You are on page 1of 28

VÔ THƯỜNG

ĐẠO GIÁO

2009 - 2013

1
LỜI NÓI ĐẦU

Tín ngưỡng là nhu cầu thiết yếu của loài người, nhưng có đôi khi Tôn Giáo
bị lợi dụng và có môn đồ cuồng tín thì cũng xảy ra thảm họa.Nhìn chung các tôn
giáo lớn đều mở ra con đường [Đạo] để hướng dẫn [Giáo], nhân loại tiến hóa. Các
tôn giáo khác nhau là hình thức, tổ chức bên ngoài do tập quán và địa phương;
còn giáo lý thì hoàn toàn giống nhau: SỰ THẬT – SỰ SÁNG – TÌNH THƯƠNG.

Tôi tạm dùng một ít kiến thức hạn hẹp về Nho giáo và Phật giáo,để trình
bày tóm tắt 9 đề mục, gọi chung là ĐẠO GIÁO, nhằm giúp người đọc nhận ra
những nét chung của Tôn giáo.

Đạo Giáo là con đường hướng dẫn nhân loại tiến hoá mà từng người phải
nắm giữ (chấp)đời đời,từ lúc đầu (nguyên sơ) cho đến lúc cuối (giác ngộ).

Cầu nguyện người người đồng tâm tìm về CHÂN–THIỆN –MỸ.

Hạ, 2009

Huỳnh Hiếu Hữu

Ấn tống tự do – cần có File này liên lạc Email : huynhhieuhuu@yahoo.com

2
BÀI 1 - TÍN NGƯỠNG

Con người sống giữa vạn vật, ngàn năm nay có những câu hỏi chưa có lời
giải đáp, thí dụ : “con người sinh ra từ đâu, khi chết về đâu”. Như vậy là luôn luôn
sống giữa cái thấy biết và cái chưa thấy biết cho nên TÍN NGƯỠNG là nhu cầu
thiết yếu và vấn đề cần bàn luận là TÍN NGƯỠNG thế nào cho phù hợp với đà tiến
hóa của nhân loại.

1. TRÌNH ĐỘ THẤY BIẾT :


Bất cứ thời nào chốn nào, nhân loại cũng tôn quý sự thấy biết. Dân tộc Việt
Nam có ngạn ngữ: “Khôn chết, dại cũng chết, chỉ có biết mới sống”.
Đức Khổng Tử chia sự thấy biết đại khái có 3 loại:
Sanh đã biết (THƯỢNG)
Học để biết thêm (TRUNG)
Khổ mới biết (HẠ)

 Sanh đã biết, biết phù hợp với tuổi là tự nhiên nhưng biết trước tuổi hoặc
có năng khiếu khác thường là đặc biệt, hoặc là thánh nhân (có vốn thấy
biết từ đời trước)hoặc là thần đồng(có vốn thấy biết từng khoa học).
 Học để biết thêm là phổ thông, nhân loại trên thế giới lấy học thức đo nhân
trí, nước có nền giáo dục tiến bộ là nước tiến bộ.
 Người không học (kém văn hóa) phải chịu khổ mới biết.
Lịch sử văn hóa chứng minh sự thấy biết luôn luôn tỉ lệ nghịch với bản ngã:
Bản ngã to thì sự thấy biết nhỏ.
Vô ngã sẽ đại giác ngộ (như Đức Phật thấy biết cao rộng vô cùng).

2. ĐỐI TƯỢNG TÍN NGƯỠNG :

Tín nghĩa là tin.Tin vì chưa thấy biết.Ngưỡng là ngưỡng mộ, do thương kính
bậc có thể ban ơn hoặc nể sợ bậc có thể giáng họa.

a. Quỉ thần :

Quỉ là loài thường hay giáng họa như chằng tinh, mãng xà, thuồng luồng.

Thần là loài hay cứu vớt như cá Ông,bạch tượng,thần tài, thổ địa.
3
Hoặc có khả năng ban, giáng cả hai mặt như thần sông, núi, gió, sấm sét, mặt
trăng, mặt trời.

Đôi khi là các vị anh hùng có công dựng nước và giữ nước như Quan công,Trần
Hưng Đạo,Lê Văn Duyệt.

Các vị Tổ thuộc các ngành nghề như nghề nông, thợ mộc, thợ rèn…

Đối tượng tín ngưỡng thì đi đôi với sự thấy biết và người thờ phụng thường
để cầu xin được tha thứ hoặc được phò trợ.

b. Thượng đế :

Theo đà tiến hóa, đối tượng tín ngưỡng của nhân loại cũng tóm gọn thành
một đấng duy nhất như :
Khổng giáo thờ Trời.
Lão giáo thờ Huyền Tẩn (Mẹ mầu nhiệm).
Cơ đốc giáo thờ Thiên Chúa.
Các vị này đều là đấng duy nhất [theo từng tôn giáo]. Nếu đã duy nhất thì
phải là một, chẳng qua có tên khác nhau vì văn hóa địa phương khác nhau. Cho
nên có thể gọi chung là Thượng Đế.

