You are on page 1of 26

Phan Huy Ích và bang giao Thanh- Việt

Nguyễn Duy Chính

Lịch sử nước ta có những thời kỳ bị coi như “khuyết sử”. Sở dĩ gọi là khuyết sử vì sử sách không
tường thuật lại những gì đã xảy ra mà nhiều chi tiết bị che dấu có chủ đích. Che khuất đã đành, lại có
những chi tiết không phải là “tín sử” được phổ biến với ác ý. Khi một triều đại khác lên ngôi, tất cả
những công trình của người đi trước đều bị huỷ hoại hay không đề cập đến tưởng như thời kỳ đó
không hề hiện diện. Đến khi không thể bỏ trống được, quá khứ nay trở thành một bản tường thuật
chiến tranh nhằm đề cao việc tranh giành chính quyền.

Triều đại Tây Sơn là một trong những trường hợp đó. Những gì xảy ra tại miền Bắc trong 14 năm
(1788-1802) bị bỏ quên khá lâu và phải vài mươi năm sau mới được chép trong một bộ phận ít
được quan tâm nhất. Đó là quyển XXX về nghịch thần, tiếm thiết dưới nhan đề “Nguỵ Tây” trong Đại
Nam Chính Biên Liệt Truyện, gồm tiểu sử của ba ông vua Nguyễn Văn Nhạc (niên hiệu Thái Đức),
Nguyễn Văn Huệ (niên hiệu Quang Trung), Nguyễn Quang Toản (niên hiệu Cảnh Thịnh). Tất cả chỉ
vỏn vẹn có 56 trang, thật không đáng vào đâu cho cả ba vị hoàng đế mà công nghiệp của riêng một
vua Quang Trung đã phải nói là lừng lẫy.

Mãi đến đầu thế kỷ XX – hơn 100 năm sau khi nhà Tây Sơn đã bị diệt – tình hình chính trị nước ta có
những biến chuyển mới, một số sĩ phu mới can đảm khôi phục lại khoảng sử bị bôi đen để đặt trở lại
thành một triều đại chính thống.

Thiện Ðình Ðặng Xuân Bảng, khi biên soạn bộ Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu đã viết trong bài tựa:

Ðến như sự tích thời Tây Sơn, thì hồi đầu Gia Long đã có chiếu tiêu huỷ hết. Vào năm Tự Ðức, quan
ngự sử Bùi Ðình Trí (người An Lý, Hải Dương) dâng sớ xin sai quan biên soạn, sau vì có việc lại thôi.
Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, họ Mạc cướp ngôi nhà Lê. Khi nhà Hán, nhà Lê trung hưng thì sự
tích của Vương Mãng và họ Mạc cũng không vứt bỏ, vì sử là để khuyến khích và răn đe. Sao lại có
chuyện sự tích 15 năm để cho mai một trong một lúc, không ai biết nữa? (Hai chúa Tây Sơn gồm
Quang Trung 5 năm, Cảnh Thịnh 8 năm, Bảo Hưng 2 năm, gồm 15 năm). Thế thì lẽ khuyến khích và
răn đe ở đâu? Hơn nữa, khi ấy nhà Lê đã mất, triều ta chưa lên, sự kế nối các triều Ðinh, Lý, Trần, Lê
trong 15 năm ấy, không thuộc Tây Sơn thì còn ai nữa?[2]
Lệ Thần Trần Trọng Kim khi soạn Việt Nam Sử Lược cũng nêu lên một quan điểm tương đối minh
bạch:

Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và
nguỵ triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân
minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính
thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng
vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm
vua, thì cho là nguỵ triều.

Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây sơn làm chính thống hay là nguỵ triều,
để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng đã qua.

Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thếmà từ khi nhà Lê trung
hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy còn
tôn vua, nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua
không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Ðến sau ở trong Nam thì có Trương
Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua
chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy là một lúc đại loạn
vậy.

Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây sơn, chống nhau với chúa
Nguyễn để lập nghiệp ở đất Qui nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với
nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi.

Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái tổ nhà Nguyễn Tây sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào đánh đất
Gia định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm la, chỉ còn được mấy trăm người
lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc hà, dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ
ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.

Nhưng vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh
Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng,
khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám quốc để giữ tông miếu tiền
triều, như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.
Sau vua Chiêu thống và bà Hoàng thái hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy
mượn tiếng cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ
cứ theo tờ mật dụ của vua nhà Thanh, thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã
vào tay người Tàu rồi.

Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi hoàng đế, truyền hịch đi các
nơi, đường đường, chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh
là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh
thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.

Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà
Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là
nguỵ? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại
sai sứ sang phong cho ông làm An nam quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì nhà
Nguyễn Tây sơn mở nước có khác gì nhà Ðinh và nhà Lê không?

Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây sơn sinh ra nội loạn, vua Thếtổ Cao hoàng nhà
Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại
hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người
kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây sơn là nguỵ, mà lấy công lý mà
suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Ðinh Tiên hoàng,
vua Lê Thái tổ, mà nhà Nguyễn Tây sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Ðinh và nhà Lê vậy.[3]

Thế nhưng khi việc đề cao thời kỳ Tây Sơn trở thành một phong trào thì nhiều nhân vật trước đây
vốn không nổi bật lắm nay nhờ cơ duyên mới đã trở thành bất tử. Ngược lại, Dụ Am tiên sinh Phan
Huy Ích, một nhân vật đúng ra phải được kể vào đệ nhất công thần, lấy ngọc lụa thay gươm giáo,
không những chủ chốt đưa ra chính sách tái lập bang giao với Trung Hoa mà còn làm cho quốc thể
lên cao đến mức chưa từng có trong lịch sử thì lại chỉ được biết như một nhà nho hay sứ thần lẩn
khuất trong hàng chục kẻ sĩ Bắc Hà được vua Quang Trung vời ra làm việc. Thậm chí có những tài
liệu khá chắc chắn xác định ông đã diễn nôm Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn nhưng nhiều
người vẫn không thừa nhận mà cho rằng đó là tác phẩm của Đoàn Thị Điểm.[4]

Tuy để lại khá nhiều văn thơ nhưng người ta biết đến ông vẫn thu hẹp trong vai trò quan lại, hay
hơn một chút, một người viết thay (ghost writer) các biểu mừng, văn tếcho ông hoàng bà chúa trong
vị trí mặt sau của một chiếc mề đay. Với những tài liệu từ Trung Hoa, Triều Tiên và nhiều nguồn bên
ngoài nhất là xem lại di cảo, chúng ta có thể đánh giá lại công lao ông trên một qui mô mới.

A . THÂN THẾ

Tiên sinh họ Phan, tên huý là Huy Ích [輝益], hiệu Dụ Am [裕庵], tự Khiêm Thụ [謙受], biệt hiệu Bảo
Chân đạo nhân [保眞道人], khi chết có tên thuỵ là Văn Hiến Phủ Quân [文憲府君].

Theo Phan Gia Công Phả[5] trang 30b, thoạt đầu ông có tên là Duệ [睿], sau đổi thành Huệ [惠], đến
khi đỗ giải nguyên thì tránh tên huý trong cung đồng âm nên đổi thành Huy Ích.[6]

Ông sinh vào giờ Thìn (khoảng từ 7-9 giờ sáng) ngày 12 tháng Chạp năm Canh Ngọ, Cảnh Hưng thứ
11 [tức ngày 09-01-1751], là con trưởng của bình chương Khuê Phong Hầu Phan Huy Cận (1722-
1789), lúc còn nhỏ thông minh khác thường, sách đọc qua một lần là thuộc.[7]

Theo gia phả, họ Phan gốc người làng Thu Hoạch, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh nhưng khi cụ Phan
Huy Cận làm quan ở Thăng Long thì định cư ở làng Thuỵ Khuê, huyện An Sơn (Sơn Tây) nên nhập
tịch làng này.[8]

Năm Tân Mão [1771] khi mới 22 tuổi (tính theo lối tuổi ta ngày xưa) ông qua được kỳ thi hạch hàng
huyện và tỉnh, lại đỗ luôn giải nguyên (đứng đầu kỳ thi Hương) ở đạo Nghệ An.

Năm Nhâm Thìn [1772], ông thi khảo khoá, bốn kỳ đều được chấm ưu[9], đứng đầu tất cả. Mùa đông
năm đó, ông thi Hội, bốn kỳ đều có phân số.[10]

Năm Quí Tị [1773], ông được triều đình xét thưởng cho làm thừa ty Sơn Nam nhưng chẳng bao lâu
lại xin về.

