You are on page 1of 21

BỆNH CỦA 12 KINH CHÍNH TRONG CHÂM CỨU

Đại cương
Mười hai kinh chính là phần chính của học thuyết Kinh lạc, gồm:
Ba kinh âm ở tay
Kinh thủ thái âm Phế.
Kinh thủ thiếu âm Tâm.
Kinh thủ quyết âm Tâm bào.
Ba kinh dương ở tay
Kinh thủ dương minh Đại trường.
Kinh thủ thiếu dương Tam tiêu.
Kinh thủ thái dương Tiểu trường.
Ba kinh âm ở chân
Kinh túc thái âm Tỳ.
Kinh túc quyết âm Can.
Kinh túc thiếu âm Thận.
Ba kinh dương ở chân
Kinh túc thái dương Bàng quang.
Kinh túc thiếu dương Đởm.
Kinh túc dương minh Vị.
Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài của thân thể và tạng phủ bên trong. Vì vậy, mỗi
kinh đều bao gồm một lộ trình bên ngoài và một lộ trình bên trong.
Mỗi kinh đều có sự liên lạc giữa tạng và phủ có quan hệ biểu (ngoài nông) – lý (trong sâu), cho nên mỗi đường
kinh đều có những phân nhánh để nối liền với kinh có quan hệ biểu lý với nó (ví dụ nối giữa phế và đại trường,
giữa can và đởm…
Chức năng sinh lý của đường kinh
Về chức năng, kinh mạch là nơi tuần hoàn của khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân để duy trì hoạt động bình
thường của cơ thể, làm trơn khớp, nhuận gân xương (Linh khu – Bản tạng luận). “Kinh mạch giả, sở dĩ hành
huyết khí nhi dinh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dã”.
Đồng thời, kinh mạch cũng là con đường mà tà khí bệnh tật theo đó xâm nhập vào trong cũng như là con đường
mà bệnh tật dùng để biểu hiện ra ngoài khi công năng của tạng phủ tương ứng bị rối loạn.
Tác dụng của 12 kinh chính rất quan trọng. Thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu: “Tác dụng của kinh mạch
một mặt nói lên chức năng sinh lý bình thường, sự thay đổi bệnh lý của cơ thể; mặt khác có thể dựa vào đó để
quyết đoán sự sống chết, để chẩn đoán mọi bệnh, còn dùng nó để điều hòa hư thực, làm quy tắc chỉ đạo lâm
sàng cho nên kinh mạch không thể không thông được”. “Kinh mạch giả, sở dĩ năng quyết tử sinh, xử bách
bệnh, điều hư thực, bất khả bất thông”.
Đường tuần hoàn của 12 kinh chính
Một cách tổng quát, đường tuần hoàn khí huyết trong 12 kinh chính như sau
Ba kinh âm ở tay: đi từ bên trong ra bàn tay.
Ba kinh dương ở tay: đi từ bàn tay vào trong và lên đầu.
Ba kinh dương ở chân: đi từ đầu xuống bàn chân.
Ba kinh âm ở chân: đi từ bàn chân lên bụng ngực.
Chiều của các đường kinh được xác định dựa vào 2 lý thuyết
Lý thuyết âm thăng (đi lên trên) dương giáng (đi xuống).
Lý thuyết con người hòa hợp với vũ trụ: Thiên – Địa – Nhân.
Khí huyết vận hành trong kinh mạch, kinh sau tiếp kinh trước và tạo thành một đường tuần hoàn kín đi khắp cơ
thể.
Khí huyết trong các đường kinh
Khí huyết trong các đường kinh không giống nhau
Kinh thái dương, kinh quyết âm: huyết nhiều, ít khí.
Kinh thiếu dương, kinh thiếu âm, kinh thái âm: huyết ít, khí nhiều.
Kinh dương minh: huyết nhiều, khí nhiều.
Khí huyết trong các đường kinh thay đổi trong ngày
Trương Cảnh Nhạc dẫn lời của Cao Võ (khi bàn luận về thủ thuật châm cứu) nói rằng: “Nghênh có nghĩa là gặp
lúc khí lai (đến) (ví dụ: dần thời, khí lai chú vào phế; mão thời, khí lai chú vào đại trường). Bấy giờ là lúc mà
khí của phế và đại trường vừa thịnh, phải dùng lúc đoạt để châm tả…”.
Sự thịnh suy của khí huyết trong từng đường kinh trong ngày:
Từ 3 giờ đến 5 giờ: giờ dần (giờ của Phế).
Từ 5 giờ đến 7 giờ: giờ mão (giờ của Đại trường).
Từ 7 giờ đến 9 giờ: giờ thìn (giờ của Vị).
Từ 9 giờ đến 11 giờ: giờ tỵ (giờ của Tỳ).
Từ 11 giờ đến 13 giờ: giờ ngọ (giờ của Tâm).
Từ 13 giờ đến 15 giờ: giờ mùi (giờ của Tiểu trường).
Từ 15 giờ đến 17 giờ: giờ thân (giờ của Bàng quang).
Từ 17 giờ đến 19 giờ: giờ dậu (giờ của Thận).
Từ 19 giờ đến 21 giờ: giờ tuất (giờ của Tâm bào).
Từ 21 giờ đến 23 giờ: giờ hợi (giờ của Tam tiêu).
Từ 23 giờ đến 1 giờ: giờ tý (giờ của Đởm).
Từ 1 giờ đến 3 giờ: giờ sửu (giờ của Can).
Mười hai kinh chính
Kinh thủ thái âm phế
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ trung tiêu (vị) vòng xuống đại trường, vòng lên dạ dày (môn vị, tâm vị), xuyên qua cách mô lên Phế.
Từ Phế tiếp tục lên khí quản, thanh quản, họng, rẽ ngang xuống để xuất hiện ngoài mặt da tại giao điểm khe
liên sườn 2 và rãnh delta – ngực, rồi đi ở mặt trước ngoài cánh tay, xuống khuỷu ở bờ ngoài tấm gân cơ nhị
đầu, tiếp tục đi ở mặt trước cẳng tay đến rãnh động mạch quay (ở bờ trong trước đầu dưới xương quay). Tiếp
tục xuống bờ ngoài ngón tay cái (ngư tế) và tận cùng ở góc ngoài móng tay cái.
Phân nhánh: từ huyệt Liệt khuyết tách ra một nhánh đi ở phía lưng bàn tay đến góc ngoài góc móng tay trỏ để
nối với kinh đại trường.
Các huyệt trên đường kinh Phế:
Có tất cả 11 huyệt của đường kinh phế. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Trung phủ2. Vân môn.
Thiên phủ4. Hiệp bạch.
Xích trạch6. Khổng tối.
Liệt khuyết8. Kinh cừ.
Thái uyên 10. Ngư tế.
Thiếu thương.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 2, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho phế bị trướng mãn, ngực căng ứ lên thành suyễn, ho; giữa Khuyết bồn
bị đau, nếu đau nặng thì 2 tay phải bắt chéo nhau mà cảm thấy phiền loạn, ta gọi đây là chứng tý quyết. Nếu là
bệnh thuộc Sở sinh của phế sẽ gây thành bệnh ho, thượng khí, suyễn, hơi thở thô, phiền tâm, ngực bị đầy thống
quyết ở mép trước phía trong từ cánh tay đến cẳng tay, trong lòng bàn tay bị nhiệt. Khí thịnh hữu dư thì vai và
lưng bị thống; bị phong hàn, mồ hôi ra; trúng phong, đi tiểu nhiều lần mà ít. Khí hư thì vai và lưng bị thống
hàn, thiểu khí đến không đủ để thở; màu nước tiểu bị biến…”.
“Thị động tắc bệnh phế trướng mãn bành bành nhi suyễn khái. Khuyết bồn trung thống thậm tắc giao lưỡng thủ
nhi mậu. Thử vi tý quyết. Thị chủ Phế sở sinh bệnh giả. Khái thương khí suyễn khát, phiền tâm hung mãn, nao
tý nội tiền liêm thống quyết chưởng trung nhiệt. Khí thịnh hữu dư tắc kiên bối thống, phong hàn hạn xuất, trúng
phong tiểu tiện sổ nhi khiếm, khí hư tắc kiên bối thống, hàn thiểu khí bất túc dĩ tức niệu sắc biến vi thử chư
bệnh”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Ngực đầy trướng.
Ho và khó thở.
Đau nhiều ở hố thượng đòn.
Trong trường hợp nặng: bệnh nhân ôm lấy ngực (với 2 tay chéo nhau), người phiền loạn (tý quyết).
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Ho và khó thở.
Khí nghịch.
Khát nước, lo lắng.
Đau mặt trong cánh tay.
Cảm giác nóng trong lòng bàn tay.
Bệnh thực:
Đau vai lưng.
Phát sốt.
Sợ lạnh, ra mồ hôi (phong hàn).
Tiểu nhiều lần mà ít (trúng phong).
Đau đầu, nghẹt mũi, đau hố trên đòn, đau ngực hoặc bả vai, cánh tay lạnh nhức.
Bệnh hư:
Đau vai lưng, lạnh đau tăng.
Sợ lạnh.
Ho suyễn, đoản hơi.
Nước tiểu trong.
