)
Cuộc cách mạng Pháp đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử báo chí. Với
báo chí các nước khác, nếu nó chỉ gây những hậu quả gián tiếp – mà phải nói
là cơn chấn động cách mạng và chính sách chống lại của các nền quân chủ đã
làm đảo lộn làng báo Tây Âu, trừ nước Anh – thì Cách Mạng, lần đầu tiên đã
xác định, và có lúc đã thực thi, những nguyên tắc lớn của tự do báo chí. Và
suốt thế kỉ XIX, những nguyên tắc ấy sẽ trở thành nội dung yêu sách của các
nhà báo trên toàn thế giới. Cho đến nay, điều XI của bản Tuyên ngôn Nhân
quyền ngày 26-8-1789: “sự tự do giao lưu tư tưởng và chính kiến là một trong
những quyền quý nhất của con người: mọi công dân đều có thể tự do nói, viết,
in, trừ khi lạm dụng tự do ấy thì phải chịu trách nhiệm trong những trường
hợp do luật pháp quy định” vẫn là lời tuyên bố nổi bật nhất của nguyên tắc tự

17
do báo chí. Đồng thời, việc bãi bỏ hệ thống hội đoàn cũng gỡ bỏ mọi cản trở
cho hoạt động của các xí nghiệp và cho việc hành nghề.
Thời kì cách mạng làm cho báo chí có bước bột phát đặc biệt tương xứng
với mối quan tâm sít sao của công chúng đối với biết bao sự kiện long trời lở
đất: từ 1789 – 1800, ra đời tới hơn 1.500 đầu báo mới, nghĩa là trong 11 năm,
tăng gấp đôi so với cả 150 năm cộng lại. Thời kì này đã phát hiện ra sức mạnh
của chính trị của báo chí, mà trước đó chỉ đóng vai trò thứ yếu. Sau ngày 10-
8-1972, các báo bị đàn áp dữ dội; và dưới thời Đế Chế, báo chí bị kiểm soát
găt gao là những bằng chứng cho thấy từ nay báo chí trở thành nguy cơ đáng
gườm đối với những chính quyền chuyên chế. Song song với những sự kiện
thời sự, đời sống báo chí vô cùng sục sôi.
3.2. Từ đầu XIX đến 1871
Đây là thời kì công nghiệp hóa và dân chủ hóa báo chí. Tuy nhiên, ngay
trong thời kì này, sự tự do của báo chí lại bị kiểm duyệt gắt gao.
Ở tất cả các nước, các chính phủ đều muốn kìm chế sự phát triển của báo
chí, vì nó gây khó dễ cho thực thi quyền lực : các nhà lập pháp tài tình tạo ra
một lô những luật, quy chế, biện pháp để hạn chế tự do báo chí ngăn trở việc
phát hành. Song kìm kẹp và đàn áp chỉ mang lại hiệu quả nhất thời do sự tiến
hóa về chính trị nói chung (mở rộng quyền bầu cử, tiến bộ của chế độ đại
nghị...) làm tăng mối quan tâm của tầng lớp xã hội ngày càng rộng rãi đối với
các vấn đề chính trị. Giáo dục được phổ cập nhanh tuần tự mở rộng số người
đọc báo. Công cuộc đô thị hóa cũng là một nhân tố quan trọng của phát triển
báo chí. Nhìn chung sự nâng cao trình độ văn hóa của các tầng lớp khá giả
cũng như của quần chúng bình dân làm tăng tính ham tìm hiểu và làm cho thị
hiếu của quần chúng rất đa dạng : vậy báo chí là công cụ duy nhất đáp ứng
những nhu cầu ấy.
3.2.1. Báo chí Pháp từ 1814 đến 1870
Từ 1800 đến 1870, số phát hành các nhật báo tăng lên tới 30 lần: sự phát
triển mạnh mẽ ấy đánh dấu sự đột biến thật sự cảu báo chí Pháp, khiến chính

18
quyền phải ngỡ ngàng. Các chính phủ nối tiếp nhau đều nhạy cảm trước nguy
cơ mà báo chí mang lại cho chế độ, cản trở việc thi hành quyền lực, vì vậy tìm
đủ mọi cách kìm hãm sự phát triển, kiểm soát tiếng nói của báo chí. Ngược
lại, chính sức mạnh bành trướng của mình lại thúc đẩy báo chí đòi tự do hơn
nữa, và vượt qua mọi chướng ngại do chính quyền giương ra trên đường đi.
Báo chí có ảnh hưởng chính trị và tác động trực tiếp đến dư luận quần chúng,
là một trong những nhân tố chủ yếu truyền bá các tư tưởng tự do, đưa quần
chúng tiếp nhận những kiến thức, những tư duy phù hợp với tư tưởng và thực
tế mới của đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa.
3.2.2. Báo chí Anh từ 1791 đến 1870
Do không sửa đổi luật libel act nên các chính phủ đều để mắt kĩ đến báo
chí. Rất nhiều nhà báo bị truy tố và tòa xử nghiêm khắc. Những mối lo lớn
của nhà cầm quyền là sợ nó phát triển thành một nền báo chí đại chúng và cấp
tiến về chính trị. Vì vậy năm 1819, các báo phải đóng tăng lên nhiều thứ thuế,
nhất là báo chính trị ra định kì.
3.2.3. Báo chí Đức từ 1792 đến 1871
Ở Trung Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức, các luật lệ khắt khe đối
với báo chí tỏ ra rất hữu hiệu so với nước Pháp. Các chế độ quân chủ nối tiếp
nhau đều có thái độ cứng rắn với báo chí ; chỉ ở Bavière và các thành phố tự
do như Francfort, Cologne hoặc Hambourg, báo chí mới được nói về chính trị
với chút ít độc lập. Sự ganh đua giữa Phổ và Áo cũng làm cho tình hình báo
chí viết tiếng Đức có những nét riêng.
Ở Berlin, tờ nhật báo đầu tiên Berliner Abenblattern (Báo Berlin buổi tối)
của Kleist (1810 – 1811) bị đình chỉ vì sợ bị Napoleon quở trách.
Chính quyền Đức liên tục có những hạn chế báo chí. Hội nghị chính trị
năm 1819 mở rộng hiệu lực các luật kiềm chế ra toàn bộ các quốc gia Đức, rồi
liên tiếp các năm 1824, 1831, 1832 lại bổ sung, ngày càng cứng rắn hơn.
Ngoài chế độ kiểm duyệt thì quy định chỉ những báo nào được chính quyền
ưu ái mới được đăng quảng cáo, đó cũng là một vũ khí đáng kể.

19
=> Qua hai giai đoạn lịch sử báo chí ở các nước TBCN trên, phần nào ta
thấy được tổng quan bức tranh báo chí ở nhà nước TBCN.

20
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI
VỚI BÁO CHÍ
Suy cho cùng, báo chí ở nước nào cũng là công cụ phục vụ cho lợi ích của
chính quyền. Chính vì vậy nhà nước nào cũng phải can thiệp tới báo chí. Tất
cả mọi nguyên nhân can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí đều quy tụ
về một nguyên nhân chính đó là nhà nước TBCN muốn sử dụng báo chí như
một công cụ để phục vụ cho lợi ích của mình.
1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị
Không phải ngẫu nhiên mà báo chí được coi là “quyền lực thứ tư”. Với
phạm vi rộng, sức tác động tới công chúng lớn của báo chí, nhà nước TBCN
không thể bỏ qua công cụ hữu hiệu này để tác động đến đời sống chính trị
của người dân.
Trên phạm vi thế giới, do phạm vi ảnh hưởng và sức mạnh tác động to lớn
của mình, các tập đoàn báo chí đã trở hành một thế lực hay một thứ quyền lực
toàn cầu. Nó tác động vào dư luận xã hội một cách tự nhiên, vạch ra hướng đi
cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành thái độ, quan điểm chính trị - xã hôi.
Bằng cách ấy, nó đã tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi cho những
hành động chính trị kinh tế cụ thể nào đó.
Nói như nhà báo Mỹ Giô-dép Phít-chơ khi nhận xét về kênh truyền hình
toàn cầu CNN "người ta nhận thấy rõ ràng CNN và cùng với nó là việc đưa tin
dồn dập của toàn thế giới báo chí mà CNN đã kích thích - bắt đầu ảnh hưởng
đến chiều hướng diễn biến của các sự kiện "(người đưa tin UNESCO tháng 9-
1990). Điều ấy cũng có nghĩa cái gọi là khách quan vô tư, phi chính trị trong
hoạt động của các tập đoàn báo chí phương Tây tự nó vẫn chỉ là cái bánh vẽ
giả dối không hơn, không kém. Chính các chính phủ ở phương Tây đóng vai
trò ngày càng to lớn trong định hướng và thao túng các phương tiện truyền
thông đại chúng nhằm những mục đích chính trị bởi các lý do sau:
Thứ nhất, trong chính trị, truyền thông đóng vai trò then chốt, quyết định
sự nghiệp của giới chính trị. Muốn vận động quần chúng cho một chính sách

21
hay một quan điểm (chính trị hay xã hội) nào đó thì phải thông qua truyền
thông, bởi chỉ qua truyền thông mới đến được quảng đại quần chúng. Cho nên
các hoạt động chính trị nào không được truyền thông loan tải thì thường được
xem như không đáng quan trọng hay thậm chí không hiện hữu. Thành phần
nào có khả năng thu hút và thuyết phục quần chúng, nhất là trước những
những sự chọn lựa (chính sách) khó khăn hay phức tạp, thì sẽ thành công.
Thiếu khả năng truyền thông thì thường dẫn đến tình trạng bị động, nhất là khi
gặp thử thách lớn, và dễ đưa đến những phản ứng cho xong hơn là nắm lấy cơ
hội hướng dẫn dư luận một cách chủ động về một hay nhiều vấn đề nào đó.
Thứ hai, truyền thông chính trị của giới chính trị Tây phương tuy đã tiến
rất xa, biết vận dụng mọi kỹ thuật tân tiến nhất để hiểu biết rất rõ và rất chi tiết
về khả năng của mình và đối phương như thế nào, và qua đó làm cách nào để
vận động cử tri, nhưng mục tiêu sau cùng cũng không khác gì các đảng chính
trị khác từ xưa đến nay. Tức là, mục tiêu vẫn luôn luôn là làm thế nào để vận
động, thuyết phục quần chúng ủng hộ, chấp nhận các thông điệp chính trị, và
bỏ phiếu cho mình.
Ngay tại một quốc gia nào đó không thống nhất về chính trị như Trung
quốc, Malaixia, .. thì đảng chính trị cầm quyền và nhà nước vẫn chủ động tạo
ra các nguồn lực và điều kiện kinh tế, xã hội kỹ thuật, công nghệ để xây dựng
các tập đoàn báo chí nhằm mục đích tạo ra sức mạnh truyền thông chi phối sự
luận xã hội, phục vụ cho các yêu cầu , nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên khi đã
trưởng thành các tập đoàn báo chí không chỉ trở thành thế lực truyền thông
chính trị, mà còn trở thành thế lực kinh tế và chịu ảnh hưởng mạng mẽ bởi các
quy luật kinh tế trong quá trình tồn tại. Cho nên mối quan hệ giữa chính trị và
truyền thông có thể nói rất là mật thiết. Ở đây, cũng cần phải hiểu chính trị ở
khía cạnh sâu rộng của nó (tức ngoài yếu tố quyền lực), bao gồm các tương
quan ảnh hưởng trên địa hạt tư tưởng, văn hoá, lịch sử, kinh tế, giáo dục,
thông tin..., nói chung là toàn xã hội.

22
Báo chí là tiếng nói ủng hộ chính phủ nhà nước TBCN trong các cuộc
chiến tranh:
VD1: CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Lúc cuộc chiến mới nổ ra, rất nhiều tờ báo lên tiếng ủng hộ những nỗ lực
của chính phủ. Họ không bao giờ đặt câu hỏi: “Quân đội Mỹ có quyền gì để
đặt chân đến Việt Nam?”. Công việc của họ là khiến các độc giả, thính giả
cảm thấy lạc quan và tự hào về quân đội mình. Điều này cũng giống như cuộc
chiến tranh tại Triều Tiên, các phóng viên chiến trường luôn vẽ ra một khung
cảnh “màu hồng” gửi về công chúng nước nhà.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, đã có lúc giới truyền thông cũng ủng hộ
chính sách tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam.
Tạp chí Journal of Broadcasting có đăng một bài khá tường tận của nhà xã
hội học George Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti- vi Mỹ
ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965 cho đến 1970. Theo
ông, gần phân nửa tài liệu chiến tranh liên hệ đến hoạt động của bộ binh và
không lực trên chiến trường; lối 12% gồm có các bản văn tuyên bố của chính
quyền Hoa Thịnh Đốn và Sàigòn; và sau hết, 3% dành cho tin tức lấy từ đối
phương Bắc Việt. Ảnh hưởng của chiến tranh đối với quần chúng Mỹ và
những vụ đi bộ cổ võ cho hòa bình, dân chúng xuống đường, sinh viên biểu
tình..v..v.. của phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ được trình bày giới hạn.
VD2: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991)
Chiến tranh vùng Vịnh là cuộc chiến được truyền hình ở mức độ rất cao.
Lần đầu tiên tất cả mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi trực tiếp hình
ảnh các tên lửa lao vào các mục tiêu và các máy bay chiến đấu cất cánh từ các
tàu sân bay. Các lực lượng liên quân rất nhiệt tình thể hiện mức độ chính xác
các vũ khí của họ.
Tại Hoa Kỳ, nhóm "bộ ba lớn" điều hành mạng lưới tin tức đưa tin về cuộc
chiến: Peter Jennings của ABC, Dan Rather của CBS và Tom Brokaw của

23
NBC dẫn các chương trình thông tin buổi tối của họ khi các cuộc tấn công đã
bắt đầu ngày 16 tháng 1, 1991.
Nói chung, giới truyền thông Mỹ có xu hướng ủng hộ chính phủ. Cách đưa
tin của họ cho thấy điều đó.
VD3: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)
Có thể nói, kể từ khi Tổng thống Mỹ có ý định đánh Iraq, một tập đoàn báo
chí khổng lồ của ông trùm truyền thông Rupert Murdoch cũng đã thở cùng
nhịp với ông Bush bằng cách reo hò cổ vũ cho một cuộc chiến mà sau này
theo đánh giá của báo chí phương Tây là, dễ mở đầu, khó kết thúc. Trên các
ấn phẩm của mình, trong khi lên tiếng công kích các nước Pháp, Đức là
“những kẻ vô ơn, hèn nhát”, tư tưởng bài xích, phỉ báng những cuộc biểu tình
cũng được ông trùm này cho đăng tải công khai và ồ ạt. Không dừng lại ở đó,
trong suốt mấy tháng qua báo chí Mỹ còn liên tục cho đăng tải những thông
tin không có lợi cho nền hòa bình thế giới như khẳng định “Irac vẫn tiếp tục
theo đuổi chương trình phổ biến vũ khí hạt nhân” (dù cho sau này khi chiến
tranh đã nổ ra được 2 tuần nhưng nhà cầm quyền Mỹ vẫn không tài nào đưa ra
được những chứng cứ để hợp thức hóa cuộc chiến của họ) mà bỏ qua những
hậu quả có thể đến với người dân Irac (và cả người dân Mỹ) một khi cuộc
chiến đã xảy ra. Hay như việc đăng công khai danh sách những nguyên thủ
thế giới ủng hộ Mỹ trong cuộc hạ bệ Tổng thống Irac Saddam Hussein như
thủ tướng Anh, thủ tướng Tây Ban Nha…
Báo chí là công cụ để đưa tin có lợi cho chính phủ và bóp méo sự thật.
Đọc những ví dụ sau đây để thấy rõ điều đó
VD1: BỘ MÁY TRUYỀN THÔNG VÀ BỘ MÁY CHIẾN TRANH
Ở Liên Xô trước đây, ai cũng biết hay nghe đến tờ nhật báo Pravda (Sự
thật). Dưới sự chỉ đạo và điều khiển của Nhà nước Xô-viết và Đảng Cộng sản
Liên Xô, Pravda đã từng sản suất ra biết bao câu chuyện không tưởng mà
chúng ta có thể gọi là huyền thoại. Ở Mĩ, ông George W. Bush và Đảng Cộng
hòa không thể khoe rằng họ làm chủ một cơ quan truyền thông như Pravda,

24
và cũng không thể nói rằng họ làm chủ hệ thống báo chí, đài truyền thanh, đài
truyền hình ở Mĩ, nhưng họ vẫn có thể tin tưởng vào hệ thống truyền thông Mĩ
vì hệ thống này cũng vâng dạ như tờ Pravda của Liên Xô cũ.
Bất kể bao nhiêu lời nói dối mà ông Bush và đồng nghiệp của ông nói về
mối đe dọa của Iraq đến nền an ninh nước Mĩ, giới truyền thông Mĩ chẳng bao
giờ chất vấn, chẳng bao giờ đặt những câu hỏi khó cho giới cầm quyền ở
Washington. Bush và chính phủ của ông biết rằng họ có thể dựa và tin tưởng
vào lòng ái quốc của giới truyền thông Mĩ, những người chỉ tường trình cuộc
chiến ở Iraq như là báo cáo trận đấu thể thao của đội nhà. Và, ông Bush,
không như các nhà lãnh đạo của Liên Xô, không cần phải hạ lệnh, ra chỉ thị,
hay bổ nhiệm một cơ quan kiểm duyệt nào cả, bởi vì trong hệ thống truyền
thông ở Mĩ đã có sẵn một cơ chế tự kiểm duyệt.
Tháng 2 năm 2003, tờ Observer ở London tiết lộ rằng chính phủ ông Bush
đã và đang dọ thám các thành viên của Liên hiệp quốc để theo dõi thái độ của
họ trước ý đồ xâm lược Iraq của Mĩ. Đó là một hành động, lén đã đành,
nhưng còn mang tính bẩn thỉu, hèn mọn. Nhưng ở Mĩ, không một tờ báo nào
loan tin này.
Tờ Newsweek, một tờ tuần san lớn có qui mô phát hành trên toàn thế giới,
cho chúng ta biết cựu tướng lãnh Iraq là Hussein Kamel, người ra đầu thú với
Washington, vào năm 1995 cho biết Iraq đã giải giới vũ khí rất nhiều. Rất ít
báo chí Mĩ đưa tin này. Nhưng trong các tuyên bố trước công chúng Mĩ và
thế giới, ông Bush lại trích và sửa lời khai của Kamel để nói rằng Iraq vẫn còn
duy trì vũ khí tàn sát hàng loạt!
Thực tế hiện nay cho thấy giới truyền thông Mĩ nói chung có khuynh
hướng ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, cho dù chính phủ Mĩ cố tình hạn chế sự tự
do của họ trong việc tường trình sự kiện, và bóp méo cũng như cung cấp
thông tin giả. Do đó, hiện nay tất cả các hình ảnh về cuộc chiến ở Iraq đều
hoàn toàn bị “vệ sinh hóa”. Giới truyền thông chỉ tường trình những gì mà
quân đội Mĩ và chính phủ Mĩ muốn nói.

