Professional Documents
Culture Documents
Đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài nghiên cứu khoa học
KHOA MARKETING
LỚP 17DMA1
ĐỀ TÀI:
VĂN HÓA ỨNG XỬ NƠI CÔNG CỘNG CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TP.HCM, 11/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
KHOA MARKETING
LỚP 17DMA1
ĐỀ TÀI:
VĂN HÓA ỨNG XỬ NƠI CÔNG CỘNG CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TP.HCM, 11/2017
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ứng xử có văn hóa nơi công cộng được xem là một kỹ năng cần được coi trọng đối với giới
trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Văn hóa ứng xử của người Việt đã được hình thành trong
quá trình giao tiếp. Cái đẹp trong văn hóa ứng xửa được cha ông ta lưu truyền từ đời này sang
đời khác. Ngày nay mặc dù xã hội đã có nhiều đổi thay nhưng giao tiếp ứng xử vẫn mang một
tầm quan trọng đặc biệt trong việc đánh giá nhân phẩm của một con người. Nó tạo nên những
mối quan hệ có văn hóa, có đạo đức trong gia đình, trong cộng đồng dân cư,…
Giao tiếp ứng xử có văn hóa, có đạo đức là cơ sở để có những mối quan hệ tốt đẹp trong xã
hội. Người Việt Nam luôn coi trọng tình nghĩa nên khi giao tiếp con người ta luôn đề cao vai trò
của việc ứng xử hợp tình hợp lý, biết cách ứng xử một cách tinh tế, khôn khéo, thông minh trong
mọi tình huống. Từ đó đảm bảo một cuộc sống vui vẻ, hòa bình, văn minh.
Cái đẹp trong ứng xử không chỉ phản ánh riêng về tầng lớp giới trẻ mà con phản ánh lên cái
đẹp mang tính dân tộc, nét
đặc trưng riêng của một quốc
gia.
Ứng xử văn hóa là một hành vi không phải lúc nào cũng đến từ tinh thần tự nguyện nên
con người ta thường chỉ màng đến lợi ích cho bản thân mà không để tâm đến những thứ xung
quanh. Xét cho cùng, khi mỗi người trong cuộc sống xem nhẹ nguyên tắc ứng xử văn hóa, con
người ta không biết thông cảm, chia sẻ lẫn nhau thì dễ dẫn đến vô cảm, thiếu vị tha và từ đó hình
thành những hành vi ứng xử thiếu văn hóa. Các bạn trẻ ngày nay càng trở nên khiếm nhã, lối
sống thực dụng, tinh thần vô cảm, thờ ơ trước cuộc sống. Họ thiếu kĩ năng sống, thiếu tôn trọng
thế giới xung quanh, bảo thủ với lối sống thực dụng, đua đòi vật chất. Sự chia sẻ, cảm thông,
đồng cảm bị xem thường. Họ thiếu hẳn sự rung động trước cái đẹp, cái cao cả, không muốn thực
hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật chưa phát
huy hiệu quả, bộ máy thực thi pháp luật thiếu công bằng sẽ khiến mọi người mất niềm tin vào
công lý, đưa đến những hành vi không đúng đắn.
Nâng cao văn hóa ứng xử trong xã hội cần bắt đầu điều chỉnh từ thế hệ trẻ và gốc rễ phải
là từ gia đình vì đây là nơi hình thành những hành vi ứng xử của thế hệ trẻ. Các bậc bố mẹ trước
hết phải làm gương cho con, không thể vượt đèn đỏ khi chở con, nhận tiền tham nhũng tại nhà
mà lại dạy con hành xử có văn hóa được. Nhà trường cũng cần định hình những phong cách văn
hóa ứng xử phù hợp và
đưa vào nội dung giảng
dạy cho học sinh các
cấp thông qua những
hình ảnh, tình huống,
câu chuyện cụ thể để
hướng dẫn các em
cách ăn mặc, ứng xử
trong giao tiếp như: Thế
nào là trang phục phù
hợp khi đi học, đi dã
ngoại, đi nhà hát..., cách ăn uống, chào hỏi, cư xử khi đến nhà bạn, khi đến nơi công cộng... Bên
cạnh đó, những địa điểm như nhà hát, thư viện, trung tâm mua sắm, cần có quy tắc ứng xử rõ
ràng cho cả người tham dự và nhân viên.