3. Ý NGHĨA CỦA CẦU NGUYỆN :


Cầu nguyện là hành động cốt yếu của mọi tín đồ.Đa số tín đồ đơn sơ hiểu
cầu nguyện theo một nghĩa như là cầu xin. Sự thật cầu nguyện chia hai vế rõ ràng:
CẦU : nghĩa là xin trên ban xuống lòng thương xót.
NGUYỆN : nghĩa là dưới dâng lên tánh tương xứng.
TRÊN

BAN XUỐNG
CẦU = NGUYỆN là công bằng, CHÁNH TÍN.
LÒNG THƯƠNG XÓT TÁNH TƯƠNG XỨNG
CẦU > NGUYỆN là tham lam, MÊ TÍN.
(Tâm từ bi) (Tính công bằng)

DÂNG LÊN

CẦU NGUYỆN

DƯỚI

4
Nếu như mọi tín đồ đều Chánh Tín thì Chánh Đạo chỉ là một.Trong tinh thần
Chánh Tín, một tín đồ Công Giáo cầu nguyện là tập trung để thông công với Thiên
Chúa cũng không khác với một hành giả Phật Giáo tu Thiền tĩnh lặng để hòa nhập
với tâm Bồ Đề.

4. TIN TÂM BỒ ĐỀ :

Cơ đốc giáo nói có Chúa ngự nơi mỗi người, không khác với Phật giáo nói
chúng sanh đều có Phật tánh.Phật dạy qui y Tam Bảo là chẳng những tin theo
hình tượng Phật, Pháp, Tăng bên ngoài mà còn quay về nương tựa Tự tánh tức Bồ
đề tâm nơi chính mình có đủ Tam Bảo :

Tánh GIÁC (suốt khắp)


Đức CHÁNH (chơn thật)
Hạnh TỊNH (trong sạch)

Có người xuyên tạc tính nhân bản của Phật Đạo là thiếu thành kính với đấng
bề trên. Sự thật khi cầu bằng nguyện thì khi chỉ nói nguyện là hàm ý đã có cầu,
huống chi Tâm từ bi của các đấng bề trên vốn hằng có. Phải chăng nói để trừ mê
tín, hướng dẫn tín đồ chánh tín mà thôi.

TÂM BỒ ĐỀ PHẬT GIÁC

PHÁP CHÁNH

TĂNG TỊNH

5
Bài 2 CÔNG BẰNG

Trong nhân loại có người thấu hiểu luật Nhân quả nói : “Công bằng là luật
Trời”. Có người chỉ xét việc trước mắt cho là bất công nên oán Trời, trách người.
Sự thật thì thế nào ? Câu hỏi này cần giải đáp minh bạch.

1. CÔNG BẰNG LÀ LUẬT TRỜI :

Công là chung cho cả vạn vật.


Bằng là bằng với tích lũy nghiệp của từng cá thể. Văn hóa Việt Nam có nhận
định rất sâu sắc về Công Bằng nên có danh từ bằng cấp (chứng chỉ tốt nghiệp)
hàm nghĩa “có bằng mới được cấp”.
a. Bằng đồng loại :

Loài mèo bằng loài mèo. Loài chuột bằng loài chuột. Loài người bằng loài
người nhưng khác loài vật.
b. Bằng tích lũy nghiệp :

Loài người bằng loài người nhưng từng người lại khác nhau do tích lũy
nghiệp:
Tích lũy lành  Nhơn quả luân hồi  Tiến hóa.

Tích lũy dữ  Nhơn quả luân hồi Biến thoái .

c. Nhơn quả luân hồi :

Do tích lũy là Nhơn nên nhơn gặp duyên kết quả  thành Nhơn quả 
thành luân hồi.

d. Tiến hóa, biến thoái :

Do tích lũy nghiệp có lành dữ cho nên có :

Tích lũy lành = Tiến hóa.


Tích lũy dữ = Biến thoái .
Dù lành dữ, tiến hóa hay biến thoái thì cũng không ra khỏi qui luật trước <
sau, nhân < quả. Ví dụ : tiền nợ vay phải trả lời, tiền gởi tiết kiệm được thêm lời.

6
2. BẤT CÔNG CHỈ TẠM THỜI :

Trong xã hội nhan nhản thấy các hiện tượng bất công như : mạnh hiếp yếu, cá
ăn kiến v.v…, nhưng chỉ là thời gian ngắn khi nhơn chưa gặp duyên kết quả.
Khi nhơn đã gặp duyên kết quả thì hiện tượng yếu thắng mạnh, kiến ăn cá
v.v… lại xảy ra. Cho nên do luật Nhơn quả, bất công chỉ là tạm thời.

3. TAM ĐỘC TẠO LUÂN HỒI :

Tam độc là Tham Sân Si mà tham sân là gốc bởi si. Si là vô minh không biết
công bằng là luật Trời cho nên :
Tham vì lầm tưởng sẽ được khi làm chuyện bất công.

Sân vì tạm thời bị hiếp đáp.

Thật ra tham sân đều vô ích vì được luật Nhơn Quả bù trừ.

4. TRÍ HUỆ ĐẾN GIẢI THOÁT :

Có trí huệ tức có sáng suốt thấy biết công bằng là luật Trời [hết si], nhờ đó
không còn tham sân [hết tham sân].
Dứt tam độc thì không còn tạo tam nghiệp (thân, khẩu, ý) tất nhiên đến giải
thoát.

CÔNG BẰNG TỰ DO

7
Bài 3 TỰ DO

Thế gian thường nói : “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Bản tính do
Thiên mệnh (Trời ban cho), bằng với nghiệp tích lũy của từng người và còn được
con người tự do tích lũy trong đời sống. Chỉ có bản thân con người tự đổi dời bản
tính của mình bằng việc học, việc tu, việc làm thì mới dễ. Nếu như có người muốn
thay đổi bản tính của một người khác là phạm luật tự do của Trời, khó là như vậy.

