You are on page 1of 56

Những kỷ niệm về Lê Duẩn

Hồi ký của Trần Quỳnh

Năm 1960 tôi nhận được quyết định thôi Phó giám đốc trường Nguyễn Ái Quốc Trung
ương để qua làm Phó Văn phòng Trung ương Đảng. Việc đầu tiên tôi được Ban bí thư giao là trực
tiếp làm việc với anh Ba Duẩn về vấn đề quan hệ quốc tế. Trước đó không bao lâu anh Ba dự
cuộc gặp mặt một số Đảng cộng sản và công nhân ở Bucharest nhân Đại hội Đảng cộng sản
Rumani. Theo báo cáo của Lê Duẩn với Bác và Bộ chính trị thì ở cuộc gặp mặt đã xảy ra tranh
cãi gay gắt giữa đoàn đại biểu Đảng cộng sản Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình cầm đầu với đoàn
đại biểu Đảng cộng sản Liên Xô do đích thân Tổng bí thư Khrushev cầm đầu. Khrushev lên án
Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Trung Quốc là đi chệch chủ nghĩa Mác Lenin, chống lại
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và yêu cầu các Đảng có mặt khai trừ Đảng cộng sản
Trung Quốc ra khỏi phong trào.

Tại cuộc gặp mặt các Đảng tham gia đều tán thành Khrushev, chỉ riêng Lê Duẩn thay
mặt Đảng ta không đồng ý. Thành thử đề nghị của Khrushev không nhận được sự nhất trí và
không được thông qua. Cần lưu ý rằng trong cuộc gặp mặt Bucharest, cả Triều Tiên lẫn Albani
đều ủng hộ Khrushev. Nghe Lê Duẩn báo cáo diễn biến cuộc gặp mặt Bucharest, Bác Hồ rất
buồn. Bác dặn các anh trong Bộ chính trị không được nói tình hình không hay này cho ai biết cả,
ngay cả đối với các uỷ viên Trung ương Đảng. Bác nói Bác hy vọng một ngày nào đó những “bất
đồng” giữa các Đảng, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc sẽ được khắc phục, Liên Xô và
Trung Quốc sẽ đoàn kết trở lại. Liên Xô và Trung Quốc đoàn kết thì các Đảng khác sẽ đoàn kết.

Nhớ lại thời kỳ từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1960, Đảng ta và
nhân dân ta ngày đêm để hết tâm trí lo đánh thắng giặc Pháp và sau Hiệp nghị Genève 1954, để
hết tâm trí lo xây dựng miền Bắc, đấu tranh chống địch ở miền Nam, thống nhất tổ quốc. Không
còn thì giờ và cũng không có điều kiện để theo dõi tình hình nội bộ Liên Xô và Trung Quốc.
Chúng ta coi Liên Xô và Trung Quốc như những ông thánh không thể sai lầm (như người công
giáo nói Giáo hoàng là “Infaillible”). Chúng ta mong mọi việc đều êm đẹp, trong các nước ấy và
trong quan hệ giữa các nước ấy. Nói đến sai lầm của Liên Xô hay là của Trung Quốc là một điều
tối kỵ. Chả thế mà trong hội nghị Bộ chính trị Trung ương khoá II tại Việt Bắc năm 1954 để phổ
biến chủ trương sẽ ký hiệp nghị Genève, khi các anh em Khu 5 và Nam bộ không đồng tình lấy vĩ
tuyến 17 làm ranh giới tập kết tạm thời quân đội ta và Pháp thì các đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt, Tố Hữu đưa ra một luận điểm để trấn an: “Vĩ tuyến 17 là ý kiến của Liên Xô
và Trung Quốc, hai bộ óc vĩ đại sáng suốt nhất của thời đại”, chúng ta nên chấp hành thôi.

Cú sốc lớn đầu tiên đối với Đảng ta là tại Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô
Khrushev chống sùng bái cá nhân, báo cáo công khai sai lầm và độc ác của Stalin, người mà khi
chết chúng ta đã làm lễ truy điệu khắp nước trong các vùng giải phóng cũng như trong các chiến
khu: nước mắt dầm dề. Về Đại hội 20, chúng ta hầu như chấp nhận sự đánh giá của Trung Quốc:
Stalin công 7 tội 3. Chúng ta cũng mới nghĩ rằng bất đồng của hai nước lớn về đánh giá Stalin là
do Trung Quốc cho rằng chống sùng bái cá nhân Stalin là gián tiếp phê phán Trung Quốc là sùng
bái cá nhân Mao Trạch Đông.

Sau đó thì đối với Bộ chính trị và Trung ương Đảng và cả Đảng ta, vấn đề được xếp
lại một bên, để tập trung lo cho cuộc đấu tranh sinh tử gay gắt giải phóng miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Về phần tôi, trong những năm đi nghiên cứu học tập tại Viện Mác Lenin của Trung
Quốc ở Bắc Kinh và qua trò chuyện hàng ngày với các cố vấn Trung Quốc ta mời sang giúp ý
kiến về quản lý trường và giảng lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc tại trường Nguyễn Ái Quốc,
tôi hiểu được một số bất hoà, khó chịu lẫn nhau giữa Liên Xô và Trung Quốc. Trong cuộc đấu
tranh của Đảng cộng sản Trung Quốc chống Quốc Dân Đảng Trung Quốc và chống Nhật, Trung
Quốc cho rằng Stalin có những chỉ đạo sai lầm nghiêm trọng làm tổn hại lớn đến Đảng cộng sản
Trung Quốc: đó là những sai lầm hữu khuynh của Trần Độc Từ, Trương Quốc Đào, và đặc biệt là
những sai lầm “tả khuynh” của Vương Minh, Lý Lập Tam, làm cho Đảng cộng sản Trung Quốc
mất sạch căn cứ địa Tỉnh Cương Sơn và phải làm cuộc Vạn Lý Trường Chinh lên Diên An.

Những người ấy là do Quốc tế Cộng sản, về thực chất là do Stalin, chỉ định làm Tổng
bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc và đường lối sai lầm của họ chính là do Stalin chỉ thị. Lại nữa
trong suốt cuộc chiến tranh chống Nhật, Liên Xô chỉ chi viện cho Quốc Dân Đảng, chỉ sau này
khi giải phóng Mãn Châu, Liên Xô mới trao vũ khí tịch thu được của đội quân Quan Đông của
Nhật cho Đảng cộng sản Trung Quốc. Sự đánh giá của Trung Quốc về Stalin 7 công 3 tội, trong 3
tội có tội đối với Đảng cộng sản Trung Quốc. Chưa nói đến việc Liên Xô mặc nhiên hợp pháp
hoá việc Nga hoàng đã chiếm một phần rất lớn lãnh thổ Trung Quốc, theo các Hiệp định bất bình
đẳng với các Hoàng đế Trung Quốc. Năm 1950 sau khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Stalin
mời Mao Trạch Đông sang Moscow giảng hoà về những chuyện cũ và để bù lại, Liên Xô đã có sự
viện trợ kinh tế ồ ạt để cho Trung Quốc phát triển nhanh để “trò sẽ hơn thầy” (lời của Stalin nói
với Mao Trạch Đông). Quan hệ giữa hai nước sau cuộc gặp Stalin-Mao tiến triển tốt đẹp. Với sự
giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây dựng nhanh chóng một loạt
công trình công nghiệp nặng then chốt: nhiều nhà máy cơ khí nặng như nhà máy kéo Thẩm
Dương công suất 100 ngàn chiếc 45 ngựa/năm. Nhà máy ô-tô tải Trường Xuân công suất 100
ngàn chiếc/năm. Nhà máy luyện cán thép An Sơn 4 triệu tấn/năm. Các nhà máy công cụ nặng
Thẩm Dương và hàng loạt nhà máy lớn khác, Stalin nói với Mao là Liên Xô đã trao cho Trung
Quốc những kỹ thuật tiên tiến hơn những nhà máy hiện có của Liên Xô với mong mỏi là Trung
Quốc tiến nhanh hơn Liên Xô (học trò hơn thầy như trên đã nói). Có lẽ nên kể thêm một vài công
trình khác: cầu xe lửa và xe hơi hai tầng bắc qua sông Trường Giang (kiểu như cầu Thăng Long ta
bây giờ), khảo sát để thiết kế và xây dựng nhà máy thuỷ điện Tam Môn Hiệp lớn nhất thế giới
v.v... Xem sự hợp tác giữa hai nước rộng lớn như vậy, chúng ta ai còn hoài nghi gì nữa về mối
quan hệ giữa hai ông anh lớn?

Nhưng vào khoảng những năm cuối của thập kỷ 50, một loạt sự kiện quan trọng xảy
ra ở Trung Quốc trong đó đáng kể nhất là cuộc đại nhảy vọt và việc thành lập phổ biến các công
xã nhân dân do Mao Trạch Đông khởi xướng. Những người thuộc thế hệ chúng tôi không ai quên
việc Trung Quốc đăng báo Trung Quốc đã đạt được năng xuất lúa 40, 50 tấn/héc-ta/vụ bằng
phương pháp kỹ thuật cấy thật dày. Báo đăng các bức ảnh cả đoàn người đứng trên ruộng lúa, lúa
dày nhiều bông và hạt đến mức người đứng trên lúa nhảy múa mà lúa không đổ (đó là những hình
ảnh giả tạo, họ nhổ và xếp đứng khít nhau các khóm lúa đã chín giống như một số lúa địa phương
ở ta xếp lúa để đưa trâu lên đạp cho hạt lúa rụng ra). Mao nói là với năng suất đạt được như vậy,
chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ thừa lương thực đến mức mà phải chia đất ruộng ra làm ba phần:
1/3 trồng lúa, 1/3 trồng rừng, 1/3 làm vườn hoa. Một hình ảnh khác là cả nước thi đua làm sắt
thép, nhà nhà làm sắt thép, công xã làm sắt thép, cơ quan làm sắt thép, không có than thì lấy cả
thóc làm chất đốt. Trung Quốc sẽ đạt sản lượng hàng trăm triệu tấn sắt thép không bao lâu nữa.
Mao nói rằng kỹ thuật của Liên Xô là kỹ thuật tư bản, kỹ thuật của Trung Quốc là kỹ thuật cộng
sản. Trung Quốc sẽ tiến vào giai đoạn cộng sản chủ nghĩa trước Liên Xô, công nhân Trung Quốc
không tuân thủ các qui trình qui phạm kỹ thuật do chuyên gia Liên Xô lập ra theo mẫu của Liên
Xô, họ mở các phong trào thi đua áp dụng kỹ thuật cộng sản giữa công nhân Trung Quốc và
chuyên gia Liên Xô. Kết quả thi đua công nhân Trung Quốc luôn luôn được cờ đỏ, chuyên gia
Liên Xô luôn luôn phải nhận cờ vàng và cờ xanh.
Trước tình hình trên, trong nhiều phát biểu, Khrushev nói cái gọi là chủ nghĩa cộng
sản mà Trung Quốc định đi tới trước Liên Xô là chủ nghĩa cộng sản mặc quần đùi và ăn cháo,
Khrushev phê phán công xã nhân dân và đại nhảy vọt là chủ nghĩa phiêu lưu tiểu tư sản. Tệ hơn
nữa là trong một buổi chiêu đãi có đại sứ Trung Quốc dự, Khrushev đã nói Mao là ông già lẩm
cẩm rồi, nên nghỉ đi thôi. Khrushev đã đụng đến cái tối kỵ của Trung Quốc. Vì đối với Trung
Quốc, có thể chịu được sự nhận xét này nọ nhưng đụng đến Mao là không thể tha thứ được. Thế
là xảy ra chuyện Trung Quốc đuổi và Liên Xô rút chuyên gia về nước. Rồi Liên Xô xoá án xét lại
cho Nam Tư do Stalin phán quyết, thiết lập lại quan hệ về cả mặt Đảng và Nhà nước với Nam Tư.
Trung Quốc phản kích lại bằng bản tuyên ngôn dài “Bàn về chuyên chính vô sản và chủ nghĩa xét
lại Nam Tư”. Điều khá lạ lùng là trong các uỷ viên Trung ương Đảng ta, ngay cả trong Bộ chính
trị, nếu không phải là tất cả, thì hầu hết đều không hay biết gì về tình hình “bất hoà” trên đây giữa
hai Đảng lớn nhất.

Xin trở lại với năm 1960, với cuộc gặp mặt Bucharest. Không đạt được mục đích
trong cuộc gặp mặt Khrushev đề nghị triệu tập vào mùa thu năm 1960 tại Moscow một hội nghị
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao gồm tất cả các Đảng cộng sản và công nhân để
vạch ra đường lối của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đề nghị này được các Đảng có
mặt tán thành. Hội nghị gồm hai giai đoạn, giai đoạn trù bị để thảo văn kiện và giai đoạn chính
thức để thông qua văn kiện. Bộ chính trị quyết định cữ một đoàn đi dự hội nghị Moscow gồm 3
người: Lê Duẩn Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh uỷ viên
Bộ chính trị, 3 cây lý luận cừ khôi nhất của Đảng lúc bấy giờ. Lê Duẩn lại là người có tài ngoại
giao khôn khéo nữa. Thư ký của đoàn gồm 2 người: Trần Quang Huy, uỷ viên dự khuyết Trung
ương Đảng khoá III, chủ nhiệm tạp chí lý luận của Đảng Học tập và tôi (Trần Quỳnh). Sau khi
nghe Bác dặn dò, chủ yếu là phải giảng hoà để đoàn kết Liên Xô và Trung Quốc, đoàn lên đường.

Vào thời điểm bấy giờ phong trào cách mạng miền Nam đang bước sang một giai
đoạn mới. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15 (khoá II) của Trung ương Đảng, (mà cốt lõi là giải
phóng miền Nam không thể thực hiện bằng Tổng tuyển cử trong cả nước như Hội nghị Genève
năm 1954 qui định, mà phải thực hiện bằng con đường cách mạng bạo lực), nhân dân miền Nam
bị trói buộc và căm thù bị dồn nén lại mấy năm trời bởi chủ trương chờ tổng tuyển cử, nay tư
tưởng được giải phóng, đã vùng lên với khí thế xung thiên, nhất tề vùng dậy phá tan nguỵ quyền
làm chủ ấp xã trên qui mô lớn, bằng bạo lực chính trị là chính có kết hợp ở một mức độ nào đó
với bạo lực vũ trang. Ở đây nhân tiện xin nói thêm là Nghị quyết 15 là do Lê Duẩn khởi thảo dựa
trên “đề cương cách mạng miền Nam” mà Lê Duẩn đã cùng thảo luận và bàn bạc với các đồng
chí lãnh đạo ở miền Nam. Khi Lê Duẩn còn sống, trong Đảng ai cũng biết sự thật là như thế,
không thấy ai nói khác, và đó là sự thật. Nhưng nực cười thay sau khi Lê Duẩn đã qua đời, có
người tự vỗ ngực tuyên bố Nghị quyết 15 là sản phẩm trí tuệ của mình, chúng ta có dịp nói kỹ
vấn đề này sau.

Đoàn chúng tôi lên đường đi Moscow theo tuyến Bắc Kinh – Yarkust - Moscow. Lúc
bấy giờ đi Moscow từ Việt Nam bằng máy bay phải qua Bắc Kinh, chưa có tuyến bay khác. Đi
bằng máy bay cánh quạt loại nhỏ Il-14. Phải mất một ngày mới đến Bắc Kinh. Lần đầu tiên đi
máy bay tôi bị say máy bay nôn thốc nôn tháo đến Bắc Kinh không ăn uống gì được, nằm ngủ li
bì. Vài hôm sau từ Bắc Kinh đi Yarkust cũng bằng máy bay Il-14, có ghé Ulan-Bato. Quãng
đường từ Yarkust đến Moscow đi bằng máy bay Tu-104, máy bay phản lực chở khách đầu tiên
trên thế giới. Tu-104 bay rất nhanh và rất êm. Chiều đã đến Moscow (nửa đường có ghé qua
Omsk). Lúc bấy giờ từ Yarkust đến Omsk, dưới đất toàn là một màu xanh đậm của rừng thông bạt
ngàn, đôi chỗ xen lẫn với những đám rừng bạch dương (Trung Quốc gọi là bạch hoa dương), thân
trắng. (Năm 1986 có dịp bay từ Moscow đi Viễn Đông Liên Xô, tôi thấy rừng thông không còn
bao nhiêu, thế mới biết sức phá rừng ghê gớm của con người).

Lần đầu tiên tôi sang một nước châu Âu (tuy Liên Xô là nước Âu- Á, nhưng Moscow
ở phần châu Âu). Tôi muốn xem người châu Âu sống ra sao, ăn ở như thế nào. Dọc đường tôi
chăm chú nhìn đường đã hầu như vắng bóng người và xe cộ, hai bên đường nhà cao tầng liền kế
san sát, cửa sổ có ánh điện, tầng trệt kẻ các biển mà tôi chưa hiểu.

Tôi quên mất tên người đón đoàn chúng tôi ở sân bay. Đồng chí ấy đã quen Lê Duẩn
vì đã gặp mấy lần ở Moscow và Bucharest. Người hướng dẫn đoàn chúng tôi là Zelenxốp, chuyên
viên Ban đối ngoại Trung ương Đảng. Anh ấy nói tiếng Việt chưa tốt lắm (từ câu, chữ cho đến
phát âm). Anh ấy lúc bấy giờ đang làm luận án phó tiến sĩ kinh tế về đề tài Việt Nam. Đoàn chúng
tôi được đưa về ở một biệt thự trong rừng, phía tây thành phố, cách trung tâm độ 20km (gọi là
biệt thự bên kia sông). Sau này trong những chuyến đi Liên Xô khác, tôi ở đấy mấy lần). Biệt thự
hai tầng khá xinh, có tiền sảnh, phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phòng chiếu phim và chơi bi-a
và nhiều phòng ở. Rừng Moscow về mùa thu thật là đẹp. Lá cây thi đua khoe màu lộng lẫy, từ
màu vàng đến màu đỏ, qua nhiều nấc trung gian của các cây phong, cây sồi, cây bạch dương, xen
lẫn với màu xanh của những cây thông quanh năm lá không rụng. Trong rừng quanh nhà có nhiều
lối đi tráng nhựa. Đi dạo trong rừng thật là tuyệt. Trong nhà sưởi ấm, ra vườn dạo chơi thấy mát,
trong người khoan khoái dễ chịu vô cùng.

Ổn định xong sinh hoạt, chúng tôi nhận được dự thảo văn kiện (do phía Đảng chủ nhà
- Đảng cộng sản Liên Xô soạn thảo) bằng tiếng Nga và đã được dịch sang tiếng Việt. Đó là bản
“dự thảo về tuyên bố của hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân”. Lê Duẩn đề nghị 2 anh
Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh cố gắng xem kỹ và đặc biệt là hai thư ký phải xem thật kỹ.

Tôi biết là ra đi để đến dự hội nghị, đối với Lê Duẩn, cuộc cách mạng đang lên mạnh
thành phong trào đồng khởi ở miền Nam là nỗi lo âu canh cánh bên lòng. Trước khi đi, anh đã
dặn kỹ các đồng chí trong ban bí thư thuờng xuyên điện cho anh biết tình hình trong nước, đặc
biệt là tình hình miền Nam. Đêm nằm anh vẫn suy nghĩ về miền Nam, sáng dậy gặp chúng tôi,
câu chuyện anh nói đầu tiên là những suy nghĩ mới về miền Nam đã đến với anh đêm hôm qua,
tôi hiểu điều đó chứng tỏ anh ngủ rất ít và có thể không ngủ. Tuy vậy người anh rất tỉnh táo, và
anh gặp chúng tôi là để giải bày tâm sự, để đối thoại nhưng thực ra là độc thoại, để thông qua đối
thoại mà định hình ý nghĩ của anh. Tôi không nói về Bác Hồ. Tôi muốn nói có một người khác cả
ngày lẫn đêm, lúc ăn cũng như lúc ngủ, không bao giờ không nghĩ đến miền Nam. Thời điểm lúc
bây giờ, cũng như mấy năm trước đó và mãi đến sau này, cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, con người ấy, không một phút nào - tôi nói một phút là đúng nghĩa 1 giây nhân sáu mươi,
đúng nghĩa 60 giây, không lo lắng cho miền Nam, phấn khởi trước mọi thắng lợi, lòng đau như
cắt trước mọi thất bại và tổn thất tạm thời. Nhưng không bao giờ người ấy phô trương, dàn cảnh
vui buồn, mừng rỡ và đau khổ của mình, dàn cảnh chăm lo đến cách mạng miền Nam cho người
ta quay phim chụp ảnh đăng báo. Người đó là Lê Duẩn.

Trái với một số người, Lê Duẩn ít khi, nếu không phải là không bao giờ, cố ý bố trí
chụp ảnh anh để tuyên truyền. Sau này khi hiểu về anh nhiều hơn, tôi thấy với cương vị là người
được Bộ chính trị và Bác Hồ phân công phụ trách chỉ đạo cuộc cách mạng miền Nam, anh là
người rất quyết đoán, những chủ trương đối với cách mạng miền Nam mà anh cho là đúng, anh
kiên trì đến cùng, đến mức như “cứng đầu”. Anh thường nói với tôi: cái gì có lợi cho cách mạng
thì khó mấy mình cũng làm, ai phản đối, thậm chí chửi mình, mình cũng cứ làm. Làm cách mạng
là vì sự nghiệp cách mạng mà làm, đâu có phải vì lợi ích và danh vọng cá nhân. Có khá nhiều
người cho rằng Lê Duẩn hay thay đổi ý kiến, cái đó đúng. Vì anh rất biện chứng, anh nắm phép
biện chứng rất vững. Đầu óc anh luôn luôn suy nghĩ, luôn luôn thấy cái mới. Hôm nay nói nói thế
này, đêm nằm suy nghĩ lại thấy ý hôm qua chưa đúng, chưa toàn diện, sáng ngày sau anh nói khác
lại ngay. Có chủ trương rồi, nhưng tình hình thay đổi, anh phát biểu lại ngay. Anh không cố chấp.
Anh hay lấy Lenin làm ví dụ, nhất là thời gian từ cách mạng tháng 2 đến cách mạng tháng 10
năm 1917. Lenin đã thay đổi khẩu hiệu đấu tranh mấy lần. Tháng 2: “Toàn bộ chính quyền về tay
Xô viết”. Tháng 7: rút lại khẩu hiệu ấy đề ra cách mạng XHCN bằng bạo lực. Tháng 8: khẩu hiệu
tích cực chuẩn bị khởi nghĩa. Tháng 9: lại đưa ra khẩu hiệu “tất cả chính quyền về tay Xô viết”.
Tháng 10: khởi nghĩa vũ trang. hay đang làm kinh tế cộng sản thời chiến, chuyển sang chính sách
tân kinh tế (NEP). Những vấn đề này sau này tôi sẽ có dịp nói kỹ.

Bây giờ ta trở lại với công việc ở biệt thự ngoại ô Moscow.

Cả đoàn nhận được tài liệu hội nghị độ một ngày. Sáng sớm hôm sau, anh Ba vào
phòng anh Huy và tôi (2 chúng tôi ở chung một phòng 2 giường, còn các anh thì mỗi người một
phòng). Anh hỏi hai chú đọc xong tài liệu chưa? Chúng tôi chưa kịp trả lời thì anh nói ngay:
Chúng ta dự hội nghị này phải đạt cho được hai mục đích: một là có một văn kiện của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có lợi cho cuộc cách mạng miền Nam của ta, điều đó rất quan
trọng, vì đấy là tiếng nói chung của tất cả những người cộng sản trên thế giới, trong đó có 2 nước
lớn. Hai là phải chận đứng ý đồ phân liệt, vì điều đó rất có hại cho ta và gây thiệt hại khó lường
cho cách mạng thế giới. Tôi xem qua thấy văn kiện không đạt được 2 điều ấy. Vậy hai chú phải
đọc cho thật kỹ và chẩn bị ý kiến cho đoàn ta phát biểu trước hội nghị. Rồi anh chuyển sang nói
về cách mạng miền Nam, anh phân tích toàn diện cuộc đấu tranh ở miền Nam, từ lực lượng so
sánh đến phương pháp đấu tranh, và anh nói một cách cương quyết: Ta nhất định thắng Mỹ -
Diệm. Anh nói tiếp về cách đánh giá và thái độ của các nước lớn và các Đảng ở các nước tư bản
đối với cuộc cách mạng của chúng ta. Họ nghĩ ta là nước nhỏ, cách mạng nước ta không phải là
một nhân tố đáng kể trong các nhân tố quan trọng quyết định chiều hướng phát triển của thế giới.
Ta nghĩ rằng chiến thắng Điện Biên Phủ của ta đã đánh một đòn trí mạng vào chủ nghĩa thực dân
cũ và mở đầu quá trình tan rã của nó. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc thì nghĩ khác. Liên Xô cho
ta thắng được là nhờ vũ khí, khí tài của Liên Xô, còn Trung Quốc thì còn cho rằng thắng lợi của
ta đạt được còn là do họ chỉ huy dùm cho ta. Ta thắng chỉ đỡ cho họ một mối lo thôi. Nhất là đối
với Liên Xô và các Đảng ở các nước tư bản phát triển, họ cho rằng chính sự lớn mạnh của Liên
Xô, của phong trào các nước tư bản lớn mới là những nhân tố có tác dụng quyết định nhất.

