You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Điểm Nhận xét và chữ ký của giảng viên

TÊN ĐỀ TÀI:
‘’Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam’’

Giảng viên hướng dẫn: Ts Lê Tiến Dũng


Họ tên sinh viên MSSV
Lê Thị Trâm 20180565
Ngô Thị Thanh Thủy 20180560
Nguyễn Phương Thanh 20183155
Mã lớp học: 116982
Học kỳ: 20192 Năm học: 2019-2020

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài.


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng
Việt Nam. Kể từ đây cách mạng nước ta có đường lối lãnh đạo đúng đắn, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng
nước ta. Đảng là kết quả của sự phát triển phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam.
Đảng ta đã lãnh đạo đất nước thực hiện hai chiến lược cách mạng: xây dựng chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975, kết thúc 30 năm
chiến tranh giải phóng, thu giang sơn về một mối.
Đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế
nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Những thành công mà Đảng ta đã đạt được ngày hôm nay có sự đóng góp rất lớn
của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Người đã chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và
tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn và truyền bá khuynh hướng vô sản cho tầng lớp thanh niên yêu nước Việt Nam.
Và cũng chính Người đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản để thành lập ra Đảng Cộng s ản
Việt Nam như hôm nay.
Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội có rất nhiều người đều biết được chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì cuộc họp Hợp nhất ba đảng thành một đảng thống nhất là Đảng Cộng Sản
Việt Nam, biết được bước chuyển mình to lớn của Việt Nam kể từ khi có Đảng nhưng lại
không biết được quá trình chuẩn bị đầy khó khăn, gian khổ và thiếu thốn của Bác để
thành lập Đảng. Ngay cả chúng em – những sinh viên được hưởng nền giáo dục tiên tiến,
hiện đại cũng không hoàn toàn nắm rõ được quá trình đó. Do vậy, chúng em chọn đề tài
“Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN’’ làm đề tài tiểu luận
của mình để có thể hiểu rõ được quá trình đó.

2
2.Tình hình nghiên cứu.
Hiện nay, đã và đang có khá nhiều công trình nghiên cứu về quá trình chuẩn bị
những điều kiện để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đây
là một chủ đề lớn từng được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong
đó phải kể đến công trình nghiên cứu của TS.Phạm Ngọc Trâm với công trình nghiên cứu
“Con đường cứu nước Hồ Chí Minh” về hành trình gian lao vượt qua bao chông gai gian
khó của hơn 30 năm lặn lội, xuôi ngược từ khắp nơi trên thế giới để tìm con đường giải
phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang; một con đường cứu nước
độc đáo, giàu tính sáng tạo, chưa có tiền lệ trong lịch sử dân tộc.
Tiếp đến là biên bản của hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh- hành trình tìm
đường cứu nước” qua đó đã làm rõ nét các chặng đường của cuộc Hành trình vĩ đại 30
năm bôn ba khắp các châu lục của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa tìm đường cứu
nước, vừa kiên trì chiến đấu đầy bản lĩnh và trí tuệ để bảo vệ con đường giải phóng dân
tộc Việt Nam, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh.
Kế đó không thể không kể đến tập sách Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1941) do TS. Trần Nam Tiến biên soạn. Thông qua 5 chương sách, tập sách đã phục
dựng toàn bộ những hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trên hành trình
tìm đường cứu nước.
Và còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác nữa.

3.Mục đích nghiên cứu.


Là một công dân của của nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, được sự dìu dắt
của Đảng, chúng ta phải hiểu rõ được những đường lối lãnh đạo của Đảng. Để làm được
điều đó, trước hết chúng ta cần phải hiểu được sự ra đời và quá trình thành lập Đảng và
một trong những phần không thể thiếu chính là quá trình chuẩn bị những điều kiện để
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

4.Nhiệm vụ nghiên cứu.


Tìm hiểu về sự chuẩn bị những điều kiện để thành lập đảng Cộng sản Việt Nam của
lãnh tụ Ng Ái Quốc – những đất nước Người đi qua, những cuộc họp Người tham dự,
những trang sách, những cộng sự, … Thông qua bài tiểu luận này sẽ giúp chúng chúng ta
hiểu sâu sắc về con đường cũng như hệ tư tưởng của Người.

5.Phạm vi nghiên cứu.