25
Hiện tượng này không phải mới. Trong cuộc chiến ở A Phú Hãn, Walter
Isaacson, tổng giám đốc hệ thống CNN, khuyên các phóng viên không nên
chú trọng vào những khía cạnh tiêu cực như tử vong, thương vong, phá hủy
môi trường … vì những hình ảnh này có thể gây khó khăn cho cuộc chiến.
Trong cuộc chiến vùng Vịnh vào đầu thập niên 1990s cũng thế: giới truyền
thông Mĩ chôn vùi những hình ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa
lộ tử thần (còn gọi là cuộc thảm sát trên “Highway of Death”) khi quân đội
Iraq rút khỏi Kuwait.
Giới truyền thông còn đứng về phía chính phủ trong những vấn đề quan
trọng khác, không phải vì những âm mưu đen tối, hay những cuộc điều đình
phía sau hậu trường, nhưng bởi vì hệ thống truyền thông ở Mĩ tự nó là những
công ti thương mại khủng lồ, những công ti có cùng lợi ích kinh tế và chính trị
với giới điều hành quốc gia. Trong nhiều trường hợp, họ tuy hai nhưng chỉ là
một thực thể.
Ngày nay, việc các công ti truyền thông sử dụng hay trưng dụng những
cựu tướng lãnh, quan chức cao cấp, chính trị gia … đã trở thành một truyền
thống. Như Edward Said nhận xét, hệ thống truyền thông của Mĩ đã trở thành
một bộ phận trong guồng máy quân sự, guồng máy chiến tranh của Mĩ.
Thành ra, không ai ngạc nhiên khi thấy những tiếng nói chủ chốt trong các
cuộc gọi là “debate” hay “tranh luận” về chiến tranh và chính sách ngoại giao
trên các hệ thống truyền hình và truyền thanh thường là những cựu quan chức
trong chính phủ Mĩ. Điều này cũng giái thích tại sao những cái gọi là “nguồn
tin đáng tin cậy”, nhân viên báo chí, nhân viên Ngũ giác đài, phát ngôn viên
Tòa bạch ốc, hay những nhân vật thân cận với chính quyền Mĩ thường chiếm
đại đa số trong đội quân “chuyên gia” (experts) mà chúng ta nghe và thấy
hàng ngày.
Những đại công ty thống trị thế giới truyền thông càng ngày càng tập
trung. Ben Bagdikian, tác giả cuốn sách nổi tiếng Media Monopoly (Độc
quyền truyền thông), ước tính rằng chỉ có 6 đại công ti đang nắm hầu hết hệ

26
thống truyền thông tại Mĩ. Chủ hãng NBC là General Electric, một công ti
sản xuất vũ khí cho quân đội Mĩ. Ngay cả các công ti truyền thông nhỏ, tuy
không có liên hệ với quân đội, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của chính phủ Mĩ.
Giới truyền thông Mĩ có mục tiêu chính là làm lợi qua việc buôn bán thông
tin và quảng cáo. Truyền thông, dù là báo chí, radio, hay truyền hình, đều
kiếm tiền bằng cách buôn bán khán giả đến các công ti đặt quảng cáo và họ
biết rằng cái business của họ sẽ lỗ lãi nếu họ chạy theo những loại thông tin có
khả năng làm tổn hại đến các nhà cầm quyền. Ảnh hưởng kinh tế trong việc
tường trình và cung cấp thông tin chi phối đến những gì khán giả nhìn và thấy.
Chẳng hạn như thay vì chi ra một số tiền gửi kí giả đi thu thập thông tin về
việc vi phạm nhân quyền đối với các tù nhân đang bị giam giữ và hành hạ tại
căn cứ không quân Bagram (A Phú Hãn), các công ti truyền thông chỉ việc gõ
cửa Tòa bạch ốc và họ sẽ có ngay một “Thông cáo báo chí” phủ nhận những
vi phạm nhân quyền ở đó. Vừa rẻ tiền, lại vừa làm hài lòng giới cầm quyền.
Điều này có nghĩa là các cơ sở truyền thông độc lập đóng một vai trò quan
trọng. Nhưng tiếc thay, các cơ sở này hiện còn quá yếu kém về tài chính và
cơ sở vật chất để có thể thách thức các công ti truyền thông lớn, hay để làm áp
lực họ phải đề cập đến những vấn đề thiết thực mà đại đa số quần chúng quan
tâm đến. Nhưng thỉnh thoảng một áp lực cũng có hiệu quả khi qui mô của vấn
đề trở nên nghiêm trọng. Chẳng hạn như sau nhiều tháng cố tình xem thường
những cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq, một số tờ báo lớn như New York
Times và Washington Post bắt buộc phải đưa lên trang đầu những hình ảnh và
câu chuyện về cuộc biểu tình vĩ đại chống chiến tranh xảy ra trên toàn cầu vào
hôm 15/2/2003.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, giới truyền thông cũng ủng hộ chính sách
tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam, nhưng áp lực của phong trào chống chiến tranh đã
buộc giới truyền thông ghi nhận những thực tế bi thảm và mở màn cho một
cuộc tranh luận trong mọi thành phần trong xã hội. Giới kí giả từ đó có khả
năng và bản lĩnh phơi bày những tội ác chiến tranh,, những hình ảnh dã man

27
của cuộc chiến, và thách thức những tuyên bố láo của chính phủ. Hậu quả là
nhiều cuộc biểu tình với hàng triệu người ở Mĩ và trên khắp thế giới, dẫn đến
chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam.
Không có gì phơi bày sự bất lực của giới truyền thông ở Washington bằng
thái độ hèn hạ trước những tuyên bố sai lạc của ông Bush về mối quan hệ giữa
Iraq và al Qaeda, giữa Iraq và biến cố 9/11/2001. Trong một lần họp báo ông
Bush đề cập đến mối quan hệ này 8 lần, và ngay cả cho đến nay – khi cuộc
chiến Iraq đang diễn ra – vẫn chưa một ai chất vấn lời tuyên bố này của Bush.
Không một ai trong giới “truyền thông chính thống” đòi ông Bush trưng bày
bằng chứng cho hai tuyên bố quan trọng này của ông. Thay vào đó, giới
truyền thông đã cho ông Bush một cái vé miễn phí để ông dùng biến cố 9/11
làm cái cớ gây chiến và xâm lăng Iraq.
Theo một cuộc thăm dò ý kiến do công ti New York Times / CBS News tổ
chức, có đến 42% người Mĩ tin rằng Saddam Hussein trực tiếp dính dáng và
có trách nhiệm trong cuộc tấn công vào tòa nhà thương mại quốc tế hôm
9/11/2001. Cũng theo một cuộc thăm dò khác, 55% dân Mĩ tin rằng Saddam
Hussein trực tiếp yểm trợ Al Qaeda!
Cho đến nay, không ai có bằng chứng về hai mối quan hệ đó. Thực ra, đại
đa số các học giả Mĩ và giới ngoại giao quốc tế đều cho rằng cả hai tuyên bố
của ông Bush là sai. Nhưng đây là một câu hỏi mà quần chúng không bao giờ
nghe giới kí giả chất vấn: làm sao xã hội Mĩ có thể truyền bá những huyền
thoại như thế, và xem đó là những bằng chứng về sự ủng hộ của công chúng
Mĩ cho cuộc chiến?
Chính phủ ông Bush, qua các phát ngôn viên của Tòa bạch ốc và Ngũ giác
đài, đưa ra nhiều lí do để gây chiến, và giới truyền thông ngoan ngoãn trình
bày những lí do đó cho quần chúng như là những tín lí của chính phủ. Thành
ra, trong trường hợp này, giới truyền thông đã tự họ biến thành những người
trong guồng máy chính phủ, thay vì theo đuổi truy tìm sự thật

28
Trong những huyền thoại về truyền thông ở Mĩ, có một huyền thoại rất phổ
biến: đó là tự do báo chí. Nhưng trong thực tế, hệ thống truyền thông Mĩ
không bao giờ tự do, hay chỉ tự do đối với những người làm chủ các công ti
sản xuất vũ khí, các công ti thương mại khổng lồ, tức là những nhân vật và cơ
quan nắm quyền điều hành nước Mĩ. Giới truyền thông Mĩ có những quan
điểm hẹp về thế giới bên ngoài, những quan điểm mà trong đó chấp nhận cái
“quyền” của giới quân sự Mĩ và tự do thị trường để chi phối đến cuộc sống
của người dân trên thế giới. Do đó, những cái gọi là “tranh luận” trên hệ
thống truyền thông mà công chúng thấy là những người đồng ý với nhau về cơ
bản, nhưng thỉnh thoảng bất đồng ý kiến về cách thức buôn bán các hương
trình nghị sự của nhà nước.
VD2: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)
Đây là cuộc chiến thể hiện rõ nhất sự can thiệp của Nhà Trắng đối với
truyền thông Mỹ.
1. Chuẩn bị ra sao?
Trước khi tới chiến trường, các nhà báo Mỹ được tham dự một khóa huấn
luyện đặc biệt cho phù hợp với phong cách đưa tin của một nhà báo chiến
tranh. Và, khác với cuộc chiến vùng vịnh năm 1991, lần này các nhà báo được
hứa cho là đưa tin từ chiến trường thay vì từ nóc một khách sạn nào đó từ
Jordan hay Saudi Arabia. Thân thế của họ sẽ được thông báo trong trường hợp
bị chết hay bị thương. Theo quy định, các nhà báo không được mang, sử dụng
vũ khí, không được sức nước hoa và mặc quần áo sặc sỡ. Mỗi nhà báo còn
phải đánh số như binh lính trên ngực và gài trên giày những thông tin cần thiết
về nhóm máu, số hộ chiếu, số thẻ bảo hiểm. Được biết tổng số những gì mà
một nhà báo chiến tranh của Mỹ phải có lên tới 44 thứ, trong đó có các đồ
dùng cần thiết như xẻng, túi đựng rác, viên lọc nước… Bù lại, trên chiến
trường họ sẽ được sử dụng miễn phí các phương tiện đi lại, các khẩu phần ăn
của các đơn vị mà họ đăng kí tham gia nơi trận địa. Một điểm đáng lưu ý khác
đối với các nhà báo là, dù được tường thuật trực tiếp tình hình chiến sự song

29
họ không được phép tiết lộ những thông tin được coi là bí mật. Vì thế, cách tốt
nhất là không nên phỏng vấn không chính thức các binh lính Mỹ về việc con
em họ bị thương hay chết ngoài mặt trận. Việc tiết lộ chi tiết các thông tin về
các cuộc hành quân càng là vấn đề nên tránh. Chưa hết, các nhà báo còn
không được tự rời khỏi hàng ngũ nếu không được binh lính “hộ tống” cũng
như là phải được bộ chỉ huy liên quân cho phép mới được phát đi các câu
chuyện bên lề, những bài phóng sự nhạy cảm… Tất nhiên, sự rào đón cẩn thận
này nhằm mục đích ràng buộc báo giới với các nhà cầm quyền Mỹ để họ đưa
ra những thông tin phiến diện nhưng có lợi cho Mỹ. Mà theo cách nói của các
nhà bình luận quốc tế thì đó là nhằm cho các “tin tức về chiến sự không gây ra
những tác động tâm lý tiêu cực”.
2.Bám trụ để săn tin và… bịa đặt!
Ngày 20/3, ngay sau khi chiến tranh nổ ra, nhà báo Nick Robertson của
kênh truyền hình CNN đã có báo cáo trực tiếp phát từ tòa nhà Bộ Iraq và hôm
sau anh lại khẳng định được vị trí của mình thông qua những thông tin nóng
hổi từ đất nước Iraq. Theo các nhà quan sát, tòa nhà Bộ thông tin Iraq ở
Baghdad vốn là nơi duy nhất cho phép các nhà báo nước ngoài truyền tin trực
tiếp thì hiện giờ rất dễ trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công song không vì
thế mà các phóng viên di tản khỏi địa điểm này. Có thể vì điều này mà ngay
trong những ngày đầu của cuộc chiến đã có không ít những nhà báo thuộc
hãng truyền thông lớn của Mỹ như ABC, CBS, NBC, CNN tác nghiệp tại đây.
Tuy nhiên, ngày 21/3, chính phủ Irac đã ra lệnh buộc các phóng viên CNN
phải rời khỏi Baghdad vì đã tham gia vào một chiến dịch tung tin đồn thất
thiệt của Mỹ. CNN, một hãng truyền hình vốn rất nổi tiếng với các cuộc
truyền hình trực tiếp từ chiến trường đã lên tiếng thừa nhận thông tin này là
đúng và cho biết họ đã chuyển nhóm phóng viên này sang tác nghiệp tại
Jordani, một quốc gia láng giềng phía tây nam Iraq. Tuy nhiên, điều lạ là sau
khi bị trục xuất khỏi Baghdad, CNN đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của các
phóng viên Thời báo New York đang có mặt tại Iraq lên truyền hình đưa tin

30
trong khi hình ảnh chạy phía sau lưng thì vẫn do họ tự dàn dựng bằng cách
cho phát lại những cuốn băng ghi hình ảnh cuộc tấn công từ trước đó, mặc cho
dòng chữ quen thuộc “tường thuật trực tiếp” vẫn được chạy lên trên màn hình
TV.
Bị lừa dối, ngay sau đó, tổ chức Đoàn kết vì hòa bình đã kêu gọi một cuộc
biểu tình đông đảo bắt đầu từ trưa 26/3 tại San Francissco Mỹ nhằm phản đối
các phương tiện truyền thông Mỹ bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh Iraq.
Andrea Buffa, Người phát ngôn của tổ chức nói: “Chúng ta đang thấy gì trên
CNN? Họ phát đi những hình ảnh về cuộc chiến tranh với những lời bình luận
của các cựu chiến binh hoặc các nhà báo chiến trường. Tuy nhiên, đó không
phải là sự thật”. Những người tham gia cuộc biểu tình cũng đã lên tiếng kêu
gọi các tập đoàn truyền thông phải tôn trọng sự thật, phải có trách nhiệm với
những gì họ cho đăng, phát chứ không phải những gì mà họ thích thêu dệt lên
theo sự chỉ đạo của những người đứng đầu. đất nước.
Trong cuốn sách có tựa: Cuộc chiến tốt nhất từ trước đến nay: Dối trá, vô
cùng dối trá, và mớ hỗn độn ở Iraq (Tarcher/Penguin, 2006), đồng tác giả
John Stauber và Sheldon Rampton đã khẳng định, các phóng viên truyền hình
thực sự đã xem nhẹ chứ không phải đưa quá đậm những tin tiêu cực về Iraq,
trong khi đó thông tin đăng tải trên các ấn phẩm cũng đã bị ''làm vệ sinh''.
Stauber và Rampton đã trích dẫn kết quả nghiên cứu của các chuyên gia
thuộc ĐH George Washington phân tích 1.820 câu chuyện tin tức từ 5 kênh
truyền hình lớn của Mỹ và kênh truyền hình vệ tinh Ảrập Al-Jazeera. Kết quả
cho thấy, ''tất cả các phương tiện truyền thông Mỹ hầu như rụt rè trong việc
đưa những cảnh thương vong của lính Mỹ, đồng minh, quân đội và thường
dân Iraq lên màn hình. Các báo in cũng không khá hơn. Tháng 5/2005, khi
phóng viên Los Angeles Times James Rainey viết bài đánh giá khoảng thời
gian 6 tháng của cuộc chiến - 559 lính Mỹ và phương Tây thiệt mạng tại Iraq -
độc giả của 6 tờ báo lớn và 2 tạp chí nổi tiếng là Atlanta Journal-Constitution,

31
Los Angeles Times, New York Times, St Louis Post-Dispatch, và Washington
Post không được nhìn thấy một tấm ảnh đơn nào về cảnh binh sĩ chết.
"Những phàn nàn của ông Rumsfeld chính là một sự méo mó thú vị về sự
thật, bởi thực tế chính quyền Mỹ đã chi hàng trăm triệu đô la cho chiến dịch
truyền thông vốn bị cho là thiếu hiệu quả'', Rampton trả lời trong một cuộc
phỏng vấn qua điện thoại.
Tờ Washington Post đưa tin: ''Giới chỉ huy quân đội Mỹ tại Baghdad đã
đưa ra đấu thầu trong thời hạn 2 năm một hợp đồng về quan hệ công trị giá
20 triệu USD nhằm kêu gọi các phương tiện truyền thông Mỹ và Trung Đông
nỗ lực thúc đẩy việc đưa tin tích cực hơn về Iraq''.
3. Ai là người nắm quyền chế biến thông tin về Iraq
Đó chính là người đứng đầu Lầu năm góc. Trước khi chiến tranh xảy ra,
Bộ quốc phòng Mỹ đã không ngừng gây sức ép đối với Cục tình báo Trung
ương Mỹ (CIA) để họ cung cấp các thông tin tình báo thuận lợi nhất cho cuộc
chiến tranh Iraq. Không chỉ dừng lại đó, Lầu năm góc còn tự “đẻ” thêm các
báo cáo với những thông tin chưa hề được kiểm chứng đề bào chữa cho hành
động xâm lược của mình. Tất nhiên, để có được những thông tin này, Lầu
năm góc cũng đã phải bỏ tiền ra mua từ những người Iraq lưu vong hay di tản
thuộc Đại hội Quốc dân Iraq mà cả CIA và Bộ ngoại giao Mỹ vốn chẳng mấy
tin tưởng. Một cựu thành viên của CIA cho hay, những thông tin từ Đạo hội
quốc dân Iraq rất không đáng tin cậy nhưng nó là điều mà bộ quốc phòng cần.
Điều đáng buồn là những thông tin này, sau đó lại được “xào nấu” lại cho
Tổng thống Mỹ “thưởng thức” cũng như được hợp thức hóa thông qua những
diễn văn của ống. Đến khi chiến tranh xảy ra, Lầu năm góc lại luôn là tâm
điểm của các cuộc chỉ trích vì đã điều khiển báo giới cho dù họ luôn rao giảng
rằng, khoảng 600 nhà báo có mặt cùng các đơn vị quân đội Mỹ chính là một
“lực lượng của sự thật” để đối chọi lại với tất cả những gì Mỹ cho là “dối trá”
của tổng thống Hussein.

32
Thực tế hiện nay cho thấy giới truyền thông Mĩ nói chung có khuynh
hướng ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, cho dù chính phủ Mĩ cố tình hạn chế sự tự
do của họ trong việc tường trình sự kiện, và bóp méo cũng như cung cấp
thông tin giả. Do đó, hiện nay tất cả các hình ảnh về cuộc chiến ở Iraq đều
hoàn toàn bị “vệ sinh hóa”. Giới truyền thông chỉ tường trình những gì mà
quân đội Mĩ và chính phủ Mĩ muốn nói.
Vì giới truyền thông Mỹ không thể tách rời khỏi sự ủng hộ của chính
quyền, đi ngược lại phương hướng chính trị đã định, giới truyền thông sẽ mất
chỗ dựa để tồn tại. Có thể nói, nếu giới truyền thông không làm theo ý nguyện
của chính quyền, sẽ không thể nào có được cái gọi là tin tức. Ví dụ: muốn cho
các phóng viên mặt trận nói theo chính quyền Mỹ, Bộ Quốc phòng Mỹ đã có
quyết định, đối với các phóng viên viết bài có lợi cho chính sách của Mỹ, sẽ
được chính quyền Mỹ trả một khoản nhuận bút không tồi.
VD3: SỰ THỜ Ơ CỦA BÁO CHÍ MỸ ĐỐI VỚI NGHI NGỜ VỀ
“MỐI ĐE DOẠ IRAG” – Theo Washington Post
Những tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bush, Phó tổng thống Cheney và các
quan chức Nhà Trắng khác thường xuyên chiếm những phần diện tích quý báu
trên tờ Washington Post, thậm chí khi những lời cảnh báo đó lặp đi lặp lại.
"Chúng ta chẳng khác nào cái loa phát thanh của chính phủ. Nếu tổng
thống đứng dậy và nói điều gì đó, chúng ta tường thuật lại những gì ông ấy đã
nói", DeYoung nói. "Và nếu những ý kiến trái ngược được đặt ở đoạn thứ tám
và cũng không phải trên trang nhất thì nhiều người chẳng đọc đến đó".
Nhận xét trên được minh hoạ ngày 6/2/2003, một ngày sau khi Ngoại
trưởng Mỹ Colin Powell phát biểu trước Liên Hợp Quốc. Ông đã minh hoạ
bằng những bức ảnh chụp qua vệ tinh và những cuộc điện thoại nghe trộm để
thuyết phục thế giới rằng Hussein đang che giấu vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
Một bài báo của DeYoung và Pincus nói về những thông tin tình báo chưa
từng được tiết lộ mà Powell đưa ra. "Đến tận trang 9 họ mới dùng một câu có
từ "tuy nhiên" và nói rằng "một số quan chức châu Âu và chuyên gia chống

33
khủng bố Mỹ tin rằng tuyên bố của Powell về mối liên hệ giữa Iraq và Al-
Qaeda đã được chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo ra ẩn ý".
Hôm đó, Warrick tập trung vào đánh giá của vị ngoại trưởng, dựa chủ yếu
vào các nguồn tin sống, rằng Iraq có các nhà máy sản xuất vũ khí sinh học.
"Một số điểm trong bài phát biểu của Powell khiến người ta nghi ngờ",
Warrick viết. Bài báo của ông được đăng ở trang 28.
Downie nói rằng Washington Post đã có nhiều bài phân tích phát biểu của
Powell ở những trang trong. "Chúng tôi không có đủ bằng chứng để nói rằng
ông ấy đã sai", Downie nói về Powell. "Lôi một trong số những bài đó ra
trang nhất chẳng khác nào tuyên bố rằng ông ấy đã sai về những thanh
aluminum".
Những quyết định như vậy trùng với trang xã luận của tờ báo này, vốn ủng
hộ cuộc chiến, ví dụ như tuyên bố sau bài phát biểu của Powell rằng "thật khó
tưởng tượng có người nào đó lại nghi ngờ việc Iraq sở hữu vũ khí huỷ diệt
hàng loạt". Những bài phân tích này khiến một số độc giả kết luận rằng tờ báo
này chủ trương như vậy, mặc dù trang tin và xã luận không liên quan đến
nhau.
Hồi giữa tháng 3, khi Nhà Trắng chuẩn bị cuộc xâm lược Iraq, Woodward
đã can thiệp để bài viết của Pincus về việc chính quyền thiếu bằng chứng về
vũ khí huỷ diệt của Iraq được đăng ở vị trí nổi bật hơn.
"Chúng tôi không giữ nó vì bất kỳ lý do chính trị nào hay vì bị chính quyền
gây áp lực", Spayd nói. "Nhưng bởi những bài báo đó rất khó biên tập khi trên
bàn của ban biêp tập có quá nhiều các bản copy. Người ta đã quên rằng bài
báo này đang đề cập đến những vấn đề nào, các phái chính trị, sự sẵn sàng về
quân sự, các vấn đề xung quanh Iraq thời hậu chiến và việc chính quyền đã
chuẩn bị như thế nào, các mặt ngoại giao và Mỹ đang sở hữu vũ khí huỷ diệt
hàng loạt. Tất cả các bài đó đều cạnh tranh để được đặt ở vị trí nổi bật".