Kinh (thủ dương minh) đại trường
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng trỏ, chạy dọc theo bờ ngón trỏ, đi qua kẽ giữa 2 xương bàn tay 1 và 2 (Hợp
cốc), chạy tiếp vào hố tam giác. Đi dọc bờ ngoài cẳng ngoài nếp khuỷu (Khúc trì). Đến phía trước mỏm vai
(Kiên ngung) đi theo bờ sau vai giao hội với kinh (Thái dương) Tiểu trường ở huyệt Bỉnh phong và với Đốc
mạch ở huyệt Đại chùy. Trở lại hố trên đòn, tiếp tục đi lên cổ, lên mặt vào chân răng hàm dưới rồi vòng môi
trên. Hai kinh giao nhau ở nhân trung và kinh bên phải tận cùng ở cạnh cánh mũi bên trái, kinh bên trái tận
cùng ở cạnh cánh mũi bên phải.
Từ hố thượng đòn, có nhánh ngầm đi vào trong liên lạc với Phế, qua cơ hoành đến Đại trường.
Các huyệt trên đường kinh Đại trường:
Có tất cả 20 huyệt trên đường kinh Đại trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Thương dương.
Nhị gian.
Tam gian.
Hợp cốc.
Dương khê.
Thiên lịch.
Ôn lưu.
Hạ liêm.
Thượng liêm.
Thủ tam lý.
Khúc trì.
Trửu liêu.
Thủ ngũ lý.
Tý nhu.
Kiên ngung.
Cự cốt.
Thiên đảnh.
Phù đột.
Hòa liêu.
Nghinh hương.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 3, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho đau răng, cổ sưng thũng. Vì là chủ tân dịch cho nên nếu bệnh thuộc Sở
sinh sẽ làm cho mắt vàng, miệng khô, chảy máu mũi, cổ họng (hầu) bị tý, cánh tay trước vai bị đau nhức, ngón
cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được. Khi nào khí hữu dư, thì những nơi mà mạch đi qua sẽ bị nhiệt
và sưng thũng. Khi nào khí hư sẽ làm cho bị hàn run lên, không ấm trở lại được.
“Thị độngtắc bệnh xỉ thống, cảnh thũng. Thị chủ tân dịch Sở sinh bệnh giả, mục hoàng khẩu can, cừu nục, hầu
tý, kiên tiền nao thống, đại chỉ thứ chỉ thống. Khí hữu dư tắc dương mạch sở quá giả nhiệt thũng. Hư hắc hàn
lật, bất phục…”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đau nhức răng.
Viêm đau nướu răng.
Cổ họng sưng đau.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Mắt vàng.
Họng khô.
Chảy máu mũi.
Sưng đau họng (hầu).
Đau mặt trước vai, cánh tay, ngón cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được.
Bệnh thực:
Phát sốt.
Cảm giác nóng vùng mà đường kính đi qua.
Bệnh hư:
Sợ lạnh, lạnh run.
Kinh (túc dương minh) vị
Lộ trình đường kinh:
Khởi đầu từ chỗ lõm ở hai bên sống mũi lên khóe mắt trong (giao với kinh Bàng quang ở huyệtTình minh),
chạy tiếp đến dưới hố mắt (đoạn này đường kinh đi chìm). Đoạn nổi bắt đầu từ giữa dưới hố mắt, đi dọc theo
ngoài mũi, vào hàm trên, quanh môi, giao chéo xuống hàm dưới giữa cằm, đi dọc theo dưới má đến góc hàm
(Giáp xa). Tại đây chia hai nhánh:
Một nhánh qua trước tai, qua chân tóc lên đỉnh trán (Đầu duy).
Một nhánh đi xuống cổ đến hố thượng đòn. Từ hố thượng đòn đường kinh lại chia làm hai nhánh nhỏ (chìm và
nổi).
Nhánh chìm: đi vào trong đến Tỳ Vị, rồi xuống bẹn để nối với nhánh đi nổi bên ngoài.
Nhánh nổi: đi thẳng xuống ngực theo đường trung đòn. Đến đoạn ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa
bụng 2 thốn và đến nếp bẹn.
Hai nhánh nhỏ này hợp lại ở nếp bẹn, đường kinh chạy xuống theo bờ ngoài đùi, đến bờ ngoài xương bánh chè.
Chạy xuống dọc bờ ngoài cẳng chân đến cổ chân (Giải khê), chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón
2 và 3 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng ngón 2.
Các huyệt trên đường kinh vị:
Có tất cả 45 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Thừa khấp.
Tứ bạch.
Cự liêu.
Địa thương.
Đại nghinh.
Giáp xa.
Hạ quan.
Đầu duy.
Nhân nghinh.
Thủy đột.
Khí xá.
Khuyết bồn.
Khí hộ.
Khố phòng.
Ốc ế.
Ưng song.
Nhũ trung.
Nhũ căn.
Bất dung.
Thừa mãn.
Lương môn.
Quan môn.
Thái ất.
Hoạt nhục môn.
Thiên xu.
Ngoại lăng.
Đại cự.
Thủy đạo.
Quy lai.
Khí xung.
Bễ quan.
Phục thỏ.
Âm thị.
Lương khâu.
Độc tỵ.
Túc tam lý.
Thượng cự hư.
Điều khẩu.
Hạ cự hư
Phong long.
Giải khê.
Xung dương.
Hãm cốc.
Nội đình.
Lệ đoài.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 4, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ bị chấn hàn một cách ngấm ngầm, hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần, sắc
mặt đen. Khi bệnh đến thì ngại gặp người và lửa, mỗi lần nghe tiếng động của mộc (gỗ) sẽ bị kinh sợ, tâm
muốn đập mạnh, muốn đóng kín cửa lớn và cửa sổ lại để ngồi một mình. Khi nào bệnh nặng thì bệnh nhân
muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong. Trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên. Ta
gọi đây là chứng cán quyết. Vì là chủ huyết nên nếu là bệnh thuộc Sở sinh sẽ bị chứng cuồng ngược, ôn khí quá
dâm (nhiều) sẽ làm cho mồ hôi ra, chảy máu mũi, miệng méo, môi lở, cổ sưng thũng, cuống họng bị tý, phần
đại phúc (bụng trên) bị thủy thũng, đầu gối bị sưng thũng, đau nhức. Suốt đường đi từ ngực vú xuống tới huyệt
khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa
không cử động được. Nếu khí thịnh thì phía trước thân đều bị nhiệt. Khi khí hữu dư ở vị làm tiêu cốc khí, dễ bị
đói, nước tiểu màu vàng. Nếu khí bất túc thì phía trước thân đều lạnh. Nếu trong vị bị hàn thì sẽ bị trướng mãn.
“Thị động tắc bệnh sái chấn hàn, thiện thân, sổ khiếm, nhan hắc; bệnh chí tắc ố nhân, dữ hỏa, văn mộc thanh
tắc dịch nhiên nhi kinh tâm, dục động, độc bế hộ, tắc dũ nhi xử, thậm tắc dục thướng cao nhi ca, khí y nhi tẩu,
bí hưởng, phúc trướng, thị vị cán quyết. Thị chủ huyết Sở sinh bệnh giả cuồng ngược, ôn dâm, hạn xuất, cừu
nục, khẩu oa, thần chẩn, cảnh thũng, hầu tý, đại phúc thủy thũng, tất tẫn thủy thống, tuần ưng nhũ khí nhai cổ
phục thỏ, cán ngoại liêm túc phụ thượng giai thống, trung chỉ bất dụng. Khí thịnh tắc thân dĩ tiền giai nhiệt. Kỳ
hữu dư vu vị tắc tiêu cốc thiện cơ, niệu sắc hoàng. Khí bất túc tắc thân dĩ tiền giai hàn lật. Vị trung hàn tắc
trướng mãn…”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Lạnh run.
Hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần.
Sắc mặt đen.
Ngại gặp người và lửa.
Nghe tiếng động của gỗ sẽ bị kinh sợ, tim đập mạnh. Muốn đóng kín cửa lớn, cửa sổ lại để ngồi một mình.
Trong những trường hợp bệnh nặng: bệnh nhân muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong,
trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên.
Ta gọi đây là chứng cán quyết.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Sốt cao, ra mồ hôi.
Phát cuồng, nói sảng.
Đau mắt, mũi khô, chảy máu cam, lở môi miệng, đau họng sưng cổ, méo miệng, đau ngực, viêm tuyến vú, tắc
tia sữa.
Bụng trên bị sưng trướng.
Đầu gối bị sưng thũng, đau nhức.
Đau dọc đường kinh đi: suốt đường kinh đi từ ngực vú xuống tới huyệt Khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép
ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa không cảm giác.
Bệnh thực:
Thường xuyên có cảm giác đói.
Nước tiểu vàng.
Bệnh hư:
Cảm giác lạnh phần trước thân.
Trướng bụng, đầy hơi, khó tiêu (khi vị có hàn).
Kinh (túc thái âm) tỳ
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng chân cái, chạy dọc theo đường nối da mu bàn chân và da gan bàn chân đến
trước mắt cá trong, lên cẳng chân dọc theo bờ sau xương chày, lên mặt trong khớp gối, chạy tiếp ở mặt trong
đùi. Lộ trình ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa bụng 4 thốn. Lộ trình ở ngực, đường kinh chạy theo
đường nách trước rồi đến tận cùng ở liên sườn 6 đường nách giữa (Đại bao).