Năm Giáp Ngọ [1774] ông được lệnh đi sát hạch để tuyển thí sinh ở huyện Đông Quan[11] [東關],
tức một dạng giám khảo một kỳ thi tại địa phương.
Năm Ất Mùi [1775] ông lại đi thi Hội, đỗ đầu, đến khi vào thi đình được trúng cách tiến sĩ hạng thứ
bảy. Tháng Hai năm sau[12] [trọng xuân], ông lại vào thi đặc khoa (gọi là chế khoa), kỳ này đỗ đầu,
được triều đình thưởng cho 10 quan tiền và bổ làm hàn lâm hiệu thảo,[13] giữ tạm quyền [thự][14]
giám sát ngự sử Thanh Hoá,[15] sau đó được lệnh về cung làm kinh diên đối giảng[16], rất được
khen ngợi.[17] Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tuỳ Bút giải thích tường tận về chế khoa như sau:

…Từ đời Lê trung hưng trở về sau, đình thí thì thi bài chế sách, hội thí hương thí cũng toàn thi lấy
văn chương cả, những kẻ vu nho khúc sĩ chỉ biện nạn lém lỉnh mấy câu khẩu đầu, cách thi cử như
thế thì sai mất cả cái sơ ý đời xưa lâm hiên sách sĩ. Còn như bài phán văn là một lối văn phán đoán lý
sự, ta thường thấy thì khoa Đông-các có ra một bài phán về việc “dụ đức giáo cử di sĩ”, ông thám hoa
là Phạm Khiêm-ích có làm bài phán ấy mà thể văn không hợp cách thức, thực là buồn cười. Ôi! Cái
việc tuyên dụ đức giáo, cử lấy kẻ di sĩ thì có phải trái khúc trực gì mà phải phán đoán, ra đầu bài như
thế thì dẫu bậc Hàn, Liễu, Âu, Tô, cũng không thể lý hội ra thế nào mà làm được, không những là
Kim-sơn Phạm-công mà thôi.

Đời nhà Hán có đặt ra khoa hiền lương phương chính, thực là một thịnh điển để đãi kẻ phi thường
mà cầu lấy người tài. Đời Đường, đời Tống có đặt ra chế khoa, chia ra có năm bậc, ân điển trọng gấp
hai khoa tiến sĩ. Ông Bạch Cư Dị đời Đường, ông Tô Thức đời Tống, lấy là bậc cao tài thạc học mà chỉ
đỗ đến bậc thứ hai. Từ năm Gia-hựu trở về sau, chế-khoa đệ-nhất-danh vẫn để không, không lấy ai
đến bậc ấy, là để cho trọng vọng. Nước ta từ đời Lê trung-hưng mới mở ra thi Chế-khoa, ông Nguyễn
Văn-Giai đỗ nhị giáp đứng đầu khoa thi ấy, sau làm bậc danh tướng đời trung hưng. Đầu năm Chiêu-
thống lại mở ra thi Chế-khoa, toà Bình-chương các quan hội lại ra đầu bài văn sách, khi bấy giờ Bằng
quận công là Nguyễn Hữu Chỉnh làm quan Đại-tư-mã, các quan văn hội ra đầu bài, soạn xong rồi
đem trình Nguyễn Hữu Chỉnh, Chỉnh xem rồi cười mà rằng: “Tôi là võ thần đâu dám vọng nghị,
nhưng Chế-khoa là cốt tuyển cử lấy bậc hiền lương phương chính, mà bài chế-sách lại ra như thế ư?”
Các quan nín lặng không trả lời. Sau đem đầu bài ấy tiến lên ngự lãm, rồi cho học trò thi, thì khoa ấy
lấy đỗ được hai ông là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát.[18]

Tổng kết lại ông thi ba lần, lần đầu năm Nhâm Thìn (1772) có phân số nhưng không đậu tiến sĩ, lần
2 năm Ất Mùi (1775) đỗ đầu thi Hội, rồi thi Đình trúng cách tiến sĩ hạng 7. Năm sau Bính Thân
(1776), ông đỗ hạng đầu chế khoa là khoa thi đặc biệt, có thể coi như hậu-tiến-sĩ. Theo tinh thần của
chế khoa “để đãi kẻ phi thường mà cầu lấy người tài” và “ân điển trọng gấp hai khoa tiến sĩ” thì ta
biết chế khoa không những có tài mà còn phải có đức mới qua được.

B . XUẤT CHÍNH
TRIỀU LÊ

Tháng Tám năm Bính Thân [1776], ông kiêm thêm chức sai tri ở phiên Hình. Tháng Chín, ông được
lệnh vào Phú Xuân để đôn đốc quân vụ đến tháng Chạp mới về triều để nhận chức trưng phủ Tiên
Hưng. Tuy trong gia phả chép đơn giản như thế nhưng thực ra Phan Huy Ích được sai vào Phú Xuân
có một nhiệm vụ khác.

Nguyên từ năm Ất Dậu [1765], sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát tạ thế, quốc phó Trương Phúc Loan
giả di chúc lập con út chúa là Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ tuổi cho dễ bề thao túng. Tình hình trong
nước rối loạn nên thổ hào ở đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ
nổi lên, càng lúc càng mạnh. Năm Giáp Ngọ [1774], trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt chuyển trình rằng
phương Nam đang hồi suy yếu, xin triều đình đem quân đánh dẹp.

Chúa Trịnh sai đại tư đồ quốc lão là Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc và Đoan Quận Công Bùi Thế
Đạt đem binh đánh Phú Xuân, đến ngày mồng 3 tháng Giêng năm Ất Mùi [1775] thì lấy được kinh
thành của chúa Nguyễn.

Tháng Tư năm đó, quân Trịnh vào đánh Quảng Nam, Nguyễn Nhạc đem quân đón đánh ở Cẩm Lệ bị
thua phải chạy vào Thanh Hà (nay thuộc Điện Bàn). Nguyễn Nhạc xin tiến voi, ngựa, vàng bạc và ba
phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, xin làm chức tiền khu cho triều đình. Việp Quận Công bằng
lòng phong cho Nhạc làm Tráng Tiết tướng quân kiêm Tây Sơn trại trưởng, Nguyễn Huệ làm Tướng
quân tiền phong. Theo Đại Việt Sử Ký (tục biên) chúa Trịnh Sâm cũng biết Nguyễn Nhạc không có
lòng thành nhưng cũng muốn hưu việc binh đao nên ban cho tỉ thư trong đó có câu:

Các xứ Thuận Quảng vốn thuộc dư đồ nhà nước, từ Gia Dụ Thái vương trấn phủ đất ấy, truyền nối
đến nay đã hơn trăm năm rồi. Gần đây nhân vì kẻ quyền gian làm hại chính sự, đến nỗi dân ngoài
biên bị chìm đắm, dân đương mong đến cứu. Ta đến thuận theo lòng trời, dưới vì dân mong đợi, sai
tướng ra quân, dẹp yên Ô, Lý tạm dẹp yên địa phương Thăng Hoa, Điện Bàn. Ngươi biết sợ uy mến
đức, nộp lễ ở cửa quân. Quốc lão công đã tuỳ nghi ban cho sắc lệnh ấn gươm, khuyến khích lập công.
Ta đương hậu đãi, cho người tự dâng sức… Vậy sai quan đem chỉ cho người làm “Tây Sơn trưởng
hiệu – Tráng Tiết tướng quân, thăng thụ tam phẩm, Tuyên uý đại sứ, kiêm trấn thủ xứ Quảng Nam”,
ban thêm cho gươm vàng và chiêng vàng mỗi thứ một cái, để cho mệnh lệnh yêu quí thêm long
trọng. Thuộc Bình Nam đại tướng quân Tạo quận công Phạm Ngô Cầu điều khiển … [19]
Phan Huy Ích được sai đem ấn kiếm của triều đình vào Phú Xuân để hợp thức hoá sự công nhận và
phong cho Nguyễn Nhạc làm Cung Quận Công. Cùng lúc ấy Hoàng Ngũ Phúc qua đời, chúa Trịnh giao
cho Tạo Quận Công Phạm Ngô Cầu kinh lý mọi việc ở Thuận Hoá.

Nói tóm lại, chỉ trong vòng một năm, đỗ chế khoa xong, Phan Huy Ích liên tiếp nhận nhiều chức vụ,
tựu trung đều xem xét, thanh tra, đôn đốc ở nhiều địa hạt, có thể coi như một loại giám sát lưu động
hay công cán uỷ viên trong cơ cấu hành chánh cận đại. Chúng ta có thể hiểu giai đoạn này đều là
những việc tạm thời theo nhu cầu mà không được bổ nhiệm một chức vụ chính thức.

Cuối mùa hạ năm Đinh Dậu [1777], Phan Huy Ích được thăng lên [thự] đốc đồng Thanh Hoá.[20] Vì
là quản hạt nên cũng năm đó ông được cử làm khâm sai trông coi trường thi Thanh Hoá. Có thể nói
đây là chức vụ đầu tiên trong đời làm quan của tiên sinh.

Theo niên biểu, ông làm quan ở đây đến hơn một năm, trong một giai đoạn nhiễu nhương và nhiều
bất trắc. Vào thời gian này, gạo thóc miền bắc được thu vét để tiếp tế cho chiến dịch đánh Phú Xuân,
lại hạn hán mất mùa nên nhiều nơi bị đói kém, nhiều người đổ ra biển đi ăn cướp nhưng Hoàng
Đình Bảo và Lê Quí Đôn bình định được.[21]

Năm Kỷ Hợi [1779] ông được triệu về kinh để lên Lạng Sơn hầu mệnh [候命], một nhiệm vụ ngoại
giao trung gian để nhận và chuyển tin tức về kinh đô. Mùa đông năm Đinh Dậu [1777], Trịnh Sâm có
ý cướp ngôi, nhân kỳ tuế cống, lấy cớ chúc mừng việc nhà Thanh mới bình định Kim Xuyên nên sai
tả thị lang bộ Lại Vũ Trần Thiệu làm chánh sứ, Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng Đang làm phó sứ đem
phẩm vật sang Yên Kinh. Nhân dịp này Trịnh Sâm làm mật biểu tâu với Thanh triều rằng “nhà Lê
không còn con cháu nào hiền tài”, dặn Vũ Trần Thiệu đút lót cho nội giám để xin vua Càn Long
phong tước cho mình.