34
Woodward, ngôi sao của vụ Watergate, đã có nhiều thời gian để theo đuổi
những cuốn sách thuộc hàng best-selling. Woodward, một trợ lý chủ bút, đã
có những yếu tố mấu chốt của một môi trường báo chí mà Pincus không có.
Đánh giá của hai người đàn ông này là khác nhau. Woodward nói rằng sau
khi so sánh với những thông tin của Pincus, ông đã đưa bản nháp trong đó có
5 đoạn chính nói rằng theo giới thạo tin, những bằng chứng của Nhà Trắng về
vũ khí huỷ diệt của Iraq "có vẻ gián tiếp và thậm chí không chắc chắn". Pincus
cho rằng lời lẽ như vậy là quá nặng.
Pincus cho biết ông đã viết xong bài khi Woodward can thiệp và ông cho
rằng những thông tin mà người đồng nghiệp đưa ra chỉ là sự gợi ý vì thế ông
cũng không thay đổi gì nhiều. "Điều ông ấy làm chỉ là nói chuyện với các biên
tập viên và thuyết phục họ đăng bài đó".
Bất chấp những tuyên bố của chính quyền Bush về vũ khí huỷ diệt hàng
loạt của Iraq, hôm 16/3, Pincus bắt đầu bài báo của ông bằng dòng chữ "theo
các quan chức chính quyền và Quốc hội, các cơ quan tình báo Mỹ không thể
cung cấp cho Quốc hội hay Lầu Năm Góc những thông tin cụ thể về lượng vũ
khí cấm hoặc nơi cất giữ", khiến người ta nghi ngờ về việc liệu Nhà Trắng có
phóng đại thông tin tình báo hay không.
Woodward nói rằng ông ước là đã xin Dowie cho đăng bài báo đó lên trang
nhất chứ không phải đứng nhìn nó xuất hiện tận trang 17.
Còn Downie bình luận: "Khi nhìn nhận lại mọi việc, tôi thấy lẽ ra bài báo
đó phải được đăng ở trang nhất chứ không phải trang 17, thậm chí dù nó
không chắc chắn và chủ yếu dựa vào những nguồn tin giấu tên".
Những ngày trước chiến tranh, Priest và DeYoung đã nộp một bài nói rằng
các quan chức CIA "đã bày tỏ sự nghi ngờ với chính quyền" về những bằng
chứng nói rằng Iraq tìm cách mua uranium để sản xuất vũ khí nguyên tử. Bài
báo đó bị giữ lại cho đến tận ngày 22/3, ba ngày sau khi cuộc chiến mở màn.
Nếu báo giới Mỹ đã mạnh tay hơn thì có thể làm chậm tiến trình chiến
tranh hay không, điều đó vẫn chỉ là phỏng đoán. Song Downie cho rằng

35
những người phản đối chiến tranh và chỉ trích cách đưa tin của báo giới trước
cuộc chiến tin điều đó. "Họ có những ấn tượng sai lầm rằng nếu báo chí đã
đưa tin khác đi thì cuộc chiến đã không xảy ra", ông nói.
2. Báo chí là công cụ quản lý xã hội
Số lượng báo chí phát hành, nội dung tờ báo… cho biết trình độ dân trí
của một khu vực mà tờ báo đó phát hành. Vì vậy, TBCN can thiệp tới báo chí
để nắm bắt trình độ dân trí, phục vụ cho quyền lực của mình.
Dưới xã hội CNTB, các hệ thống chính trị thường phải dồn tối đa nỗ lực,
trí tuệ để khai dụng, bằng một phương cách khôn ngoan, khéo léo nhưng
không kém phần gay gắt, các phương tiện truyền thông tự do, để thuyết phục
và gây ảnh hưởng lên dân chúng về chính sách của họ. Quyền lực có được từ
vai trò chủ yếu là tự nhận này đã mang đến cho báo chí một danh hiệu đáng
kính là “quyền lực thứ tư”, sau ba nhánh quyền lực chính thức của nhà nước
(lập pháp, tư pháp và hành pháp). Đây cũng chính là vai trò đã truyền cảm
hứng cho Thomas Jefferson, một trong những người sáng lập ra nền dân chủ
Hoa Kỳ, khi tuyên bố cách đây khoảng 200 năm rằng: nếu ông phải chọn giữa
một bên là một chính phủ không có báo chí và một bên là báo chí không có
chính phủ, ông sẽ “không do dự một giây mà chọn cái thứ hai”.
Báo chí Hoa Kỳ ra đời vào thế kỷ XVIII, là một công cụ nhỏ của giới trí
thức tinh hoa và là một đại biểu trong đời sống chính trị của các đảng phái.
Được bảo vệ bởi sự can thiệp của chính phủ bằng một điều luật đã tồn tại 200
năm trong Hiến pháp Hoa Kỳ, báo chí đã tự mình trở thành một người giám
sát đối với đời sống chính quyền, người ghi lại các sự kiện công cộng và thậm
chí là người phân xử không chính thức các hành động của công chúng. Tại
Hoa Kỳ, các tạp chí, với hơn 11.000 loại, cũng phát hành với số lượng nhiều
hơn cả số người Mỹ đọc chúng. Mỗi hộ gia đình có ít nhất là ba chiếc đài thu
thanh và hơn 95% số hộ có tivi. Và có đến 65% dân số Mỹ thừa nhận rằng họ
không thể sống thiếu các phương tiện truyền thông. Như vậy, tác động của các
phương tiện này lên nhận thức của công chúng là rất lớn.

36
Truyền thông ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp lên chính trị, kinh tế và hầu
như mọi mặt xã hội, cho nên rất nhiều thành phần muốn sở hữu truyền thông
vì quyền và lợi, một cách tích cực lẫn tiêu cực. Truyền thông có thực quyền để
thương lượng với chính quyền và các thành phần khác và các chủ nhân truyền
thông có ưu thế chính trị để sẵn sàng trao đổi quyền lợi với giới chính trị trong
các chính sách có lợi cho hai bên. Thí dụ như trường hợp nhà đại truyền thông
Rupert Murdoch nổi tiếng sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình lên chủ
nhiệm, chủ bút và nội dung các tờ báo ông sở hữu để qua đó ảnh hưởng lên
suy nghĩ của giới cử tri và các việc làm của chính quyền. Thí dụ, ông từng chỉ
thị các phóng viên của báo Chicago Sun-Times là không được chỉ trích Tổng
thống Ronald Reagan thời thập niên 1980
Khi báo chí, các đài phát thanh và truyền hình và báo chí trong nước được
hoạt động tự do thì họ sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho chế độ dân chủ.
Ngoài việc đóng vai trò là cơ quan giám sát các thể chế địa phương và cảnh
báo cho công chúng những vấn đề liên quan đến sự an toàn của cá nhân họ,
báo chí còn giúp người dân hiểu và tiếp cận với chính phủ ở nơi rất xa họ.
Cách đây nhiều năm, khi bốn ngân hàng lớn nhất ở Uruguay phải đóng cửa
trong cuộc khủng hoảng kinh tế, một ông cụ ở thị trấn Tucuarembo đã gọi
điện đến đài phát thanh ở địa phương nhờ giúp đỡ. Vợ ông bị ốm còn ông thì
không thể tiếp cận tài khoản để lấy tiền để trả cho bác sỹ. Những người làm
chương trình tại đài Zorilla đã liên hệ với đại biểu quốc hội trong khu vực của
ông, và chính người này đã giúp ông cụ liên hệ với Bộ Tài chính. Ông cụ sau
đó đã biết có một đạo luật khẩn cấp đang được thông qua để giúp những
người như ông có thể tiếp cận với tài khoản của mình.
Đối với những người làm chương trình ở đài phát thanh Tucuarembo, việc
giúp người dân trong thị trấn tiếp xúc với các cơ quan chính quyền và liên lạc
với nhau đã trở nên quen thuộc. Thính giả gọi điện để tìm những cuốn sách
khó tìm, tìm những con chó đã bị lạc, tìm việc làm và thuê nhân công. Maria
Martin, một đạo diễn chương trình phát thanh người Mỹ đã làm việc tại đài

37
Zorilla và rất ấn tượng trước sự thành công của nó, cho biết đài cũng phát bản
tin, thảo luận thông qua điện thoại và các cuộc phỏng vấn.
Người dân ở Angren, Uzbekistan, cũng có nguồn tin tương tự từ một đài
truyền hình. Họ gọi điện đến đài truyền hình TV-Orbita để trình bày những
bức xúc của họ cũng như những khó khăn khác của thị trấn trên bản tin của
đài. Cả giới chức lẫn người dân địa phương đều xem bản tin này. Khi chính
quyền cố gắng đóng cửa đài truyền hình đó để giữ ảnh hưởng chính trị của
mình thì người dân và những người tài trợ cho chương trình đã biểu tình và
chính quyền đã buộc phải để đài truyền hình này hoạt động trở lại.
Truyền thông, từ thời đơn sơ như báo chí cho đến truyền thanh, truyền hình
và bây giờ là Internet, luôn đóng vai trò giáo dục và uốn nắn suy nghĩ, quan
điểm con người trong tất cả các địa hạt nói trên.
3. Báo chí là công cụ tăng doanh thu cho nhà nước TBCN
Bản chất của TBCN là tạo ra lợi nhuận cho chính mình. Vì vậy, một miếng
mồi béo bở như báo chí chắc chắn không nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà
nước TBCN.
Trong nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh thương mại hóa toàn cầu,
hầu như mọi lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng
cáo và thương mại. Báo chí cũng không là ngoại lệ. Năm 1842, Mác viết:
“Điều tự do đầu tiên của báo chí là tính không thương mại” (Trích theo
Chibnall. Law and order of news: An analysis of crime reporting in the
British press. Nxb. Tavistock Publications, London, 1997, tr. 206). Tuy thế
khi báo chí chứng minh tính hiệu quả của nó như là một người đưa tin cho xã
hội, các mục tiêu thương mại đã được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết.
Nguồn lợi mà các tập đoàn báo chí mang lại cho giới chủ thông qua hai
dạng thức chủ yếu : trực tiếp và gián tiếp. Nguồn lực trực tiếp thu được qua
việc bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ báo chí truyền thông và hoạt động
quảng cáo. Ở các nước công nghiệp phát triển, nguồn thu từ quảng cáo ngày
càng lớn, chiếm phần chủ yếu tổng doanh thu của các tờ báo, các đài phát

38
thanh truyền hình, còn những tờ báo phát không, có nghĩa là các hợp đồng
quảng cáo trở thành nguồn thu duy nhất. Nguồn lợi gián tiếp mà các tập đoàn
báo chí, truyền thông thu được qua việc tạo ra những ảnh hưởng chính trị, làm
thay đổi các chính sách của nhà nước, hình thành những điều kiện đầu tư
thuận lợi, những đơn đặt hàng béo bở. Về sâu xa thì đây mới là nguồn lợi to
lớn hơn mà các nhà tư bản hướng tới. Và là lý do quan trọng nhất để dẫn tới
sự liên kết báo chí với giới truyền thông với công nghiệp, tài chính, dịch vụ để
hình thành những tập đoàn độc quyền khổng lồ. Điều ấy cũng giải thích tại
sao các tập đoàn công nghiệp, tài chính khổng lồ ở mỹ và các nước phương
tây luôn đóng vai trò to lớn và tích cực trong bầu cử.
Các tập đoàn tư bản thông qua báo chí để quảng bá, quảng cáo, giữ gìn,
đánh bóng thương hiệu của mình, dùng báo chí làm cầu nối giữa sản phẩm của
mình với công chúng. Hơn nữa, báo chí lại là ngành kinh doanh ra tiền. Các
tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch cho chúng ta thấy kinh doanh các
loại hình media cho lợi nhuận khổng lồ, chủ tòa báo hoặc nhà in thường là
một doanh nhân nhiều hơn là một nhà báo.
Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ ràng. Tờ
Anzeiger (nghĩa là người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730,
theo nhà nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những
ai trong hay ngoài thành phố muốn mua hay bán, cho thuê hay đi thuê, cho
vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa, thương mại đã là một yếu tố
tiên quyết của báo chí ( theo M, Emery và E, Emery, The Press and America:
An Interpretive History of the Mass Media, xuất bản lần thứ 6, Nxb. Prentice-
Hall, 1988, tr. 19, 20). Nhu cầu về buôn bán hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt
thông tin về những chuyến tàu chở hàng từ bên kia đại dương để lại kết quả là
các tờ báo ban đầu hầu hết đều gắn với từ “người quảng cáo” (advertiser)
trên vi-nhét.
Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng
của Simon Canning trên tờ The Australian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và

39
nhà báo sẽ sớm thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà
chính là phương tiện mà các nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”.
Thậm chí báo chí và thương mại đã luôn sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra
rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách đặt các thông điệp
quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã “bị ép để cho những
thông tin thương mại giống như thế trở thành tin tức”.
Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó
báo chí điện tử dù muốn dù không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning
đưa ra là phần mềm quảng cáo gọi là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực
tuyến Vibrant Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ
có thể biến hàng trăm từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm
của họ mà bạn đọc có thể đọc, sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần
di con chuột đến vị trí từ đó, một màn hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người
đọc nhấn chuột vào trang quảng cáo chính thức. Ứng dụng này khiến các
chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi viết, bởi họ sẽ
hướng tới những từ dễ được chuyến sang kết nối đến trang quảng cáo.
Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ 12.2 tỉ USD vào
năm 1975 lên 54.9 tỉ USD năm 2000. Nói cách khác, báo in đã thu nhập tăng
gấp 2.5 lần từ quảng cáo ở năm 2000 so với năm 1950. (Robert G. Picard.
Commercialism and newspaper quality. Tạp chí Newspaper Research
Journal, Quyển 25, số 1, Mùa Đông 2004, tr. 54)
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác dẫn tới sự can thiệp của nhà nước
TBCN đối với báo chí như: nguyên nhân về văn hoá, nguyên nhân về khoa
học kỹ thuật… Tuy nhiên, chúng tôi chưa có điều kiện tổng hợp hết.

40
CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI
BÁO CHÍ
I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ
Trong nhiều trường hợp, nhà nước TBCN không trực tiếp nhúng tay vào
dòng chảy của báo chí mà thông qua các ông chủ tập đoàn, từ đó tạo áp lực
lên các cơ quan báo chí bằng nhiều hình thức: thao túng cơ quan báo chí
hoặc xây dựng các cơ quan báo chí…

1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí


Khi nhà nước TBCN đứng ra xây dựng hoặc mua cổ phần các cơ quan báo
chí, tức các cơ quan báo chí đó thuộc về chính quyền, phục vụ cho lợi ích của
chính quyền, và chịu sự giám sát chặt chẽ.
VD1: Vào năm 1998, chính phủ Tony Blair của Anh Quốc đã thành lập
một Bộ Phận Truyền Thông Chiến Lược (the Strategic Communications
Unit), bao gồm các ký giả và nhân viên thông tin, để giúp điều hợp thông tin
liên lạc cũng như để viết bài cho các vị Bộ Trưởng. Thêm vào đó, trong thời
đại thế giới thay đổi nhanh chóng hàng ngày, giới chính trị ngày càng lệ thuộc
vào những chuyên gia truyền thông để hoạch định chiến lược hầu ảnh hưởng
lên chương trình nghị sự (của các cơ quan truyền thông chính mạch mỗi ngày)
cũng như tác động và xoay chuyển (spin) giới ký giả để cho các bài tường
trình trên báo, truyền thanh hay truyền hình đi theo chiều hướng thuận lợi nhất
cho họ. Cũng trong thời đại này, thiếu khả năng để chủ động quản lý truyền
thông sẽ làm cho đảng phái đó mất thế thượng phong, và có thể mất cả vị trí
ảnh hưởng, dù trước đây có mạnh lớn cỡ nào. Nói tóm lại, truyền thông chính
trị trở thành một thành tố quan yếu trong các hệ thống chính trị dân chủ hiện
nay.
VD2: HÃNG THÔNG TẤN AFP
Charles Louis Havas đã sáng lập ra Agence Havas vào năm 1835 nhằm
cung cấp thông tin cho báo chí, tạp chí định kỳ vào các tạp chí khác ở Pháp.

