You are on page 1of 13

Trình bày quá trình hình thành và mở rộng hệ thống xã hội chủ nghĩa sau Chiến tranh thế

giới thứ hai. Quá trình này đã ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ quốc tế?
a. Quá trình hình thành và mở rộng
- Với thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, chủ nghĩa
xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành hệ thống thế giới.
- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1945), cách mạng Triều Tiên (1948), cách mạng
Trung Quốc (1949) đã mở rộng không gian địa lí của chủ nghĩa xã hội từ châu Âu sang châu Á.
- Cách mạng Cuba thành công (1959), chủ nghĩa xã hội mở rộng sang khu vực Mĩ Latinh.
- Một số nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh sau khi giành được độc lập cũng
tuyên bố định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
b. Ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị - quân sự và kinh
tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học – kĩ thuật, trở thành đối trọng của hệ thống tư bản chủ
nghĩa.
- Sự ra đời và mở rộng của hệ thống xã hội chủ nghĩa buộc Mĩ phải điều chỉnh Chiến lược
toàn cầu, coi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là nguy cơ lớn của Mĩ, từ đó phát động cuộc
Chiến tranh lạnh...
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển đã tăng cường quan hệ giữa các trào
lưu cách mạng trên thế giới, là chỗ dựa của các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, của phong
trào giải phóng dân tộc, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và sự nghiệp đấu tranh bảo
vệ hòa bình thế giới.
- Sự hình thành và mở rộng của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy việc giải quyết các
mối quan hệ quốc tế theo chiều hướng tiến bộ, có lợi cho nhân dân thế giới: Các nước xã hội chủ
nghĩa tham gia nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế, góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng
trong quan hệ quốc tế.

Câu 1: Hãy nhận xét về những mặt tích cực và hạn chế của trật tự theo hệ thống Véc
xai- Oasinhtơn?
* Mặt tích cực:
- Là trật tự thế giới đầu tiên được thiết lập trong thời kì hiện đại, khác với các trật tự cận
đại. Các trật tự trước chỉ tập trung ở châu Âu, còn trật tự theo hệ thống Vécxai- Oasinhtơn có
phạm vi mở rộng ra toàn thế giới (cả châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ). Nó đã bao quát được gần như
toàn bộ thế giới.
- Là trật tự thế giới lần đầu tiên được xác lập với những điều khoản, cam kết chặt chẽ buộc
các nước tham gia phải tuân thủ.
- Lần đầu tiên có một tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát trật tự này, mặc dù trên
thực tế có thể không làm được điều này – đó là Hội Quốc Liên.
* Mặt hạn chế:
- Nhằm mục tiêu bảo vệ tối đa lợi ích của các nước thắng trận, do những người thắng trận
dựng lên (Mỹ, Anh, Pháp, Italia, Nhật ), trong đó Mỹ và Nhật dù tham gia sau, bị tổn thất ít nhất
nhưng lại thu lợi nhiều nhất nhờ cuộc chiến tranh này. Do vậy trật tự này là quá bất công với các
nước bại trận, đây chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh mới; đặc biệt là với nước Đức,
dồn các nước bại trận vào chân tường, có những điều khoản không thể thực hiện được. Như vậy,
những điều khoản của hiệp ước là không có tính khả thi.
- Ngay cả những nước thắng trận cũng không thỏa mãn với hệ thống Vec xai- Oasinhtơn.
- Sự bất lực của Hội Quốc Liên: Mỹ không tham gia Hội Quốc Liên, khiến tổ chức này yếu
và thiếu (yếu vì không có sự tham gia của các cường quốc, thiếu tài chính). Hội Quốc Liên không
có quân đội, không có tài chính và không đưa ra được các chế tài xử phạt các nước vi phạm). Vì
thế Hội Quốc Liên tồn tại ngắn và giải thể khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
- Ủng hộ chế độ ủy trị, thực ra là công nhận chế độ thuộc địa – tức công nhận nền thống trị
của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc bị áp bức, bảo vệ quyền lợi cho chủ nghĩa đế quốc chứ
không phải đại bộ phận các dân tộc trên thế giới.