Đường kinh Tỳ có nhánh liên lạc với mạch Nhâm (đường giữa bụng) ở bụng dưới (ở huyệt Trung cực, Quan
nguyên) và ở bụng trên (Hạ quản).
Đoạn đường kinh ở bụng trên có nhánh chìm đến Tỳ Vị, xuyên qua cơ hoành đến Tâm, tiếp tục đi lên dọc hai
bên thanh quản đến phân bố ở dưới lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Tỳ:
Có tất cả 21 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Ẩn bạch 2. Đại đô3. Thái bạch.
Công tôn5. Thương khâu 6. Tam âm giao.
Lậu cốc8. Địa cơ9. Âm lăng tuyền.
Huyết hải11. Kỳ môn12. Xung môn.
Phủ xá14. Phúc kết15. Đại hoành.
Phúc ai17. Thực độc18. Thiên khê.
Hung hương 20. Chu vinh21. Đại bao.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 5, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng cuống lưỡi cứng, ăn vào thì ói ra. Vị hoãn đau, bụng bị
trướng, hay ợ, mỗi lần đại tiện thì đồng thời chuyển cảkhí ra theo phân. Sau đó thân người tiến tới suy kiệt rất
nhanh chóng, thân thể đều nặng nề. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh của Tỳ sẽ làm cho cuống lưỡi bị đau, thân thể
không lay động được, ăn không xuống, phiền tâm. Tâm hạ bị cấp thống, chứng đường hà tiết, thủy bế, hoàng
đản, không nằm được, ráng đứng lâu bị nội thũng và quyết ở đùi vế, ngón chân cái không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh thiệt bản cường, thực tắc ẩu, vị hoãn thống, phúc trướng, thiện ái, đắc hậu dữ khí tắc khoái
nhiên như suy, thân thể giai trọng. Thị chủ tỳ Sở sinh bệnh, thiệt bản thống, thể bất năng động dao, thực bất há,
phiền tâm. Tâm hạ cấp thống, đường hà tiết, thủy bế, hoàng đản, bất năng ngọa cưỡng lập, cổ tất nội thũng
quyết, túc đại chỉ bất dụng”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cứng lưỡi.
Ói mửa sau khi ăn.
Đau vùng thực quản, bụng trướng hơi, hay ợ.
Trung tiện nhiều khi đi cầu.
Thân thể nặng nề và đau nhức.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Đau ở cuống lưỡi, người có cảm giác cứng khó cử động.
Ăn kém, cảm giác thức ăn bị chặn, ăn không xuống.
Đau thượng vị, tiêu chảy hoặc muốn đi cầu mà không đi được (giống như lỵ).
Hoàng đản.
Không nằm được, đứng lâu bị phù và có cảm giác lạnh ở mặt trong đùi.
Ngón chân cái không cử động được.
Kinh (thủ thiếu âm) tâm
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ Tâm phân làm 3 nhánh:
Một nhánh qua cơ hoành liên lạc với Tiểu trường.
Một nhánh dọc cạnh thanh quản, cổ họng thẳng lên mắt.
Một nhánh đi ngang ra đáy hố nách để xuất hiện ngoài mặt da (Cực tuyền). Đi xuống dọc bờ trong mặttrước
cánh tay đến nếp gấp trong nếp khuỷu (Thiếu hải). Dọc theo mặt trong cẳng tay, dọc mặt lòng bàn tay giữa
xương bàn ngón 4 và 5. ở cổ tay, đường kinh đi ở bờ ngoài gân cơ trụ trước. Kinh Tâm đến tận cùng ở góc
ngoài gốc móng tay thứ 5 (Thiếu xung).
Các huyệt trên đường kinh Tâm:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Cực tuyền.
Thanh linh.
Thiếu hải.
Linh đạo.
Thông lý.
Âm khích.
Thần môn.
Thiếu phủ.
Thiếu xung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 6, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho cổ họng bị khô, tâm thống, khát muốn uống nước, gọi đây là chứng
tý quyết. Nếu là bệnh Sở sinh do Tâm làm chủ sẽ làm cho mắt vàng, hông sườn thống; mép sau phía trong của
cánh tay và cẳng tay bị thống, quyết; giữa gan bàn tay bị nhiệt, thống.
“Thị động tắc bệnh ách can, tâm thống, khát nhi dục ẩm, thị vi tý quyết. Thị chủ tâm Sở sinh bệnh giả, mục
hoàng, hiếp thống, nao tý nội hậu liêm thống quyết, chưởng trung nhiệt thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cổ họng khô.
Đau vùng tim, khát muốn uống nước.
Tý quyết (xem kinh Phế).
Bệnh do nội nhân gây nên:
Vàng mắt.
Đau vùng hông sườn.
Đau và có cảm giác lạnh ở mặt trong cánh tay, cẳng tay.
Nóng lòng bàn tay.
Kinh (thú thái dương) tiểu trường
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 5, chạy dọc theo đường nối da lưng và da lòng bàn tay, lên cổ tay
đi qua mỏm trâm trụ, chạy dọc theo mặt trong cẳng tay đến rãnh ròng rọc, tiếp tục đi ở bờ trong mặt sau cánh
tay đến nếp nách sau, lên mặt sau khớp vai đi ngoằn ngoèo ở trên và dưới gai xương bả vai (có đoạn nối với
kinh Bàng quang và mạch Đốc), đi vào hố trên đòn rồi dọc theo cổ lên má. Tại đây chia thành 2 nhánh:
Một nhánh đến đuôi mắt rồi đến hõm trước nắp bình tai.
Một nhánh đến khóe mắt trong (Tình minh) rồi xuốngtận cùng ở gò má (Quyền liêu).
Đoạn đường kinh chìm: từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào trong đến tâm, qua cơ hoành đến vị rồi liên lạc
với tiểu trường.
Các huyệt trên đường kinh Tiểu trường:
Có tất cả 19 huyệt trên đường kinh Tiểu trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Thiếu trạch.
Tiền cốc.
Hậu khê.
Uyển cốt.
Dương cốc.
Dưỡng lão.
Chi chính.
Tiểu hải.
Kiên trinh.
Nhu du.
Thiên tông.
Bỉnh phong.
Khúc viên.
Kiên ngoại du.
Kiên trung du.
Thiên song.
Thiên dung.
Quyền liêu.
Thính cung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 7, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đau cổ, hàm sưng thũng, không ngoái lại sau được, vai đau
như nhổ rời, cánh tay đau như gãy ra. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh vì chủ về dịch sẽ làm cho tai bị điếc, mắt vàng,
má sưng, cổ, hàm, vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau phía ngoài cẳng tay, tất cả đều đau.
“Thị động tắc bệnh ách thống, hàm thũng bất khả dĩ cố kiên tự bạt, nao tự chiết. Thị chủ dịch Sở sinh bệnh giả,
nhĩ lung, mục hoàng, giáp thũng, cảnh, hàm, kiên, nao, trửu, tý ngoại hậu liêm thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Đau cổ, không ngoái lại phía sau được.
Hàm sưng.
Đau mặt sau vai và cánh tay như bị gãy.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Điếc tai, vàng mắt.
Su8ng má và góc hàm.
Đau cổ, hàm, mặt sau vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau trong cẳng tay.
Kinh (túc thái dương) bàng quang
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ khóe mắt trong (Tình minh), chạy lên trán, vòng từ trước trán ra sau gáy (ở đoạn này đường kinh có
nhánh giao hội với Đốc mạch ở đầu, tách một nhánh ngang đi từ đỉnh đầu đến mỏm tai và một nhánh vào não).
Từ đấy chia làm 2 nhánh:
Nhánh 1 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 1,5 thốn, chạy tiếp xuống mông, mặt sau đùi rồi vào giữa
khoeo chân.
Nhánh 2 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 3 thốn, chạy tiếp ở phía ngoài mặt sau đùi đến hợp với nhánh
thứ 1 ở giữa khoeo chân (Ủy trung).
Đường kinh tiếp tục chạy xuống mặt sau cẳng chân, xuống phía sau mắt cá ngoài (tại huyệt Côn lôn) rồi chạy
dọc bờ ngoài mu bàn chân đến tận cùng ở góc ngoài gốc móng chân thứ 5.
Đường kinh Bàng quang ở vùng thắt lưng có nhánh ngầm đi vào thận rồi đến Bàng quang.
Các huyệt trên đường kinh Bàng quang:
Có tất cả 67 huyệt trên đường kinh Bàng quang. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Tình minh.
Toản trúc.
Mi xung.
Khúc sai.
Ngũ xứ.
Thừa quan.
Thông thiên.
Lạc khước.
Ngọc chẩm.
Thiên trụ.
Đại trữ.
Phong môn.
Phế du.
Quyết âm du.
Tâm du.
Đốc du.
Cách du.
Can du.
Đởm du.
Tỳ du.
Vị du.
Tam tiêu du.
Thận du.
Khí hải du.
Đại trường du.
Quan nguyên du.
Tiểu trường du.
Bàng quang du.
Trung lữ du.
Bạch hoàn du.
Thượng liêu.
Thứ liêu.
Trung liêu.
Hạ liêu.
Hội dương.
Thừa phù.
Ân môn.
Phù khích.
Ủy dương.
Ủy trung.
Phụ phân.