1. THẬT NGHĨA CỦA TỰ DO :

Tự nghĩa là tác ý của hành động từ bản thân, không do một tác động nào từ
bên ngoài.
Do nghĩa là do hành động vừa kể hoặc lành hoặc dữ sẽ gặp duyên, kết quả
nơi chính con người hành động.
Như vậy tự do không đơn thuần có nghĩa không bị ngăn cản khi hành động
mà còn có nghĩa tự tạo nhân và do nhân sẽ gặt quả trong luật Nhân quả.

2. TỰ DO VÀ NHÂN QUẢ:

Theo thực nghĩa đã nói ở trên,tự do là tạo Nhân :

o Nhân lành sẽ gặp duyên và kết quả lành.


o Nhân dữ sẽ gặp duyên và kết quả dữ.
Vậy thì buông thả trong tự do,con người sẽ đi về đâu? Nếu nhân lành nhiều
con người sẽ tiến hóa, nếu nhân dữ nhiều con người sẽ biến thoái .
Trong việc tu hành có câu: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Có nghĩa
Bồ Tát biết sợ tự do, không dùng tự do để tạo nhân;trái lại chúng sanh buông thả
trong tự do.Tha hồ tạo nhân. Do lòng tham dục tạo nhiều nhân dữ cũng không
cần biết; đến khi gặp duyên kết nhiều quả dữ mới biết sợ.

3. TỰ DO VÀ TỰ GIÁC:

Người có trí huệ thấu hiểu tự do là luật Trời, chẳng những không buông thả
để tạo nhân dữ mà còn hạn chế trong tạo nhân lành để giảm thiểu đầu mối nhân
quả luân hồi.Dùng tự giác để hạn chế tự do.Tự giác học để biết làm.Tự giác tu sửa
để làm tốt. Tự giác học, tu, làm để tiêu trừ nghiệp quả.

8
4. KẾT LUẬN:

Tự do là luật Trời dành cho vạn vật. Nhưng cần phải hiểu tự do có 2 chiều:
o Tự do tích lũy nghiệp lành  Tiến hóa  Lên thiên đàng.

o Tự do tích lũy nghiệp dữ  Biến thoái  xuống địa ngục.

Cho nên để tránh biến thoái và xuống địa ngục con người hạn chế tự do
của mình bằng tự giác.

 Tự do = tự giác = không tiến thoái.


 Tự do < tự giác = tiến hóa.
 Tự do > tự giác = biến thoái .

Công bằng và Tự do đồng tại Tâm, đồng biểu hiện một qui luật bất biến:

 Có Công bằng thì có Tự do.


 Không Công bằng thì không Tự do.

Tu hành là hướng Tâm củng cố chân chánh công bằng; Tạo Nghiệp là ly Tâm
Tự Do phóng túng tà vọng.

TỰ DO

9
BÀI 4 HỌC TU HÀNH

Hành có nghĩa là làm. Làm để đáp ứng 3 nhu cầu thiết yếu cho việc ăn,
mặc, ở của đời sống con người. Nhưng trước khi muốn làm, con người phải
học, phải tu. Cho nên có từ ghép học hành và tu hành. Ngôn ngữ bình dân của
Việt Nam cũng đậm nét quan trọng việc làm và có nhiều từ như làm lụng, làm
ăn, làm dáng… Thậm chí còn gọi kẻ lười, ít chịu làm việc là “làm biếng.

1. HỌC HÀNH:
Học hành có nghĩa: học là tập biết thêm để làm, biết thêm để làm lợi.
Khổng học dạy học hành có 5 bước thứ tự:

Học – Vấn – Tư – Biện – Hành

Đầu và cuối là hai chữ Học – Hành đã giải ở trên còn lại 3 chữ ở giữa là
phương pháp học :
Vấn: hỏi cho tới.
Tư: suy cho kỹ.
Biện: giải cho rành.
Ngày nay khoa học kỹ thuật tiến bộ đến mức toàn cầu hóa.Việc giáo dục
chuyển hướng đào tạo chuyên viên thợ có kỹ thuật cao không còn phù hợp với
đường lối học hành toàn diện.Cho nên nếu thiếu tham khảo hoặc tự học thêm
trong đời sống hằng ngày, con người dễ mất thăng bằng trí não và thiếu sót đạo
đức.

2. TU HÀNH:
Tu hành là sửa mình cho tốt để làm.Do việc học hành thiên hướng đào tạo
chuyên viên nên con người cần có tu hành để quân bình bản thân.(Bài này chỉ đặt
vấn đề trong tín hữu và cư sĩ, không lạm bàn đến công việc của các nhà tu chuyên
nghiệp).
Phật học nói một người bình thường có 5 thứ chất chứa gọi là Ngũ uẩn:
Sắc - Thọ - Tưởng – Hành – Thức

o Sắc là vật chất [có hình tướng] bao gồm :


 Xác thịt trong thân.
 Cảnh vật ngoài thân.
10
Thọ - tưởng – hành – thức là tinh thần [không hình tướng] gọi chung là
Danh được giải thích như sau:

o Thọ : cảm nhận gồm 2 loại :


 Ưa, muốn chiếm hữu hoặc nhận thêm.
 Ghét, muốn loại trừ hoặc sớm dứt.
o Tưởng : ý tiếp diễn sau cảm thọ ưa ghét.
o Hành : có tác ý tiếp diễn sau thọ, tưởng hoặc chiếm hữu, hoặc loại trừ.

o Thức: ý phân biệt hoặc chân hoặc vọng, do kết quả của quá trình thọ,
tưởng, hành.