Khi đi đến hồ Động Đình, Vũ Trần Thiệu giả vờ có bệnh, đang đêm đem tờ biểu đốt trước sứ bộ rồi
uống thuốc độc tự tử.[22] Có lẽ Trịnh Sâm chưa nắm vững tình hình và phản ứng của Thanh triều về
việc này nên sai Phan Huy Ích lên Nam Quan hầu kịp thời ứng phó trong trường hợp cần tấu
đối.[23]
Giữa mùa đông năm Kỷ Hợi [1779], Phan Huy Ích được cử làm khâm sai trông coi việc thi Hội lại
kiêm luôn việc chấm thi nên xin trở về kinh. Xem ra ông là chánh chủ khảo kỳ thi chọn tiến sĩ lúc
chưa đầy 30 tuổi.

Mùa thu năm Canh Tí [1780] ông được cử làm hiến sát sứ Kinh Bắc tức là một chức quan trông coi
hiến ty (préfecture de police de province), kiêm thiêm sai hình phiên [tương đương với án sát đời
Nguyễn].

Năm Tân Sửu [1781], ông được triệu về kinh làm tu soạn trong nội các.

Mùa thu năm Nhâm Dần [1782] ông lại được cử làm đốc đồng Thanh Hoá một lần nữa, công việc
ông đã đảm trách 5 năm trước. Xét chính tích của ông trong thời kỳ này, chúng ta có thể tin rằng
Phan Huy Ích nghiêng về cánh của Đặng Thị Huệ và Quận Huy Hoàng Đình Bảo, ủng hộ việc lập
Trịnh Cán làm thế tử. Đây cũng là phe Ngô Thì Nhậm [anh vợ Phan Huy Ích] tôn phò nên họ Phan
cũng đi theo chiều hướng đó và ông được chúa Trịnh Sâm tin cậy nên mới sai đem ấn kiếm vào
Đàng Trong cho Nguyễn Nhạc rồi lên cửa ải chờ tin sứ đoàn Vũ Trần Thiệu đi vận động việc thay
nhà Lê. Việc đó ảnh hưởng ít nhiều đến thái độ của hai ông Phan và Ngô sau khi chúa Trịnh thất thế.

Cuối năm đó, ở kinh đô quân tam phủ lập Trịnh Tông [tức Trịnh Khải] lên làm chúa, phế Trịnh Cán
xuống làm Cung Quốc Công. Lê Quý Kỷ Sự chép:

… Ngày 25, tháng 10, trời còn mờ sáng, quân sĩ đông đủ nhóm lại. Biện lại đội Tiệp-bảo tên là Bằng,
đi tắt lên phủ đường, nổi trống “lục triều” luôn ba hồi chín tiếng. Các quân tuốt gươm trần, cướp lối,
xông qua cửa, tiến ồ ạt lên. Đình Bảo thấy việc nguy cấp, tuốt gươm, lên voi, chẹn giữ cửa phủ và
chống lại. Quân sĩ lấy ngói và đá ném chết Đình Bảo, rồi giết luôn người em họ của hắn là Khanh-vũ
hầu.[24]

Quân sĩ tranh nhau đến nhà giam, thả Tông ra, đỡ Tông lên ngồi trên phủ đường, rồi sai người xin ý
chỉ Dương thái phi, tâu xin mệnh lệnh vua Lê, lập Tông làm Đoan-nam vương.

Quân sĩ tha hồ rông rỡ cướp bóc. Phàm những thân thuộc Đặng thị và Đình Bảo cùng những người
mật cáo về vụ Trịnh Tông năm trước, hễ có nhà cửa ở kinh đô đều bị cướp bóc, phá huỷ gần hết.
Kinh thành rối ren, vài ngày mới yên.[25]
Năm Quí Mão [1783], ông được cử làm khâm sai trông nom việc thi cử ở Sơn Nam.

Năm Ất Tị [1785], ông lại được bổ làm hiến sát sứ ở Thanh Hoá.

Trong mấy năm liền, dường như ông bị thất sủng, được giao những chức vụ hữu danh vô thực, có
khi lại làm việc dưới quyền cả những người đến sau mình, chẳng hạn như hiến sát sứ phải ở dưới
đốc đồng Thanh Hoá là chức vụ ông từng giữ đến hai lần trong vòng 5 năm. GS Hoàng Xuân Hãn cho
rằng ông bị hiềm nghi vì anh vợ là Ngô Thì Nhậm có dính líu đến vụ án năm Canh Tí [1780][26] nên
khi chúa Trịnh Khải lên nối nghiệp một số người thuộc phe Trịnh Cán bị trù dập.

Đây là giai đoạn rất gay go. Nguyễn Hữu Chỉnh vào đầu Tây Sơn, bày mưu cho Nguyễn Huệ sau khi
lấy Thuận Hoá đem binh tiến thẳng ra bắc. Chúa Trịnh Khải sai Trịnh Tự Quyền đem quân 27 cơ vào
giữ Nghệ An nhưng Tự Quyền chần chừ không dám. Năm Bính Ngọ [1786], sau khi phá được quân
Trịnh ở Sơn Nam, Nguyễn Huệ đưa quân vào Thăng Long, các cánh quân của Nguyễn Trọng Yên,
Ngô Cảnh Hoàn đều bị đánh bại. Chúa Trịnh chạy đến Hạ Lôi thì bị bắt nên đâm cổ tự tử. Nguyễn
Huệ sau đó đem quân trở về Phú Xuân, giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh giữ đất Nghệ An.

Khi Trịnh Bồng ép vua Lê lập lại phủ chúa, Phan Huy Ích được chúa Trịnh cử tạm quyền đốc thị[27]
Thanh Hoa, trông coi các đội phòng thành kiêm tán lý các đội quân Thanh Nghệ [nghĩa là quyền hạn
quản hạt trùm lên đất của Nguyễn Hữu Chỉnh]. Phan Huy Ích chiêu mộ binh lính lưu tán ở Thanh
Nghệ và hào mục, thổ binh đánh Chỉnh, trấn thủ Thanh Hoa Mãn Trung Hầu bị chết trận ở Ngọc Sơn,
Phan Huy Ích bị bắt nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh tha cho không giết chỉ giữ lại trong quân.[28]

Ở miền bắc tình hình xáo trộn, nhiều phe phái, quyền hành vua Lê hầu như không còn gì nên phải
triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra để trừ dư đảng họ Trịnh. Vua Chiêu Thống cho Phan Huy Ích
làm hàn lâm thừa chỉ, giữ chức tham chính ở Sơn Nam. Đầu mùa đông, ông lại được cử làm khâm sai
kỳ thi Hội và làm giám khảo đọc quyển kỳ thi Đình.[29] Các kỳ thi này đều vào cuối năm cũng là lúc
tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm đem quân ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh khiến cho triều đình tan rã, vua
Lê Chiêu Thống chạy lên Lạng Giang.

TRIỀU TÂY SƠN


Ở kinh đô, Vũ Văn Nhậm lập một triều đình tạm thời dùng Lê Duy Cẩn [ông hoàng tư] làm giám
quốc, thay mặt vua Lê trông nom tế tự. Khi vua Lê chạy dường như Phan Huy Ích không chạy theo
[có lẽ ông về quê ẩn mình] sau ra cộng tác với Tây Sơn [trên danh nghĩa làm quan trong triều đình
Lê Duy Cẩn] do lời kêu gọi của Ngô Thì Nhậm nhưng có lẽ chỉ một thời gian rất ngắn vì theo gia phả
thì đầu năm sau [Mậu Thân 1788] ông cáo từ xin về ở đất Hồng Am.[30]

Tuy không chống đối tân triều, dường như Phan Huy Ích cũng rất thụ động mặc dầu anh vợ ông là
Ngô Thì Nhậm tương đối tích cực hơn trong việc ủng hộ Nguyễn Huệ, phần nào cũng vì họ Ngô bị
thất sủng qua vụ án năm Canh Tí nên có thái độ thù ghét triều đình vua Lê chúa Trịnh. Khi Ngô Thì
Nhậm giới thiệu thêm những văn quan cũ thì cũng có một số khoa bảng, nho gia miễn cưỡng ra cộng
tác.

Ở vào giai đoạn tranh tối tranh sáng, sĩ phu Bắc Hà không mấy thiết tha, một phần vì người kế vị
chính thức của nhà Lê là vua Chiêu Thống còn đang bôn đào, phần khác trong lý tưởng tôn quân,
việc quay lưng với chủ cũ để chạy theo người mới là điều rất khó khăn cho những người được đào
tạo nơi cửa Khổng sân Trình.