41
Tuy nhiên cũng chính quyền lực về thị trường truyền thông và tin tức đã dẫn
đến sự sụp đổ của Agence Havas ngay đầu thế chiến thứ hai. Khi đó, Agence
Havas đã bị tước bỏ những dịch vụ phân phối truyền thông của nó và bị chính
quyền Pháp tiến hành quản lý, kiểm duyệt. Nó được đổi tên thành Office
Fancs d’information (French Information Office - FIO) vào 1940. Tiếp theo,
hãng thông tấn mới này nhanh chóng bị thâu tóm bởi Bazis sau khi Pháp đầu
hàng phát xít Đức. Mạng lưới phân phối trước đây của Agence Havas được sử
dụng lại phục vụ cho Nazi và chính quyền Vichy.
Năm 1944 việc hoạt động của hãng FIO được điều khiển bởi một nhóm
cựu thành viên của Fench Resistance và FIO được đổi tên thành Agence
France-Press (AFP). Những người này lấy lại quyền điều hành và nhanh
chóng lấy lại được cơ cấu cũng như danh tiếng toàn cầu của Agence Havas
trước đây. Tuy nhiên việc trợ vốn sâu sắc của chính quyền đã làm cho AFP
không lâu sau đó chịu sự kiểm soát của chính quyền.
AFP vẫn còn là một cánh tay đắc lực của
chính phủ cho đến 1950. Khi đó hãng đối mặt
với sự cạnh tranh mới trong nước với hãng
Agece Centrade Presse hoạt động từ 1951 cũng
như các hãng thông tấn quốc tế là AP, Reuters…
Trong khi các hãng thông tấn khác hoạt động độc
lập và có khuynh hướng về thương mại thì AFP
bị giới hạn như là một hãng thông tấn chính phủ.
Tuy nhiên dưới sự dẫn dắt của Jean Marin là CEO từ 1954 đến 1975, AFP bắt
đầu có cải cách nhằm thay đổi trong hoạt động của nó.
Năm 1957, AFP được một số tự do không những cho việc phát triển
thương mại mà còn cho cả chính sách biên tập của nó. Tuy nhiên, chính quyền
pháp vẫn còn giữ sự kiểm soát mạnh mẽ trong mọi hoạt động của hãng. Trong
khi luật mới ban hành vào tháng 10-1957, AFP được hoạt động độc lập với
những quyền dân sự, luật còn ngăn cấm hãng tích góp vốn thông qua việc bán

42
cổ phần cho các nhà đầu tư tư nhân. Trong cùng thời gian đó thì luật cũng yêu
cầu hãng báo cáo ngân sách cân đối cho mỗi năm. Một gánh nặng cho hãng là
phải cung cấp cho các khách hàng thiết yếu bao gồm tám nhà đại diện từ các
tờ báo ngày trong nước và năm nhà đại diện của chính phủ nằm trong ban điều
giám đốc của AFP.
Trong khi các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều do tư nhân nắm
quyền thì AFP lại được điều khiển bởi nhà nước Pháp. Tuy thế, AFP vẫn là
một hãng thông tấn lớn không chỉ vì nó tồn tại lâu đời nhất mà còn bởi uy
tính cung cấp sản phầm, dịch vụ có chất lượng.
2. Sự liên minh, tập trung hóa trong hoạt động truyền thông
Báo chí ở các nước tư bản ngày càng có xu hướng thu hẹp diện tích sở
hữu. Các tập đoàn lớn thao túng, nuốt các tập đoàn nhỏ hoặc sát nhập lại với
nhau khiến cho sự phong phú về tiếng nói bị giảm thiểu. Cho dù không có sự
can thiệp trực tiếp của các ông chủ tư bản đến báo chí thì sự sở hữu tập trung
này cũng gây ra ảnh hưởng rất lớn, bởi các tờ báo cũng một hệ thống thì
không thể có quan điểm trái ngược nhau hay khác nhau được.
Về cơ bản, các tập đoàn báo chí ở các nước tư bản hình thành trên cơ sở
cạnh tranh, tích tụ tư bản, cá lớn nuốt các bé hoặc các công ty báo chí truyền
thông tự nguyện liên kết lại bằng hình thức mua bán hay sát nhập với nhau
nhằm tăng nguồn lực, tạo ra sức mạnh đủ khả năng cạnh tranh để tồn tại và
phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Cũng có thể, các quá trình
diễn ra giữa các tập đoàn kinh tế công nghiệp thương mại, dịch vụ với các
công ty báo chí truyền thông nhằm mở rộng lĩnh vực kinh doanh, tạo ra lợi thế
xã hội trong phát triển.
Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản như ngày nay, các công ty báo
chí truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sát nhập,
thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh. Với việc bỏ ra hàng tỷ
đôla, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo
chí, truyền thông địa chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng

43
vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Theo số liệu của công ty
nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007 trên toàn thế giới
đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sát nhập mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo
chí truyền thông với tổng giá trị lến đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp
đồng sáp nhập giữa Google với Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-
2007, hợp đồng sát nhập giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.
Có thể thấy báo chí ngày nay phát triển theo 2 xu hướng sau:
Xu hướng thứ nhất là phát triển theo chiều dọc. Đó là sự phát triển nhằm
đảm bảo sự bao quát đầy đủ các công đoạn sản xuất một loại hình sản phẩm
truyền thông (lập chương trình, sản xuất, phát hành hoặc phân phối), hoặc sự
bành trướng, liên kết trong nội bộ các loại hình báo chí truyền thông nhằm
tăng cường ưu thế, sức mạnh trong cạnh tranh. Ví dụ như báo chí chỉ tập trung
vào phát triển tất cả các công đoạn của 3 loại hình dịch vụ chính của mình là
phát thanh, truyền hình và trang web trên khắp toàn cầu. Ở Mỹ, có thể nói
Gannett là tập đoàn báo chí truyền thông có số lượng đầu báo lớn nhất. Tập
đoàn này đang sở hữu 90 tờ nhật báo (trong đó có USA Today - một trong 2
tờ có quy mô toàn quốc và Wall street Jourmal - tờ báo hàng đầu về tài chính,
kinh tế ở mỹ), 36 tờ báo định kỳ khác, kiểm soát 10 đài truyền hình, 16 dài
phát thanh và một công ty quảng cáo lớn nhất nước Mỹ.
Hãng Turmer Broadcastinh System do Robert Edward Turner sáng lập năm
1963 lại thành công và nổi tiếng chủ yếu do sự nổi tiếng và phát đạt của kênh
truyền hình CNN. Được thành lập và đi vào hoạt động từ 1/6/1960 đến nay
CNN đã phủ sóng toàn cầu thông qua vệ tinh, cung cấp dịch vụ tin tức truyền
hình cho hơn 55 triệu gia đình ở Mỹ và hàng tỷ dân của 92 nước trên thế giới.
Năm 1995, CNN đã sát nhập vào tập đoàn Time Warner - một đế chế truyền
thông có tài sản trị giá 18 tỷ USD.
Xu hướng thứ hai là liên kết và bành trướng theo hàng ngang, đầu tư vào
những ngành khác như tạo sự liên kết những ngành báo chí truyền thông, công
nghiệp, tài chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau, hạn chế rủi ro, tăng

44
cường sức mạnh. Theo xu hướng đó, năm 1986, công ty General Electric đã
mua mạng truyền hình mỹ NBC, công ty viễn thông khổng lồ mỹ AT&T năm
1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống truyền hình cáp TCI, rồi đến năm
2004 thôn tính tiếp mạng Mediaone. Từ năm 1999, tập đoàn Viacom đã thôn
tính công ty điện ảnh Pamount và hãng truyền hình CBS. Năm 2000, tập đoàn
AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal Plus, một
tập đoàn tư bản pháp đã hợp nhất với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã
len chân vào ngành truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và
đang chuẩn bị thực hiện đồng sáp nhập với tập đoàn Newscorp có trị giá vài tỷ
USD.
Một nghiên cứu của giáo sư Piter Philips, trường đại học Sonoma cho thấy
118 người là thành viên hội đồng quản trị của 10 tập đoàn báo chí lớn nhất
nước Mỹ đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của 288 tập đoàn kinh tế khác,
trong khi các tập đoàn Tribune, New York Times và Gannettt đều có thành
viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Cocacola và J.P.Morgan lại có
đại diện ở ghế hội đồng quản trị của cả NBC và Washington Post. Thực tế này
cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn kinh
tế.
Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo
chiều ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình
trạng tập trung, độc quyền ngày càng gia tăng. Nếu như vào năm 1892, chuỗi
mắt xích đầu tiên ở Mỹ với sự góp nhặt của 5 tờ báo, thì ngày nay 50 tập đoàn
lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng của nước
Mỹ, theo một nghiên cứu của tờ The Washington Post, trong những năm tới,
chắc chắn toàn bộ báo chí Mỹ sẽ tập trung trong 12 tập đoàn lớn, ở các nước
châu âu, tình trạng này cũng diễn ra tương tự, nhiều tờ báo lớn nhỏ hoặc là
đóng cửa, hoặc là trở thành bộ phận của các công ty lớn, nhiều tờ báo nổi
tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà đã phải bán lại cho các tập đoàn
xuyên quốc gia.

45
Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận do BBC tiến hành cho thấy rằng
có sự lo ngại tại một số quốc gia về sự tập trung sở hữu báo chí tư nhân trong
tay của một số ít các công ty lớn.
Tại Brazil, Mexico, Mỹ và Anh, hơn 70% số người được hỏi đã đồng ý với
quan điểm là sự tập trung sở hữu là một vấn đề đáng lo ngại bởi vì những
quan điểm chính trị của những người sở hữu sẽ được lồng vào các tin tức.
Những người được hỏi tại Đức đánh giá rất thấp các hãng báo chí tư nhân
với chỉ 18% số người được hỏi cho rằng các hãng này đưa tin chính xác.
Nhưng tỷ lệ này đối với các hãng báo chí của nhà nước thậm chí còn thấp hơn.
Chỉ tại Ai Cập, Đức, Nga và Singapore, những người được hỏi đánh giá
báo chí nhà nước cao hơn so với các hãng truyền thông tư nhân.
Cuộc thăm dò này do hai hãng nghiên cứu quốc tế GlobeScan và Synovate
tiến hành.

Một số công ty truyền thông Mỹ đang xây dựng chiến lược cổ phần hóa.
Đây tưởng chừng như một giải pháp kinh tế khá hữu hiệu đối với các công ty
truyền thống nhưng khi nhà đầu tư là các phe phái chính trị thì tính hiệu quả
của chiến lược này còn nhiều điều phải bàn.
Thực tế cho thấy, trong cơ cấu các công ty truyền thông đã tiến hành cổ
phần hóa ở Mỹ, ban lãnh đạo hầu hết là thuộc một đảng phái chính trị.

46
Chẳng hạn như ở Clear Channel, đài phát thanh lớn nhất nước Mỹ, người
nắm giữ cổ phần chi phối là Mitt Romney, một ứng cử viên tranh chức tổng
thống Mỹ. Điều này đã ảnh hưởng thế nào đối với hoạt động của Clear
Channel?
Thử đơn cử ra đây một ví dụ, đó là việc phát sóng album nhạc Magic của
ca sỹ Springsteen. Đây là album bán chạy nhất nước Mỹ tháng 10/2007. Hàng
triệu thính giả hồi hộp chờ nghe đài phát thanh lớn nhất nước Mỹ phát sóng
những ca khúc bất hủ trong album này.
Tuy nhiên, Clear Channel được lệnh từ ban lãnh đạo không phát sóng bất
cứ một bài hát nào trong album Magic, đơn giản bởi vì nội dung các bài hát
trong album đi ngược lại với đường lối chính trị mà ngài Mitt Romney theo
đuổi. Đài phát thanh này biện hộ bằng lý do hết sức ngớ ngẩn rằng: “Vì
Springsteen đã quá già”. Nhưng sự thật thì người ta vấn thấy nó phát sóng
nhiều bài hát ở các album khác của Springsteen. Giờ đây Clear Channel đã trở
thành cánh tay chính trị trung thành của Romney Mitt. Và dường như những
mục tiêu kinh tế khi vạch ra chiến lược cổ phần hóa của công ty đã bị bỏ quên
Một ví dụ khác minh chứng thêm cho ảnh hưởng tiêu cực khi cổ phần chi phối
của các công ty truyền thông Mỹ được bán cho các thế lực chính trị là tin tức
về một vụ không kích vào khu căn cứ của Syria hồi tháng 9/2007. Vấn đề
xoay quanh tổ chức nào đã thực hiện vụ tấn công: Mỹ hay Israel?
Đây thực sự là một tin tức rất quan trọng và cần phải được đăng tải để
người dân được biết. Tuy vậy, một số hãng truyền thông đã lờ đi tin tức này,
bởi vì ban lãnh đạo của công ty - các nhà chính trị có ảnh hưởng không muốn
phanh phui sự việc khi nó không có lợi cho chính sách của họ. Ở đây, vấn đề
không chỉ là sự thay đổi định hướng của công ty đã đi ngược lại với những lợi
ích kinh tế mà còn là nguy cơ mai một bản chất khách quan khi đăng tải thông
tin của các công ty truyền thông. Khi các thông tin về những sự kiện chính trị
- xã hội diễn ra trong đời sống thường ngày không được đăng tải một cách đầy
đủ và khách quan thì liệu còn ai muốn theo dõi chúng? Nếu cứ tiếp tục duy trì

47
tình trạng để cổ phần chi phối rơi vào tay một số thế lực chính trị trong cuộc
đua gây ảnh hưởng đối với công chúng, thì cổ phần hóa không phải là một
giải pháp lâu dài. Đó là điều cần tâm niệm của các công ty truyền thông
truyền thống đang muốn tái cơ cấu và hiện đại hóa trước sức cạnh tranh khốc
liệt của truyền thông trực tuyến.
VD: ẢNH HƯỞNG TỪ ÔNG CHỦ TẬP ĐOÀN MURDOCH
Hiện nay, Murdoch đang sở hữu kênh truyền hình Fox, American Idol và
kênh phim truyện giải trí The 20th Century Fox; Myspace - một mạng cộng
đồng phổ biến nhất trên thế giới. Ngoài ra, Murdoch cũng chính là chủ sở hữu
của những tờ báo lớn nhất nước Anh như The Sun, The Times và The
Sunday. BSkyB của nước Anh, một vài trung tâm xử lý vệ tinh ở Châu Âu,
tờ nhật báo hàng đầu tại Australia, nhà xuất bản HarperCollins đều là
những “thành viên” trong “đại gia đình truyền thông” News Corp của
Murdoch. Tại Châu Á, Murdoch có Star TV, kênh truyền hình vệ tinh hàng
năm mang lại cho News Corp hơn 30 tỉ đô la Mỹ.

Sơ đồ “đế chế truyền thông” của Murdoch trên toàn thế giới
(Điểm màu trắng)

48
Chỉ cần nhìn vào danh mục tài sản truyền thông mà Murdoch sở hữu tại
nước Anh là người ta đã có thể hình dung về những ảnh hưởng của Murdoch
trong lĩnh vực chính trị và kinh doanh.
Murdoch là ông chủ có tư tưởng thân chính phủ. Murdoch có một đường
dây nóng với cựu thủ tướng Tony Blair. Trong những thời điểm “nhạy cảm”
như bầu cử, đường dây này hoạt động không hề ít (theo nguồn tin tự do của tờ
Independent). Ví dụ như trong vòng 9 ngày trước khi cuộc chiến giữa Mỹ và
Iraq nổ ra, đường dây này đã 3 lần kết nối Murdoch với Tony Blair!
Trường hợp thứ 2, khi chiến tranh Mỹ - Iraq nổ ra, tờ The Sun của
Murdoch đã làm một cuộc điều tra về lí do không tham chiến của Tổng thống
Jacques Chirac. Đây như một cách “chọc ngoáy” cay nghiệt vào phe phái
những người Mỹ ủng hộ chiến tranh Iraq. Bởi rất có thể, sự thực về cuộc chiến
nếu được “phanh phui trần trụi” thì hậu quả khó mà tưởng tượng được. Và rất
nhiều vụ chế biến thông tin từ cuộc chiến tranh Iraq nhằm mục đích có lợi cho
chính phủ Mỹ cũng đã đồng loạt diễn ra trên các tờ báo dưới quyền của
Murdoch.
Sự kiện nóng bỏng nhất, đang được quan tâm nhất chính là cuộc chạy đua
vào Nhà Trắng giữa Hillary Clinton và Barack Obama. Đảng Dân Chủ lo
ngại, điều gì sẽ xảy ra nếu Murdoch công khai ủng hộ ứng cử viên nào là
người có đủ kinh nghiệm và năng lực để trở thành Tổng thống?
Từ sự chi phối về quyền lực trong chính trị, người ta tất yếu có nỗi lo lắng
tương tự về sự chi phối của Murdoch trong lĩnh vực kinh doanh.
Cứ tưởng tượng, trong một thành phố lớn của nước Mỹ, không ai được sở
hữu đồng thời hơn 1 tờ báo và một kênh truyền hình. Nhưng với Murdoch thì
khác. Việc sở hữu thêm Newsday sẽ càng củng cố vị trí “ngoại lệ” của
Murdoch. Liệu còn sự cạnh tranh thông tin hay không khi tất cả báo chí đều
thuộc tay một ông chủ?

49
3. Can thiệp thông qua đạo đức báo chí
Ở phương Tây, đạo đức rất được coi trọng. Chính vì vậy, ở tất cả các nước
TBCN đều có quy định về đạo đức báo chí. Những quy định này có thể do
hiệp hội những người làm báo đặt ra, cũng có thể là đạo đức báo chí áp dụng
riêng cho một tờ báo mà ông chủ của tờ báo đó chịu trách nhiệm. Như vậy,
nhà nước TBCN cũng gián tiếp can thiệp tới báo chí thông qua những quy
định về đạo đức báo chí này.
Trong bất kì cuốn sách báo chí nào của các nước TBCN, không bao giờ
thiếu một chương rất quan trọng, đó là Đạo đức báo chí. Vấn đề đạo đức báo
chí ở các nước TBCN lại phụ thuộc vào nền tảng văn hóa và quan điểm của
văn minh phương Tây.
Chính quyền không thể xử lý báo chí vi phạm đạo đức báo chí nhưng sẽ
lên án, phê bình và cảnh báo nó. Và những áp lực về đạo đức báo chí không
khác gì những bản án xử phạt của Luật pháp.
VD: VỤ ÁN TRANH BIẾM HỌA MOHAMMAD
Diễn Biến Câu Chuyện
Ngày 30/9/2005: 12 bức tranh biếm hoạ mô phỏng hình ảnh Nhà tiên tri
Mohamed được tờ Jyllands-Posten của Đan mạch đăng tải.
Ngày 20/10: Thủ tướng Đan Mạch nhận được phàn nàn từ 11 nước song từ
chối can thiệp.
Ngày 10/1/2006: Tờ Magazinet của Na Uy lại đăng tải những bức tranh
này.
28/1/2006: Sau một đợt tẩy chay, công ty Arla của Đan Mạch và Thuỵ
Điên đã xoa dịu người Hồi giáo bằng những mẩu quảng cáo đăng trên các báo
ở khu vực Trung Đông.
29/1: Ảrập Xêút kêu gọi tẩy chay thực phẩm Đan Mạch và triệu hồi phái
viên từ Copenhagen về nước. Libya cũng tuyên bố sẽ đóng cửa Sứ quán nước
này tại Đan Mạch.

50
30/1: Biên tập tờ Jyllands-Posten xin lỗi. Các tay súng bao vây văn phòng
của EU tại Dải Gaza.
31/1: Đan Mạch yêu cầu công dân không nên tới Ảrập Xêút
1/2: 7 tờ báo tại châu Âu đồng loạt tái đăng các bức tranh để bày tỏ tinh
thần đoàn kết với tờ Jyllands-Posten
2/2: Tờ Shihan tại Jordan tái đăng tải những bức tranh. Các tay súng Gaza
tái chiếm văn phòng EU.
3/2: Nhóm biểu tình ở Indonesia vượt qua hàng rào cảnh sát, xông vào đập
phá sảnh chính của Đại sứ quán Đan Mạch tại thủ đô Jakarta
Nổi bật trên các bản tin của các hãng truyền thông quốc tế kể từ giữa tháng
Giêng năm 2006 là thông tin xoay quanh việc một tờ báo Đan Mạch và sau đó
là một số tờ báo Tây Âu đăng tải chuỗi hình biếm hoạ Đấng Tiên Tri
Muhammad, trong đó có hình vẽ Đấng Tiên Tri Muhammad như một tên
khủng bố.