Như vậy Ngũ uẩn càng lớn thì nghiệp dữ càng nhiều, Tâm kinh Bát Nhã Ba La
Mật nói: Ngũ uẩn đều không [=O] (hư không,không dơ,không sạch,không
thêm,không bớt,không hình tướng, không giả tạm,khôngVô thường, không tương
đối tức như trung tâm,duy nhất,chân thật,hằng thường, bất biến, công bằng, tự
tại …) dứt tất cả khổ ách.
Tu là làm cho Ngũ uẩn nhỏ dần cho đến không còn.

3. TƯ TƯỞNG:
Giữa 5 bước học hành có chữ Tư, giữa Ngũ uẩn có chữ Tưởng, tư tưởng là
đầu mối của mọi hành vi tạo nghiệp của loài người.
Tư: suy theo lý chơn hành vi tạo nghiệp lành
Tưởng: nghĩ theo lẽ vọng  hành vi tạo nghiệp dữ

Kết hợp học hành với tu hành để có :

Tư > Tưởng = tiến hóa.


Tư < Tưởng = biến thoái.

4. CỨU CÁNH CỦA TU:


Chữ Tu ở giữa hai chữ Học Hành.Tu học là để biết (TRI).Tại một chỗ bất
biến (TÂM) biết hết thảy vạn vật gọi là THÔNG.Tu hành là để thấy (KIẾN).Từ các
chỗ tùy duyên (VÒNG TRÒN) thấy giáp một vòng vạn vật gọi là ĐẠT.
THÔNG ĐẠT = CHÁNH BIẾN TRI = CHỨNG NGỘ VÔ THƯỢNG

11
5. HỌC TU HÀNH VÀ ĐẠO TAM CỰC:

Hình dung một vòng tròn có một đường kính thẳng đứng, tại đầu trên của
đường kính ghi dấu + (Dương - Học),tại Tâm ghi dấu = (Tâm -Tu) và tại đầu dưới
của đường kính ghi dấu – (Âm - Hành). Như vậy Học Tu Hành cũng chính là Dương
(+),Tâm(=), Âm (-) là Đạo Tam Cực - mỗi người phải nắm giữ (chấp) từ lúc đầu
(nguyên sơ)đến lúc cuối (giải thoát).

+ HỌC

= TU

- HÀNH

12
Bài 5 TAM PHÁP ẤN

Phật giáo đề ra duy nhất một cứu cánh là giải thoát con người khỏi ách khổ,
nhưng có hàng vạn kinh sách và Pháp môn để trình bày hướng dẫn và thực hành.
Dù vậy có thể tóm lược nội dung gồm 3 chủ đề: Khổ, vô thường, vô ngã gọi là Tam
Pháp Ấn. Khổ là đối tượng cần giải thoát, nguyên nhân của khổ là Vô Minh, là
không thật biết các pháp Hữu vi là Vô thường và con người là Vô ngã.

1. KHỔ:

Sự sống của vạn vật trên thế gian chịu chung một qui luật Dịch Học là Sướng
= Khổ. Tuy nhiên đời sống con người lại Khổ > Sướng vì 2 lý do:

a. Thực tế :

o SANH: con người từ lúc sanh đến khi chết luôn phải vất vả lo toan 3 nhu
cầu thiết yếu là ăn, mặc, ở; đó là chưa kể đến giải trí và làm đẹp…

o LÃO: con người lớn dần từ trẻ rồi đến già.Không ai dừng lại được quá
trình này. Trẻ thì khỏe mạnh, già thì khổ vì yếu ớt.

o BỆNH: có sung sướng khi lành mạnh ắt có đau khổ lúc bệnh tật. Dù xã
hội có ngành y tế cũng không giúp con người thoát khỏi cảnh khổ này.

o TỬ: có sanh ắt có tử nhưng không biết trước hạn kỳ, chỉ người sống thấy
chết đủ lý do và khổ vì không biết khi chết sẽ về đâu.

b. Tâm lý:

 Khổ vì muốn không được (cầu bất đắc khổ).


Cầu sướng > khổ, cầu được hạnh phúc, cầu không già, cầu không bệnh
v.v. cầu càng nhiều càng không được cho nên khổ.
 Khổ vì yêu phải chia lìa (ái biệt ly khổ)
Khổ vì phải xa cách người thân yêu.
 Khổ vì ghét mà thường gặp (oán tăng hội khổ).
Việc mình không ưa, người mình không thích lại cứ gặp gỡ.
13
2. VÔ THƯỜNG :

Các pháp hữu vi (có hình tướng) đều như sương mù, bọt nước sớm có chiều
tan, nay còn mai mất. Con người vì không thật biết nó. Vô thường nên tham ái
đến khi phải mất mớI thành đau khổ.
Thân người và sự vật quanh thân vốn không bền lâu.

3. VÔ NGÃ :

Con người sinh ra nhờ hợp thân Tứ Đại đến khi chết trả lại cho Tứ Đại sống
nhờ vay mượn thở hít không khí của trời, ăn uống vật thực của đất, làm chấp cái
giả tạm là ta cho nên Tham ái, Sân hận, tạo muôn nghiệp trong đời sống.
Tâm ta là vọng tưởng của 6 (căn, trần, thức) vốn không chân thật.