Đồng thời, khuyến khích sinh viên đọc các loại sách về văn hóa ứng xử như “Đắc nhân tâm”
hay các loại sách gần gũi, đời thường hơn như “Tony buổi sáng”. Các nhà văn hóa có thể tổ chức
TP.HCM, 11/2017 Page - 5 -
các khóa dạy văn hóa ứng xử cao cấp hơn cho thanh thiếu niên. Các phương tiện thông tin đại
chúng cũng cần vào cuộc, xây dựng các chương trình thực tế chung quanh chủ đề này. Thực tế
cho thấy, người trẻ rất khát khao học văn hóa ứng xử, chỉ là không biết học ở đâu và thế nào là
chuẩn mực. Từ việc xây dựng ý thức tuân thủ các quy định, cũng như bồi đắp nền tảng nhận thức
về văn hóa trong mỗi con người, sẽ là tiền đề để nâng cao văn hóa ứng xử cho cả xã hội.
Ngày nay, trong thời đại mới, việc ứng xử nơi công cộng ngày càng trở nên cần thiế hơn, rèn
luyện cho bản thân cung cách ứng xử tốt đẹp là trách nhiệm của thế hệ trẻ nói riêng và người dân
Việt Nam nói chung. Bởi nhìn vào cách ứng xử ở nơi công cộng, có thể thấy được trình độ văn
minh của một dân tộc cũng như trình độ dân trí của dân tộc đó.
Sức ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thông và mạng xã hội đã góp phần hình thành nên
những hành vi ứng xử trong một bộ phận giới trẻ. Những tác động đó sẽ mang lại lợi ích tích cực
nếu chúng ta biết cách sử dụng chúng một cách hợp lí. Nó có thể giúp chúng ta kết nối với mọi
người, tiếp nhận thông tin, học hỏi kiến thức cũng như kỹ năng sống, kinh doanh, bày tỏ quan
điểm cá nhân, giải trí giảm
bớt căng thẳng mệt mỏi. Tuy
nhiên, nó cũ ng chứa đựng
nhiều nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn
có thể ảnh hưởng xấu tới
công việc, mối quan hệ cá
nhân và cuộc sống của
người sử dụng như giảm
tương tác giữa người với
người, thường xuyên so
sánh bản thân với người
khác,…Từ đó, dẫn đến
những hành vi ứng xử
không đúng đắn của giới trẻ hiện nay.
Chính vì việc quá đề cao cái tôi cá nhân, chỉ quan tâm đến sở thích của bản thân đã dẫn đến
những nhận thức lệch lạc trong văn hóa ứng xử.
Ngoài ra, văn hóa ứng xử cũng một phần nào tỉ lệ thuận với trình độ học vấn của con người.
Vì học vấn là thành tố khá quan trọng trong việc hình thành nên nhân cách của một con người. Có
thể thấy, người có học vấn cao sẽ có cơ sở để dễ tiếp nhận văn hóa hơn là người có học vấn
thấp. Khi kiến thức rộng, trải nghiệm nhiều thì người có trình độ học vấn cao sẽ thường ứng xử,
giao tiếp lịch sự, văn hóa hơn.
Phân tích, chỉ ra cơ sở lí luận về văn hoá ứng xử quan trọng như thế nào đối với sinh viên (
sinh viên là thế hệ trẻ tiếp nối công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là bộ mặt của đất
nước, là cơ sở để nước bạn đánh giá nền văn hoá của nước ta )
Tìm hiểu thực tiễn về văn hoá ứng xử của sinh viên ( sinh viên ở từng khu vực, từng độ
tuổi ), dễ bắt gặp nhất ở khu vựa công cộng nào?
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, thu số liệu thực tế, phỏng vấn trực tiếp sinh
viên Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp xử lý thống kê số liệu tìm được từ việc khảo sát để phân tích, đánh
giá thực trạng và đưa ra những đề xuất, góp ý.
Giai Người
Nội dung Phương pháp, Phương tiện Ghi chú
đoạn thực hiện
-Chọn, xác
định, giới hạn -Thảo luận, thống nhất chọn đề tài phù
đề tài. hợp. (“Văn hóa ứng xử nơi công cộng của
giới trẻ TPHCM”).
-Thu thập
tài liệu. -Tìm tài liệu tham khảo ở thư viện, sách Thành
Chuẩn bị báo khoa học, các bài luận văn, công trình viên trong
-Soạn đề nhóm
nghiên cứu,...
cương nghiên
cứu, trình Hội -Soạn đề cương NCKH.
đồng giáo
viên.