Những cuộc tranh luận lớn trong


giới phân tích về nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng này tập trung vào
hai hướng chính: hoặc đưa ra vấn đề
“quyền tự do ngôn luận” và trách
nhiệm của báo chí trong việc tôn
trọng các giá trị tôn giáo, đặc biệt là
các giá trị tôn giáo nhạy cảm; hoặc
lên án các lực lượng Hồi giáo quá
khích trong việc kích động làn sóng
chống phương Tây.
Về hoàn cảnh nước Đan Mạch, chỉ
có hai bài báo, tờ Le Figaro ngày

51
4/2/06 và tờ Libération ngày 13/2/06, cho một số chi tiết về bầu khí chính trị
Một phần chuỗi hình biếm họa
của xứ này. Đây là một quốc gia nhỏ (5,4 triệu dân số) cộng tác tích cực với
Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq (chuyên chở khí giới, gửi quân tham chiến).
Đạo Tin Lành (truyền thống Luther) là quốc giáo (Giáo sĩ ăn lương Nhà
Nước, có đặc quyền về đăng ký ngày sinh, và giáo lý thuộc môn học bắt
buộc). Đan Mạch không cho phép người Hồi Giáo xây Mosquées và minarets.
Tờ Jyllands - Posten là tờ nhật báo phổ biến nhất, với 700 000 độc giả, đã cho
in 12 bức tranh, trong đó có hình Muhammad đội khăn và quả bom có mồi
lửa. Tờ Politiken, cũng là một nhật báo quan trọng, đứng ngoài cuộc và còn tố
cáo đồng nghiệp đã muốn sỉ nhục người Hồi Giáo. Thủ tướng Fogh
Rasmussen rất hãnh diện là chính phủ của ông đã giảm 80% số người di dân
và 65% số người đoàn tụ gia đình nhờ vào chính sách khắt khe về tài chính và
pháp luật. Người dân Đan Mạch rất ít giao thiệp với người Hồi Giáo và những
diễn biễn vừa đây không giúp họ thay đổi thái độ. Vậy các bức tranh chỉ là
mặt nổi của hiện tượng tranh đấu chính trị và tâm lý bài ngoại của người bản
xứ. Thêm vào đó thủ tướng có lẽ không ý thức được tầm quan trọng của vấn
đề khi lúc đầu ông không chịu nói chuyện với 12 đại sứ Hồi Giáo, với lý do là
có gì bất bình với một tờ báo thì cứ kêu gọi đến các toà án, chính phủ không
có chịu trách nhiệm về đường lối của báo chí.
Tờ Jyllands - Posten đã xin lỗi cộng đồng Hồi Giáo, với lý do: tờ báo
không thể ngờ là đã gây ra những phản ứng mãnh liệt và có nguy cơ cho
người Đan Mạch như vậy: “Chúng tôi xin lỗi” - dòng chữ in trên tấm vải ở
Cô-pen-ha-gen được báo chí phổ biến để diễn tả nguyện vọng của người bản
xứ. Nhưng đó chỉ là chuyện của báo chí hay dân chúng. Chính phủ ở hoàn
cảnh khác. Chính phủ Đan Mạch không có gì phải xin lỗi cả. Lập trường này
được Toà Thánh La Mã ủng hộ.
Nhưng người Hồi Giáo nhìn về tương lai. Họ muốn là Liên Hiệp Quốc cấm
đoán báo chí đùa giỡn với Muhammad. Nhiều thỉnh nguyện thư được gởi tới

52
tống thống Pháp nhằm mục đích này. Ta có thể đoán là các cuộc thương lượng
của các nước Châu Âu , chứ không phải riêng nước Đan Mạch, là tìm một giải
pháp nào đó, trong cái logic juridique của người phương Tây.
Giới hạn của tự do
Tự do là một trong những giá trị phổ quát của dân chủ, là nền tảng quan
trọng bậc nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người. Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 từng đưa ra một định nghĩa kinh điển
về tự do không chỉ cho phương Tây mà cho toàn nhân loại: tự do là được làm
tất cả những gì không gây hại cho người khác. Nói như vậy để thấy rằng, tự
do luôn gắn liền với trách nhiệm và tự do cũng có những giới hạn mà người ta
không thể vượt qua.
Sự kiện tranh biếm họa đấng tiên tri Mohammad đã đặt ra không ít câu hỏi
“đau đầu” cho giới nghệ sĩ và giới truyền thông về giới hạn của tự do. Chính
họ, chứ không ai khác, phải tự tìm cho mình cách xử lý tối ưu mối quan hệ
giữa tự do và đạo đức nghề nghiệp khi đối diện với đề tài có tính nhạy cảm
cao độ: tôn giáo.
Tự do sáng tạo là bản năng của người nghệ sĩ và mức độ sáng tạo là tiêu
chí đánh giá tài năng của họ. Khi người nghệ sĩ “sáng tạo” theo đơn đặt hàng
để phục vụ cho một mưu đồ chính trị nhằm chống lại một tôn giáo hoặc một
cộng đồng người, họ phải nhận thức được tầm quan trọng và hậu quả của
những việc mình làm. Từ chối “sáng tạo” trong trường hợp đó là cách để thể
hiện trách nhiệm xã hội và cả quyền tự do của người nghệ sĩ.
Ranh giới giữa kiểm soát xã hội và sự độc lập của cá nhân trong lĩnh vực
nghệ thuật rất mong manh. Người nghệ sĩ phải có đủ bản lĩnh để biết cách
kiểm soát bản thân và luôn ý thức được rằng, sáng tạo nghệ thuật đồng nghĩa
với tôn vinh văn hóa nhân loại. Và bất cứ một tác phẩm nào mang danh nghệ
thuật để chuyển tải những âm mưu kích động thù hằn, xung đột tất yếu sẽ bị
lên án và tẩy chay.

53
Bên cạnh đó, quyền tự do ngôn luận vốn được báo giới phương Tây sử
dụng như một lời biện hộ cho mọi hành xử của mình cũng cần phải được nhìn
nhận lại. Khi tự do ngôn luận được coi là giá trị nền tảng của nền dân chủ
phương Tây thì sự khoan dung và tôn trọng mọi niềm tin tôn giáo, mọi sự tồn
tại khác biệt cũng phải có vị trí quan trọng tương đương trong khái niệm dân
chủ đó. Thực hiện cho kỳ được quyền tự do ngôn luận của mình mà phớt lờ
mọi tác hại của nó đối với xã hội phải được xem là hành động đi ngược lại
quy tắc của nền dân chủ và vi phạm đạo đức của giới truyền thông. Truyền
thông cũng có những “vùng cấm” mà bất cứ ai muốn sử dụng quyền lực này
cũng cần phải thận trọng. Sự tiếp xúc và xâm phạm “vùng cấm” rất có thể sẽ
là ngòi nổ cho những bạo loạn xã hội trên quy mô lớn và với những thiệt hại
khôn lường. Sự kiện tranh biếm họa đã là bài học phải trả bằng máu.
Nhằm “hạ nhiệt” tình hình đang có nguy cơ bùng thêm, văn phòng thủ
tướng Palestine Mahmoud Abbas công bố một thông báo vào tối thứ sáu giờ
địa phương với nội dung rằng văn phòng đã nhận được điện thoại của ngài bộ
trưởng ngoại giao Đan Mạch Per Stig Moeller bày tỏ rằng “chính phủ nước
này không chấp nhận những hành động chống lại Hồi Giáo và bản thân ngài
bộ trưởng rất kính trọng Hồi Giáo và luôn tôn trọng sự đối thoại giữa các tôn
giáo.”
Trong khi đó, thủ tướng Đan Mạch là ông Anders Fogh Rasmussen, trong
cuộc hội kiến với đại sứ Ai Cập, đã tái khẳng định rằng chính phủ nước này
không thể can thiệp vào chuyện báo chí truyền thông được. Ngài thủ tướng
nói hôm thứ hai rằng chính phủ ông không thể lên tiếng xin lỗi chỉ vì chuyện
của một tờ báo.
Tuy nhiên bản thân ông “sẽ không bao giờ cho phép vẽ ngài Muhammad,
đức Jesus hoặc bất cứ nhân vật tôn giáo nào theo cách thức có thể gây xúc
phạm đến những người khác.”
Về phía Hoa Kỳ, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Janelle Hironimus hôm
thứ sáu đã lên tiếng chỉ trích các bức biếm hoạ nói trên và gọi đó “là sự xúc

54
phạm đến niềm tin Hồi Giáo” Phát ngôn viên Hironimus nói thêm rằng tự do
báo chí cần thiết phải đi đôi với trách nhiệm. Bà nói: “Khích động hiền thù tôn
giáo hoặc chủng tộc là điều không thể chấp nhận được. Chúng tôi kêu gọi cần
có sự thông cảm và tôn trọng đối với mọi cộng đồng cũng như niềm tin và
quyền phượng tự của mọi người.”
Bộ trưởng Ngoại Giao Anh Jack Straw hôm thứ sáu cũng lên tiếng chỉ
trích giới truyền thông Châu Âu đã cho đăng lại các bức biếm họa trên. Ông
nói tự do báo chí phải được tôn trọng nhưng “điều này không có nghĩa là thoá
mạ hay gây kích động”
Cần nhắc lại là những bức biếm hoạ trên đã được đăng trước tiên trên tờ
Jillands - Posten của Đan Mạch. Tuy nhiên sự việc chỉ bùng lớn sau khi một
số giáo sĩ Hồi Giáo lên tiếng chỉ trích, cho đó là sự xúc phạm nghiêm trọng
đến tín ngưỡng Hồi Giáo và chính quyền Saudi Arabia phản ứng trong tuần
qua bằng cách cho triệu hồi đại sứ của họ tại Đan Mạch về. Dầu lại được đổ
thêm vào lửa trong tuần này sau khi một số tờ báo tại Na-Uy, Pháp, Đức và
thậm chí cả tại Jordan đồng loạt cho đăng lại những bức biếm hoạ hết sức
thách thức và xúc phạm dưới con mắt của các tín hữu Hồi Giáo.
Thông qua vụ tranh biếm hoạ Mohammed, tính tự kiểm duyệt trong đạo
đức báo chí được làm rõ. Theo dõi cuộc phỏng vấn của tờ báo SPIEGEL với
ông Shujaat Ali, 35 tuổi, là một trong số ít nhà biếm hoạ chính trị trên thế giới
sử dụng công nghệ Flash để phác hoạ hình ảnh. Sinh ra tại Pakistan, ông
thường vẽ tranh biếm hoạ cho nhật báo News International, có trụ sở tại
Islamabad.
2.1. Tự kiểm duyệt và kiểm duyệt chuyên nghiệp
SPIEGEL: Với tư cách là người vẽ tranh biếm hoạ cho hãng tin Al-
Jazeera, ông phản ứng thế nào khi lần đầu tiên thấy các bức biếm hoạ về
Đấng tiên tri Muhammad của Đan Mạch?

55
Shujaat Ali: Trách nhiệm của nhà báo là phải giữ đạo đức. Tôn giáo là
một vấn đề rất nhạy cảm và tôi nghĩ không một người vẽ tranh biếm hoạ
chuyên nghiệp thực sự nào trên thế giới lại chọn tôn giáo làm chủ đề như vậy.
Có một nguyên tắc không chính thức về đạo đức của các nhà vẽ tranh biếm
hoạ trong lĩnh vực truyền thông, nó bao gồm 2 kiểu kiểm duyệt: thứ nhất là tự
kiểm duyệt, và thứ hai là kiểm duyệt chuyên nghiệp. Tôn giáo rất quan trọng,
chúng ta nên tôn trọng và không nên chỉ trích. Tôi ngày càng thích các bức
biếm hoạ của Herbert Herblock và chúng thực sự gây ấn tượng đối với tôi. Có
nhiều nhà biếm hoạ rất chuyên nghiệp, ở Mỹ và châu Âu. Họ không bao giờ
đối xử với một tôn giáo kiểu này.
Ông nói về ''kiểm duyệt'' như một điều tốt tựa nguyên tắc bản thân vậy?
Vâng, đúng. Trách nhiệm của nhà báo là phải tuân thủ quy tắc đạo đức này -
điều đó rất quan trọng.
Liệu ''nguyên tắc đạo đức'' vẫn nên áp dụng cả khi người Hồi giáo chỉ
trích ngay tôn giáo của mình?
Hãy để tôi kể cho anh nghe một tình huống vui. Khi tôi bắt đầu vẽ cho tờ
News International của Pakistan ở Islamabad, tôi đã lấy quyền tự do của mình
để tấn công một đảng Hồi giáo trong cuộc bầu cử ở đó. Tôi là người đầu tiên
làm công việc đó. Tôi hoàn toàn đồng ý với Tổng thống Pervez Musharraf khi
ông nói về những con người cụ thể nào đó nắm tôn giáo trong tay. Do đó, tôi
bắt đầu chỉ trích các đảng chính trị Hồi giáo ở Pakistan -- và chỉ trích họ vì tội
lái tôn giáo sang một hướng sai lầm. Tờ báo của tôi đã từ chối đăng một trong
số bức tôi vẽ, do đó tôi chuyển chúng cho một tờ báo khác. Kết quả, nó đã gây
ra sự phản ứng kinh khủng và đảng Hồi giáo đó đã tấn công toà soạn báo đó
bằng súng.
Ông nói rằng, các nhà vẽ tranh biếm hoạ nên thể hiện tính nhạy cảm trong
các bức vẽ của mình, nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ đã buộc tội ông thiếu điều đó
trong các bức vẽ của chính ông. Sau khi ông vẽ bức biếm hoạ miêu tả các lính
Mỹ thiệt mạng và một bức khác vẽ két xăng đặt trên Toà tháp đôi bị sụp đổ ở

56
New York, Washington đã phản ứng và Al-Jazeera buộc phải bỏ những bức vẽ
đó khỏi trang web của mình. Liệu ông có nghĩ tới tính nhạy cảm của khán giả
Mỹ khi ông vẽ chúng?
Mục tiêu thực sự của tôi khi vẽ những bức biếm hoạ đặc biệt đó là nhằm
vào Chính phủ Mỹ, chứ không phải người dân Mỹ. Tôi thấy quyết định của
ông chủ của tôi - Tổng biên tập - là không thể chấp nhận được - và ông bị chỉ
trích nhiều vì điều này.
Xét về tính chuyên nghiệp, đó không phải là một bước đúng đắn bởi vì một
tổ chức chuyên nghiệp phải bảo vệ các phóng viên của mình. Chúng tôi phân
tích tình cảm của người Mỹ trong các bức biếm hoạ này. Đó là lý do Chính
phủ Mỹ phàn nàn về điều đó, nhưng chúng tôi chẳng nghe thấy một người Mỹ
bình thường nào ca cẩm cả
2.2. Tự do ngôn luận vẫn phải tôn trọng tôn giáo!
Ở phương Tây, có nhiều lời chỉ trích về tính đạo đức giả trong các cuộc
biểu tình ở thế giới Ảrập. Người Ảrập giờ đang phàn nàn về tính rập khuôn
cứng nhắc của Hồi giáo. Tuy nhiên, các tổ chức Do Thái lên án những bức
chân dung bài chủ nghĩa Xê mít trong tôn giáo họ ở các bức biếm hoạ
thường xuất hiện trên các tờ báo Ảrập. Rất nhiều nhà biếm hoạ ở thế giới
Ảrập rõ ràng là những người bài chủ nghĩa xê-mít.
Tôi đồng ý về điều này, và tôi cảm thấy hối tiếc. Chúng ta nên tôn trọng
mọi người thuộc các tôn giáo khác, bất kể họ là Do Thái, Cơ đốc giáo...Chúng
ta có những nguyên tắc đạo đức dành cho các nhà biếm hoạ, và chúng ta cần
tự hỏi nên đi xa đến mức nào có thể chấp nhận được, đó là loại giới hạn mà
chúng ta cần đặt ra. Các nhà biếm hoạ tấn công các chính trị gia hoặc chính
phủ thì không sao, nhưng họ nên để tôn giáo yên. Các nhà biếm hoạ thực sự
cần tôn trọng lĩnh vực này.
Tuy nhiên, ở phương Tây, các nhà biếm hoạ có quyền pháp lý được châm
biếm, bất kể chủ đề là gì. Và, nhiệm vụ của chính phủ là bảo vệ quyền tự do

57
ngôn luận. Vậy làm sao chính phủ và người dân Đan Mạch lại phải chịu trách
nhiệm về những bức biếm hoạ mà một tờ báo quyết định xuất bản?
Nếu chính phủ không tiến hành các bước cần thiết để ngăn chặn cơ quan
truyền thông tấn công một tôn giáo - một hành động gây ra một cuộc xung đột
lớn giữa các dân tộc, điều đó sẽ huỷ hoại danh tiếng của chính phủ đó trên
trường quốc tế.
Phương Tây đã phải đấu tranh hàng trăm năm để bảo vệ quyền tự do thể
hiện quan điểm, tự do ngôn luận - những quyền giờ đây đã trở thành nền tảng
của nền văn minh chúng tôi. Trên khắp châu Âu hiện nay, nhiều người coi các
cuộc biểu tình ở thế giới Ảrập là một cuộc tấn công vào các giá trị dân chủ
của chúng tôi?
Tự do là rất quan trọng. Và tôi cũng đang chiến đấu vì nó ở đây.
Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ chúng ta phải đặt ra những giới hạn. Nếu anh
muốn chỉ trích một người, nếu anh muốn chỉ trích một chính phủ , nếu anh
muốn chỉ trích những thứ cụ thể nào đó bằng tranh biếm hoạ, anh không thể
vượt qua những giới hạn cụ thể. Quá một cái gì đó đều không tốt. Nếu anh cứ
đẩy mà không có giới hạn gì, điều đó sẽ rất có hại.
Khi người nghệ sĩ lấy vấn đề tôn giáo làm chủ đề cho các bức biếm hoạ
của mình và anh ta biết điều đó sẽ làm tổn thương tới những người thuộc tôn
giáo khác, như vậy anh ta đã vượt quá ranh giới và điều này đã được đẩy lên
cơ quan thẩm quyền cao hơn phải chịu trách nhiệm.
Trong phản ứng của mình, người Ảrập đã đốt hình nộm của Thủ tướng
Đan Mạch Anders Fogh Rasmussen, tẩy chay hàng hoá Đan Mạch, đe doạ
người dân và đốt quốc kỳ nước họ. Sự phản ứng của thế giới Hồi giáo khiến
nhiều người ở phương Tây bị sốc. Những kẻ cực đoan đã tấn công các văn
phòng EU ở Dải Gaza, người Hồi giáo ở Indonesia đã tấn công vào đại sứ
quán Đan Mạch ở Jakarta. Ông có cảm thấy phản ứng như vậy là quá
không?
Tôi nghĩ rằng chỉnh lại những nhà biếm hoạ Đan Mạch và cố gắng chỉ cho họ

58
cảm giác của quảng đại quần chúng là điều nên làm. Chúng tôi không thể tha
thứ cho bất kỳ hành động phỉ báng Đấng tiên tri - người chúng tôi tôn trọng
nhất. Ở mọi tôn giáo, ngay cả Cơ Đốc giáo, có nhiều người rất nhạy cảm về
tôn giáo của mình.
Trong cộng đồng của tôi, tôi chỉ trích những ai vượt quá giới hạn. Tất
nhiên, họ cần phải bị chỉ trích. Hồi giáo cực đoan là tồi tệ. Chúng ta không
phải là những thiên thần, nhưng chúng ta là con người. Mà đã là con người,
chúng ta phải tôn trọng nhau. Và tôn trọng tôn giáo của tôi.
=> Kết luận: Lẽ tự nhiên: người vẽ bức tranh này và người quyết định cho
đăng nghĩ rằng: đây là một hành động hết sức bình thường thực thi quyền tự
do báo chí được pháp luật bảo vệ và xã hội thừa nhận. Báo chí có quyền pháp
lý đăng tranh biếm hoạ tất cả mọi chủ đề, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng kể cả
tôn giáo và chính phủ phải tôn trọng quyền này. Để tỏ lòng đoàn kết và bày tỏ
quan điểm ủng hộ quyền tự do ngôn luận, một số tờ báo lớn của Pháp và Nauy
đã cho đăng lại bức hình này. Và sự việc như “đổ thêm dầu vào lửa”.
Ngược lại, ở phía bên kia, đối với các tín đồ hồi giáo đấng tiên tri Mohammed
là biểu tượng tinh thần vĩ đại trong lòng họ, là niềm tin soi sáng thế giới tâm
linh họ. Nếu người phương Tây tôn thờ chúa Jêsu nhường nào thì người Hồi
Giáo cũng sùng bái đấng tiên tri Mohammed như vậy. Họ không thể tha thứ
cho hành động ”biếm hoạ” vị thánh của như một trò giải trí dù động cơ người
vẽ hoàn toàn trong sáng.
Cuộc tranh cãi về xung đột giữa tôn giáo và tự do ngôn luận sẽ còn tiếp
diễn dù sự việc có lắng dịu. Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của cơn thịnh
nộ này xuất phát từ sự khác biệt về quan niệm, suy nghĩ, đức tin của những
con người được nuôi dưỡng trong 2 nền văn hoá, môi trường xã hội khác
nhau.
Một bài học đau đớn nhưng cần thiết được rút ra từ sự kiện này: Nhà báo
cần thận trọng trọng đa tin, đặc biệt trong những lĩnh vực nhạy cảm như tôn
giáo. Sự cẩn trọng này không chỉ đến từ bản lĩnh, hiểu biết, kinh nghiệm mà