4. KẾT LUẬN :

Phật giáo nguyên thủy có Tứ Diệu Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ Tập là chân
lý nói về Khổ và nguyên nhân của khổ ; Diệt Đạo là chân lý nói Pháp và con đường
diệt khổ. Phật giáo Đại thừa chỉ nói khổ vì vô minh, có trí huệ là hết sạch mọi thứ
khổ.
Tam Pháp Ấn chẳng những giản lược kinh điển mà còn chỉ bày phương pháp
tu học.
 Một mục đích : giải khổ.
 Hai yêu cầu : tu tập hướng tới.
 Thấy (kiến) Pháp Vô Thường.
 Biết (tri) Tâm Vô Ngã.
Tri kiến (Phật) = Viên Trung (Phật) = Trung Dung (Nho), đồng là Hệ từ của
vòng tròn TÙY DUYÊN và một tâm BẤT BIẾN.

VÔ THƯỜNG KHỔ VÔ NGÃ

THƯỜNG LẠC NGÃ

VÔ THƯỜNG KHỔ VÔ NGÃ

14
Bài 6 TRUNG DUNG

Trung Dung là một sách trong Tứ Thư của Khổng học. Xưa nay hai chữ Trung
Dung thường được giải nghĩa là không thiên tả, không lệch hữu, vững vàng giữa
hai cực Âm Dương. Giải như vậy chưa đủ thực nghĩa.

1. THỰC NGHĨA CỦA TRUNG DUNG :

Chọn một điểm duy nhất làm tâm rồi từ đó vẽ một vòng tròn.
TRUNG o Trung là Tâm – Bất biến – Tuyệt đối – Hằng thường = tượng
duy nhất = một [Thể].
o Dung là Vòng tròn – Tùy duyên – Tương đối – Vô thường =
DUNG tượng vạn vật = tất cả [Dụng].
Kinh Dịch mô tả một quá trình đại diễn (nhị phân) gồm từ một sinh ra các quẻ
1 nét đến 6 nét. Tại Đồ (hình) Tiên Thiên có 64 quẻ 6 nét xếp thứ tự trên một vòng
tròn, là tượng của vạn vật. Điều này phù hợp với Phật học, kinh Hoa Nghiêm nói :
“Một là tất cả, tất cả là một”.
Như vậy sách Trung Dung là mô tả một học thuyết, tiếp theo kinh Dịch nói về
mối tương quan giữa một và tất cả, trong đó bao gồm các qui luật về Âm Dương.
TRUNG DUNG (NHO) = VIÊN TRUNG (PHẬT) = MỘT & TẤT CẢ (PHẬT) = TRI KIẾN
(PHẬT).

NHẤT BẢN TÁN VẠN THÙ = MỘT CHIA THÀNH TẤT CẢ (VẠN VẬT)

VẠN THÙ QUI NHẤT BẢN = TẤT CẢ (VẠN VẬT) QUAY VỀ MỘT

2. THỜI TRUNG TRONG TRUNG DUNG :


THỜI
Cốt lõi của sách Trung Dung là đề ra nhiệm vụ của người
quân tử.
TRUNG Người quân tử Trung Dung là lúc nào cũng “Thời Trung”.

Từ tâm vẽ một đường bán kính. Hình dung hình tròn là một mặt
đồng hồ có cây kim chỉ giờ là đường bán kính, đầu kim chỉ một điểm trên đường
tròn gọi là Thời, đuôi kim nối với tâm là cốt đồng hồ gọi là Trung. Kim đồng hồ liên
tục xoay vòng trên mặt đồng hồ để chỉ Thời. Người quân tử “Thời Trung” tức là
không lỗi thời, tức là hiệp một với cây kim chỉ thời.
15
Thời Trung = Hiện tại = Bây giờ và ở đây.

Lúc nào cũng Thời Trung nghĩa là một Thời Trung trong cả 3 thời quá khứ, hiện
tại và vị lai. Phân 3 thời gian để hiểu chứ đâu cắt đứt được tánh liên tục của một
mảnh Thời (Nhất phiến thời).
Như vậy chỉ có Thời Trung trong một vòng Thời liên tục.

THỜI TRUNG = BÂY GIỜ & Ở ĐÂY

3. TRUNG HÒA TRONG TRUNG DUNG :

KIỀN Sách nói : “Khi chưa phát (còn là một) tại tâm gọi là
Trung, khi đã phát và đều “trúng tiết” gọi là Hòa”.

Đường kính phát xuất từ tâm cắt vòng tròn tại Kiền và tại
TRUNG HÒA
Khôn được gọi là Trúng Tiết. Các đường kính Trúng Tiết các
quẻ Cấu Phục, Quải Bác đều như vậy (đường kính qua tâm
KHÔN là trúng qua 2 cực Âm Dương ở hai đầu là tiết).

Như vậy :
QUẢI KIỀN CẤU  Trung : có nghĩa là tại Tâm.

 Hòa : có nghĩa là hai cực Âm Dương (trên vòng tròn)


HỎA DƯƠNG ÂM BIẾN thăng bằng và điều hòa qua Tâm.

 Trung Hòa nói về mối quan hệ Âm Dương đối lập mà thống


nhất.
PHỤC KHÔN BÁC

 Trung Dung nói về mối quan hệ giữa một và tất cả. Hai mối
quan hệ này khác nhau nhưng đồng có một tâm nên đồng
dùng chữ Trung cho thấy mối quan hệ không thể tách rời.

