Professional Documents
Culture Documents
Vách
Lỗ khí
Nhân
Tế bào kèm
Vùng lỗ bên
Đĩa rây
Hình 7.12.Vỏ trong cây 2 lá mầm Hình 7.13.Vỏ trong cây 1 lá mầm
1. Tế bào có đai caspari, 2. tế bào hút, 3. bó gỗ, 4.bó lipe, 5. vỏ trụ
Các tế bào nằm trong vùng của vỏ tạo tầng nội bì. Trong rễ, nội bì có dạng hình
trụ gồm các tế bào chuyên hoá cao, chỉ dày một lớp tế bào, xếp xít nhau, đươc viền
bốn phía bằng chất sáp tao thành dải liên tục gọi là đai caspari bao quanh mỗi tế bào
Đối với cây Hai lá mầm, đai caspari là một khung hóa bần tại các vách xuyên tâm của
tê bào vỏ trong. Còn ở cây Một lá mầm, khung hóa bần có hình chữ U do vách tế bào
vỏ trong dày lên đáng kể ở cả 3 phía, do đó việc dẫn truyền từ ngoài vào trong không
thực hiện được. Việc thực hiện chức năng dẫn truyền các chất hút từ ngoài vào là nhờ
các tế bào hút vách mỏng nằm xen giữa các tế bào khung hóa bần. Tế bào hút thường
nằm đối diện với các bó gỗ.
Trụ giữa (trung trụ)
Trụ giữa phát sinh từ mô tiền phát sinh. Tầng ngoài cùng của tế bào tiền phát
sinh tạo nên trụ bì của rễ, trụ bì chỉ dày môt lớp tế bào nằm ngay bên trong nội bì, giữ
khả năng phân chia và tham gia trong viêc hình thành rễ bên. Do đó, rễ bên có nguồn
gốc nội sinh.
Tuỷ thường vắng mặt trong rễ cây hai lá mầm và trung tâm của trụ giữa chứa
đầy mô xilem với các mạch gỗ lớn nhất thấm nhiều lignin. Thông thường,gỗ tạo vùng
có dạng ngôi sao với mô phloem nằm giữa các nhánh gỗ mở rộng. Môt số tế bào tiền
phát sinh không phân hoá nằm giữa gỗ và lipe và trong tru bì, chúng có thể phát sinh
thành tầng phát sinh mạch, cho phép sinh trưởng thứ cấp theo kiểu tương tự trong
thân. Tế bào trụ bì thường tạo nên tầng phát sinh bần để tao lớp vỏ phủ bảo vệ trong rễ
hoá già. Rễ cây môt lá mầm thường có tuỷ nằm giữa và không trải qua sinh trưởng thứ
cấp
Gỗ Gỗ lipe
lipe Ruột
Đai caspary Đai caspary
Vỏ
Vỏngoài Vỏ
Vỏ trong Vỏ trong
Biểu bì Biểu bì
Bó mạch
Mô mềm
Tầng sinh mạch Gỗ
Hình 7.16. So sánh cấu tạo sơ cấp của thân cây 1 lá mầm với 2 lá mầm.
+ Hệ dẫn: Là các bó mạch chồng chất kín xếp lộn xộn ở trong thân. Số lượng bó
dẫn ở phía ngoài nhiều hơn nhưng có kích thước bé, còn càng đi vào bên trong số
lượng bó dẫn càng ít dần nhưng lại có kích thước lớn hơn, xung quanh mỗi bó có các
tế bào mô cứng xếp quanh. Bên trong là lipe và gỗ. Lipe cấu tạo gồm ống rây và tế
bào kèm; phần gỗ có 2 mạch điểm lớn, 1 quản bào xoắn và 1 quản bào vòng nhỏ hơn.
Các tế bào mô mêm ở xung quanh quản bào vòng sớm bị phân hủy để lại 1 khoang.
Cấu tạo thứ cấp của thân cây 2 lá mầm
Thân cây hạt trần và cây 2 lá mầm lâu năm, cứ mỗi năm một lớn lên nhờ sự hoạt
động của mô phân sinh bên. Hoạt động của mô phân sinh bên tạo nên tầng sinh bần
(tầng sinh vỏ) và tầng sinh trụ
Tầng sinh bần: Phân chia cho lớp bần ở ngoài, cấu tạo gồm những tế bào chết có
màng hóa bần. Mặt ngoài tầng bần có nhiều lỗ vỏ đảm bảo sự trao đổi khí giữa thân
cây và môi trường, còn bên trong là lớp vỏ lục, cấu tạo gồm các tế bào sống chứa lạp
lục, có màng mỏng bằng cellulose. Tập hợp các lớp này tạo thành tầng chu bì. Tầng
sinh bần cứ tiếp tục hoạt động thì sẽ tạo thành lớp chu bì mới. Tập hợp các lớp chu bì
này được gọi là lớp thụ bì. Lớp thụ bì thường bị bong ra thành mảng lớn.