Phách hộ.
Cao hoang.
Thần đường.
Y hy.
Cách quan.
Hồn môn.
Dương cương.
Ý xá.
Vị thương.
Hoang môn.
Chí thất.
Bào hoang.
Trật biên.
Hợp dương.
Thừa cân.
Thừa sơn.
Phi dương.
Phụ dương.
Côn lôn.
Bộc tham.
Thân mạch.
Kim môn.
Kinh cốt.
Thúc cốt.
Thông cốt.
Chí âm.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 8, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng “xung đầu thống”, mắt đau như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy
như bị gãy rời ra, cột sống bị đau, thắt lưng như gãy, mấu chuyển lớn không thể co lại được, khoeo chân như
kết lại, bắp chuối như nứt ra, ta gọi đây là chứng “khỏa quyết”. Đây là chứng “Sở sinh bệnh” chủ về cân: trĩ
ngược, cuồng điên tật, giữa đỉnh đầu bị đau nhức, mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam; tất cả từ cổ, gáy,
lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều đau nhức; ngón út không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh xung đầu thống, mục tự thoát hạng như bạt, tích thống, yêu tự chiết, bễ bất khả dĩ khúc,
quắc như kết thuyện như liệt. Thị vi Khỏa quyết. Thị chủ cân Sở sinh bệnh giả trĩ ngược cuồng điên tật, đầu tín
đỉnh thống, mục hoàng, lệ xuất, cừu nục, hạng bối yêu cừu quắc thuyện cước giai thống, tiểu chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài: cảm giác như khí thượng nghịch gây nên đau đầu, mắt đau
như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy như bị gãy rời ra, bị xoay vặn, đau cột sống, thắt lưng đau như bị gãy, không
gập được gối, đau như bị đè nén ở hố nhượng chân, đau bắp chân như bị nứt, xé.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong: trĩ, sốt và lạnh run, điên cuồng, giữa đỉnh đầu bị đau nhức,
mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam. Tất cả từ cổ, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều
đau nhức, không cử động được ngón chân út.
Kinh (túc thế âm) thận
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ lòng bàn chân (Dũng tuyền), đi dọc dưới xương thuyền phía trong bàn chân (Nhiên cốc) đến sau mắt
cá trong rồi ngược lên bắp chân đến khoeo chân giữa gân cơ bán gân và gân cơ bán màng (Âm cốc). Đi tiếp lên
mặt trong đùi. Ở bụng, đường kinh Thận chạy cách đường giữa 1/2 thốn, ở ngực chạy cách đường giữa 2 thốn
và tận cùng ở dưới xương đòn (Du phủ).
Từ nếp bẹn, kinh Thận có nhánh ngầm vào cột sống đoạn thắt lưng, đến Thận rồi đến Bàng quang. Từ Thận
chạy tiếp đến Can, qua cơ hoành lên Phế dồn vào Tâm, chạy tiếp theo họng, thanh quản và tận cùng ở cuống
lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Thận:
Có tất cả 27 huyệt trên đường kinh Thận. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Dũng tuyền.
Nhiên cốc.
Thái khê.
Đại chung.
Thủy tuyền.
Chiếu hải.
Phục lưu.
Giao tín.
Trúc tân.
Âm cốc.
Hoành cốt.
Đại hách.
Khí huyệt.
Tứ mãn.
Trung chú.
Hoang du.
Thương khúc.
Thạch quan.
Âm đô.
Thông cốc.
U môn.
Bộ lang.
Thần phong.
Linh khu.
Thần tàng.
Hoắc trung.
Du phủ.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 9, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ
nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò khè, ngồi xuống lại muốn đứng lên, mắt lờ mờ như không thấy gì. Tâm
như bị treo lên, lúc nào cũng như đang bị đói. Khi nào khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt …Tâm như hồi hộp, như
sợcó người đang đến để bắt mình, ta gọi đây là chứng cốt quyết. Nếu bị bệnh Sở sinh chủ về Thận thì sẽ làm
cho miệng bị nhiệt, lưỡi bị khô, yết bị sưng thũng, bị chướng khí, cổ họng bị khô và đau nhức, bị phiền tâm,
tâm bị thống, bị hoàng đản, trường phích, mép sau của vế trong và cột sống bị đau, chứng nuy quyết, thích nằm,
dưới chân bị nhiệt và thống”.
“Thị động tắc bệnh cơ bất dụng thực, diện như tất sài, khái thóa tắc hữu huyết, ới ới nhi suyễn, tọa nhi dục khởi,
mục hoang hoang như vô sở kiến. Tâm như huyền, nhược cơ trạng. Khí bất túc tắc thiện khủng. Tâm dịch dịch
như nhân tương bộ chi. Thị vi cốt quyết. Thị chủ Thận Sở sinh bệnh giả, khẩu nhiệt thiệt can, yết thũng thướng
khí ách can cập thống, phiền tâm, tâm thống, hoàng đản, trường phích, tích cổ nội hậu liêm thống, nuy quyết,
thị ngọa, túc hạ nhiệt nhi thống”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, ho nhổ nước bọt thấy có máu, thở nhanh, khò khè, ngồi xuống
lại muốn đứng lên, mắt mờ. Nếu Thận khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt, hồi hộp, trống ngực … Ta gọi đây là chứng
cốt quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Họng nóng, khô lưỡi, đau họng.
Lo lắng, đau vùng tim, hoàng đản, lỵ.
Đau lưng, đau mặt trong đùi.
Chứng nuy quyết (chi bị liệt và lạnh).
Thích nằm, lòng bàn chân nóng và đau.
Kinh (thú quyết âm) bào
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ tâm bào xuyên qua cơ hoành đến liên lạc với tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu). Từ Tâm bào
đi ra cạnh sườn đến xuất hiện ngoài mặt da dưới nếp nách 3 thốn (tại huyệt Thiên trì: liên sườn 4, từ đường giữa
ra5 thốn), chạy vòng lên nách, chạy xuống theo mặt trước cánh tay giữa 2 kinh Phế và Tâm, đến bờ trong tấm
gân cơ 2 đầu ở nếp khuỷu tay (Khúc trạch), chạy xuống cẳng tay giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé,
chạy trong lòng bàn tay giữa xương bàn ngón 3 và 4 và đến tận cùng ở đầu ngón tay giữa.
Các huyệt trên đường kinh Tâm bào:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm bào. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Thiên trì.
Thiên tuyền.
Khúc trạch.
Khích môn.
Giản sử.
Nội quan.
Đại lăng.
Lao cung.
Trung xung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 10, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho lòng bàn tay bị nhiệt, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, nách bị sưng.
Nếu bệnh nặng sẽ làm cho ngực và hông sườn bị tức đầy, trong tâm đập thình thịch, mặt đỏ, mắt vàng, mừng
vui cười không thôi. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về mạch sẽ làm cho bị phiền tâm, tâm bị thống, giữa gan
bàn tay bị nhiệt.”.
“Thị động tắc bệnh thủ tâm nhiệt, tý trửu luyến cấp, dịch thũng, thậm tắc hung hiếp chi mãn. Tâm trung đạm
đạm đại động, diện xích, mục hoàng, hỉ tiếu bất hưu. Thị chủ mạch sở sinh bệnh giả, phiền tâm, tâm thống,
chưởng trung nhiệt”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Lòng bàn tay nóng, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, vùng nách bị sưng.
Trường hợp bệnh nặng: đau tức ngực và hông sườn, trống ngực, mặt đỏ, mắt vàng, hay cười không thôi.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong: lo lắng, đau vùng trước tim, lòng bàn tay nóng.
Kinh (thú thiếu dương) tam tiêu
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 4, đi dọc lên lưng bàn tay giữa xương bàn ngón tay 4 và 5 lên cổ
tay, đi giữa hai xương quay và trụ lên cùi chỏ, đi dọc mặt sau ngoài cánh tay lên vai rồi vào hố trên đòn. Từ hố
trên đòn lên gáy đến sau tai, vòng dọc theo rìa tai từ sau ra trước tai rồi đến tận cùng ở đuôi lông mày (Ty trúc
không).
Từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào Tâm bào và liên lạc với Tam tiêu. Từ sau tai có nhánh ngầm đi vào
trong tai rồi ra trước tai.
Các huyệt trên đường kinh Tam tiêu:
Có tất cả 23 huyệt trên đường kinh Tam tiêu. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Quan xung.
Dịch môn.
Trung chữ.
Dương trì.
Ngoại quan.
Chi câu.
Hội tông.
Tam dương lạc.
Tứ độc.
Thiên tỉnh.
Thanh lãnh uyên.
Tiêu lạc.
Nhu hội.
Thiên liêu.
Kiên liêu.
Thiên dũ.
Ế phong.
Khế mạch.
Lư tức.
Giác tôn.
Nhĩ môn.
Hòa liêu.
Ty trúc không.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 11, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho tai điếc một cách ù ù, cổ họng sưng (thực quản), cổ họng tý (thanh
quản). Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về khí sẽ làm cho bệnh đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, phía
sau tai, vai, cánh tay, khuỷutay, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức. Ngón tay áp út, phía ngón út không cảm
giác”.
