You are on page 1of 6

TIỂU SỬ BI-XMÁC

1. Bismarck (1815-1898) là người đã thống nhất các tiểu bang Đức nhỏ
lẻ thành một đế quốc Đức hùng mạnh, và trở thành thủ tướng đầu
tiên của đế chế này.

2. Otto Eduard Leopold von Bismarck sinh vào ngày 1 tháng 4 năm 1815
trong một gia đình dòng dõi địa chủ quý tộc ở Schönhausen, tây bắc
Berlin. Ông theo học tại một ngôi trường danh tiếng ở Berlin, và tiếp
đó là Đại học Göttingen. Sau đó ông làm công chức cho nước Phổ,
nhưng rồi năm 1838 ông bỏ việc vì nhàm chán. Ông trở về giúp cha
mình quản lý trang trại gia đình trong gần mười năm.

3. Năm 1847, Bismarck kết hôn với Johanna von Puttkamer, người mang
lại cho ông một cuộc sống ổn định. Đây cũng là năm đánh dấu một
bước chuyển quan trọng trong cuộc đời Bismarck, khi ông quyết định
theo đạo Cơ đốc dòng Luther và bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình
tại cơ quan lập pháp của nước Phổ, nơi ông được biết đến như một
chính khách bảo thủ cực đoan. Năm 1851, Vua Frederick Wilhelm IV
cử Bismarck làm đại diện nước Phổ đến dự Hội nghị Liên bang Đức.
Sau đó ông đảm nhiệm cương vị đại sứ Phổ tại Nga và Pháp. Năm
1862, ông trở lại Phổ và được nhà vua mới khi đó là Wilhelm I chỉ
định làm thủ tướng.

4. Lúc này Bismarck quyết tâm thống nhất các tiểu bang Đức thành một
đế chế duy nhất, với nước Phổ nằm ở trung tâm. Với sự ủng hộ
của Áo, ông lãnh đạo quân đội Phổ đánh chiếm hai công quốc
Schleswig và Holstein nằm dưới sự thống trị của Đan Mạch. Sau đó
ông đẩy cao bất đồng với nước Áo và các tiểu bang Đức (đồng minh
với Áo) về vấn đề quản lý những công quốc này và châm ngòi chiến
tranh. Chung cuộc người Phổ chiến thắng và sáp nhập lãnh thổ các
tiểu bang Đức.

5. Do không thuyết phục được các tiểu bang Đức ở miền Nam cùng gia
nhập Liên bang Đức phía Bắc, Bismarck kích động căng thẳng với
Pháp nhằm kéo các tiểu bang Đức cùng xích lại gần nhau. Chiến tranh
Pháp – Phổ kết thúc với thắng lợi của người Đức đã khiến các tiểu
bang phía nam đồng ý sáp nhập vào một đế chế Đức thống nhất (năm
1871). Vua Phổ Wilhelm I trở thành hoàng đế.
6. Trên cương vị là thủ tướng của một nước Đức mới, Bismarck tập trung
xây dựng một quốc gia hùng mạnh với một bản sắc dân tộc hợp nhất.
Một trong những mục tiêu của ông là giảm ảnh hưởng của giáo hội
Công giáo La Mã, đặc biệt là ở miền nam nước Đức. Ông cũng nỗ lực
ngăn chặn sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội lan rộng thông qua việc
áp dụng bảo hiểm y tế và tiền trợ cấp.

7. Về đối ngoại, Bismarck đặt mục tiêu biến Đức thành đế quốc hùng
mạnh nhất Châu Âu. Năm 1879, ông đàm phán thành lập một liên
minh với Áo-Hung để chống lại Pháp và Nga. Về sau Ý cũng tham gia
liên minh này. Để tránh cô lập Anh, Bismarck đã soạn thảo hai Hiệp
ước Địa Trung Hải năm 1887 nhằm giữ vững nguyên trạng, chống lại
mối đe dọa từ Nga.