Tầng sinh trụ: Trong cấu tạo sơ cấp của thân, hoạt động của tầng trước phát sinh
đã hình thành nên lipe và gỗ sơ cấp. Tuy nhiên một phần của các tế bào này vẫn giữ
trạng thái phân chia, khi kết thúc hoạt động sinh trưởng sơ cấp sẽ chuyển thành tầng
phát sinh (hay tầng sinh trụ).
Các tế bào của tầng sinh trụ có cấu trúc màng tế bào chắc chắn hơn, gồm 2 loại
tế bào: Tế bào hình thoi và tế bào hình tròn. Các tế bào hình thoi có chiều dài lớn hơn
chiều rộng hàng chục lần. Chúng phân chia theo mặt phẳng tiếp tuyến. Một trong hai
tế bào được hình thành vẫn là tế bào của tầng sinh trụ, tế bào còn lại sẽ phân hóa thành
gỗ thứ cấp hay lipe thứ cấp là tùy vị trí được hình thành, do sự phân hóa không đồng
đều mà số lượng tế bào lipe thứ cấp được tạo ra ít hơn tế bào gỗ thứ cấp. Sự sinh
trưởng sơ cấp.
Như vậy, kết qủa của sự sinh trưởng thứ cấp giúp cây tăng trưởng về bề ngang
(đường kính) của thân.
Tầng sinh trụ chỉ hoạt động trong thời kì thuận lợi cho sự dinh dưỡng. Khi tầng
sinh trụ hoạt động mạnh mẽ sẽ tạo nên yếu tố gỗ và lipe nhiều và có kích thước lớn.
Lúc tầng phát sinh hoạt động kém, các yếu tố được tạo thành bé lại. Trong thời kì
lạnh kéo dài, tầng sinh trụ hầu như không hoạt động. Do đó, trong thân có những
lớp hàng năm hay vòng hàng năm. Dựa vào vòng gỗ này có thể xác định được tuổi
cây.
Ở vùng ôn đới, có lớp gỗ sớm xuất hiện về mùa xuân và lớp gỗ muộn được hình
thành trong mùa hè. Lớp gỗ sớm dày hơn, kích thước rộng, vách mỏng, yếu tố cơ học
ít phát triển. Lớp gỗ muộn thì ngược lai.
Ở vùng nhiệt đới ẩm, không có mùa lạnh thì tầng sinh trụ hoạt động liên tục,
không có thời kì nghỉ, do đó vòng hàng năm thường không rõ.
Dác và ròng
Ở các cây gỗ ít tuổi thì gỗ thứ cấp có màu nhạt đều. Ở cây gỗ trưởng thành, gỗ
thường chia làm 2 phần: phần ngoài có màu nhạt gọi là gỗ dác, gỗ dác có chức năng
chủ yếu là vận chuyển nước và khoáng. Còn phần trong có màu xẫm, là gỗ ròng, có
chức năng chủ yếu là nâng đỡ
Lipe thứ cấp Lipe sơ cấp Bần
Vỏ
Mô mềm ruột
Mô cứng
Tấng sinh mạch
lipe Mô cứng
Gỗ Biểu bì
Gỗ sơ cấp
Gỗ thứ cấpTầng sinh bần
Cấu tạo sơ cấp
Cấu tạo thứ cấp
Hình7.17. So sánh cấu tạo sơ cấp và cấu tạo thứ cấp ở thân cây 2 lá mầm
c. Chức năng của thân
Thân có 3 chức năng quan trọng nhất: Nâng đỡ, dẫn truyền và sinh trưởng, ngoài
ra thân còn có các chức năng khác như sinh sản sinh dưỡng, dự trữ các chất, quang
hợp, hô hấp.
+ Chức năng nâng đỡ: chức năng nâng đỡ do một hoặc nhiều tế bào khác nhau
đảm nhận. Các tế bào sống của biểu bì, vỏ và tuỷ đều hấp thụ nước nhờ quá trình thẩm
thấu. Kết quả là xuất hiện áp suất thuỷ tĩnh bên trong tế bào gọi là áp suất trương đẩy
thể nguyên sinh hướng ra, ép vào vách tế bào. Tế bào trương lên vững chắc nên chịu
được sự uốn cong. Nếu tế bào mất nước, chúng mềm ra và làm cho thân bị héo rũ
xuống như ở cây thân thảo.
Các tế bào mô dày, mô cứng và các tế bào bị lignin hoá mạnh của mô xilem cũng
có chức năng trong nâng đỡ. Ở phần lớn cây sống trên cạn thì nhân tố bất lợi cơ học
chủ yếu đối với cây là gió, khiến cho thân phải có khả năng chịu được sự uốn cong để
giữ dáng đứng thẳng. Có thể hình dung vai trò của các bó mạch xilem trong thân như
là que thép cứng không thể giãn ra, tạo kết cấu bền chắc trong bê tông cốt sắt. Cách
sắp xếp thành vòng của bó mạch trong thân làm tăng đáng kể sức chịu đựng đối với
gió mạnh. Trong thân một số loại cay có thêm bằng sợi mô cứng tạo mũ bao bó mạch.
+ Chức năng dẫn truyền: Yếu tố ống rây và tế bào kèm của phloem, quản bào và
yếu tố mạch của xilem là chuyên hoá cho quá trình dẫn truyền các chất trong thân,
ngoài ra các chất còn được vận chuyển trong thân nhờ hiện tượng thẩm thấu và
khuếch tán.