TRUNG HÒA là cặp Âm Dương vừa thống nhất tại Tâm gọi là Trung, vừa
đối lập qua Tâm trên vòng tròn gọi là Hòa.
16
4. TRUNG ĐẠO TRONG TRUNG DUNG :

Trung Đạo là 1 đường có 2 chiều bất dịch gồm Dương hướng Tâm và Âm ly
Tâm. Do đặc tính này, Trung Đạo thường được mô tả bằng 2 loại :

 Trung Đạo giữa 2 cực Âm Dương tương đối : 1 đường kính gồm 2 bán kính
Dương hướng Tâm và Âm ly Tâm.

 Trung Đạo giữa 2 cực Tương đối và Tuyệt đối : 1 đường bán kính có 2 chiều
Dương hướng Tâm [Trung] và Âm ly Tâm [Dung].

TRUNG ĐẠO

Giữa 2 cực Âm Dương đối lập Giữa 2 cực Tương đối và Tuyệt đối
DƯƠNG

TUYỆT ĐỐI

ÂM TƯƠNG ĐỐI

TRUNG = 1 = tượng Âm Dương thống nhất. (các Âm Dương trên vòng tròn hội
vào một tâm thống nhất).
DUNG = tất cả = tượng Âm Dương đối lập. (một tâm thông ra các Âm Dương đối
lập trên vòng tròn).
Kinh Dịch, Hệ Từ nói:“Hình nhi Thượng gọi là Đạo, Hình nhi Hạ gọi là Khí
(dụng cụ)”.Cách nói này không khác với cách nói Trung Dung và Viên Trung.

HÌNH NHI THƯỢNG TUNG ĐẠO THÔNG LÝ ĐỨC


HÌNH NHI HẠ HOÀNH KHÍ BIẾN SỰ NGHIỆP

THƯỢNG ĐẠO ĐỨC LÝ

TUNG HOÀNH

HẠ KHÍ CỤ NGHIỆP SỰ
17
Vạn vật đồng thể Nhất Âm Nhất Dương, đồng có sự sống không ra ngoài
hai qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập.

Con đường nối liền Tâm với Vòng tròn, Phật với chúng sanh chỉ có một gọi
là Đạo,nhưng có 2 chiều:từ chúng sanh đến Phật gọi là LAI [vào Đạo]; từ Phật đến
chúng sanh gọi là VÃNG [ra Đời].

CHÚNG SANH

LAI
PHẬT
PHẬT
LAI VÃNG
VÃNG

CHÚNG SANH CHÚNG SANH

18
BÀI 7 ĐẠI HỌC

Đại học không có nghĩa như hệ thống giáo dục hiện nay (tiểu học - trung
học – đại học). Đại học là một sách song đôi với Trung Dung trong bộ Tứ thư của
Khổng học, có nội dung là con đường đào tạo đại nhân với hành trang hai tính
chân thật và sáng suốt.

1. CON ĐƯỜNG ĐẠI HỌC :

TU THÂN– TỀ GIA–TRỊ QUỐC – BÌNH THIÊN HẠ

 Con đường này có trật tự không dời đổi [bất dịch].

 Phải hoàn thành bước trước rồi mới tiến hành bước sau.

2. TÍNH CHƠN THẬT :

Muốn đi con đường này, trước hết phải tu thân rèn luyện cả 3 mặt : Thể, Trí,
Đức. Mặt Đức dục được chú trọng nhất bởi yêu cầu :

 Chánh Tâm : Rèn luyện, giữ gìn chơn chánh cái tâm.

 Thành ý : Rèn luyện, giữ gìn thành thật cái ý.

3. TÍNH SÁNG SUỐT :

Tính sáng suốt dính liền với tính chân thật. Sách nói: THÀNH TẮC MINH –
MINH TẮC THÀNH. Có nghĩa là “Thành thật thì được sáng suốt – Sáng suốt thì tự
biết phải thành thật”.

4. TÍNH NHÂN TỪ :

Tính nhân từ sinh đôi với tính sáng suốt. Nho giáo gọi là Lòng nhân. Thiên Chúa
giáo gọi là Bác ái. Phật giáo gọi là Từ bi.

19
5. NHẬN ĐỊNH :

Nho giáo không khác với Thiên chúa giáo, cũng không khác với Phật giáo v.v.
ất cả đều mở ra con đường rèn luyện làm người :

Con Đường – Sự Thật – Sự Sáng – Tình Thương.

Nho giáo hướng tới Chân Thiện Mỹ.

Thiên chúa giáo củng cố đức tin và cầu nguyện.

Phật giáo khuyến tu Giới Định Huệ.Đều là xiển minh ý nghĩa chữ Đại cũng
là xiển minh đạo Tam Cực.

DƯƠNG HUỆ THIỆN NGUYỆN

TÂM GIỚI CHÂN TÍN

(TRUNG HÒA)

ÂM ĐỊNH MỸ HẠNH

20
Bài 8 ĐẠO GIÁO

Đạo giáo vừa là nhu cầu ,vừa là thắc mắc cần giải đáp của loài người .

1. ĐẠO GIÁO :

Khổng học ,sách Luận ngữ có định nghĩa :

Thiên mệnh chi vị TÍNH (1)


THIÊN TÂM
Suất tính chi vị ĐẠO (2)
ĐẠO GIÁO

Tu đạo chi vị GIÁO (3)


MỆNH TÍNH

Tạm dịch là :

(1) – Đấng duy nhất là Trời [Thiên] ban cho con người [Mệnh] tính nết = tích lũy
Nghiệp gọi là TÍNH.