8. Năm 1890, Bismarck từ chức sau những bất đồng với hoàng đế mới
– Wilhelm II. Ông nghỉ hưu tại điền trang của mình gần Hamburg và
qua đời ở đây vào ngày 30 tháng 7 năm 1898 (ở tuổi 83).

1. Tình hình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa và khả


năng thống nhất nước Đức
Sau cuộc cách mạng 1848, nền công nghiệp Đức phát triển nhanh chóng. Từ
năm 1849 đến năm 1859 kinh tế tư bản chủ nghĩa Đức phát triển mạnh mẽ
chưa từng thấy. Có thể nói rằng nước Đức trong thời kỳ này đã chuyển từ
một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Mặc dầu còn thua những
tiến bộ đã đạt được trong cùng thời gian ở nước Anh và nước Pháp, nhưng ở
nước Đức, mức sản xuất trong vòng hai mươi năm nhiều hơn so với sản
phẩm của cả thế kỷ trước đây mang lại. Trừ miền Đông Bắc vẫn là cơ sở kinh
tế nông nghiệp của địa chủ, còn tất cả nước Đức đều được lôi cuốn vào cao
trào công nghiệp hóa.

Sản lượng than, thép, sắt từ 1850-1860 tăng hơn gấp đôi. Số lượng động cơ
chạy bằng hơi nước từ năm 1846-1861 tăng lên gần gấp 6 lần. Năm 1850
năng suất của tất cả những động cơ hơi nước trong công nghiệp Đức là 0,26
triệu sức ngựa, đến năm 1879 lên tới 2,48 triệu sức ngựa. Năm 1850, chiều
dài đường sắt là 5856 kilômét và 10 năm sau tăng gấp đôi. Ngân hàng mọc
lên liên tiếp.

Do kết quả của việc phát triển công nghiệp, số công nhân tăng lên vùn vụt.
Năm 1849, ở Béclin có 5 vạn công nhân, đến năm 1859 đã tăng lên 18 vạn.
Béclin trở thành trung tâm chế tạo máy móc.
Trong các nhà máy vũ khí của hãng Cơrup (Krupp), năm 1845 tất cả chỉ có
122 công nhân, đến năm 1870 tăng lên 16.000 công nhân.

Mặc dầu công nghiệp phát triển nhanh chóng, thủ công nghiệp ở Đức vẫn còn
ở quy mô lớn. Sự tồn tại của công nghiệp gia đình vẫn còn khá phổ biến.

17 trong số 16 triệu cư dân sống ở nông thôn. Chỉ có 12 trong số 984 thành
phố có số dân trên 100 ngàn mà trong đó tỷ lệ người làm công nghiệp chỉ
trong khoảng 10 - 20%.

Một vấn đề quan trọng mà cách mạng chưa giải quyết được là vấn đề nông
dân. Chính phủ ban bố đạo luật về “giải quyết quan hệ giữa quý tộc và nông
dân” (3-1850) hủy bỏ chừng hai mươi loại nghĩa vụ phong kiến phụ là những
điều thực ra đã không tồn tại từ lâu rồi. Tất cả những nghĩa vụ phong kiến cơ
bản vẫn duy trì. Nông dân phải bỏ ra nhiều tiền chuộc mới được giải phóng
khỏi chế đó lao dịch và các nghĩa vụ phong kiến khác. Năm 1851 lại ban hành
“quy tắc về tiền công trong nông nghiệp” quy định phạt tù bất cứ tá điền nào
có ý định đình công. Bọn địa chủ quý tộc có cảnh binh riêng, có thể tùy ý ra
lệnh bắt giam bất cứ nông dân nào. Vì phải nộp tiền chuộc nên nông dân bị
phá sản, bần cùng hóa. Còn địa chủ quý tộc thì nhờ những đạo luật đó mà
làm giàu thêm. Sau năm 1850, giá lúa mì lên cao vì công nghiệp và các thành
thị phát triển nhanh chóng làm cho nhiều quý tộc địa chủ chuyển sang kinh
doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, dùng máy móc, thuê mướn lao động, đẩy
mạnh khai khẩn v.v… Nhiều địa chủ đã có cối xay chạy bằng hơi nước, nhà
máy rượu... Một vài địa chủ còn làm chủ lò luyện kim, lò đúc gang. Phương
thức kinh doanh mới tạo nên tầng lớp quý tộc tư sản hóa gọi là gioongke.