+ Chức năng sinh trưởng: Cây cao lên là nhờ hoạt động của mô phân sinh đỉnh
chồi, còn sự tăng lên về đường kính của cây là nhờ hoạt động của mô phân sinh bên.
Ngoài các chức năng cơ bản trên, một số thân bị biến thái và chuyên hoá để thực
hiện các nhiệm vụ khác nhưquang hợp, dự trữ các chất, sinh sản sinh dưỡng, bảo vệ.
+ Chức năng dự trữ các chất: Đó là một số biến dạng của thân, như thân củ, thân
rễ có chức năng dự trữ chất dinh dưỡng.
+ Chức năng quang hợp: Thân cây còn non và một số cây có màu xanh, có khả
năng thực hiện quang hợp tổng hợp chất sống cho cây. Ví dụ như thân cây xương rồng
vừa có chức năng dự trữ nước, đồng thời thực hiện chức năng quang hợp.
+ Chức năng sinh sản sinh dưỡng
7.2.3. Lá
Lá là cơ quan sinh dưỡng của cây, đảm nhận chức năng chính là quang hợp tổng
hợp chất sông cho cây, ngoài ra lá còn thực hiện các chức năng khác như hô hấp, trao
đổi khí, sinh sản sinh dưỡng.
a. Hình thái của lá
a.1. Các bộ phận chính của lá
- Phiến lá:Là bản mỏng, thường có màu xanh do chứa diệp lục. Phiến lá phân
thành 2 mặt:
+ Mặt bụng (mặt trên): Tập trung mô đồng hóa chứa nhiều diệp lục.
+ Mặt lưng (mặt dưới): Tập trung mô vận chuyển chứa ít diệp lục hơn.
Trên phiến lá có các gân nổi lên, tương ứng với các bó dẫn
+ Gân song song hay gần hình cung: Đặc trưng cho cây một lá mầm.
+ Gân hình mạng (mạng lông chim và mạng chân vịt): đặc trưng cho cây hai lá
mầm.
- Cuốnglá: Là phần nối lá vào thân hoặc cành, có tiết diện tròn, mặt trên thường
dẹp và có một rãnh dọc.
- Bẹ lá: Một phần gốc cuống lá phình to thành bẹ ôm lấy mấu thân hoặc cành
(Phổ biến ở cây 1 lá mầm). Đôi khi bẹ này rất lớn ôm lấy 1 phần thân như ở cây cau,
dừa; thậm chí nhiều loài bẹ lá phát triển, ôm lấy nhau tạo thành thân giả như ở cây
chuối, dong, riềng.
- Lá kèm: mọc ở gốc cuống lá, là những vảy nhỏ, hình tam giác hay hình sợi. Lá
kèm của một số loài làm nhiệm vụ che chở cho chồi non, nên chúng sớm rụng đi khi
chồi được lộ ra ngoài để lại các vết sẹo như ở các cây trong họ dâu tằm (mít, dâu tằm).
Nhiều loài lá kém đính ngay vào gốc cuống lá (cây hoa hồng), hay có thể biến thành gai
(cây xương rắn). Lưỡi lá là một trong những tiêu chí để phân loại thực vật.
- Lưỡi nhỏ: là bộ phận nhỏ, mỏng nằm giữa phiến lá và bẹ lá có tác dụng làm cho lá
ngả ra để tiếp nhận được nhiều ánh sáng, đồng thời hạn chế sự xâm nhập của nước, sâu
bọ vào phần non của thân. Bộ phận này gặp nhiều ở các cây họ Lúa, họ Gừng.
- Bẹ chìa: Là một màng mỏng ôm lấy thân ở chỗ cuống lá đính vào thân. Bộ
phận này gặp ở các loài cây thuộc họ rau răm.
a.2. Các dạng lá
Tùy theo sự phân chia của cuống lá hay không, lá được phân thành lá đơn và lá
kép.
- Lá đơn: Cuống lá không phân nhánh, cuống lá chỉ mang một phiến lá, khi rụng
thì cả cuống và phiến cùng rụng một lúc.
Dựa vào hình dạng của phiến lá, lá đơn được chia thành:
+ Lá đơn nguyên: Phiến lá nguyên hòa toàn, không bị chia cắt, mép lá có thể
phẳng (lá xoài, ổi…) hoặc có răng cưa (lá chè).
+ Lá đơn có thùy: Phiến lá bị cắt thành nhiều thùy, nhưng chỗ cắt không vào quá
½ chiều rộng của nửa phiến lá.
+ Lá đơn chia thùy: Phiến lá bị cắt sâu vào quá ½ của nửa phiến lá.
+ Lá đơn xẻ thùy: Phiến lá bị cắt rất sâu, vào gần hết chiều rộng của nửa phiến
lá, có khi đến tận gân chính, khiến cho các thùy hầu như tách rời khỏi nhau. Ví dụ như
lá sắn, ngải cứu.