Xét cả về tình hình phức tạp lúc đó ở Bắc Hà cùng với những chuyển biến chính trị ở chung quanh,
tuy chính gia phả họ Phan không ghi nhiều chi tiết, chúng ta vẫn có thể theo dõi được cuộc đời Dụ
Am tiên sinh tương đối đầy đủ.[31]

Khi trấn thủ miền bắc, tiết chế Vũ Văn Nhậm áp dụng một chính sách hà khắc, bắt dân xây thành, lại
có thái độ tiếm quyền bị Ngô Văn Sở tố giác nên khoảng tháng Tư năm đó, Nguyễn Huệ từ Phú Xuân
đi ra bắt Nhậm giết đi. Tháng Năm năm Mậu Thân [1788], Nguyễn Huệ kéo quân về Nam giao cho Lê
Duy Cận giám quốc [vì vua Chiêu Thống vẫn thất tung] nhưng thực quyền trong tay đại tư mã Ngô
Văn Sở.

Trước khi đi, Nguyễn Huệ triệu các quan văn võ của cựu triều vào yết kiến ( theo SKTB thì chỉ có ba
người là Nguyễn Đình Giản, Lê Duy Đản và Nguyễn Duy Hợp không ra trình diện). Trong dịp này,
Ngô Thì Nhậm cũng thay mặt nhóm quan lại làm tờ biểu suy tôn Nguyễn Huệ lên thay nhà Lê nhưng
không được sự ủng hộ nên đành thôi. Sau đó, Nguyễn Huệ chọn Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đưa về
Phú Xuân mà lưu bọn Ninh Tốn, Nguyễn Gia Phan (trước tên là Thế Uý), Nguyễn Du,[32] Nguyễn Bá
Lan ở lại giúp Ngô Văn Sở còn từ Nguyễn Hoãn trở xuống đều cho về quê.
Tháng Tám năm đó, Nguyễn Huệ cho Ngô Thì Nhậm làm Tả thị lang bộ Lại, tước Tình Xuyên Hầu,
Phan Huy Ích làm Tả thị lang bộ Hình, tước Thuỵ Nham Hầu và đưa về Bắc lo việc giấy tờ cho Ngô
Văn Sở. [33]

Cũng nên thêm, khi viết về giai đoạn này bộ tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí đã hư cấu đề cao
Ngô Thì Nhậm như một quân sư bên cạnh bộ tham mưu quân sự để bày mưu tính kế – một mẫu
hình Khổng Minh trong Tam Quốc Diễn Nghĩa – khiến chúng ta nghĩ rằng trong số khoa bảng ra
cộng tác với tân triều chỉ có một Ngô Thì Nhậm là nổi trội nhưng thực ra số người làm quan với Tây
Sơn khá đông và sự đóng góp của họ không phải nhỏ.[34]

Khi quân Thanh nhân danh tái lập nhà Lê vượt biên giới kéo xuống Thăng Long thì quân Tây Sơn bí
mật rút đi. Giới văn quan như rắn mất đầu, một số [trong triều đình Lê Duy Cẩn] “ra hàng”, một số
chạy về quê nương náu. Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm vì nhận tước của Tây Sơn nên bị vua Chiêu
Thống xử phạt, cách chức tiến sĩ thành chân bạch đinh. Hai ông bị nặng hơn những người khác có lẽ
vì đã ký tên vào lá thư suy tôn Nguyễn Huệ thay nhà Lê mà Lê Duy Đản đã sao lại trong quân doanh
của Tôn Sĩ Nghị đem về cho vua Chiêu Thống. Dường như vua Lê cũng hiểu hoàn cảnh khó khăn của
những nhà nho đất Bắc nên sự trừng phạt đó chỉ trên hình thức.

Về chính tích đời Tây Sơn tuy gia phả họ Phan chép rất sơ lược nhưng truy tìm thêm các tài liệu bên
ngoài chúng ta thấy hoạt động của Phan Huy Ích qui mô hơn nhiều.[35]Tuy không hoàn toàn rõ rệt,
chúng ta có thể chia bang giao Thanh – Việt đời Tây Sơn thành hai giai đoạn chính:

GIAO THIỆP ĐỜI QUANG TRUNG

Sau khi đánh thắng quân Thanh, vua Quang Trung đã kêu gọi giới khoa bảng ra cộng tác nên Ngô Thì
Nhậm đã thay mặt những người làm việc với tân triều để soạn một “tạ biểu” mà chúng ta còn thấy
trong Hàn Các Anh Hoa.[36] Những danh sĩ triều Lê được giao cho việc giảng hoà và tái tục bang
giao với phương Bắc. Tuy kẻ trước người sau nhưng đáng kể nhất ta thấy có Phan Huy Ích, Ngô Thì
Nhậm, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Đề đều thuộc danh gia vọng tộc nên ít nhiều am
hiểu những khúc mắc và tế nhị giữa hai nước.
Việc giao cho đúng người đúng việc này đã có kết quả mỹ mãn nên chỉ vài tháng sau, Nguyễn Quang
Bình [tên chính thức của vua Quang Trung] đã được chấp thuận làm vua nước Nam thay cho con
cháu nhà Lê. Một phái đoàn do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu sang Yên Kinh nhận sắc ấn đồng thời
sứ thần nhà Thanh là Thành Lâm cũng sang Thăng Long phong vương cho vua Quang Trung.

Cứ theo Đại Việt Quốc Thư [quyển IV] thì Phan Huy Ích khi ấy là Hình Bộ Tả Thị Lang tước Thuỵ
Nham Hầu là trưởng phái đoàn bên hàng văn cùng với hiệp trấn Lạng Sơn Tô Xuyên Hầu [Lê Doãn
Điều], Hàn Lâm hiệu thảo Hải Phái Bá [Đoàn Nguyễn Tuấn], chánh sứ tham mưu Đạo Thành Hầu
[Phan Tú Đạo], phó sứ hàn lâm Mi Xuyên Bá [Đào Xuân Lan] đến trấn sở Lạng Sơn đợi tiếp sứ thần
nhà Thanh. Về phía võ quan, người đứng đầu phái bộ nước ta là đô đốc Dũng Phái Hầu [Vũ Vĩnh
Thành] (tức Vũ Văn Dũng, trước đây có tên Chiêu Viễn Hầu) nhưng sau bị bệnh nên thay bằng đô
đốc Nguyễn Văn Thọ.

Vai trò quan trọng nhất mà Phan Huy Ích được giao phó là việc thư từ giao thiệp suốt thời kỳ Quang
Trung trước, trong và sau chuyến đi năm Canh Tuất [1790]. Khi giao cho ông đứng đầu hàng văn hỗ
giá [theo vua sang Trung Hoa], vua Quang Trung đã coi ông như chỗ dựa chính về trao đổi, giao
thiệp. Hầu như tất cả những văn thư quan trọng nhất đều do tiên sinh soạn và chúng ta cũng có thể
phục hồi một số văn bản không còn giữ trong di cảo của họ Phan nhưng vẫn còn lưu trong đáng án
(archives) của Thanh triều.

Trong khi văn của Ngô Thì Nhậm có phần “đao bút” thì văn của Phan Huy Ích khiêm cung, nhẹ
nhàng thích hợp cho việc bang giao mà không suy giảm quốc thể. Đó chính là một tiêu chuẩn để
chúng ta có thể phần nào khôi phục những chiếu, biểu vô danh đưa trở về cho tác giả họ Phan.[37]

Sau chuyến đi năm Canh Tuất (1790), Phan Huy Ích được vua Quang Trung ủy thác cho việc dạy Tiết
Chế Công Nguyễn Quang Thùy. Vì ông ngã đau chân chưa khỏi, Nguyễn Quang Thùy làm nhà cho ông
ở luôn trong cung điện thành Thăng Long[38], lại tặng gậy mây để chống.

Cuối năm đó ông được ban danh hiệu “dực vận công thần” [39] [翊運功臣], tước Thụy Nham Hầu.
Cùng với ông, Ngô Thì Nhậm được phong Tình Phái Hầu, Vũ Huy Tấn được phong Hạo Trạch Hầu, và
đô đốc Vũ Văn Dũng được phong Dũng Lược Hầu[40]. Con cháu ông vì thế được tuyển vào học
chung với đông cung thái tử [tức Nguyễn Quang Toản] nên ông cho con trưởng là Phan Huy Quýnh
đi cùng với Ngô Thì Nhậm vào kinh.
Có lẽ đây là thời kỳ mà uy tín và danh vọng của ông lên cao hơn cả, trong được vua Quang Trung tin
dùng, ngoài được Thanh triều nể trọng. Theo gia phả họ Phan, ông được ban cho 30 mẫu quan điền
và một đội thân binh 31 lính hầu. Tuy không chép rõ Phan Huy Ích được ban chức gì ngoài những
danh hiệu chúng ta đã biết nhưng với những bổng lộc như thế, vị trí phải khá lớn, có lẽ là một khâm
sai đặc mệnh để tùy nghi liên lạc với nhà Thanh.

