You are on page 1of 4

Chiến tranh Trung-Nhật là chiến tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản bắt đầu từ 7 tháng

7 năm 1937 khi quân Thiên hoàng tiến chiếm Bắc Trung Hoa, khởi đầu từ Sự kiện Lư Câu
Kiều và kết thúc khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 9 tháng 9 năm 1945 vào cuối
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). Đây là cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Á thế kỷ
20.[7]. Sử sách Trung Quốc và Đài Loan gọi tên cuộc chiến là Chiến tranh kháng Nhật, giải phóng
nhân dân hoặc Kháng chiến chống Nhật, cứu quốc.

Mục lục

 1Bối cảnh lịch sử


 2Diễn biến
 3Kết quả
 4Chú thích
 5Liên kết ngoài

Bối cảnh lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]


Nguồn gốc của chiến tranh Trung-Nhật có thể là Chiến tranh Thanh-Nhật diễn ra trong hai năm
1894-1895, khi Trung Quốc dưới triều Thanh, bị Nhật Bản đánh bại phải nhường Đài Loan và
công nhận Triều Tiên độc lập qua Hiệp ước Shimonoseki (Mã Quan). Triều Thanh đang trong
buổi hoàng hôn sụp đổ bởi các cuộc khởi nghĩa bên trong và chủ nghĩa đế quốc bên ngoài, trong
lúc Nhật Bản đã trở thành một cường quốc sau công cuộc Minh Trị Duy tân.[8]. Trung Hoa Dân
quốc được thành lập năm 1912 sau cuộc cách mạng Tân Hợi lật đổ triều Thanh. Nước Cộng
hòa non trẻ thậm chí còn trở nên suy yếu hơn bởi sự xung đột của các quân phiệt. Một vài sứ
quân thậm chí còn liên kết với nước ngoài nhằm nỗ lực quét sạch các đối thủ khác. Ví dụ, quân
phiệt Trương Tác Lâm của Mãn Châu hợp tác rộng rãi với Nhật để nhận viện trợ quân sự và
kinh tế.[9]
Năm 1915, Nhật đưa ra 21 yêu sách nhằm tăng cường quyền lợi chính trị và thương mại ở
Trung Quốc.[10] Tiếp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật giành lấy khu vực ảnh hưởng của
Đế quốc Đức ở Sơn Đông.[11] Trung Quốc dưới thời chính phủ Bắc Dương còn bị chia cắt không
thể chống lại sự xâm nhập của nước ngoài cho đến Chiến tranh Bắc phạt năm 1926 - 1928,
do Trung Quốc Quốc dân đảng đối lập ở Quảng Châu tiến hành.[12]
Ngày 18-9-1931, Nhật bắt đầu xâm lược Đông bắc Trung Quốc. Chính quyền Tưởng Giới Thạch
chủ trương không kháng cự, nên chỉ trong vòng vài tháng toàn bộ vùng Mãn Châu (Đông bắc
Trung Quốc) rộng lớn đã rơi vào tay Nhật. Sau đó, tháng 1/1932, Nhật tấn công Thượng Hải.
Năm 1933, Nhật chiếm Nhiệt Hà và miền bắc Sát Cáp Nhĩ; năm 1935, chiếm miền đông bắc tỉnh
Hà Bắc.
Ngày l-8-1935, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra lời kêu gọi “đình chỉ nội chiến, đoàn
kết chống Nhật”, được nhân dân hưởng ứng. Phong trào biểu tình thị uy chống Nhật lan rộng
khắp trong nước. Từ tháng 5/1936, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhiều lần đề nghị Quốc dân
đảng đình chiến, hợp tác thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật. Tuy nhiên, chính
phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẫn dồn sức tiêu diệt Đảng cộng sản Trung
Quốc chứ không lo chống Nhật.
Ngày 4/12/1936, 2 tướng của Quốc dân đảng là Trương Học Lương và Dương Hổ Thành được
lệnh của Tưởng Giới Thành tấn công đại bản danh của Đảng cộng sản tại Diên An. Do ủng hộ
phong trào kháng chiến chống Nhật của Đảng cộng sản Trung Quốc nên 2 ông cố tình trì hoãn
việc tiến công. Ngày 6/12, hai tướng thỉnh cầu Tưởng Giới Thạch đình chỉ nội chiến và cùng