Đó là con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp ở Phổ: trong
khi đưa nông nghiệp đi theo chủ nghĩa tư bản thì vẫn duy trì tàn tích của chế
độ bóc lột phong kiến. Lênin gọi con đường đó là “con đường kiểu Phổ”.

Sự phát triển của công thương nghiệp và của chủ nghĩa tư bản trong nông
nghiệp gặp trở ngại lớn là tình trạng phân tán của nước Đức. Việc thống nhất
nước Đức trở thành vấn đề trung tâm, đòi hỏi phải giải quyết cấp bách.

Do đó, vấn đề cơ bản của sự phát triển chủ nghĩa tư bản Đức là vấn đề thị
trường dân tộc, tức là vấn đề thống nhất đất nước. Và việc thống nhất Đức có
thể thông qua hai con đường hoàn toàn khác nhau, hoặc bằng một cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thành lập một nước cộng hòa bao gồm tất
cả các bang ở Đức, hoặc bằng các cuộc chiến tranh của triều đình Phổ, tăng
cường bá quyền của quý tộc Phổ trong nước Đức thống nhất.

1848-1871 thời kỳ đấu tranh giữa hai con đường thống nhất: con đường “từ
dưới lên” là con đường cách mạng của quần chúng và con đường “từ trên
xuống” là con đường chiến tranh vương triều phản cách mạng do giai cấp quý
tộc phong kiến gioongke là tư sản tiến hành. Giai cấp công nhân Đức còn
đang trong quá trình hình thành, lực lượng phân tán nên chưa thể lãnh đạo
công cuộc thống nhất đất nước. Hai quốc gia lớn là Áo và Phổ tranh chấp
nhau, đều muốn giữ địa vị lãnh đạo nước Đức thống nhất sau này.

2. Quá trình thống nhất nước Đức


Ốttô phon Bixmac (1815-1898) làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Phổ, người đại diện cho quan điểm và quyền lợi của tầng lớp gioongke, thực
hiện chính sách liên minh chặt chẽ giữa địa chủ quý tộc và đại tư bản. Bixmac
ủng hộ đặc quyền của tầng lớp địa chủ quý tộc, tăng cường vương quyền và
đồng thời quan tâm đến quyền lợi của giai cấp tư sản. Bixmac theo chủ nghĩa
dân tộc Phổ, đặt nước Phổ đứng đầu quốc gia Đức chủ trương dùng bạo lực
để chống Áo và các nước khác cản trở việc thống nhất nước Đức. Ông ta
tuyên bố Biên giới Phổ theo hiệp nghị Viên không phù hợp với sự tồn tại của
một chính phủ vững mạnh nữa. Những vấn đề lớn của thời đại không thể
quyết định bằng diễn văn hay biểu quyết - đó là sai lầm lớn trong những năm
1848-1849, mà phải “bằng sắt và máu”. Bixmac trở thành người trụ cột lãnh
đạo.