- Lá kép: Cuống lá phân thành rất nhiều nhánh, nên phiến lá cũng chia thành
nhiều thùy riêng biệt. Mỗi thùy có hình dạng giống như một lá thật, được gọi là lá
chét. Tất cả các lá này đều đính trên một cuống chung.
Lá kép phân biệt với lá đơn ở đặc điểm, khi rụng thì phiến lá rụng trước, còn
cuống lá chính rụng sau. Tùy theo sự sắp xếp của các lá chét, phân biệt 2 loại lá:
+ Lá kép lông chim: Các lá chét xếp thành 2 dãy ở 2 bên cuống chính, nếu tổng
số các lá chét trong lá kép là một số lẻ thì được gọi là lá kép lông chim lẻ và ngược lại,
nếu tổng số lá chét trong lá kép là số chẵn thì được gọi là lá kép lông chim chẵn.
+ Lá kép chân vịt: Đầu ngọn cuống chính phân chia thành nhiều cuống nhỏ, các
cuống nhỏ mang các lá chét. Ví dụ lá các cây họ nhân sâm như Ngũ gia bì chân chim.
a.3. Các dạng biến đổi của lá
Để thích nghi với các điều kiện môi trường sống khác nhau,lá có một số biến
dạng:
+ Vảy: thường là những lá ở dưới đất, có chức năng bảo vệ thân. Gặp ở các thân
rế, thân củ của dong, riềng. Trong một số trường hợp các loài cây sống trong điều kiện
nắng nóng thì là biến thành những vảy nhỏ nhằm hạn chế sự thoat hơi nước như ở lá
phi lao. Lá ở đây không thực hiện chức năng quang hợp.
+ Gai: Ở nhiều cây, lá biến đổi thành gai để bảo vệ tránh sự xâm hại của các
động vật hoặc hạn chế sự thoát hơi nước thích nghi với điều kiện khô hạn, ví dụ như ở
cây xương rồng hoặc ở cây xương rắn.
+ Tua cuốn: Tua cuốn có thể do một phần của phiến lá biến đổi thành, ví dụ ở
cây đậu hà lan, phần ngọn của lá kép biến dổi tạo thành tua cuốn.
+ Lá bắt mồi: Một số lá cây có lá biến đổi hình dạng thành cơ quan chuyên hóa,
dùng để bắt sâu bọ nhỏ. Những loại cây có lá này thường là những loại cây sống trong
môi trường thiếu chất dinh dưỡng như vùng đất khô, chua mặn, đầm lầy… Ví dụ gặp
ở lá vây bắt ruồi, lá cây nắp ấm.
a.4. cách mọc của lá
Lá mọc trên thân và cành theo những kiểu sau đây:
+ Mọc cách: Mỗi mấu lá chỉ mang 1 lá. Hai mấu liền nhau không bao giờ cùng
nằm trên một dãy dọc. Mà thường cách nhau vài gióng. Khoảng cách giữa hai lá trên
cùng một dãy gọi là một chu kì. Nếu ta nối các mẫu lá lại với nhau thì sẽ được một
đường xoắn khá đều.
- Mặt trên và mặt dưới đều có giới hạn bởi hai lớp biểu bì, bên trong là các tế
bào mô giậu, mô xốp và hệ thống dẫn.
+ Biểu bì trên: vách tế bào biểu bì có tầng cutin dày có tác dụng bảo vệ lá tránh
lại các tác động cơ học và sự đốt nóng ánh sáng mặt trời. Trên lá không có hoặc có ít
lỗ khí, do đó giảm sự thoát hơi nước.
+ Biểu bì dưới: tầng cutin ở biểu bì dưới mỏng hơn so với biểu bì trên, có nhiều
lỗ khí hơn. Số lượng lỗ khí trên 1 mm 2 thay đổi tùy loài và tùy điều kiện môi trường
sống.
+ Mô giậu (Hình 7.20): nằm tiếp giáp với biểu bì trên, gồm 1 đến nhiều lớp tế
bào hình chữ nhật dài, xếp sát nhau chừa các khoảng gian bào rất nhỏ, các tế bào chứa
nhiều lục lạp thích nghi với quá trình quang hợp.
+ Mô xốp (mô khuyết): nằm dưới mô giậu và tiếp với biểu bì dưới, gồm các tế
bào đa giác cạnh tròn, không đều, sắp xếp rời rạc tạo nên nhiều khoảng trống chứa
khí, thực hiện chức năng trao đổi khí giữa cây với môi trường. Ngoài ra, trong phần
thịt lá, giữa các tế bào mô giậu và mô xốp còn có các tế bào thực hiện chức năng thâu
góp các sản phẩm quang hợp rồi chuyển vào lipe của gân lá, đó là các tế bào thâu
góp.
+ Các bó dẫn: các bó dẫn của lá nằm trong khối mô đồng hóa, chỗ tiếp giáp giữa
mô giậu và mô xốp làm thành hệ gân lá. Gân lá gồm có gân chính ở giữa và các gân
con, thực hiện chức năng dẫn truyền. Xung quanh các bó dẫn có các tế bào thâu góp,
ngoài ra xung quanh bó dẫn còn có vòng mô cơ (mô dày hoặc mô cứng), do đó gân lá
còn có chức năng nâng đỡ.