Đảng cộng sản chống Nhật nhưng bị Tưởng cự tuyệt. Do căm ghét thái độ "hàng Nhật chống
Cộng" của Tưởng, tối 12/12/1936 hai tướng cho quân bao vây Hoa Thanh trì và bắt sống Tưởng
cùng bộ hạ đưa về Tây An tống giam, đó chính là Sự biến Tây An. Sau sự kiện này, Tưởng Giới
Thạch đã phải đồng ý hợp tác với Đảng cộng sản Trung Quốc để kháng chiến chống Nhật.
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 7-7-1937, quân đội Nhật tấn công bất ngờ vào Lư Câu Kiều ở ngoại ô phía nam Bắc Bình
(Bắc Kinh), đó là sự biến 7 tháng 7. Không đầy một tháng sau vụ Lư Cầu Kiều, Bắc Kinh, Thiên
Tân đều rơi vào tay Nhật. Đến tháng 3-1938, Hoa Bắc bị chiếm gần hết. Ở Hoa Trung, tháng 11-
1937, Nhật chiếm Thượng Hải; tháng 12 chiếm Nam Kinh. Đến tháng 10-1938, Vũ Hán, Quảng
Châu đều rơi vào tay Nhật.
Sau sự biến 7 tháng 7, ngày hôm sau, Đảng cộng sản Trung Quốc đã ra lời tuyên ngôn kháng
Nhật trước toàn quốc, ngày 9 tháng 7 Hồng quân Trung Quốc gửi điện kêu gọi xung phong tới
Hoa Bắc kháng Nhật. Ngày 15 tháng 7, Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc công bố “Tuyên
bố hợp tác Quốc Cộng của đảng cộng sản Trung Quốc”. Ngày 22-9, do chịu sức ép dư luận,
Quốc dân đảng phải chính thức công bố bản Tuyên ngôn đó.
Trong 8 năm chiến tranh, quân đội Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hợp tác
với nhau. Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành nhiều trận đánh với Nhật và chịu tổn thất lớn
trước một đạo quân trang bị tốt hơn của Nhật Bản, tuy nhiên chiến thuật du kích của họ cũng
phát huy hiệu quả khiến quân Nhật sa lầy. Để tỏ thiện chí hợp tác, Đảng Cộng sản Trung Quốc
cũng cử một phần lực lượng tới trợ giúp cho hàng ngũ của Quốc dân đảng (xem Tân Tứ
quân và Sư đoàn Cộng sản của Quân đội Cách mạng Quốc dân). Hai bên thỏa thuận đơn vị này
được Quốc dân đảng cho mang huy hiệu giống binh sĩ của họ để được di chuyển trong cùng do
Quốc dân đảng kiểm soát, nhưng công tác chỉ huy thì vẫn do Đảng Cộng sản nắm giữ.
Trong khi quân Quốc dân đảng rút lui thì lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản ở vùng Tây Bắc
(lúc này được đổi tên là Bát lộ quân) và ở vùng Hoa Nam (được gọi là Tân tứ quân) đã thực hiện
hiện phương châm độc lập tiến hành chiến tranh nhân dân, tiến vào vùng địch hậu, phát động
nhân dân mở rộng chiến tranh du kích, lập nhiều khu căn cứ địa chống Nhật. Hơn 30.000 bát lộ
quân vượt Hoàng Hà tiến về Hoa Bắc, 12.000 tân tứ quân tiến về phía bắc và nam Trường
Giang. Cuối tháng 9/1937, sư đoàn 115 của Bát lộ quân đã đánh thắng tại Trận Bình Hình
quan (Sơn Tây), tiêu diệt hơn 3.000 quân tinh nhuệ của Nhật. Đây là chiến thắng quân sự đầu
tiên của người Trung Quốc trong cuộc chiến, có ý nghĩa cổ vũ tinh thần người dân cả nước.
Do trang bị yếu cũng như sự hợp tác lỏng lẻo giữa Quốc Dân đảng và Đảng Cộng sản Trung
Quốc nên cuộc chiến của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn. Quân Quốc dân Đảng chủ yếu tham
chiến ở khu vực Đông Nam, trong khi Đảng Cộng sản chủ yếu tham chiến ở khu vực Đông Bắc.
Tuy lực lượng nhỏ hơn nhiều so với Quốc Dân đảng song quân của Đảng Cộng sản tỏ ra tác
chiến hiệu quả hơn do có tinh thần chiến đấu cao hơn và biết sử dụng chiến tranh du kích, các