Chúng tôi được thông báo là tổng số các Đảng đến tham dự hội nghị là 81. Vắng mặt
là những Đảng hoạt động bí mật đặc biệt là trong các nước đang phát triển. Cầm đầu các đoàn là
các đồng chí đứng hàng thứ nhất, thứ hai của Đảng. Cầm đầu đoàn Liên Xô là Suslov, đoàn Trung
Quốc là Đặng Tiểu Bình, đoàn Pháp là Jacques Duclos (hay Gaston Plissonnie). Những nhân vật
nổi bật khác là Ponomanov (Liên Xô), Khang Sinh (Trung Quốc). Hội nghị họp tại phòng lớn
(phòng khánh tiết) của cung điện Kremlin, một căn phòng thật mênh mông và lộng lẫy. Phía các
cửa sổ là phía quay ra ngoài trời, các cửa sổ đều buông rèm dày 2, 3 lớp, ánh sáng bên ngoài
không lọt vào được. Tuy vậy, phòng họp được các chùm đèn treo khổng lồ và các đèn gắn vào các
cột và vào các phía tường chiếu sáng như cảnh ngoài trời, rất sáng nhưng không chói mắt. Một hệ
thống thông gió làm cho không khí phòng luôn luôn mát mẽ. Các bàn họp bố trí theo hình vuông.
Dãy trước là bàn của các trưởng đoàn và đoàn, dãy sau là của các thư ký, các nhân viên khác tháp
tùng các đoàn. Các đoàn viên chính thức, các thư ký đi từ nhà ở đến chỗ họp bằng xe Chaika. Đó
là xe mới nhất bấy giờ của Liên Xô, thay đổi tốc độ tự động. Đoàn ta đi một xe là vừa. Ghế cuối
cùng đủ 3 anh, 2 ghế giữa đó là 2 thư ký của đoàn và phiên dịch. Phía trước bên cạnh lái xe là
Zelenxốp. Đường đi được bố trí khá khoa học. Bằng điện thoại, công an đã kịp thời biết xe đoàn
sắp đến ra lệnh cho các chốt ngã tư bật đèn xanh. Thành thử, từ nhà đến Kremli, gặp toàn là đèn
xanh. Những nơi đi ngược chiều cũng bật đèn xanh cho đoàn đi. Từ nhà ra đi chỉ vèo mười mấy
phút là đến nơi. Không bao giờ đến sớm và muộn. Khi tôi nói thời tiết mùa thu Moscow rất đẹp là
tôi muốn nói về rừng và cây. Còn trời thì luôn luôn đầy mây, lại mưa, mưa không lớn nhưng mưa
cả ngày giống như cuối xuân đầu hè ở Hà Nội.

Mỗi ngày họp suốt từ 10 giờ sáng đến 9-10 giờ đêm. Ăn giữa buổi và ăn trưa tại điện
Kremli. Tôi quên nói là bên cạnh phòng họp, có nhiều phòng ăn nhỏ. Ở đây luôn luôn có người
phục vụ. Có đủ loại thức ăn. Nguội có, nóng có. Thịt có, cá có. Trái cây đủ loại. Rượu, cà phê,
chè, nước suối. Đang họp thấy khát hoặc đói có thể sang phòng ăn, vừa ăn vừa thư giản. Hội nghị
kéo dài gần một tháng. Ngày nào cũng giống ngày nào, đi họp trời mới sáng, khi rời phòng họp
tưởng còn ban ngày, hoá ra màn đêm buông xuống đã lâu, thành phố từ lâu đã lên đèn, mình ngồi
trong phòng họp, mất cảm giác về ngày và đêm. Mấy hôm đầu buồn ngủ, nhưng sau quen dần.

Suslov khai mạc cuộc họp. Chào mừng các đại biểu, giới thiệu thành viên của từng
đoàn. Cám ơn tất cả đã đến dự. Suslov nói là Liên Xô, phía chủ nhà có dự thảo văn kiện trình đại
hội, Đảng nào có ý kiến gì, có tài liệu gì khác thì xin trình cho đại hội xem xét. Các đoàn lần lượt
phát biểu ý kiến, đều tán thành lấy tài liệu của Liên Xô làm cơ sở để thảo luận. Các đoàn cử đoàn
Liên Xô làm chủ tịch hội nghị, điểu khiển cuộc thảo luận. Cách thảo luận là lấy nguyên vẹn từng
đoạn một của dự thảo, rồi từng đoàn nêu lên ý kiến của mình, nêu ra phương án cụ thể sửa chữ,
hoặc sửa cụm từ, câu hoặc cả đoạn, nghĩa là không phải tranh luận trực tiếp từng quan điểm mà
tranh luận quan điểm qua cách sửa từ, cụm từ và câu. Nói chung là thế nhưng có lúc lại trực tiếp
tranh luận về quan điểm, phê phán lẫn nhau về quan điểm. Sau khi đoàn phát biểu, ban thư ký của
hội nghị (Liên Xô phụ trách) in ngay cả đoạn mà đoàn đề nghị sửa đổi, phát ngay cho mỗi đoàn
xem. Sau khi tất cả các đoàn phát biểu xong, đoàn Liên Xô phát biểu và dự thảo lại đoạn văn ấy
có tính đến các ý kiến của các đoàn và đưa ra hỏi ý kiến của các đoàn. Nếu tất cả đồng ý thì cho
qua, nếu có ý kiến khác thì tiếp tục thảo luận lại những ý khác nhau ấy. Có những cụm từ, đoạn
văn thảo luận đi thảo luận lại mãi mấy buổi liền. Cuối cùng không nhất trí được thì gác lại, để về
sau thảo luận lại, và nếu cũng không nhất trí được thì đưa ra hội nghị chính thức các nhà lãnh đạo
cao nhất của các Đảng. Nguyên tắc của hội nghị là phải đạt được sự nhất trí chứ không phải biểu
quyết theo đa số để thông qua.

Những vấn đề mà văn kiện của Liên Xô đưa ra để thảo luận là: Nhận định về thời đại;
vấn đề chiến tranh và hoà bình; vấn đề tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước; vấn đề xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vấn đề đấu tranh của giai cấp công nhân; vấn đề phong trào
giải phóng dân tộc; vấn đề quan hệ giữa các Đảng cộng sản và công nhân; vấn đề xét lại và giáo
điều... Điều đáng chú ý nhất là văn kiện của Liên Xô xem rất nhẹ vai trò của đấu tranh giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc của đế quốc, đối với tiến trình phát triển của xã hội
loài người trong thời đại hiện nay. Văn kiện quá cường điệu vai trò của vũ khí hạt nhân, sự lo sợ
về nguy cơ chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân, nhấn mạnh sự bức thiết của công cuộc bảo vệ hoà
bình; vì sự xuất hiện khả năng huỷ diệt của vũ khí hạt nhân. Mặt khác cũng vì một cuộc chiến
tranh bằng vũ khí hạt nhân sẽ huỷ diệt cả nhân loại, một điều mà ai cũng muốn tránh cho nên lần
đầu tiên đã xuất hiện khả năng ngăn ngừa chiến tranh. Yếu tố vũ khí hạt nhân làm nản lòng những
kẻ hiếu chiến được nêu lên một cách nỗi bật, trong lúc đó tác dụng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
của cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc không được coi trọng đúng mức. Các cuộc chiến
tranh dù là cục bộ cũng có thể phát triển thành chiến tranh hạt nhân huỷ diệt cho nên các nước có
chế độ xã hội khác nhau chỉ có một con đường là chung sống hoà bình. Đối với các cuộc chiến
tranh cách mạng cũng vậy, chiến tranh dù nhỏ cũng sẽ phát triển thành chiến tranh lớn, chiến
tranh hạt nhân, một đốm lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng, cho nên cần hết sức tránh dùng
phương pháp đấu tranh vũ trang. Vả lại với sự thay đổi lực lượng so sánh trên thế giới, với sự lớn
mạnh của cộng đồng các nước XHCN, với việc Mỹ mất độc quyền về vũ khí hạt nhân, với cuộc
cách mạng khoa học mới mà hệ quả là sự phát triển ngày càng cao của các lực lượng sản xuất
đem đến những thay đổi căn bản trong các nước tư bản v.v... đã xuất hiện khả năng quá độ hoà
bình lên CNXH trong lòng các nước tư bản. Vì những lẽ trên đây, giữa các nước thuộc cộng đồng
XHCN và các nước tư bản vấn đề ai thắng ai sẽ giải quyết bằng thi đua hoà bình, xây dựng kinh
tế, phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo ra tính
ưu việt chế độ, chế độ nào trong cuộc thi đua ấy tỏ ra ưu việt hơn sẽ cuốn hút được đa số nhân
dân và sẽ chiến thắng.

Rõ ràng văn kiện của phía Liên Xô là một cương lĩnh thủ tiêu đấu tranh giai cấp ở
toàn quyền, trong phạm vi từng nước cũng như trong phạm vi toàn thế giới, là một cương lĩnh của
chủ nghĩa xét lại.

Và để bảo vệ cho quan điểm xét lại này, trong văn kiện của Liên Xô có một mục nói
về nguy cơ của chủ nghĩa giáo điều trong phong trào cộng sản quốc tế. Trong hội nghị khi Trung
Quốc nói đến chủ nghĩa xét lại hiện đại thì đó là một cách ám chỉ Liên Xô, và ngược lại khi Liên
Xô nói đến chủ nghĩa giáo điều thì đó là ám chỉ Trung Quốc. Ở thời điểm hội nghị, Đảng ta chưa
được phong tặng danh hiệu giáo điều.

Rõ ràng là những quan điểm trên đây nếu được thông qua sẽ là một đòn mạnh đánh
vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam của ta. Cuộc đấu tranh ấy lúc bấy giờ còn mang tính
chất chính trị, dùng bạo lực chính trị tiến hành khởi nghĩa từng phần, đập tan ách kìm kẹp của
địch làm chủ nhiều vùng nông thôn. Tuy rằng cuộc đồng khởi đó đã có những nhân tố bạo lực vũ
trang, nhưng bạo lực chính trị vẫn là chính. Cách mạng còn tương đối “hoà bình”. Nhưng Lê
Duẩn dự kiến là nhân tố vũ trang sẽ tăng lên và đóng vai trò càng quan trọng hơn. Ta chủ trương
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa cục bộ kết hợp công kích cục bộ
tiến lên tổng công kích tổng khởi nghĩa. Nếu tổng khởi nghĩa tổng công kích thắng lợi, nhưng
địch phản kích lại thì cũng khó tránh chiến tranh để giữ thành quả của cách mạng. Cuộc cách
mạng tháng 10 Nga và cuộc cách mạng tháng 8 của ta diễn ra tương đối “hoà bình”, nhưng sau đó
ta phải đánh Pháp 9 năm mới đến Điện Biên Phủ. Sau cách mạng tháng 10 Nga, Nga cũng phải
trải qua 3 năm nội chiến.

Với tình hình cách mạng Việt Nam như thế, rồi đây chúng ta sẽ bị lên án là hiếu chiến
không chừng bị khai trừ ra khỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế như Nam Tư đã bị khi
tiến hành xây dựng CNXH theo mô hình khác. Nói chung, ta không phản đối chung sống hoà
bình, đó là chung sống hoà bình giữa Liên Xô và Mỹ, giữa cộng đồng XHCN và phe tư bản chủ
nghĩa, giữa các nước độc lập có chế độ xã hội khác nhau. Song không thể có chung sống hoà bình
giữa nước xâm lược và dân tộc bị áp bức, bị xâm lược.

Anh Thanh nói thêm: Đây là thuyết “hội tụ” của bọn học giả tư sản. Chúng ta kiên
quyết không chịu.

Tình hình tranh cải căng thẳng trong hội nghị không thể tránh khỏi. Đầu tiên là Trung
Quốc, vì những lý do riêng của họ, họ phản đối cái mà về sau này họ gọi gọn là 3 “hoà” (chung
sống hoà bình, thi đua hoà bình, quá độ hoà bình), chưa nói đến các vấn đề khác, họ đang trong
tình trạng chiến tranh với ấn Độ, đang chủ trương giải phóng Đài Loan. Cái làm họ giận dữ nhất
là chống chủ nghĩa giáo điều. Họ hiểu đó là ám chỉ phong trào công xã nhân dân, cuộc đại nhảy
vọt, 3 ngọn cờ hồng và công kích đích thân họ Mao. Vì vậy, từ đầu đến cuối họ phát biểu với thái
độ lên án Liên Xô rất gay gắt. Họ gọi quan điểm của Liên Xô là chủ nghĩa xét lại hiện đại, để
phân biệt với chủ nghĩa xét lại của Nam Tư.
Về phía ta, lập trường của ta do Lê Duẩn nêu ra và được Nguyễn Chí Thanh nhất trí,
đã rõ ràng. Nhưng cái phiền toái cho đoàn ta là trên nhiều vấn đề mà quan điểm của Liên Xô có
sai trái thì Trường Chinh lại tán thành.

Trong khi anh Trần Quang Huy và tôi chuẩn bị những bài phát biểu cho đoàn, theo sự
chỉ đạo của Lê Duẩn thì Trường Chinh nhắn Vũ Tuấn đến gặp. Vũ Tuấn lúc ấy đang học tại
trường Đảng Liên Xô. Vũ Tuấn được Trường Chinh chỉ thị là phải họp bàn với các anh khác đang
cùng học ở trường Đảng thảo luận và chuẩn bị các bài phát biểu cho anh ấy. Vũ Tuấn và các bạn
của anh ấy, được nghe giảng ở trường và tất nhiên là các bài giảng và tài liệu nghiên cứu cho học
viên đều thể hiện các quan điểm của Đảng Liên Xô, và đều tiếp thu các quan điểm ấy. Thành thử
mỗi buổi sáng (chúng tôi và các anh lãnh đạo phải dậy sớm ngược với tập quán của người Nga,
để nghe đọc các bài phát biểu do 2 chúng tôi, Huy và tôi chuẩn bị ban đêm). Khi thảo luận nội
dung phát biểu của đoàn thì Trường Chinh có sẵn đề nghị về nội dung phát biểu. Giữa ba anh lãnh
đạo phải trao đổi khá gay go với nhau. Nhưng cuối cùng phương án của Trường Chinh lúc nào
cũng không được chấp nhận. Vì Trường Chinh bị thiểu số, vả lại Lê Duẩn là trưởng đoàn. Lê
Duẩn đồng ý sửa lại một số câu văn, một số chữ cho có vẻ là tiếp thu ý kiến của Trường Chinh,
nhưng về thực chất thì tinh thần của bài phát biểu của đoàn không thay đổi.

Tôi hiểu vì sao Trường Chinh hành động như vậy. Một là anh ấy rất “căm” Trung
Quốc vì anh cho rằng Trung Quốc đã xúi anh phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức cớ đó mà bị kỷ luật, buộc phải thôi giữ chức Tổng bí thư lúc bấy giờ, đó là lý do chính.
Hai là anh ấy không bằng lòng với Lê Duẩn vì Lê Duẩn đã thay thế anh làm bí thư thứ nhất của
Đảng, sự không bằng lòng này sau này bộc lộ ra một cách mãnh liệt, vấn đề này sau này sẽ nói.
Cũng vì vậy mà đoạn tài liệu của Liên Xô về vấn đề “giáo điều và xét lại” thì anh ấy phê phán rất
gay gắt và lên án rất mạnh mẽ chủ nghĩa giáo điều như trong dự thảo văn kiện của Liên Xô, mà ai
cũng biết do ta phê phán và lên án Trung Quốc. Anh ấy viết chủ nghĩa giáo điều biểu hiện ở chủ
trương công xã nhân dân, đại nhảy vọt, trong việc không thấy sự biến đổi của thế giới mà vẫn
bám lấy cái ý kiến đấu tranh giai cấp chiến tranh cách mạng.

Chúng ta thử tưởng tượng nếu đoàn ta chấp nhận phát biểu của Trường Chinh thì quan
hệ giữa ta và Trung Quốc sẽ thế nào, quan hệ với một nước cùng chung biên giới với ta ở sau
lưng ta, một nước mà lãnh tụ đã từng tuyên bố: “ai tốt với tôi một, tôi sẽ tốt lại hai; ai xấu với tôi
một, tôi sẽ xấu lại mười”? Vì những lý do lý luận, và cũng vì những lý do thực tiễn hay thực
dụng, Lê Duẩn không thể đồng tình với đề án của Trường Chinh. Nguyễn Chí Thanh cũng đồng ý
với Lê Duẩn.

Nội dung phát biểu của đoàn ta trong hội nghị có thể tóm tắt như sau:
Về thời đại, chúng ta đồng ý nội dung cơ bản của thời đại là quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu tư cách mạng tháng 10 Nga v.v... ý
kiến quan trọng nhất của chúng ta là: “Ba dòng thác cách mạng của thời đại đang ở thế tấn công”.
Ba dòng thác ấy là: “Cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội phát triển
của các nước XHCN - Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các
nước đế quốc và tư bản nhằm chống lại mưu mô và hành động xâm lược và gây chiến của các thế
lực phản động, chống áp bức bóc lột, giành dân chủ và tiến bộ xã hội - Cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc”. Vì vậy khi nói về những nhân tố quyết định nội dung
chủ yếu, những phương hướng chủ yếu và những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay thì
ngoài vai trò của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội phát triển trong các
nước XHCN, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản, ta đề nghị nói
thêm và nhấn mạnh vai trò của phong trào đấu tranh của các nước á, Phi, Mỹ Latinh chống chủ
nghĩa thực dân cũ và mới giành độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Về chiến tranh và hoà bình. Chiến tranh bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Khi đế quốc nắm độc quyền về vũ khí hạt nhân chúng trở nên hiếu chiến hơn, và nguy cơ chiến
tranh tăng lên. Nhưng do những biến đổi trong lực lượng so sánh trên hướng quốc tế, cùng với sự
lớn mạnh của cộng đồng XHCN, cùng với việc Liên Xô (lúc ấy Trung Quốc chưa công bố là có
vũ khí hạt nhân), phá thế độc quyền của Mỹ và một số nước đế quốc chủ nghĩa khác về vũ khí hạt
nhân, cùng với việc Liên Xô và các nước trong cộng đồng XHCN đạt được thế cân bằng với các
nước đế quốc về lực lượng quân sự, cùng với ý thức giác ngộ, và phong trào đấu tranh ngày càng
mạnh của phong trào công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào chống
chiến tranh đòi hoà bình của nhân dân thế giới... đã xuất hiện khả năng hiện thực ngăn ngừa chiến
tranh thế giới mới. Tuy vậy, chiến tranh thế giới vẫn chưa bị loại trừ hẳn. Ta đồng ý ngày nay chủ
nghĩa đế quốc không thể muốn làm gì thì làm như trước. Nhưng nếu những mâu thuẩn giữa chủ
nghĩa tư bản và các nước XHCN, cũng như giữa các nước đế quốc với nhau phát triển đến mức
không điều hoà được bằng các biện pháp khác thì chưa thể loại trừ hẳn khả năng chủ nghĩa đế
quốc dùng biện pháp chiến tranh để giải quyết. Vì vậy phải luôn luôn cảnh giác. Có khả năng
ngăn ngừa chiến tranh thế giới không có nghĩa là có khả năng và cần ngăn ngừa mọi cuộc chiến
tranh. Các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn có thể xảy ra. Chủ trương ngăn ngừa chiến tranh thế giới
không có nghĩa là, và tuyệt đối không có nghĩa là, ngăn cản các cuộc chiến tranh giải phóng, các
cuộc chiến tranh để bảo vệ thành quả cách mạng. Hoàn toàn sai lầm nếu cho rằng mọi cuộc chiến
tranh cục bộ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ thành quả cách mạng của các nước đều sẽ
biến thành chiến tranh thế giới. Nhận định này sẽ dẫn đến lên án và ngăn chặn các dân tộc dùng
chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng để tự giải phóng và bảo vệ các thành quả cách
mạng của mình, trói buộc chân tay của các dân tộc đó.

Chúng ta không đánh giá thấp tiềm năng huỷ diệt vô cùng to lớn của vũ khí hạt nhân,
nhưng chúng ta không đặt tác dụng của việc tạo được thế cân bằng về vũ khí hạt nhân giữa Liên
Xô và Mỹ lên vị trí quá cao, thậm chí là quyết định nhất trong việc tạo ra khả năng ngăn ngừa
chiến tranh thế giới mới. Chúng ta cũng phản đối thái độ sợ sệt quá đáng chiến tranh hạt nhân,
cho rằng mọi cuộc chiến tranh đều có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân. Theo ta vũ khí hạt nhân
có vai trò răn đe, vì nếu chiến tranh hạt nhân giữa hai phía xảy ra, thì dù chỉ một phía sử dụng vũ
khí hạt nhân (điều này chắc là không thể có) cả hai phía đều bị chung số phận: bị tiêu diệt. Cho
nên nếu phải tiến hành chiến tranh, thì các bên chỉ dùng vũ khí qui ước. Và cũng vì vậy mà chúng
ta nghĩ rằng khả năng xảy ra chiến tranh thế giới bằng vũ khí qui ước không phải đã hoàn toàn
loại trừ. Các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh để bảo vệ thành quả cách mạng
không thể trở thành chiến tranh thế giới. Chủ nghĩa đế quốc là nguồn gốc của chiến tranh. Bảo vệ
hoà bình không đơn thuần và không phải chủ yếu là chung sống hoà bình và thi đua hoà bình, mà
cơ bản là một cuộc đấu tranh cách mạng. Cần đẩy mạnh cuộc tiến công của ba dòng thác cách
mạng, đẩy lùi từng bước, đánh đỏ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, làm cho chủ nghĩa đế quốc bị
suy yếu khả năng gây chiến của chúng ngày càng giảm sút. Và nếu các cuộc cách mạng tiến công
tiến hành tốt, có hiệu quả thì đến một lúc nào đó, chủ nghĩa đế quốc sẽ bị suy yếu đến mức mà
chúng không còn là mối đe doạ cho hoà bình. Tăng cường lực lượng về mọi mặt hệ thống xã hội
chủ nghĩa làm chỗ dựa vững chắc cho các cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa
đế quốc; đẩy mạnh phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh vào sân sau của chủ nghĩa đế
quốc và tư bản. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các
nước tư bản đòi các quyền lợi cơ bản, vì dân chủ và tiến bộ xã hội, đẩy mạnh cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới chống chiến tranh đế quốc, đồng thời chung sống hoà bình và thi đua hoà bình,
đó là nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hoà bình thế giới.
Chúng ta không thể có hoà bình bằng cách nhân nhượng vô nguyên tắc chủ nghĩa đế quốc, đồng
thời phải tránh những hành động phiêu lưu, mạo hiểm. Ngay từ hội nghị Băng Đung, chúng ta
cũng đã cùng các nước đề ra 5 nguyên tắc chung sống hoà bình. Chung sống hoà bình là chung
sống giữa các nước XHCN và các nước đế quốc, tư bản, chung sống giữa các nước mới được giải
phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới với nhau. Không thể có chung sống
hoà bình giữa chủ nghĩa đế quốc và những dân tộc và giai cấp bị chúng áp bức và bóc lột.

Các Mác có nêu ra khả năng quá độ lên CNXH bằng con đường hoà bình, trong
những hoàn cảnh nhất định, bằng cách “mua lại” chủ nghĩa tư bản, khi lực lượng so sánh giữa chủ
nghĩa đế quốc trên phạm vi thế giới và trong từng nước đã chênh lệch đến mức mà các giai cấp
thống trị thấy chuyển chính quyền cho nhân dân lao động, là có lợi hơn cho chúng hơn là chống
cự để bị lực lượng hùng hậu của nhân dân đè bẹp. Cũng có thể xảy ra tình hình là cách mạng
XHCN đã thắng lợi ở hầu hết các nước tư bản; chỉ còn lại một vài nước lẻ loi, ở đó có khả năng
dành thắng lợi cho cách mạng một cách hoà bình. Nhưng nay chưa đến lúc có tình hình như thế.
Chủ nghĩa đế quốc, tư bản còn mạnh, chúng cố bám lấy quyền lợi của chúng và chúng thấy khả
năng có thể bám lấy quyền lợi. Hơn nữa chúng muốn bành trướng ra các nước khác. Do đó chỉ có
cách dùng bạo lực cách mạng bao gồm bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang mới thắng được sự
ngoan cố của chủ nghĩa đế quốc, đè bẹp sự kháng cự của chúng, giành lại chính quyền về tay
nhân dân. Nói cách mạng hoà bình là nói cách mạng diễn ra tương đối ít đổ máu nhưng đó không
phải là sự quá độ hoà bình theo cách nghĩ của Liên Xô. Kinh nghiệm bản thân chúng ta cho thấy
cuộc cách mạng tháng 8 của Việt Nam xảy ra một cách tương đối hoà bình do lực lượng thống trị
lúc bấy giờ là quân đội Nhật đã bị quân đội Liên Xô đánh tan, nước Nhật đã đầu hàng quân Đồng
Minh, quân đội Nhật ở Việt Nam thấy chống cự lại cách mạng Việt Nam vô ích. Song sau khi ta
giành được chính quyền rồi thì lập tức quân Pháp nhảy vào hòng lập lại chế độ đô hộ thực dân
của Pháp, buộc ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng ròng rã 9 năm mới đuổi được thực dân
Pháp ra khỏi một nửa nước. Có ý kiến cho rằng ngày nay dưới sự tác động của cách mạng khoa
học kỹ thuật, lực lượng sản xuất trong cả 2 phe phát triển với tốc độ cao xưa nay chưa từng có,
kéo theo sự thay đổi quan hệ sản xuất theo hướng xã hội hoá ngày càng cao, sự khác biệt giữa chế
độ XHCN và chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như sai lệch giữa lợi ích của giai cấp tư bản và giai
cấp công nhân và các từng lớp lao động khác ngày càng thu hẹp lại, sự tương đồng ngày càng lớn,
đến một lúc nào đó giai cấp tư bản tự thấy sự tồn tại của chúng là lỗi thời, lúc đó chúng dễ dàng
chấp nhận chuyển nền thống trị của chúng cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Về ý
kiến đó, chúng ta cho rằng, ngày được nói trên đây còn xa vời, và đến lúc đó chưa rõ sự tranh
chấp giữa đại đa số nhân dân và giai cấp tư bản sẽ được giải quyết ra sao: trước mặt sự cách biệt
giữa 2 chế độ xã hội còn rất lớn, sự cách biệt giữa lợi ích của giai cấp tư bản và đa số nhân dân
cũng còn rất lớn. Trong tình hình trước mắt, để chiến thắng sự ngoan cố của giai cấp tư bản trong
việc bám chặt lấy quyền lợi của chúng, chỉ có con đường là làm cách mạng, là sử dụng bạo lực
cách mạng. Cuộc đấu tranh giai cấp còn gay go, quyết liệt. Đề ra chủ trương quá độ hoà bình lên
CNXH như là một tất yếu của lịch sử là thủ tiêu đấu tranh giai cấp, thủ tiêu cách mạng, trói tay
trói chân giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sợ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dẫn đến chiến tranh cục bộ và cuối cùng là chiến tranh thế giới là
không có căn cứ. Mở rộng khái niệm quá độ hoà bình sang các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
càng không đúng và có hại.
Về thi đua hoà bình, ta đề nghị xem đó là một khẩu hiệu để vạch trần những hành
động hiếu chiến, phá hoại các nước XHCN bằng nhiều thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta
cho rằng giữa các nước XHCN và tư bản chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh ai thắng ai bằng cách
xây dựng tốt CNXH, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần, văn hoá của nhân dân, làm
cho CNXH ngày càng tỏ rõ tính ưu việt về mọi mặt của mình, bằng cách không ngừng tăng
cường khả năng quốc phòng sẵn sàng đập tan mọi âm mưu khiêu khích và tấn công của chủ nghĩa
tư bản, bằng cách giúp đỡ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các
nước tư sản chủ nghĩa giành dân chủ và tiến bộ xã hội, giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc.
Giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không thể có thi đua hoà bình. Gói cả những trường hợp
như miền Bắc và miền Nam Việt Nam vào phạm trù thi đua hoà bình là giải giáp nhân dân cả 2
miền đang dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ nguỵ quyền miền Nam và can thiệp Mỹ, thống
nhất đất nước.