Ở lá (cuống và phiến) đều không có tầng phát sinh, đó là lối cấu tạo sơ cấp, vì
vậy lá sinh trưởng có hạn.
c. Chức năng cuả lá
+ Chức năng quang hợp: Các tế bào mô giậu của lá có chứa diệp lục, do đó lá
thực hiện chức năng quang hợp tổng hợp chất sống.
+ Lá thực hiện chức năng bảo vệ, tránh tác động của động vật ăn cỏ, lá tồn tại
nhiều cơ chế mà hiệu quả nhất là tạo ra các hợp chất độc, có mùi khó chịu không tiêu
hoá được. Lá anh đào hoang dại và nhiều họ hàng của nó thường tích luỹ một lượng
lớn xyanua có thể gây chết với động vật ăn cỏ. Xyanua được hình thành trong lá theo
quá trình gọi là sự phát sinh xyanua. Khi các hợp chất glycozit sinh ra xyanua bị phân
giải do hoạt động của enzyme thì tạo ra axit hidroxianic rất độc và đường đơn. Tanin
trong lá sồi cũng có chức năng tương tự để ngăn cản côn trùng phá hoại. Sự có mặt
của gai và lông gai ở cây nhựa ruồi cũng có tác dụng bảo vệ hiệu quả.
+ Chức năng bắt bẫy thức ăn: Để bẫy thức ăn biến thái đặc trưng của lá là biến
thành cơ quan hấp thụ thức ăn. Cây sống ở môi trường nghèo chất dinh dưỡng, do đó
chúng thường bẫy côn trùng và một số động vật không xương sống nhỏ khác để làm
thức ăn. Thí dụ, cây mao cao, cây bắt ruồi, cây nắp ấm và rong đuôi chó biến thái
thành dạng cái bẫy để bắt con mồi. Rong đuôi chó là loài thực vật thuỷ sinh có lá biến
thái thình cái túi nhỏ, một đầu có nắp. Áp suất của nước bên trong túi thường nhỏ hơn
áp suất bên ngoài và khi con mồi đụng phải lông khởi động trên nắp thì lập tức bị hút
vào và các phía của túi xa nhau ra để đẩy nước vào và giữ con mồi ở lại. Lúc này, cái
bẫy đóng lại và cơ thể con mồi bị phân giải từ từ, rồi chất dinh dưỡng và nước được
cây hấp thụ và bẫy trở lại trạng thái hoạt động bắt mồi như đã diễn ra.
+ Chức năng sinh sản sinh dưỡng: Nhiều lá của các loại cây, khi rụng xuống có
thể phát triển thành cây mới. Ví dụ lá cây thuốc bỏng
+ Chức năng nâng đỡ cơ thể: Biến thái của lá chét ở cây đậu tạo thành tua cuốn
cuốn quanh vật tiếp xúc do đó nó có khả năng nâng đỡ cây
7.3. Vận chuyển vật chất ở cơ thể thực vật.
Để sinh trưởng cây cần nước, các ion khoáng, khí carbonic và oxi. Cây hấp thụ
chất khoáng và ion khoáng từ đất thông qua hệ rễ và từ rễ chúng được dẫn truyền đến
thân, lá và các bộ phận khác thông qua hệ xilem. Quá trình thoát hơi nước thông qua
lỗ khí với tế bào bảo vệ, giúp cây tiến hành thu nhận khí carbonic thực hiện quá trình
quang hợp và khí Oxi cho quá trình hô hấp. Đồng thời quá trình tạo thành các hợp
chất hữu cơ như đường cũng được dẫn truyền đến thân và rễ qua hệ dẫn phloem.
a. Sự hấp thụ và dẫn truyền nước và các ion khoáng
Nước được hút từ đất vào rễ, qua than, cành, lên lá rồi thoát ra khí quyển qua
hiện tượng thoát hơi nước. Như vậy, có thể chia quá trình vận chuyển nước này thành
3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ đất vào hệ mạch của rễ
Giai đoạn 2: từ rễ đến hệ mạch dẫn của thân, lên lá
Giai đoạn 3: Từ gấn lá đến tế bào thịt lá, gian bào rồi ra ngoài không khí
a.1. Sự hấp thụ nước và khoáng ở rễ
Vùng trưởng thành hay vùng phân hóa của rễ là nơi phát sinh nhiều lông hút là
vùng hấp thụ nước và các ion khoáng chủ yếu của cây. Nước và các ion khoáng được
dẫn truyền trong mạch xilem từ rễ lên thân, lá..
Để thực hiện vai trò hút nước và các ion khoáng cây có một hệ rễ phát triển, ăn
sâu và lan rộng
- Sự hấp thụ nước ở rễ
Nước được vận chuyển từ đất vào bề mặt của rễ qua:
+ Nhờ hiện tượng thẩm thấu (nghĩa là nó được vận chuyển từ nơi có thế nước
cao (trong đất) đến nơi có thế nước thấp (tế bào lông hút của rễ). Thường thì trong đất,
thế năng nước của rễ thấp hơn thế năng nước của đất (do từ rễ nước được vận chuyển
lên các phần khác của cây để thực hiện quá trình trao đổi chất và do quá trình thoát
hơi nước của lá).