Phan Huy Ích cũng ở trong những nhà nho Bắc Hà vận động để vua Quang Trung quay trở lại dùng
Thăng Long làm kinh đô nhưng chưa đạt được kết quả cụ thể thì Nguyễn Huệ đã qua đời.

GIAO THIỆP ĐỜI CẢNH THỊNH

Hầu như chúng ta không tìm thấy những tài liệu liên quan đến nội trị mà Phan Huy Ích là tác giả
dưới thời Quang Trung. Những văn thư hiện còn tồn lưu dưới tên ông vẫn chủ yếu là việc qua lại với
Trung Hoa (trong số đó có một số lẫn lộn trong di cảo của Ngô Thì Nhậm cần phân loại).

Sang đời Cảnh Thịnh, liên hệ giữa nước ta với nhà Thanh tuy lúc đầu vẫn còn mật thiết [trong
khoảng thời gian vua Càn Long còn tại thế, dù nắm quyền hay đã lên làm thái thượng hoàng] nên
cũng có một số văn thư trao đổi.

Sau khi vua Càn Long băng hà, vua Gia Khánh không theo đuổi chính sách của vua cha, một mặt
thanh trừng những cựu thần trước đây được phụ hoàng sủng ái và tuy vua Quang Trung đã qua đời,
xem ra vua Gia Khánh không mấy thiện cảm với triều Tây Sơn.[41] Việc giao thiệp giữa Trung Hoa
với nước ta quay trở về tình hình lạnh nhạt như dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Văn chương của Phan
Huy Ích thời gian này không còn tính chất quốc gia mà cũng đổi hướng, đa số thuộc loại lễ nghi, hiếu
hỉ.

Một điểm đáng chú ý là vào thời gian sau này, triều đình Tây Sơn không còn nhất quán như trước.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ngoại thích và thân nhân ở Đàng Trong đã nương theo sự thân
cận với vua Cảnh Thịnh để chiếm đại quyền và thanh trừng một số tâm phúc cũ của tiên đế. Những
mâu thuẫn đó đã biến khu vực Đàng Ngoài trở thành ba vùng khác nhau, tuy vẫn thống nhất trên
danh nghĩa nhưng cũng không khác tình trạng cát cứ là mấy. Ba anh em Nguyễn Quang Toản,
Nguyễn Quang Bàn, Nguyễn Quang Thuỳ mỗi người cai trị một phương với kinh đô chính thức là
Phú Xuân và hai kinh đô phụ là Nghệ An, Thăng Long.

TRIỀU NGUYỄN

Khi Nguyễn Phúc Ánh tiến quân ra lấy được Phú Xuân và lên ngôi hoàng đế [niên hiệu Gia Long,
1802-1820], ba anh em Nguyễn Quang Toản phải chụm lại với nhau để chống kẻ thù chung.

Sau khi thua mấy trận lớn, quân Tây Sơn tan rã nhanh chóng khiến anh em vua Cảnh Thịnh [nay đã
đổi thành Bảo Hưng] phải chạy lên phương Bắc và cho người sang cầu viện nhà Thanh.

Vua Gia Khánh (Thanh Nhân Tông) biết triều đình An Nam đang ở vào tuyệt lộ nên đã từ khước
không cho sứ thần Tây Sơn Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi lên kinh đô đồng thời bí
mật hạ lệnh bắt giữ anh em Nguyễn Quang Toản nếu họ chạy sang Trung Hoa. Trên đường chạy lên
biên giới, vua Bảo Hưng và các em bị dân chúng bắt ở Lạng Giang, đóng cũi giải về Thăng Long, chấm
dứt một triều đại ngắn ngủi.

Sau khi thắng trận vua Gia Long lập tức xin nhà Thanh công nhận ngôi vị Việt Nam quốc vương. Việc
giao thiệp để hợp thức hoá này một lần nữa trao vào tay Phan Huy Ích, trong vai trò cố vấn và cũng
là người đề nghị những thủ tục thích hợp.

Tuy nhiên, lần này nhà Thanh công nhận một tân vương không dễ dàng như triều đại Quang Trung.
Sau khi qua lại nhiều lần, hai năm sau (1804) vua Gia Long được chính thức công nhận và sứ thần
Tề Bố Sâm được cử sang Thăng Long phong vương. Cũng vì sự việc không mấy suông sẻ, từ khi cầu
phong đến khi được chính thức ban danh hiệu kéo dài khá lâu nên vai trò của ông đối với triều
Nguyễn không mấy nổi bật. Phan Huy Ích phải thường xuyên ứng trực ở Thăng Long để chờ đợi kết
quả khiến ông có nhiều thời giờ rảnh rỗi phải tìm vui qua văn chương. Ngoài thù tạc, hiếu hỉ, ông đã
bỏ công thực hiện được một tác phẩm có một không hai nay còn lưu truyền. Đó là diễn âm trường
thiên Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ra quốc âm [mà hiện nay nhiều người vẫn nhận lầm là
của Đoàn Thị Điểm].
Khi vua Gia Long qua đời, Phan Huy Ích tuy già yếu nhưng vẫn được coi như cố vấn hàng đầu trong
việc giao thiệp với nhà Thanh và cũng tham dự khá nhiều vào việc cáo ai, cầu phong cho vua Minh
Mạng.

Tuy nhiên vì ông từng làm quan cho cựu triều nên nhà Nguyễn hầu như không nhắc đến công lao,
xem như mọi việc đều hoàn toàn theo thủ tục. Dù sao chăng nữa, xét thấy con cháu họ Phan không
bị những hạn chế hay cấm đoán về thi cử, bổ nhiệm chúng ta cũng biết tuy không công khai, triều
Nguyễn vẫn coi ông như một quan chức của bản triều.

C. CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM

Ngoài sự nghiệp làm quan, Dụ Am tiên sinh còn để lại một số lượng văn liệu đáng kể. Theo Thơ Văn
Phan Huy Ích: Dụ Am Ngâm Lục [sách I: Dật Thi Lược Toản] (Hà Nội: nxb KHXH,1978) trang 9 thì
ông đã có những tập thơ: Nam Trình Tạp Vịnh, Cẩm Trình Kỷ Hứng, Thang Chầu Lữu Hứng, Vân Sơn
Khiển Hứng, Tinh Sà [Tra] Kỷ Hành, Cúc Thu Bách Vịnh, Nam Trình Tục Tập, Vân Du Tùy Bút … tổng
cộng đến hàng nghìn bài cả Hán lẫn Nôm. Tuy nhiên di cảo của ông chỉ là một phần vì sau một lần
hỏa tai, sách vở của ông bị thiêu rụi. Theo bài tựa sách Dụ Am Ngâm Lục thì:

… Năm Nhâm Tuất (1802) nhà riêng bị cháy, cháy hết sách vở, không còn một chữ. Những thơ từ rơi
rớt ở ngoài thì chưa kịp sao chép lại… Nay tôi còn tỉnh táo, năm Giáp Tuất (1814) ở nhà dạy học
riêng ở Thiên Lộc, nghỉ việc giảng sách, cảnh thu nhàn rỗi, giao cho các con tìm tòi các thơ từ của tôi
làm thời xưa, hoặc nhớ được hoặc sao chép lại ở bản thảo của các nhà quen thuộc cũ, dần dần đưa
trình, bèn để ý sửa sang lại, theo thứ tự năm tháng mà sắp xếp lại. Những bài thơ nào lượm được ở
các nơi thì đặt tên là Dật thi lược toản (biên qua những thơ còn sót lại) những bài nào sao lại ở tập
thơ cũ còn lại thì vẫn gọi chung là Dụ Am ngâm lục, đóng thành 6 quyển, được 600 bài thơ, đại ước
chỉ còn được gần một nửa thôi …

Cứ như thế, những văn bản quan trọng trong việc giao thiệp với phương bắc không còn nhiều vì việc
đi tìm kiếm tài liệu từ những người quen biết chắc đa phần là thơ văn hiếu hỉ, thù tạc không có
những chi tiết đáng quan tâm trong việc nghiên cứu sử sách. Thật đáng tiếc.

Trong biên khảo này, chúng tôi chỉ luận định lại công nghiệp của Phan tiên sinh trong bang giao
Thanh – Việt cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX nên không đi sâu vào sự nghiệp văn chương.
Dù trải qua nhiều cuộc biển dâu, có thể nói Phan Huy Ích là nhân chứng quan trọng nhất của chính
sách ngoại giao đời Quang Trung, không chỉ duy trì và phát huy một số nguyên tắc sẵn có mà còn tạo
nên những tiền lệ để nêu cao sắc thái độc đáo của thời kỳ này.

Trước đây, các nhà nghiên cứu thường dành cho Ngô Thì Nhậm vị trí quan trọng nhất chủ trì bang
giao đời Quang Trung –miêu tả việc công nhận Tây Sơn là hình thức ngoại giao dưới gầm bàn
(under-the-table) mà chủ yếu là đút lót cho Phúc Khang An [khi đó là tổng đốc Lưỡng Quảng] và
dùng những tiểu xảo lừa dối để đạt kết quả mong muốn.