“Thị động tắc bệnh nhĩ lung, hồn hồn thuần thuần, ách thũng, hầu tý. Thị chủ khí Sở sinh, mục nhuệ tý thống,
giáp thống, nhĩ hậu, kiên, nao, trửu tý ngoại giai thống, tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Ù tai, điếc tai, sưng đau họng.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Hay đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, đau ở góc hàm.
Phía sau tai, vai, cánh tay, cùi chỏ, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức.
Khó cử động ngón tay áp út và ngón út.
Kinh (túc thiếu dương) đởm
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ đuôi mắt, lên góc trán vòng xuống sau tai, vòng từ sau đầu ra trước trán, vòng trở lại gáy đi dọc cổ
xuống mặt trước vai vào hố trên đòn rồi xuống nách, chạy xuống theo vùng hông sườn đến mấu chuyển lớn,
tiếp tục đi xuống theo mặt ngoài đùi, đến bờ ngoài khớp gối, xuống cẳng chân chạy trước ngoài xương mác,
trước mắt cá ngoài, chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 4 và 5 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng
thứ 4.
Từ đuôi mắt có nhánh ngầm đi xuống hố thượng đòn, vào trong ngực liên lạc với Can – Đởm rồi xuống tiếp
vùng bẹn để đến nối với nhánh bên ngoài ở mấu chuyển lớn.
Các huyệt trên đường kinh Đởm:
Có tất cả 44 huyệt trên đường kinh Đởm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Đồng tử liêu.
Thính hội.
Thượng quan.
Hàm yến.
Huyền lư.
Huyền ly.
Khúc tân.
Suất cốc.
Thiên xung.
Phù bạch.
Khiếu âm.
Hoàn cốt.
Bản thần.
Dương bạch.
Đầu lâm khấp.
Mục song.
Chính doanh.
Thừa linh.
Não không.
Phong trì.
Kiên tỉnh.
Uyên dịch.
Trấp cân.
Nhật nguyệt.
Kinh môn.
Đới mạch.
Ngũ xu.
Duy đạo.
Cự liêu.
Hoàn khiêu.
Phong thị.
Trung độc.
Tất dương quan.
Dương lăng tuyền.
Dương giao.
Ngoại khâu.
Quang minh.
Dương phụ.
Tuyệt cốt.
Khâu khư.
Túc lâm khấp.
Địa ngũ hội.
Hiệp khê.
Túc khiếu âm.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 12, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho miệng đắng, thường hay thở mạnh, tâm và hông sườn đau, khó
xoay trở. Nếu bệnh nặng hơn thì mặt như đóng lớp bụi mỏng, thân thể không nhuận trơn, phía ngoài bàn chân
lại nóng. Đây gọi là chứng dương quyết. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh chủ về cốt sẽ làm cho đầu nhức, hàm nhức,
khoé mắt ngoài nhức, vùng khuyết bồn bị sưng thũng và đau nhức, dưới nách bị sưng thũng, chứng ung thư mã
hiệp anh, mồ hôi ra, sốt rét, chấn hàn; ngực hông sườn, mấu chuyển lớn, phía ngoài đầu gối cho đến cẳng chân,
phía ngoài xương tuyệt cốt, mắt cá ngoài và các đốt xương, tất cả đều bị đau nhức. Ngón chân áp út không còn
cảm giác.
“Thị động tắc bệnh khẩu thổ, thiện thái tức. Tâm hiếp thống, bất năng chuyển trắc, thậm tắc diện vi hữu trần,
thể vô cao trạch, túc ngoại phản nhiệt, thị vi dương quyết. Thị chủ cốt Sở sinh bệnh giả, đầu thống, hàm thống,
mục nhuệ tý thống, khuyết bồn trung thũng thống, dịch hạ thũng, mã đao hiệp anh, hạn xuất chấn hàn ngược,
hung hiếp lặc bễ tất ngoại chí hình tuyệt cốt ngoại khỏa tiền cập chư tiết giai thống. Tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng’’.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Miệng đắng, thường hay thở dài.
Vùng ngực và hông sườn đau, khó xoay trở.
Trường hợp bệnh nặng: mặt như đóng lớp bụi mỏng, da khô mất nước, thân thể không nhuận trơn, cảm giác
nóng ở mặt ngoài chân, đây gọi là chứng dương quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Đau đầu nhức, đau vùng dưới cằm, đau khoé mắt ngoài, hố trên đòn sưng và đau nhức, vùng dưới nách sưng
đau, hạch nách.
Hay ra mồ hôi, sốt rét.
Đau vùng ngực, hông sườn.
Đau ở mấu chuyển lớn xương đùi, đau phía ngoài đầu gối cho đến phía ngoài cẳng chân, đau mắt cá ngoài.
Không cử động được ngón chân áp út.
Kinh (túc quyết âm) can
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng chân cái, chạy dọc trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 1 và 2 rồi đến trước
mắt cá trong, lên mặt trong cẳng chân giao với kinh Tỳ rồi bắt chéo ra sau kinh này, lên mặt trong khoeo chân
bên ngoài gân cơ bán màng, chạy tiếp lên mặt trong đùi đến nếp bẹn, vòng quanh bộ sinh dục ngoài lên bụng
dưới và tận cùng ở hông sườn (Kỳ môn).
Từ đây có nhánh ngầm đi vào trong đến Can Đởm rồi vào Phế, xuyên cơ hoành lên phân bố ở cạnh sườn, đi dọc
theo sau khí quản, thanh quản rồi lên vòm họng, lên nối với quanh mắt rồi chia làm 2 nhánh:
Một nhánh lên hội với Đốc mạch ở giữa đỉnh đầu (Bách hội).
Một nhánh xuống má vào vòng trong môi.
Các huyệt trên đường kinh Can:
Có tất cả 14 huyệt trên đường kinh Can. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Đại đôn.
Hành gian.
Thái xung.
Trung phong.
Lãi câu.
Trung đô.
Tất quan.
Khúc tuyền.
Âm bao.
Túc ngũ lý.
Âm liêm.
Cấp mạch.
Chương môn.
Kỳ môn.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 13, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho đau lưng đến không cúi ngửa ra được. Ở đàn ông sẽ có chứng đồi
sán; ở đàn bà sẽ có chứng thiếu phúc bị sưng thũng. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho cổ họng bị khô, mặt như đóng
lớp bụi và thất sắc. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh thuộc can sẽ làm cho ngực bị đầy, ói nghịch, xôn tiết, hồ sán, đái
dầm, bí đái”.
“Thị động tắc bệnh yêu thống, bất khả dĩ phủ ngưỡng. Trượng phu đồi sán, phụ nhân thiếu phúc thũng, thậm tắc
ách can, diện trần thoát sắc. Thị can Sở sinh bệnh giả, hung mãn ẩu nghịch, xôn tiết, hồ sán, di niệu, bế lung”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đau lưng không cúi ngửa được, đàn ông sẽ có chứng đồi sán (co thụt và sa bìu); đàn bà sẽ có chứng bụng dưới
bị sưng thũng.
Trường hợp bệnh nặng: cổ họng khô, mặt như đóng lớp bụi và thất sắc.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Ngực bị tức đầy, ói mửa, cảm giác như khí nghịch lên trên.
Tiêu chảy, đầy bụng, khó tiêu.
Co thụt và sa bìu.
Đái dầm, bí đái, đái khó.
http://tuchuabenh.info/benh-cua-12-kinh-chinh-trong-cham-cuu-125.html
Tác dụng của hệ kinh lạc.
Kinh lạc là đường tuần hành khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân, duy trì mọi hoạt động sinh lý của cơ thể, chống
ngoại tà, bảo vệ cơ thể. Nếu chức năng vận hành khí huyết của Kinh lạc bị trở ngại, khí huyết không thông lập
tức sẽ xuất hiện dấu hiệu bệnh lý.
Về sinh lý : Kinh lạc là đường tuần hành khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân, duy trì mọi hoạt động sinh lý của
cơ thể, chống ngoại tà, bảo vệ cơ thể. Nếu chức năng vận hành khí huyết của Kinh lạc bị trở ngại, khí huyết
không thông lập tức sẽ xuất hiện dấu hiệu bệnh lý.
- Về bệnh lý : Kinh lạc là nơi bệnh tà xâm nhập vào cơ thể và truyền bệnh từ nông vào sâu (khi bệnh nặng lên)
hoặc từ sâu ra nông (khi bệnh nhẹ đi). Vì thế, khi tạng phủ có bệnh, bệnh sẽ thông qua Kinh lạc mà phản ảnh ra
ngoài cơ thể như : Bệnh Phế, ấn thấy đau huyệt Trung phủ, Phế du. Bệnh ở Can, ấn đau huyệt Kỳ môn, Can
du...
- Về chẩn đoán : Mỗi đường kinh có liên hệ và biểu thị cho 1 Tạng phủ nhất định, do đó, có thể dựa vào cách
thăm khám các đường kinh, dựa vào điện trở của huyệt Nguyên, hoặc độ cảm giác của huyệt Tĩnh... Mà xác
định được Kinh lạc, Tạng phủ bệnh.
Thí dụ : Người bệnh đau vùng sau gáy.
Áp dụng nguyên tắc "Kinh lạc sở qua, chủ trị sở cập" ta thấy, vùng gáy có kinh Đởm và kinh Bàng quang chạy
qua, như thế, có thể là Đởm kinh hoặc Bàng quang kinh bị trở ngại, cũng có thể là cả 2 kinh trên cùng bị bệnh.