59
một phần rất quan trọng từ đạo đức nghê nghiệp của mỗi người làm báo. Đó là
một cái tâm trong sáng, luôn tôn trọng sự thật và đứng về lợi ích sối động. Bất
cứ một động cơ đa tin không trong sáng với tinh thần không xây dựng, xuyên
tạc sự thật sẽ bị trả giá. Xin kết thúc chương về đạo đức báo chí bằng ý kiến
của bà Karen Amstrong- nhà nghiên cứu đạo Hồi trên BBC: “ Mỗi bên cần
đánh giá quan điểm của bên kia. Tôi nghĩ thật vô trách nhiệm khi đăng những
bức biếm hoạ như vậy. Chúng ta luôn tự hào văn hoá của chúng ta có tình
thương, có sự thông cảm nhưng việc đăng bức biếm hoạ đấng tiên tri
Mohamed là kẻ khủng bố như vậy là không chính xác, có tính bài Hồi giáo.
Chúng ta chiến đấu để Châu Âu có quyền tự do ngôn luận như một giá trị
thiêng liêng nhưng cần phải nhớ: tự do ngôn luận phải đi kèm với các trách
nhiệm” .
II. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP TRỰC TIẾP TỚI BÁO CHÍ
Những cách thức ảnh hưởng lên truyền thông, đặc biệt từ giới chính trị, là
rất đa dạng và phức tạp. Nhưng ngoài giới chính trị ra, ảnh hưởng trong giới
truyền thông bao gồm các thành phần: chủ nhân (sở hữu các phương tiện
truyền thông), chủ nhiệm hay chủ bút, thương gia (bảo trợ hay quảng cáo),
phóng viên - ký giả, và “khán - thính - độc” giả. Phân tích ảnh hưởng của
từng thành phần lên nội dung truyền thông không phải hiển nhiên và dễ dàng,
vì phần lớn tuỳ thuộc vào môi trường (dân chủ hay độc tài) và mối tương
quan (truyền thống, văn hoá...) giữa các thành phần này với nhau. Nhưng
trước hết, chúng tôi xin tổng hợp và đưa ra một số khía cạnh can thiệp sau:
1. Can thiệp bằng luật báo chí
Ở các nước TBCN, báo chí không do nhà nước trực tiếp quản lý, không có
Ban tư tưởng văn hóa Trung Ương hay Bộ văn hóa truyền thông hoặc các hội
báo chí duyệt tin bài trước khi đăng tải. Tuy nhiên, báo chí ở các nước TBCN
chịu sự giám sát lớn nhất bởi Pháp luật. Đặc biệt, ở những đất nước tưởng
chừng như báo chí luôn hoạt động tự do này lại vẫn còn tồn tại luật kiểm
duyệt báo chí.

60
1.1. Tại Mỹ
Giới truyền thông Mỹ cũng áp dụng nghiêm khắc chính sách tự kiểm
duyệt. Nếu không tuân thủ nhà báo lập tức bị sa thải như NBC đã làm với nhà
báo Peter Arnett.
Peter Arnett, cựu phóng viên chiến trường của
Hãng tin AP và CNN, giành giải thưởng báo chí
Pulitzer 1966 cho những tác phẩm báo chí về
chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1962-1975, với tư
cách phóng viên Hãng AP, Peter Arnett đã có hơn
Peter Arnett (trái)gặp pv
3.000 bài báo viết từ chiến trường Việt Nam.
Trong chiến tranh Iraq, ông đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự
nóng hổi, được truyền hình trực tiếp trên kênh CNN từ chiến trường Baghdad,
đồng thời cũng là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn
trùm khủng bố Osama Bin Laden. Với hơn 57 giải thưởng báo chí quốc tế,
Peter Arnett được xem như một huyền thoại sống của báo chí thế giới.
Ông bị hãng NBC sa thải vào cuối tháng 3/2003 sau khi cung cấp cho
truyền hình quốc gia Iraq một bài phỏng vấn trong đó cho rằng kế hoạch
chiến tranh của Mỹ tại Iraq sẽ thất bại.
Nói đến vấn đề kiểm duyệt báo chí ở Mỹ, ta phải nhắc đến tác phẩm
“Danh sách đen” (Black List) (Hồ Lê dịch– theo Lepoint và Voltaire). Tác
phẩm nói về 115 nhà báo Mỹ đã từng nhận giải thưởng cao quý (Emmy và
Peabody Awards) trong lĩnh vực báo chí vậy mà họ đã là những nạn nhân của
nền báo chí không dân chủ, một kiểu ngôn luận dưới sức ép. Họ lên tiếng tố
cáo hệ thống báo chí Mỹ và cả những mưu đồ chính trị nhằm kiểm duyệt và
tạo sức ép. Những sự kiểm duyệt thô bạo và phía sau là những trò hèn hạ và bỉ
ổi nhất – đe dọa lấy mạng, vu khống, quấy rối tinh thần, kiện tụng, mất việc
như Kristina bị cho là “Hỏi han nhiều đồng nghiệp ở tòa soạn khác về hệ
thống kiểm duyệt” khi được giao trách nhiệm thu thập tin tức trong vụ máy
bay TWA phát nổ khi đi Paris, rơi xuống Đại Tây Dương.

61
Chị tin rằng chiếc máy bay bị nổ do một cú bắn đầy ác ý. Chị muốn
phơi ra công luận hai điều: sức ép của công lý và của cả những thế lực ngầm
buộc chị bẻ cong ngòi bút hoặc chấm dứt điều tra. Kết cục: cốp xe của chị bị
đập vỡ, tất cả tài liệu bị đánh cắp. Kristina tổng kết rằng: có hai lỗ đen trong
vũ trụ báo chí Mỹ mà nếu động đến bạn sẽ gặp phải phiền toái: quân sự - kinh
tế và thậm chí là cơ quan đầu não an ninh tình báo. Trong nền báo chí Mỹ sự
thật đã được bịt kín nhường chỗ cho trò bịp bợm, những uẩn khúc nhưng
không bao giờ được nói. Có người cho rằng “ báo chí Mỹ đang no nê với
những lời nói rối và những thông tin không thật. Đáng buồn thay là họ vẫn
đang thống trị dòng chảy thông tin toàn cầu. Chúng ta dễ dàng nhận thấy báo
chí Mỹ phụ thuộc vào chính phủ.
Không chỉ riêng Kristina, hơn 40 nhà báo khác trên đất Mỹ đều chịu
những kết cục chẳng mấy êm đẹp gì.
1.2. Tại Pháp
Chế độ kiểm duyệt ra đời cùng với sự ra đời của báo chí.
Theo đó, báo chí không được phép in bất cứ cái gì nếu chưa được phép của
cơ quan kiểm duyệt hay cảnh sát. Nội dung sách báo không được chống lại
tôn giáo, nhà vua, nhà nước, hình phạt cao nhất cho tội này là tử hình.
Năm 1640-1775 có 8700 người làm báo ở Pháp bị tử hình do vi phạm điều
luật này.
Năm 1789, cách mạng vô sản Pháp nổ ra, điều luật này được bãi bỏ.
1.3. T ại Singapo
Ngày 8/6/2002 Bộ trưởng Thông tin và Nghệ thuật David Lim cho biết
Singapore đã tiến hành đánh giá lại toàn diện luật kiểm duyệt trong lĩnh vực
báo chí và nghệ thuật sao cho phù hợp với kỷ nguyên Internet và toàn cầu hoá.
Singapore cấm đăng tải nội dung về bất đồng chính trị và tình dục nhưng
lại đang tự coi mình là một trung tâm báo chí và nghệ thuật của châu á, do đó
làm dấy lên những yêu cầu đòi nới lỏng các vòng kiểm soát, đặc biệt là với
những người dân đã sử dụng Internet. Lim cho biết chúng tôi không thể bác

62
bỏ sự thay đổi đã xảy ra trong xã hội, và thừa nhận Singapore sẽ phải mở cửa
không gian trong khi bảo vệ những giá trị quan trọng và tính đến những vấn
đề nhạy cảm trong xã hội.
Uỷ ban Xem xét lại Luật Kiểm duyệt (CRC) đã được thành lập để tiến
hành cuộc nghiên cứu về vấn đề kiểm duyệt và đưa ra những kiến nghị với
chính phủ. Uỷ ban bao gồm các nhà báo, giáo sư, học giả và thành viên của
hội đồng nghệ thuật. Lim cho biết ông yêu cầu uỷ ban này xem xét 3 điều
trong việc khi thực hiện nhiệm vụ của họ: toàn cầu hoá, thay đổi kỹ thuật, di
sản văn hoá và xã hội đa sắc tộc của Singapore.
1.4. Tại Thái Lan
Theo thông báo phát trên truyền hình quốc gia Thái Lan, các kênh
thông tin trong nước và quốc tế sẽ được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ
của Bộ thông tin liên lạc.
Ngày 20/9/2006 các tướng chỉ huy cuộc đảo chính đã ra lệnh kiểm duyệt
các phương tiện thông tin đại chúng và cấm người dân tại Thái Lan tụ tập,
nhằm đảm bảo an ninh trật tự.
Bộ thông tin liên lạc được giao nhiệm vụ ngăn chặn những nguồn tin sai
lệch gây tổn hại đến hình ảnh của Hội đồng quân sự lâm thời hiện đang tạm
thời lãnh đạo đất nước.
Các lực lượng an ninh hiện đang ráo riết cho kiểm soát các phương tiện
truyền tin của các hãng thông tấn báo chí.
Đồng thời các tướng chỉ huy cũng ra lệnh cấm dân chúng Thái Lan tụ tập
trên 5 người tại các địa điểm công cộng. Bất cứ ai vi phạm luật lệ nói trên sẽ
bị phạt tù trong vòng 6 tháng.
Hội đồng quân sự lâm thời cũng đã cấm việc đầu cơ tích trữ hàng hoá và
thông báo bất cứ ai bị báo cáo đã tăng giá các sản phẩm của họ sẽ bị phạt tù
hai năm.
1.5. Tại Anh

63
- Báo chí Anh ra đời từ 1583 đã gặp phải rào chắn pháp luật rằng họ không
được phép đăng tải tin tức quốc nội. Nhà nước Anh không muốn báo chí chọc
gậy bánh xe, hay can thiệp đến những vấn đề trong nước. Bởi vì họ cho rằng
báo chí sẽ phơi bày, vạch trần những vụ việc không mấy liêm khiết. Ngược
lại, báo chí được quyền đăng tải các thông tin mà nhà nước cho phép. Có thể
xem đây là thời kỳ trói buộc nhất của báo chí Anh.
- Chính phủ Anh lợi dụng báo chí để bóc lột tài chính một cách trắng trợn
đối với công chúng. Họ đặt ra các thuế báo chí, đặt ra các thuế tem đánh vào
báo chí.
2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật
Khi có các biến cố lớn xảy ra, nhà nước TBCN luôn kịp thời có những văn
bản, quy định cho phù hợp với tình hình, nhằm ngăn chặn những tin tức
không có lợi cho chính phủ. Những luật này chỉ áp dụng trong một thời gian
nhất định khi xảy ra biến cố.
VD1: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991)
Đa số những thông tin báo chí có được đều từ những cuộc họp báo ngắn
của quân đội. Chỉ những nhà báo được lựa chọn mới được phép tới mặt trận
hay tiến hành các cuộc phỏng vấn binh sĩ. Những cuộc viếng thăm đó luôn
được tiến hành với sự hiện diện của các sĩ quan, và sau đó đều phải được sự
cho phép của quân đội và bộ phận kiểm duyệt. Điều này bề ngoài là để bảo vệ
các thông tin nhạy cảm khỏi bị tiết lộ cho Iraq nhưng trên thực tế là để ngăn
chặn tiết lộ các thông tin gây rắc rối về chính trị. Chính sách này bị ảnh hưởng
nhiều từ những kinh nghiệm sau Chiến tranh Việt Nam, được cho rằng đã gây
ra nhiều rò rỉ dẫn tới sự chống đối từ bên trong nước Mỹ.
Trong cuộc chiến vùng Vịnh: giới truyền thông Mĩ chôn vùi những hình
ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa lộ tử thần (còn gọi là cuộc thảm
sát trên “Highway of Death”) khi quân đội Iraq rút khỏi Kuwait.
VD2: TẠI ANH, ĐÀI BBC BỊ CẤM ĐƯA TIN VỀ VỤ MUA BÁN
QUAN CHỨC

64
Ngày 4/3/2007, Đài BBC đã được lệnh của tòa án, cấm đăng tin về vụ mua
quan bán chức ở nước này.
Tờ Người bảo vệ cho biết, nếu vi phạm, Ban lãnh đạo BBC có thể bị kỷ
luật, thậm chí bị cấm phát sóng trong một thời gian.
Được biết, vụ mua quan bán chức ở Anh bắt đầu bị điều tra từ tháng
3/2006 và đến nay đã có rất nhiều quan chức cấp cao bị liên quan; 4 người đã
bị bắt, trong đó có trợ lý vận động bầu cử của Thủ tướng Lord Levy, trợ lý
văn phòng Thủ tướng Ruth Turner... Thậm chí, Thủ tướng Anh Tony Blair
cũng đã bị cảnh sát thẩm vấn tới 2 lần.
VD3: MỸ CẤM TRUYỀN HÌNH ĐƯA TIN VỀ PHIÊN TÒA XỬ VỤ
KIỆN CHẤT ĐỘC DA CAM
Ngày 28/2/2008, Tòa án liên bang Mỹ xử vụ án các nạn nhân chất độc da
cam Việt Nam kiện 37 công ty hoá chất Mỹ. Trong phiên toà lần này chính là
việc truyền hình bị cấm đưa tin, trong khi báo chí và các phương tiện truyền
thông khác lại được phép tham dự. Điều đó phải chăng Mỹ không dám nhìn
thẳng vào sự thật của cuộc chiến mà họ gây ra, và phải chăng họ lo sợ những
người Mỹ có lương tri sẽ đòi công lý cho chính những nạn nhân của quốc gia
họ? Hay lo ngại vụ kiện này sẽ mở đường cho các vụ kiện tương tự từ công
dân các quốc gia mà Mỹ đã gây chiến? Hay phải chăng vụ kiện này sẽ đe dọa
nghiêm trọng đến quyền phát động chiến tranh của Tổng thống (do Quốc hội
trao cho) và như vậy sẽ mở rộng quá mức quyền của Tòa án liên bang?

65
CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC
TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
Các phương tiện thông tin đại chúng trên thế giới, đặc biệt là báo chí
phương Tây đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt: từ các nhật
báo, tuần báo, tạp chí...tên tuổi trên thế giới đến các hãng thông tấn “gạo
cội” vì lý do công chúng của báo chí ngày càng giảm sút do sự mất lòng tin.
1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể
Trước hết phải kể đến hiện tượng giảm sút đáng kể số lượng phát hành.
Theo thống kê của AP năm 2005:
- Nhật báo Mỹ International Herald Tribune năm qua giảm 4,16%
- Tờ Financial Times của Anh giảm 6,6%
- Ở Đức, trong vòng năm năm qua, số lượng phát hành giảm 7,7%
- Ở Đan Mạch giảm 9,5%
- Ở Áo giảm 9,9%
- Ở Bỉ giảm 6%
- Nhiều tên báo đang biến mất dần, ví như tờ Magyar Hirlap ở Hunggari
vừa đóng cửa ngày 5/11/2004, hay tờ ''''Far Eastern Ecconomic Review'''' ở
Hồng Kông cũng đình bản từ ngày 4/11. Ở Pháp, nguyệt san Nova Magazine
cũng đã ngừng hoạt động từ ngày 7/12/2004...
Trong khoảng những năm 2000 đến 2004, hơn hai ngàn chỗ làm việc của
báo viết đã ''''xóa sổ'''', tức là khoảng 4% tổng số nhân công. Không những thế,
các hãng thông tấn lớn cung cấp thông tin cho các báo cũng khốn đốn. Chẳng
hạn như hãng Reuters vừa thông báo sa thải 4500 nhân viên. Nhiều người
đang tự hỏi liệu có phải báo viết sẽ ½ chỉ còn là một phương tiện thông tin đại
chúng của kỷ nguyên công nghiệp đang bị diệt vong hay không?
Nguyên nhân của hiện tượng này có nhiều, song phải kể trước hết đến sự
công phá của các nhật báo miễn phí, kèm theo quảng cáo, thông báo... Thậm
chí, nhiều báo còn lôi kéo độc giả vào cuộc cạnh tranh bằng nhiều hình ảnh
''hấp dẫn''. Chẳng hạn như ở Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi ngày

66
chỉ cần trả thêm một chút xíu là độc giả có thể nhận thêm đĩa CD, DVD, băng
hoạt hình, sách, bản đồ, từ điển bách khoa, thậm chí cả bộ sưu tập tem hay
tiền cổ, hoặc các bộ cốc chén, bộ cờ...
Một nguyên nhân khác nữa là sự phát triển bùng nổ của Internet. Chỉ riêng
trong quý I năm 2004, hơn 4,7 triệu trang Web đã được lập ra. Hiện trên thế
giới có tới 70 triệu trang Web và có 700 triệu người đang sử dụng Internet.
Trong các nước phát triển, nhiều người bỏ rơi báo chí, thậm chí cả TiVi để say
sưa với màn hình vi tính. Chỉ phải chi từ 10 đến 30 euro mỗi tháng, người ta
đã có thể sử dụng mạng Internet nhanh. Ở Pháp, hơn 5,5 triệu gia đình đang
sử dụng báo điện tử với đủ loại tin tức, ảnh, âm nhạc, các chương trình của
truyền hình hay phát thanh, xem phim hay trò chơi video, với dung lượng rất
cao. Hiện trên thế giới 79% các báo cáo đã được phát lên mạng. Thậm chí còn
phải kể đến một nguy cơ mới nữa là điện thoại di dộng (ĐTDĐ) ''''toàn năng'''',
với công cụ này, người ta có thể biết tất cả mọi thứ diễn ra trên thế giới vào
bất cứ lúc nào. Ở Ấn Độ, tờ Times of India mỗi ngày phát cho mạng ĐTDĐ
30 triệu thông tin dưới dạng tin vắn (SMS - Short Message Service), rất
nhanh, vắn tắt và không đắt chút nào. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, số người sử
dụng thông tin qua ĐTDĐ ngày càng tăng,. Họ có thể nhận các buổi phát của
đài phát thanh, hoặc các kênh TiVi liên tục.
2. Độc giả mất lòng tin
Có một nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc giảm sút số lượng độc giả của
báo chí là là sự mất lòng tin. Càng ngày các báo có tên tuổi càng thuộc về tay
các tập đoàn công nghiệp đang kiểm soát kinh tế và thông đồng với quyền lực
chính trị, và cả cách nhìn nhận thiếu khách quan, dối trá, bị giật dây ... ngày
càng tăng. Chẳng hạn như vụ nhà báo Mỹ Jayson Blair do đưa tin xuyên tạc
đã gây cho tờ New York Times một thiệt hại tai tiếng, dẫn đến việc hai giám
đốc tòa soạn phải từ chức.
Chỉ vài tháng sau đó, một vụ "xì-căng-đan" còn nổi hơn: đó là việc phóng
viên nổi tiếng Jack Kelley - ngôi sao quốc tế đã "cày xới" cả hành tinh, người