Tuy nhiên, đây chỉ là một sự nguỵ tạo hoàn toàn đi ngược với thể lệ ngoại giao truyền thống trong
lịch sử nước ta. Cũng như những câu chuyện cười mà người đời đặt ra để chế riễu sứ Tàu [kiểu
Trạng Quỳnh chọi trâu hay Đoàn Thị Điểm ứng đối …], những chi tiết ghi lại trong Đại Nam Chính
Biên Liệt Truyện [quyển XXX, Ngụy Tây: Nguyễn Văn Huệ] và nhất là Hoàng Lê Nhất Thống Chí của
Ngô gia văn phái[42] về việc cầu hoà và phong vương đều không sát sự thật.

2. SINH HOẠT

Theo gia phả, Phan Huy Ích là người “nghiêm hoà, ăn mặc bình dị, hành vi rất khoáng đạt, đối xử với
mọi người rất khoan nhã, thành thật, không kiêu hãnh. Cụ rất lịch duyệt, khi ứng dụng việc, lo liệu
rất cẩn thận không hề bao giờ hốt hoảng. Cụ rất ghét những phường xu nịnh. Các con cháu người
nào mồ côi hay túng thiếu, cụ đem về nuôi dạy và dựng vợ gả chồng cho chu tất.”[43]

Ông có ba bà vợ, bà chính thất Ngô Thị Thục (1750-1792) [là con gái tiến sĩ Ngô Thì Sĩ, em gái tiến sĩ
Ngô Thì Nhậm] sinh được 3 trai, 4 gái, bà thứ thất Trần Thị Minh, người Tức Mặc [Nam Định] sinh
được 3 trai, 2 gái và bà thứ ba không rõ tên họ, chỉ biết người làng Đại Mại sinh được 2 con gái.

Theo Gia Phả Họ Phan (1963) tr. 34, 6 người con trai và 8 con gái của Phan Huy Ích như sau:

Con bà chính thất Ngô Thị Thục

Phan Thị Bích [1770-1810]

Phan Thị Ngôn [1774-1789]

Phan Huy Quýnh [1775-1844]


Phan Huy Thực [1778-1842]

Phan Thị Điền [1780-1822]

Phan Huy Chú [1782-1840]

Phan Thị Xuân [1789-1861]

Con bà thứ thất Trần Thị Minh

Phan Duy Thanh [1786-1839]

Phan Thị Thiều [1793-1865]

Phan Thúc Ly [1801-1843]

Phan Huy Mãn [1802-1836]

Phan Thị Lương [1806- ? ]

Con bà thứ thiếp [người Đại Mại]

Phan Thị Quán [1796-1817]

Phan Thị Đại [1798-1870]

Ông mất vào giờ Tuất [khoảng 19 đến 21 giờ] ngày 20 tháng 3 năm Nhâm Ngọ [1822], thọ 73 tuổi,
phần mộ tại xứ Ổ Rồng, xã Thuỵ Khuê.[44]

3. CHÂN DUNG

Phan Huy Ích là một trong những sứ thần hiếm hoi có dung mạo được ghi lại khi sang sứ bên Tàu.
Bức truyền thần của ông trước đây được thờ tại từ đường làng Thuỵ Khuê nhưng đã bị tàn phá
trong cơn binh lửa nay chỉ còn lưu lại qua bức hình đen trắng ở bìa quyển Chinh- Phụ -Ngâm Bị -
Khảo (Paris: Minh Tân, 1953). Bức hình này vẽ ông mặc y phục theo kiểu Trung Hoa, đầu cạo một
nửa trước như bắt buộc của dân chúng đời Thanh thời bấy giờ. Các bức truyền thần thường chỉ vẽ
khuôn mặt nhìn chính diện nên che khuất mái tóc kết thành đuôi sam ở sau lưng.

Như vậy liệu có thực sự Phan Huy Ích mặc y phục Mãn Thanh nên đã cạo đầu thắt bím hay không?

Trên thực tế, kỹ thuật truyền thần của Trung Hoa đã phát triển từ xưa và trong xã hội đã có một
tầng lớp nghệ sĩ, nghệ nhân sống bằng nghề vẽ chân dung (tiếu tượng hoạ – 肖像畫) ở các đô thị.
Bức truyền thần của Phan Huy Ích có lẽ cũng được thuê thợ vẽ khi ông qua Bắc Kinh.Để có một bức
vẽ, người khách hàng chọn một trong những mẫu đã hoạ sẵn nên y phục và những cảnh trí chung
quanh cũng giống như trong các tiệm chụp ảnh ở thành phố ngày nay chỉ dùng làm nền chứ không
hẳn đã phản ảnh thực tế. Họa sĩ đưa ra một số tranh đã gần hoàn tất, và người đặt hàng chỉ ngồi cho
hoạ sĩ vẽ khuôn mặt mình lên chỗ còn để trống trên khung đó.

Bức tiếu tượng của Phan Huy Ích hẳn cũng nằm trong trường hợp này nên là khuôn mặt ông được
vẽ trong y phục của một nho sĩ Trung Hoa. Theo tài liệu nhà Thanh, tuy vua Quang Trung và một số
đại thần được ban cho triều phục Mãn Thanh nhưng vua Càn Long cũng nhắn rằng chỉ mặc trong
những buổi triều cận để thêm trang trọng và phân biệt ngôi thứ, ngoài ra có thể dùng y phục bản
quốc. Vua Càn Long cũng tế nhị không yêu cầu những người được ban mũ áo trong sứ đoàn nước ta
phải cạo đầu theo lối Mãn Thanh để khi về nước dân chúng khỏi dị nghị. Theo di văn của sứ thần và
nhận xét của những người có dịp tiếp xúc với họ, việc mặc triều phục, áo mũ nặng nề theo nghi lễ
không phải là điều thích thú gì nên khi vừa đến Nam Quan, ai nấy đều thở phào khi được thay bằng
áo quần mỏng nhẹ thường nhật của nước ta.

Kèm theo đây là hình một sứ thần đời Lê trong y phục nước ta được ghi lại trong Vạn Di Cống Sứ Đồ
và nếu Phan Huy Ích được vẽ trong triều phục nước ta thì cũng tương tự như thế này.

Tháng 3-2015

Chú thích

Trích từ tờ bìa sách Hoàng Xuân Hãn.Chinh- Phụ -Ngâm Bị -Khảo.(Paris: Minh Tân, 1953)

Lời tựa viết năm Thành Thái 17 (1905). Ðặng Xuân Bảng,Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu(bản dịch của
Hoàng Văn Lâu) (Hà Nội, nxb KHXH, 2000) tr. 9. Như vậy mãi tới lúc này chúng ta mới thấy một sử
gia sống thời Nguyễn xin được công nhận nhà Tây Sơn như một triều đại chính thống, dù rằng ông
vẫn cố gắng nhấn mạnh rằng để “khuyến khích và răn đe”.

Trần Trọng Kim,Việt Nam Sử Lược, quyển II (Sàigòn, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục, 1971) tr.
127-29.

Nghi án tác giả của bản dịch Chinh Phụ Ngâm đã được nhiều tác giả cất công đưa ra ánh sáng đáng
kể nhất có Hoàng Xuân Hãn.Chinh- Phụ -Ngâm Bị -Khảo.(Paris: Minh Tân, 1953) và Nguyễn Văn
Xuân. Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc của Phan Huy Ích. (Saigon: Lá Bối, 1972)
Nguyễn, Ngọc Nhuận (dịch và chú giải), Phan Huy Lê (hiệuđính). Phan Gia Công Phả [潘家公譜] Gia
Thiện – Hà Tĩnh. (Hà Nội: Thế Giới, 2006). [viết tắt là PGCP]. Bản chính mang số hiệu A.2963 của
Viện Nghiên Cứu Hán Nôm vốn do Phan Huy Dũng soạn, chép tay trên giấy lệnh hội, khổ 30×20 cm
năm Duy Tân thứ nhất (1907). Xem thêm Nguyễn Ngọc Nhuận. “Về Hai Cuốn Gia Phả Của Dòng Họ
Phan Huy Trên Đất Sài Sơn, Hà Tây”. Thông Báo Hán Nôm Học 2002 tr. 408-415

初諱睿,長改惠及中解元避宮中同音改輝益(sơ huý Duệ, trưởng cải Huệ, cập trúng giải nguyên, tị
cung trung đồng âm cải Huy Ích). Ở đây là tên huý bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ [鄧氏蕙], tuy viết khác
nhưng cùng âm.

幼頴殊常,讀書經眼成誦(ấu dĩnh thù thường, độc thư kinh nhãn thành tụng) (PGCP, 30b)

Theo Phan Huy Lê, tổ tiên vốn ở xã Ngọc Điền sau chuyển về Canh Hoạch rồi sang Thu Hoạch theo
qui định của triều đình vì họ Phan gốc làm nghề xướng ca do giáo phường quản lý. Nhiều tác
giả.Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy (Hà Sơn Bình: VHTT, 1983) Phan Huy Lê, “Về Dòng Họ
Phan Huy Ở Sài Sơn”, tr. 176

Ngày xưa chấm bài phêđiểm theo ưu, bình, thứ, liệt. Ưu là cao nhất, kế đến là bình. Thứ là đủ điểm
còn liệt thì rớt.