Vấn đề chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại. Chúng ta cho rằng chủ nghĩa
giáo điều hay chủ nghĩa xét lại đều là xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lenin, đều là nguy cơ hiện thực
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ nghĩa giáo điều không nắm vững quan điểm
duy vật biện chứng để xem xét tình hình, không nắm vững nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, để xử lý và giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách
mạng. Nó bám lấy những công thức sẵn có, nó bắt chước một cách máy móc kinh nghiệm thực
tiễn của các Đảng, chứ không xuất phát từ thực tiễn của đất nước mình để giải quyết những vấn
đề do cách mạng nước mình đề ra. Chủ nghĩa xét lại từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ chuyên chính
vô sản. Các Đảng cộng sản và công nhân muốn đưa cuộc đấu tranh cách mạng của nước mình đi
vào con đường đúng đắn, thắng lợi, cần đấu tranh chống cả hai khuynh hướng giáo điều và xét
lại. Như vậy là chúng ta dừng lại ở khái niệm chung chung, không muốn đổ dầu thêm vào không
khí căng thẳng của hội nghị. Nói lên sự không đồng tình của ta về các sai lầm lệch lạc của Liên
Xô về các vấn đề lý luận về thời đại, chiến tranh và hoà bình, về cách mạng v.v... ta ý thức rằng ta
vẫn ở trong giới hạn cho phép trong quan hệ giữa ta và Liên Xô.

Ta chống các quan điểm xét lại của Đảng cộng sản chứ không phải chống Đảng cộng
sản Liên Xô và chống Liên Xô. Trong nội bộ một Đảng cũng như giữa các Đảng, đấu tranh tư
tưởng là chuyện bình thường, thực tiễn sẽ chứng minh ai đúng ai sai, nhưng nếu nêu quá cụ thể
những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại thì chẳng khác nào chỉ tay vào Liên Xô: “Anh là tên xét
lại”. Nếu làm như thế thì trong quan hệ giữa ta và Liên Xô khó lòng duy trì ở mức độ có găng
một chút nhưng vẫn tương đối bình thường.
Đối với Trung Quốc cũng vậy, tuy là không đồng tình với nhiều hành động và lý luận
của Trung Quốc nhưng việc Trung Quốc phê phán chủ nghĩa xét lại của Liên Xô, phê phán các
quan điểm của Liên Xô thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hoà bình chủ nghĩa... là có lợi cho cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam của nhân dân ta, vả lại Trung Quốc là đối tượng bị Liên Xô và các
Đảng khác ở các nước tư bản lên án kịch liệt và đã bị Khrushev doạ khai trừ ra khỏi phong trào
cộng sản quốc tế, nguy cơ phân liệt của phong trào treo lơ lửng trên hội nghị, cho nên ta tránh nêu
những biểu hiện cụ thể làm cho người ta có thể hiểu là ta ám chỉ Trung Quốc. Nếu ta làm như
vậy, ta sẽ mang nước đến đổ vào cối xay của Khrushev và của các Đảng trên.

Cuối cùng đoàn ta kêu gọi sự đoàn kết trong phe XHCN và trong phong trào cộng sản
quốc tế.

Như trên đã nói, phản đối dự thảo của phía Liên Xô gay gắt nhất là đoàn Trung Quốc.
Hai người Đặng Tiểu Bình và Khang Sinh thay nhau phát biểu, thái độ chung là không khoan
nhượng về những vấn đề chính.

Các Đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN Đông Âu, các Đảng cộng sản ở các
nước tư bản châu Âu và châu Mỹ... đều cùng chung lập trường với Liên Xô.

Đáng chú ý nhất là các Đảng Triều Tiên, Albani và Indonesia. Họ không tán thành dự
thảo của Liên Xô, nhưng không đứng chung một mặt trận với Trung Quốc. Vì họ ngại đối đầu với
Liên Xô. Họ lấy Việt Nam làm chuẩn. Trên từng vấn đề họ đều hỏi ta nên phát biểu thế nào, họ
xin cho họ xem trước dự thảo phát biểu của ta rồi họ căn cứ vào tinh thần phát biểu của ta mà
soạn ra phát biểu của họ. Trước hội nghị 81 Đảng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Indonesia Aidit đã
từng sang thăm nước ta sau khi thăm Liên Xô và Trung Quốc. Hội đàm xong với Đảng ta, trao
đổi ý kiến với Lê Duẩn, Aidit tuyên bố với ta rằng Indonesia không thể đi theo con đường của
Liên Xô cũng như không thể đi theo con đường của Trung Quốc, mà sẽ noi theo con đường của
Việt Nam vì nó là thích hợp nhất đối với cách mạng Indonesia.

Về sau này, 3 Đảng trên đều xa lánh ta, xích gần với Trung Quốc kết thành mặt trận
với Trung Quốc. Đây là chuyện sẽ được đề cập ở những phần sau của hồi ức này.

Hội nghị trù bị đã kết thúc sau gần một tháng tranh luận với một văn kiện có bổ sung,
sửa đổi, tiếp thu ý kiến của nhiều đoàn nhưng về những vấn đề cơ bản nhất vẫn tồn tại những bất
đồng.

Hội nghị chính thức tiến hành sau đó hai tuần, lần này các chủ tịch, Tổng bí thư, Bí
thư thứ nhất của các Đảng đều đến dự trừ Mao Trạch Đông, do Lưu Thiếu Kỳ thay mặt. Sau hai
tuần thảo luận, hiệp thương, trên các vấn đề có bất đồng lớn, các bên đều giữ vững lập trường của
mình. Lời kêu gọi đoàn kết của Bác Hồ ta, của một vài lãnh tụ khác đều không lay chuyển được
Liên Xô và Trung Quốc. Song để tránh sự phân liệt công khai, cuối cùng đã đạt được một văn
kiện có tính chất thoả hiệp trên một số vấn đề, lời lẽ có thể hiểu thế này hoặc thế kia. Và văn kiện
“Tuyên bố của Hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân ở Moscow” ấy được ký.

Sau hội nghị 81 Đảng, sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là
không tránh khỏi. Cả hai Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản Trung Quốc đều công khai
đăng báo, viết bài bình luận tuyên truyền lập trường quan điểm của mình và bằng mọi phương
tiện, Quảng Bá rộng rãi trên thế giới. Tranh luận và phê phán trực tiếp nhau đã trở thành công
khai. Điều mà Bác Hồ mong muốn là giữ kín không còn làm được nữa. Trên thế giới, các Đảng
buộc phải công khai nói lên lập trường của mình, hoặc là đứng về phía Liên Xô, hoặc là đứng về
phía Trung Quốc, hoặc là đứng trong tư thế độc lập ở giữa. Mà đứng ở giữa thì rất khó. Hai Đảng
lớn không chỉ tuyên truyền, truyền bá quan điểm của mình, mà còn dùng mọi thủ đoạn, gây áp
lực, mua chuộc để lôi kéo các Đảng khác đứng về phía mình.

Tình hình này buộc Đảng ta phải nói rõ quan điểm của mình, chí ít là trong nội bộ
Đảng để đảng viên không dao động trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam theo đường lối
được vạch ra trong Nghị Quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II. Bộ chính trị
quyết định triệu tập hội nghị trung ương để thảo luận về các quan điểm và lập trường của Đảng
ta. Lê Duẩn giao cho tôi chấp bút dự thảo báo cáo của Bộ chính trị và dự thảo nghị quyết trình hội
nghị Trung ương, các dự thảo ấy được gởi cho các uỷ viên Bộ chính trị góp ý kiến, và căn cứ vào
những ý kiến ấy mà sửa lại cho phù hợp. Các uỷ viên Bộ chính trị đều tán thành, duy chỉ có
Trường Chinh không tán thành. Do đó các dự thảo không được thông qua, và Hội nghị Trung
ương không họp được. Thời gian cứ trôi qua nhưng Trường Chinh vẫn chăm bẫm kiên trì lập
trường của mình tán thành quan điểm của Liên Xô, lên án Trung Quốc.

Cho đến mùa hè năm 1963, Trung Quốc mời ta cử một đoàn sang họp để cho ý kiến
về một dự thảo của Trung Quốc. Trước đó Trung Quốc đã đưa ta 9 bài bình luận, mỗi bài nêu lên
lập trường của Trung Quốc về một vấn đề.

Các bài bình luận ấy trước khi phát lên báo, đài, Trung Quốc đều có tranh thủ ý kiến
của ta, hoặc do đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội trao tài liệu cho Trung ương, hoặc mời ta phát biểu ý
kiến nhân dịp đoàn Lê Duẩn đi Trung Quốc, hoặc ghé qua Trung Quốc khi đi Moscow.

Đối với từng bài bình luận, ta đều góp ý kiến, nói lên điểm ta đồng tình, điểm ta
không đồng ý. Riêng bài cuối cùng là bài nhận định Liên Xô đã chuyển thành nước tư bản: bài
này họ hỏi ý kiến ta khi đoàn ta đang ở Bắc Kinh, trong lúc ăn cơm với tổ biên tập của Trung
Quốc do Đặng Tiểu Bình cầm đầu, trong đó có Khang Sinh, có Tổng biên tập báo Nhân dân nhật
báo, Tổng biên tập tạp chí Hồng Kỳ và một số cây lý luận khác của Trung Quốc. Lê Duẩn ngồi
chung bàn với Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh, còn tôi ngồi chung bàn với các chuyên viên. Lê
Duẩn không phát biểu mà bảo tôi phát biểu với các chuyên viên, dứt khoát không đồng ý. Tổ biên
tập hứa sẽ nghiên cứu kỹ các ý kiến của ta. Văn kiện mà phía Trung Quốc mời đoàn đại biểu
Đảng ta sang Trung Quốc để góp ý kiến là văn kiện cuối cùng, nêu lên cương lĩnh cho một tổ
chức quốc tế mới của Đảng cộng sản và công nhân, văn kiện gồm 25 điểm.

Bộ chính trị và Bác lại cử 3 anh Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh đi Trung
Quốc. Thư ký của đoàn lần này ngoài Trần Quang Huy và tôi có thêm Vũ Tuấn đã học xong
trường Đảng cao cấp Liên Xô và đã về nước. Vũ Tuấn đi là do Trường Chinh đề cử, và Nguyễn
Chí Thanh cũng muốn Vũ Tuấn cùng đi để Nguyễn Chí Thanh tỉ tê dùng lý lẽ và tình cảm kéo Vũ
Tuấn ra khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại Liên Xô, để trở lại với lập trường đúng đắn của
Đảng ta. Nguyễn Chí Thanh nói với tôi “Thằng Tuấn nó tốt, nhưng nó đã lỡ dại nghe theo luận
điệu xét lại thật là uổng cho một cán bộ như thế, mình cố gắng kéo Vũ Tuấn trở lại”.

Sang Trung Quốc lần này chúng tôi được mời tới Vũ Hán. Ban bố trí chúng tôi ở và
cùng làm việc với ban trong khu biệt thự của Bộ chính trị, Vũ Hán là một trong mấy lò lửa nổi
tiếng của Trung Quốc về mùa hè. Trời nóng kinh khủng, nhưng các nhà ở cũng như phòng họp
đều được thổi gió lạnh cho nên ở và làm việc cũng dễ chịu. Làm việc với đoàn ta có Lưu Thiếu
Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh và một số người khác trong đó có trưởng ban đối ngoại của
Đảng Ngũ Tử Quyền.

Đều là những người quen, đã từng làm việc với nhau nhiều lần, cho nên thảo luận với
nhau cũng thoải mái. Ta góp ý kiến vào bản dự thảo văn kiện 25 điểm, trong đó có một số điểm
về lý luận, và có 2 điểm mà chúng ta kiên quyết không đồng tình. Một là Liên Xô đã đi vào chủ
nghĩa xét lại, từ bỏ con đường cách mạng, đang trở thành nước tư bản chủ nghĩa, cho nên trọng
tâm cách mạng đã chuyển từ Liên Xô sang Trung Quốc. Cũng như trước kia trung tâm cách mạng
đã từng chuyển từ Anh sang Pháp sau đó lại sang Nga. Lưu Thiếu Kỳ nói: Trung Quốc trở thành
trung tâm cách mạng thế giới vì Trung Quốc có Mao Trạch Đông. Nếu rồi đây Việt Nam có người
tài giỏi thì trung tâm cách mạng sẽ chuyển sang Việt Nam. Điều thứ hai là thành lập một quốc tế
mới của phong trào cộng sản quốc tế, trước hết bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên,
Indonesia, Albani rồi dần dần phát triển rộng ra.

Sau mấy ngày làm việc xong với đoàn Trung Quốc, đoàn ta được Mao Trạch Đông
tiếp. Mao tiếp đoàn vào khoảng 2 giờ chiều. Đó là thói quen của Mao đã có từ thời ở Diên An.
Mao làm việc về đêm, ban ngày ngủ. Mao thường tiếp khách từ 2 giờ chiều đến 1 giờ, 2 giờ sáng.
Cách làm việc của Trung Quốc với các đoàn của ta thường là bố trí đoàn ta làm việc
bàn bạc với Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình... giải quyết xong thì cuối cùng Mao tiếp
và cho “chỉ thị”. Có khi thêm, có khi bớt... Mao nói, có thư ký ghi lại, xong in phát cho đoàn ta và
coi như là quyết định cuối cùng. Các lời phán ấy của Mao được thông báo cho các tỉnh, cho nên
khi làm việc xong với Mao ta có đi thăm các tỉnh, thì đi đâu họ cũng nói ý như lời Mao nói với ta.
Ví dụ (tôi nói những chuyện về sau này) khi Mao khen ta học tập tốt tư tưởng Mao Trạch Đông
trong chiến tranh du kích, thì đến đâu cũng đều nghe các bí thư tỉnh ấy nói: các đồng chí đánh du
kích theo tư tưởng Mao Trạch Đông rất tốt. Khi Mao nói: Các đồng chí Việt Nam này đánh giỏi
hơn thầy (đánh ở miền Nam) thì đi đâu họ cũng đều nói các đồng chí Việt Nam đã giỏi hơn thầy.

Trở lại với cuộc gặp gỡ với Mao ở Vũ Hán. Sau khi Mao và Lê Duẩn chào hỏi nhau,
nói những lời xã giao, hỏi thăm sức khỏe Bác Hồ... Mao chuyển sang văn kiện, Mao nói với tiếng
khàn khàn và giọng Hồ Nam. Mao nói: “Tôi đã xem ý kiến đóng góp của các đồng chí. Việt Nam
là một Đảng nhỏ mà có được 4, 5 ý kiến đóng góp như thế là trình độ lý luận các đồng chí khá
đấy, không tồi. Nhưng nay tôi muốn nói với các đồng chí một chuyện khác”.

Rồi Mao cầm 4 cuốn sách, mỗi cuốn dày độ 300-400 trang và nói: “Tôi tặng các đồng
chí tập sách này để về các đồng chí nghiên cứu. Đây là những báo cáo của các tổ công tác đặc
biệt do tôi phái đi điều tra tình hình nông thôn. Trong mỗi bản điều tra, bên cạnh có in những
nhận xét của tôi. Tình hình nông thôn Trung Quốc sau khi hợp tác hoá nông nghiệp xong thì dần
dần giai cấp địa chủ trở lại thống trị. Vì sao vậy? Vì các chủ nhiệm họp tác xã đều lấy vợ là con
của địa chủ. Con gái của địa chủ đẹp hơn con gái của bần nông, sờ má con gái địa chủ bóng láng
mát tay hơn là sờ má của con gái bần nông mà. Còn ở thành thị cũng vậy, không phải giai cấp
công nhân thống trị, mà giai cấp tư sản thống trị. Vì các giám đốc Xí nghiệp đều cưới con của tư
bản làm vợ. Cho nên chúng tôi đang ngồi trên miệng núi lửa không biết khi nào thì núi lửa phun.
Cuộc đấu tranh giai cấp đang rất gay go, quyết liệt.

Tôi phải làm lại một cuộc cách mạng mới. Tôi sẽ đánh đổ giai cấp địa chủ và giai cấp
tư sản đang thống trị. Tôi sẽ đưa giai cấp bần nông và giai cấp công nhân lên nắm chính quyền trở
lại. Tôi sẽ tổ chức một đội quân bần nông năm trăm triệu người. Tôi sẽ giải phóng cho cả Đông
Nam Á, cho cả Việt Nam, các đồng chí không cần đánh”.

Trong cuộc gặp gỡ ấy Mao còn nói: Bom nguyên tử là con hổ giấy. Nếu chiến tranh
nguyên tử xảy ra, bất quá là Trung Quốc chết đi 400 triệu người, cũng còn lại 300 triệu. Còn bọn
xâm lược sẽ bị tiêu diệt. Dân Trung Quốc mắn đẻ lắm. Chẳng bao lâu dân số Trung Quốc sẽ lên
700 triệu, thậm chí 800 triệu, 1 tỉ. Có gì mà phải sợ chiến tranh nguyên tử?
Ra khỏi phòng họp, khi Mao tiếp kiến xong, Trường Chinh kéo tay tôi nói một cách
vui vẻ: “Nghe Mao Trạch Đông nói mới thấy là ông ta cho đến tận xương tuỷ đều thấm nhuần chủ
nghĩa Mác Lenin”. Tôi đến phòng Lê Duẩn, Lê Duẩn nói với tôi: “Cha này (chỉ Mao) lý luận
lang bang, lấy vợ địa chủ trở thành giai cấp địa chủ. Hắn nói giải phóng Đông Nam Á? Còn Việt
Nam là của ta, hắn có quyền gì mà đem quân sang giải phóng miền Nam ta? Chú thấy không, tư
tưởng bành trướng bá quyền đại Hán nó nói trắng trợn trước mặt ta, coi như chuyện dĩ nhiên.
Thật là nguy hiểm hết sức”.

Tôi kể cho Lê Duẩn nghe một số chuyện cụ thể mà tôi đã chứng kiến về chủ nghĩa
bành trướng và nhận định của tôi về việc vì sao Mao nói sẽ làm cuộc cách mạng mới. Nhưng để
sau này sẽ nói.

Cuộc gặp mặt với Mao Trạch Đông có một tác động bất ngờ đối với ta. Khi đoàn ta về
đến Hà Nội, Trường Chinh nói không chống đối dự thảo báo cáo và nghị quyết của Bộ chính trị
về các vấn đề quốc tế nữa, mà còn thúc giục thông qua nhanh và triệu tập hội nghị Trung ương
sớm để thông qua. Thế là từ đó, từ lập trường thân Liên Xô chống Trung Quốc, Trường Chinh
quay 180 độ sang lập trường thân Trung Quốc chống Liên Xô.

Mất 16 năm sau, năm 1979, khi Trung Quốc mở cuộc chiến tranh biên giới chống ta,
Trường Chinh mới quay 180 độ trở lại sang lập trường chống Trung Quốc, trong bài báo lên án
chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc.

Hội nghị Trung ương họp thông qua Nghị quyết 9 về các vấn đề quốc tế, chống chủ
nghĩa xét lại hiện đại. Đa số uỷ viên Trung ương tán thành, có một số không nhất trí với dự thảo
Nghị quyết. Công khai chống lại dự thảo Nghị quyết là Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn
Khiêm. Còn chống lại nhưng không lộ ra ngoài là ai nữa, chắc chắn là có, nhưng chưa rõ. Lê
Duẩn nói với tôi: Hai Đảng lớn mà chia rẽ, phân liệt, là một bất hạnh lớn cho phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Không Đảng nào không chịu ảnh hưởng của Đảng lớn này hoặc Đảng lớn
khác. Ta phải làm sao giữ được sự đoàn kết trong Đảng, mặc dù có những ý kiến khác nhau.

***

Sau Hội nghị Trung ương Bộ chính trị và Bác Hồ cử Lê Duẩn sang gặp Đảng cộng sản
Liên Xô, nói rõ lập trường quan điểm của Đảng ta và kiến nghị Liên Xô xem xét lại quan điểm
của mình. Lê Duẩn giao cho tôi dự thảo một bức thư gửi Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô.
Sau khi thông qua Ban bí thư, Bộ chính trị dặn Lê Duẩn sang đọc cho Bộ chính trị Đảng cộng sản
Liên Xô nghe.
Trước khi đi Lê Duẩn bảo Bộ tổng tham mưu chuẩn bị danh mục những thứ cần xin
Liên Xô và Trung Quốc để anh sang đề đạt yêu cầu với cả hai nước. Cuộc đấu tranh ở miền Nam
lúc này đang phát triển thuận lợi, cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh quân sự, cho nên cần xin hai
nước chi viện.

Đi lần này với Lê Duẩn có Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan và Tố Hữu. Như mọi khi,
tôi đi theo đoàn làm thư ký.

Phía Liên Xô, đích thân Khrushev cùng với một số người khác trong Bộ chính trị, Ban
bí thư tiếp và hội đàm với ta. Đã được đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội thông báo và Nghị quyết
của ta (vì ta không thể nào giữ bí mật được), phía Liên Xô chuẩn bị tinh thần nghe ta phê phán
chủ nghĩa xét lại hiện đại và chuẩn bị phản kích lại ta. Nhưng lạ thay khi gặp phía Liên Xô, Lê
Duẩn không nói gì về Nghị quyết 9 mà nói về tình hình cách mạng miền Nam, thông báo cho
phía Liên Xô biết sự tiến triển của tình hình và yêu cầu Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ. Rồi đưa cho
Liên Xô danh mục những thứ chúng ta cần lúc này. Khrushev và những người Liên Xô khác nhẹ
nhõm cả người. Ông ta vui vẻ chấp nhận về nguyên tắc yêu cầu của ta và sẽ giao cho các cơ quan
có trách nhiệm của Liên Xô nghiên cứu và giải quyết. Lê Duẩn liền đề nghị hai bên ra một thông
cáo báo chí về cuộc gặp mặt hôm nay giữa đại biểu hai Đảng. Khrushev giao cho trưởng ban đối
ngoại chỉ định người để cùng với phía ta (Lê Duẩn chỉ định tôi) dự thảo thông cáo. Nội dung dự
thảo là hai Đảng gặp nhau thông báo tình hình mỗi nước cho nhau. Phái đoàn Liên Xô ủng hộ và
sẵn sàng giúp đỡ nhân dân Việt Nam đấu tranh chống xâm lược. Thông cáo được thông qua,
không những phía Liên Xô bất ngờ mà mấy anh phía ta cùng đi với Lê Duẩn cũng tỏ ra chưng
hửng.

Cuối cùng Lê Duẩn trao bức thư của Đảng ta gửi Đảng cộng sản Liên Xô và nói:
“Trung ương Đảng chúng tôi có bức thư gửi cho Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, khi nào có
thì giờ các đồng chí đọc”.

Cuộc hội đàm kết thúc vui vẻ. Đến tối phía Liên Xô chiêu đãi đoàn ta. Hai bên nói
chuyện với nhau về công việc. Ngứa ngáy, Tố Hữu đọc một đoạn thơ của Simonov: “Quay sang
trái”. Khrushev nghe định đáp lại nhưng chưa tìm được cách đáp như thế nào. Nhưng khi tiễn
đoàn ta sau bữa ăn, Khrushev khoác áo măng tô cho Tố Hữu, vỗ vai Tố Hữu và nói: “Này, thi sĩ
ơi, hãy về học thuộc thơ của Mao Trạch Đông đi!”.

Cách xử thế của Lê Duẩn là một cách ngoại giao khôn khéo. Trong tình hình lý luận
của Liên Xô là một đóm lửa có thể đốt cháy cánh đồng và ta đang chống xét lại mà đạt được kết
quả là Liên Xô tuyên bố ủng hộ ta và giúp ta chống xâm lược, thật là tài tình. Lê Duẩn cũng làm
tròn nhiệm vụ Trung ương giao là bày tỏ lập trường của Đảng ta với Liên Xô, nhưng với cách làm
tế nhị.

Lê Duẩn nói với tôi: Trong lúc miền Nam đang khói lửa, ta cần sự giúp đỡ của Liên
Xô, ta dại gì mà mặt đối mặt chửi Liên Xô.

Khi đoàn về đến Hà Nội, sau khi nghe Lê Duẩn báo cáo, Bác Hồ khen: “Các chú đi kỳ
này lao khổ công cao”. Tôi hiểu Bác Hồ rất lo lắng sợ ta làm cho Khrushev nổi giận và chơi xấu
với ta. Và tôi cũng hiểu tình cảm sâu đậm của Bác Hồ đối với Liên Xô. Tôi có dịp đi với Bác Hồ
sang cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Ở Trung Quốc, Bác rất giữ kẻ, thái độ đối với cán bộ và những
nhân viên phục vụ Trung Quốc. Bác rất giữ gìn, thân mật nhưng có phần khách sáo. Còn ở Liên
Xô, Bác thoải mái vô cùng. Vì vậy trong thâm tâm Bác rất mừng vì cuộc gặp mặt gay cấn giữa
Đảng ta và Đảng cộng sản Liên Xô đã diễn ra một cách êm thắm.