Câu 2: Trình bày tóm tắt quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ I dẫn đến sự
bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ II, từ đó rút ra nhận xét về bản chất của chủ nghĩa đế
quốc?
* Tình hình quốc tế sau Chiến tranh thế giới I:
- Trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn ra đời nhằm mục tiêu bảo vệ tối đa lợi ích của các
nước thắng trận, do những người thắng trận dựng lên và quá bất công với các nước bại trận, chưa
đựng đầy những mâu thuẫn, hận thù nên chắc chắn không tồn tại được lâu dài.
- Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 , tình hình các nước tư bản có nhiều
biến đổi. Xuất hiện việc lựa chọn 2 con đường trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
+ Con đường của các nước thắng trận: nhiều thuộc địa, nhiều thị trường => cải cách ôn hòa
để khôi phục kinh tế và ổn định chính trị.
+ Các nước không có thị trường, không thuộc địa => phát xít hóa bộ máy nhà nước, sử dụng
bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước, gây chiến tranh thế giới để chia lại địa cầu.
- Các thế lực phát xít đã kí Hiệp ước liên minh, hình thành khối Trục, ráo riết chạy đua vũ
trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới.
- Các nước tư bản dân chủ cũng tìm cách liên minh với nhau, 2 khối đế quốc kình địch nhau
nhưng đều muốn xóa bỏ Liên Xô. Anh- Pháp- Mỹ có hành động dung dưỡng chủ nghĩa phát xít
(Hiệp ước Muyních).
- Đức tấn công Ba Lan, Chiến tranh thế giới II bùng nổ.
=> Cả 2 cuộc chiến tranh đều do chủ nghĩa đế quốc gây ra, đều là sự phản ánh mâu thuẫn
giữa đế quốc với đế quốc.
=> Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là chiến tranh. Cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế
giới không thể tách rời cuộc đấu tranh chống đế quốc. Cuộc đấu tranh này là nhiệm vụ của
toàn nhân loại, lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Câu 3: Những quyết định quan trọng được thông qua tại Hội nghị Ianta (2 - 1945) đã
tác động như thế nào đến tình hình thế giới trong những năm 1945 - 1947?

- Những quyết định của Hội nghị Ianta cùng những thỏa thuận sau đó của ba cường quốc
trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới - trật tự hai cực Ianta...

- Thúc đẩy cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai nhanh chóng đi đến kết thúc ở châu Âu, châu
Á... tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít...

- Liên hợp quốc ra đời như một công cụ duy trì trật tự thế giới mới vừa được hình thành...

- Việc phân chia phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc dẫn đến sự hình thành trật tự thế
giới 2 cực đối đầu căng thẳng...

Câu 4: Từ bảng so sánh về thời gian và thành phần tham dự hội nghị Vécxai và Ianta,
em hãy rút ra nhận xét.

ND Hội nghị Véc xai Hội nghi Ianta


Thời Từ tháng 5/1919 (Sau khi chiến Tháng 2/1945 ( Trước khi chiến
gian tranh thế giới I kết thúc gần 1 năm) tranh thế giới II kết thúc nửa năm)
Thành 27 nước tham gia 3 nước Mỹ, Liên Xô và Anh
phần
 Nhận xét:
- Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc gần 1 năm, hội nghị Vecxai mới được triệu
tập, có tới 27 nước tham gia, tuy nhiên lúc này chưa có một quốc gia nào có vai trò nổi bật có khả
năng chi phối tuyệt đối (kể cả Mỹ). Sau hội nghị Vecxai, Mỹ còn triệu tập hội nghị Oasinhton để
giành lấy những lợi ích cho riêng mình. Trật tự thế giới theo hệ thống Vec-Oa chứa đựng rất nhiều
mâu thuẫn giữa các nước thắng trận với các nước thua trận, ngoài ra còn có cả mâu thuẫn giữa các
nước thắng trận với nhau nên nó không ổn định và nhanh chóng tan rã.
- Đến tháng 2 năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ II chưa kịp kết thúc, phe Đồng minh
sớm nhận thấy những mâu thuẫn nổi lên đã quyết định tiến hành hội nghị Ianta để giải quyết mâu
thuẫn, quyết định việc kết thúc chiến tranh. Có điều khác biệt là hội nghị Ianta chỉ có đại biểu của
ba cường quốc được mời tham dự, mọi quyết định của hội nghị này sẽ được cả thế giới tuân theo.
Bởi vì, vào thời điểm này, ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh đã trở thành những siêu cường có thể quyết
định vận mệnh của cuộc chiến tranh, của cả thế giới, sức mạnh thực tế của Mỹ và Liên Xô đã cho
phép họ có thể chi phối mọi mối quan hệ quốc tế, nên tiếng nói của họ mang tính rất quyết định.
Bởi vậy, trật tự thế giới được lập ra ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai là trật tự 2 cực, nó tồn tại
song hành với một cuộc Chiến tranh lạnh, kéo dài tới 40 năm và chỉ sụp đổ khi 1 trong 2 cực là
Liên Xô bị khủng hoảng và tan rã về mặt nhà nước, cực còn lại là Mỹ cũng bị suy giảm đáng kể
sức mạnh trước các đồng minh của Mỹ như Nhật Bản và Tây Âu.