Thi Hội và thi Đình không chấm theo ưu, bình, thứ, liệt mà chấm theo phân số, cộng lại đủ điểm thì
đỗ. Tuy nhiên thi Hội chỉ là kỳ trung gian không có treo bảng nên chưa được thành Tiến Sĩ. Theo
cách viết, trong kỳ này ông tuy không bị loại nhưng chưa đủ điểm để vào thi Đình nên vẫn chỉ là cử
nhân.

Gia phả chép là Đông Khai [東開]

12 PGCP không nói rõ năm nào nhưng năm Bính Thân có chế khoa là năm ông đi thi và đỗ đầu.

TheoĐại Việt Sử Ký Tục Biên [1676-1789]. Trung Tâm Văn Hoá Ngôn Ngữ Đông Tây (chủ biên). Ngô
Thế Long & Nguyễn Kim Hưng (dịch). (Pleiku: Hồng Bàng, 2012) [SKTB] tr. 399 thì “…Chúa [Trịnh
Sâm] cho Vũ Đài làm Thiêm tri Hộ phiên, Phan Huy Ích làm Thiêm tri Lại phiên …”

Giữ quyền vì chức vụ hiện khuyết nhưng chưađược bổ nhiệm chính thức, giống như “xử lý thường
vụ” sau này.

SKTBtr. 403 chép là ông được cử làm Hiệp đồng đồn Động Hải, xứ Thuận Hoá

tức là một loại giáo thụ ở trong triều đình có nhiệm vụ giảng nghĩa sách cho vương tử, hoàng tử hay
ngay chính vua chúa.

16 PCGP, 31a. Theo Đại Việt Sử Ký Tục Biên [SKTB] (2012) tr. 399 thì “…Chúa [Trịnh Sâm] cho Vũ
Đài làm Thiêm tri Hộ phiên, Phan Huy Ích làm Thiêm tri Lại phiên …”
Phạm Đình Hổ:Vũ Trung Tuỳ Bút, Đông Châu dịch. Tạp chí Nam Phong, số 127 Mars 128 tr. 270

19.SKTB(2012) tr. 412

20.SKTB(2012) tr. 429. Đốc đồng đời Lê là quan văn trông coi việc hành chánh trong một tỉnh
(gouverneur civil de province) còn về quân sự thì có trấn thủ, đốc trấn hay lưu thủ. Thự là tạm thay
quyền, chưa chính thức bổ nhiệm.

Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.KhâmÐịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [bản dịch Viện Sử Học]. (Hà
Nội: nxb Giáo Dục, 1998) quyển XLV, tr. 11 [viết tắt là KĐVS]

22. KĐVS, quyển XLV, tr. 7

23. PGCPchép rằng:己亥赴京凖授關上侯命接使臣囬國。Kỷ Hợi phó kinh chuẩn thụ quan thượng
hầu mệnh tiếp sứ thần hồi quốc. Năm Kỷ Hợi ông lên kinh đô vì được cử đi đến cửa quan [Nam
Quan] chờ đón sứ thần trở về nước. Theo điển lệ, khi sứ nhà Thanh sang nước ta thì có người từ
Thăng Long hộ tống lên Nam Quan sau đó trấn thủ Lạng Sơn đưa qua cửa ải. Hầu mệnh là công việc
lên cửa quan để chờ hồi đáp của phía Trung Hoa trong khi đang có những trao đổi nên cần một văn
quan giỏi thù ứng để trả lời hay làm trung gian tâu trình về kinh đô. Vậy có lẽ ông được cử lên cửa
quan đón phái bộ Vũ Trần Thiệu và liên lạc với nhà Thanh nếu chúa Trịnh được chấp nhận làm An
Nam quốc vương [thay vua Lê].

TheoSKTB [2012] tr. 449 thì người này tên là [Hoàng] Đình Lương

Nguyễn Thu. Lê QuýKỷ Sự [Hoa Bằng dịch, Văn Tân hiệu đính] (Hà Nội: KHXH, 1974) tr. 18-9 [viết
tắt là LQKS]

Hoàng Xuân Hãn.Chinh- Phụ -Ngâm Bị -Khảo. (Paris: Minh Tân, 1953) tr. 49

Đốc thị là phụ tá chođốc đồng

28.Đại Việt Sử Ký Tục Biên(2012) tr.464

Kỳthi này lấy 14 tiến sĩ, Bùi Dương Lịch đỗ thám hoa đình nguyên.

30. PCGPchép như sau:仲冬皇駕出幸。戊申告囬洪庵。Trọng đông, hoàng giá xuất hạnh. Mậu Thân
cáo hồi Hồng Am. (Tháng Một, nhà vua chạy ra ngoài. Năm Mậu Thân ông xin trở về Hồng Am) Có lẽ
ông không chạy theo vua Chiêu Thống vì những tài liệu khác không thấy chép.

31.PCGPchép: 西山辰,掌召邦交事務。初給收穫社另兵十六率隨侯。後增給瑞圭社另兵十五率。

Tây Sơn thìn, chưởng triệu bang giao sự vụ. Sơ cấp Thu Hoạch xã lánh binh thập lục suất tuỳ hầu.
Hậu tăng cấp Thuỵ Khuê xã lánh binh thập ngũ suất.
Thời Tây Sơn [ông] được triệu ra để lo việc bang giao. Lúc đầu cấp cho 16 binh sĩ xãThu Hoạch theo
hầu. Về sau tăng thêm 15 binh sĩ xã Thuỵ Khuê nữa.

Người Văn Xá, Thanh Oai, đỗ tiến sĩ năm Cảnh Hưng 46 [1785]. Không phải tác giả Đoạn Trường
Tân Thanh sau này.

33.SKTB(2012) tr. 470-1.

Sauđây là trích đoạn trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, hồi XIII:

…Một hôm, mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân và Tuyết rằng:

– Chúa công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa thể tin là
có biết cách cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả sử có Tề Thiên Đại Thánh từ trên
trời rơi xuống hay Diêm Vương từ dưới đất lên, ta cũng chỉ quét một lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp
nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì?

Rồi Sở ngoảnh lại bảo Ngô Thì Nhậm rằng:

– Quan Thị lang thật giỏi về nghề văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì không?

Nhậm nói:

– Có văn tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng binh, gặp việc
thì lo sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như thế? Tôi trộm nghe bọn người nước
ta chạy sang bên Trung Hoa, trong đó có nhiều người định xúi họ, mở mang bờ cõi, gây ra binh biến.
Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên
nhớ đến lời nói của tôi.

Sở cười và nói:

– Lúc ấy sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì túi dao bao
kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?
Chẳng bao lâu, nghe tin báo ở ngoài biên ải đưa về. Sở rất kinh sợ, tức thì hội họp các quan văn võ cũ
của nhà Lê, mượn tiếng Sùng nhượng công Duy Cận coi việc nước, làm một bức thư đứng tên Duy
Cận; lại giả danh các hào mục lập một tờ trạng suy tôn Duy Cận làm giám quốc; rồi sai bọn quan văn
là Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn, bọn quan võ là Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử,
Nguyễn Đăng Đàn đem bức thư và tờ bẩm tới cửa ải để xin hoãn binh. Một mặt, Sở họp với bọn Văn
Lân bàn việc đánh giữ. Chưởng phủ là Nguyễn Văn Dụng nói:

– Trộm nghe hồi cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta, có bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ, Mộc
Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng kiệt hiệt của Trung Quốc. Bấy giờ vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa
ở vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành binh theo cách quỷ quyệt, lại hay dùng mưu
mẹo khôn ngoan; rồi nhờ khéo dùng cách mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp;
cho nên có thể lấy ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương Thông ở bến Đông Bộ, giết Liễu
Thăng ở núi Mã Yên (Bến Đông Bộ tức bến Đông Tân ở khúc sông Nhĩ Hà, Hà Nội. Núi Mã Yên ở xã
Mai Sao thuộc huyện Ôn Châu, Lạng Sơn) võ công tuyệt lạ, ngàn thủa ngợi khen. Nay người Thanh ở
xa đến đây, phải trèo đèo vượt suối, ta lấy quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước
các nơi xung yếu, cho quân nấp sẵn để chờ; cứ làm theo kế ấy, lo gì mà không thắng?

Thì Nhậm nói:

– Không phải thế! Ông chỉ biết một mà chưa biết hai. Việc thiên hạ, tình tuy giống nhau mà thế có
khác nhau, sự đắc thất do đó cũng khác hẳn. Xưa kia, nước ta bị phụ thuộc vào Trung Quốc, quân
Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai cũng muốn đuổi chúng đi. Cho nên vua Lê
Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần hưởng ứng, hào kiệt trong nước kéo đến như mây tụ. Mỗi lúc
đánh nhau với giặc, người trong nước chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy đều
hết sức vui mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục, thì người ta đều giấu
kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều bởi cớ ấy. Ngày nay, những người bề
tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà
trông. Sĩ dân cả nước, giành nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không,
số quân nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Chúng sẽ nhân kế của ta mà
lập kế của chúng, rồi bốn mặt kéo đến vây bắt. Quân cơ đã bị tiết lộ, tự nhiên mất hết điều tiện lợi,
ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn hòng đánh úp được ai?

