You are on page 1of 29

KIẾN TRÚC VĂN MIẾÚ QÚỐC TỬ GIÁM.

VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM là một di tích lịch sử -văn hóa đặc biệt quan
trọng của Hà Nội và Việt Nam, là nơi gìn giữ giá trị ngàn năm văn hiến, tôn vinh
và thể hiện đặc sắc nhất những giá trị nổi bật của văn hóa Việt Nam.

VĂN MIẾU –QUỐC TỬ GIÁM là một chỉnh thể cấu trúc rất độc đáo và phức tạp ,
mang những nét đặc trưng của kiến trúc việt nam thời trung đại , bị ảnh hưởng
sâu sắc của Nho –Phật giáo và cũng có đôi nét dấu ấn của kiến trúc văn hóa
Trung hoa .
Không gian văn miếu được chia thành 5 lớp với có kết cấu chặt chẽ, được gắn
kết bởi các bức tường gạch có cửa thông :
- Từ khu Văn miếu môn đến cổng Đại trung.
- Khuê văn các.
- Khu giếng thiên quang và bia tiến sĩ.
- Sân đại bái.
- Nhà thái học.
Cổng Văn Miếu Cổng Đại Chung

Khuê Văn Các Giếng Thiên Quang

Khu Đại Thành Khu Thái Học


I. Khu vực thứ nhất từ văn miếu môn(cổng vào văn miếu)vào là khu
nhập đạo với 3 gian lợp ngói và tiếp đến là cổng đại trung .

Đây là tứ trụ(nghi môn)- nơi mở đầu của quần thể kiến trúc văn miếu
quốc tử giám. hai tấm bia Hạ Mã (下馬) hai bên đó là mốc ranh giới
chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù công hầu hay
khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều
phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm

bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Thế đủ biết Văn
Miếu có vị trí tôn nghiêm tới chừng nào. Tứ trụ được xây bằng
gạch, hai trụ giữa xây cao hơn trên có hình hai con nghê chầu
vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là vật linh thiêng có khả
năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi bốn
con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau
Tứ trụ có đôi câu đối chữ hán :

东西南北由斯道

公顷夫士出此途

(Đông, tây, nam, bắc do tư đạo


Công, khanh, phu sĩ, xuất thử đồ)
 Tiếp theo là Văn Miếu môn tức là cổng tam quan phía ngoài

Cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba


chữ 文廟門 (Văn miếu môn). Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn
nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi nghiên cứu kiến trúc cổ
Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng biệt. Cửa
chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng
dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới
Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên
trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai mặt cổng tam quan Phía

ngoài có hai câu đối nề

大國不易教不變俗且尊崇之亦信斯文原有用
吾儒要通經要識時無拘固也尚思聖訓永相敦
(Nước lớn trong giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn
sùng, tin tưởng tư văn nguyên có gốc.
Nhà Nho phải thông kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp,
những lời thánh huấn phải ghi lòng.)

 Từ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi
là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại
Trung môn.
Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải
có Đạt Tài môn. Hiện nay hai bên là không gian cây xanh và
thảm cỏ Bức tường ngang nối ba cửa vươn dài ra hai bên tới
tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn
Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một
khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn
Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt
bằng. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi
"văn vật sở đô". Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên
nền gạch cao, có mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên
trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Gian giữa cổng
treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ Đại trung môn
II. Khu thứ hai của quần thể văn miếu là khuê văn các
Khuê Văn Các (nghĩa là " vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông
tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín
thước, do Tổng trấn Nguyễn
Văn Thành triều Nguyễn đương
thời cho xây dựng vào
năm 1805. Gác dựng trên một
nền vuông cao cân xứng có lát
gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều
dài là 6,8 mét. Để bước lên
được nền vuông này phài đi qua
ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến
trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ
gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các
mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng
trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần
trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung
hoặc vôi cát có độ bền cao

Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh
sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện
cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một
cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và
những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia
sáng của sao.[e] Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển
sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文
閣 (Khuê Văn Các). Mỗi mặt tường
gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ
Hán thiếp vàng, đều rất có ý nghĩa.

奎星天朗人文阁

碧水春深道脉长

(Sao Khuê trời sáng, văn minh rộng


Sông Bích xuân sâu, mạch đạo dài )
Khuê Văn Các có 8 mái là bát quái, có thêm 1 nóc ở trên là 9, số
cửu trù, số cực dương.[4] Theo quan niệm của người xưa,
giếng Thiên quang hình vuông tượng trưng cho mặt đất, cửa sổ
hình tròn của gác Khuê Văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói
nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, có ý tưởng đề
cao trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Nam
Hai bên tả hữu của khuê văn các có 2 cổng nhỏ hơn là cửa bi văn và súc văn

 Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa
Thành Đức bên trái ,Bi văn có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp.
Ý nói văn chương trau chuốt sáng sủa, có sức truyền cảm
thuyết phục con người.
 Cửa Súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đạt
Tài bên phải, Súc Văn có nghĩa là văn chương hàm súc phong
phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn.
Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu cho khu
vực thứ hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ.
III. Khu giếng thiên quang và bia tiến sĩ

Th

n
Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn
Trì (Ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho
giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy
của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn.
Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng.
Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất,
cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất
đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn
đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép
người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành
hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.

. Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ hình
con rùa bằng đá xanh dùng để vinh
danh và khích lệ những người đỗ đạt. Theo tín ngưỡng Việt Nam, rùa là
biểu tượng của sự trường thọ và sự
khôn ngoan.
Các tấm bia được dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên
Quang tại Quốc Tử Giám, mỗi bên 41 tấm dựng
thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa
mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông,
4
m

t

b

t
r

n
g, nền cao, giữ cacs nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống
giếng. Đây là tòa đình thờ bia

ác bia tiến sĩ có ghi đầy đủ thông tin về khoa thi, triều vua và triết lý về
nền giáo dục đào tạo . Trên thế giới có
rất nhiều nước dựng bia, nhưng duy nhất bia tiến sĩ Văn Miếu có bài ký
ghi lịch sử các khoa thi và triết lý của
triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài.
Những bài ký trên bia Tiến sĩ được viết bằng chữ Hán với
những cách viết khác nhau, khiến cho mỗi tấm bia như
một tác phẩm thư pháp. Những bài văn bia này phần lớn đều
do những danh nhân văn hóa, trí thức lớn của đất
nước soạn, nên về cơ bản là những tác phẩm vô giá, góp phần
làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của
Việt Nam
Tham quan vườn Bia, chúng ta có thể tìm thấy tên tuổi của
nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong các sách

sử Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên - Tiến sĩ năm 1442
đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư; nhà bác
học Lê Quý Đôn - Tiến sĩ năm 1752, tác giả của Đại Việt thông
sử
Không chỉ là nguồn tư liệu phong phú phản ánh một giai đoạn
lịch sử hơn 300 năm dưới triều Lê - Mạc, Bia Tiến
sĩ Văn Miếu còn là bức tranh sinh động về việc tuyển dụng và
đào tạo nhân tài độc đáo ở Việt Nam
được thể hiện ở tư tưởng trị quốc dựa vào nhân tài của cha ông
ta.
IV.Khu đại thành và sân đại bái

Qua cửa Đại Thành là vào không gian thứ ba, khu vực chính của di tích
Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như
cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột
hiên trước sau và một hàng cột giữa.
Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成
門 (Đại thành môn)

Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của
những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập
nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang
một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý
nghĩ
a hay
hơn.

B
ư

c

q
u
a

c
ửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát
Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2
dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi,
to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều
rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành
cụm kiến trúc hình chữ U
cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái
Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô
Thượng Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có
cửa bức bàn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn
song cố định.
Nơi đây là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa có cái
khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị Chí thánh
tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên
tới những gian khác cũng có bệ xây và
cũng có khám, trong khám có ngai và
bài vị. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng
Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai
thờ Nhan Tử và Tử Tư.
Tòa Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường
hồi còn mặt trước mặt sau để trống. Tòa Đại Bái này có chức
năng hành lễ trong những kỳ tế tự xuân thu. Chỉ gian chính giữa
có hương án thờ còn các gian khác đều bỏ trống.
V. khu thái học - khu vực cuối cùng và quan trọng nhất của quần
thể văn miếu

Nhà Tiền đường 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, đầu hồi xây
tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài để trần không trát. Gian
đầu hồi và gian thứ ba mặt trước, mặt sau đều có cửa bức bàn
chấn song con tiện dẫn sang nhà Hậu đường.
Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng, tầng 1 gồm 9 gian, 2 chái với
72 cột gỗ lim, trong đó 8 cột cái cao 11,5m đường kính 0,56m.
Hai đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài cũng để
trần không trát. Phía trước là cửa bức bàn chấn song con tiện,
xung quanh là vách đố lụa. Gian đầu hồi mặt sau, gian thứ 3 và
gian thứ 7 mặt trước là cửa sổ chấn song con tiện.
Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu
Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng
Long và nền giáo dục Nho học Việt Namgiới thiệu khái quát lịch
sử hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám cùng
những giá trị sâu sắc của truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học,
đề cao nhân tài, thừa kế và phát huy di sản văn hoá dân tộc.
Chèn thêm ảnh vào powerpoint

Tầng 2 là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn
Miếu - Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho
học của Việt Nam. Đó là các vị Lý Thánh Tông, Lý Nhân
Tông và Lê Thánh tông

Chèn thêm ảnh vào powerpoint.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám xưa là chốn "cửa Khổng sân


Trình" là "Thánh đường của Nho học", nơi đào tạo và biểu
dương nhân tài của đất nước; nay là một khu di tích lịch
sử - văn hóa lớn nhất ở trung tâm Thủ đô, biểu trưng cho
tiến trình văn hóa Việt Nam, với những hoạt động văn
hóa, khoa học năng động của mình, đang góp phần to lớn
vào công cuộc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho
Thủ đô xứng đáng là viên ngọc "Ngàn năm văn hiến" của
đất nước.
Hà thị minh hằng- 18C8

You might also like