`Câu 5: Hãy so sánh và lý giải thái độ đối xử của các nước thắng trận với các nước bại
trận sau 2 cuộc chiến tranh thế giới.
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất: Các nước thắng trận, nhất là Pháp và Anh đã có chủ
trương dìm các nước bại trận, nhất là nước Đức xuống bùn đen, với mục tiêu quàng những ách nô
dịch khủng khiếp lên đầu nước Đức khiến quốc gia này vĩnh viễn không thể phục hồi, trỗi dậy,
như thế họ hy vọng có thể triệt tiêu được nguy cơ nước Đức một lần nữa trở thành ngòi châm cho
một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nhưng thực tế lại chứng minh điều ngược lại, nước Đức nuôi
mối hận thù, ngang ngược từ chối trả các khoản bồi thường chiến phí khổng lồ, tự ý rút lui khỏi
Hội Quốc Liên, phục hồi và xây dựng một đội quân chính quy khổng lồ và chính thức phát động
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ sau khi hiệp ước Vécxai ký kết đúng 20 năm (1919-1939),
điều đó đã được chính thống chế Ferdinand Foch, một chính khách của nước Pháp đã dự báo
trước: “ Đây không phải là một hội nghị hòa bình. Đây chỉ là một cuộc hưu chiến trong vòng 20
năm”.
Rút kinh nghiệm từ cách ứng xử giữa các nước sau chiến tranh thế giới thứ nhất, khi chuẩn
bị kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu từ hội nghị Ianta, 3 cường quốc thay vì bàn những
biện pháp cực đoan trong đối xử với các nước chiến bại đã tập trung nhấn mạnh đến chủ trương
thực hiện xu hướng dân chủ hóa các nước này, nhờ đó đã tạo tiền đề để bảo đảm một nền hòa
bình lâu dài cho thế giới.
Còn một nguyên nhân nữa khiến các nước đế quốc phải thay đổi cách ứng xử với các nước
phát xít bại trận là vì lúc này khu vực Đông Âu do chịu ảnh hưởng của Liên Xô nên đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, vì vậy chủ nghĩa xã hội đã phát triển từ 1 nước duy nhất là Liên Xô trở
thành một hệ thống thế giới, thành một lực lượng đối trọng với hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Như
vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong quan hệ quốc tế đã xuất hiện một mâu thuẫn mới,
mang tính sống còn giữa 2 hệ thống chính trị, xã hội đối lâp. Đó là mâu thuẫn giữa hệ thống Xã
hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô với hệ thống đế quốc chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ. Bởi vậy, Mỹ
và các nước đế quốc cần liên minh với nhau chặt chẽ hơn để đối phó với Liên Xô và các nước
XHCN.
Sau chiến tranh, Mỹ sớm đề ra và thực hiện kế hoạch Mácsan nhằm phục hưng châu Âu,
trong đó, Cộng hòa Liên bang Đức là nước nhận được khoản vay khổng lồ để nhanh chóng hồi
phục nền kinh tế, trở thành quốc gia phát triển nhất châu Âu. Thậm chí, Mỹ và các nước Tây Âu
còn kết nạp Tây Đức là thành viên chính thức của khối quân sự NATO, trực tiếp đe dọa đến nền
hòa bình và an ninh ở châu Âu.
Mỹ cũng là nước được quyền chiếm đóng Nhật, thay vì trả mối hận thù sau sự kiện Trân
Châu cảng, Mỹ đã giúp chính phủ Nhật thực hiện hàng loạt các cải cách dân chủ, viện trợ cấp tập
về kinh tế giúp Nhật phục hồi nhanh sau chiến tranh, đặt Nhật dưới ô bảo vệ hạt nhân, ký hiệp ước
an ninh Mỹ - Nhật… biến Nhật thành đồng minh quan trọng và tin cậy nhất của Mỹ ở khu vực
châu Á- Thái Bình Dương.

Câu 6: Những quy định nào trong hội nghị Ianta sau này đã ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình Việt Nam?
- Một trong những nội dung của hội nghị Ianta quy định: Các vùng còn lại của châu Á: Đông
Nam Á, Nam Á, Tây Á vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây. Sau
này, nội dung đó được quy định cụ thể hơn trong hội nghị Pốtxđam về vấn đề giải giáp quân đội
Nhật Bản: Ở Đông Dương, quân đội Anh và Trung Hoa Dân Quốc sẽ được thực hiện nhiệm vụ
giải giáp quân đội Nhật ở 2 khu vực Nam và Bắc vĩ tuyến 16. Quy định này đã tạo thời cơ cho
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược đất nước ta lần thứ hai (1945-1954), buộc nhân dân ta phải
tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ chống đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
- Trong cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã hết lòng giúp đỡ, ủng hộ nhân dân ta. Như thế, ngay tại chiến trường Đông
Dương đã có những biểu hiện rõ nét của thế đối đầu 2 phe, 2 cực.