chiến khu của họ được giữ vững trong chiến tranh. Đảng cộng sản Trung Quốc đề ra chiến
lược "chiến tranh nhân dân - trường kỳ kháng chiến", trước sau đã thành lập các căn cứ địa Tân
Sát Kỳ, Tấn Tây Bắc, Tấn Kỳ Dự, Tấn Tây Nam, Tô Nam, Tô Bắc, Hoản Nam, Hoản Trung, Dự
Hoản Tô... các căn cứ đó ngày càng được mở rộng. Bát lộ quân đánh bại nhiều cuộc càn quét
của quân Nhật và những hành động chống cộng của Quốc dân đảng, củng cố và phát triển căn
cứ địa kháng Nhật. Trong giai đoạn này, Bát lộ quân đã chiến đấu hơn 20.000 trận, diệt hàng
chục vạn quân Nhật, làm cho quân Nhật bị suy yếu. Cùng với Bát lộ quân, Tân tứ quân trên cơ
sở vốn có, tiếp tục phát triển đến 50 vạn người, lực lượng vũ trang địa phương cũng tương đối
phát triển.
Bất chấp những thiệt hại khi chiến đấu chống Nhật, lực lượng của Đảng Cộng sản đã tăng từ
92.000 quân (năm 1937) lên 900.000 quân (năm 1945), chưa kể hàng triệu du kích do họ chỉ
đạo. Ngoài ra, uy tín Đảng Cộng sản còn được nâng cao, họ nhận được sự ủng hộ của đông
đảo người dân do những thành tích chiến đấu trong công cuộc kháng Nhật, đây sẽ là nguyên
nhân chính Đảng Cộng sản đánh bại Quốc dân đảng trong nội chiến Trung Quốc lần 2.
Trong khi đó, quân Quốc Dân đảng tuy đông về số lượng nhưng thành phần thì hỗn tạp. Lực
lượng này bao gồm nhiều quân phiệt các nơi tập trung lại nên nội bộ khá lủng củng, nhiều quân
phiệt vốn không ưa hoặc không chịu nghe lệnh Tưởng Giới Thạch, khi có biến động thì Tưởng
Giới Thạch cũng chẳng thể ra lệnh hiệu quả. Tháng 10/1937, quân Nhật chiếm được Thái
Nguyên, đưa quân đánh Thượng Hải. Quốc dân đảng do sợ đường bị cắt đứt, ngày 9 tháng 11
đã bỏ Thượng Hải, quân chủ lực rút về phía nam dời thủ đô về Trùng Khánh, chiến tranh chính
quy của Quốc dân đảng chuyển hướng về Đường Tân Phổ và lưu vực Trường Giang. Sau khi
chiếm được Thượng Hải, ngày 13 tháng 12, quân Nhật chiếm Nam Kinh, thảm sát hơn 300.000
người Trung Quốc. Chỉ trong 4 tháng, Quốc dân đảng đã tổn thất hơn 40 vạn quân. Quân Nhật
men theo đường Tân Phổ, đến mùa xuân năm 1938 chiếm được Bạng Phụ và Duyện Châu, sau
đó lại chiếm Từ Châu. Sau khi Từ Châu thất thủ, quân Nhật tiếp tục tiến về phía nam, lần lượt
chiếm được Vũ Hán, Quảng Châu. Cả một vùng rộng lớn vùng Trung Nguyên và Hoa Nam đã
rơi vào tay Nhật.
Quân Quốc Dân đảng không biết phát động chiến tranh du kích mà thường đánh trực diện kiểu
quy ước với quân Nhật. Do kém hơn quân Nhật cả về trang bị lẫn tinh thần chiến đấu nên kết
quả là quân Quốc Dân đảng thường bị thất trận, họ chịu một loạt thất bại lớn tại Trận Thượng
Hải (1937), Trận Từ Châu, Trận Vũ Hán, Trận Nam Xương... Quốc Dân đảng đã phải bỏ thủ
đô Nam Kinh để chạy tới Trùng Khánh và để mất vùng duyên hải Đông nam với nhiều thành phố
lớn như Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu... Quân đội Tưởng Giới Thạch từng bước phải rút
lui và cuối cùng tập trung tại khu vực Tây Nam Trung Quốc để bảo toàn lực lượng. Uy tín của
Quốc Dân đảng trong nhân dân bị suy sụp do những thất bại này. Một số chiến lược tiêu cực
của Quốc Dân đảng cũng gây mất lòng dân, như Sự kiện phá đê Hoa Viên Khẩu để ngăn quân
Nhật, nhưng đã khiến 500.000 dân thường thiệt mạng vì lũ lụt.
Tính đến tháng 1/1941 quân Tưởng Giới Thạch được Mỹ-Anh viện trợ 500 triệu USD vay lãi
