Professional Documents
Culture Documents
Nội Dung:
- Hơn 20 quốc gia trải dài trên khắp năm châi tuyên bố chiến tranh và tham
chiến trong giai đoạn 1914 – 1918, khiến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
(còn được coi là cuộc chiến Vĩ đại) được xem là cuộc xung đột toàn cầu
- Cuộc chiến bao gồm 2 phe: Phe Liên Minh và phe Hiệp Ước. trong khi cuộc
chiến diễn ra có sự thay đổi mạnh mẽ về tập hợp lực lượng khi Italia thay
phe, Ottoman và Bulgaria gia nhập phe Liên Minh, Nga rút khỏi cuộc chiến
và Mỹ tham gia năm 1917
- Kết thúc cuộc chiến vào năm 1918, Phe Đồng Minh thắng trận song cả hai
(Cuối kì trắc nghiệm, giữa kì thuyết trình)
Nội dung bài giảng: Nguồn gốc của chiến tranh lạnh
Hoa Kỳ:
- Thoát khỏi Thế chiến II với ít tổn thất. Trái ngược với sự khủng hoảng và
kiệt quệ tại Đông Á, Châu Âu và Bắc Phi đối với người dân Mỹ cuộc chiến
không đem lại đau khổ và thiếu thốn mà đem lại cơ hội và sự phát triển
- GDP Hoa Kỳ tăng gấp đôi trong giai đoạn 1941 tới 1945 thông qua việc tăn
cao năng lực sản xuất nền kinh tế thị trường lấp đầy việc làm, tăng lương
cao trong suốt những năm tháng chiến tranh
Tư duy và tầm nhìn của Hoa Kỳ thời kỳ hậu chiến
Lợi ích kinh tế lẫn sức mạnh quân sự và uy tín quốc tế sau khi chiến
thắng Phe Trục không làm giảm nỗi lo sợ của người dân Mỹ trước một thế
giới mới sau Thế chiến II
- Cuộc tấn công của người Nhất tại Trân châu cảng đã xóa bỏ đi những ảo
tưởng về một nước Mỹ bất khả xâm phạm
- Nỗi ám ảnh về an ninh trở thành một mối đe dọa thường trực và là trọng tâm
chính trong chính sách đối ngoại và chính sách quốc phòng giai đoạn hậu
thế chiến II
Hoa Kỳ cần phải triển khai các hoạt động quân sự và ảnh hưởng của
mình sễ dàng hơn tại các khu vực điểm nóng để nhằm ngăn chặn và ngăn
ngừa các kẻ thù tiềm tàng trước khi chúng có cơ hội để tấn công vào lãnh
thổ Hoa Kỳ
Yêu cầu trong việc thiết lập đồng minh và đối tác quân sự để đặt căn
cứ quân sự nhằm tạo lập mạng lưới phòng thử cho Hoa Kỳ.
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị thuyết phục rằng sức mạnh khoa học công
nghệ đặc biệt là không lực đã khiến hàng rào hai đại dương không còn đủ
khả năng bảo vệ người dân Hoa Kỳ khỏi sự tấn công bên ngoài. An ninh
Quốc gia thực sự yêu cầu hệ thống phòng thủ cả ở bên ngoài lãnh thổ
Trở thành nền tảng trong học thuyết an ninh của các tổng thống Mỹ từ
Truman trở về sau.
Chính quyền của FDR và Truman đề tra các mục tiêu:
- Giữ vững sức mạnh hải quân và không quân số một toàn cầu
- Duy trì biểu hiện quân sự mạnh mẽ ở Thái Bình Dương
- Thống lĩnh khi vực tây bán cầu
- Vai trò trung tâm trong vùng chiếm đóng của Phe Trục
- Giữ thế độc quyền về bom hạt nhân
Đối với Mỹ: Sẽ không bao giời một quốc gia thù địch hay một mạng lưới
quốc gia kẻ thù được phép xuất hiện để chiếm đóng dân cư, lãnh thổ, tài
nguyên của Châu Âu và Đông Á
Bài học của thế chiến II đã để lại cho người Mỹ niềm tin rằng bất cứ kẻ
thù tương lai nào kiểm soát khu vục Lục địa Á – Âu sẽ gây nguy hiểm đến
sự tự do kinh tế và chính trị - giá trị cốt lõi của giá trị Mỹ và tư tưởng Mỹ
Sự giữ vững cân bằng quyền lực ở Eurasia là cực kỳ quan trọng
Liên Xô
Kế hoạch cho một trật tự thế giới thời kỳ hậu chiến cũng chịu ảnh hưởng
bởi mối đe dọa về an ninh
- Cuộc chiến với Đức Quốc Xã hằn sâu trong tâm trí của người Liên Xô
- Trong 15 nền cộng hòa Xô Viết thì 9 khu vực đã bị chiếm đóng toàn bộ hoặc
bị chiếm đóng một phần bởi quân Đức. Gần như toàn bộ người dân Xô Viết
chịu ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại
- Hầu hết các gia đình có người thân bị thiệt mạng bởi cuộc chiến. trong đó có
27 triệu người dân và hồng quân hy sinh, 1700 thành phố và thị trấn cùng
với hơn 70000 làng xã và 30000 nhà máy bị phá hủy.