+ Nhờ hiện tượng khuếch tán: Khi có sự chênh lệch về nồng độ các chất hòa tan
trong tế bào rễ và dung dịch đất thì nước sẽ được hấp thụ vào rễ nhờ quá trình khuếch
tán, nghĩa là nước sẽ được vận chuyển từ nơi có nồng độ chất tan thấp đến nơi có
nồng độ chất tan cao hơn. Trong trường hợp này nước sẽ vào cây một cách thụ động.
+ Qua các kênh Protein: Trên màng sinh chất cũng có kênh là các protein có
chức năng vận chuyển nước qua màng. Do đó màng tế bào có tính thấm chọn lọc, chỉ
cho phép nước đi qua gọi là kênh chọn nước hay kênh đặc hiệu nước mang tên
aquaporin. Aquaporin không cho các ion hay các sản phẩm trao đổi chất qua màng.
- Sự hấp thu khoáng ở rễ
Các ion khoáng xâm nhập vào tế bào rễ cây theo hai cơ chế: Thụ động và chủ
động:
+ Cơ chế thụ động: Các ion khoáng được vận chuyển từ nơi có nồng độ ion
khoáng cao (trong đất) đến nơi có nồng độ ion khoáng thấp hơn (tế bào rễ).Cơ chế này
không có tính chọn lọc, không phụ thuộc vào hoạt động sinh lý của cây.
+ Cơ chế chủ động: Không phải lúc nào trong đất nồng độ các ion cần thiết cho
hoạt động sinh trưởng của cây cũng cao hơn nồng độ các ion khoáng trong rễ. Trên
thực tế rất nhiều các ion khoáng cần thiết cho hoạt động sinh trưởng của cây lại có
nồng độ thấp hơn ở ngoài môi trường đất. Do đó, các chất này không thể vận chuyển
từ đất vào rễ nhờ cơ chế thụ động mà chúng xâm nhập vào rễ theo cơ chế chủ động,
đòi hỏi cần cung cấp năng lượng.
Con đường vận chuyển nước và ion khoáng ở rễ
Toàn bộ phần sống của tế bào thực vật được gọi là symplasm còn phần không
sống là apoplasm. Phần symplasm được nối với nhau từ tế bào này sang tế bào khác
nhờ các sợi liên bào.
Đường vận chuyển từ tế bào này sang tế bào khác qua phần sống của tế bào qua
các sợi liên bào gọi là con đường symplastic, còn đường vận chuyển qua thành tế bào
và các khoảng gian bào gọi là đường vận chuyển apoplastic.
Như vậy, ở rễ nước có thể được hấp thụ nhờ hai con đường chính.
+ Con đường gian bào (Apoplastic): Thông qua vách tế bào và các khoảng gian
bào, nước có thể từ đất qua biểu bì, đến các tầng của vỏ rồi đến tầng nội bì. Đó là con
đường apoplast. Nhưng do vách tế bào nội bì có đai caspary nên con đường này bị
chặn lại. Tất nhiên để đến hệ mạch của hệ rễ, nước phải đi qua màng sinh chất của nội
bì. Như vậy con đường này là hệ liên tục gồm vách tê bào và các khoảng gian bào
trong các mô của thực vật. Động lực cho con đường hấp thụ này là gradien nồng độ
khuêch tán từ thế năng nước cao đến thế năng nước thấp.
+ Con đường tế bào chất (Symplastic): Nước cũng có thể được hấp thụ thông
qua con đường tế bào mà gồm hai con đường thành phần. Thành phần thứ nhất là con
đường màng tế bào ở đó nước đi qua con đường màng sinh chất từ tế bào lông hút
đến tế bào vỏ, qua nội bì đến hệ mạch dẫn của vỏ. Động lực cho con đường này là
gradien thế nước do nước thẩm thấu qua màng giữa tế bào lông hút với dung dịch đất
và giữa các tầng tế bào tiếp theo. Do thế nước của tế bào chất trong tế bào lông hút rễ
thường âm hơn nhiều so với thế nước của dung dịch đất nên xuất hiện một gradien thế
nước và nước được hấp thụ nhờ thẩm thấu từ thế nước cao –âm ít hơn trong dung dịch
đất đến thế nước thấp – âm nhiều hơn trong lông hút rễ. Trong thành phần thứ hai của
con đường tế bào, nước đi qua cầu sinh chất hay sợi liên bào nối tế bào với nhau mà
không đi qua màng sinh chất.
a.2. Quá trình vận chuyển nước và các ion khoáng trong cây
Mỗi khi nước và ion khoáng thâm nhập vào mạch xilem thì được vận chuyển
hướng lên một chiều bị động do hệ xilem đảm nhận. Xilem gồm hai loại yếu tố dẫn
truyền là mạch và quản bào. Chúng là loại tế bào không sống lúc trưởng thành, có
vách hoá lignin. Yếu tố xilem có vai trò chủ yếu, là yếu tố rỗng liên tục từ rễ lên lá, có
khả năng dẫn truyền vật chất trên các khoảng cách dài đền mọi bộ phận khí sinh của
cây, đặc biệt là cây gỗ cao.