suất thấp, 630 triệu USD dưới hình thức quân trang, quân dụng, vũ khí. Đến tháng 3/1942 thêm
khoản tín dụng 50 triệu bảng Anh và 500 triệu USD. Và rất nhiều thứ không thể quy ra tiền như:
cầu, đường, sân bay, sĩ quan và cố vấn quân sự, tình báo. Khoản viện trợ này đã giúp Quân đội
Tưởng Giới Thạch trụ lại được trước sự tấn công của Nhật.
Tám năm chiến tranh gây ra tổn thất lớn cho Trung Quốc về nhân mạng, ước từ 15 đến 25 triệu.
Người Nhật đã thực hiện Chiến dịch Hoa huệ vàng nhằm lấy đi số vàng bạc trên khắp châu Á
trong đó bao gồm cả Trung Quốc. Số vàng lấy được tại Trung Quốc đã được chuyển về Nhật an
toàn hơn các phần ở Đông Nam Á.
Việc phát xít Nhật đem quân tấn công Trung Quốc vào năm 1937 đã gián tiếp giúp cho Đảng
Cộng sản tăng cường lực lượng. Đến thời điểm đó, lực lượng hai bên là rất chênh lệch, tuy
nhiên cuộc xâm lược của Nhật đã khiến cho Tưởng Giới Thạch buộc phải tạm thời liên kết với
Đảng Cộng sản để tiến hành kháng chiến, do đó Đảng Cộng sản đã tránh được mũi nhọn tấn
công của Quốc dân Đảng. Sau khi cuộc nội chiến kết thúc và Đảng Cộng sản lên nắm quyền
lãnh đạo Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã rất nhiều lần "cảm ơn" quân đội Nhật đã gián tiếp
"giúp" ông và ĐCS đánh bại Quốc dân Đảng. Vào năm 1970, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo
Mỹ Edgar Snow, Mao Trạch Đông đã nói rằng: "Nếu không có sự giúp đỡ của người Nhật, cuộc
cách mạng [của Đảng Cộng sản] tại Trung Quốc sẽ không thể thành công. Tôi đã nói điều này
với một người Nhật, một nhà tư bản, tên là Saburo Nanxiang. Ông ấy nói với tôi rằng: 'Chúng tôi
xin lỗi vì đã xâm lược Trung Quốc'. Tôi nói với ông ấy rằng: 'Đừng nói vậy, ngược lại, Nhật Bản
đã "giúp" chúng tôi (những người Cộng sản) rất nhiều, đặc biệt là các quân phiệt Nhật Bản và
Nhật hoàng. Các ông chiếm hơn một nửa Trung Quốc, người dân Trung Quốc đã đoàn kết chiến
đấu với các ông, nhờ đó chúng tôi đã xây dựng được một triệu quân và kiểm soát được những
vùng có 100 triệu dân. Đây không phải là sự giúp đỡ của các ông sao?". Trong một cuộc gặp
vào năm 1972 để đàm phán về việc thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ giữa 2 nước, khi
Thủ tướng Nhật Tanaka Kakuei đưa ra lời xin lỗi vì đã xâm lược Trung Quốc vào năm 1937,
Mao Trạch Đông đã trả lời rằng: "Nếu Nhật Bản không xâm chiếm Trung Quốc, chúng tôi không
thể có được sự hợp tác với Quốc Dân Đảng, chúng tôi không thể phát triển, và cuối cùng lên
nắm quyền, và cũng sẽ không có cuộc đàm phán ngày hôm nay tại Bắc Kinh" [13]

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến tranh đã chấm dứt do Nhật Bản đầu hàng phe Đồng minh vào tháng 8 năm 1945. Tuy
Trung Quốc đã không thể thắng Nhật Bản trên lục địa châu Á trong cuộc chiến Trung - Nhật này
nhưng chiến thắng chung cuộc của phe Đồng minh cũng khiến Trung Quốc trở thành nước
thắng trận.
Kết quả của cuộc chiến là Trung Quốc đã chiếm lại được Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ
(những lãnh thổ đã bị rơi vào tay Nhật từ trước chiến tranh), tuy nhiên Trung Quốc phải chấp
nhận việc Mông Cổ độc lập. Ngoài ra, Trung Hoa Dân Quốc còn có ghế trong Hội đồng Thường
trực của Liên Hiệp Quốc. Ghế này của Trung Hoa Dân Quốc sau đó được chuyển lại cho Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa.

You might also like