Sau Hội nghị 81 Đảng, giữa Trung Quốc và Liên Xô tình hình ngày càng căng thẳng.
Liên Xô đòi Trung Quốc các khoản tiền cho vay để xây dựng các công trình kinh tế. Trung Quốc
tuyên bố dù phải ăn cháo, mặc quần đùi cũng trả hết nợ, và trên thực tế đã trả hết nợ. Trung Quốc
đòi lại những đất đai mà Nga Hoàng trước kia và Liên Xô sau này đã chiếm của Trung Quốc. Đó
là vùng Xibia rộng lớn, Trung Quốc nói rằng những vùng đất đó nguyên là của Trung Quốc
nhưng do Nga Hoàng xâm chiếm và hợp thức hoá bằng những hiệp ước bất bình đẳng, còn dưới
chính quyền Xô Viết, Liên Xô lại chiếm thêm nữa. Yêu sách của Trung Quốc là Liên Xô nhất
định phải trả lại phần đất đã chiếm của Trung Quốc dưới thời Xô Viết, còn các vùng do Nga
Hoàng chiếm thì Trung Quốc không đòi lại, chỉ cần phía Liên Xô ký một văn bản thừa nhận rằng
những vùng đất ấy là do các Nga Hoàng chiếm bằng các hiệp ước bất bình đẳng ký kết trên thế
mạnh. Các quan hệ về mặt Nhà nước giữa hai nước như hợp tác kinh tế, trao đổi mậu dịch, cũng
như các quan hệ về văn hoá, khoa học kỹ thuật hầu như bị đình chỉ; quan hệ ngoại giao tuy vẫn
còn nhưng được hạ xuống đến mức thấp nhất. Ở dọc biên giới giữa hai nước, các cuộc khiêu
khích vũ trang liên tiếp xảy ra, cuối cùng đẫn đến cuộc chiến tranh biên giới hai nước.

Không còn hy vọng giải quyết bất đồng giữa hai Đảng và hai nước trong một tương
lai tương đối gần.

Trong bối cảnh ấy, trên trường quốc tế, hai bên đẩy mạnh các hoạt động dụ dỗ, lôi kéo
gây sức ép để kéo các Đảng khác. Trường hợp đáng nói nhất là Đảng cộng sản Indonesia. Đảng
cộng sản Indonesia ra đời sớm, từ năm 1924, hầu như chút nữa thì nắm được chính quyền hoặc
tham gia với phong trào quốc gia nắm chính quyền vào năm 1945, xấp xỉ ngày Tổng khởi nghĩa
tháng 8 của Đảng ta. Sau đó Đảng bị thiệt hại nặng nề trong một cuộc chính biến (gọi là sự kiện
Medium). Nhưng rồi Đảng gượng dậy được, phát triển thành Đảng rất mạnh, có 4 triệu đảng viên,
8 triệu đoàn viên thanh niên, 4 triệu đoàn viên công đoàn. Tôi đã nói rõ thái độ của Aidit, Tổng bí
thư của Đảng khi sang thăm nước ta và của đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Indonesia tại hội
nghị 81 Đảng. Đó là thái độ thân mật, cởi mở, khiêm tốn và khâm phục Đảng ta.

Nhưng bị Trung Quốc tác động, Aidit nhanh chóng trở nên kiêu ngạo. Trung Quốc và
bản thân Mao bơm Aidit lên. “Hồ Chí Minh theo xét lại rồi (vì Đảng ta vẫn quan hệ bình thường
với Đảng cộng sản Liên Xô và với Liên Xô), chỉ còn Aidit là người Mác-xít lỗi lạc nhất (tất nhiên
là không so sánh với Trung Quốc). Trong quốc tế mới mà chúng ta sẽ thành lập, Trung Quốc là
Đảng số 1, Indonesia là Đảng số 2”.

Từ đó Aidit khinh thường Đảng ta. Năm 1964, Đảng cộng sản Indonesia kỷ niệm 40
năm ngày thành lập Đảng. Họ mời Đảng ta sang dự. Bộ chính trị ta nhận lời và cử một đoàn đi
dự. Đoàn do Lê Đức Thọ dẫn đầu, đoàn viên có Hà Huy Giáp, Hoàng Tùng và tôi. Trước khi
đoàn đi Lê Duẩn dặn: “Đi lần này cũng khá phức tạp đấy. Nhiệm vụ chính của đoàn là thuyết
phục Đảng cộng sản Indonesia giữ vững tính độc lập của mình, đừng về phe với Trung Quốc. Nên
nói với Đảng Indonesia: Chúng ta chống xét lại với động cơ khác Trung Quốc. Trung Quốc chống
xét lại là để hạ ngọn cờ của Liên Xô xuống, trương ngọn cờ của Trung Quốc lên để làm trung tâm
cách mạng thế giới, lập Quốc tế Cộng sản mới để Trung Quốc độc quyền lãnh đạo phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Trong đó có một phần là để cho hả dạ vì Khrushev đã công kích
Mao Trạch Đông. Chúng ta trái lại, chúng ta chống xét lại là để mong Liên Xô thay đổi các quan
điểm sai lầm, quay lại con đường Mác xít - Leninit chân chính, chống xét lại nhằm tăng cường
đoàn kết phe XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chúng ta chống xét lại nhưng
không nên cắt đứt quan hệ bình thường với Đảng cộng sản Liên Xô và với Liên Xô. Chúng ta
không nên ủng hộ chủ trương phân liệt, thành lập Quốc tế Cộng sản mới”.

Ngoài ra ta nên có một bài phát biểu ở trường Đảng đại ý là làm cách mạng phải có
đường lối đúng nhưng lại còn phải có phương pháp đúng, mà phương pháp đúng là rất quan trọng
và nên lấy cuộc đấu tranh ở miền Nam làm ví dụ. Lê Duẩn giao trách nhiệm cho tôi viết bài diễn
văn đưa Lê Đức Thọ cùng Lê Duẩn xem và duyệt. Tôi đã viết bài ấy, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
duyệt xong tôi cho đánh máy cầm đi. Đoàn chúng tôi nhờ Trung Quốc đưa sang Côn Minh rồi từ
đó đi Jakarta bằng máy bay Trung Quốc chung với đoàn Trung Quốc do Bành Chân cầm đầu.

Đến Jakarta và từ Jakarta đi về khu nghỉ của đoàn, chúng tôi có cảm tưởng như đang ở
một nước do Đảng cộng sản lãnh đạo chính quyền. Khẩu hiệu, cờ Đảng trương đầy đường đỏ rực.
Trong buổi lễ kỷ niệm long trọng, Tổng thống và các quan chức chính phủ đều đến dự. Chúng tôi
được thông báo cho biết là ngoài lực lượng của Đảng, của Thanh niên, Công đoàn, Đảng còn nắm
được Không quân và Hải quân. Trong Lục quân có nắm được một số sĩ quan nhưng nói chung
Lục quân do Bộ trưởng Nasution nắm chặt, và đây là tay đáng gờm nhất. Đi tham quan trường
Công đoàn hỏi dạy gì, được biết là dạy quản lý xí nghiệp. Đi tham quan trường Nông nghiệp nơi
có ngôi nhà nhỏ làm Viện Aidit, ông ta đã viết cuốn điều tra nông thôn ở tại nhà ấy, xem học gì
thấy học quản lý hợp tác xã nông nghiệp và học thâm canh lúa. Có cả những ruộng mẫu về áp
dụng kỹ thuật thâm canh, kỹ thuật thâm canh lúa kết hợp cấy lúa với nuôi cá và nuôi vịt. Giống
như những trường học ở các nước mà Đảng đã nắm chính quyền. Thăm dò một số cán bộ họ hé
cho hiểu là sắp nắm chính quyền đến nơi, chỉ cần loại bỏ Bộ trưởng Quốc phòng và một số tướng
tá quan hệ chặt với Bộ trưởng Quốc phòng là xong. Vì Tổng thống thì đã dựa vào Đảng cộng sản
trong mặt trận NASAKOM (dân tộc, tôn giáo và cộng sản). Trong chương trình lễ kỷ niệm, có
một cuộc mít tinh quần chúng lớn ở sân vận động xây dựng cho các cuộc đua tài thể thao
GANEFO (Lực lượng mới trổi dậy), sức chứa của sân vận động do Liên Xô xây dựng hình như là
20 vạn người. Đến dự có Tổng thống Sukarno, các vị Bộ trưởng, các vị trong các đoàn thể, các vị
Tướng Tá 3 quân chủng. Quần chúng đứng chật cả sân vận động, kể cả ở giữa sân cũng như trên
các khán đài. Đáng chú ý là có các đội tự vệ vũ trang, súng ống chỉnh tề, khi hoan hô thì bắn chỉ
thiên. Trong cuộc mít tinh quần chúng, Sukarno ngoài những vấn đề khác, dành thì giờ để ca tụng
đặc biệt Aidit. Tôi còn nhớ khi đang nói Sukarno dừng lại và gọi “Aidit đến đây”. Aidit đến,
Sukarno nói: “Này Aidit, tên đầy đủ của anh là gì?”. Aidit trả lời: “Dipanosantara Aidit”. Sukarno
nói: “Các bạn có biết Dipanosantara là nghĩa gì không?”, rồi tự trả lời “Dipanosantara nghĩa là
hòn đá tảng”. Đúng Aidit là hòn đá tảng của NASAKOM (tức mặt trận do Sukarno thành lập).
Sau mít tinh là cuộc diễn hành quần chúng rầm rộ. Đồng chí nữ phiên dịch nói với tôi là Bộ
trưởng Quốc phòng đang chuẩn bị làm đảo chánh và đàn áp Đảng cộng sản. Tôi tự hỏi có phải
Đảng phô trương lực lượng để răn đe không.

Điều đáng nói nữa là từ khi chúng tôi đến, báo của Đảng liên tiếp đăng những bài của
ban biên tập, bài phát biểu của Aidit và Bành Chân trong khi đi thăm các cơ sở của Đảng đại ý
chia các Đảng xét lại thành từng loại: xét lại 100%, xét lại 30%, xét lại 80%, Đảng thì quần chúng
đảng viên cách mạng nhưng lãnh tụ thì xét lại. Chúng tôi trao đổi với nhau không biết họ xếp
Đảng mình vào loại nào, vào loại sau cùng chăng?

Sau bao nhiêu điều trông và nghe thấy, Hà Huy Giáp, Hoàng Tùng và tôi đều có
chung nhận định. Bạn quá chủ quan, phô trương lực lượng quá mức, lãnh tụ thì quá kiêu ngạo và
tự mãn, có khả năng bạn dùng phương pháp manh động để giành chính quyền. Nguy cơ đang đe
doạ Đảng Indonesia. Trong những cuộc đi tham quan các nơi, bạn bố trí Hà Huy Giáp ngồi chung
một xe với tôi, đi kèm có một bí thư Trung ương Đảng và một nữ phiên dịch nói tiếng Pháp rất
thạo. Hà Huy Giáp bảo tôi nói chuyện với bạn, nên có những lời khuyên chân thành với bạn. Dọc
đường tôi tranh thủ nói với bí thư về sự cần thiết phải đề cao cảnh giác, phải dùng phương pháp
đấu tranh đúng, không nên chủ quan và manh động. Tôi cũng nói về vấn đề quốc tế theo lời dặn
của Lê Duẩn. Thấy bí thư rất cởi mở, gật gù đồng tình, nhưng nói thêm là tôi thì thế nhưng không
biết những nhà lãnh đạo khác nghĩ thế nào.

Ngày đi thăm trường Đảng, Lê Đức Thọ đọc diễn văn đã soạn thảo sẵn dưới sự chỉ
đạo của Lê Duẩn. Đọc 3 tiếng đồng hồ. Học viên nghe chăm chú và nhiệt liệt vỗ tay. Sau đó
Lukman, uỷ viên thường vụ Bộ chính trị, người đứng thứ ba trong Đảng và là hiệu trưởng của
trường phát biểu khá dài và có một số đoạn làm chúng tôi ngạc nhiên, không hiểu trong Đảng có
vấn đề gì. Ông nói đại khái: “Bài diễn văn của Lê Đức Thọ không phải là bài diễn văn bình
thường như các bài diễn văn khác. Nó là xương máu của Việt Nam trao cho ta. Chúng ta phải học
tập một cách nghiêm túc không nên kiêu ngạo. Chúng ta đã làm được gì mà kiêu ngạo?” và ông
phê phán rất lâu hiện tượng kiêu ngạo trong Đảng nhưng không nói cụ thể là gì.

Đến ngày bố trí để Aidit gặp đoàn, tôi biết tình thế khó khăn, sự đánh giá của Aidit đối
với Đảng ta qua những bài báo, diễn văn... Aidit là một tay lý luận cừ, đã từng nghiên cứu chủ
nghĩa Mác Lenin một cách có hệ thống, đã viết khá nhiều sách có trình độ lý luận cao. Còn ông
Thọ nhà ta là một nhà hoạt động thực tiễn, tu dưỡng về lý luận ít, sợ không đủ sức thuyết phục và
đối phó với Aidit. Tôi liền điện cho Lê Duẩn: “Trận địa đã được bố trí sẵn, khó khăn cho anh Sáu,
xin anh cho ý kiến chỉ đạo cho anh Sáu”. Tôi dặn cơ yếu và điện đài sứ quán cũng như của văn
phòng, báo cáo anh Ba xong là huỷ ngay, không lưu, không để lại dấu vết. Lê Duẩn trả lời cho Lê
Đức Thọ: “Anh cứ theo lời dặn đó khi ở nhà mà làm”. Lê Đức Thọ nhận được điện, mặt hầm hầm
hỏi Hà Huy Giáp, Hoàng Tùng và tôi có ai điện gì về cho anh Ba không. Tất nhiên Giáp và Tùng
trả lời không, còn tôi thì chối béng; Lê Đức Thọ đi kiểm tra ở Sứ quán, không phát hiện được gì.
Sau này về nhà Lê Đức Thọ tra hỏi văn phòng, lúc đầu không thấy được gì cả nhưng sau này dần
dần tra hỏi một số anh em hoặc ở cơ yếu, hoặc ở điện đài nói thật với Lê Đức Thọ. Tôi nghĩ đây
cũng là một nguyên nhân làm cho Lê Đức Thọ thù tôi.

Hội đàm diễn ra đúng như dự kiến của tôi. Aidit thông báo là để dành 3 tiếng cho hội
đàm. Lê Đức Thọ dựa theo báo cáo chính trị và Nghị quyết 9 Hội nghị Trung ương mà thuyết
trình với Aidit, nói nào là thời đại, lập luận về chiến tranh và hoà bình, về quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, về chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại... Nói y như một bài giảng. Chúng tôi ngồi nghe
thấy sốt ruột và ngượng. Aidit cũng thấy sốt ruột, nhiều khi nghe một cách lễnh lãng. Thế thì sao
mà thuyết phục được Aidit? Lê Đức Thọ nói mất 3 giờ rưỡi, quá thời gian ấn định cho hội đàm.
Khi Lê Đức Thọ nói xong, Aidit trả lời vỏn vẹn một hai câu: “Những điều anh nói tôi đã biết hết
rồi xin cảm ơn... Chúng ta đã làm việc quá thời gian thoả thuận. Bây giờ tôi phải tiếp đoàn khác.
Xin chào tạm biệt và chúc sức khỏe”.

Đúng như chúng tôi nghĩ, sau cuộc kỷ niệm lịch sử, Đảng cộng sản Indonesia (báo chí
nước ngoài nói là sự xúi giục của Trung Quốc) đã làm đảo chính. Cuộc đảo chính thất bại. Đảng
bị tiêu diệt gần hết.

Tôi nói hơi dài về sự quay ngoặt của Đảng cộng sản Indonesia để ngả vào lòng Đảng
cộng sản Trung Quốc vì có một số tình tiết thú vị. Tôi không muốn nói về Đảng Albani và Đảng
lao động Triều Tiên để trở về với tình hình trong Đảng ta.

Như thường lệ, sau khi đã có Nghị quyết Trung ương, Ban bí thư phải vạch kế hoạch
triển khai. Vì đây là một Nghị quyết có nhiều vấn đề lý luận cho nên Ban bí thư giao trách nhiệm
phổ biến cho Ban Tuyên giáo.

Nghị quyết này thuộc loại tuyệt mật cho nên chỉ phổ biến toàn văn đến cấp tỉnh uỷ. Từ
đó trở xuống thì biên soạn tài liệu tóm tắt để phổ biến. Tố Hữu là Trưởng Ban Tuyên giáo. Trần
Quang Huy là Phó ban. Vì nghĩ rằng Huy là một cây lý luận của Đảng hơn nữa đã dự hội nghị 81
Đảng, cho nên việc triển khai Nghị quyết 9 Tố Hữu phó thác cho Huy. Huy mở các cuộc hội nghị
phổ biến, biên soạn tài liệu, bồi dưỡng báo cáo viên.

Lúc bấy giờ Trung Quốc mở một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về các quan điểm của
Trung Quốc. Tài liệu của Trung Quốc biên soạn được tuôn vào nước ta hàng tấn, hàng tấn. Cốt lõi
là 9 bài bình luận (gọi là 9 bình) về các vấn đề quốc tế đề cập trong hội nghị 81 Đảng. Nội dung
bồi dưỡng báo cáo viên của ta nói là Nghị quyết 9 nhưng trên thực tế là các tài liệu của Trung
Quốc. Có người học thuộc lòng 9 bình. Các bài để học tập do Ban Tuyên giáo biên soạn thực tế
cũng là dựa theo 9 bình. Cho nên việc học tập Nghị quyết 9 trên thực tế là học tập các tài liệu của
Trung Quốc. Điều này được cán bộ cho là đương nhiên, vì nghĩ rằng quan điểm của ta và của
Trung Quốc là một; tài liệu Trung Quốc lại viết công phu, văn chương trau chuốt hơn cho nên
việc học tài liệu của Trung Quốc hấp dẫn hơn. Từ tài liệu tham khảo có hướng dẫn, tài liệu của
Trung Quốc trở thành tài liệu chính khoá.

Một bộ phận không nhỏ đảng viên và cán bộ ta, nhất là ở Việt Bắc, ở Khu 4 cũ, trong
thời kháng chiến chống Pháp đã từng làm việc, tiếp xúc, học tập với chuyên gia Trung Quốc. Các
đồng chí đó đã từng xem những văn chương chính trị, lý luận của Trung Quốc là văn chương kinh
điển của chủ nghĩa Mác Lenin. Ví dụ trước tác “Đánh lâu dài” (trì cứu chiến) “Chỉnh đốn Đảng”
(chỉnh đốn tam phong) “Cuộc toạ đàm văn nghệ ở Diên An”, “Giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân”, của Mao Trạch Đông. “Sự tu dưỡng của người đảng viên cộng sản” của Lưu Thiếu Kỳ
là những tài liệu học tập chính khoá. Nhiều chủ trương của Đảng cũng rập khuôn theo chủ trương
của Trung Quốc; Trung Quốc phát động phong trào gì là ta cũng phát động phong trào ấy. Những
điều trên đây thành thói quen làm cho cán bộ đảng viên ta tiếp thu cách suy nghĩ của Trung Quốc,
dễ mê văn chương lý luận và chính trị của Trung Quốc. Lần này những bài bình của Trung Quốc
làm cho không ít người mê tít và từ mê đến thân chỉ có nửa bước. Có đồng chí trong Bộ chính trị
nói với tôi: những bài bình luận của Trung Quốc thật tuyệt, logic chặt chẽ không thể phản bác
tính thuyết phục cao, thật không chê vào dâu được. Hậu quả của việc học tập nghiên cứu các tài
liệu của Trung Quốc là trong cán bộ đảng viên, hình thành một tâm lý, một trào lưu mê và thân
Trung Quốc. Trào lưu ấy không trừ những uỷ viên Bộ chính trị. Không ít uỷ viên Bộ chính trị
chuyển hẳn sang phía thân Trung Quốc. Sau Trường Chinh mà chúng ta đã biết đã chuyển từ cuộc
gặp gỡ với Mao ở Vũ Hán, có một người thân Trung Quốc từ đầu đến chân, đó là Hoàng Văn
Hoan. Đối với Hoàng Văn Hoan, cái gì của Trung Quốc cũng tốt, cũng hay, cũng đẹp. Xem phim
Trung Quốc, kịch Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan ca ngợi hết lời và chê hết lời những phim Việt
Nam, kịch Việt Nam. Đối với truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoan nói chỉ là bản dịch từng câu
từng chữ của tiểu thuyết văn xuôi: Đoạn trường tân thanh, một tiểu thuyết vô danh của Trung
Quốc.

Hoàng Văn Hoan ghi chép toàn bằng chữ Hán. Hoan coi Trung Quốc và Đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội như nhà của mình. Hằng tuần đến ăn ở Đại sứ quán Trung Quốc, vài
tháng đi Trung Quốc chơi, chỉ cần gọi điện thoại cho Đại sứ quán Trung Quốc là đủ - Không cần
hộ chiếu. Hoan đi xe ô-tô đến Bằng Tường (một thị trấn của Trung Quốc), ở Bằng Tường đã có
toa xe lửa dành riêng cho Hoan chờ sẵn muốn đi Bắc Kinh hay nơi nào tuỳ thích. Trung Quốc
nuông chiều Hoan hết cỡ. Còn Hoan thì nói lại cho Trung Quốc hoặc Đại sứ quán Trung Quốc
những gì Bộ chính trị bàn, tình hình các mặt mà Hoan nắm được. Lê Duẩn xem Hoan là Trần ích
Tắc thời nay.

Trong khi trào lưu ca tụng và thân Trung Quốc tràn ngập thì những người có trách
nhiệm phổ biến Nghị quyết 9 phê phán Liên Xô hết lời, không chỉ dừng lại ở những quan điểm
xét lại về mặt chính trị, mà lên án cả những tác phẩm văn hoá nghệ thuật, những khía cạnh trong
đời sống của người Liên Xô. Để minh hoạ cho các bài thuyết minh về chủ nghĩa xét lại, người ta
cho nghe những bản nhạc ồn ào của một số tác giả (kiểu nhạc rock và pop sau này), người ta đưa
ra những hình ảnh những bãi tắm ở Liên Xô, trên đó phụ nữ bận áo tắm hai mảnh (bikini) và cho
đó là những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại. Nhiều bộ phim của Liên Xô, nhất là những bộ phim
nói về những đau khổ và bất hạnh của con người trong chiến tranh, điển hình là phim “Khi đàn
sếu bay qua” đều cho là phim xét lại và cấm chiếu công khai, chỉ chiếu nội bộ cho cán bộ có trách
nhiệm tham khảo. Tác phẩm “Sông Đông êm đềm” cũng được xếp vào loại ấy. Có một số người
chưa từng đọc một cuốn tiểu thuyết nào của các nhà văn Nga và Xô Viết, chưa hề đọc Lịch sử
Đảng cộng sản Liên Xô, thậm chí chưa đi Liên Xô lần nào cũng lên tiếng chửi rủa thậm tệ Liên
Xô và Đảng cộng sản Liên Xô.

Lúc bấy giờ đối với Liên Xô tha hồ mà nói xấu, mà chửi rủa, không chỉ trong nội bộ
mà cả ở chỗ công khai. Còn nói động đến Trung Quốc là điều cấm kỵ. Ai nói mà lọt đến tai mấy
ông uỷ viên Bộ chính trị thì sẽ bị đặt “thành vấn đề” bị điều tra, “hỏi thăm sức khỏe”...

Trong trào lưu thân Trung Quốc và bài Liên Xô, Lê Duẩn thấy mình thuộc về phía
thiểu số trong Bộ chính trị. Lê Duẩn cho tình hình ấy rất phức tạp. Lê Duẩn nói: Để bảo đảm cho
cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành thắng lợi, ta cần sự giúp đỡ, chi viện của Trung
Quốc và Liên Xô. Ta cần sự giúp đỡ của Trung Quốc về ngoại tệ tư bản và lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng, sự giúp đỡ của Liên Xô về vũ khí nhất là vũ khí hạng nặng và các phương
tiện chiến tranh khác. Sự chia rẽ và chống đối giữa hai Đảng và hai nước đã gây cho ta lắm phiền
toái rồi, sự không nhất trí về lập trường trong Bộ chính trị lại làm cho hoàn cảnh của ta thêm phức
tạp.

Lê Duẩn thấy trào lưu thân Trung Quốc trong Đảng là một mối nguy lớn. Rất bực
mình. Lê Duẩn nhắn Tố Hữu và Trần Quang Huy, Lê Duẩn nói: “Ta chống quan điểm xét lại của
Liên Xô nhưng không chống Đảng cộng sản Liên Xô, không chống Liên Xô. Ta vẫn coi Liên Xô
là nước làm cách mạng XHCN đầu tiên, là nước đã đánh bại phát xít Hitler, cứu cả nhân loại, nhờ
đó mà cách mạng Tháng Tám của ta thành công, ngày nay Liên Xô vẫn tiếp tục giúp ta xây dựng
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Ta chống chủ nghĩa xét lại là mong muốn Liên Xô
điều chỉnh lại những quan điểm lệch lạc của mình, để đoàn kết trở lại phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Còn Trung Quốc cũng chống xét lại, nhưng họ chống với mục đích khác, đập
tan Liên Xô, đập tan ngọn cờ Liên Xô để giương cao ngọn cờ của Trung Quốc, để làm trung tâm
thế giới. Quan điểm của Trung Quốc có cái giống ta, có cái khác ta. Ta có quan điểm độc lập của
mình”.