Đông lực của quá trình vận chuyển nước trong cây: Áp suất rễ, thoát hơi nước ở
lá, lực liên kết giữa các phân tử nước, quá trình trao đổi chất của cây, lực dính bám
của phân tử nước với thành tế bào của mạch gỗ. Trong các động lực đó thì thoát hơi
nước ở lá là động lực chính của quá trình vận chuyển nước
Áp suất rễ
Rễ thường hấp thụ chủ động các ion khoáng tạo nồng độ chất tan cao, làm giảm
thế năng của nước ở rễ, nên nước được hấp thụ vào, từ đó làm phát sinh áp suất rễ. Áp
suất có xu hướng đầy dịch xilem hướng lên. Có thể xác định áp xuất rễ theo mô hình
sau đây. Nếu ta cắt phần thân cây trên mặt đất và gắn vào đầu bị cắt một ống mao
quản có đường kính hẹp thì dịch xilem dâng lên trong ống và trong điều kiện tự nhiên
dịch mang đến lá. Trong khi đó về đêm, đặc biệt là sáng sớm đầu xuân với ẩm độ
không khí cao, thoát hơi nước hầu như không xảy ra, dịch xilem bị đẩy tới hệ gân lá,
đẩy ra các mép có lỗ thoát nước làm ứa ra các giọt nước nhỏ, hợp thành giọt lớn rơi
xuống đất gọi là hiện tượng ứa giọt. Ban ngày, khi xảy ra quá trình thoát hơi nước thì
mất đi hiện tương này.
Thoát hơi nước
Thoát hơi nước là quá trình hơi nước rời khỏi cây chủ yếu thông qua lỗ khí trên
bề mặt lá đi vào khí quyển. Nói gọn hơn, đó là sự mất nước từ lá và các bộ phận khí
sinh khác của cây.
Vào ngày nắng nóng, cây gỗ lớn hấp thụ từ đất hàng trăm lit nước, nhưng chỉ
dùng cho quang hợp khoảng 1%, còn chủ yếu là mất đi do thoát hơi nước. Dòng nước
và các chất dinh dưỡng hoà tan hướng lên trong các tế bào dẫn truyền của xilem đựơc
gọi là dòng thoát hơi nước. Động lực kéo dòng thoát hơi nước hướng lên là lực kéo.
Lực kéo là hoàn toàn bị động, nghĩa là thoát hơi nước không cần ATP và không chịu
tác động của các chất ức chế trao đổi chất. Chính sự thoát hơi nước là nguồn của lực
kéo.
Vị trí bay hơi nước là mặt phân giới giữa tế bào thịt lá và các khoảng không gian
bào dưới lỗ khí. Ban ngày trong điều kiện bình thường, ở mặt phân giới này thường
tồn tại một gradien nồng độ hơi nước giữa bề mặt tế bào là rất ẩm ướt với không khí
bên ngoài có ẩm độ tương đối khá thấp. Đó chính là lực phát động hay động lực cho
sự mất nước từ lá vào khí quyển. Khi nước bay hơi tới bề mặt tế bào thịt lá làm cho tế
bào này trở nên ít trương hơn. Sự mất độ trương này dẫn đến sự hình thành một
gradien thẩm thấu, khiến cho phân tử nước đi ra khỏi mạch xilem vào tế bào thịt lá.
Việc nước bay hơi khỏi tế bào này làm cho thế nước của tế bào trở nên âm hơn so với
mạch xilem, dẫn đến một gradien thế nước mạnh và áp suất hút cao làm cho cột nước
nước trong các mạch xilem có sức căng lớn. Do đó, thóat hơi nước tạo ra một sức
căng lớn được truyền xuống thân đến rễ mà có thể kéo cột nước hướng lên lá cây dọc
theo dòng thoát hơi nước.
Như đã đề cập ở trên, thoát hơi nước qua lỗ khí chiếm hơn 90% lượng nước do
rễ hấp thụ. Trong khi thoát hơi nước qua tầng sáp cutin ở biểu bì trên, biểu bì dưới và
toàn bộ bề mặt cơ thể ở những vị trí khác chỉ chiếm 5%. Khi xảy ra tình trạng thiếu
nước thì các lỗ khí đóng lại, lúc này cây sẽ mất ít nước, tuy nhiên khi lỗ khí đóng lại
CO2 không thể thâm nhập vào lá qua lỗ khí, và cây không thể tiến hành quang hợp,
điều này cho thấy quang hợp đòi hỏi sự cung cấp nước đầy đủ để lỗ khí mới có thể mở
ra cho phép CO2 thâm nhập vào.
Cơ chể đóng mở lỗ khí:
Mỗi lỗ khí có hai tế bào bảo vệ, có chức năng điều chỉnh sự đóng mở lỗ khí. Tế
bào bảo vệ có dạng như hạt đậu hay quả thận, các tế bào có độ dày vách tế bào khác
nhau, trong đó vách lưng thường mỏng, còn vách bụng gần lỗ khí thường dày. Khi
nước xâm nhập vào tế bào hạt đậu, làm cho tế bào trương lên lúc này do vách lưng
mỏng hơn nên bắt đầu kéo căng ra, kéo vách bụng uốn cong xuống làm cho lỗ khí mở
ra. Ngược lại khi mất nước thì tế bào hạt đậu mất trương không còn uốn cong nữa nên
lỗ khí đóng lại.