3
Nghiên cứu về quá trình chuẩn bị những điều khiện để thành lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không còn là vấn đề mới, mà là vấn đề được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia, cơ quan, tổ chức, … đến nay đã được công bó
rộng rãi và được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường. Bài tiểu luận này,
chúng em nghiên cứu về toàn bộ thời Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước cho dân
tộc từ 1911- 1930.

NỘI DUNG
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3.2.1930 phù hợp với quy luật phát triển của
thời đại và đòi hỏi của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc -
người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào trong nước, chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy
nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng kịp
thời đòi hỏi của lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường
lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX đến ba thập niên đầu thế kỷ XX. Cách mạng
Việt Nam từ đây có cương lĩnh đúng đắn với việc xác định mục tiêu chiến lược, lực lượng
và phương pháp cách mạng rõ ràng; có đội tiền phong lãnh đạo mang bản chất cách mạng
của giai cấp công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết tâm lãnh đạo toàn dân
giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để tiến tới xã hội cộng sản.

I.Nguyễn Ái Quốc tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn.
1.Hoàn cảnh đất nước.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, chuyển sang giai đoạn độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các nước ở châu Á, châu Phi, châu
Mỹ…, biến những nước ở các châu lục này thành nước thuộc địa, phụ thuộc. Sự thống trị
tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống của nhân dân lao động trên thế giới nói
chung, ở các nước thuộc địa nói riêng trở lên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân ngày càng gay gắt.

4
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “Một xứ thuộc địa, dân ta là vong
quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác". Chính sách thống trị của
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính trị, thực dân Pháp
thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm
máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm.
Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với
giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn
điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng
một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai
thác thuộc địa. Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít,
ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại,
xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Phần lớn giai
cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có
lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân
mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp.
Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp
xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về
đường lối cách mạng. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các
phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần
lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương
đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không
giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ

5
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm
trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

2. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc


Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn
lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào. Nguyễn Tất
Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911. Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, xem các
nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái
Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.
Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Nguyễn Ái Quốc rất
khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám,
nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người nào. Trong khi nhiều người còn
ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con
đường cứu nước khác.
Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng
không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
Một cuộc khảo sát có một không hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc
nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và
người bị áp bức. Càng ngày Người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng
sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng 1ợi là sự kiện chính trị lớn nhất của
thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người
cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số người? Độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc ngưỡng
mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ
6
nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường
của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai.
Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng
giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những nhà sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc
không choáng ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có
nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước,
không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp
Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một phương pháp
nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh
nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện nổi bật
trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta.

II. Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị cho sự ra đời của một chính đảng
vô sản tại Việt Nam.
1.Về tư tưởng.
Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm
kinh điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dể hiểu, phù
hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết
thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu
xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; nêu lên mối
quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.

7
Người đã sử dụng những phương pháp thích hợp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam: từ chỗ thức tỉnh đến định hướng hành động, rồi đào tạo đội ngũ những
người tuyên truyền thông qua một tổ chức vừa tầm thích hợp. Những phương pháp
tuyên truyền từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Đầu năm 1919, Người vào Đảng xã hội Pháp - một đảng tiến bộ hơn lúc bấy giờ, bởi
đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các nước thuộc địa, là tổ chức duy nhất theo
đuổi ý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Tháng 6.1919,
thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của
nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên vấn đề quyền tự do, dân chủ
của nhân dân Việt Nam được đặt ra một hội nghị Quốc tế. Mặc dù bản yêu sách không
được Hội nghị chấp nhận, nhưng bản yêu sách và tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng
vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa. Việc
làm trên chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thực sự bước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, thực dân, bảo vệ quyền lợi của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa.

Tháng 7.1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra ngày 16 và
17.7.1920. Bản luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái
Quốc đang ấp ủ, giúp người tìm ra phương hướng đúng đắn để giành độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào, là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích
cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Sau này Người viết: “Luận
cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi
vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo quốc tế ba”. Luận cương của Lênin đã tạo ra bước chuyển biến căn bản trong
nhận thức tư tưởng giúp Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc” .

Tại Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12.1920), Nguyễn Ái Quốc
bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập
8
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và
cũng là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết
định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, vừa là người yêu nước Việt Nam vừa là một chiến sĩ quốc tế; mở đường giải quyết
đúng đắn về đường lối giải phóng của dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Bằng thiên tài và hoạt động cách mạng nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp
thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các
sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với
học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản,
con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt
Nam.

Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong
trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải
phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từng bước chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người
nhấn mạnh: Cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo;
Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng
Mác-Lênin.
Xác định vị trí, vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, giác ngộ nhân dân,
giữa năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác
thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ) vào
ngày 01/4/1922. Người viết nhiều bài báo tố cáo chế độ áp bức của bọn thực dân phong
kiến đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, tập san Thư tín
quốc tế... Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Người đã góp
phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, chỉ rõ
bản chất, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới nhằm kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp
bức đấu tranh giải phóng dân tộc.

9
Đặc biệt, Người đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu, tuyên truyền tư
tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân
lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Nét đặc sắc trong việc nghiên cứu,
tuyên truyền và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam là Người không
sao chép nguyên văn các tác phẩm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà có sự vận dụng
phương pháp biện chứng duy vật để phân tích xã hội thuộc địa, chỉ ra mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược; xây dựng nên một
lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam. Trong Báo cáo về Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Dù sao cũng không thể
cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu
mà Mác ở thời kỳ mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thức của mình trên một
triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó
chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng
cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm”

2.Về tổ chức.
Cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho sự ra đời của một chính
Đảng, Người đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ
các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đây là một tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Nó giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất
thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư
duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội với mục đích: để làm cách mệnh dân
tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật
đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Về tổ chức gồm 5 cấp: tổng bộ,
xứ (kỳ) bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Sau khi thành lập đã mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên. Ngoài ra, ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học trường Đại học Cộng sản
phương Đông (Liên Xô), trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc). Để tuyên truyền,
Hội cho xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, ra được 208 số.
Tháng 7/1925, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông (cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia...). Năm
1927, các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được Hội cho xuất bản lấy tên là Đường
10
kách mệnh. Đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam do
chính Người viết đồng thời làm giảng viên, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách
mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách
mạng tiên phong.
Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở
ở trong nước; đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây dựng
cơ sở trong bà con Việt kiều ở Thái Lan.
Tuy Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản nhưng
chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ
chức tiền thân dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ
chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Những hoạt động
của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân,
phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo k Những hoạt động tích cực
của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên trên cả nước đã có tác
dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản,
nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc
đấu tranh của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính
trị ngày càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928 - 1929
tăng gấp 2,5 lần so với năm 1926-1927(8).
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, nhu cầu thành
lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trong
bối cảnh đó, tháng 3/1929, những người lãnh đạo kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn Cung, Ngô Gia
Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D phố Hàm Long, Hà Nội, quyết
định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Đầu tháng 5/1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên do Tổng hội triệu tập tại Hương Cảng, kiến nghị của đoàn đại biểu kỳ bộ Bắc
Kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không đựợc chấp nhận. Đoàn đại biểu
kỳ bộ Bắc Kỳ đã rút khỏi Đại hội. Sau khi về nước, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã giải thích lý do
thoát ly Đại hội và khẳng định đã có đủ những điều kiện để thành lập chính đảng cách
11
mạng. Ngày 17/6/1929, hơn 20 đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà
312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng; thông
qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất
bản báo "Búa Liềm" làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành
lập An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11/1929), xuất bản tờ báo "Đỏ" làm cơ quan ngôn luận.
Dưới sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên,
tại Trung Kỳ, Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức thanh niên yêu nước - lúc đầu gọi là
Hội Phục hưng Việt Nam, gọi tắt là Phục Việt) đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản,
thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào đầu năm 1930 tại Hà Tĩnh.huynh hướng
cách mạng vô sản.

3.Về chính trị.


Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này phát triển thành những nội dung cơ bản
trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới; cách mạng vô sản ở chính quốc có
mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa; lực lượng chủ yếu của
cách mạng là công nhân và nông dân - “gốc cách mệnh”, còn “học trò, nhà buôn, điền chủ
nhỏ” là bầu bạn của cách mệnh; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải tập
hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao; cách mạng
muốn thành công, trước hết phải có một đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo.
Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ
cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927,
được in thành sách lấy tên là “Đường Cách mệnh”. Những vấn đề then chốt trong tác
phẩm có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng
lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối
và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với
cách mạng vô sản thế giới…Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn

12
cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững
bền; phải bền gan, phải hy sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”.
Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính chất giải
phóng dân tộc của cách mạng, những động lực chủ yếu của nó - công nhân và nông dân là
“gốc cách mệnh”, “học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách mệnh của công
nông. Những luận điểm đó là nền tảng hình thành liên minh công nông và mặt trận dân
tộc thống nhất trong cách mạng dân tộc giải phóng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người
còn nêu quan điểm cực kỳ quan trọng: Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng.
Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ” và “ai làm cách mệnh trong thế giới đều
là đồng chí của dân An Nam cả”. Luận điểm trên là cụ thể hóa và phát triển quan điểm của
Người đã nêu trước đây về tính chủ động và khả năng thắng lợi trước của cách mạng
thuộc địa đối với cách mạng chính quốc. Những nội dung đó đem đến cho quần chúng
niềm tin, quyết tâm chủ động đứng lên làm cách mạng cứu nước, cứu nhà.
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị rất lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Nó đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá tư tưởng cách mạng của Người vào Việt
Nam, chỉ rõ con đường và biện pháp để nhân dân ta đấu tranh giành độc lập, tự do; đặt
cơ sở khoa học cho việc hình thành đường lối chiến lược của cách mạng nước ta. Nó là
ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam, vạch ra phương hướng cho cách
mạng nước ta đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, góp phần chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng; là thành công nổi bật của Người trong chuẩn bị về
chính trị và tư tưởng.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ
có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Mặt khác, Người
nhấn mạnh đặc điểm của một nước thuộc địa như Việt Nam: “Chủ nghĩa dân tộc là một
động lực lớn của đất nước”, xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng

13
không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách
mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Người chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo
nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn
được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng: "công nông là
gốc của cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của
công nông". Do vậy, Người xác định: cách mạng "là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải là việc của một hai người", cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

III. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng và
soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
1.Nguyễn Ái Quốc đứng đầu trong Hội nghị thành lập Đảng.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có
nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống
nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam,
người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Nhận thấy tình hình trong nước đồng thời nhận được tài liệu của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc, Ủy viên Bộ phương Đông phụ trách Cục phương Nam, với tư cách phái
viên Quốc tế Cộng sản đã bí mật từ Xiêm La tới Trung Quốc vào ngày 23 tháng 12 năm
1929.
Phái viên đã triệu tập đại biểu họp tại Hồng Kông ngày 6-1-1930 để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Dưới sự chủ tọa của Người, hội nghị đã họp từ ngày 3- 7/2/1930,
trong căn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long, gần Hong Kong.

Sau 5 ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, hội nghị đã quyết định
thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt
Nam lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Về
tên Đảng, các đại biểu được Người giải thích.

14
Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước.
Các đại biểu tham dự việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam gồm:Nguyễn Ái
Quốc, An Nam Cộng sản Đảng, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, Đông Dương Cộng sản
Đảng, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Nhóm đại biểu hải ngoại, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, Phái viên Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị.
Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất
ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình
và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung đột,
công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để thống
nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ
đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã
phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của
họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công nhận đảng
viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng
quá khắt khe.
Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công
nhận đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ
chức, đảng có tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân
Việt.
Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội dung:
- Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng
sản ở Đông Dương;
-Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
-Định kế hoạnh thực hiện việc thống nhất trong nước;
-Cử một Ban Trung Ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi bộ
cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”. Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị

15
của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông
qua kế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống
nhất cách cử Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy viên do
Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có tổng số bảy
ủy viên.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông
qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Nhân dịp thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Lời kêu gọi, gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên
học sinh và đồng bào bị áp bức bóc lột: Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập.
Đó là đảng của giai cấp công nhân. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách
mạng để đấu tranh cho quyền lợi của toàn thể nhân dân bị áp bức bóc lột. Ngay từ bây
giờ, chúng ta phải gia nhập Đảng, chúng ta phải giúp đỡ Đảng và đi theo Đảng!...”
Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản
đế. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và nông dân không thể
kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản đế. Hội nghị xác định rõ
thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là cử
cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức này vào Hội Phản đế, đối với Tân Việt thì
không giải tán và cũng đưa vào Hội Phản đế, kết nạp những người ưu tú trong tổ chức đó
vào Đảng. Đảng chủ trương tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp đảng viên của Đảng này
vào Hội Phản đế. Để thực hiện chủ trương đoàn kết các tố chức cách mạng trong Mặt trận
phản đế, "Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái
như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành lập Mặt
trận phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập".
Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế do những đảng viên được Đảng cử ra phụ trách và
tuyên truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ

16
những chiến sĩ cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị chính quyền
thực dân bắt bớ, kết án và tù đày…
Về báo chí của Đảng, Hội nghị thành lập Đảng quyết định bỏ những tờ báo của
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây. Xuất bản một
tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.
Lời kêu gọi là một văn kiện quan trọng đã phân tích đầy đủ và đúng đắn tình hình
thế giới, tình hình Việt Nam và nêu lên đường lối, mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Lời
kêu gọi có tác động cổ vũ rất lớn đối với toàn Đảng, toàn dân ta.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập
Đảng. Những văn kiện được thông qua tại hội nghị do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
đã quyết nghị lấy ngày 3-2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

2.Người đã soạn thảo cuơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua. Tuy ngắn gọn, chỉ có 282 chữ,
nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam.
Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác còn soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng
thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp
thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính
kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt
Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô đọng các luận điểm
cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa và chỉ rõ mâu
thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược;
xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam được thực
hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế
độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông
binh, tổ chức ra quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản
17
lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của công chia cho dân cày
nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp;
thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất của
kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa; tính chất độc quyền khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực cản trở sự phát triển độc
lập về kinh tế của Việt Nam. Chánh cương chỉ rõ: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp,
vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở
mang được. Còn về nông nghiệp một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng
hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”; phân tích rõ vị trí, vai trò của tư bản bản xứ: “Vậy tư
bản bản xứ không có thế lực gì không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại
địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông
giáo dục theo công nông hóa. Chánh cương xác định rõ phương hướng phát triển của
cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp,
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng”. Chủ trương của Đảng là : “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến”.
Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân
dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái phản
cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,v.v.)
thì phải đánh đổ”. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng
chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong
kiến; phải làm cho các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh
18
hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam. Đảng là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con
đường thỏa hiệp.
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnhđược khẳng định qua thực tiễn
đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm qua:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc, chống
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc
địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ
bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng trước hết
phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ có độc lập tự do của đất
nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. Tư tưởng này
thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực lượng cách
mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ
trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ. Hiện nay,
khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao giờ

19
hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế là yếu tố quyết
định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắtvà Lời kêu
gọinhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng lao
khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng
lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to
lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân -
không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta
đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu,
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

IV. Liên hệ thực tiễn vai trò của tư tưởng, đường lối Hồ Chí Minh với Đảng ta
bây giờ.
Ngày nay, cho dù thế giới có nhiều biến đổi trong xu thế phát triển đa cực, toàn
cầu hóa và cạnh tranh quyết liệt. Các hình thức chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội đã
khác nhiều so với trược đây. CNXH thế giới cũng đã bị tan giã ở nhiều nước;… nhưng Đảng
ta vẫn kiên định con đường đã chọn - con đường đi lên CNXH ở nước ta; đồng thời, vẫn
sáng suốt: “Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và
phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách
mạng đầy gian truân song rất đỗi vĩ đại của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các
dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc
lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Thực tiễn những thành tựu đạt được trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 30
năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã chứng minh sự kiên định, nắm
vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong

20
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với
quy luật phát triển của thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, nhất là
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực
tiễn của tư tưởng đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của
văn hóa nhân loại. Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, nhất là khi tình hình thế giới, khu
vực và trong nước đang diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời
sống xã hội. Thực tế, hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường,
phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt
Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm
xây dựng và phát triển; đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam
là không thể phủ nhận; không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ
Chí Minh mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại vì đã thấm sâu vào quần chúng
nhân dân, được minh chứng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in
sâu trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người. Vì thế, việc tiếp tục giương cao
ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là yêu cầu
tất yếu khách quan của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam
giành thắng lợi mà còn góp phần giữ vững bản chất của một Đảng chân chính, cách mạng.

Tài liệu tham khảo:


o Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sảnViệt Nam.
o Trang web http://lyluanchinhtri.vn/home/
o Trang web http://dangcongsan.vn/
o Trang web bảo tàng Hồ Chí Minh: http://www.baotanghochiminh.vn/
o Trang web https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_Vi%E1%BB
%87t_Nam_C%C3%A1ch_m%E1%BA%A1ng_Thanh_ni%C3%AAn
o https://khotrithucso.com/luan-van-do-an-bao-cao/van-hoa-nghe-thuat/lich-
su/vai-tro-cua-nguyen-ai-quoc-doi-voi-viec-thanh-lap-dang-cong-san-viet-
nam.html?fbclid=IwAR0eS-
1jmjB200VSlHQqTGm4RNSBSBy9U6xYlMk1grt4QKiFR2hJ0fYBUcI
21
22

You might also like