Anh Tố Hữu nghe, tiếp thu một cách vui vẻ. Còn Trần Quang Huy thì khi nghe Lê
Duẩn phê phán Trung Quốc, tuy không nói gì nhưng mặt đỏ lên. Sau đó Lê Duẩn gặp tôi nói:
“Chú thấy không, khi nói động đến Trung Quốc, mặt tay Huy đừ ra. Hay nó là người Việt gốc
Hoa? Ừ phải rồi, vợ nó và nó là anh em cô cậu ruột. Phong tục Trung Quốc là anh em cô cậu ruột
được lấy nhau”. (Lê Duẩn giận nên suy diễn thế thôi).
Lê Duẩn muốn đích thân nói cho rõ lại cho đảng viên hiểu, mà muốn cho trong Đảng
đừng mê Trung Quốc nữa, thì phải nói ra những thực tế mà bản thân Lê Duẩn đã trải qua trong
quan hệ với Trung Quốc. Nhưng nói như thế thì động đến Trung Quốc. Một điều mà trên kia đã
nói, lúc bấy giờ coi là tối kỵ. Nói xấu Liên Xô thì tha hồ, nhưng phê phán Trung Quốc là chuyện
động trời. Khó khăn là ở trong Bộ chính trị những người thân Trung Quốc rất đông. Lê Duẩn
không phải sợ điều đó, bởi Lê Duẩn, vì lẽ phải, vì lợi ích dân tộc, dám đương đầu với tất cả. Cái
phức tạp hơn là ở chỗ khác. Tình báo của Trung Quốc cũng như của Liên Xô đầy dẫy khắp nơi.
Ngoài ra nhiều đảng viên không làm tình báo cho Trung Quốc và Liên Xô vô tình, vì tình cảm
của mình mà lộ ra cho biết việc nhà của Đảng ta. Mạng lưới tình báo ấy có hiệu quả đến nỗi
những cuộc họp của Bộ chính trị ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân diễn ra thì trong ngày tin tức về nội
dung cuộc họp đã đến tai Liên Xô và Trung Quốc. Nếu là vấn đề quan trọng thì trong ngày trên
bàn làm việc của lãnh đạo mỗi nước đều có báo cáo.

Trong tình hình như thế Lê Duẩn nói ra điều gì thì Trung Quốc sẽ nghe được và sẽ rất
khó cho Lê Duẩn khi đi làm việc với Trung Quốc. Suy nghĩ kỹ Lê Duẩn chọn cách đi nói riêng
với các thường vụ tỉnh uỷ, dù sao họ chưa bị tiêm nhiễm nhiều tư tưởng thân Trung Quốc như cán
bộ ở Trung ương, hơn nữa mạng lưới tình báo của Trung Quốc ở các tỉnh còn mỏng hơn ở Trung
ương (về điều này, Lê Duẩn nhầm, vì về sau này mới biết là có những điểm Lê Duẩn nói ở địa
phương lọt vào tai Trung Quốc).

Điểm đột phá của Lê Duẫn là thường vụ Thành uỷ Hải Phòng (hồi đó Bí thư Hoàng
Hữu Nhân). Lê Duẩn muốn cho các thường vụ tỉnh uỷ biết sự thật về Trung Quốc, qua thể
nghiệm bản thân của Lê Duẩn, để tiêm phòng cho các anh ở trong thường vụ. Lê Duẩn nói về sự
khác nhau giữa ta và Trung Quốc trong việc chống xét lại. Lê Duẩn nói về chủ nghĩa bành trướng
của Trung Quốc, về thái độ của Trung Quốc đối với cuộc chiến đấu của chúng ta ở miền Nam. Lê
Duẩn căn cứ những điều mà Mao và một số nhà lãnh đạo khác vô tình hay cố ý để lộ tâm can cho
Lê Duẩn (nhiều việc bản thân tôi được chứng kiến khi đi theo Lê Duẩn sang Trung Quốc). Lê
Duẩn cho anh em ta biết tư tưởng bành trướng của Trung Quốc, dã tâm của Trung Quốc về lâu về
dài đối với ta, Lào, Campuchia, chủ trương của Trung Quốc hạn chế cuộc đấu tranh cách mạng
của nhân dân ta ở miền Nam, chỉ ủng hộ trong chừng mực mà cuộc cách mạng miền Nam còn có
giá trong cuộc mặc cả giữa Trung Quốc và Mỹ. Mục tiêu của Trung Quốc trong việc chống xét lại
hoàn toàn khác ta; nhiều luận điểm giữa ta và Trung Quốc cũng khác nhau. Lê Duẩn nhắc đi nhắc
lại ta phải độc lập trong suy nghĩ và hành động, không nên bắt chước theo đuổi, làm mồi cho âm
mưu đen tối của Trung Quốc.
Để khẳng định lập trường và đường lối độc lập tự chủ của Đảng ta và của mình, và
cũng đánh tan hoặc giảm bớt cảm giác khó chịu của Liên Xô về cái mà Liên Xô coi là lập trường
chống Liên Xô của Việt Nam, trong bài phát biểu chào mừng của đoàn đại biểu Đảng ta mà anh là
trưởng đoàn trong đại hội lần thứ 23 (?) của Đảng cộng sản Liên Xô. Lê Duẩn tuyên bố: “Liên Xô
là Tổ quốc thứ hai của chúng tôi”. Câu phát biểu ấy không khỏi làm cho những người thân Trung
Quốc trong Đảng hết sức khó chịu.

Trong thời gian Đại hội (nếu tôi không nhớ lầm thời gian), Lê Duẩn bảo tôi nói
chuyện với lưu học sinh ta ở Liên Xô. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Đại sứ quán ta tại Moscow.
Câu chuyện chủ yếu là Nghị quyết 9 của Đảng. Tôi tập trung nói về sự khác nhau giữa những
quan điểm của Trung Quốc với những quan điểm của Đảng ta, cũng như giữa mục đích của ta và
Trung Quốc về chống xét lại. Nói chung tôi thấy anh em lưu học sinh rất hoan nghênh bởi vì sống
và học ở Liên Xô anh chị em rất lo lắng từ khi Đảng ta chống xét lại. Sau cuộc nói chuyện, Đặng
Xuân Kỳ, con của Trường Chinh lúc bấy giờ đang làm luận án phó tiến sĩ về triết học đến gặp Lê
Duẩn chất vấn: “Vì sao ta và Trung Quốc cùng nhau chống xét lại mà Trần Quỳnh lại nói ta và
Trung Quốc khác nhau?”. Lê Duẩn trả lời: “Anh Quỳnh nói đúng với tinh thần của Đảng ta và sự
dặn dò của tôi”.

Trong khi toàn Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh để khỏi bị ảnh hưởng của chủ nghĩa
xét lại, và trong khi trào lưu thân Trung Quốc đang cuồn cuộn thì xảy ra một sự kiện quan trọng
trong đời sống chính trị của Đảng, đó là vụ án chống Đảng. Không tán thành đường lối chống xét
lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và
trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm
vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những
người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và
những uỷ viên trong Trung ương. Trong tổ chức đó có Đặng Kim Giang, Lê Liêm. Theo lời khai
của Đặng Kim Giang thì linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Liên Xô
hồi đó là Sherbakov, một sĩ quan tình báo hướng dẫn họ. Khi nghe Lê Đức Thọ và Trần Quốc
Hoàn báo cáo về vai trò của Võ Nguyên Giáp cho tổ chức chống Đảng này, Lê Duẩn nói trước
đây Giáp là người không đáng tin cậy lắm tuy được Bác Hồ rất cưng vì khéo nịnh. Lê Duẩn nói
sau tổng khởi nghĩa, Lê Duẩn ở miền Nam ra thấy Giáp đưa tên Dương, một tên Quốc Dân Đảng
mật thám cũ lên làm thứ trưởng Bộ nội vụ (sau này là Bộ công an). Lê Duẩn đã có ý hồ nghi đối
với Giáp. Lê Duẩn có nói với Giáp và Giáp có thanh minh vì cần thiết cho mặt trận với Quốc Dân
Đảng và Việt Cách (Việt Nam cách mạng đồng chí hội), Lê Duẩn bảo mặt trận thì đưa chức thứ
trưởng ở Bộ khác, còn ta là Đảng lãnh đạo phải nắm thật chặt hai Bộ Quốc phòng và Nội vụ.
Trước khi Lê Duẩn vào Nam, Trường Chinh hứa với Lê Duẩn: “Anh cứ yên tâm ra đi, việc này để
tôi giải quyết”. Về sau những khi nào đề cập đến vụ tên Dương trong Bộ chính trị hay trong
Trung ương, Võ Nguyên Giáp đều thanh minh,... chưa kịp suy nghĩ, mặc dù vậy, trong óc Lê
Duẩn đã hình thành những nét chính của chiến lược ấy. Giáp sốt ruột quá, phải liều mạng viết bài
tràng giang đại hải đăng trên Tạp chí Quân đội nhân dân “Về chiến lược chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc”. Xem bài báo đó Lê Duẩn gọi Giáp đến hỏi: “Anh viết bài báo nhắm mục đích gì vì nội
dung của nó tôi thấy sai hết. Viết để đánh lừa quân địch chăng? Nếu thế thì quân đội ta khi đọc
bài của anh cũng sẽ bị lừa nốt. Viết cho quân đội ta chăng, thế thì anh tiết lộ bí mật về ý đồ của
mình cho địch biết”. Giáp cứng họng thanh minh ấp úng, xin lỗi rồi về. Những ý kiến của Lê
Duẩn về chiến lược chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, sau đó Lê Duẩn nói lại cho Văn Tiến Dũng.

Giáp là một con người háo danh, khoe khoang. Y có cả một bộ tham mưu riêng, một ê
kíp khá đông để vạch ra và thực hiện chiến lược chiến thuật tuyên truyền đề cao cá nhân mình
trong nước và trên trường quốc tế.

Sau khi kết thúc điều tra vụ án chống Đảng và âm mưu lật đổ, Lê Đức Thọ và Trần
Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu. Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc
một số, nhưng cho hưởng nguyên các chế độ đãi ngộ. Trường Chinh bổ sung thêm một chi tiết về
Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng
Thái Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đặng Thái Mai bị bất ngờ, Trường Chinh
lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thư lá chánh mật thám, chữ ký là Marti và câu đầu:
“Các con thân ái Mai và Giáp” (Mes chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên thấy Trường
Chinh vội vàng nhét thư vào túi áo. Trường Chinh chỉ thấy đến thế không biết nội dung nói gì. Bộ
chính trị nhất trí với mức độ kỷ luật đề nghị. Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi
Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của
Liên Xô trong công cuộc xây dựng miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự
viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với
Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại.

Chúng ta nhớ rằng vào thời bấy giờ, Bộ chính trị đối với Đảng toàn dân là một tổ chức
thiêng liêng, được hình thành qua sự sàng lọc của lịch sử bao gồm những người con ưu tú nhất và
đáng kính nhất của dân tộc. Kỷ luật đối với một uỷ viên Bộ chính trị là một chuyện tày trời,
không phải như ngày nay khai trừ một uỷ viên Bộ chính trị như Nguyễn Hà Phan, đối với đảng
viên và nhân dân chả là cái gì.
Lê Duẩn gặp Giáp cho Giáp biết quyết định của Bộ chính trị và dặn Giáp: “Lẽ ra anh
bị khai trừ ra khỏi Bộ chính trị, nhưng do tác động của tôi Bộ chính trị đồng ý để anh ở lại. Vậy
anh phải lấy đó làm bài học, từ rày về sau phải trung thành với Đảng mình, đừng làm tay sai cho
Liên Xô, đừng để lộ bí mật quân sự cho Liên Xô biết”. Giáp không ngớt lời cám ơn Lê Duẩn. Về
sau Giáp nhiều lần cảm ơn “anh Ba đã cứu tôi nhiều lần”. Đó là lúc sinh thời của Lê Duẩn. Giáp
rất sợ Lê Duẩn. Ngay trong một số Hội nghị Trung ương khoá 5 chuẩn bị cho Đại hội 6, khi Giáp
cùng một số người định ngoi lên chiếm các chức vụ cao trong Đảng và Nhà nước, đề nghị xét lại
vụ án chống Đảng, và khi Lê Duẩn hồi ấy đã ốm nặng rồi nhắc lại một số chuyện về Giáp trong
đó có việc đưa tay Dương làm thứ trưởng Bộ nội vụ, Giáp thanh minh và trong thanh minh cũng
có nói “tôi rất biết ơn anh Ba đã cứu tôi nhiều lần”. Chúng ta biết ngày nay khi Lê Duẩn không
còn nữa, Giáp đã “đền ơn” Lê Duẩn như thế nào. Lê Duẩn nói: “Giáp là con người xảo trá - khi
tôi từ miền Nam ra, khi nói chuyện riêng với tôi Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác,
Giáp rất nịnh Bác”.

Thế là từ ấy trong Bộ chính trị ta, có hai người một người là tay sai của Trung Quốc,
một người là của Liên Xô. Phải có cách làm việc khéo léo để những vấn đề cơ mật nhất không lọt
đến tai Trung Quốc và Liên Xô. Đối với Hoan thì không khó. Hoan là một người lười đọc báo
cáo, nhất là những báo cáo dài, và báo cáo về kinh tế. Những lần họp Bộ chính trị để bàn về quân
sự, Hoan không được mời dự. Có khi qua thư ký riêng Hoan biết Bộ chính trị có họp, Hoan hỏi,
Văn phòng bảo là họp bàn về kinh tế thấy anh thường không thích dự nên không mời. Rồi đưa
cho Hoan một bản báo cáo về kinh tế do uỷ ban kế hoạch soạn chi chít những con số. Hoan mở ra
xem được vài trang thấy chán, nói thôi, đọc nhức đầu quá, mình cũng ít hiểu, mình không dự.

Đối với Giáp vấn đề khó hơn. Nhưng Lê Duẩn đã dặn dò Giáp rồi cho nên cũng đỡ lo.
Lẽ ra Lê Duẩn phải là Bí thư quân uỷ Trung ương theo điều lệ Đảng, nhưng Lê Duẩn không phải
là người tham chức quyền cho nên Lê Duẩn đề nghị Giáp làm bí thư, Lê Duẩn làm phó bí thư.

Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc
trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại nhà riêng của
Lê Duẩn, có khi tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó
anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ chính trị
quyết định.

Cách làm việc của Lê Duẩn có tính cách gia đình, không biên bản không ghi âm. Lê
Duẩn nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến
của Lê Duẩn làm của mình.
Sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc và sự chống đối lẫn nhau gần đến mức một
mất một còn giữa hai ông lớn ấy gây rất nhiều khó khăn cho ta. Ông nào cũng muốn ta đứng về
phía họ để chống lại ông kia. Như đã nói, ta giữ vững tính độc lập, không “nhất biến đảo” như
người Trung Quốc nói. Lê Duẩn phụ trách giao thiệp với cả hai ông anh lớn, phải vận dụng hết tài
khôn khéo và ngoại giao của mình để cho con thuyền Việt Nam tiến tới vững vàng giữa hai tảng
băng trôi lớn. Anh hay nói với mọi người câu: “Vào chùa phải mặc áo cà sa, đi với ma phải mặc
áo giấy”. Cũng có người cho đấy là chủ nghĩa thực dụng. Phải, trong lối xử thế, thế là thực dụng,
nhưng trong mục tiêu thì không thực dụng tí nào. Tất cả vì chiến thắng của cách mạng Việt Nam.
Về các vấn đề có tính nguyên tắc thì không nhân nhượng, một tấc không đi, một li không rời. Có
lần, Đặng Tiểu Bình đề nghị: “Các anh từ bỏ Liên Xô đi, chúng tôi sẽ cho các anh mỗi năm 2 tỉ
nhân dân tệ tiền viện trợ”. Lê Duẩn kiên quyết từ chối. Lê Duẩn nói lại với tôi: Hắn tưởng 2 tỉ
nhân dân tệ là lớn lắm đấy, những phương tiện chiến tranh mà rồi đây ta cần, có thứ chỉ có Liên
Xô mới có, Trung Quốc làm gì có? Nhưng trong những người lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc,
đôi khi tôi cũng phát hiện thấy có một vài khía cạnh hơi khác nhau. Có một lần Lê Duẩn hội đàm
với Lưu Thiếu Kỳ xin Trung Quốc một số vũ khí. Lưu nói: “Những thứ ấy Trung Quốc không có.
Các đồng chí cứ sang xin Liên Xô thế nào cũng được. Nếu không được chúng ta sẽ tính sau”. Bản
thân tôi thấy thái độ của Lưu tôi hơi lấy làm lạ. Trung Quốc xúi ta đi xin vũ khí của Liên Xô. Mãi
về sau này trong cách mạng văn hoá mới biết Lưu Thiếu Kỳ từng sang Moscow từ những ngày
đầu sau cách mạng Tháng Mười, học tập tại Liên Xô và trở về Trung Quốc hoạt động. Dù sao một
ít tình cảm đối với cách mạng Tháng Mười và Liên Xô còn lưu lại trong lòng Lưu.

Lê Duẩn phân tích cho tôi nghe thái độ của Liên Xô đối với cách mạng miền Nam.
Trước khi dự thảo báo cáo của Bộ chính trị trình Đại hội 3 của Đảng. Lê Duẩn đã được Bác Hồ
cử đi hỏi ý kiến của Liên Xô và Trung Quốc. Trả lời của Liên Xô là: Bắc Nam phải chung sống
hoà bình và việc thống nhất đất nước sẽ được giải quyết thông qua thi đua hoà bình, ai xây dựng
tốt hơn thì kẻ đó sẽ thắng. (Vì vậy khi nghe Liên Xô nói chung sống hoà bình và thi đua hoà bình,
trong đề cương trình Bí thư Đảng, Lê Duẩn hiểu Liên Xô muốn nói gì về cách mạng Việt Nam).
Liên Xô cho rằng nếu ta làm cách mạng để giải phóng miền Nam thì sẽ xảy ra chiến tranh lớn và
làm nguy hại đến hoà bình thế giới. Liên Xô không tin rằng ta có thể thắng được ở miền Nam.
Podgorny, một trong ba lãnh đạo Liên Xô đã nói với Lê Duẩn: “Các anh không thắng nổi Mỹ
đâu”. Lê Duẩn đã trả lời: “Các đồng chí không tin à? Chúng tôi sẽ thắng cho các đồng chí xem”.
Liên Xô cũng cho rằng đối với thế giới Việt Nam chỉ là một nước nhỏ xíu không quan trọng lắm.

Vì vậy theo Lê Duẩn, Liên Xô một mặt phải viện trợ cho ta vì sợ ta ngả hẳn vào tay
Trung Quốc nhưng mặt khác chỉ viện trợ ở mức độ vừa phải và về vũ khí thì cũng hạn chế ở vũ
khí phòng ngự không cho vũ khí tấn công như thế để không khiêu khích Mỹ, không làm hại đến
chủ trương chung sống hoà bình giữa Liên Xô và Mỹ. Liên Xô rất ngại bộ phận thân Trung Quốc
trong Đảng ta (Xin mở ngoặc ở đây: đó là hậu quả của chính sách của Stalin, phân chia vùng ảnh
hưởng giữa 2 Đảng khi gặp Mao năm 1950, giao Việt Nam cho Trung Quốc phụ trách).

Quan hệ giữa ta và Liên Xô đã có truyền thống từ lâu. Bác Hồ đã từng sống, học tập
và làm việc tại Liên Xô, trong Quốc tế Cộng sản. Đảng ta trước đây, Đảng cộng sản Đông Dương,
là một chi bộ của Quốc tế Cộng sản. Trong kháng chiến chống Pháp, Liên Xô đã từng giúp đỡ ta.
Sau 1954, Liên Xô tiếp tục và tăng cường giúp đỡ ta về kinh tế và quốc phòng. Trong chiến lược
toàn cầu của mình, Liên Xô muốn có chỗ đứng ở Đông Nam Á và Việt Nam là một bàn đạp. Liên
Xô cần ta, nhưng nếu ta xử sự không khéo với Liên Xô khi đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại,
Liên Xô không phải không dám trừng trị ta như đã làm với Albani tuy rằng Albani cũng có tầm
quan trọng chiến lược đối với Liên Xô ở Địa Trung Hải, ở đây không nhắc lại sự trừng phạt của
Liên Xô đối với Trung Quốc. Nhờ có đường lối và phương pháp đúng đắn của Đảng ta, của Bác
Hồ, của Lê Duẩn trong khi ta chống chủ nghĩa xét lại, mà Liên Xô vẫn tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ
chúng ta. Bác Hồ cũng như Lê Duẩn thường nói: “Dân tộc ta, Đảng ta có truyền thống có trước,
có sau, không vong ơn bội nghĩa. Vì vậy chúng ta không bao giờ quên ơn Liên Xô về sự ủng hộ
và giúp đỡ ấy; nó rất quý báu trong hoàn cảnh nước ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc, và bị bao
vây cô lập”.

Cũng nói luôn ở đây rằng đối với Trung Quốc cũng thế. Trong kháng chiến chống
Pháp, trong xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam, Trung Quốc đã dành cho chúng ta sự
ủng hộ và giúp đỡ quý báu. Chúng ta không bao giờ quên ơn sự giúp đỡ ấy. Kỹ thuật của Trung
Quốc còn kém, công trình do Trung Quốc xây dựng vận hành không trôi chảy, thiết bị luôn bị
hổng hốc, chóng bị ăn mòn, nhưng không vì thế mà ta oán trách bạn. Cho dẫu sau này khi Trung
Quốc coi ta là thù, đem quân xâm lấn nước ta, ta kiên quyết phản kích lại, ta cũng không vì thế
mà phủ nhận sự ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc đối với ta.

Ta đang chuyển sang nói về Trung Quốc. Vậy hãy tiếp tục nói về tư tưởng bành
trướng của Trung Quốc và những tính toán xấu của Trung Quốc đối với ta. Trên kia đã nói về
cuộc gặp gỡ Vũ Hán, trong đó Mao Trạch Đông thổ lộ ý định làm cuộc cách mạng mới và tổ chức
đội quân 500 triệu bần nông để giải phóng Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam ta. Về sau này
mới biết là lúc ấy Mao đang chuẩn bị cuộc cách mạng văn hoá để lật đổ Lưu Thiếu Kỳ và các
người lãnh đạo khác của Trung Quốc. Với lý do là họ đã đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Sự
việc là như sau: Sau cuộc đại nhảy vọt thất bại, nhân dân Trung Quốc lâm vào cảnh đói khủng
khiếp, Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc triệu tập đại hội toàn quốc khoá thứ VIII (2). Gọi
là VIII (2) vì đại hội VIII họp vào năm 1956. Dự đại hội lần VIII (2) là những đại biểu đã dự VIII
(1). Trong đại hội này, Mao bị phê bình và bị yêu cầu thôi giữ chức Chủ tịch nước, chỉ giữ chức
Chủ tịch Đảng mà thôi. Lý do công khai đưa ra và cũng được thông báo cho ta là Mao cần có
nhiều thời gian hơn để nghiên cứu những vấn đề lý luận của cách mạng Trung Quốc trong thời kỳ
mới. Lưu Thiếu Kỳ được bầu làm Chủ tịch nước thay Mao. Trong báo cáo chính trị do Lưu đọc
trước đại hội Đảng VIII (2), có nhận định rằng sau khi hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp và cải
tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư nhân, thì đấu tranh giai cấp mưa to gió lớn ở
Trung Quốc không còn nữa mà chỉ còn đấu tranh mưa phùn gió nhẹ và chủ yếu là để giải quyết
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Sau hội nghị, Mao tức lắm, tìm cách phản kích. Việc phái các
tổ công tác đặc biệt đi điều tra nông thôn và các xí nghiệp ở thành thị chính là đi thu thập tài liệu
chứng minh luận điểm của Lưu là sai, chứng minh rằng ở thành thị cũng như nông thôn cuộc đấu
tranh giai cấp rất gay gắt quyết liệt. Trên cơ sở những kết luận ấy, Mao với sự hậu thuẫn của quân
đội đã huy động hàng trăm triệu “Hồng Vệ Binh” xuống đường với khẩu hiệu: “Nã pháo vào bộ
tư lệnh tư sản”, trực tiếp đập Lưu và các người lãnh đạo khác. Đó là cuộc cách mạng văn hoá
long trời lở đất lừng danh với kết cục bi thảm mà chúng ta đã biết và ở đây không đi vào các chi
tiết khác, tuy cũng khá hấp dẫn và thú vị.

Lê Duẩn, với cái nhìn sắc sảo của mình, ngay từ đầu đã thấy cách mạng văn hoá là
một sự điên rồ nhằm âm mưu xấu. Trung Quốc thúc dục ta đăng bài ca tụng cách mạng văn hoá.
Bác Hồ thấy khó xử nói: hay là ta đăng một số tin để Trung Quốc khỏi giận; Lê Duẩn thưa với
Bác là không nên, nếu đăng ta sẽ bị mắc kẹt. Trường Chinh có bài gửi cho báo Nhân Dân, Hoàng
Tùng báo cáo tức tốc với Lê Duẩn, Lê Duẩn kiên quyết không cho đăng, nói với Hoàng Tùng
rằng mình sẽ nói lại với anh Năm. Trong quá trình Cách mạng văn hoá, có lần Lê Duẩn sang Bắc
Kinh làm việc, hồi ấy Lâm Bưu vừa được chỉ định làm “Thế tử” thừa kế của “người cầm lái vĩ
đại”. Lý Ban đang ở Bắc Kinh nói với Lê Duẩn nên đến chào Lâm Bưu vì nay mai. Lâm Bưu sẽ
lên thay Mao. Lê Duẩn kiên quyết từ chối, nói: “Họ hạ bệ người xoành xoạch, biết đâu ngày mai
họ sẽ hạ Lâm Bưu xuống, đưa người khác lên. Nếu tôi đến chào Lâm Bưu mà ngày mai Lâm Bưu
bị đưa ra đấu tố thì có phải mình bị hố và kẹt không?”

Trước Đại hội 3 của ta, Lê Duẩn được Bác Hồ và Bộ chính trị phái sang hỏi ý kiến của
Trung Quốc về Cách mạng Việt Nam. ý kiến của Trung Quốc và Mao Trạch Đông là: “Đối với
miền Nam, phải mai phục trường kỳ, chờ đợi thời cơ”. ý kiến đã rõ.