Nhân tố tham gia sự hấp thụ và mất nước ở tế bào bảo vệ
Quan niệm đầu tiên cho rằng do tế bào bảo vệ có lục lạp nên khi quang hợp xảy
ra thì đường được tích luỹ trong tế bào, làm tăng nồng độ chất tan, nước thấm vào làm
tăng độ trương và lỗ khí mở ra
Như vậy, nếu nước có sẵn lỗ khí có khuynh hướng mở ra và cây tiến hành quang
hợp, còn khi bị thiếu nước thì lỗ khí đóng lại. Ở các cây sa mạc thì lỗ khí mở vào ban
đêm và đóng ban ngày thích nghi với điều kiện hạn hán.
Lực liên kết giữa các phân tử nước
Bản thân phân tử nước có tính phân cực cao nên chúng hút nhau. Đó là sự cố kết
tạo nên lực cố kết đủ mạnh để kéo nước hướng lên những khoảng cách lớn mà cột
nước không bị đứt.
Lực dính bám của phân tử nước với thành tế bào của mạch gỗ
Phân tử nước bị hút vào các phía bề mặt vách của mạch xilem làm phát sinh lực
dính bám để nâng đỡ cột nước cao hơn. Như vậy, điều cần thiết là các mạch xilem của
cây cấu thành một loạt các ống liên tục mà mỗi ống nâng một cột nước xuất phát từ rễ
lên đến các gân lá.
b. Sự vận chuyển các chất hữu cơ
Các chất hữu cơ là sản phẩm quang hợp và các qúa trình sinh tổng hợp khác
trong lá cây tạo ra được vận chuyển thông qua phloem đến các bộ phận khác của cây.
Thông qua dẫn truyền phloem, các hidrocarbon được dẫn truyền đến các bộ phận khác
của cây, lúc này các hidrocarbon thường tồn tại dưới dạng tinh bột ở củ và cũng biến
đổi thành các phân tử dẫn truyền như saccharose.
Áp suất thuỷ tĩnh do quá trình thẩm thấu gây ra là động lực cho dòng khối các
chất được dẫn truyền trong phloem. Đầu tiên, quang hợp tạo ra saccharose được mang
chủ động đến ống dẫn truyền phloem của gân nhánh, làm giảm thế nước của các ống
rây và nước thẩm thấu vào đó. Vùng saccharose được tạo ra gọi là vùng source, còn
vùng mà saccharose bị lấy đi khỏi ống rây gọi là sink (vùng tiêu thụ và vùng dự trữ
như tế bào rễ, củ, quả đang sinh trưởng thân và các vùng khác). Ở đây nước của ống
rây tăng lên khi saccharose bị bài xuất. Kết quả là nước vận động trong ống rây từ
vùng mà saccharose được hấp thụ vào đến vùng mà nó bị rút đi và nó bị dẫn truyền bị
động với nước thành một khối nên gọi là dòng khối.
Do áp suất thuỷ tĩnh xuất hiện trong ống rây khi tế bào bơm chủ động chất hữu
cơ vào làm nước thẩm thấu bị động tạo một áp suất nên còn gọi nó là dòng áp suất.
Saccharose và nước thâm nhập vào tế bào ống rây ở source. Tế bào ống rây tạo thành
một hệ thống dẫn truyền liên tục từ source đến sink, ở đây saccharose và nước rời khỏi
tế bào ống rây.
Sự dẫn truyền nước, saccharose và các chất khoáng thômg qua ống rây không
cần năng lượng, nhưng quá trình háp thụ và bài xuất vào và ra khỏi ống rây cần sử
dụng năng lượng. Tế bào kèm hoặc tế bào mô mềm khác có mặt trong hệ phloem cung
cấp năng lượng ATP cho quá trình dẫn truyền này. ATP qua sinh chất vào tế bào ống
rây, các tế bào rây và yếu tố ống rây ở trạng thái trưởng thành thiếu nhân và không
tham gia trực tiếp trong quá trình cung cấp năng lượng này.
Rõ ràng sự sản xuất đường trong các vùng của cây và việc sử dụng đường trong
các vùng khác có thể khiến cho dòng khối dẫn truyền các chất tan thông qua phloem
diễn ra với tốc độ nhanh. Như vậy, nước vận động qua phloem là nhờ thế nước giảm
trong vùng quang hợp mạnh mẽ mà ở đó saccharose được tải nạp chủ động vào ống
rây và thế năng tăng lên trong vùng mà saccharose bị lấy đi, năng lượng cho việc tải
nạp và bài xuất chủ động saccharose và các phân tử khác được tế bào kèm và tế bào
mô mềm khác cung cấp. Song sự dẫn truyền hay vận động của nước và các chất dinh
dưỡng hoà tan bên trong các ống rây là quá trình bị động và do đó không cần tiêu
dùng năng lượng.