Câu 7: Em hãy cho biết ý kiến của mình về những vai trò, hạn chế của tổ chức Liên
Hợp Quốc từ khi thành lập đến nay trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và những đóng
góp của Việt Nam với tổ chức này?
* Vai trò của Liên Hợp Quốc :
- Liên Hợp Quốc là tổ chức quốc tế lớn nhất, số nước thành viên liên tục tăng, đến năm 2006
đã có 192 thành viên, được tổ chức chặt chẽ, hoạt động toàn diện, đều đặn.
- Liên Hợp Quốc trở thành một diễn đàn quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm gìn giữ
hòa bình, an ninh thế giới.
- Liên Hợp Quốc có vai trò to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp, xung đột và chiến
tranh ở nhiều khu vực (như giải quyết vấn đề hai miền đất nước trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề
kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương 1954, vấn đề Campuchia, Cônggô, vấn
Đông Timo, vấn đề Côsôvô 2003..); tiến hành giải trừ quân bị, hạn chế chạy đua vũ trang, nhất là
các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt; thủ tiêu chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
- Thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế; giúp đỡ các dân tộc, nhất là các nước đang
phát triển, về kinh tế, xã hội, nhân đạo, văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế....với phương châm "giúp
người để người tự cứu lấy mình" (như tạo nên các điều kiện phát triển bền vững, đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng, tiến hành các cải cách về cơ chế quản lý).
- Cùng nhân loại giải quyết các vấn đề toàn cầu khác như sự vơi cạn tài nguyên thiên nhiên,
AIDS, bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường , chiến tranh hạt nhân, bảo tồn các di sản văn hoá của
nhân loại.
=>Nhìn chung trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhất là sau khi trật tự 2 cực tan rã, vai trò của
Liên Hợp Quốc ngày càng quan trọng.
* Hạn chế:
- Một mặt là những hoạt động kém hiệu quả, tham nhũng trong nội bộ LHQ.
- Mặt khác Mỹ cũng tìm cách phớt lờ vai trò của Liên Hợp Quốc, gây áp lực buộc Hội đồng
Bảo an thông qua nhiều nghị quyết sai trái (như đưa quân vào Triều Tiên năm 1950- 1953, đưa ra
cái gọi là "vấn đề nhân quyền" ở các nước XHCN; không giải quyết được cuộc xung đột kéo dài ở
Trung Đông, Ban căng; không ngăn ngừa được Mỹ gây chiến tranh ở Irắc; vấn đề Libi)
- Từ đó đặt ra yêu cầu là phải thực hiện dân chủ hoá Liên Hợp Quốc hơn nữa để Liên Hợp
Quốc thực sự là ngôi nhà chung của các quốc gia dân tộc.
* Việt Nam với Liên Hợp Quốc:
- Việt Nam được kết nạp 1977, là thành viên thứ 149 của LHQ; đã thực hiện nghiêm chỉnh
Hiến chương và các nghị quyết của Liên hợp quốc như chống tham nhũng, chương trình an ninh
lương thực, xóa đói giảm nghèo, quyền trẻ em. Việt Nam có nhiều đóng góp tích cực vào hoạt
động của tổ chức này, nhờ đó vai trò và vị trí của Việt Nam trong Liên Hợp Quốc ngày càng nâng
cao.
- Ngày 16/7/2007, lần đầu tiên Việt Nam trở thành ủy viên không thường trực của Hội đồng
Bảo an nhiệm kỳ 2008- 2009 với số phiếu tán thành 96%. Quan hệ hợp tác giữa Liên Hợp Quốc
và Việt Nam trong nhiều năm qua là chặt chẽ, có hiệu quả và thiết thực, nhất là trong tiến trình hội
nhập quốc tế.
- Hiện nay, nhiều cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc đang hoạt động rất hiệu quả ở
Việt Nam như: Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo
dục (UNESCO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức y tế thế giới
(WHO)...Quan hệ hợp tác giữa Liên Hợp Quốc và Việt Nam rất chặt chẽ, hiệu quả và thiết thực,
nhất là trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Câu 8: So sánh và đánh giá những điểm giống và khác nhau giữa 2 trật tự thế giới
Vécxai - Oasinh tơn và trật tự hai cực Ianta
* Những điểm giống nhau:
- Cả trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn và trật tự 2 cực Ianta đều là kết quả của những
cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong lịch sử nhân loại, đều được thiết lập sau 2 cuộc đại chiến;
phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước tham chiến: phản ánh tham vọng và sức mạnh, ý chí
của các nước lớn đối với các nước bại trận.
- Đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi ích cao nhất của họ. Đều
là kết quả của những thỏa thuận, tranh luận gay gắt giữa các cường quốc qua các hội nghị quốc tế
(trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn là kết quả của hai hội nghị Vecxai và Oasinhtơn, sau
Chiến tranh thế giới thứ hai là các Hội nghị Ianta, Têhêran, Pốtxđam, Sanphranxixcô, Cai-rô…)
- Đều là sự phân chia thành quả chiến tranh của các nước thắng trận, áp đặt sự nô dịch với
các nước bại trận, thuộc địa phụ thuộc.
- Đều có các tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát và duy trì trật tự thế giới (Hội Quốc
Liên và Liên Hợp Quốc).
- Đều chỉ tồn tại có ý nghĩa tương đối trong một thời kì lịch sử nhất định, sau một thời gian
sẽ sụp đổ, không phải là bất biến; là những trật tự trong trạng thái động chứ không phải trong
trạng thái tĩnh – phản ánh sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa các lực lượng tham gia trong
trật tự đó.
- Đều không giải quyết được những mâu thuẫn, những bất hòa trong quan hệ quốc tế.
* Những điểm khác nhau:
- Về thời gian: Trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn ra đời từ những quyết định của các
hội nghị sau khi chiến tranh kết thúc, tồn tại trong 20 năm. Trật tự Véc-Oa sụp đổ khi 3 lò lửa
chiến tranh xuất hiện ở châu Á và châu Âu, các nước phát xít đã xé bỏ các điều khoản của hệ
thống Vec- Oa một cách trắng trợn. Trật tự 2 cực Ianta ra đời trên cơ sở những quyết định các hội
nghị trước và sau khi chiến tranh kết thúc, tồn tại hơn 40 năm. Do sự cân bằng lực lượng, không
bên nào đủ sức tấn công, tiêu diệt bên kia, hai bên ở thế giằng co nên trật tự chỉ sụp đổ khi một
cực là Liên Xô bị tan rã về mặt nhà nước. Tuy nhiên cả hai bên đều có mặt trong tất cả các cuộc
chiến tranh cục bộ trên thế giới, đứng sau các lực lượng tham chiến. Đó chính là nguyên nhân gây
ra cuộc Chiến tranh lạnh chứ không phải chiến tranh nóng.
- Tính chất: Trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn là một trật tự đa cực, trật tự Ianta là
trật tự hai cực. Đây là điểm khác nhau cơ bản nhất.
- Quyền lực chi phối: Trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn là một trật tự đa cực, chỉ bao
gồm các thành viên thuộc khối TBCN, vì nó phản ánh sức mạnh của các cường quốc tham gia,
trong đó Mỹ đã vươn lên đứng đầu hệ thống TBCN chưa đủ khả năng chi phối tuyệt đối như sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi đó, trật tự Ianta là trật tự hai cực với quyền lực gần như
tuyệt đối thuộc về hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. Trật tự này có điểm khác biệt cơ bản so với trật
tự thế giới trước là có sự hiện diện của cực Liên Xô – một nước XHCN. Do đó, trong trật tự này
có sự đối lập gay gắt giữa hai hệ tư tưởng đại diện cho hai hệ thống XHCN (Liên Xô) và hệ thống
TBCN (Mỹ). Mặt khác, nó có vai trò tích cực đối với phong trào cách mạng thế giới. Những điều
này không có ở trật tự Véc-Oa.
- Việc giải quyết vấn đề các nước bại trận và duy trì hòa bình sau chiến tranh cũng hoàn
toàn khác nhau. Trật tự 2 cực Ianta thể hiện sự tiến bộ và tích cực hơn hẳn so với trật tự Véc-Oa.
Việc giải quyết các vấn đề chính trị, quân sự, lãnh thổ, bồi thường chiến tranh với các nước chiến
bại trong trật tự 2 cực Ianta thỏa đáng hơn.
- Vai trò của hai tổ chức quốc tế trong hai trật tự thế giới cũng khác nhau. Biểu hiện:
+ Hội Quốc Liên là tổ chức của các nước lớn, Hội Quốc Liên khi mở rộng nhất có trên 60