Năm 1961 (vào khoảng đầu năm nếu tôi không nhớ lầm), khi phong trào Đồng Khởi
lên cao, thành phần yếu tố vũ trang tăng lên khá, báo chí Mỹ la lối rùm beng là ta phát động chiến
tranh, vi phạm Hiệp Định Genève (mà chúng đã vi phạm từ đầu), Trung Quốc chất vấn, yêu cầu
ta giải thích tại sao ta phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Bác Hồ thấy Trung Quốc chất
vấn rất lo, bèn phái Lê Duẩn sang trình bày với Trung Quốc. Lê Duẩn nói với tôi: “Hiện nay
Trung Quốc và Mỹ đang đàm phán với nhau. Đại sứ Trung Quốc Vương Bình Nam và Đại sứ Mỹ
ở Ba Lan mỗi tháng gặp nhau một lần. Một trong những điều kiện mà Mỹ đưa ra để tiến tới bình
thường hoá giữa hai nước là Trung Quốc dùng ảnh hưởng của mình để kiềm chế Việt Cộng ở
miền Nam và Trung Quốc đã hứa với Mỹ. Đó là lý do tại sao Trung Quốc phản ứng mạnh với ta
khi phong trào cách mạng lên cao kết hợp chính trị và quân sự. Lê Duẩn sang Bắc Kinh, Chu Ân
Lai tiếp và nói: “Vì sao các anh lại đấu tranh vũ trang ở miền Nam? Các anh phải thấy nếu các
anh phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam thì chiến tranh sẽ lan ra miền Bắc. Nếu chiến tranh
ra miền Bắc thì chúng tôi báo cho các anh biết Trung Quốc không thể gửi quân sang giúp các anh
để đánh Mỹ được đâu. Quân đội Trung Quốc nay khác hồi chiến tranh Triều Tiên rồi. Hồi chiến
tranh Triều Tiên, Giải phóng quân Trung Quốc vừa mới đại thắng giải phóng đất nước, họ còn
hăng, cho nên dễ điều động họ sang đánh ở Triều Tiên. Còn ngày nay, Trung Quốc đã có hoà bình
hơn 10 năm rồi, quân đội Trung Quốc cũng quen với hoà bình rồi, bảo họ sang đánh giúp Việt
Nam họ không đi đâu. Vì vậy nếu Mỹ đánh ra miền Bắc thì các anh một mình gánh chịu đòn lấy”.
Lê Duẩn trả lời: “Ở miền Nam chỉ có đấu tranh chính trị là chính thôi, thỉnh thoảng để tự bảo vệ
trong các cuộc vây ráp của địch, anh em dùng súng chống cự lại. Địch nó la to để báo động thế
giới và để có cớ can thiệp vào miền Nam và tăng cường khủng bố đàn áp nhân dân”. Chu trả lời:
“Nếu thế thì chấp nhận được”. Thừa cơ Lê Duẩn tiến thêm một bước “Nhưng muốn tự vệ có kết
quả thì chống cự vũ trang phải có tổ chức”. Chu Ân Lai trả lời: “Đồng ý là có tổ chức nhưng chỉ
có thể tổ chức đến tiểu đội thôi”. Lê Duẩn lại nói: “Tiểu đội nhỏ quá, kinh nghiệm trong cuộc
chiến tranh chống Pháp là đơn vị độc lập tối thiểu phải là đại đội”. Bất đắc dĩ Chu nói: “Thôi,
đồng ý các đồng chí tự vệ phổ biến bằng đơn vị tiểu đội, trường hợp cá biệt có thể có đơn vị trung
đội”. Sau khi hội đàm, Lê Duẩn dặn tôi: “Kỳ này về có vào báo cáo với Bác trước (như mọi lần)
thì chú chỉ được nói những vấn đề khác, không được nói vấn đề vũ trang mà Chu Ân Lai nói với
chúng ta. Vấn đề đó để tôi báo cáo trực tiếp với Bác”. Khi báo cáo với Bác, Lê Duẩn nói: “Trung
Quốc đồng ý cho ta đánh đến đơn vị tiểu đoàn”. Thế là Bác an tâm.

Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam ngày càng phát triển thành chiến tranh cách
mạng, các trận đánh ngày càng lớn. Trung Quốc thấy Mỹ không có phản ứng bất lợi đối với
Trung Quốc. Trái lại cuộc đấu tranh của ta ngày càng làm cho Việt Nam có giá cao hơn đối với
Trung Quốc trong cuộc mặc cả với Mỹ, họ chẳng những hết sợ mà còn khen ngợi, khuyến khích
ta. Lúc đầu mỗi lần gặp Mao, khi Mao khen “Các đồng chí đánh du kích khá đấy” thì Lê Duẩn trả
lời: “Đó là nhờ chúng tôi học tập tư tưởng Mao Trạch Đông”. Chẳng những khen, mà còn hào
phóng hơn trong viện trợ cho ta. Rồi ta đánh càng to, thắng càng lớn, chẳng những đánh thắng
quân nguỵ với cố vấn Mỹ mà cả quân chiến đấu Mỹ đang ngày càng được đưa vào nhiều hơn ở
miền Nam. Thắng lợi của ta làm cho vị thế của Trung Quốc càng mạnh hơn trong cuộc mặc cả
với Mỹ, khi tiếp Lê Duẩn, Mao nói: “Các anh đánh giỏi hơn chúng tôi rồi”. Lê Duẩn giở lại trò
chơi cũ: “ấy là nhờ chúng tôi học tập tư tưởng Mao Trạch Đông”. Mao nói: “Bây giờ thì học trò
hơn thầy rồi” và hầu bao của Trung Quốc lại mở rộng hơn cho ta.

Năm 1964, trước và sau sự kiện vịnh Bắc bộ Mỹ thăm dò phản ứng của Trung Quốc,
các báo đài của Mỹ liên tiếp đưa ra những lời bình luận thăm dò thái độ của Trung Quốc nếu Mỹ
ném bom miền Bắc, có những bài mang tính khiêu khích, trêu chọc Trung Quốc: Nếu Mỹ ném
bom miền Bắc chắc là Bắc Kinh không phản đối. Nghe thật sốt ruột. Nhưng phía Trung Quốc
không cải chính, không phản ứng gì cả. Hồi đó Trung Quốc liên tiếp nhắc đi nhắc lại trên báo chí
phương châm xử thế của Trung Quốc: người không đụng đến ta, ta không đụng đến người. Mao
còn nhắn với Mỹ: Quân giải phóng Trung Quốc không vượt biên giới. Rõ ràng Trung Quốc bật
đèn xanh cho Mỹ. Họ đã bàn với Mỹ ở Vác Xô Vi. Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc.

Khi cuộc đấu tranh miền Nam đang cao giá trong cuộc mặc cả sau lưng ta ở Vác Xô
Vi giữa Trung Quốc và Mỹ, và Mỹ bắt đầu nói đến chuyện thương lượng, thì ta tính đến chuyện
kéo Mỹ xuống thang để ngồi lại đàm phán với ta. Đó là vào khoảng cũng lâu lâu trước tết Mậu
Thân 1968. Ta đi thăm dò phản ứng của Trung Quốc về khả năng ta có thể đàm phán với Mỹ. Nếu
ta và Mỹ đàm phán trực tiếp với nhau thì Trung Quốc sẽ mất lá bài quan trọng trong cuộc mặc cả
với Mỹ. Phản ứng của Trung Quốc không sai dự báo của ta. Chu Ân Lai giận, hỏi Lê Duẩn (có cả
Nguyễn Chí Thanh nữa), có phải các anh có ý định đó sau khi gặp Cô-xư-ghin? Lê Duẩn nói:
“Kinh nghiệm cách mạng thế giới chỉ ra rằng: lúc nào mà người cộng sản suy nghĩ và hành động
với tinh thần độc lập tự chủ thì cách mạng thắng lợi, trái lại khi nào nghe theo nước ngoài thì thất
bại. Năm 1949, khi các anh định vượt sông Trường Giang nam hạ, Stalin đã từng khuyên các anh
không nên nhưng các anh cứ nam hạ. Kết quả cách mạng Trung Quốc thắng lợi. Năm 1954 chúng
tôi nghe Liên Xô và Trung Quốc ký hiệp định Genève với Pháp, sau này xem lại đó là một hiệp
định bất lợi, thiệt thòi cho chúng tôi. Sau hiệp định Genève chúng tôi độc lập suy nghĩ và hành
động cho nên cách mạng miền Nam phát triển như ngày nay”. Chu Ân Lai nghe tái cả mặt. Đó,
Lê Duẩn là như thế đó, khi cần mềm mỏng thì mềm mỏng, khi cần ăn miếng trả miếng thì ăn
miếng trả miếng. Đã nói thì nói cho liền mạch đến cả chuyện về sau này có lần gặp Mao, Mao hỏi
Lê Duẩn: “Lào diện tích bao nhiêu?”. Lê Duẩn nói: “20 vạn kí lô mét vuông”. Mao: “Dân số Lào
bao nhiêu?”. “2 triệu” (hồi bấy giờ mới 2 triệu). Mao nói: “Chà, đất rộng mà dân thưa thớt quá.
Vân Nam diện tích cũng xấp xỉ mà dân số 40 triệu, giá mà đưa 15, 20 triệu dân Vân nam vào Lào
ở thì có hay không”.
Một lần khác Mao hỏi Lê Duẩn: “Có phải Việt Nam đã đánh thắng quân Nguyên và
quân Thanh không?”. Lê Duẩn đáp: “Vâng, còn đánh thắng cả quân Minh nữa”. Ta biết quân
Nguyên là người Mông Cổ, quân Thanh là người Mãn Châu, còn quân Minh là người Hán, dân
tộc đa số của Trung Quốc. Nhà Nguyên và nhà Thanh đều đã thống trị Trung Quốc khá lâu. Ngụ ý
Lê Duẩn là Việt Nam chúng tôi không sợ Trung Quốc đâu, đừng hù doạ nắn gân chúng tôi.

Những ví dụ trên đây là một số trong những sự việc Lê Duẩn đã từng trải qua trong
quan hệ với Trung Quốc, và Lê Duẩn thường đem ra nói với các cán bộ đảng viên để mong mọi
người đề cao cảnh giác. Lúc đầu Lê Duẩn còn nói trong phạm vi hẹp, càng ngày Lê Duẩn càng
nói trong phạm vi rộng hơn, thường là trong các cuộc hội nghị có Lê Duẩn dự hoặc trong các lần
đi công tác ở các địa phương. Cán bộ đảng viên nói chung thích thú nghe Lê Duẩn nói (tiếc rằng
giọng nói và cách nói nhanh, nuốt chữ của Lê Duẩn làm cho rất đông người nhiều khi nghe không
ra, xì xào hỏi nhau là Lê Duẩn nói gì, khi người nghe được nói lại cho người nghe không rõ thì
mọi người khoái chí).

Nhưng những lần nói chuyện của Lê Duẩn, những điều Lê Duẩn suy nghĩ công khai
về Trung Quốc làm cho một số cán bộ thân Trung Quốc bực tức, căm ghét Lê Duẩn, kể cả một số
uỷ viên Bộ chính trị. Họ căm ghét luôn cả tôi mà họ cho là cánh tay phải của Lê Duẩn, gợi ý
chuyện này chuyện kia cho Lê Duẩn, nói cho Lê Duẩn biết chuyện này chuyện kia của họ. Có lần
tôi nói với Lê Đức Thọ: “Anh biết Lê Duẩn là người tự mình suy nghĩ lấy những vấn đề cần giải
quyết, chả bao giờ nghe ý kiến của người khác trước khi Lê Duẩn tự bản thân thể nghiệm sự đúng
đắn của những ý kiến đó. Lê Duẩn không phải là người nhờ người khác suy nghĩ thay cho mình.
Tôi chẳng qua là bạn thân và học trò của Lê Duẩn, bạn thân từ trước lúc ở tù, bạn thân trong tù và
về sau này khi tôi được gặp lại Lê Duẩn - Lê Duẩn là bậc thầy của tôi, tôi chỉ thể hiện những suy
nghĩ của Lê Duẩn, vì Lê Duẩn ít tự mình viết, mà nói ý cho tôi viết. Khi nói chuyện tay đôi với
tôi, Lê Duẩn thường coi tôi như một đối tượng nghe dùm để định hình ý nghĩ của mình, chứ
không phải là người mà Lê Duẩn cần nghe ý kiến. Tôi không ngắt lời Lê Duẩn để trả lời như
Hoàng Tùng chẳng hạn. Khi biết rằng Lê Duẩn không phải nói để chờ tôi trả lời, mà tôi chỉ chêm
vào một vài chỗ để cho ý kiến của Lê Duẩn dễ bật ra”. Lê Đức Thọ vỗ vai tôi tỏ vẻ thân mật:
“Mình không ghét cậu, mình thương cậu là một cán bộ tốt lại có trình độ. Nhưng Trường Chinh
mới là người ghét cậu, găng với cậu”.

Về sau này, khi Võ Chí Công lên làm uỷ viên Bộ chính trị và Ban bí thư, nhiều lần Võ
Chí Công nói với tôi: “Không biết sao Lê Đức Thọ thù cậu đến thế, muốn trị cậu lắm đây. Nhưng
trị “đếch” gì được” (xin lỗi dùng chữ hơi thô tục).
Đúng là tôi có kể cho Lê Duẩn nghe một số chuyện về Trung Quốc, về mâu thuẫn
giữa Trung Quốc và Liên Xô mà tôi biết được. Một số chuyện đó tôi đã nhắc lại trong quá trình
viết phần này. Còn chuyện sau đây nữa.

Hồi tôi còn nghiên cứu học tập ở Viện Mác-Lenin Trung Quốc. Một hôm cả lớp chúng
tôi được dẫn đi xem Viện bảo tàng quân đội nhân dân Trung Quốc. Đây còn là dự án trưng bày
thử, cho khách nội bộ xem và góp ý kiến. Phòng đầu tiên khi bước vào bảo tàng trưng bày hai bản
đồ rất lớn của Trung Quốc, choán hết cả bề rộng và chiều cao của tường có diện tích rất lớn. Bản
đồ thứ nhất là “Bản đồ của Trung Quốc trước đây khi chưa bị đế quốc chia nhau”. Bản đồ thứ hai
là “Bản đồ Trung Quốc sau khi đã bị đế quốc chia nhau”. Bản đồ thứ nhất vẽ Trung Quốc bao
gồm phần đất của Trung Quốc hiện nay thêm phía Bắc và Tây Bắc là một phần rộng lớn của
Xibia. Phía Tây Nam bao gồm một phần ấn Độ. Phía Nam và Đông bao gồm cả Việt Nam, Lào,
Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Mianma. (Tôi không nhớ có Indonesia hay không).
Biển thì bao gồm cả một phần biển Nhật Bản, toàn bộ Biển Đông sát Philippin, chạy xuống đến
sát Indonesia. Còn bản đồ thứ hai, thí đại khái như Trung Quốc hiện nay, nhưng biển thì một nửa
Vịnh Bắc Bộ chạy sát Đà Nẵng xuống phía Nam sát Malaysia, Singapore, Brunây và Sarawak.
Xem xong tôi tỏ ý không đồng tình và nói với người phiên dịch Trung Quốc: “Việt Nam chúng
tôi chưa bao giờ là một bộ phận của Trung Quốc. Phong kiến Trung Quốc có xâm lược và đô hộ
Việt Nam cả ngàn năm, sau đó Việt Nam giành được độc lập và lập nên các triều đại người Việt
Nam do vua Việt Nam trị vì. Thỉnh thoảng Trung Quốc đến xâm lược Việt Nam, chúng tôi đã
đánh thắng, hoặc có khi bị thua nhưng sau đó kháng chiến thắng lợi và giành lại độc lập. Các
triều đại vua Việt Nam sau khi chiến thắng, đều theo lệ xưa, xem mình là nước nhỏ, để được sống
yên ổn, có cống nạp lễ vật cho Hoàng Đế Trung Quốc và được Hoàng Đế Trung Quốc phong vua.
Đó là cách xử thế thường tình giữa nước nhỏ với nước lớn thời bấy giờ, không có nghĩa là Việt
Nam là bộ phận của Trung Quốc”. Người phiên dịch không nói gì, không biết ngoài ý kiến tôi ra,
khách khác có ý kiến gì không mà vài năm sau khi công tác trở lại Trung Quốc, đi xem bảo tàng
quân đội chính thức, thấy không còn treo bản đồ thứ nhất ấy nữa. Nhưng trong các sách giáo khoa
dạy cho học sinh, đều có 2 loại bản đồ ấy.

Một số người cho rằng những nhận định của Lê Duẩn về Trung Quốc là quá đáng, là
thổi phồng, suy diễn, là do Lê Duẩn ghét Trung Quốc. Tôi không nghĩ như thế, những người nghĩ
Lê Duẩn như thế xin đừng quên rằng trong các cuộc họp mặt quốc tế chính Lê Duẩn có khi đơn
thương độc mã phản đối những mưu đồ tập thể chống Trung Quốc, do đó đã làm cho Trung Quốc
khỏi bị cô lập. Lê Duẩn là con người yêu nước mảnh liệt có tinh thần dân tộc rất cao. Lê Duẩn rất
nhạy cảm và có cái nhìn rất sắc sảo và sâu sắc về những biểu hiện của tư tưởng bành trướng của
Trung Quốc đối với Việt Nam, dù là nhỏ nhặt nhất, nhiều khi chỉ xuất hiện thoáng qua. Những sự
kiện xảy ra trong những năm 70 và 80 trong thái độ và hành động công khai thù địch của Trung
Quốc đối với Việt Nam xác minh những nhận định của Lê Duẩn từ những năm 50-60 là đúng.
Trong khi đang tập trung sức lực và trí tuệ để chống Mỹ, Lê Duẩn rất lo một ngày nào đó Trung
Quốc sẽ nuốt chửng Việt Nam. Lê Duẩn rất sợ Việt Nam vì bị văn hoá Trung Quốc mê hoặc mà
đánh mất bản sắc văn hoá riêng của mình. Lê Duẩn thường hay nói với cán bộ đảng viên và nhân
dân: Trung Quốc đô hộ ta nghìn năm, nhưng không đồng hoá nổi dân tộc Việt Nam trong khi các
dân tộc khác ở phía Nam Trung Quốc bị đồng hoá hết. Lê Duẩn thích đưa ra những ví dụ như Việt
Nam vẫn giữ phong tục nhuộm răng đen, ăn trầu, mặc váy đến đời Tự Đức mới bắt buộc phụ nữ
mặc quần. Lê Duẩn phân tích những cái dở của Nho Giáo và cho rằng thời Lý Trần, các vua lấy
Phật Giáo làm quốc đạo là để chống lại ảnh hưởng độc hại của Nho Giáo, và trong Phật Giáo,
Việt Nam có phái riêng của mình: phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập để chống lại
Phật Giáo Đại Thừa Trung Quốc hoá. Lê Duẩn nói tư tưởng cốt lõi của Nho Giáo như Tam Cương
Ngũ Thường; quân, sư, phụ (Quân sử thần tử thần bất tử bất trung, phụ sử tử vong tử bất vong bất
hiếu. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), những cốt lõi ấy đã bị người Việt Nam
ta lật ngược lại: phép vua thua lệ làng, con hơn cha là nhà có phúc, thuận vợ thuận chồng tát Biển
Đông cũng cạn. Lê Duẩn lấy ví dụ: người Nhật Bản kháng cự lại Nho Giáo bằng Thiên Đạo, đó là
một trong những lý do làm cho nước Nhật hiện đại hoá sớm. Nước ta trước đây đã có vận may
hiện đại hoá, nhưng bị tư tưởng Nho Giáo trói buộc cho nên không nắm được vận hội ấy. Lê
Duẩn cho rằng trong văn chương của Trung Quốc hình tượng người phụ nữ là hình tượng xấu xa
nhất: những yêu ma quỷ quái đều là con gái. Trong đời, những phụ nữ như Võ Tắc Thiên, Tây
Thi, Dương Quý Phi, Từ Hi Thái Hậu được nổi danh không phải chỉ vì mặt tốt mà còn vì mặt xấu
xa.

Năm 1964 (tôi không nhớ ngày tháng) đùng một cái xảy ra sự thay đổi trong lãnh đạo
cấp cao của Liên Xô. Khrushev bị buộc thôi giữ chức Tổng bí thư và uỷ viên Bộ chính trị,
Brezhnev lên thay làm Tổng bí thư.

Bộ chính trị trao đổi với Trung Quốc, Trung Quốc cho hay Trung Quốc cũng bị bất
ngờ và đề nghị ta cử đoàn cùng đi với Trung Quốc sang Liên Xô thăm dò tình hình. Bác và Bộ
chính trị cử Lê Đức Thọ cùng với Hoàng Văn Hoan đi. Tháp tùng đoàn có Vũ Tuấn và tôi.

Sang Bắc Kinh nghỉ lại hai hôm sau cùng đi chung trên máy bay của Trung Quốc với
Chu Ân Lai và một số người khác, trong đó có mấy tướng. Ghé lại Omsk, Kiều Quán Hoa (?) Bộ
trưởng ngoại giao Trung Quốc và mấy tướng của Trung Quốc ngồi bàn ăn chung với mấy tướng
của Liên Xô và hai chúng tôi (Tuấn và tôi). Kiều Quán Hoa cứ cạn chén với mấy tướng Liên Xô
hết ly rượu vốt ca này đến ly khác hy vọng các tướng Liên Xô say để cho mấy tướng Trung Quốc
moi chuyện. Kiều Quán Hoa tửu lượng rất cao người cứ tỉnh bơ, còn mấy tướng Liên Xô cũng
vẫn tỉnh táo. Cho đến giờ máy bay cất cánh, hai đoàn phải ra máy bay, phía Trung Quốc không
moi được tin tức gì cả. Đến Moscow, được Andropov lúc ấy còn là Trưởng ban đối ngoại, thông
báo cho biết tình hình coi như vấn đề thuần tuý thuộc nội bộ Liên Xô, không ảnh hưởng đến
chính sách đối ngoại của Liên Xô.

Lê Đức Thọ bảo tôi đi tìm gặp những bạn quen người Liên Xô để dò la. Tôi đến chơi
nhà S. một người đã từng sang làm giáo sư cho trường Nguyễn Ái Quốc Tôi quen và khá thân với
hai vợ chồng anh ấy. Bố vợ anh ấy là uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô. Hai vợ chồng
S. mời tôi ăn cơm. Trong bữa ăn S. Rất cởi mở. S. nói Khrushev phạm nhiều sai lầm nghiêm
trọng về đối ngoại như đưa tên lửa có đầu đạn hạt nhân sang Cu Ba bố trí chĩa vào Mỹ, gây ra
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng suýt dẫn đến chiến tranh. Về Brezhnev, S. đánh giá là một con
người rất tầm thường, trước đây chỉ là chính uỷ trung đoàn, không có tài năng gì đặc biệt, chẳng
qua là người hiền lành, được mọi người chấp thuận như là một nhân vật quá độ trong khi chưa
tìm ra được người thay thế đủ tầm cỡ.

Bước qua thời Brezhnev, quan điểm của Liên Xô vẫn không thay đổi. Nhưng
Brezhnev không háu đá như Khrushev. Quan hệ với ta được cải thiện hơn. Thất bại trong chiến
tranh đặc biệt ở miền Nam, Mỹ leo thang chiến tranh, đưa ồ ạt lính chiến đấu Mỹ vào và chuyển
sang chiến tranh cục bộ. Ở miền Bắc cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân càng ngày càng
leo thang. Ta cần một khối lượng vũ khí lớn hơn và những vũ khí mới như máy bay chiến đấu, tên
lửa phòng không... nói chung những yêu cầu của ta đều được Liên Xô đáp ứng. Vũ khí của Liên
Xô phải quá cảnh Trung Quốc mới đến ta. Nói chung có một ít trục trặc nhưng cuối cùng việc quá
cảnh cũng được thực hiện tương đối êm ả.

Chúng ta hy vọng có sự cải thiện trong quan hệ Xô-Trung. Việc đó đã không xảy ra.
Trung Quốc đang ráo riết thực hiện chiến lược toàn cầu mà bấy lâu nay họ ấp ủ. Chính vào thời
kỳ này, Trung Quốc cho ra đời thuyết bốn thế giới. Trong nước cuộc đấu tranh nội bộ trong Đảng
âm ỉ, báo hiệu cuộc cách mạng văn hoá “long trời lở đất”, được Mao phát động vào cuối những
năm 60 và trong thập kỷ 70.

Những tháng năm chiến tranh cục bộ 1965-1972, tôi không giúp việc cho Lê Duẩn
nữa cho nên “những kỷ niệm về anh Ba Duẩn” của tôi không có phần nói một cách hệ thống
những kỷ niệm về Lê Duẩn liên quan đến các vấn đề quan hệ quốc tế và cách mạng miền Nam, vì
vậy tôi chỉ ghi lại một số kỷ niệm lẻ tẻ.
Trước hết nói một ít về việc tôi không giúp việc Lê Duẩn với tư cách phó văn phòng
Trung ương Đảng, để chuyển sang làm bí thư đảng đoàn, Phó Chủ nhiệm, sau đó là Chủ nhiệm uỷ
ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước. Trong suốt cuộc đời làm cán bộ của Đảng, tôi không bao giờ
hỏi lý do vì sao tôi bị hoặc được điều động từ công tác này sang công tác khác. Sau này duy chỉ
có một lần khi tôi bị kỷ luật cùng chung với nhiều anh em Bộ trưởng khác trong khối phân phối
lưu thông trong vụ “giá - lương - tiền” tôi mới phản kháng, và sau đó Trường Chinh mới huỷ
quyết định ấy.