Như vậy việc điều trị mới có hiệu quả và chính xác được.
- Về chữa bệnh : Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất trong châm cứu và dược. Học thuyết Kinh lạc
chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương ứng với Tạng phủ hoặc đường kinh nào đó, gọi là sự quy kinh của
thuốc.
Thí dụ : Bạc Hà, vị cay, vào phế nên có tác dụng chữa ho, cảm...
Long nhãn, vị ngọt, vào Tỳ có tác dụng bồi bổ cơ thể...
Thí dụ 2 : Đau vùng cạnh đầu, lấy huyệt ở kinh Thiếu dương. Đau vùng sau gáy, lấy huyệt ở kinh Thái dương...
Nắm được Kinh hoặc Tạng phủ bệnh... Tác động đúng vào huyệt có liên quan với bệnh của những kinh, tạng
phủ đó thì hiệu quả trị bệnh sẽ cao và chính xác hơn.
Để kết thúc về hệ thống kinh mạch, chúng tôi xin mượn lời của thiên 'Kinh Mạch' : "Kinh mạch là những con
đường, dựa vào đó để quyết được việc sống chết, là nơi sắp xếp trăm bệnh, là nơi điều hoà hư thực mà thầy
thuốc không thể không thông" (LKhu 10, 7).
Sách 'Y Môn Pháp Luật' cũng nhấn mạnh : "Phàm chữa bệnh mà không rõ tạng phủ, kinh lạc thì hễ đụng đến
việc là bị sai lầm". Nguồn - Việt Y Đường .

Nếu bạn muốn dùng tỉnh huyệt để khai thông 12 đường kinh thì tùy theo hoàn cảnh , điều kiện, sở thích mà bạn
dùng một trong các cách sau: dán cao salonpas hơ điếu ngải, châm kim, day, ấn , bấm, chích lể , xung điện. Để
việc dùng 12 tỉnh huyệt khai thông 12 đường kinh được hiệu quả cao và an toàn thì bạn nên quân bình các tỉnh
huyệt bằng cách thêm các huyệt đi kèm với các tỉnh huyệt theo nguyên tắc của châm cứu lục khí như sau:
• Ở thủ tam âm:
- Kinh phế: Thiếu thương, thiên tỉnh( kinh tam tiêu), dương cốc ( kinh tiểu trường)
- Kinh tâm bào lạc: Trung xung, tiểu hải ( kinh tiểu trường), dương khê ( kinh đại trường)
- Kinh tâm: Thiếu xung, khúc trì ( kinh đại trường), chi cấu ( kinh tam tiêu)
• Ở thủ tam dương:
- Kinh đại trường: Thương dương, xích trạch ( kinh phế)
- Kinh tam tiêu: Quan xung, khúc trạch ( kinh tâm bào lạc)
- Kinh tiểu trường: Thiếu trạch, giản sử ( kinh tâm bào lạc)
• Ở túc tam âm:
- Kinh tỳ: Ẩn bạch, dương lăng tuyền ( kinh đởm), côn lôn ( kinh bàng quang),
- Kinh can: Đại đôn, ủy trung ( kinh bang quang), giải khê ( kinh vị)
- Kinh thận: Dũng tuyền, túc tam lý ( kinh vị), dương phụ ( kinh đởm)
• Ở túc tam dương :
- Kinh vị: Lệ đoài, âm lăng tuyền ( kinh tỳ)
- Kinh đởm: Túc khiếu âm, khúc tuyền ( kinh can)
- Kinh bàng quang: Chí âm, âm cốc ( kinh thận)
Nhìn vào thì thật nhiều huyệt nhưng với những ai đã học châm cứu lục khí thì rất dễ vì nó có nguyên tắc …
Khi cấp cứu tai biến do tính chất khẩn cấp nên không nhớ huyệt người ta dùng thập tuyên còn khi biết huyệt ta
nên dùng các tỉnh huyệt kèm theo các huyệt trên trong cấp cứu tai biến và hạ sốt hoặc để khai thông 12 đường
kinh bảo vệ sức khỏe hàng ngày rất tốt đó bạn
Nếu thấy nhớ khó quá thì bạn học CCLK đi, thú vị lắm đấy.
https://www.facebook.com/leminh.leminh.735?fref=ufi

CĂN BẢN TỐI THIỂU CỦ A PHẬT TỬ LÀ GÌ VẬY ?
CHÚNG TA PHẢI HIỂU : ''CÓ VAY TẤT CÓ TRẢ'' - HÃY CỐ GẮNG NỔ LỰC TU HÀNH, HỒI HƯỚNG
CÔNG ĐỨC CHO OAN GIA TRÁI CHỦ - ĐÓ CHÍNH LÀ CÁCH BÁO ÂN, GIẢI OÁN !
Phàm là con người sinh ra và lớn lên ai cũng mắc nợ cả, có người còn mắc nợ của ma quỷ, nợ của chúng sanh
...nợ đời quá khứ và nợ đời này. Do đời trước thiếu nên đời này phải trả, có vay tất có trả, điều này không thể
tránh miễn được.
Vì thế, Phật tử chúng ta cần phải hiểu cho thấu đáo cái đạo lý này.
Phật tử chúng ta nhờ có duyên lành nên gặp được Phật pháp, biết được thiếu tiền thì trả tiền, nợ mạng thì phải
đền mạng, nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai.
Cho nên ngay trong đời này có thiếu nợ chúng sanh thì mình cứ vui vẻ mà trả, chẳng buồn phiền gì cả !
Trong nhiều đời nhiều kiếp về quá khứ, do thiếu duyên lành nên chúng ta không gặp được Phật pháp, vì thế
không tránh khỏi việc tạo tội nghiệp, gieo ân kết oán với vô số chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay. Hết vay
rồi trả, hết trả rồi vay, cứ xoay vần chẳng kết, chẳng liễu.
Do vậy mà con đường đi đến giải thoát giác ngộ chúng ta luôn bị chướng ngại, nguyên nhân là ở chỗ này. Đây
đều là hoàn toàn do chính mình gây tạo quá nhiều nghiệp bất thiện trong đời quá khứ, nên nay mình phải nhận
lấy quả xấu ác chiêu cảm.
Phật dạy chúng ta phải cố gắng tự mình nổ lực tinh tấn tu hành, tụng Kinh, lễ Phật, sám hối, làm các việc thiện
rồi đem tất cả công đức đó hồi hướng đến cho họ, đó chính là chúng ta trả nợ cho họ.
Muốn việc hồi hướng được viên mãn tốt đẹp thì phải bằng tâm chân thành của mình mà làm, bằng sự thiết tha
phát lồ sám hối ăn năn những tội lỗi xưa. Nếu chúng ta chỉ dùng lời nói nơi cửa miệng, mà việc làm không
tương ưng với tâm, chỉ là niệm suông bài kệ hồi hướng cho xong, thì đâu có tác dụng gì, đều chỉ là nhọc công
vô ích mà thôi !
Chúng ta ngày nay mặc dù mỗi ngày đều có hối hướng công đức đến cho oán thân trái chủ, nhưng tại sao oán
kết vẫn không thể giải, con đường tu học vẫn luôn bị chướng ngại, bị ma sự quấy phá ?
Đó là do chúng ta đã dùng tâm sai khi hồi hướng.
Tâm sai như thế nào ? Đa phần chúng đều mang cái tâm thái làm cho rồi để họ đi cho lẹ lẹ, đừng đến quấy
nhiễu chúng ta nữa, mà hồi hướng, đây chính là tâm sai. Hồi hướng như vậy oán kết làm sao hoá giải được chứ
?
Ví như trong cuộc sống, có người gây tạo những điều bất thiện với ta, ta với họ oán kết càng kết càng sâu. Nay
họ vì không muốn chúng ta đến đòi nợ, đến quấy phá họ, nên họ đưa cho ta cái bánh và nói rằng:
"Đây tôi cho anh cái bánh, anh ăn xong rồi thì mối oan kết của chúng ta từ đây giải trừ, và anh không nên đến
tìm tôi nữa".
Khi đó, ta có bằng lòng giải trừ oán kết hay không?
Dĩ nhiên là không, vì họ không phải thật lòng ăn năn sám hối về những lỗi lầm đã gây cho ta, nên mối oan kết
này không dễ hoá giải. Cùng một đạo lý, những oan thân trái chủ cũng chẳng dễ gì tha cho ta nếu ta dùng cái
tâm thái như vậy để hồi hướng.
Từ vô lượng kiếp, chúng ta đã chịu ân của vô số chúng sanh và cả oan thân trái chủ. Cho nên, có ân thì ta hồi
hướng công đức cho họ để báo đáp ân đó, có oán chúng ta cũng hồi hướng cho họ để giải trừ oán kết.
Làm bất cứ việc gì dù là báo ân hay giải oán, thì cũng cần phải xuất phát từ chính nội tâm của mình, đó là phải
Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Từ Bi. Có như thế thì mới đúng nghĩa là hồi hướng cho họ, mối oán kết
mới có thể được tiêu trừ, những ân nghĩa mới có thể được đền trả.