nước, nó được coi là công cụ bảo vệ quyền lợi của các đế quốc thắng trận, nó kết thúc sự tồn tại
khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, trật tự Vécxai- Oasinhtơn bị phá vỡ.
+ Liên Hợp Quốc với hơn 190 thành viên, có vai trò là tổ chức đa phương toàn cầu mang
tính toàn diện và tiến bộ hơn hẳn so với Hội Quốc Liên.
Hệ thống tổ chức của Liên hợp quốc bao gồm hàng ngàn tổ chức quốc tế trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, kể cả bảo vệ môi trường…nó giải quyết tất cả các lĩnh vực liên quan đến
đời sống. Liên hợp quốc có đủ sức mạnh tài chính và năng lực thực tế giải quyết các vấn đề mang
tính toàn cầu.
Khi trật tự 2 cực Ianta sụp đổ, Liên Hợp Quốc không tan rã theo mà vẫn tiếp tục tồn tại,
hiện nay là tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế.
- Sự đối đầu: Trong trật tự Véc- Oa, có sự mâu thuẫn cao độ giữa các nước đế quốc thỏa
mãn và bất mãn, vì vậy đã dẫn đến cục diện chủ nghĩa đế quốc bị phân hóa thành 2 phe: tư bản
dân chủ và tư bản phát xít đối đầu nhau, cùng chạy đua vũ trang gây lên cuộc Chiến tranh thế giới
thứ II vô cùng tàn khốc. Còn ở trật tự 2 cực Ianta cũng đã diễn ra cuộc đối đầu gay gắt và kéo dài
hơn 40 năm giữa Liên Xô và Mỹ làm cho tình hình thế giới luôn căng thẳng nhưng chỉ dừng lại ở
hình thái chiến tranh lạnh vì cả hai bên đều nhận thức rõ Chiến tranh thế giới III sẽ là cuộc chiến
tranh hạt nhân, mang tính hủy diệt.
- Sự tan rã: Trật tự theo hệ thống Vécxai- Oasinhtơn tan rã khi Thế chiến II bùng nổ, trật tự
2 cực Ianta tan rã khi cực Liên Xô sụp đổ và thế 2 cực không còn.
- Sự sụp đổ của 2 trật tự thế giới dẫn đến những hệ quả khác nhau:
+ Trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn sụp đổ dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới
mới, còn trật tự 2 cực Ianta sụp đổ dẫn tới kết thúc thời kì chiến tranh lạnh và hình thành xu thế
mới trong quan hệ quốc tế, xu thế đối thoại, hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình, lúc này, thế giới
đang bước vào thời kì quá độ để tiến tới một trật tự thế giới mới. Trong thời kì quá độ này Mỹ
đóng vai trò chi phối với mong muốn thiết lập trật tự đơn cực. Nhưng giữa ước mong và hiện thực
với nước Mỹ còn một khoảng cách quá xa vời.
+ Tương lai của trật tự thế giới có thể sẽ là nhất siêu nhiều cường (siêu là Mỹ – siêu cường
nổi trội với sức mạnh kinh tế (GDP đạt tới 10000 tỉ USD- Liên Xô trước khi tan rã cũng chưa
bằng 1/3 Mỹ). Nhưng giai đoạn này đã xuất hiện nhiều cường quốc có địa vị kinh tế, tài chính
khổng lồ, điển hình là Nhật với GDP đạt 5000 tỉ, Đức đạt 3000 tỉ. Từ năm 2010, Trung Quốc cũng
đã gia nhập câu lạc bộ các quốc gia có tổng thu nhập quốc dân trên 1000 tỉ USD, bởi thế, xu
hướng phát triển sẽ là đa cực, nhiều trung tâm.
Câu 9: Nhận xét và lý giải những đặc điểm của 2 trật tự thế giới được hình thành trong
thế kỷ XX
- Lịch sử phát triển của xã hội loài người trong TK XX đã chứng kiến sự tồn tại và tan rã của
2 trật tự thế giới theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn (1919- 1939) và trật tự 2 cực Ianta (1945-
1991). Làm rõ những đặc điểm của các trật tự thế giới trong thế kỷ XX sẽ giúp chúng ta có một
cái nhìn đúng đắn hơn, khách quan hơn về sự ra đời của trật tự thế giới mới hiện nay. Trật tự theo
hệ thống Vecxai- Oasinhtơn và trật tự 2 cực Ianta có những đặc điểm cần lưu ý như sau:
1- Cả hệ thống Véc xai- Oasinhtơn và trật tự 2 cực Ianta đều là kết quả của những cuộc
chiến tranh thế giới đẫm máu trong lịch sử nhân loại
2- Đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi ích cao nhất của họ
3- Đều có các tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát và duy trì trật tự thế giới (Hội
Quốc Liên và Liên Hợp Quốc)
4- Đều chỉ tồn tại có ý nghĩa tương đối, trong một khoảng thời gian nhất định.
5- Đều không giải quyết được những mâu thuẫn, những bất hòa trong quan hệ quốc tế.
- Cả 2 trật tự thế giới trong thế kỷ XX đều được sinh ra từ 2 cuộc chiến tranh tàn khốc nhất
trong lịch sử loài người và đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi ích
cao nhất của họ.. Chiến tranh thế giới I vừa kết thúc, các nước thắng trận hay chính xác hơn là
những nước có vai trò quyết định đến kết cục của chiến tranh đã lập ra trật tự theo hệ thống
Vecxai- Oasinhtơn. Ở trật tự 2 cực Ianta, tình hình cũng như vậy. Chiến tranh thế giới II gần đến
hồi kết, tháng 2/1945, các nước có vai trò quyết định trong chiến tranh như Mỹ, Liên Xô, Anh đã
tổ chức Hội nghị Ianta, tạo cơ sở cho ra đời của Trật tự 2 cực Ianta. Như vậy, chiến tranh là yếu tố
đầu tiên quyết định sự xuất hiện trật tự thế giới trong thế kỉ XX.
- Ở cả 2 trật tự thế giới trong TK XX đều lập ra một tổ chức quốc tế nhằm duy trì những
nghị quyết mà các nước thắng trận đã đề ra và giám sát, duy trì trật tự thế giới: đó là Hội Quốc
Liên (trong trật tự Véc-Oa) và Liên Hợp Quốc (trong trật tự Ianta). Các tổ chức quốc tế lớn này đã
có những vai trò nhất định trong các mối quan hệ quốc tế sau chiến tranh.
- Cả 2 trật tự thế giới trong thế kỷ XX chỉ tồn tại có ý nghĩa tương đối. Nó dễ bị rạn nứt,
luôn luôn bị đe dọa phá vỡ, bị xói mòn ngay từ khi nó mới ra đời. Trật tự theo hệ thống Vecxai-
Oasinhtơn ra đời 1919 thì chỉ 10 năm sau, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933
rồi sau đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít, trật tự theo hệ thống Vecxai- Oasinhtơn đã bị rạn
nứt. Các nước Đức, Nhật, Italia không chấp nhận sự sắp đặt của Anh- Pháp- Mỹ trong quan hệ
quốc tế, đã gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đưa đến sự sụp đổ của trật tự này. Ở trật tự 2
cực Ianta, tình hình cũng tương tự. Nó ra đời trong những năm 1945 - 1947 thì đến những năm 50,
đầu 60 với sự thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản, Tây Âu
cũng khiến trật tự này bị xói mòn nghiêm trọng. Trung Quốc đầu những năm 60 không chấp nhận
Liên Xô đứng đầu hệ thống XHCN nữa, thậm chí coi Liên Xô là đế quốc xã hội. Ở phía bên kia,
Nhật Bản, Tây Âu cũng không còn chấp nhận sự chi phối tuyệt đối của Mỹ.
- Cả 2 trật tự thế giới trong thế kỷ XX đều không giải quyết được những mâu thuẫn, những
bất hòa trong quan hệ quốc tế. Mâu thuẫn giữa các nước diễn ra gay gắt. Ở trật tự theo hệ thống
Vecxai- Oasinhtơn, các nước bại trận trong Chiến tranh thế giới I (đặc biệt là Đức) bị thua thiệt
sau chiến tranh, bị mất hết thuộc địa nên những nước này luôn tìm cách phá bỏ trật tự đã được xác
lập để phân chia lại thế giới bằng vũ lực. Ở trật tự 2 cực Ianta, tình hình cũng như vậy. Quan hệ
giữa hai cực, hai hệ thống luôn trong tình trạng đối đầu, căng thẳng, khiến nguy cơ chiến tranh thế
giới có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Câu 10:
a. Nêu và phân tích nguồn gốc của mâu thuẫn Đông – Tây.
Xem tài liệu.
b. Tại sao khu vực Trung Đông luôn trong tình trạng không ổn định và xảy ra nhiều
cuộc xung đột và chiến tranh?
- Có vị trí chiến lược quan trọng, do nằm ở cửa ngõ 3 châu lục, có kênh đào Xuyê, có nguồn
dầu lửa phong phú.
- Bản thân các nước Trung Đông thường xuyên xảy ra tranh chấp, xung đột dân tộc – sắc
tộc, tôn giáo => Tạo điều kiện để các nước đế quốc nhảy vào can thiệp, khoét sâu mâu thuẫn, tạo
cớ để xâm lược,…
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Anh, Pháp thống trị vùng này. Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, Mĩ xâm nhập, hất cẳng Anh, Pháp khỏi Trung Đông. Mâu thuẫn giữa Mĩ, Anh, Pháp làm
cho tìmh hình Trung Đông luôn luôn căng thẳng, không ổn định.
- Hiện nay, do nhiều nguyên nhân (mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, sự tranh chấp giữa các nước
lớn, chủ nghĩa khủng bố), tình hình Trung Đông vẫn luôn trong tình trạng không ổn định.