-Phân tích -Công cụ: các bài khảo sát, bài phỏng
và tổng hợp vấn, công trình nghiên cứu của chuyên gia
CSLL của đề về xã hội học, hành vi học
tài. -Triển khai: đi thực tế nhằm tìm hiểu
Thực -Soạn thử môi trường sống (giáo dục, gia đình, cộng Thành
công cụ NC. đồng) của giới trẻ hiện nay. Phỏng vấn trực viên trong
hiện
tiếp các bạn trẻ ở TPHCM, ngoài ra phỏng nhóm
-Triển khai vấn thêm người dân địa phương và người
NC. nước ngoài để xem xét cách nhìn nhận của
-Phân tích họ về văn hóa ứng xử nơi công cộng của
kết quả. giới trẻ hiện nay.
-Rút ra kết quả: phương pháp để thay
đổi những mặt tiêu cực trong văn hóa của
giới trẻ nơi công cộng hiện nay.
Thuật ngữ “không gian công cộng” có thể đượ c hiể u theo hai nghiã khác nhau. Nghĩa thứ
nhất bắ t nguồ n từ một đinḥ nghiã chiń h thố ng: không gian công cộng là những công trin ̀ h, khu
vự c đượ c chiń h phủ thay mặt người dân sở hữu, bao gồ m rấ t nhiề u không gian như đường
phố công cộng, via ̉ hè, công viên và thư viện công cộng, đây là những nơi mở cửa cho tấ t cả
người dân sử dụng. Tuy nhiên, đinh ̣ nghiã này cũng bao gồm các không gian công cộng như
căn cứ quân sự gầ n với khu vự c dân cư, những công trin ̀ h khác như quảng trường công cộng
– nơi mà việc tập trung một số lượ ng người vượ t quá cho phép có thể bi ̣ cấ m hoặc bế n xe
buýt, ga tàu – nơi mà một số hoạt động như biể u diễn đường phố cầ n phải xin giấ y phép.
Một cách hiểu khác của “không gian công cộng” dự a trên đinh ̣ nghiã phổ biế n, được áp
dụng cho bất kỳ một không gian nào mà người dân có thể tụ họp, bao gồ m cả các khu vự c do
tư nhân sở hữu như trung tâm mua sắm. Nhiều trong số các công trình nêu trên thự c sự là
những không gian mở với mục tiêu phát triể n đời sống xã hội của thành phố , nhưng một số
khu vự c khác cũng hạn chế tự do cá nhân.
Nói cách khác, trong khi từ “công cộng” dường như gắn liề n với những quyề n lợi chắc chắn
trong việc tiếp cận và sử dụng những tài sản được ủy thác cho người dân thì rấ t nhiề u công trin ̀ h
đượ c biế t đế n là “công cộng” nhưng lại không hề cho phép hoặc khuyế n khić h việc tiếp cận và sử
dụng của mọi người.
Xuấ t phảt từ việc thiế u rõ ràng trong đinh
̣ nghiã về không gian công cộng, một số học giả
nhận thấy rằng không gian công cộng luôn luôn trong quá trin ̀ h đượ c những người sử dụng
đinh
̣ nghiã và tái đinh ̣ nghia. ̃ Theo thời gian, việc tái định nghĩa khái niệm “không gian công
cộng” đã trở thành một thực hành "thông thường”. Cũng bởi lí do này mà David Koh nhận
đinh
̣ rằ ng không gian công cộng không chỉ là những không gian vật chấ t cố đinh ̣ với các chức
năng cụ thể mà còn là không gian công cộng do người sử dụng tạo ra (Koh 2007)
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị
lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do
những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên
nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này
phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan
tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy
ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên.
Sinh viên đã ở độ tuổi muốn mình được coi trọng, muốn được khẳng định trong xã hội, có thể
tự đánh giá về bản thân và định hình xu hướng phát triển cho chính mình.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất định, sinh
viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự thiếu chín chắn
trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu
thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của
chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá
phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn
hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với
sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét
văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có
lợi cho bản thân họ.
- Sinh viên ở độ tuổi này còn thiếu kiên nhẫn, thiếu trách nhiệm, vẫn còn thói quen thích
hưởng thụ do đã được hình thành từ nhỏ, nên thường dễ mất kiểm soát, dễ bị tổn thương, có
những hành vi nóng nảy lệch chuẩn làmảnh hưởng xấu đến bản thân và những người khác.