Morcow nhận định rằng Đức có khả năng để tái hồi phục và đe dọa Liên
xô, do vậy Liên xô cần phải nhanh chóng thực hiện việc đảm bảo an ninh
cho quốc gia thông qua các mục tiêu:
- Các chính phủ thân Liên Xô cần được thiết lập tại Ba Lan và các quốc gia
trọng yếu tại Đông Âu
- Biên giới Liên Xô cần phải được xác lập tới mức tối đa giống như trước khi
cách mạng nổ ra – khẳng định việc sát nhập vĩnh viễn các quốc gia vùng
Baltic và khu vực phía Đông Ba Lan trước cuộc chiến
- Quản trị nước Đực thông qua chính quyền chiếm đóng đi kèm với việc phi
công nghiệp hóa và bồi thường chiến tranh
Chủ nghĩa Marx – Lenin là nền tảng lý luận trong chính sách đối ngoại
và tầm nhìn chiến lược của Stalin. Tư tưởng của Marx – Lenin củng cố niềm
tin cho các nhà lãnh đạo Liên xô rằng xung đột giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội là không thể tránh khỏi và kết cục vẫn sẽ luôn là sự thắng thế
của một cuộc cách mạng vô sản
So sánh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô
Các nhà lý thuyết QHQT nhận định rằng chiến tranh Lạnh cần được hiểu thông
qua chính trị cường quyền trong hệ thống quốc tế. Trong đó, Quốc gia chí trọng
vào sự tồn tại của chính mình thông qua việc đặt ưu tiên quyền lực và an ninh quốc
gia lên hàng đầu. Tuy nhiên, việc quốc gia đảm bảo quyền lực và an ninh phụ
thuộc và sự phân bố quyền lực trong hệ thống quốc tế. Chiến tranh Lạnh là không
thể tránh khỏi bởi sau chiến thắng Đức, Ý và Nhật đi kèm với sự đi xuống của Anh
và Pháp, Hoa Kỳ và Liên Xô tất yếu trở thành hai siêu cường – hai cực quyền lực
trong hệ thống. Do đó, sự đối đầu và thù địch giữa Washington và Moscow là mặc
định bởi cả hau đều cần phải gia tăng và củng cố an ninh và cùng ảnh hưởng cua
mình trong một môi trường đang bất ổn. Một trật tự đa cực sụp đổi đã tạo đường
cho một trật tự hai cực, và trong trật tự đó thì hợp tác và chung sống hòa bình với
một siêu cường quân sự đang lên là điều không khả thi
Theo quan điểm này, Chiến tranh Lạnh là hiện thực hóa của sự xung đột ý thức
giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản kéo dài từ thế kỷ 19, đặc biệt là sau
Cuộc cách mạng vô sản Nga năm 1917
Sự thù địch giữa chủ nghĩa cộng sản và tư bản được thể hiện thông qua tầm nhìn
khác biệt về hình thái chính trị - kinh tế cho tương lai nhân loại. Chiến tranh Lạnh
thực chất là cuộc chiến giữa Tư bản phương Tây và cộng sản phơng Đông, và Hoa
Kỳ và Liên Xô chỉ đơn thuần là công cụ để thực hiện. Chiến tranh Lạnh là lẽ
đương nhiên khi chủ nghĩa Phát Xít biến mất, để lại nền chính trị thế giới cho sự
đối đầu giữa Đông – Tây.
- Chiến tranh Lạnh không đén từ trật tự hai cực hay là khác biệt ý thức hệ, nó
đến từ một chuỗi các tính toán sai lầm, nhầm lẫn và diễn giải sai từ các bên
- Cả Liên Xô và Hoa Kỳ đã bỏ lỡ các cơ hội để hợp tác và chung sống hòa
bình ngay sau cuộc chiến
- Nhận định sai lầm về “bomb, dollar và các học thuyết chính trị” đã khiến
gia tăng nghi ngờ và đối đầu giữa các bên
Do Hoa Kỳ nhận định nhầm lẫn về Do Liên Xô nhận định nhầm lẫn về
Liên Xô Hoa Kỳ
Hoa Kỳ đã nhận định sai về Liên Xô Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Stalin
thông qua việc Wasington đã quá đã bị ảnh hưởng bởi sự nghi nhờ Hoa
quyết đoán rằng chính sách đối ngoại Kỳ và Phương Tây, lo sợ về một
của Liên Xô thiên về ý thức hệ thay “vòng tròn tư bản bao vây” giống quá
vì an ninh lãnh thổ. Quan tâm hàng khứ. Song song với việc Hoa Kỳ diễn
đầu của Liên Xô là khiến Đức suy giỉa sai về Liên Xô, Liên Xô cũng tin
yếu và thành lập các quốc gia vùng rằng chính sách đối ngoại của Hoa
đệm ở Đông Âu. Tuy nhiên trong giai Kỳ được xâu dựng bởi các học thuyết
đoạn 1946 và 1947 các nhà ngoại chống cộng sản thay vì những quan
giao Hoa Kỳ nhận định rằng việc tâm chiến lược khác. Sự thật là Hoa
khối Liên Xô thành lập thể hiện tham Kỳ đã cắt giảm từ 3.5 triệu lính hiện
vọng bá quyền và phổ quát đấu tranh diện tại Châu Âu vào tháng 5/1945
giai cấp Marx – Lenin ra toàn cầu. cuống còn 81,000 quân vào tháng
Do vậy, chính quyền Tru man có lý 3/1946 đã không khiến những nhà
do để ngăn chặn Liên Xô trước “tham lãnh đạo Liên Xô tin tưởng vào sự
vọng” đó hợp tác sau Thế chiến thứ II và làm
giảm đi mối đe dọa với Liên Xô