Câu 11: Bằng những dẫn chứng lịch sử cụ thể.....


a. Quan hệ quốc tế từ năm 1947 đến năm 1991 là thời kì căng thẳng giữa hai phe.
- Ba sự kiện khởi đầu: Học thuyết Tru-man; Kế hoạch Mac-san; Thành lập NATO
- Liên Xô và các nước Đông Âu: Hội đồng tương trợ kinh tế; Thành lập khối Vác-sa-va
=> Hình thành cục diện hai cực, hai phe...
- Chạy đua vũ trang...
- Các cuộc chiến tranh cục bộ:...
+ Khoảng 100 cuộc chiến tranh cục bộ ở hầu hết các khu vực trên thế giới..
+ Triều Tiên…
+ Đông Dương…
+ Trung Đông…
- Cuộc khủng hoảng Ca-ri-bê
b. Liên hệ vấn đề hội nhập của VN:
- Thời cơ: Vốn, thị trường, phân công lao động quốc tế, khoa học công nghệ, kinh nghiệm
quản lí…
- Thách thức: Sức cạnh tranh yếu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, luật pháp chưa hoàn
thiện. Nguy cơ tụt hậu, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, bênh tật, tệ nạn xã hội. Nguy cơ
“diễn biến hoà bình”, đánh mất bản sắc dân tộc…