THƯ GỬI BỘ TRƯỞNG BYT


(Bức thư thứ 2)
Thưa bà Bộ trưởng,
Tôi biết bà bận trăm công ngàn việc, quốc gia đại sự. Vả lại, cũng thấy có tin là..."Bộ Y tế kiên quyết không can
thiệp vào vụ xét xử BS Hoàng Công Lương". Chính vì vậy tôi hiểu tại sao trước một sự việc có rất nhiều nguy
cơ gây dư chấn chấn động cuộc sống tâm lý và nghề nghiệp của toàn ngành như vậy mà BYT không tham gia
(đúng ra là phải vào cuộc) ngay từ đầu với tư cách là tư vấn tối cao về chất lượng chuyên môn-kỹ thuật-quy
trình-quản lý trong nganhf y tế, để việc điều tra đi đúng hướng, tìm ra kẽ hở trong quản lý/vận hành bệnh viện
gây chết người hàng loạt này.
Nếu làm như vậy sẽ vừa giúp các ngành (công an, toà án, viện kiểm sát...) có thêm thông tin trong việc nhận
định và điều tra đúng hướng, đúng người, đúng tội để trả lại sự vô tội và sự trong sáng cho người thầy thuốc trẻ
(dù có liên quan, nhưng hoàn toàn không có tội, chắc từ trong sáu thẳm lương tâm người thầy thuốc giỏi, bà
cũng biết rõ điều này như tôi!). Và quan trọng hơn cả việc "cứu mạng người phúc đẳng hà sa" (nếu bà và chúng
ta cứu đc sinh mệnh chính trị và nghề nghiệp của bs Lương; nếu không bs này "sống như chết..."), bà còn có sứ
mệnh CỨU TOÀN NGÀNH Y TẾ, và theo đó (hệ luỵ) sẽ là SỨC KHOẺ TOÀN DÂN VIỆT TRONG TƯƠNG
LAI GẦN. Vì hơn ai hết bà biết rằng: bs Lương vô tội mà người ta còn "hoán đổi" thay chỗ cho GĐ BV HB
một cách "ngoạn mục" và trắng trợn đến thế, thì rồi đây, hơn NỬA TRIỆU NHÂN VIÊN Y TẾ VIỆT NAM sẽ
quá dễ dàng trở thành con mồi ngon cho những kẻ mang danh lãnh đạo để bòn rút đầy mưu mô và dã tâm (từ
viện phí, từ thuốc, vật tư y tế...vì đây là nguồn tài chính to lớn và thường xuyên). Nhưng trước mắt, với tội danh
khoác cho bs Lương, hơn nửa triệu con NGƯỜI trong ngành y tế sẽ vận dụng VỎ NÃO mà trời phú cho
"người" để hiểu mình sẽ trở thành tội phạm bất cứ lúc nào mà không ai trong ngành bảo vệ. Vậy thì họ sẽ hành
động ra sao để tự vệ theo bản năng sinh vật và ai chịu hậu quả trực tiếp nhãn tiền thì bà phải là người hiểu hơn
ai hết. Đó chính là dân chúng Việt Nam, "thượng đế" và là "chủ nhân ông/bà" của các "đày tớ/nô bộc", là "đối
tượng phục vụ đầu tiên và trên hết" mà lãnh đạo các ngành, các cấp (nhất là ngành Y) luôn miệng nhắc nhở.
Như vậy, từ "vi mô" (bị can Hoàng Công Lương, bác sỹ bị quy tội oan) sẽ thành làn sóng "vĩ mô" toàn ngành,
toàn quốc (và chắc chắn là lan cả ra quốc tế nữa). Việc này xảy ra trong nhiệm kỳ thứ 2 này của bà, và sẽ được
in đậm trong tâm trí của toàn thể nhán viên ngành y. Bà nghĩ sao, thưa bà bộ trưởng?
Đó là lý do chúng tôi cói gắng cứu đồng nghiệp, cũng chính là để cứu "đại hoạ" nói trên cho ngành y, cho toàn
dân nước Việt!
Xin bà đọc một trong những bức thư tôi gửi tới ông Viện trưởng Viện KSNS tối...cao!
Chúc bà luôn mạnh khoẻ để đảm đương và hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đứng đầu ngành!
Kính thư
BS Nguyễn Văn Bàng
Bộ môn Nhi ĐHY HN
Thư gửi ông Lê Minh Trí, viện trưởng Viện KSND tối cao
Thưa ông Lê MINH TRÍ, viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNSTC), ĐBQH khoá 14,
Vì quá ngạc nhiên, thực ra là quá "choáng" khi đọc lời phát biểu của ông trong buổi tiếp xúc cử tri tại TP HCM
được đăng tải trên nhiều báo, tôi không thể không tự hỏi: sao ở vị trí của mình, ông lại có thể phát biểu một
điều quá lạ lùng như vậy, nên tôi xin gửi tới ông bức thư sau đây và kính mong sớm nhận được phúc đáp của
ông.
Trân trọng cám ơn ông!
PGS-BS-NGUT Nguyễn Văn Bàng.
Tâm thư tôi như sau:
"Nhiều chuyên gia ngành y cũng rất tâm tư về chuyện này nhưng không truy tố thì không được vì bác sỹ nằm
trong dây chuyền này, ổng không ký thì chuyện chết người không xảy ra”.
Xin phép được hỏi thưa ông, trên đây có đúng là lời phát biểu chính thức vào ngày 4/5 của ông trong Tổ đại
biểu Quốc hội đơn vị 4 (TPHCM) ở buổi tiếp xúc cử tri quận 11 trước kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV (Theo
như đăng tải của báo Tin tức Việt Nam, báo Tuổi trẻ và nhiều báo khác số ra ngày 5/5/2018)?
Nếu đúng như vậy, thưa ông Viện trưởng, câu phát biểu trên đây của ông Viện trưởng VKSND tối cao làm
chúng tôi choáng, vì có vẻ như ông không hiểu là BS Lương đã ký gì, nên mới phát biểu chắc nịch trước "bàn
dân thiên hạ" như vậy.
Tôi thành thực xin phép được hỏi: "Ông đã từng đọc bản cáo trạng của VKSND tỉnh Hoà Bình quyết định sinh
mệnh chính trị và cuộc sống nghề nghiệp cũng như dân sinh đối với công dân-BS Hoàng Công Lương lần nào
chưa"? Và "Ông có biết là BS Hoàng Công Lương đã ký vào những giấy tờ gì không?"
Thưa ông Viện trưởng, tôi là một công dân VN và là một thầy thuốc lâu năm trong nghề cấp cứu hồi sức-thầy
giáo lâu năm tại ĐH YHN, vừa mới xin nghỉ hưu trước hạn sau vụ Viện KSND tỉnh Hoà Bình quyết định truy
tố đồng nghiệp trẻ Hoàng Công Lương, vì cũng như vô số đồng nghiệp trong nghề y chúng tôi tại Việt Nam, tôi
quá sốc, bức xúc, thất vọng, mất niềm tin và cảm thấy bải hoải, thậm chí có phần phẫn nộ về cách truy tố "lệch
người, lệch tội" của các cơ quan chức năng trong vụ tai nạn thảm khốc tại đơn vị lọc thận bệnh viện đa khoa
tỉnh Hoà Bình. Tôi cũng đã viết bài "Đừng để chúng tôi (những người thầy thuốc) cảm thấy là những con tốt
đen", đăng trên báo Văn Hoá đầu tháng 6/2017 và từ đó, cùng với vô số ý kiến ủng hộ sự vô tội của người đồng
nghiệp trẻ đáng nể trọng này, kể cả các đồng nghiệp ngành y là đại biểu quốc hội, các chuyên gia đầu ngành
Hồi sức cấp cứu và lọc máu, các thầy thuốc dày dạn kinh nghiệm
trong ngành thận nhân tạo-lọc máu, và các vị lãnh đạo cao cấp của Tổng Hội Y học Việt Nam. Cũng một phần
qua tiếng nói chuyên môn trung thực của chúng tôi, BS Lương đã được tại ngoại. Tôi và muôn vàn đồng nghiệp
ngành y Việt Nam luôn theo dõi từng ngày từng giờ, từng động tác cử chỉ của các nhà đại diện pháp luật và
công lý, nắm vận mệnh của chúng tôi.
Là những người thầy thuốc, chúng tôi ai cũng hiểu vụ tai nạn này là quá nghiêm trọng và cần phải tìm ra đầy đủ
nguyên do và truy tố đúng người đúng tội để đảm bảo tính công minh của pháp luật và là kinh nghiệm xương
máu cho toàn bộ hệ thống quản lý trong ngành y tế nước nhà. Nhưng rất tiếc là người ta vẫn không tìm đúng
những người phải chịu trách chính trong vụ này tại bệnh viện tỉnh Hoà Bình. Đó là BGĐ, chủ thể đã ký hợp
đồng và đáng ra phải kiểm tra kiểm soát việc thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng của công ty Thiên Sơn, không
được để xảy ra sai trái trong khi công ty này không thực hiện việc xử lý nước RO mà "tự giao" (hay tự ký hợp
đồng) cho một công ty "Trâm Anh" nào đó không có chức năng bảo hành máy y tế vì đó là một công ty..."thông
cống" vào làm thay, và vì thế không quá ngạc nhiên là người ta đã dùng acid florua hydric (HF), hoá chất tuyệt
đối cấm dùng trong y tế nói chung, lại càng không thể dùng để xử lý nước RO chạy máy thận nhân tạo! Không
những thế, người ta còn quá cẩu thả hay quá vô lương tâm hoặc quá dốt nát mà để tồn dư liều FH vượt ...270
lần liều độc trong nước đã xử lý. Rồi người ta nghiễm nhiên bàn giao bằng biên bản cho ông Sơn phòng Vật tư
(vào 18h35 phút 28/5/2016) , để ông Sơn bàn giao cũng bằng biên bản như thường lệ cho điều dưỡng Điệp (vào
18h55 cùng ngày) và một cách tự nhiên và hoàn toàn đúng như thông lệ cho tới lúc đó, điều dưỡng Điệp thông
báo lại cho BS Lương để tiến hành chạy thận cho các bệnh nhân như vô vàn những lần trước. Và rồi...thảm hoạ
ập đến!!!