(2) – Mỗi người từ Tính đi trên đường tới đích chân thiện gọi là ĐẠO.

(3) –Hướng dẫn loài người Tu Tâm Dưỡng Tánh tiến hóa theo Đạo gọi là GIÁO.

Như vậy Đạo giáo là con đường và lời dạy con người tìm lại cội nguồn.

THIÊN [TRỜI] = TÂM [LƯƠNG TÂM, CHƠN TÂM] = PHẬT TÁNH


[THIÊN] MỆNH = TÁNH = TÍCH LŨY NGHIỆP + VỌNG TÂM = CHÚNG SANH TÁNH

21
2. TÂM 3 TẦNG :
DUY THỨC HỌC
TÂM LÝ HỌC

TÂM A LAI DA THỨC [8]

Ý Ý Ý THỨC [6] MẠT NA [7]

THỨC TIỀN NGŨ THỨC

Con người có 2 phần: Vật chất hữu hình gọi là THÂN; Tinh thần vô hình gọi
là TÂM .

 DUY TÂM : Là chăm sóc cái Tâm trường cửu, hữu thường .

 DUY VẬT : Là chăm sóc cái Thân giả tạm,vô thường .

Tâm lý học chia Tâm ra 3 tầng: Tâm,Ý,Thức .

Phật giáo Duy Thức học gọi Tâm bằng 8 Thức ,nhưng cũng không khác cách
chia 3 lớp của Tâm Lý học.

TÂM : Có gốc cả vũ trụ ,rộng lớn và vô nhiễm gọi là chơn tâm hoặc là Bạch
tịnh thức ; Có ngọn (nơi cá thể) mang tính chứa chấp nhiễm Ý gọi là Hàm
tàng thức hoặc A Lại Da Thức .

THỨC : (Tiền ngũ thức ) là sự nhận biết của Tâm tiếp xúc với ngoại cảnh
thông qua 5 giác quan : Mắt,tai ,mũi, lưỡi và thân .

Ý : Là con đường 2 chiều nối liền Tâm và Thức .Từ Tâm ra Thức gọi là Ý
Thức có tính phân biệt .Từ Thức vào Tâm gọi là Mạt Na Thức có tính chấp
thủ . Do 2 đặc tính phân biệt và chấp thủ ,cho nên Ý tạo ra tội nghiệp nơi
con người .
22
Tu là buông xã 2 tính chấp thủ và phân biệt của Ý .

Tu là thống nhất 3 lớp của Tâm ,còn lại một chức năng là biết (TRI).

Tu là chuyển 8 Thức thành 4 Trí .

 Mạt na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí


 Ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí .
 Tiền ngũ thức chuyển thành Thành tác sở trí .
 A Lại da thức chuyển thành Đại viên cảnh trí.

3. CHÚA 3 NGÔI :

Giáo lý đạo Cơ đốc nói Chúa có 3 ngôi :

- NGÔI 1 : Chúa Cha, Thiên chúa toàn năng (TÂM).

- NGÔI 2 : Chúa con , Chúa Kitô, con một, ngôi lời (THỨC).

- NGÔI 3 : Chúa Thánh Thần ,quyền năng giao thông giữa 2 ngôi trên (Ý).

CHÚA CHA

CHÚA THÁNH THẦN

CHÚA CON
4. PHẬT 3 BẢO :

Giáo lý đạo Phật dạy qui y (quay về nương tựa) Tam Bảo:

- NGOÀI TÂM : Phật ,Pháp ,Tăng.


- TRONG TÂM : Giác ,Chánh ,Tịnh .
PHẬT GIÁC

PHÁP CHÁNH

TĂNG TỊNH
23
5. Ý DUYÊN :

TÂM NHÂN

Ý DUYÊN

THỨC QUẢ

Trong con người Ý là động lực tạo NHÂN.

Ngoài xã hội DUYÊN là môi trường kết QUẢ.

Con người có ý thức THAM SÂN tạo ra tội nghiệp,chiến tranh.

Xã hội nhờ đạo giáo NHÂN ÁI đem lại giải thoát,hoà bình.

Thượng đế là Bất biến.

Sự sống là Tuỳ duyên.

Quan hệ giữa Bất biến và Tuỳ duyên là đời đời không chối cải được.

Ý Duyên là đối tượng tu hành của Đạo Giáo.

Đạo giáo chẳng qua là Trung đạo,một đường giữa nối liền 2 cực có 2 chiều:

Từ bá Tánh vào nhất Tâm gọi là Đạo.

Từ nhất Tâm ra bá Tánh gọi là Giáo.

24
Bài 9 GIẢI THOÁT

Như nước biển có 1 vị là mặn. Đạo giáo đồng có một cứu cánh là Giải
Thoát. Sau đây là mượn Phật giáo để giải bày ý nghĩa và các pháp tu tập giải thoát.

1. Ý NGHĨA GIẢI THOÁT :


Giải thoát có mục đích là giải khỏi khổ ách, thoát khỏi sự trói buộc do chính
mình không biết (vô minh).
Giải thoát có yêu cầu là giác ngộ :
Giác : biết rõ Tam Pháp Ấn, biết rõ vạn vật đồng thể Nhất Âm Nhất
Dương, đồng có sự sống không ra ngoài 2 qui luật Âm Dương đối lập
(tương đối) và Âm Dương thống nhất (tuyệt đối).
Ngộ : chứng gặp Chơn Tâm tuyệt đối, Niết Bàn tịch tịnh.