Vào cuối năm 1964, khi Mỹ leo thang phá hoại ra miền Bắc, trong khi đang diễn ra
trào lưu chống xét lại, cơ quan của Trung ương phải lần lượt sơ tán khỏi Hà Nội. Trường Tuyên
Giáo Trung ương cũng sơ tán lên vùng Phù Ninh (Vĩnh Phú) bên bờ sông Lô dưới tán rừng cọ.
Trường tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ huyện về nghị quyết 9. Trước khi đi, tôi hỏi Tố
Hữu, Bí thư Trung ương Đảng đồng thời là Trưởng ban Tuyên giáo: “Kỳ này anh có bật đèn xanh
cho tôi nói không?”. Bật đèn xanh ngụ ý là cho phép phê phán những cái sai của Trung Quốc,
điều tối kỵ trong bầu không khí lúc bấy giờ. Tố Hữu trả lời: “Bật đèn “xanh” cho cậu đấy!”.

Được ý kiến của Tố Hữu, trên lớp học, tôi phân tích những cái sai của Trung Quốc.
Mỗi lần nói đến Trung Quốc, tôi yêu cầu anh em không được ghi và nhà trường phải tắt máy ghi
âm. Cẩn thận hơn mỗi lần nói đến những vấn đề “cấm kỵ” tôi lấy bàn tay bịt chặt micrô ghi âm
lại. Thế mà không biết vì sao bài nói chuyện của tôi lọt vào tay Đại sứ Trung Quốc và được gởi
về Bắc Kinh. La Quý Ba mời Trần Tử Bình (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc lúc bấy giờ, một
người coi Trung Quốc như nhà mình, kiến nghị với Trung Quốc cả những điều nên và không nên
làm trong công việc nội bộ của Trung Quốc!) đến gặp và nói: “Trung Quốc từ trước đến nay đối
với Việt Nam như bát nước đầy, thế mà rất tiếc là có cán bộ cao cấp của Việt Nam lại nói ở chỗ
đông người rằng Trung Quốc muốn làm trung tâm cách mạng thế giới”. (Điều đó quá rõ ràng rồi
chứ gì, chỉ ít lâu sau thì Trung Quốc công khai tuyên bố điều đó). Trần Tử Bình diện về cho Bộ
chính trị, Lê Duẩn hỏi tôi: “Cậu nói thế nào mà các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt... làm
ầm lên thế”. Các anh ấy đòi chất vấn tôi và kỷ luật tôi vì đã phê phán Trung Quốc như vậy là trái
với chủ trương đường lối của Đảng, phá hoại tình hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tôi
nói với Lê Duẩn: “Trung Quốc muốn ám chỉ anh đấy, phàn nàn tôi chỉ là cái cớ để phê bình anh,
điều mà họ không dám”. Chuyện đó âm ỉ một thời gian trong Bộ chính trị và Ban bí thư.

Tôi không hiểu có phải vì điều đó hay không hay vì lý do nào khác mà mấy tháng sau
vào khoảng đầu 1965 tôi nhận được quyết định điều động công tác do Lê Đức Thọ ký. Tôi nghĩ
trong việc này, ngoài chuyện Phù Ninh, còn có chuyện bức điện của tôi gửi Lê Duẩn khi Lê Đức
Thọ và tôi ở Indonesia và một số việc khác. Sau này khi thông báo cho tôi biết là tôi không được
cử vào Ban chấp hành Trung ương khoá 6, Lê Đức Thọ vỗ vai tôi nói: “Cái miệng của cậu nó hại
cậu”, có lẽ đúng thế.

Trước khi Bác Hồ qua đời, Bộ chính trị đã có quyết định nhờ Liên Xô giữ thi thể của
Bác cho con cháu Bác hôm nay và mai sau được mãi mãi trông thấy Bác. Phía Liên Xô đã đồng ý
và cử một số chuyên gia về lĩnh vực này sang Hà Nội để hướng dẫn cho bác sĩ của ta làm những
việc cần thiết ngay sau khi Bác mất và họ cũng chuẩn bị những việc cần thiết. Đến khi Bác mất,
chuyên gia Liên Xô bảo ta rằng muốn giữ thi thể của Bác thì phải đưa Bác sang Liên Xô, đợi khi
nào hết chiến tranh sẽ đưa Bác về Việt Nam, chứ tại Việt Nam chuyên gia Liên Xô không thể giữ
thi thể của Bác được. Tâm trạng của các uỷ viên Bộ chính trị lúc bấy giờ là vì mình thân Trung
Quốc chống xét lại Liên Xô cho nên không dám đặt vấn đề với Liên Xô để họ thay đổi quyết định
ấy. Nếu chuyên gia Liên Xô cho rằng tại Việt Nam không đủ điều kiện để giữ thi thể của Bác thì
là chỉ còn cách chôn Bác thôi. Lê Duẩn không đồng ý, bảo để Lê Duẩn thu xếp với Liên Xô
chuyện này. Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp của Bộ chính trị, Lê Duẩn đến nhà khách của Chính
phủ, nơi nghỉ của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô là Kosygin, khách đến dự lễ tang của
Bác và yêu cầu đánh thức Kosygin dậy để gặp Lê Duẩn.

Lê Duẩn nói: “Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc Việt Nam là
thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào chúng tôi ở miền Nam, họ hy sinh chiến đấu
để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho được toại nguyện. Bác cũng rất
muốn vào Nam gặp đồng bào miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép Bác đi được.
Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan
của Bác sau ngày chiến thắng. Chúng tôi biết ngoài Liên Xô ra, không nước nào có kỹ thuật giữ
gìn thi thể. Nếu Liên Xô nói phải đưa thi thể của Bác sang Liên Xô mới giữ được thì chúng tôi
đành phải chôn Bác, bởi vì nếu chúng tôi đưa Bác sang Liên Xô thì nhân dân chúng tôi sẽ nói Bộ
chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi! - Và khi quyết định chôn Bác chúng tôi sẽ nói với đồng
bào chúng tôi: chỉ có Liên Xô mới có kỹ thuật giữ thi thể của Bác, nhưng vì Liên Xô không chịu
làm cho nên Bộ chính trị đau lòng gạt nước mắt để chôn Bác”.

Nghe Lê Duẩn nói xong, Kosygin nói ngay: “Thôi, thôi, tôi sẽ gọi chuyên gia Liên Xô
đến ngay và ra lệnh cho họ phải giữ thi hài Bác Hồ ngay tại Việt Nam, nếu thiếu phương tiện gì
tôi sẽ điện về Moscow đưa sang ngay bằng chuyên cơ”.

Sau đó thi hài của Bác đã được chuyên gia Liên Xô giữ lại ngay tại Việt Nam, và vì
thế ngày nay nhân dân ta mới có cơ hội hàng ngày vào lăng viếng Bác.
Việc giữ lại thi hài của Bác, những năm gần đây, báo chí có đăng, nhưng những tình
tiết của sự việc có liên quan đến Lê Duẩn thì không đăng, không muốn hoặc không dám đăng - vì
sao vậy?

Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, anh Mười Cúc (Anh Linh) Bí thư Trung
ương cục miền Nam thỉnh thoảng có ra Hà Nội làm việc với Lê Duẩn và Bộ chính trị. Những lần
anh Cúc ra tôi có ghé thăm, vì nhà khách Trung ương ở sát nhà tôi, và anh Cúc là người tôi quen
biết từ lâu, cùng ở tù với tôi ở Khám lớn Sài gòn và ở Côn Đảo. Có một lần trong thời gian anh
Cúc đang ở nhà khách, tôi sang gặp Lê Duẩn, vì nhà tôi cũng cạnh nhà Lê Duẩn, lâu lâu tôi đến
thăm Lê Duẩn, hôm đó Lê Duẩn nói với tôi:

- Cúc sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông. Khi Cúc về tôi mời Cúc đến và hỏi:
“Này, anh Cúc, ai lãnh đạo cuộc cách mạng miền Nam?”. Cúc ngơ ngác hỏi tôi: “Sao anh lại hỏi
tôi như vậy? Cuộc cách mạng miền Nam do Trung ương Đảng lãnh đạo chứ ai nữa”. Tôi hỏi lại
Cúc: “Thế sao khi thông báo tình hình miền Nam cho Mao Trạch Đông, anh nói với Mao Trạch
Đông là cuộc cách mạng miền Nam do Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo?”. Cúc nghe tôi nói
tái mặt. Tôi nói với Cúc: “Anh và tôi là bạn thân của nhau từ rất nhiều năm rồi, vì vậy tôi nói thật:
anh có những suy nghĩ lệch lạc”. (sau đó chị Huệ (vợ Cúc) khóc mấy đêm).

Số là trong các cuộc tiếp xúc của cán bộ cấp cao của ta với Mao hoặc lãnh đạo khác
của Trung Quốc đều có ghi biên bản, và các biên bản ấy, đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh đều
gửi về cho Bộ chính trị. Hoặc là có đại sứ ta tại Trung Quốc cùng đi dự, ghi và báo cáo cho Bộ
chính trị. Vì vậy mà phía Trung Quốc nói gì, phía ta các anh nói gì, ở nhà đều biết cả.

Một lần một cán bộ miền Nam, chị R. ra thăm miền Bắc và đến chào anh Ba. Trong
câu chuyện, chị ấy nói: “Anh Ba này, tôi thấy dân miền Bắc sao họ keo kiệt bủn xỉn quá, không
rộng rãi như đồng bào miền Nam”. Lê Duẩn liền hỏi: “chị là người Việt Nam hay là người Khơ-
me?”. R. hỏi: “Sao anh Ba hỏi lạ vậy? Em là người Việt Nam” - “Tôi hỏi là vì nếu chị là người
Việt Nam thì không cha chị thì ông chị, không ông chị thì ông cố chị và nhiều lắm là trên ông cố
chị 1, 2 đời đều là người miền Bắc vào Nam cả. Sao chị lại chửi ông cha chị? Tôi nói cho chị biết,
của cải quý nhất của người đàn bà là gì? là con, nhất là con trai. Thế mà nhiều bà mẹ miền Bắc vì
sự nghiệp giải phóng miền Nam mà cho con đi miền Nam, người 1 con, người 2 con, người 3
con, người nhiều hơn, có bao nhiêu con trai cho đi hết, mà biết đi thì hi sinh tại chiến trường là
cái chắc: Thế chị bảo những bà mẹ ấy keo kiệt bủn xỉn à? Còn dân miền Nam? Khi tôi ở miền
Nam, khu 7 thiếu quân, kêu thanh niên từ khu 8, khu 9 lên rất khó vì họ sợ gian khổ và hi sinh.
Còn chị biết vì sao mà dân miền Bắc keo kiệt không? Vì đồng bào miền Bắc còn khổ lắm. Đất ít
người đông, thiên tai năm nào cũng năm lần bảy lượt, làm cật lực chưa chắc đã thu hoạch được,
chưa chắc đã đủ ăn. Vì vậy họ phải tính toán chi li từng hạt gạo, từng đồng xu”.

Giữa năm 1971, Kissinger sang Trung Quốc và sau đó Nixon sang Trung Quốc và
bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc và Mỹ. Trước khi Nixon sang Trung Quốc, Chu
Ân Lai sang Hà Nội thông báo cho ta biết. Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi mời Nixon sang Trung
Quốc để hai bên bình thường hoá quan hệ, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai bên
cũng sẽ bàn cả vấn đề miền Nam. Các đồng chí Việt Nam đừng ngại, chúng tôi sẽ tăng cường
viện trợ cho Việt Nam”. Lê Duẩn nói: “Các anh mời Nixon sang thăm Trung Quốc chẳng khác
nào các anh đâm một nhát dao vào lưng chúng tôi. Việc giữa Trung Quốc và Mỹ các anh bàn gì
chúng tôi không có ý kiến. Nhưng vấn đề Việt Nam là của chúng tôi, các anh không có quyền
bàn. Giải quyết vấn đề Việt Nam như thế nào là do chúng tôi tự quyết định lấy. Còn vấn đề có
viện trợ hay không cái đó tuỳ các anh. Các anh viện trợ, chúng tôi sẽ thắng Mỹ. Các anh không
viện trợ chúng tôi phải hy sinh nhiều hơn nhưng cũng sẽ thắng Mỹ”.

Rồi để mang về làm quà cho Nixon, Chu hỏi Lê Duẩn về tình hình miền Nam, Lê
Duẩn nói: “Tình hình miền Nam đang khó khăn lắm, phải xé lẻ quân chủ lực ra mà đánh du
kích”. Chu đem tình hình do Lê Duẩn thông báo nói lại cho Nixon biết. Chẳng bao lâu sau khi
Nixon từ Trung Quốc trở về chúng ta mở chiến dịch 1972, đánh mạnh, đánh lớn ở cả quân khu Trị
Thiên đến khu 5, khu 6 và Nam Bộ. Mỹ trách Trung Quốc: Các anh bảo chúng tôi Việt Cộng khó
khăn v.v... nhưng nay Việt Cộng đánh lớn ở Lộc Ninh có cả xe tăng nữa, các anh nói các anh là
đồng minh thân thiết của Việt Nam, các anh nắm tình hình miền Nam rất chắc, hoá ra các anh là
người tình báo tồi, làm chúng tôi bị mắc lừa.

Kissinger nói với Lê Đức Thọ: Chúng tôi bị bất ngờ, không biết làm sao các anh đưa
được cả xe tăng vào đến tận Lộc Ninh mà chúng tôi không hay biết gì cả, mặc dầu ngày đêm máy
bay và vệ tinh do thám của Mỹ không rời mắt khỏi đường mòn Hồ Chí Minh.

Sau chiến dịch 1972, Trung Quốc rất căm thù ta. Sau khi ta giải phóng thị xã Quảng
Trị, địch ở Huế rối loạn, xảy ra tình hình hỗn quân hỗn quan. Lê Duẩn, với chủ thuyết thiết tha
của mình: chiến tranh ở miền Nam là một cuộc chiến tranh cách mạng, kết hợp tấn công và nổi
dậy, công kích và khởi nghĩa, cho rằng tình hình ở Huế đúng là một loại hình thức nổi dậy, khởi
nghĩa... Lê Duẩn cho rằng có thể giải phóng được Huế, bằng cách đưa bộ binh vào nhanh, với lực
lượng không lớn, đánh thốc vào Huế, không cần xe tăng và pháo lớn. Nhưng anh em quân sự ta,
quen đánh theo cách đã học ở Liên Xô: phối hợp pháo binh, xe tăng và bộ binh, không dám thực
hiện ý kiến của Lê Duẩn. Để đưa pháo và tăng vào phải xẻ đường xuống sông và bắc cầu phao
qua nhiều con sông của Nam Quảng Trị và Bắc Thừa Thiên, những con sông bờ rất cao và đứng,
mất nhiều thời gian. Có thời gian, địch củng cố lại hàng ngũ, phản kích lại ta, ta phải quay về cố
thủ Quảng Trị. Địch dùng B52 thả bom rải thảm. Quân ta hy sinh quá nhiều, chịu không nổi đành
phải bỏ thị xã Quảng Trị qua cố thủ bên kia bờ Thạch Hãn.

Sau trận ấy, không giữ được Quảng Trị anh em bên quân sự cho rằng vì Lê Duẩn ra
lịnh đánh Huế cho nên mất Quảng Trị. Nếu không chủ trương đánh Huế thì giữ được Quảng Trị
rồi. Nhiều người còn nói là Lê Duẩn “có tài nướng quân”. Tiếng nói gay gắt nhất là của Song
Hào, Lê Quang Đạo. Lê Duẩn trả lời: Vì không chịu đánh Huế nên mất Quảng Trị. Nếu biết cách
đánh và lấy được Huế thì chiến thắng ở mặt trận phía Bắc này (chỉ Quân khu Trị Thiên và Quân
khu 5), biết đâu sẽ còn tiến xa hơn về Đà Nẵng. Hai bên cãi qua lại. Lê Duẩn bảo: tương lai của
cuộc chiến tranh sẽ trả lời ai đúng ai sai. Vấn đề cứ để đó. Tương lai còn đó.

Đầu 1973, sau khi cuộc tập kích chiến lược bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng bị quân
và dân miền Bắc giáng cho một thất bại nặng nề, sau khi quân và dân miền Bắc đã làm nên một
Điện Biên Phủ trên không, Mỹ phải ngừng ném bom, thông báo với ta rằng Mỹ sẵn sàng ký chính
thức Hiệp định Paris mà hai bên đã dự thảo và ký tắt (Lê Đức Thọ và Kissinger). Lê Duẩn gọi tôi
và một số anh em khác: Trần Phương, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Khánh xuống Đồ Sơn. Tất
nhiên có cả Đống Ngạc trợ lý của Lê Duẩn. Đồ Sơn là nơi nghỉ mát khí hậu rất thích hợp với Lê
Duẩn. Khi nào thấy cần nghỉ và suy nghĩ thì Lê Duẩn chọn Đồ Sơn, một vùng nghỉ mát xinh xắn.
Có thể nói Đồ Sơn và khu nhà khách Quảng Bá là hai nơi kích thích đẽ ra những ý nghĩ lớn trong
óc của Lê Duẩn. Lê Duẩn nói với chúng tôi: ta sắp ký Hiệp định Paris với Mỹ. Bộ chính trị đã
quyết định triệu tập Đại hội IV của Đảng trong năm 1973 hoặc 1974. Ta phải chuẩn bị báo cáo
chính trị. Nhưng chúng ta cứ thủng thỉnh chuẩn bị trao đổi và thảo luận nội dung và chờ đến sau
khi giải phóng miền Nam sẽ tiến hành Đại hội. Chúng tôi bị bất ngờ. Lê Duẩn nói: Sau Paris khi
quân Mỹ rút khỏi rồi thì lực lượng so sánh giữa ta và địch ở miền Nam cũng như trong cả nước
có một sự thay đổi căn bản: ta mạnh hơn hẳn địch. Đây là thời cơ mà ta đã tạo ra sau hai mươi
năm. Nếu không nắm lấy thời cơ ấy để giải phóng miền Nam thì ta sẽ có tội mãi mãi với con cháu
chúng ta sau này, không giải phóng miền Nam lúc này, trì hoãn lại 5-7 năm thì Mỹ sẽ củng cố bọn
bù nhìn ở miền Nam, tình hình Quốc tế, mưu đồ các nước quanh ta phức tạp, phải giải phóng
miền Nam trước khi mưu đồ của Mỹ và mưu đồ Quốc tế đối với ta chưa có điều kiện thực hiện.

Sau khi các anh khác lui về, Lê Duẩn nói với tôi: tôi đang suy nghĩ dành thắng lợi
bằng cả hai khả năng: khả năng tổng khởi nghĩa bằng bạo lực quần chúng kết hợp bạo lực vũ
trang với lực lượng tại chỗ của nhân dân và quân đội ở miền Nam có sự chi viện của miền Bắc,
và khả năng thứ hai là dùng chiến tranh, muốn thế thì phải có lực lượng quân sự mạnh hơn địch
2-3 lần.
Mấy hôm sau Lê Đức Thọ cho người cầm thư xuống, Lê Duẩn xem xong đưa cho tôi
xem. Lê Đức Thọ viết ngắn: Lần này nhất định sẽ ký theo lời dặn của anh. Xin anh yên tâm. Lê
Duẩn nói với tôi: Tôi bảo với Lê Đức Thọ: Điều cốt yếu phải đạt cho được là quân Mỹ rút khỏi
miền Nam, quân chủ lực miền Bắc ở lại miền Nam không rút. Về điều này, không thể có bất kỳ
nhân nhượng nào, phải như đinh đóng cột, những điều khoản khác (như tôn trọng độc lập, không
can thiệp v.v...), sao cũng được vì đó là giấy lộn, ký xong Mỹ có thể xé ngay. Mỹ phải rút, ta
không rút mới là thực chất.

Mấy đứa chúng tôi tranh thủ trao đổi với nhau, và thấy Lê Duẩn rất bận cho nên thỉnh
thoảng mới tranh thủ báo cáo và hỏi ý kiến. Công việc của Lê Duẩn nào là chuẩn bị chỉ thị cho
miền Nam đấu tranh trong tình hình mới, nào là bàn vấn đề Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa,
nào là bàn nội dung sử dụng mấy tỷ đô la mà Mỹ cam kết cho Việt Nam, thực chất là bồi thường
chiến tranh và cho ý kiến chỉ đạo cho đoàn của Đặng Việt Châu và Lê Khắc đi Paris bàn với đại
diện của phía Mỹ về vấn đề đó...

Trong năm 1973 và cả 1974 Lê Duẩn mời các anh bên Bộ tổng tham mưu: Hoàng Văn
Thái và các anh khác xuống làm việc tại Đồ Sơn. Sau cái buổi làm việc đầu tiên Lê Duẩn cho tôi
biết: Tôi bảo các anh ấy làm cho tôi một kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm. Các anh
nói là hai năm thì khó lắm, xin 4 năm, thảo luận mãi các anh xin ba năm. Tôi nói: Tôi đồng ý ba
năm nhưng chỉ các anh biết thôi, đừng nói cho ai biết.

Đầu năm 1973, Bộ chính trị quyết định cử một đoàn do Phạm Văn Đồng cầm đầu đi
cám ơn các nước XHCN và một số nước bè bạn khác đã giúp đỡ và ủng hộ chúng ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Ngoài Phạm Văn Đồng, còn có Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Lợi thứ
trưởng Ngoại giao và tôi, cùng đoàn chuyên viên. Cám ơn Liên Xô và Trung Quốc thì đã có đoàn
Lê Duẩn.

Xin dừng lại một lúc để nói về đoàn chúng tôi. Kế hoạch là đi bằng máy bay của ta.
Hàng không và Không quân ta đã chuẩn bị xong, đi đường dưới (qua Ấn Độ, Liên Xô...), nhưng
trước đó vài hôm, xảy ra một tai nạn máy bay của ta chở đoàn nhà báo tháp tùng Tổng thống
Angiêri Bumediên; máy bay chở đoàn nhà báo từ Gia Lâm lên đến cạnh sân bay quốc tế Nội Bài
thì đâm vào ngọn tre và rơi, tất cả những người đi trên máy bay đều chết. Vì có tai nạn bi thảm
ấy, ta quyết định nhờ máy bay của Trung Quốc chở đoàn ta từ Hà Nội đến Yarkust sẽ nhờ máy
bay Liên Xô; đó là chuyện bất đắc dĩ, vì giữa ta và Trung Quốc, không khí đang căng thẳng.

Mấy hôm sau, chuyên cơ Trung Quốc sang Hà Nội để chở đoàn đi. Chúng tôi lên máy
bay, trước mặt mỗi người ở trên bàn (vì là chuyên cơ nên ngồi bốn người một bàn) có để sẵn một
tờ Nhân Dân nhật báo và một tờ “Trung Quốc đang xây dựng” bằng tiếng Pháp. Tờ Nhân Dân
nhật báo là số đặc biệt 8 trang trong đó 4 trang giữa dành toàn bộ đăng bài trường ca về Hoàng
Sa. Như vậy là đã tính toán để tờ báo được soạn và in để có mặt tại Hà Nội khớp với ngày hẹn
đưa đoàn chúng tôi. Còn tờ “Trung Quốc đang xây dựng” thì bìa vẽ bản đồ của Trung Quốc theo
đó thì toàn bộ biển Đông và Nam biển Đông cho đến Malaysia và Indonesia là lãnh thổ và lãnh
hải của Trung Quốc. Từ Đà Nẵng trở vào, Việt Nam không có biển, lãnh hải của Trung Quốc vào
tận bờ biển nước ta.

Nguyễn Duy Trinh bảo tôi:

- Tú tài (nói đùa theo tiếng Trung Quốc là nhà viết văn) hãy đọc và dịch cho mọi
người nghe với.

Tôi đọc tờ Nhân Dân nhật báo thấy trang đầu có bài gần như xã luận tường thuật cuộc
luyện tập của quân đội tại Hoàng Sa với lời thề bảo vệ Hoàng Sa chống mọi âm mưu xâm lược,
đồng thời chuẩn bị tinh thần để giải phóng Trường Sa. Còn bốn trang giữa của báo là bài trường
ca về Hoàng Sa, đại ý nói Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Từ đời Tần Thuỷ
Hoàng người Trung Quốc đã có mặt ở đó. Quân thù cậy thế mạnh hùng hùng hổ hổ chiếm Hoàng
Sa và Trường Sa. Nhưng quân đội anh hùng của Trung Quốc đã lấy lại được Hoàng Sa đưa về
trong lòng Tổ Quốc. Còn Trường Sa sẽ được giải phóng một ngày nào đó.

Máy bay đến sân bay Bắc Kinh độ 11 giờ. Ra đón đoàn tại sân bay có Trương Xuân
Kiều và Đặng Tiểu Bình. Đặng vừa được ra tù (cách mạng văn hoá). Đặng bắt tay tôi rất niềm nở
nói:

- Đồng chí Trần Quỳnh, lâu lắm không gặp đồng chí.

Tôi định trả lời: Lâu lắm tôi không nghe tin về đồng chí nhưng tôi nín ngay. Vào nhà
ga ăn cơm, mâm tròn, một nửa có Phạm Văn Đồng, Trương Xuân Kiều và Hoàng Văn Lợi. Một
nửa có Nguyễn Duy Trinh, Đặng Tiểu Bình và tôi. Lúc ăn cơm, Trương Xuân Kiều nói:

- Tôi xin chuyển đến các đồng chí ý kiến của Mao Chủ Tịch: Các đồng chí đánh 20
năm, buộc được quân Mỹ về nước, nhưng miền Nam vẫn còn chế độ Nguyễn Văn Thiệu, chứng
tỏ sức của các đồng chí chỉ làm được đến đấy, cán chổi của các đồng chí ngắn, không thể quét hết
địch ra khỏi miền Nam. Vì vậy từ nay giữa hai miền Nam Bắc phải cùng chung sống. Còn ở miền
Bắc, các đồng chí không nên xây dựng nhiều và lớn. Kinh nghiệm của Trung Quốc xây dựng
nhiều và lớn thì thất bại. Chỉ nên xây dựng ít và xây dựng nhỏ.
Bản thân tôi nghe Trương nói, thấy hết tâm địa của Trung Quốc đối với Việt Nam:
Hãy cam phận làm hai nước nhỏ và yếu ớt. Nhưng lạ thay, hình như Phạm Văn Đồng và Nguyễn
Duy Trinh không chú ý lắm, vì trong suốt cuộc hành trình dài một tháng tiếp theo không thấy hai
người nhắc nhở gì đến ý kiến của Trương. Và khi về nhà báo cáo cuộc đi thăm các nước trong Bộ
chính trị cũng không thấy hai người nói gì về cuộc gặp mặt đó cả. Cuộc hành trình của đoàn đi
các nước kéo dài một tháng và trên đường về cũng ghé Bắc Kinh. Theo thông báo của phía Trung
Quốc, tối hôm chúng tôi đến, Chu Ân Lai sẽ đến gặp và ăn cơm với đoàn vào lúc 19 giờ. Nhưng
đến 19 giờ, Trương Đức phiên dịch của Bộ chính trị Trung Quốc đến thông báo cho chúng tôi là
cuộc tiếp của Chu Ân Lai lùi lại 1 giờ để chúng tôi có thì giờ xem buổi truyền hình đặc biệt của
đài Bắc Kinh. 19 giờ chúng tôi mở đài ra xem thì chương trình đặc biệt tối đó là một cô gái mặc
quân phục ngâm bài thơ về Hoàng Sa đã đăng báo khi chúng tôi đi. Thật là trắng trợn hết chỗ nói.