Vậy "trong dây chuyền này..." (như lời ông phát biểu trước cử tri hôm 4/5 vừa qua) tội BS Lương ở chỗ nào,
thưa ông Viện trưởng?
Việc BS Lương ký vào giấy đề xuất bảo trì vì máy đã hết kỳ hạn sử dụng mà là nguyên nhân gây tại hoạ? Hay
"ổng" đã ký cả hợp đồng với CT
Thiên Sơn? Hay "ổng" đã vượt mặt BGĐ BV để ký hợp đồng cho công ty "Trâm Anh...thông cống" lẻn vào bảo
trì máy thay CT Thiên Sơn, nên BGĐ BV này..."không hề hay biết" (như lời tường trình của BGD BV HB) là
Trâm Anh "tiếm quyền" Thiên Sơn, nhảy vào BV bảo trì máy lọc thận?
Còn nếu BS Lương không ký phiếu đề xuất bảo trì thì sẽ phải có BS khác ký phiếu ấy, vì máy đã hết kỳ hạn bảo
hành. Nếu "ổng" ký vào giấy đề xuất bảo hành máy mà là nguyên nhân gây thảm hoạ, thì có nghĩa là từ trước
tới nay (và cả từ nay về sau) những ai đã từng ký phiếu đề xuất bảo trì máy này đều...là "bị can tiềm năng", là
"thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" và "vô ý gây chết người" như VKSND Hoà Bình đang quy cho
bs Lương, thưa quý ông Viện trưởng?
Và xin hỏi ông: nếu ký nào giấy đề xuất để báo cho BGĐ BV biết máy đã "kiệt sức" và sẽ trở nên nguy hiểm
chết người nếu không bảo hành, thông báo đã tới hạn cần bảo trì máy mà là "tội phạm", thì xin được hỏi ông
rằng: nếu bs Lương (hay bất kỳ một nhân viên "xấu số" nào đó mà không "phạm tội", nghĩa là cứ để mặc cho
máy hết hạn tiếp tục chạy cho BN mà không đề nghị bảo trì khi hết hạn, thì tất cả gần 130 BN đang đợi lọc sẽ
được hưởng sự "vô tội"..., và sau vài tuần sẽ chết ráo vì ngộ độc chất độc mà máy của ai đó "vô tội" không ký
giấy đề xuất bảo trì! Chuyện gì sẽ xảy ra, thưa ông Viện trưởng, nếu không có ai chịu ký giấy thông báo để bảo
trì máy thì tất cả đều "vô can" theo như lô-gic của các ngài điều tra viên, của viện KSND tỉnh Hoà Bình, thưa
ông Viện trưởng?
Thưa ông Viện trưởng tối cao! Tôi không nghĩ là ông chưa để vài phút vàng ngọc của mình soi xét qua tập hồ
sơ quyết định "vận mệnh...cỏ rác" của những thường dân là những đồng nghiệp đáng thương của chúng tôi, với
tư cách đứng đầu cơ quan tối cao và là ĐBQH, người đại diện tối cao cho những người dân chúng tôi, tôi càng
không sao hiểu nổi động cơ hay lý do gì đã đẩy ông tới câu trả lời như vậy! Tôi cũng không nghĩ ông lại có thể
mơ hồ hay chểnh mảng đến mức không biết BS Lương đã ký vào giấy tờ gì! Vì thế tôi lại càng thấy "lòng rối...
hơn tơ vò" khi nghĩ là với vị trí và trách nhiệm tối cao của mình, ông đã không thể không nghiêm túc đọc kỹ tập
hồ sơ bị can BS Hoàng Công Lương. Và như vậy, tất nhiên ông sẽ phải đọc qua bản đề xuất bảo trì máy lọc
thận mà BS Lương "vô phúc" ký để thực thi việc quan trọng ấy (thay cho bất cứ "bị can" nào khác).
Còn nếu như ai đó nói tại BS Lương đã ký phiếu chạy thận cho các bệnh nhân vào cái buổi sáng định mệnh đó,
thì tôi xin nói rõ là: bất kỳ ai ở vào vị trí BS Lương cũng sẽ đều làm như vậy. Bởi vì: (1) máy đã được bàn giao
là an toàn với cả 2 cấp như mọi lần, (2) bác sĩ lọc thận không có nhiệm vụ và không hề được ai quy định trách
nhiệm kiểm tra chất lượng và nồng độ các chất trong nước lọc thận sau khi đã được bàn giao 2 cấp đầy đủ bằng
văn bản là đã đảm bảo chất lượng, (3) là thầy thuốc thì phải chữa cho bệnh nhân theo luật khám chữa bệnh,
nhất là khi đó lại là những bệnh nhân nặng mà sống hay chết phụ thuộc vào việc lọc đúng thời điểm hay không.
Tôi xin mạo muội hỏi ông: nếu ông có số mệnh giống chúng tôi nên phải làm thầy thuốc ở thời điểm đó, trong
hoàn cảnh và tình huống rất giống bao nhiêu lần trước đó, ông sẽ làm gì? Ông có kiểm tra thông số máy, ghi y
lệnh chạy máy thận nhân tạo chữa/cứu bệnh nhân giống mọi ngày như BS Lương? Hay ông sẽ đi làm gì để biết
trong nước RO bảo trì hôm trước đã bàn giao đủ 2 cấp đảm bảo chất lượng là đúng hay sai? Hay ông để máy,
để bệnh nhân nằm thoi thóp đợi để đi báo cáo? Xin ông cho biết là ông sẽ phải đi báo cáo với những ai và theo
quy định nào! Mà từ trước tới đó có làm thế hay không? Ông sẽ báo cáo về những vấn đề gì? Về việc đã có 2
biên bản bàn giao đảm bảo chất lượng như mọi lần rồi thì hôm nay có phải kiểm tra lại hay không sao? Kiểm
tra bằng phương tiện gì? Theo quy định nào của ai?
Thế mà ông lại vẫn có thể "cấu thành..." câu trả lời "nghịch dị thường" như vậy trước toàn thể cử tri, những
người đã...tin tưởng và tín nhiệm bầu ông vào cái ghế "đại diện...sáng suốt" cho dân và để ông được yên vị ở
cái ghế Viện trưởng Viện Kiểm Sát tối cao (mà dân chúng thường gọi vui là "viện...sinh sát tối cao"!?
Cũng xin được hỏi ông thêm vài câu hỏi luôn ám ảnh trong tâm trí chúng tôi. Thưa ông, ở vị trí tối cao của
mình, có bao giờ ông nghĩ "vận mệnh" của BS Lương trong thảm hoạ này sẽ là "gương tày liếp" đối với bất cứ
ai trong số gần 600 ngàn cán bộ y tế Việt Nam hiện thời? Ông có đồng ý với tôi rằng: qua hình ảnh BS Lương
thì ai trong chúng tôi, hơn nửa triệu nhân viên y tế Việt Nam hiện nay, cũng đều là một "bị can tiềm năng"? Và
thưa ông, nếu ông là một trong những thành viên cộng đồng y tế chúng tôi, liệu ông có còn tìm được niềm hứng
khởi, đam mê và nhiệt huyết để lăn xả vào trận chiến chống tử thần? Cũng muốn hỏi thêm ông rằng: ở vị trí của
ông, ông có nghĩ là khi tội lỗi của một ai đó trong BGĐ của một bệnh viện nào đó lại "hoán đổi" một cách
ngoạn mục sang một "tốt đen", mà đó lại là một nhân viên ưu tú, chân thực và trong sáng đến khó tả; và điều đó
không ai mà không nhận ra; thì cũng sẽ là một "gương tày đình" cho hàng loạt những tội danh, tội phạm rồi sẽ
"hoán đổi" ở bất cứ vị trí nào trong ngành y tế Việt Nam?
Xin tha thiết mong ông phúc đáp để lòng người thường dân như chúng tôi được sáng tỏ, để khỏi "rối hơn tơ vò"
khi phải đặt vô vàn câu hỏi trước câu trả lời nghịch thường như vậy trước dân về vụ BS Lương trong cương vị
người đứng đầu cái thực thể tối cao của Nhà nước về cầm cân nảy mực nhân danh công lý!
Xin chân thành chúc ông luôn được mạnh khoẻ để luôn sáng suốt trong mọi phán quyết đối với sinh mệnh
chúng sinh, và ít nhất là để có câu phát biểu có lô-gic trước cử tri cũng đáng kính của ông, thưa ông Viện
trưởng "tối cao"!

You might also like