Câu 12: Vì sao Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh? Sự kiện này đã
tác động đến quan hệ quốc tế như thế nào?

a. Vì sao Liên Xô và Mĩ đã tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh?

- Cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập niên đã làm cho cả hai nước quá tốn kém
và suy giảm thế mạnh của họ trên nhiều mặt so với các cường quốc khác...
- Nhiều khó khăn thử thách to lớn đã đặt ra trước hai nước do sự vươn lên mạnh mẽ của
Nhật Bản và Tây Âu... Cạnh tranh và hợp tác kinh tế đã dần trở thành xu thế, cuộc cách mạng
KH - KT đang diễn ra mạnh mẽ.
- Liên Xô ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng
- Hai cường quốc Xô - Mĩ cần phải thoát khỏi thế đối đầu để ổn định và củng cố vị trí của
mình.
- Là kết quả tất yếu của sự tác động của xu thế hòa hoãn Đông – Tây từ đầu những năm
70.
- Tháng 12-1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải), hai nhà
lãnh đạo M. Goocbachốp và G. Busơ đã chính thức tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh

b. Tác động đến quan hệ quốc tế:

- Chiến tranh lạnh chấm dứt mở ra chiều hướng và những điều kiện để giải quyết hòa
bình các vụ tranh chấp, xung đột diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới: Afghanistan,
Campuchia, Namibia...

- Hòa bình thế giới được củng cố. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang mở ra một
tương lai tốt đẹp cho loài người...