67
đã từng phỏng vấn 36 nguyên thủ quốc gia và đưa tin về hàng chục cuộc
chiến, với cả trăm bài báo giật gân - ngày 10/3/2000 đã viết một phóng sự về
một phụ nữ Cuba trốn chạy và chết đuối thê thảm ở vịnh Floride. Vụ việc đã
bị nhà báo Blake Morrisson của tờ USA Today phanh phui vì ông này đã gặp
người phụ nữ đó, và xác minh sự thật là người phụ nữ đó còn sống và không
hề chạy trốn. Đây bị coi là một trong những vụ tai tiếng lớn nhất của ngành
báo chí Mỹ.
Gần đây nhất, giữa chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, một cuộc chấn động
về đạo đức đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ. Dan Rather, ngôi sao của
truyền hình CBS và chương trình đầy uy tín "Sixty Minutes" thừa nhận đã
phát đi mà không xác minh những tài liệu giả chứng tỏ rằng Tổng thống Bush
đã được hưởng mọi ủng hộ để khỏi phải tham chiến ở Việt Nam. Dan Rather
đã tuyên bố xin thôi việc.
Tệ hơn nữa, nhiều phương tiện thông tin đại chúng có tên tuổi còn bị biến
thành những cơ quan tuyên truyền những tin tức dối trá của Nhà Trắng về
Irắc, đặc biệt là kênh Fox News, hoặc Washington Post, New York Times còn
tham gia vào các chiến dịch "nhồi sọ"...
Tất cả những vụ việc trên cũng như liên minh ngày càng chặt chẽ với
quyền lực kinh tế và chính trị đã gây nên sự mất lòng tin nghiêm trọng của
báo chí phương Tây, đồng thời cho thấy sự suy giảm dân chủ đáng lo ngại.
Người ta có thể hỏi phải chăng khái niệm báo chí tự do ở phương Tây đang
biến mất.
=> Và còn rất nhiều hệ quả khác nữa khiến công chúng phải đặt ra 1 câu
hỏi: Phải chăng đã đến ngày “tận thế” của báo chí phương Tây? (Câu hỏi này
trích từ Vietnamnet ngày 14/1/2005)

68
CHƯƠNG V: LIÊN HỆ VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM
Từ những đặc tính của truyền thông chính trị trong nền dân chủ phóng
khoáng nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận định cốt lõi liên quan đến
tự do báo chí tại Việt Nam và công cuộc thúc đẩy sự tiến triển của các phương
tiện truyền thông. Muốn đẩy mạnh tiến trình pháp triển và hội nhập của Việt
Nam trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải dồn hết mọi nỗ lực
cần thiết để sớm hình thành một chính sách (chiến lược và chiến thuật) về
thông tin và giáo dục vì cả hai lĩnh vực này là quan trọng nhất.
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại tung ra những quan điểm sai
trái, bịa đặt, vu cáo nhằm phủ nhận, xuyên tạc những thành tựu của công cuộc
đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng. Chúng cho rằng báo chí Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi sự kiểm
duyệt. Vậy thế nào là “kiểm duyệt” theo đúng nghĩa?
Theo quan điểm của Karl Makx:
"Kiểm duyệt chân chính bắt rễ từ chính bản chất của tự do báo chí là sự
phê bình. Phê bình là một sự xét xử mà tự do báo chí sản sinh ra từ bản thân
mình".
"Kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách là độc quyền của chính phủ".
"Khi sự phê bình không phải công khai mà là bí mật, không phải về mặt lý
luận mà là về mặt thực tiễn, khi sự phê bình không đứng trên các đảng phái
mà bản thân trở thành đảng phái, khi sự phê bình tác động không phải bằng
lưỡi dao sắc bén của lý tính mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê
bình chỉ muốn lên tiếng phê bình mà không muốn chịu sự phê bình..., cuối
cùng khi sự phê bình không có tính chất phê bình đến mức coi một cách sai
lầm cá nhân riêng lẻ là hiện thân của trí tuệ phổ biến, coi mệnh lệnh của bạo
lực là mệnh lệnh của lý tính, coi những vết mực là những vết trên mặt trời, coi
những nét gạch xoá của người kiểm duyệt là những cấu tạo toán học, coi việc
dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh mẽ – khi đó lẽ nào sự phê bình lại
không mất tính chất hợp lý của mình".

69
"Tính cách của báo chí bị kiểm duyệt đó là sự quái dị không có tính cách
của thiếu tự do, đó là con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm
nước hoa".
"Luật báo chí là luật thật sự, bởi vì nó biểu hiện sự tồn tại của tự do. Nó
coi tự do là tình trạng bình thường của báo chí, coi báo chí là tồn tại của tự
do. Vì thế luật này chỉ xung đột với những tội lỗi của báo chí với tư cách là
một ngoại lệ đang chống lại tiêu chuẩn của chính mình".
"Luật kiểm duyệt không phải là luật mà là biện pháp cảnh sát, và thậm chí
còn là biện pháp cảnh sát tồi, bởi vì nó không đạt được điều nó muốn và nó
không muốn điều nó đạt được".
"Chế độ kiểm duyệt làm cho mỗi tác phẩm bị cấm dù hay hoặc dở đều trở
thành tác phẩm không bình thường, còn tự do báo chí thì tước mất của tác
phẩm cái vẻ oai nghiêm bề ngoài đó".
"Tệ lớn nhất – tệ giả dối gắn liền với báo chí bị kiểm duyệt. Tệ xấu căn
bản này của nó là nguồn gốc của tất cả những thiếu sót khác trong đó cả
mầm mống mỹ đức cũng không có".
"Làm cho nhân dân quen coi cái phạm pháp là tự do, coi tự do là phi
pháp, coi cái hợp pháp là cái không tự do. Chế độ kiểm duyệt bóp chết tinh
thần quốc gia như thế đấy".
"Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có
khả năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau,
nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc mà trên cơ sở
ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước – không
phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là những sức mạnh
của trí tuệ, với tư cách là những người thể hiện những quan điểm hợp lý".
Cũng từ những quan điểm đúng đắn trên, có thể khẳng định rằng nền báo
chí Việt Nam đã hoàn toàn tự do cũng với thời điểm đất nước giành được độc
lập.
1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt

70
Năm 1946 nhà nước thành lập hội đồng kiểm duyệt báo chí, dể ngăn chặn
tin bài có hại cho đất nước, nhân dân.
SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 41 NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 1946
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu theo thể lệ báo chí hiện hành;
Chiểu theo lời đề nghị của Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp;
Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp;
RA SẮC LỆNH:
MỤC THỨ II - KIỂM DUYỆT
Điều thứ V: Các bài báo chí sẽ được ấn hành sau khi ty Kiểm duyệt cấp kỳ đã
duyệt.
Điều thứ VI: Nếu có bài báo bị kiểm duyệt và chủ nhiệm hoặc quản lý cho là
quá đáng thì chủ nhiệm hoặc quản lý có thể gửi đơn khiếu nại kèm cả bài báo
bị tự kiểm duyệt bỏ, lên Hội đồng kiểm duyệt.
Điều thứ VII: Hội đồng Kiểm duyệt đặt tại Bộ Nội vụ, gồm có năm hội viên,
do nghị định Bộ trưởng Bộ Nội vụ cử ra:
1 nhân viên Bộ Nội vụ
1 nhân viên do Bộ Ngoại giao đề cử
1 nhân viên do Bộ Quốc phòng đề cử
1 nhân viên do Quốc hội đề cử
1 đại biểu của Quốc hội đề cử
1 đại biểu của báo giới đề cử
Điều thứ VIII: Hội đồng Kiểm duyệt có nhiệm vụ:
a) Đề nghị lên Bộ trưởng Nội vụ những chỉ thị về việc kiểm duyệt để các ty
kiểm duyệt tuân hành;
b) Xét đơn khiếu nại của các nhà báo.

71
Những quyết nghị của Hội đồng trong việc xét khiếu nại sẽ thi hành nếu trong
hạn 48 giờ sau khi nhận được quyết nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ không trả lời.
Quyết nghị của Hội đồng kiểm duyệt chỉ có thể là cho hoặc không cho đăng
bài bị ty kiểm duyệt xoá bỏ.
Đến năm 1947
SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 12 NGÀY 3 THÁNG 2 NĂM 1947
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
Chiểu sắc lệnh số 1 ngày 20-12-1946 tổ chức các uỷ ban bảo vệ,
Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29-3-1946 ấn định chế độ báo chí,
Chiểu sắc lệnh số 159 ngày 20-8-1946 ấn định chế độ ấn loát phẩm,
Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp,
RA SẮC LỆNH:
Điều thứ 1
Các báo chí và sách chỉ được in và phát hành sau khi được Sở Kiểm duyệt Kỳ
cho phép.
Song đối với các báo chí Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ cử ở các tỉnh nơi phát hành,
nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt.
Điều thứ 2
Các ấn loát phẩm khác theo định nghĩa của sắc lệnh số 159 ngày 20 tháng 8
năm 1946 kể trên, sẽ do Uỷ ban kháng chiến khu kiểm duyệt.
Uỷ ban kháng chiến khu sẽ cử nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt ở các tỉnh
nơi phát hành.
Điều thứ 3
Những ấn loát phẩm đã được Uỷ ban kháng chiến khu cho phép in, có thể lưu
hành ở các khu khác.
Điều thứ 4
Nếu Uỷ ban kháng chiến khu không cho phép in, tác giả hoặc người in có thể

72
đệ đơn kháng cáo lên Sở Kiểm duyệt Kỳ. Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ quyết định
chung thẩm.
Điều thứ 5
Uỷ ban kháng chiến khu có quyền ra lệnh tịch thu các ấn loát phẩm phát hành
tuy không được phép.
Điều thứ 6
Các điều khoản trái với sắc lệnh này đều tạm hoãn thi hành.
Điều thứ 7
Bộ trưởng Bộ Nội vụ chiểu sắc lệnh thi hành.
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
(Đã ký)
Hồ Chí Minh

2. Sau năm 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do


Năm 1954, chính phủ tuyên bố bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí. Từ đó
đến nay, nước ta không còn chế độ kiểm duyệt nữa.
SẮC LỆNH
CHỦ TỊCH PHỦ SỐ 282/SL
HÀ NỘI, NGÀY 14 THÁNG 12 NĂM 1956
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29 tháng 3 năm 1946 quy định chế độ báo chí;
Theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp;
Theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực Quốc
hội thoả thuận,
RA SẮC LỆNH:
CHƯƠNG I
TÍNH CHẤT VÀ NGHĨA VỤ CỦA BÁO CHÍ
Điều 1

73
Sắc lệnh này nhằm đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí
và ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền ấy để làm phương hại đến công cuộc
đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà.
Điều 2
Báo chí dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái
chính trị, đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh
của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế
độ dân chủ nhân dân, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều 3
Báo chí dưới chế độ ta có nghĩa vụ:
a) Tuyên truyền giáo dục nhân dân, động viên tinh thần đoàn kết phấn đấu
thực hiện mọi đường lối chính sách của Chính phủ, đấu tranh bảo vệ những
thành quả của cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển tình
hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu chuộng
hoà bình thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
b) Đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động và luận điệu phá hoại công
cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất
Tổ quốc, phá hoại hoà bình.
CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN LỢI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ
MỤC I - QUYỀN LỢI CỦA BÁO CHÍ
Điều 4
Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được đảm bảo.
Tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải
kiểm duyệt trước khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt
kiểm duyệt, Hội đồng Chính phủ sẽ quyết định.
Điều 5

74
Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ
quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, góp ý kiến vào việc xây dựng và thực
hiện đường lối, chính sách của Chính phủ.
Điều 6
Quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do nghị định của
Thủ tướng Chính phủ quy định.
MỤC II- ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ.
Điều 7
Để có một cơ sở cần thiết đảm bảo làm tròn trách nhiệm của báo chí và
đảm bảo cho việc hoạt động nghiệp vụ, muốn xuất bản một tờ báo, cần phải
có những điều kiện sau đây:
a) Tờ báo phải có những người chịu trách nhiệm chính thức, chủ bút (hoặc
là tổng biên tập viên, hoặc là thư ký toà soạn), quản lý. Những người này phải
là những người có quyền công dân và không bị pháp luật đương truy tố.
b) Tôn chỉ, mục đích của tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và
nghĩa vụ đã quy định ở chương I.
c) Có trụ sở chính thức.
Điều 8
Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ
tục về khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp
giấy phép, tờ báo mới bắt đầu được hoạt động.
Báo chí nào đã được phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về
tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách
nhiệm chính thức của tờ báo, đều phải xin phép và khai báo lại.
Điều 9
Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn,
báo chí phải tuân theo những những điều sau đây:
a) Không được tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được
cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những

75
đường lối, chính sách của Nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống
lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân
và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc
những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội.
b) Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm
sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội.
c) Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các
nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước
bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được
tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh.
d) Không được tiết lộ bí mật quốc gia: Những bí mật quốc phòng, những
hội nghị cơ mật chưa được công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm,
những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho
phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài
chính mà Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa
công bố.
e) Không được tuyên truyền dâm ô, truỵ lạc, đồi bại.
Điều 10
Báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay
một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài
cải chính của đương sự; ngoài ra, đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử.
Điều 11
Trước khi phát hành, các báo chí phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu.
Điều 12
Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan chính quyền đã
có quyết định thu hồi.
CHƯƠNG III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

76
MỤC I- QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT.
Điều 13
Báo chí nào vi phạm điều 8, sẽ bị trừng phạt:
Tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và truy tố trước toà án, sẽ bị phạt tiền
từ mười vạn đồng (100.000 đồng) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đồng),
hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm, hoặc cả hai hình
phạt đó.
Báo chí nào vi phạm điều 9 hoặc điều 12 sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng
nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn,
hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ)
đến một triệu đồng (1.000.000đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ
một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào
những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu theo những luật ấy mà trừng phạt thêm.
Báo chí nào vi phạm điều 10, sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà
cảnh cáo, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ
năm vạn đồng (50.000đ) đến hai chục vạn đồng (200.000đ).
Báo chí nào vi phạm điều 11, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch thu ấn phẩm.
Điều 14
Trong mỗi trường hợp vi phạm, chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu trách
nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về
phần mình.
Nếu in những báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo chí chưa
có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
MỤC II- ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 15
Các điều khoản trong sắc lệnh này áp dụng cho tất cả các ấn phẩm có tính
chất báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt; hoặc bằng tiếng nước ngoài, kể cả
các hoạ báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ, trên lãnh thổ nước Việt nam
dân chủ cộng hoà, ra từng tờ hoặc đóng thành từng tập, từng quyển, in bằng

77
máy, bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân
dân hoặc trong từng ngành, từng tổ chức.
Điều 16
Tất cả các báo chí đã xuất bản trước ngày ban sắc lệnh này thì không phải
xin phép nữa. Những báo nào chưa làm đúng thủ tục khai báo thì nay phải
khai báo lại cho đúng.
Điều 17
Những luật lệ và báo chí đã ban hành từ trước đến nay trái với các điều
khoản ghi trong sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 18
Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những tiết thi hành sắc lệnh này.
Điều 19
Thủ tướng Chính phủ, các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ tư
pháp, Bộ CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
trưởng Bộ CHỦ TỊCH NƯỚC
Công an chịu (Đã ký)
trách nhiệm thi
Hồ Chí Minh
hành sắc lệnh
này.

3. Báo chí Việt Nam hiện nay


Và từ đó đến nay, báo chí Việt Nam luôn được tôn trọng quyền tự do.
Quyền đó được quy định trong điều 2, luật báo chí Việt Nam (được công bố

78
theo Lệnh số 05 L/CTN ngày 26/6/1999 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam) có quy định rõ:
“Điều 2. Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí:
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò
của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước
bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà
báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công
dân.
Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”.
Các nhà khoa học đã viết bài phê phán những quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch. Hội đồng Lý luận Trung ương đã tập hợp những bài viết đó
và phối hợp với Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách "Lẽ phải
của chúng ta". Báo Sài Gòn Giải Phóng trích đăng bài của Tiến sĩ Hồng Vinh.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt từ khi nước ta
tiến hành sự nghiệp đổi mới, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển nhanh
chóng về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nước ta đã có tất cả các loại hình
báo chí (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử). Cả nước hiện có hơn 550 cơ
quan báo chí, với 713 ấn phẩm báo chí, bình quân 7,5 bản báo đầu người/năm.
Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 hệ chương trình, 452 chương trình, thời
lượng phát sóng 172 giờ trong ngày. Sóng phát thanh không chỉ đã phủ trong
toàn quốc, mà còn tỏa khắp năm châu, đáp ứng nhu cầu tinh thần của hàng
triệu đồng bào sống ở nước ngoài và bầu bạn thế giới. Cùng với 11 trạm phát
sóng và phát qua vệ tinh của Đài Tiếng nói Việt Nam, còn có 64 đài tỉnh,
thành phố, 606 đài phát thanh truyền hình cấp huyện, trong đó có 288 đài phát
sóng FM.

79
Đài Truyền hình Việt Nam có 5 kênh, phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt
Nam, có 4 đài khu vực và 61 đài phát thanh, truyền hình tỉnh và thành phố.
Trong những năm gần đây, đài đã có chương trình VTV4 phủ sóng đến nhiều
vùng trên thế giới, được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bầu bạn
năm châu đón nhận và hoan nghênh.
Mặc dù mới được phát triển trong mấy năm gần đây, báo điện tử đã có
bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng 32,5%/năm. Hiện nay ở nước ta
đã có hơn 70 tờ báo điện tử và hàng ngàn trang thông tin điện tử; 6 nhà cung
cấp dịch vụ và kết nối Internet; 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet và hơn 50
nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên Internet… Báo chí nước ta đã là
món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến
với nhiều đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì
báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội,
nghề nghiệp, tiếng nói của nhân dân,…; đồng thời là bầu bạn tin cậy của các
tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của
đông đảo cán bộ, nhân dân. Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn
đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động
bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây
dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc của nhân dân.
Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng,
quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của
nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ
tục, những tệ nạn xã hội. Báo chí ngày càng tham gia rộng rãi vào việc xây
dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tại Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã coi báo chí là công cụ giám
sát các hoạt động của tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, phát hiện và phê
phán cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,
quan liêu… Có thể đi đến kết luận là, báo chí và hoạt động báo chí ở Việt

80
Nam, ngay từ khi mới ra đời, đã hoạt động vì mục tiêu độc lập dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nội dung cốt lõi của tự do báo chí ở
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng,
Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn là diễn
đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình qua các
phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo về nhiều chủ đề liên
quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân; thông qua chuyên mục “Ý
kiến bạn đọc”, nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân được
phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngôn luận
của mỗi người dân.
Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng:
Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công
dân. Công dân có quyền:
1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế
giới;
2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ
chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các
tổ chức đó.
Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân.
Cơ quan báo chí có trách nhiệm:

81
l) Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không
đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;
2) Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc
trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.
Như vậy, dù với động cơ nào, người ta không thể bưng tai, nhắm mắt phủ
nhận pháp luật Việt Nam về tự do hoạt động báo chí; phủ nhận tính dân chủ,
văn minh của báo chí Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể hiện
tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người này
không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với nhau
để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù
người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những
tờ báo hoạt động xâm hại tôn chỉ, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội
đều bị xử phạt theo các quy định của pháp luật.
Để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí của các nhà báo, Nhà nước Việt
Nam đã lập ra các trường đại học báo chí, đào tạo nhà báo với trình độ đại học
và cao học. Hàng năm có hàng trăm nhà báo ra trường, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cao, có năng lực và ý thức trách nhiệm xã hội. Các trường đào
tạo nhà báo ở Việt Nam đã có sự hợp tác, liên kết với các trường đại học báo
chí của Pháp và một số nước phương Tây để bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm
làm báo. Việt Nam đã cử hàng trăm nhà báo đi bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí
tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Nga,... Báo chí Việt Nam
không đóng cửa, biệt lập với thế giới, mà luôn luôn mở rộng quan hệ với các
đồng nghiệp ở nhiều nước. Để bảo vệ quyền lợi của các nhà báo, giúp nhau
bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Việt Nam đã có Hội Nhà báo toàn quốc và các
hội địa phương, thu hút hơn 12.000 nhà báo là hội viên. Hội Nhà báo Việt
Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí
ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng góp xứng
đáng vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế giới, vì mục tiêu hòa bình,