 Những cuộc chiến tranh vương triều


Chiến tranh chống Đan Mạch (1864). Năm 1864, Bixmac khai chiến với Đan
Mạch để chiếm Sơlêxvich và Hônxtainơ. Ở Hônxtainơ chỉ có người Đức và
nằm trong Liên bang Đức. Còn ở Sơlêxvich, tuy có người Đức, nhưng đa số
là người Đan Mạch, không nằm trong Liên bang Đức. Năm 1863, Đan Mạch
quyết định sáp nhập Sơlêxvich vào Đan Mạch. Việc đó đã làm cho những
người dân tộc chủ nghĩa Đức bất mãn. Bixmac nắm luôn thời cơ đó, lôi kéo
Áo cùng đánh Đan Mạch, đi bước đầu tiên trong việc thôn tính, gây uy tín và
cũng để kiếm cớ gây sự với Áo sau này. Chiến sự bùng nổ vào tháng 2 năm
1864. Đan Mạch thất bại phải xin đình chiến và ký hòa ước Viên ngày 30-10-
1864, nhường Sơlêxvich và Hônxtainơ cho Phổ và Áo. Áo được Phổ chia cho
Hônxtainơ, còn Phổ nhận Sơlêxvich và có quyền chiếm đóng Kin (Kiel) ở
Hônxtainơ. Như vậy, quân Phổ muốn đến Sơlêxvich phải đi qua Hônxtainơ,
do đó có nhiều cơ hội để gây sự và châm ngòi lửa gây chiến với Áo. Tháng 6-
1866 quân đội Phổ đuổi Áo ra khỏi Hônxtainơ.

Chiến tranh Phổ-Áo (1866). Đế quốc Áo là đối thủ chính trong việc giành
quyền lãnh đạo nước Đức. Phổ tìm mọi cách cô lập và khiêu khích Áo, buộc
Áo phải ra lệnh động viên quân đội của mình. Cuộc chiến tranh Phổ-Áo bùng
nổ, đối với cả hai bên đều là cuộc chiến tranh vương triều phản động. Bị thua,
Áo phải rút khỏi Liên bang Đức (thành lập từ 1815), thừa nhận Phổ có quyền
xây dựng một tổ chức chính trị mới là Liên bang Bắc Đức, Áo thừa nhận
Sơlêxvich, Hônxtainơ, Hanôvơ, Khua Hetxen, Naxau và Phrăngphua bên
sông Mainơ sáp nhập vào Phổ.
Như vậy, bằng cuộc chiến tranh Phổ-Áo, Bixmac đã áp dụng phương thức “từ
trên xuống” tiến hành chiến tranh vương triều để thực hiện việc thống nhất
nước Đức bằng con đường phản cách mạng.

Thành lập Liên bang Bắc Đức (1867). Kết quả của cuộc chiến tranh Áo-Phổ là
Bixmac thành lập được Liên bang Bắc Đức năm 1867 dưới quyền lãnh đạo
của Phổ, bao gồm 18 nước ở Bắc Đức và 3 thành phố tự do là Hămbua,
Brêmen và Liubêch. Hiến pháp của Liên bang được thông qua ngày 17-4-
1867 và quốc hội Liên bang Đức được thành lập. Quyền của quốc hội bị hạn
chế bởi quyền của Tổng thống Liên bang và của Hội đồng Liên bang bao gồm
các đại biểu các nước trong Liên bang. Hiến pháp dành ghế Tổng thống cho
nhà vua Phổ, có quyền rất lớn đến nỗi các bang khác ở Đức hầu như bị mất
hoàn toàn quyền độc lập. Giúp vua có thủ tướng, nhưng thủ tướng không
chịu trách nhiệm trước quốc hội mà chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống.
Bixmac vừa là Thủ tướng Phổ, vừa là Thủ tướng Liên bang.

Bixmac xem việc thành lập Liên bang Bắc Đức chỉ là một giai đoạn trên con
đường đi đến thống nhất hoàn toàn. Bixmac vội vàng lợi dụng tình hình do
các chiến thắng vừa thu được, nghĩa là tinh thần sô-vanh Đức để tiến hành
cuộc chiến tranh với Pháp, nhằm sáp nhập luôn miền Tây Nam vào Đức,
hoàn thành thống nhất nước Đức.

 Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871)


Sau cuộc chiến tranh Phổ-Áo, quyền lãnh đạo trong nội bộ nước Đức đã
được giải quyết. Nhưng trên con đường thực hiện thống nhất nốt các quốc
gia miền Nam, Đức còn vướng Pháp. Điều chủ yếu là sự ngăn trở của
Napôlêông III, bởi vì Napôlêông III muốn chia cắt nước Đức vĩnh viễn, không
muốn bên cạnh mình có một quốc gia thống nhất hùng mạnh trở thành một
mối nguy cho Pháp. Đồng thời, Bixmac cũng muốn tranh thủ thời cơ để xâm
chiếm một phần lãnh thổ của Pháp. Cho nên cuộc chiến tranh giữa Pháp và
Phổ là không thể tránh khỏi. Ngày 19-7-1870 chiến tranh bùng nổ. Đây là
cuộc chiến tranh quyết định sự thống nhất nước Đức thành một quốc gia toàn
vẹn theo con đường “sắt và máu”. Tháng 11-1870, các quốc gia Nam Đức đã
gia nhập Liên bang Bắc Đức, Pháp thất bại thảm hại trong chiến tranh, phải
bồi thường 5 tỉ Phờrăng và cắt cho Đức hai vùng Andát và Lôren.

Như vậy, việc hoàn thành công cuộc thống nhất nước Đức là tiến bộ, mặc
dầu mục đích ấy được thực hiện theo con đường “từ trên xuống”. Nhưng
ngay từ thời kỳ đầu, khi nước Đức tư bản mới ra đời, giai cấp tư sản và giới
quân phiệt Phổ còn đề ra cho mình một nhiệm vụ khác là cướp đoạt nước
Pháp, xâm nhập Andat và Lôren. Càng tiến gần đến thắng lợi thì mục đích đó
càng có vị trí quan trọng. Sau khi Napôlêông III đầu hàng ngày 2-9-1870, sự
thống nhất Đức không còn bị cản trở nữa, thì Đức đưa quân sang xâm chiếm
nước Pháp. Khi đó, đứng về phía Đức thì cuộc chiến tranh trở thành xâm
lược, phi nghĩa.
Đối với nước Pháp, lúc chiến tranh mới bắt đầu là phi nghĩa vì nó nhằm ngăn
cản sự thống nhất Đức, tạo điều kiện để sau này tư bản Pháp có thể bóc lột
nhân dân Đức. Nhưng từ 2-9-1870, nhân dân Pháp phải chiến đấu chống
quân xâm lược, nên đứng về phía Pháp thì đó là cuộc chiến tranh tự vệ chính
nghĩa.

Ngày 18-1-1871, lễ thành lập Đế quốc Đức đã được tổ chức tại cung điện
Vecxai ở Pháp đang bị Phổ chiếm đóng. Vua Phổ Vimhem I chính thức lên
ngôi hoàng đế. Đế quốc Đức là một liên bang gồm 22 nước và ba thành phố
tự do. Hiến pháp đế quốc được ban hành ngày 16-4-1871, củng cố sự thống
nhất đế quốc, bảo tồn chế độ quân chủ và tàn dư phong kiến ở nông thôn,
bảo đảm địa vị thống trị của nhà nước quân chủ địa chủ quý tộc Phổ.

Như vậy, việc thống nhất nước Đức đã hoàn thành. Sự thống nhất là một tiến
bộ lịch sử, vì nó mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Nước Đức đã
thống nhất bằng con đường chiến tranh vương triều “từ trên xuống” dưới sự
lãnh đạo của quý tộc Phổ, duy trì chế độ quân chủ và những đặc quyền quý
tộc, đồng thời phát triển chủ nghĩa tư bản. Phương thức ấy làm cho nước
Đức trở thành một nguồn gốc quan trọng của chủ nghĩa quân phiệt và là lò
lửa của cuộc chiến tranh sau này.

You might also like