Binh pháp có nói: “Khéo che đậy không khi nào không thắng, vụng che đậy không khi nào không
thua”. Được thua khác nhau là do ở chỗ xưa với nay khác nhau vậy!
Sở hỏi:

– Vậy thì nên làm thế nào?

Nhậm trả lời:

– Phép dụng binh chỉ có một đánh một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn.
Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều là phao tin đồn nhảm, làm cho thanh thế
của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi lay động. Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi
thành là đã bị bắt giết. Số người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền.
Đem đội quân ấy mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ, không thua sao được? Đến như
việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên
trong. Dầu cho Tôn, Ngô (tức Tôn Võ, người nước Tề đời Xuân Thu, và Ngô Khởi người nước Vệ đời
Chiến quốc; hai nhà quân sự nổi tiếng của Trung Quốc thời xưa) sống lại, cũng phải bó tay, không
thể làm được gì. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ giỏ cua. Xin nghĩ kỹ mà xem! Đánh đã
chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay. Nghĩ
cho cùng thì chỉ còn một cách này: sơm sớm truyền cho thuỷ quân chở đầy các thuyền lương, thuận
gió giương buồm, ra thẳng cửa biển, đến vùng Biện Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới,
gióng trống lên đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm
yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà
Lê ra sao? Vua Chiêu Thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công
ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen cũng chưa muộn gì.

Sở nói:

– Chúa công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất
với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu mới thấy
bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng những mang tội với chúa công mà người Bắc còn coi ta
ra cái gì?

Nhậm nói:

– Tướng giỏi thời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tuỳ theo
tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau
mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta
hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại
đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì. Nếu có vì thế mà
mắc lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công lượng xét, xin ông chớ nghi
ngại.

Sở bèn nghe theo, rồi mật truyền cho các viên trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn một mặt
nói phao là đem quân đắp luỹ ở sông Như Nguyệt, một mặt cất lẻn rút quân về. Lại tư cho các viên
trấn thủ ở Hải Dương, Sơn Tây, hẹn ngày họp quân ở thành Thăng Long. Còn trấn Sơn Nam thì sắp
sửa thuyền bè, chờ thuỷ quân đến sẽ cùng xuất phát.

Qua năm ngày, các đạo quân đều kéo đến đầy đủ, cùng dự cuộc duyệt lớn ở bãi sông. Rồi đó, Sở hạ
lệnh cho quân bộ sắp sẵn lương khô để chờ sai phái. Trước hết, Sở cho thuộc tướng là Đặng Văn
Chân đốc suất lính thuỷ đi xuống phía đông. Cắt đặt vừa xong, thì trời sập tối, chợt thấy bọn Nguyễn
Quí Nha, Nguyễn Đình Khoan từ trên ải Nam Quan chạy về nói rằng: khi họ đến Nam Quan, bị bọn
lính canh cửa ải của nhà Thanh ngăn chặn không cho sang; hiện nay quân Thanh đã qua Nam Quan,
quân bộ và quân kỵ của đội tiền phong đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn và đóng tại đó.

Sở liền họp các tướng, định rút lui. Phan Văn Lân nói:

– Quân không cứ nhiều, nước không cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến chưa từng
đón đánh, chỉ mới nghe tiếng doạ hão đã vội rút lui, thì còn làm tướng làm gì nữa? Tôi xin đem một
ngàn quân tinh nhuệ, đến thẳng sông Như Nguyệt, đánh nhau với chúng một trận, xem khí thế của
chúng ra sao và người Nam với người Thanh ai khoẻ hơn ai, để cho chúng biết rằng bọn ta cũng
không phải là hèn nhát. Đó cũng là sự tính toán tất thắng trước dùng thanh thế của mình để đè bẹp
bên địch vậy!

Sở cũng cho là phải.

Lân bèn đem quân qua sông đi sang phía bắc. Canh ba tới bờ phía nam sông Như Nguyệt, nghe tin
quân của Tôn Sĩ Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét, Lân kéo quân qua sông thách
đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông,
những kẻ cóng quá không thể qua được, đều bị chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị
quân Thanh giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa, liền vẫy quân chạy lui. Đám
quân tan vỡ trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ trơ một mình một
ngựa mà quay về. [bản dịch Nguyễn Đức Vân – Kiều Thu Hoạch, Hà Nội: Văn Học, 2002 tr. 350-6]

TheoPCGP tr. 65 thì: “Năm Canh Tuất [1790] được sung sứ bộ, thăng chức Dực vận công thần Kim
tử Vinh lộc Thượng đại phu.” Trong cước chú ở trang 66 có chép: “Về việc triều Tây Sơn đã trân
trọng dùng Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm lo công việc ngoại giao đối với nhà Thanh trong Phan Gia
thế tự lục cũng ghi lại như sau: “Tây quân dĩ bang giao vi đại quan hệ, đặc uỷ đại nhân dữ bá cữu
công đồng lĩnh kỳ sự” (tờ 34b), nghĩa là: “Vua Tây Sơn cho rằng việc bang giao là việc quan hệ rất
lớn, đặc biệt uỷ nhiệm cho ông cùng với bá cữu (Ngô Thì Nhậm) lo việc này”.

“Cựu Triều Văn Võ Tạ Biểu”. Mai Quốc Liên (chủ biên).NgôThì Nhậm tác phẩm I(Hà Nội: nxb Văn
Học, 2001) tr. 540-2, bản dịch 184-5

Theo qui tắc văn thư, các tờ biểu này thường do chính tay người soạn viết để cho bảo đảm vầ
nguyên tắc lễ nghi và sự chính xác đồng thời bảo mật, những văn thư còn giữ trong kho thư tịch
triều Thanh cũng có thể chính là bút tự của Phan Huy Ích.

Nguyễn Quang Thùy được phong tiết chế Bắc Hà, ở tại Thăng Long.

Ngay khi thái thượng hoàng Cao Tông [Càn Long] vừa từ trần, vua Nhân Tông [Gia Khánh] lập tức
loại trừ và thanh trừng người trước đây đã một thời có ảnh hưởng lớn là Hoà Khôn [Thân], Phúc
Trường An [em của Phúc Khang An] … kể cả truất bãi những người đã qua đời như Phúc Khang An,
Tôn Sĩ Nghị … Tuy không phải là nội thần như những người vừa nêu trên, vua Quang Trung cũng là
một ngoại phiên được vua Càn Long đặc biệt sủng ái và có thể cũng bị vua Gia Khánh thù ghét, ảnh
hưởng đến việc giao thiệp với nước ta [đang thời Cảnh Thịnh].

Quốc Sử Quán triều Nguyễn,Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển XXX tr. 37B [viết tắt là LT]
chép: “Thế rồi Phúc Khang An đến Việt Tây [tức Quảng Tây] một lòng giảng hoà, viết thư lấy điều lợi
hại mà trình bày. Huệ [Nguyễn Huệ] lấy vàng lụa rất nhiều đem đút lót để mong cho việc xong, lại
đổi tên là Quang Bình rồi sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng bồi thần Vũ Huy Tấn đem cống phẩm
gõ cửa quan khẩn khoản xin nhập cận …”

Hoàng Lê Nhất Thống Chí [bản dịch Nguyễn Đức Vân – Kiều Thu Hoạch, Hà Nội: Văn Học, 2002] tr.
386-387 chép: “ …Thì Nhậm vâng lệnh, lập tức theo ý đó thảo một bức thư, rồi sai người phi ngựa
giao cho viên đầu mục ở Lạng Sơn đưa tới ải Nam Quan nhờ chuyển đệ sang Trung Quốc.

Lại nói, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng mới là Phúc Khang An vốn người Mãn, thuộc đội Cờ viền vàng
do chân ấm sinh làm đến chức quan trong Nội các, vua Thanh vốn rất tin dùng, nên mới giao cho
kinh lý việc nước Nam.
Vừa mới thay Nghị làm chức Tổng đốc, An Khang đi trạm đến mạc phủ Quảng Tây, đãchính mắt thấy
Nghị trơ trọi một thân chạy về, rồi đó, tai lại được nghe thanh thế của vua Quang Trung, nên trong
bụng không khỏi rụt rè lo sợ. Đến khi tiếp được bức thư từ biên cương đưa tới, Khang An quyết liều
tự mình gánh vác lấy việc phương Nam, bèn nói kín với viên Phân phủ họ Vương ở phủ Thái Bình
rằng:

– Nam Bắc thôi việc binh đao, đó là phúc của sinh dân, mà thực là điều may lớn cho các quan ở
ngoài bờ cõi. Ta nghe nói có viên quan coi giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư
từ từ trước đến giờ đều do tay y mà ra. Vậy ông nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương
việc giảng hoà, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng
xong.

Phân phủ họ Vương lui ra, tức thì viết thư cho Ngô Thì Nhậm, Nhậm đem việc ấy tâu với vua Quang
Trung. …

Phan Huy Long & Phan Huy Uẩn.Gia Phả Họ Phan, tập I [bản in ronéo]. (Saigon, 1963) tr. 33

PCGP, tr. 66

You might also like