82
ổn định, tiến bộ và thịnh vượng. Vậy là, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở
Việt Nam không phải là sự cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng
như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Việt Nam đã mở cửa trong
hoạt động báo chí với bên ngoài để góp phần nâng cao trình độ báo chí của
mình, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
mở cửa, hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa với bầu bạn bốn phương.
Có ý kiến cho rằng, có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do báo
chí. Phải khẳng định rằng không có báo chí tư nhân thì không thể quy chụp là
không có “tự do báo chí”. Những người làm báo Việt Nam đã và đang phấn
đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Những tờ
báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, tổ
chức nghề nghiệp đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng
của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề ra báo tư nhân hiện nay là không
cần thiết. Những kiến nghị của họ đã được công luận phản ánh đầy đủ và được
Đảng, Nhà nước tiếp thu, trả lời qua báo, đài. Đó là sự thể hiện quyền được
thông tin cũng như quyền ngôn luận của nhân dân. Mặt khác, thực tiễn việc ra
đời báo tư nhân ở nhiều nước gây nhiễu thông tin, thậm chí làm vô hiệu hóa
sự lãnh đạo của chính quyền, dẫn đến sự rối loạn chính trị-xã hội ở nhiều nước
vốn quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “tự do báo chí” đã là bài học thấm thía
cho nhân dân ta. Có lẽ nào, chúng ta lại trượt theo vết xe đổ ấy.
Sở dĩ có đòi hỏi vô lý trên, có nguyên nhân từ nhận thức mơ hồ về quyền
tự do báo chí và nhiệm vụ của báo chí Việt Nam. Do hiểu phiến diện hoặc cố
tình hiểu sai về tự do báo chí, họ đã ra công cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo
chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của "tinh thần dân chủ”, tự
phong cho mình là “người hăng hái đấu tranh cho dân chủ”. Song, họ không
hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong đó quyền tự do báo chí của người này
không được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của toàn
dân tộc. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu
có sự góp phần của những tờ báo theo khuynh hướng "tự do báo chí” kiểu

83
phương Tây đó. Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát
từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân; từ sự bất
mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên
lợi ích của đất nước; chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng, cực đoan, phản
lại quyền lợi của dân tộc.
Trong số những người cơ hội chính trị, có người đã thực sự đối lập với lợi
ích Tổ quốc, liên kết những phần tử bất mãn ở bên trong cùng với thế lực xấu
ở bên ngoài để dùng báo chí chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta. Họ quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, hào hùng của toàn dân
tộc, trong đó có sự đóng góp nào đó của gia đình và bản thân họ.
Những bài báo, những hồi ký của họ đầy rẫy sự xuyên tạc, vu cáo hèn hạ,
bêu riếu những người dân nước Việt đang ngày đêm cần cù lao động sáng tạo,
chắt chiu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thật trớ trêu khi họ cho rằng,
nếu chúng ta không có tự do báo chí như họ mong muốn, thì "đất nước này
vẫn không thể cất đầu lên được", vẫn "sống trong vòng lạc hậu tối tăm" (!).
Những người nuôi dã tâm xấu xa đó không có quyền nói đến “tự do báo chí”,
theo nghĩa chân chính nhất của từ này.
Tự do báo chí cho ai, vì ai? Câu hỏi lớn đó đã được thực tiễn đổi mới đất
nước nói chung và thực tiễn đổi mới báo chí nói riêng trong gần 20 năm qua
cùng thực tiễn trên thế giới ngày nay cho ta câu trả lời rành rọt. Thực tiễn luôn
luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đúng xu thế tiến lên của dân tộc,
trong đó có hoạt động rất sôi động và hiệu quả của báo chí cách mạng Việt
Nam, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về Việt Nam trong tiến trình đổi mới.
4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm đại diện)
Bàn về vấn đề tự do báo chí trong khi bom đạn đang giết chết nhiều người
dân vô tội ở Iraq, ông Đỗ Phượng - nguyên Uỷ viên Trung ương đảng, nguyên
Tổng giám đốc TTXVN cho rằng, khái niệm tự do kiểu phương Tây mới chỉ
được cắt nghĩa ở cái ngọn, mà không giải thích được quyền tự do lớn nhất của

84
một quốc gia, dân tộc là quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự
hủy diệt của bom đạn cường quyền.
Có tới hai nghìn nhà báo được Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ cấp thẻ phóng viên
chiến trường. 500 người được "tập huấn" như những chiến binh thực thụ. Họ
được tập trung tại căn cứ tiền phương ở Kuwait và Qatar. Giới báo chí được
chuẩn bị dài ngày như một cuộc biểu dương lực lượng cho "tự do thông tin- tự
do báo chí" trong chiến tranh tổng lực của đội quân viễn chinh có sức tiến
công và kỹ thuật cao ở đầu thế kỷ 21. Cùng với văn phòng báo chí tại Qatar,
một trung tâm báo chí tạm thời thành lập ở Kuwait có nhiều sĩ quan cấp tá
thường xuyên liên hệ và tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động. Mọi sự
chuẩn bị làm cho dư luận hiểu rằng: Sẽ không có độc quyền và bưng bít thông
tin như chiến tranh vùng Vịnh hơn 10 năm trước!
Người ta chờ đợi sự bùng nổ tự do thông tin ngay khi cuộc chiến tranh
chống nhân dân Iraq bắt đầu.
Sáng 20-3, nhận hai thông tin chính thức: chiến tranh đã bắt đầu bằng cuộc
tiến công trúng mục tiêu của máy bay và tên lửa xuống Baghdad. Nhiều nhà
lãnh đạo Iraq đã bị tử thương, S.Hussein cũng nằm trong số đó. Tổng thống
Iraq đã không chạy thoát những trái bom và cả tên lửa "siêu thông minh"
trúng nơi ông đang ngủ. Các nhà báo có mặt ở Bagdad và đài truyền hình Iraq
đã phát đi những thông tin ngược lại.
Vài ngày liền, thông tin chính thức được phát đi theo đúng kịch bản "cuộc
chiến tranh 72 giờ". Cùng với những "cú sốc kinh hoàng" và chiến dịch "Iraq
tự do", dường như các thành phố, cảng biển, căn cứ chỉ huy và các đơn vị
mạnh của lực lượng Vệ binh cộng hòa của Iraq đã bị chiếm đóng và tiêu diệt
đúng theo bản đồ quân sự đã được ghi chú sẵn theo kế hoạch (!)
Chưa tới 72 giờ, chỉ sang ngày thứ ba của cuộc chiến, các tư lệnh chiến
trường, kể cả Tổng chỉ huy quân Mỹ, ngay tại trung tâm báo chí ở Qatar và
Kuwait đã không ít lần phải bổ sung thông tin, thông tin lại và nói với các nhà
báo: "Xin hãy chờ xem". Có nhà báo bị mắc kẹt tại chiến tuyến, liên hệ với

85
các sĩ quan liên lạc của trung tâm báo chí mong được giúp đỡ nhưng chỉ nhận
được những hứa hẹn mơ hồ: "Xin chờ đợi, tình hình sẽ sớm sáng sủa". Một
màn kịch vụng về của chiến tranh thông tin là hình ảnh hàng đoàn binh lính
Iraq đầu hàng được chiếu trên màn ảnh máy thu hình. Một cựu binh Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam vừa xem đã nói ngay: Ðúng là một vở diễn, không có
bối cảnh chiến tranh, mọi thứ như sắp đặt sẵn! Một nhân vật gần gũi với sở
chỉ huy Mỹ ở Qatar tiết lộ: Băng hình đã có sẵn từ trước khi phát lệnh nổ
súng.
Ấy vậy mà khi đài truyền hình Iraq và một số đài nước ngoài truyền đi
hình ảnh những tù binh Mỹ đang trả lời phỏng vấn và các phi công Mỹ bị dân
quân Iraq bắt, thì ngay lập tức người Iraq bị kết tội "vi phạm Công ước quốc
tế đối với tù binh". Và, có lẽ "vận dụng" Công ước quốc tế không mấy hiệu
quả, cho nên ngày 25-3, đài truyền hình Iraq đã bị dội bom không dưới ba lần!
Thực tế của cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Mỹ, Anh phát động đã bị
sự phê phán mạnh mẽ của cả thế giới. Phân nửa số người Mỹ không tán thành
chiến tranh, tới 70% người dân Anh cũng không ủng hộ chính sách tham
chiến của chính phủ nước họ. Ðiều rõ ràng là hãng CNN, đài tiếng nói Hoa Kỳ
và đài BBC đã theo sát các nguồn tin của cơ quan chỉ huy liên quân Anh-Mỹ.
Vậy mà, người ta đã không tiếc lời thuyết minh về tự do báo chí, tự do
ngôn luận như biểu tượng văn hóa Mỹ!
Ở nước tự cho mình cái quyền hướng dẫn các quốc gia, dân tộc về quyền
con người, về tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, lại cho mình
quyền tự ý kết tội, trừng phạt các quốc gia, dân tộc theo chuẩn mực của riêng
họ. Các ông Hans Blix và Baradei với một đội ngũ chuyên gia quốc tế thanh
sát Iraq một thời gian dài chỉ có thể kết luận: Iraq hợp tác chặt chẽ, chưa có
điều gì chứng minh họ đang sản xuất, nhập khẩu và tàng trữ vũ khí giết người
hàng loạt, cần có thêm thời gian cho công việc thanh sát. Ðại đa số thành viên
Hội đồng Bảo an LHQ tán thành đề nghị của hai ông. Nhưng nhà cầm quyền
Mỹ, Anh đã bất chấp tất cả, đơn phương quyết định dùng vũ lực tiến công

86
Iraq. Phải chăng họ đang nhân danh những giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu
Mỹ, đem các loại vũ khí siêu hiện đại, có sức tàn phá, khả năng hủy diệt rất
lớn để gây tang tóc đến cho nhân dân của một đất nước chịu đựng 12 năm cấm
vận, với một đội quân mà tổng hỏa lực, trang bị thua xa dù chỉ so với một
hàng không mẫu hạm của Mỹ. Những kế hoạch "cú sốc khủng khiếp" đến
"diệt gọn mọi ổ đề kháng cuối cùng", "chính phủ không có Saddam được quân
đội quốc tế (Mỹ, Anh) làm chỗ dựa", "dự án 5 năm khôi phục và xây dựng lại
Iraq tự do bởi chính hơn 10 tập đoàn, công ty Mỹ đã bỏ thầu", "số tiền cứu hộ
nhân đạo đầu tiên sẽ là mấy tỷ USD của Iraq đang giữ ở các ngân hàng nước
ngoài", v.v. Quả thật, khó ai có thể nghĩ ra nổi những bước đi được tính tới
từng chi tiết đến như vậy.
Từ những gì đang diễn ra ở Iraq, người ta càng nhận rõ tính chất phi lý của
những cái gọi là bản tổng kết, bản báo cáo, đôi khi cả nghị quyết hằng năm
được phát đi từ Washington bình phẩm, lên án, tính điểm việc này, việc nọ ở
các quốc gia trên khắp các lục địa, trong đó có Việt Nam, khi thì về "nhân
quyền", khi thì về "tự do tôn giáo", "tự do báo chí", "tự do ngôn luận"... Mấy
năm gần đây, lời lẽ của họ cũng có cung bậc cao thấp khác nhau, bởi vì họ
không thể phủ nhận được thực tế ở Việt Nam quyền con người chẳng những
được Hiến pháp, pháp luật khẳng định, bảo vệ mà còn được thực thi ngày
càng tốt hơn trên thực tế. Tuy nhiên, những kẻ ăn theo, bảo hoàng hơn chủ,
tiếp tục la lối về cái gọi là tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi hỏi chỉ có tư
nhân hóa báo chí mới có báo chí tự do.
Thật ra, đó là những người cố tình không hiểu gì về những phát triển vượt
bậc của báo chí Việt Nam mà bất cứ ai quan tâm hoặc đã đến Việt Nam đều
thừa nhận. Không chỉ là sự phát triển về số lượng, về kỹ thuật mà quan trọng
hơn là những tiến bộ không ngừng về nội dung, chất lượng, về đội ngũ những
người làm báo, về sự đóng góp to lớn của họ trong tổng hợp tiếng nói từ thực
tiễn, của mọi tầng lớp nhân dân đề xuất và hoàn thiện chính sách, pháp luật,
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phục vụ

87
chính sách đối ngoại và gần nhất chính là đường lối phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo... Ai
mà chẳng biết rằng, ở Việt Nam, hàng chục hiệp hội có báo, tạp chí, tập san
hoặc bản tin định kỳ của mình. Ðường dây nóng trực tiếp ghi nhận các ý kiến
của người dân được công khai ghi trên trang nhất của hàng chục tờ báo. Loại
hình báo chí, chủ đề trên báo ngày càng rộng mở vì sự nghiệp đổi mới, vì xóa
đói, giảm nghèo, vì làm giàu cho mỗi người và đất nước, vì sự công bằng và
dân chủ.
Hơn 90% báo chí Việt Nam không nhận trợ cấp của Nhà nước. Ðoàn thể,
hiệp hội cử ra tổng biên tập và tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật
và trước những người bổ nhiệm họ về hoạt động của mình. Không ai can thiệp
và có quyền duyệt nội dung bài viết và hình ảnh báo chí sử dụng. Ðương
nhiên, mỗi tờ báo đều thể hiện tôn chỉ, điều lệ và quyền lợi của tổ chức của
họ.
Cũng khó mà so sánh với bất cứ ai. Mỗi đất nước đều có pháp luật riêng,
mỗi cơ quan báo chí đều có truyền thống, văn hóa, quy chế của riêng mình. Ta
có nhiều dịp tiếp xúc, tìm hiểu và học tập được nhiều điều hay của các loại
hình báo chí thế giới. Ta từng biết một cơ quan báo chí tư nhân có thâm niên
hàng đầu thế giới, có khối lượng thông tin đồ sộ và sinh ra ở một đất nước
khai sinh ra nền dân chủ tư sản. Vậy mà cơ quan báo chí đó đã trải qua những
tháng ngày không có chủ tịch, tổng giám đốc. Một hãng báo chí tư nhân ở một
nước lớn mà khi Tổng thống và Thủ tướng nước đó có đường lối chính trị trái
ngược nhau, người ta không thể cử được người đứng đầu của hãng. Thì ra,
ngân sách "mua tin" từ Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng ngang nhau. Và
cộng cả hai lại lớn hơn các nguồn thu khác. Thế là đã rõ.
Lại nhớ trong những năm chiến tranh cứu nước ác liệt, ta đối chiếu từng
bài viết của các tờ báo Mỹ, nhất là giữa hai tờ Newsweek và Time để so sánh
những cái đồng nhất và không đồng nhất giữa hai thế lực dân chủ và cộng hòa
trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ðương nhiên, ta trân trọng thái độ khách

88
quan trung thực và sự khôn ngoan trong bút pháp của không ít nhà báo Mỹ,
song ta rất hiểu thế lực chính trị, tài chính nào đang chi phối từng tờ báo.
Vả lại, tại sao khái niệm tự do lại chỉ được cắt nghĩa ở cái ngọn không
nhằm nhò gì so với việc quyền tự do lớn nhất của một quốc gia, dân tộc là
quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự hủy diệt của bom đạn
cường quyền?

89
KẾT LUẬN
Như vậy, những dẫn chứng về sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với
báo chí khá phong phú. Vẫn còn tồn tại sự can thiệp có nghĩa là sự tự do báo
chí ở các nước TBCN vẫn chưa hoàn toàn.
Khi đúc kết báo chí xã hội TBCN, Lê Nin đã nói rằng: “ Tự do báo chí
trong xã hội TBCN là tự do mua bán, trao đổi, chế biến thông tin phục vụ cho
lợi ích của nhà cầm quyền”. Tự do báo chí trong xã hội TBCN chỉ là “ huyền
thoại” mà thôi.
Tóm lại, chúng ta cần hiểu thật rõ rằng truyền thông có thể là công cụ để
bảo vệ chế độ (độc tài lẫn dân chủ), và ngược lại, nó cũng là phương tiện để
thay đổi chế độ đó.
Hầu hết chúng ta, không loại trừ ai, đều ít hay nhiều chịu ảnh hưởng của
truyền thông. Đối với mỗi một cá nhân, chọn một hay nhiều phương tiện
truyền thông “thích hợp” với mình để theo dõi, thu nhận thông tin và từ đó
nghe theo hay tự đi đến kết luận cho chính mình về các vấn đề khác nhau. Khi
có những thông tin sai lệch, hay vì thiếu dữ kiện, hay vì có thói quen dựa vào
quan điểm của người khác thì cái nhìn của ta về các vấn đề đó cũng sẽ bị thiên
lệch, sai sót. Ngoài ra, một khi truyền thông, hay nói đúng hơn, một khi các
chủ nhân sở hữu các phương tiện truyền thông, đồng loã với chính quyền hay
một số thành phần chính trị nào đó, vì quyền lợi hay vì ý thức hệ, thì sự thông
tin sai lệch từ các cơ quan truyền thông này cũng sẽ dẫn chúng ta đi lầm
đường lạc lối.
Truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong việc rút
ngắn thời gian cần thiết để giáo dục đại chúng một cách nhanh chóng, thay đổi
nhận thức và ý thức mới. Trong khi đó giáo dục phải cần một hay nhiều thế hệ
mới đào tạo được những con người mới.
Trong truyền thông, tiêu chuẩn tối ưu là chính xác, trung thực, khách quan
và nhanh chóng, và để làm được việc đó thì chúng ta cần những người có tài
lẫn tâm (lương thiện trong nghiệp vụ). Nói tóm lại, không thể có một nền

90
chính trị dân chủ đích thực nếu không có một nền truyền thông tự do và giá trị
đích thực.

91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blumler, Jay G., and Kavanagh, Dennis, The Third Age of Political
communication: Influences and Features, Political Communication, Vol. 16,
1999. Trang 209-230.
2. Schultz, Julianne, Reviving the Fourth Estate. Democracy, Accountability
and them media, Cambridge University Press, Cambridge, 1998. Trang 81.
3. Karol Jakubowicz, From party propaganda to corporate speech? Polish
journalism in search of a new identity. Journal of Communication, Vol. 42,
N3 (Summer 1992). Trang 64-73.
4. Street, John, Mass Media, Politics and Democracy, Palgrave, 2001. Trang
236.
5. Ward, Ian, Politics of the Media, Macmillan, South Yarra, 1995. Trang 82
6. John Steven, "Tự do ngôn luận: thước đo mới" phương tiện thông tin đại
chúng và kinh nghiệm quốc gia, NewYork, 1971. Trang 14-37 (tự dịch)
7. Noam Chomsky, Media control - The spectacular achievements of
propaganda, Pennsylvania, 1957 (tự dịch)
8. Fredrick Seaton Siebert, Freedom of the Press in England, 1476-1776: The
Rise and Decline of Government Control.
9. E. Malcolm Hause, The Western Political Quarterly, Vol. 19, No. 1 (Mar.,
1966), Trang 201-202.
10. Zhanna Seitzhanov, TYPOLOGY OF MODERN PRESS, bài giảng của
Hội đồng truyền thông của Kazakhstan.
11. Pierre Albert, Lịch sử báo chí, NXB Thế giới, 2003, Hà Nội
12. Bogdanov N. G., Viazemskii B. А. Leninizdat, Directory of the journalist,
1971.
13. Sibert F., Shram U., Piterson Т. М, Four theories of press, 1998.
14. Theory and practice of the Soviet periodic press, Pelta V. D. М, 1980.
15. Shkondin М. V, Press: bases of organisation and management, 1982

92
16. X.A.Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý,
NXB Thông tấn, 2004, Hà Nội.
17. Website: vietmedia.com
18. Website: Tuanvietnam.net
19. Website: BBC.co.uk
20. Website: nghebao.com
21. Các văn bản luật báo chí, đạo đức báo chí.

93

You might also like