Sau khi về đến Hà Nội, tôi lại cùng ban biên tập dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội
IV tiếp tục làm việc với Lê Duẩn. Trong quá trình làm việc Lê Duẩn cho chúng tôi biết là anh em
quân sự cho biết phải lập thêm một quân đoàn và cần thêm độ 3 vạn quân. Như vậy là phải động
viên thêm thanh niên nhập ngũ. Khi đưa vấn đề này ra Bộ chính trị, nhiều anh không đồng ý, nói
rằng nông thôn bây giờ thiếu lao động trai tráng, còn lại toàn là người già và phụ nữ, động viên
thêm nữa thì vét hết thanh niên, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa, đánh giặc mấy
chục năm rồi, nhân dân mệt mỏi, nên cho nghỉ ngơi vài năm để lấy lại sức. Lê Duẩn nói với
chúng tôi: Tôi phải làm dữ với Bộ chính trị. Tôi nói ông cha ta đã đấu tranh đuổi ngoại xâm cả
trăm năm chưa xong. Ta chiến đấu mấy chục năm mới tạo ra được thời cơ hôm nay, thời cơ giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước, nếu ta không nắm lấy thời cơ này, không cố gắng thêm vài
ba năm nữa thì sẽ bỏ lỡ thời cơ trăm năm mới có. Và ta sẽ có tội với tổ tiên ta, có tội với con cháu
chúng ta sau này. Phải ráng chịu đựng thêm để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đã được trao cho thế
hệ chúng ta. Bộ chính trị cuối cùng chấp nhận kế hoạch động viên. Sau này trong một lần họp Bộ
chính trị, trong giờ giải lao, Phạm Văn Đồng cười ha hả nói: “Nghĩ cũng buồn cười thật, khi bàn
mở chiến dịch giải phóng miền Nam, trong Bộ chính trị chỉ có một mình tôi tán thành ý kiến anh
Ba!”.

Hết Đồ Sơn đến Quảng Bá (Hồ Tây), hết Quảng Bá đến Đồ Sơn, Lê Duẩn làm việc
với anh em bên quân sự, với các anh trong Trung ương cục miền Nam, các anh lãnh đạo Khu 5,
Khu 6 được mời ra. Công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương nhưng trong vòng bí mật cao nhất có
thể được. Khác với các chiến dịch trước, lần này không thông báo cho các Bộ trưởng không liên
quan biết. Không chuẩn bị tiếp quản, dù biết rằng làm thế sẽ phát sinh vấn đề khi đánh xong,
nhưng thà như thế còn hơn là để lộ bí mật. Phải giữ bí mật tuyệt đối chẳng những với Mỹ Nguỵ
mà cả đối với Liên Xô và Trung Quốc.

Thời gian này, Lê Duẩn bảo tôi làm việc bên cạnh để có người “đối thoại” tức là có
người để Lê Duẩn nói ra để định hình ý nghĩ của mình. Tôi không được dự các cuộc bàn bạc,
nhưng sau mỗi lần bàn bạc, Lê Duẩn thường cho tôi biết những điểm thú vị nhất. Tôi cũng ngẫu
nhiên bắt gặp một số anh lãnh đạo ở Miền và Quân khu, nhưng giữ kẻ không nói chuyện nhiều,
không hiểu kỹ mọi chuyện làm cho các anh ấy phải lúng túng. Sau đây là một số chuyện Lê Duẩn
kể lại cho tôi nghe.

Đối với các anh em lãnh đạo ở miền Nam ra, Lê Duẩn có nói đến luận điểm “ruột”
của các anh ấy: Chiến tranh này là chiến tranh cách mạng kết hợp tổng công kích và tổng khởi
nghĩa. Chắc chắn trong quá trình diễn biến chiến dịch sẽ xảy ra các trường hợp như hỗn loạn ở
Huế năm 1972 khi ta đánh Quảng Trị. Gặp trường hợp đó xảy ra phải linh hoạt nắm lấy thời cơ
không nên bỏ lỡ. Sau khi giải phóng xong Đà Nẵng, anh Năm Công bay ra gặp Lê Duẩn ở Quảng
Bá. Trong khi chờ gặp Lê Duẩn, Năm Công gặp tôi và nói: “Kỳ này mình giải phóng Đà Nẵng
được là nhờ nghe lời anh Ba, chứ nghe anh em quân đội thì chưa chắc đã giải phóng được nhanh
như thế”. Năm Công kể tiếp: “Mình tâm đắc điều anh Ba nói về Huế năm 1972. Mình vào đến
Kontum, khi Buôn Mê Thuột được giải phóng, mình thấy ở Kontum quân ta chưa đánh mà quân
nguỵ vứt hết súng ống chạy. Mình nghe tin ở Đà Nẵng tình hình càng ngày càng hỗn quân hỗn
quan, mình xin ý kiến anh Ba cho xin phép lấy Đà Nẵng (theo kế hoạch thì giải phóng xong Buôn
Mê Thuột, quân ta sẽ vào giải phóng Sài gòn rồi sau đó mới quay ra giải phóng Đà Nẵng), anh Ba
đồng ý. Nếu thấy làm được thì giải phóng Đà Nẵng đi. Thế là mình huy động lực lượng quân sự
của Khu ở Nam Ngãi, huy động xe chở lính, chạy thóc vào Đà Nẵng. Quân nguỵ đầu hàng. Sau
đó chủ lực của Trung ương mới vào.

Xin kể một chuyện liên quan đến Năm Công trước lúc vào lại Khu 5. Sau khi bàn
xong kế hoạch giải phóng miền Nam, Trung ương để Năm Công cũng như các anh khác muốn thì
sang nghỉ ít hôm tại Trung Quốc. Khi đi Lê Duẩn dặn kỹ là không được lộ cái gì cho Trung Quốc
biết. Khi Năm Công từ Trung Quốc về, Năm Công gặp Lê Duẩn và đề nghị hoãn chiến dịch lại
một vài năm để quân đội và nhân dân có thì giờ xả hơi một ít, không thì căng thẳng quá. Lê Duẩn
đập bàn nói: “Anh ăn phải bả của Mao rồi! Anh nên hiểu rằng Trung Quốc không muốn ta giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước đâu! Điều này tôi biết lâu rồi, anh mới ra không hiểu đâu”.
Năm Công xin lỗi Lê Duẩn và xác nhận là mình có nghe Trung Quốc tỉ tê khéo nên có xiêu. Năm
Công hứa từ bỏ tư tưởng ấy và kỳ này vào Nam hoàn thành nhiệm vụ được anh Ba giao.
Khi chiến trường báo cáo giải phóng Đà Nẵng, Lê Duẩn vui mừng khôn xiết. Lê Duẩn
nói với tôi: “Mình thấy lâng lâng phấn khởi khó tả”. Khi giải phóng Buôn Mê Thuột và Tây
Nguyên, Lê Duẩn cũng rất mừng, nhưng con đường trước mắt còn dài, còn lắm chông gai, nỗi lo
toan còn canh cánh bên lòng. Kế hoạch vào Sài gòn bằng con đường Khu VI và miền Đông Nam
Bộ chưa biết khó khăn đến đâu. Đà Nẵng là căn cứ phòng ngự từ xa, cưng nhất của địch, vì vậy
lúc đầu kế hoạch vạch ra là đánh xong Buôn Mê Thuột, quân ta sẽ theo đường Khu VI mà vào
miền Đông, phối hợp với quân của Miền đánh vào Sài gòn. Giải quyết xong Sài gòn mới quay ra
giải phóng Đà Nẵng. Nay, Tây Nguyên và Đà Nẵng đã được giải phóng, con đường vào Sài gòn
rộng mở, quân ta có thể tiến thần tốc như chẻ tre. Ngày giải phóng Sài gòn không còn xa nữa,
không phải chờ đến hai năm mà có thể lấy tháng lấy ngày để tính. Bứt xong căn cứ Đà Nẵng coi
như miền Nam đã được giải phóng. Lê Duẩn nói: Cuộc tranh cải về Huế và Quảng Trị với Song
Hào, Lê Quang Đạo v.v... đã được thực tiễn chiến tranh giải quyết. Lê Duẩn hết lời ca ngợi Năm
Công và Chu Huy Mẫn, những người chỉ huy tài ba xuất sắc, xứng đáng là những người ở trong
cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước.

Theo kế hoạch cũ sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột quân ta sẽ vào giải phóng Sài
gòn. Vì vậy Lê Duẩn đã bàn với các anh lãnh đạo Khu VI phải xây dựng miền tây Khu VI thành
một hành lang vững chãi nối liền với miền đông Nam Bộ và Sài gòn. Lê Duẩn cũng đề nghị các
anh ở Trung ương cục miền Nam bố trí bốn năm tiểu đoàn ở địa bàn ven đô. Các anh nói khó lắm
vì quân địch ở đây rất mạnh, công sự kiên cố và dày đặc. Lê Duẩn hỏi Sáu Dân làm được không?
Sáu Dân nói làm được và Lê Duẩn giao nhiệm vụ xây dựng bàn đạp và bố trí quân ven đô Sài gòn
cho Sáu Dân. Và Lê Duẩn rất khen ngợi Sáu Dân. Sau Hiệp định Paris trong khi phải tiếp tục tấn
công (cách mạng là tấn công, luôn luôn tấn công, một luận điểm “ruột” của Lê Duẩn) thì ở Nam
Bộ anh em đi vào phòng ngự làm cho địch nông ra lấn chiếm các vùng của ta, gây cho ta nhiều
khó khăn. Chỉ có Sáu Dân là thắm nhuần tư tưởng tấn công cho nên vùng ta kiểm soát ở Khu 9
được mở rộng, địch phải co lại. Lê Duẩn nói Sáu Dân có tài. Khi Sáu Dân nhận bố trí quân ở bàn
đạp quanh Sài gòn, Lê Duẩn càng khen Sáu Dân hơn nữa.

Nhiệm vụ giải phóng Sài gòn được giao cho Quân đoàn 4, Quân đoàn chủ lực của
miền Nam. Nhưng vì những lý do khách quan Quân đoàn 4 vào Sài gòn có trễ hơn dự kiến. Trong
khi đó Dương Văn Minh đề nghị ngừng bắn và hai bên thương lượng. Đó là phương án “Chính
phủ liên hiệp” do Mỹ đề xướng và nhờ Pháp làm trung gian thương lượng. Thấy Đại sứ Pháp tại
Sài gòn lúc ấy lăng xăng chạy qua chạy lại, Lê Duẩn rất sốt ruột, ngại các anh trong ấy chần chừ
để mất thời cơ. Lê Duẩn hỏi Lê Trọng Tấn (Quân đoàn 2) có đánh được vào Sài gòn không? Lê
Trọng Tấn trả lời được và xin cho vào Sài gòn trước. Lê Duẩn đồng ý và dặn Lê Trọng Tấn là cứ
vào dinh Độc Lập buộc Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện, nhưng dặn đừng nói Lê Duẩn ra
lệnh. Thế là Quân đoàn 2 từ phía Đông tiến vào dinh Độc Lập trước. Quân đoàn không chuẩn bị
phương tiện để quay phim giây phút lịch sử ấy vì phương tiện đang ở trong tay Quân đoàn 4.
Trong quá trình bàn bạc để quyết định chiến dịch, có vấn đề Mỹ có vào lại hay không, Lê Duẩn
cho rằng Mỹ sẽ không vào, và để thử xem phản ứng của Mỹ thế nào, Lê Duẩn đề nghị anh em
quân sự bố trí đánh huyện lị. Quân ta đánh chiếm Thường Đức, Mỹ phản ứng yếu ớt. Lê Duẩn nói
nên đánh một tỉnh lị để xem tiếp. Quân ta đánh Phước Bình, có dùng cả xe tăng, có phản ứng
nhưng cũng yếu ớt mặc dầu nguỵ có yêu cầu Mỹ khẩn thiết cứu nguy. Lê Duẩn kết luận: Mỹ
không vào lại nữa đâu, nhưng nếu Mỹ vào ta cũng đánh. Cho nên trong quá trình quân ta tiến vào
Sài gòn, Lê Duẩn nói phải luôn luôn đề cao cảnh giác theo tinh thần Mỹ có vào ta cũng sẵn sàng
để đánh. Còn Võ Nguyên Giáp thì điện “coi chừng Mỹ vào” khác nào hù doạ quân ta. Lê Duẩn
thấy điện cười: “Anh ta sợ Mỹ lắm!”

Trong lúc quân ta đang tiến như chẻ tre, Tổng cục chính trị có bài bình luận phát trên
đài: “Phải nắm vững tư tưởng trường kỳ”. Cũng nói là để cảnh giác!

Có một tình tiết nữa tôi còn nhớ. Khi bàn với các anh trong Trung ương cục miền
Nam, các anh ấy nói: “Trung ương cứ giải phóng từ Bình Thuận trở ra còn Nam Bộ để cho lực
lượng của miền tự giải phóng lấy”. Lê Duẩn không nói gì. Các anh ra về rồi, Lê Duẩn nói với tôi:
“Các anh ấy nói thế nhưng không làm nổi đâu”.

Ngày 30/4 cũng như mọi ngày khác từ lúc mở đầu chiến dịch, Lê Duẩn ở tại khu nhà
khách Hồ Tây, phải theo dõi chiến sử từng giờ. Bỗng có tin từ chiến trường: Quân ta đã chiếm
dinh Độc Lập. Chính phủ bù nhìn Dương Văn Minh đầu hàng. Sài gòn được giải phóng rồi! miền
Nam yêu dấu được giải phóng! Lê Duẩn cảm thấy lòng mình 20 năm nặng trĩu vì biết bao lo âu,
trăn trở bỗng nhiên nhẹ hẳn! Một cảm giác khó tả ập đến, tràn ngập người anh. Ngoài tôi ra, tôi
không nhớ có bao nhiêu anh em khác nữa xúc động đến cao độ, chia vui cùng Lê Duẩn.

Lê Duẩn nóng ruột muốn vào Sài gòn ngay. Lê Duẩn nói: “Tôi rất ngại nạn kiêu binh,
chiến thắng rồi tranh công”. Vài hôm sau máy bay chở Lê Duẩn vào Đà Nẵng vì Sài gòn bảo
chưa tiếp nhận được máy bay. Ở Đà Nẵng có khối việc, nhưng Lê Duẩn ngày nào cũng dục Sài
gòn cho vào. Qua mấy ngày Sài gòn cứ bảo là anh Ba chưa vào được, vì chưa bảo đảm an toàn.
Lê Duẩn trả lời: Nếu các anh không bố trí được tôi cứ vào và tự bố trí lấy nơi ở. Các anh ở trong
ấy đành phải để anh vào Sài gòn ngày 9/5/1975. Trên máy bay, Lê Duẩn nói với tôi: “Ấy là quân
của Trung ương giải phóng Nam Bộ, nếu không thì họ không cho mình vào đâu”. Máy bay đỗ
xuống sân bay Tân Sơn Nhất, ra đón tận chân cầu thang máy bay có Lê Đức Thọ, Phạm Hùng,
Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Mười Cúc, Trần Lương và nhiều người khác nữa mà tôi không
nhớ hết. Cảnh ôm hôn nhau, mọi người nước mắt tuôn trào, mừng mừng tủi tủi. Một cuộc hội ngộ
chứa chan tình cảm đẹp làm sao! Tôi chợt nhớ mấy câu thơ của Lê Đức Thọ khi tham gia chiến
dịch:

“Anh dặn ra đi thắng mới về

...

Lời anh ấy là lời non nước”

Mọi người vào một căn nhà của một sĩ quan không quân nguỵ đã bỏ chạy. Ngồi vào
bàn, Lê Duẩn nghiêm nét mặt, đập bàn nói to: “Chiến thắng này là chiến thắng của toàn dân tộc,
cả Bắc lẫn Nam - không có một gia đình nào là không có đóng góp xương máu cho chiến thắng.
Không có gia đình nào là không có người hy sinh cho thắng lợi hôm nay. Vì vậy người nào tranh
công cho riêng mình là một tội ác”. Lê Duẩn nhắc đi nhắc lại, là một tội ác. Nói xong rồi, Lê
Duẩn sắc mặt trở lại bình thường, và câu chuyện hàn huyên bắt đầu.

Sau cuộc gặp mặt đầy xúc động này, Lê Duẩn yêu cầu cho đi xem thành phố. Anh
Thọ, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng trao đổi với nhau nên để Lê Duẩn đi xe gì: Xe U-oát miền
Bắc hay xe du lịch miền Nam. Lê Duẩn nói: Nên đi xe miền Nam. Vả lại dân có biết mặt Lê Duẩn
đâu mà mình ngại. Bọn binh sĩ nguỵ thì hiện đang nơm nớp lo sợ, chưa hoàn hồn đâu mà nghĩ
đến chuyện ám sát cán bộ ta. Lê Duẩn cùng Mười Cúc và một đồng chí nữa đi hai xe chạy qua
các đường phố. Tôi ngồi xe chung với Mười Cúc. Mười Cúc nói với tôi: Từ hôm giải phóng đến
nay, hôm nay là lần đầu tiên mình vào nội thành, Trung ương cục còn đang ở Thủ Đức.

Tối hôm đó, nghỉ trong nhà của một sĩ quan không lực nguỵ nóng quá. Sài gòn cuối
tháng tư đầu tháng năm là lúc oi bức nhất. Nhà không có quạt, máy điều hoà nhiệt độ thì bị quân
ta đập ra, tháo lấy quạt, cho nên không dùng được. Lê Duẩn không ngủ được. Lê Duẩn không
chịu ở khu sân bay nữa đòi vào ở trong thành phố.

Sau đó nhờ Nguyễn Bá Phát bố trí cho ở nhà Bộ Tư lệnh Hải quân, bên bờ sông Sài
gòn. Mấy ngày sau, Lê Duẩn tiếp tục đi xem thành phố, xem hàng hoá, xem chợ. Đêm Lê Duẩn
cùng chúng tôi đi một xe xem Sài gòn ban đêm, đến thăm người đã chở Lê Duẩn từ Sài gòn lên
Pnong Penh năm 1957, đi ra xung quanh Sài gòn xem hệ thống phòng ngự của nguỵ để thẩm tra
lại những báo cáo trước đây của Trung ương cục về sự bố trí phòng ngự dày đặc của quân nguỵ,
và cho rằng vì lẽ đó khó xây dựng bàn đạp vùng ven và bố trí quân ta ở vùng ven. Lê Duẩn nói
với tôi rằng báo cáo của Trung ương cục là thổi phồng. Chúng nó phòng ngự từ xa là chính. Công
sự quanh Sài gòn có gì ghê gớm lắm đâu.
Sau một tuần lễ hoặc mười ngày thăm Sài gòn, Lê Duẩn ra Hà Nội để dự lễ ngày
chiến thắng.

Phần hai của tập “Những kỷ niệm về Lê Duẩn” của tôi dừng ở đây. Trước khi kết thúc
tôi nói ý kiến của tôi về một vấn đề mà người ta cố tình im lặng và xuyên tạc.

Như Lê Duẩn đã nói: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai ở miền
Nam là thắng lợi của toàn dân tộc, là kết quả của sự chiến đấu và hy sinh to lớn của cả dân tộc.
Đó là công lao của nhân dân và quân đội anh hùng của chúng ta từ sĩ quan đến binh sĩ thuộc các
quân chủng, binh chủng bộ binh, pháo binh, công binh, thông tin liên lạc, đặc công, hải quân,
không quân (tôi không thể kể hết), là công lao của dân quân tự vệ, biệt động, công lao của Chính
phủ, Mặt trận và Chính quyền và Mặt trận các cấp công lao của cả tiền tuyến lẫn hậu phương.

Những công lao, đóng góp ấy, Đảng ta đã và đang tiếp tục ghi nhận và khen thưởng.
Trong những người có công lao lớn, có người có công lao nhỏ hơn. Và công đầu thuộc về ai?
Thuộc về Đảng ta, mà trước hết là Trung ương Đảng, Trung ương cục miền Nam, các Khu uỷ, Bộ
Chính trị và Bác Hồ vĩ đại. Đảng là người lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Đó là
nói về vai trò và công lao của tập thể.

Còn về cá nhân. Có nhiều rất nhiều cá nhân có vai trò và công lao nổi bật. Nhưng nổi
bật hơn cả, sau Bác Hồ là ai? Đó là Lê Duẩn chứ không phải ai khác.

Lê Duẩn là người đã từ tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn đấu tranh của nhân dân và
quân đội ta, đề ra đường lối và phương pháp đấu tranh đúng cho cách mạng miền Nam. Chính Lê
Duẩn là người đã đề ra các quyết sách đúng trong các giai đoạn có tính quyết định.

Nghị quyết 15 (khoá II) chuyển sang đấu tranh cách mạng bạo lực, từ đó dấy lên
phong trào Đồng khởi, cuộc chiến đấu trên các mặt đưa đến sự phá sản của chiến tranh đặc biệt!
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ và
buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với ta! Chiến dịch năm 1972 buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris,
cuộc tấn công và nổi dậy năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan nguỵ quân và
nguỵ quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa đến thống nhất đất nước trong độc lập và tự do,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Những ai đã muốn người ta công
nhận mình là kiến trúc sư của cách mạng miền Nam hãy chứng minh là linh hồn của Nghị quyết
15, linh hồn của cuộc tấn công và nổi dậy xuân 1968, của chiến dịch 1972, linh hồn của chiến
dịch xuân 1975 lịch sử.

Sau chiến thắng 1975, vai trò của Lê Duẩn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam
được mọi người thừa nhận như là một việc đương nhiên, lời phê phán gay gắt của những người
chống đối Lê Duẩn, khi có quyết định mở chiến dịch 1975, kỳ này ông Ba lại nướng quân nữa
như ông đã nướng quân hồi 1968 và 1972, đã gián tiếp xác nhận vai trò chính của Lê Duẩn trong
những sự kiện lịch sử ấy.

Có người thừa nhận vai trò của Lê Duẩn, nhưng tìm cách hạ thấp vai trò ấy bằng cách
bới lông tìm vết, đưa ra những khuyết điểm sai lầm nói là của Lê Duẩn trong quá trình chỉ đạo
chiến tranh như hồi chiến dịch Mậu Thân 1968 hay chiến dịch 1972. Tôi đã từng nghe một vị
thượng tướng nói “Ông Ba có những chủ trương ý kiến thật sắc sảo, nhưng cũng phạm những sai
lầm không nhỏ trong chỉ đạo chiến tranh”.

Tôi nghĩ rằng làm sao mà trong một cuộc cách mạng lâu dài, khó khăn, gian khổ như
cách mạng miền Nam, lại tránh được những vấp váp, khuyết điểm sai lầm, thậm chí thất bại tạm
thời. Chúng ta cần phân tích kỹ những khuyết điểm sai lầm thất bại ấy để rút ra những kinh
nghiệm và bài học bổ ích. Nhưng những khuyết điểm sai lầm thất bại tạm thời và bộ phận không
hề làm cho thắng lợi của cách mạng miền Nam giảm bớt tầm vóc vĩ đại của nó. Nêu những
khuyết điểm sai lầm, thất bại tạm thời với mục đích làm lu mờ bôi nhọ hình ảnh của Lê Duẩn,
thậm chí phủ định vai trò của Lê Duẩn là một thái độ phi lịch sử, phản khoa học, xuất phát từ một
tâm địa đố kị thấp hèn.

Điều làm tôi đau lòng là sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lãnh đạo đất nước,
những người trước đó đã ca ngợi Lê Duẩn, không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đã cố
ý hay vô tình để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn, mực dùng
để bôi nhọ ngày càng đen hơn, diện bôi nhọ ngày càng mở rộng hơn. Nhiều lắm là một số người
đến thắp một nén hương nhân ngày giỗ của Lê Duẩn, đọc một bài diễn văn, trả lời một lần phỏng
vấn, viết đăng báo một bài giọng điệu yếu ớt...

Tôi nghĩ không biết những người ấy có còn lương tâm không hay cất giấu lương tâm
ấy ở đâu?

Người ta sẽ hỏi tôi: Vậy anh tin vào ai mà viết những “Kỷ niệm” này. Xin thưa: Tôi
tin vào tương lai, tôi viết cho các thế hệ mai sau để góp thêm một ít tư liệu cho họ hiểu đúng lịch
sử cha ông họ. Thế hệ ngày mai sẽ là thế hệ những con người thật thà ngay thẳng, trung thực, vô
tư, có trình độ khoa học cao cho nên có thể nhìn thấy phải trái thật giả không khó và lại có lương
tâm trong sáng cho nên không sợ sự thật. Họ phân biệt rạch ròi giữa cái đúng và cái sai, giữa chân
lý và sự giả dối. Tôi tin có một ngày mai có những thế hệ, những con người như thế. Nếu không
có lòng tin đó thì thử hỏi ngày hôm nay tiếp tục ở lại trong Đảng cộng sản để làm gì?

Trần Quỳnh
______________________

You might also like