2. BA BƯỚC TU TẬP :
Lời Phật dạy có nhiều phương tiện tu giải thoát nhưng không ra ngoài ba bước:

 Bước 1 : Không làm điều dữ [ác].


 Bước 2 : Vâng làm việc lành [thiện].
 Bước 3 : Trong sạch ý mình [tịnh].

Bước 1 và 2 hiệp thành pháp tu tròn nhân quả gọi là tu phước đức.
(Nghiệp dữ + nghiệp lành = 0 = Dứt nghiệp).
Bước 3 luyện ý gọi là tu công đức.
(Tâm = 1 = Dừng nghiệp ) Dứt nghiệp + dừng nghiệp = giải thoát.

3. BA CÕI GIẢI THOÁT :


Loài người luân hồi trong 3 cõi cần giải thoát được sớm chỉ rõ trong bài Niệm
hương :
Niệm (giới, định, huệ) hương = ra khỏi dục giới [khổ].
Niệm giải thoát hương = ra khỏi sắc giới [vô thường].
Niệm giải thoát tri kiến hương = ra khỏi vô sắc giới [vô ngã].
25
4. PHÁP MÔN THIỀN TỊNH :
Phật giáo có nhiều phương tiện tu giải thoát nhưng truyền bá tại Việt Nam nổi
bật 2 pháp môn Thiền Tông và Tịnh Độ Tông, có nơi kết hợp cả 2 thành lập Thiền
Tịnh đạo tràng.
 Thiền Tông : rèn luyện tâm quan sát thấy biết rõ tự tâm hoặc chơn hoặc
vọng. Biết vọng không theo. Chỉ còn lại biết tâm chơn, là tu Huệ.
 Tịnh Độ Tông : rèn luyện tâm, đắc tâm tĩnh lặng, niệm Phật Nhất Tâm
bất loạn là tu Định.
Rèn luyện Tâm là tu Giới ; Định Huệ là Âm Dương không rời, có Huệ ắt có Định
và trái lại.Như vậy chỉ cần dùng một trong 2 pháp môn là đủ tu Giới Định Huệ để
được cứu cánh giải thoát.
Phật pháp là pháp không hai (Pháp môn bất nhị), cho nên phê phán đạo Phật
trốn đời, xuất thế là do không biết, chứ đã “không hai” thì đâu còn “xuất nhập”.
Giải thoát là chứng đắc cái chơn tâm thường hằng ; còn cái xác thân vô thường
thì vẫn trong vòng sanh diệt.

5. CỔNG TAM QUAN :


Bước vào một ngôi chùa là đi qua cổng Tam Quan : Cửa bên trái là “Từ Bi”.Cửa
bên phải là “Trí Tuệ”.Cửa chính giữa là “Phúc Huệ song tu”.
Hành Từ bi là tu phúc, hành Trí tuệ là tu huệ.Phúc Huệ song tu là đi hướng giải
thoát.

TRÍ BI TRÍ

GIẢI THOÁT DŨNG

TUỆ TỪ NHÂN

(Dùng tiếng đôi Trí Tuệ, Từ Bi là diễn tả đủ tính Âm Dương của sự vật ; Trí là
Dương, Tuệ là Âm của Trí ; Từ là Âm, Bi là Dương của Từ. Nếu dùng tiếng một mà
đủ tính Âm Dương thì nói Nhân Trí Dũng vì Nhân là Âm, Trí là Dương, còn nếu
hàm ý cả Từ Bi thì chọn từ Dương là Bi thành Bi Trí Dũng).

26
6. CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT:

Trung Đạo giữa Tuyệt đối và Tương đối, giữa Tâm và Thức, giữa Đạo và Đời
là con đường giải thoát :

 Đời sống Minh Triết:


* Thuận cũng như Thượng (vâng, chuộng) với bề trên [Tuyệt đối].

* Hòa là đối đãi cân bằng với mọi người [Tương đối].

 Hành trình Tiến Hóa:


* Tu là hướng vào Tâm để sửa đổi.

*Tỉnh là không mê lầm trong nhận Thức ở đời.

 Tiêu chí Đạo Hạnh:


* Giác là biết đủ 2 chiều, từ Đời vào Đạo cũng như từ Đạo ra Đời.

* Ngộ là chứng (gặp) điểm đến tuyệt đối.

TRUNG ĐẠO LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT


ĐỜI SỐNG MINH TRIẾT HÀNH TRÌNH TIẾN HÓA TIÊU CHÍ ĐẠO HẠNH

ĐẠO TUYỆT ĐỐI


CHÂN THẬT

THUẬN HÒA TU TỈNH GIÁC NGỘ

ĐỜI LÝ SỰ TƯƠNG ĐỐI

Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp làm trong sáng và
lợi ích hơn các di sản văn hóa của dân tộc Việt./.

.
27
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG

o Lời nói đầu. 2

o Bài 1 : Tín Ngưỡng. 3

o Bài 2 : Công Bằng. 6

o Bài 3 : Tự Do. 8

o Bài 4 : Học Tu Hành. 10

o Bài 5 : Tam Pháp Ấn. 13

o Bài 6 : Trung Dung. 15

o Bài 7 : Đại Học. 19

o Bài 8 : Đạo Giáo. 21

o Bài 9 : Giải Thoát. 25

o MỤC LỤC. 28

28

You might also like