- Các nước trên thế giới đều điều chỉnh hoặc thay đổi trong chính sách đối ngoại của mình,
trước hết là 5 nước lớn trong HĐBA: Trong chiến tranh Lạnh, dù là 5 nước lớn nhưng thực tế chỉ
có 2 cực Xô - Mĩ đối chọi nhau, Anh và Pháp căn bản gắn bó với Mĩ; Trung Quốc luôn thay đổi.
Bắt đầu từ năm 1989, quan hệ Xô – Trung được cải thiện, mối quan hệ giữa 5 nước lớn chuyển
biến từ 2 cực đối đầu sang đối thoại hợp tác cùng tồn tại hòa bình.

- Trước đây, sự đối đầu Xô – Mĩ đã dẫn đến sự hình thành 2 khối quân sự, chính trị đối lập
nhau. Chiến tranh lạnh kết thúc đã dẫn đến sự giải thể khối quân sự Vacxava, trong khi NATO vẫn
tồn tại và mở rộng về phía Đông. Liên Xô lúc này thực hiện chính sách không can thiệp vào tình
hình Đông Âu và chấm dứt mọi cam kết với các đồng minh cũ của mình (Mông Cổ, Cuba, Việt
Nam).

- Sau Chiến tranh lạnh, các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào
phát triển kinh tế, xây dựng sức mạnh thực lực của mỗi quốc gia...
- Sau Chiến tranh lạnh, trật tự thế giới “hai cực” sụp đổ, nhưng trật tự thế giới đang hình
thành theo xu hướng “đa cực” với sự vươn lên của các cường quốc lớn... Mĩ đang ra sức thiết lập
một trật tự thế giới “một cực” để làm bá chủ thế giới, nhưng điều đó là không thể...

Câu 13: Việc kết thúc CTTG thứ II đã tác động như thế nào đến quan hệ quốc tế?

- Làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước TBCN. Các nước phát xít bị tiêu diệt;
Anh và Pháp là hai nước tư bản đứng đầu trong trật tự Vecxai – Oasinhtơn bị suy yếu; Mĩ vươn
lên cầm đầu phe đế quốc.

- Các nước XHCN ra đời ở châu Âu và hệ thống XHCN được hình thành. Liên Xô vươn
lên thành cường quốc XHCN, là chỗ dựa của phong trào cách mạng thế giới và trở thành đối trọng
với Mĩ trong trật tự hai cực.

- Sự chuyển hóa mâu thuẫn giữa Mĩ và Liên Xô, từ chỗ là đồng minh trong chiến tranh
chống phát xít, chuyển sang mâu thuẫn đối đầu và hai nước đi đến tình trạng chiến tranh Lạnh, trở
thành hai cực trong trật tự thế giới mới – Trật tự hai cực Ianta.

- Chiến tranh thế giới kết thúc, làm cho các nước đế quốc (cả nước bại trận và thắng trận)
bị suy yếu, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho phong trào GPDT bùng nổ và thắng lợi, làm
sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đưa hàng trăm nước thuộc địa và phụ thuộc
từng bước trở thành các quốc gia độc lập.

Câu 14: Trình bày khái quát nội dung về quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất đến nay và nêu rõ vì sao trong khoảng bốn thập niên gần đây, quan hệ quốc tế có
xu hướng chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại?
a. Trình bày khái quát về quan hệ quốc tế...
- Giai đoạn 1919-1939:
+ Trật tự Vecxai - Oasinhtơn
+ Anh Pháp Mĩ thao túng vì quyền lợi ích kỉ của mình
+ Mâu thuẫn trong trật tư ... rạn nứt.
- Giai đoạn 1939-1945:
+ CTTG thứ II bùng nổ.
+ Liên Xô, Mĩ , Anh là 3 cường quốc trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc chiến thắng
chủ nghĩa phát xít.
- Giai đoạn 1945-1991:
+ Trật tự 2 cực hình thành.
+ 1945- đầu những năm 70 của thế kỉ 20: Đối đầu gay gắt
+ Đầu những năm 70 của thế kỉ 20 đến 1991: Đối đầu giảm dần và chuyển dần sang đối
thoại. Các nước thuộc thế giới thư ba ngày càng có vai trò quan trọng.
- Giai đoạn từ 1991 đến nay:
+ Một siêu cường (Mĩ), nhiều cường quốc (Nga, Trung Quốc, Nhật , Anh, Pháp Đức)
+ Trật tự mới đang hình thành: Mĩ muốn duy tì trật tự đơn cực, các cường quốc muốn xây
dựng trật tự đa cực.
+ Sự hình thành trật tự mới phụ thuộc các yếu tố: Thực lực các nước lớn; Sự lớn mạnh của
các lực lượng cách mạng thế giới; Cách mạng KHKT tạo nên những đột phá và chuyển biến để
hình thành cực mới...
+ Từ đối đầu chuyển hẳn sang đối thoại.
+ Hòa bình về chính trị, không có chiến tranh thế giới, nhưng vẫn có những cuộc chiến
tranh cục bộ...
b. Nguyên nhân chuyển từ đối đầu sang đối thoại:
- Đối đầu căng thẳng có nguy cơ dẫn đến chiến tranh hạt nhân.
- Kinh tế thế giới ngày càng có xu hướng quốc tế hóa.
- Cuộc sống hiện đại ngày càng có nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu cần sự hợp tác giải quyết.
- Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi...

You might also like