Professional Documents
Culture Documents
Thường gây hẹp ở vùng tiếp xúc với bóng chèn hoặc vùng tiếp xúc giữa đầu
ống và thành khí quản.
Khoảng 3 – 12% bệnh nhân hẹp khí quản có triệu chứng cần được điều trị.
Nguy cơ xảy ra biến chứng hẹp khí quản sau mở khí quản là tương đương nhau
đối với mở khí quản cổ điển và mở khí quản xuyên da.
Đầu tiên, mô hạt dần dần được hình thành ở vùng tiếp xúc với cannula, dẫn đến
việc rút cannula trở nên khó khăn hơn.
c) Chẩn đoán
Triệu chứng thường gặp nhất là khó thở, bắt đầu từ khoảng vài tuần đến vài
tháng sau khi rút cannula. Triệu chứng khó thở xảy ra khi lòng ống hẹp hơn 50%.
Bệnh nhân có biểu hiện khó thở thì hít vào, thở co kéo cơ hô hấp phụ và có thể
nghe được tiếng rít thanh quản. Tuỳ theo mức độ hẹp mà tiếng rít có thể nghe được
qua ống nghe hoặc nghe được bằng tai thường.
CT scan cổ ngực kèm dựng hình cây khí phế quản là phương tiện được sử dụng
để chẩn đoán chính xác vị trí hẹp, mức độ hẹp lòng khí quản, mức độ lan rộng của
sẹo hẹp và giúp lên kế hoạch điều trị.
d) Điều trị
Một số phương pháp điều trị thường được sử dụng trong điều trị sẹo hẹp khí
quản
Mềm sụn khí quản là sự suy yếu của thành khí quản làm giảm đường kính khí
quản trong thì thở ra.
Mềm sụn khí quản xảy ra thứ phát do viêm sụn khí quản và hoại tử sụn khí
quản.
b) Chẩn đoán
Mềm sụn thanh quản có thể xảy ra cấp tính khiến việc cai máy thở trở nên khó
khăn và có thể cai máy thở thất bại. Mềm sụn thanh quản mạn tính thường được
biểu hiện với những cơn khó thở từ từ, tăng dần ở bệnh nhân có tiền căn mở khí
quản.
Khi nghi ngờ mềm sụn khí quản, các xét nghiệm có thể hỗ trợ chẩn đoán bao
gồm:
‒ Nội soi khí quản: giảm đường kính khí quản trong thì thở ra
‒ Hô hấp kí: tắc nghẽn dòng khí trong lồng ngực
‒ Chụp cắt lớp khí quản động
c) Điều trị
Điều trị dựa trên mức độ nặng của triệu chứng. Các điều trị hiện nay gồm có
‒ Mở khí quản
‒ Đặt stent
‒ Cắt nối khí quản
Tỉ lệ khoảng 1%, trong số đó 75% xảy ra vào tuần thứ 3 hoặc thứ 4 sau mở khí
quản. Tỉ lệ tử vong gần như là 100%.
Trên lâm sàng, cần nghi ngờ biến chứng này khi bệnh nhân chảy máu lỗ mở khí
quản rỉ rả kèm với những đợt ho ra máu lượng nhiều. Khi đó, phẫu thuật thám sát
vị trí dò cần phải được thực hiện ngay lập tức.
Biến chứng này thường xảy ra do phẫu thuật viên làm tổn thương thành sau khí
quản trong kĩ thuật mở khí quản xuyên da hoặc có thể do áp lực bóng chèn lớn gây
hoại tử thiếu máu thành sau khí quản. Đặt sonde Foley kéo dài cũng là một yếu tố
nguy cơ của việc hình thành lỗ dò.
Lâm sàng