You are on page 1of 63

YÊU CẦU CÁC EM SỬA TRÊN BẢN NÀY VÀ GỬI LẠI CHO GVHD

“ĐỀ CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM 1943” – GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ KẾ THỪA
TRONG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VĂN
HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ

Đề cương chi tiết cũng là Mục lục phải thể hiện được ra ở ngay những trang đầu
của công trình NCKH

MỞ ĐẦU
Chương 1. “ĐỀ CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM 1943” – CƯƠNG
LĨNH LỊCH SỬ MANG TÍNH TUYÊN NGÔN VỀ VĂN HÓA CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh ra đời của bản Đề cương văn hoá Việt Nam 1943
I.1.1. Bối cảnh quốc tế
I.1.2. Bối cảnh trong nước
1.2. Nội dung và giá trị lịch sử của bản Đề cương văn hoá Việt Nam năm
1943
1.2.1. Nội dung
1.2.2. Giá trị lịch sử
Chương 2. CHỦ TRƯƠNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG,
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ CỦA ĐẢNG – SỰ
KẾ THỪA VỀ ĐƯỜNG LỐI TỪ ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM 1943
2.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ - sự tiếp nối các giá trị của Đề cương Văn hóa Việt Nam
1943
2.1.1. Bối cảnh
2.1.2. Nội dung
2.1.2.1. Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X “về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
2.1.2.2. Chỉ thị số 42 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Ban Bí thư Trung
ương Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015- 2030”
2.1.3. Những giá trị đã được tiếp nối, kế thừa
2.2. Thực tiễn triển khai chủ trương giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống văn hóa cho thế hệ trẻ trên cơ sở tiếp nối các giá trị của Đề cương Văn
hóa Việt Nam 1943
2.2.1. Những thành tựu
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Chương 3. TIẾP TỤC PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA ĐỀ CƯƠNG
VĂN HÓA VIỆT NAM NĂM 1943 VÀO GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH
MẠNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ VIỆT
NAM NÓI CHUNG, SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA NÓI RIÊNG,
PHỤC VỤ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
3.1. Vai trò của giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho thế hệ trẻ trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước
3.2. Vai trò của giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội trong tiến trình hội nhập
và phát triển đất nước
3.3. Quan điểm chỉ đạo, các định hướng tiếp tục phát huy giá trị của
Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 trong giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ
3.3.1. Quan điểm, định hướng chung
3.3.2. Định hướng cho sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội
3.4. Giải pháp thực hiện
3.4.1. Giải pháp chung
3.4.2. Giải pháp cho sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
CẦN GIA CÔNG PHẦN MỞ ĐẦU NÀY CHO SẮC NÉT HƠN, VIẾT LẠI CÁC NỘI DUNG
TRONG MỤC 3
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển đất nước kể từ khi vua Hùng
khai hoang lập quốc lập ra nhà nước Văn Lang đầu tiên đến nay. Tuy trải qua
nhiều biến cố lịch sử và nhiều lần bị xâm lược nhưng dân tộc ta vẫn luôn giữ gìn
và phát huy được nền văn hóa lâu đời và đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa - nó
cũng là một yêu tố quan trọng góp phần khẳng định độc lập của một đất nước và
bất kì một đất nước nào muốn phát triển cũng không thể bỏ qua vấn đề văn hóa.
Ngoài ra văn hóa cũng được xem như nền móng cho sự ổn định và phát triển lâu
dài ở hầu hết mọi quốc gia. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước luôn luôn để tâm
tới vấn đề văn hóa trên con đường phát triển và hội nhập xã hội. Đảng đã và
đang tiếp tục nghiên cứu để vạch ra những con đường, hướng đi tốt nhất để phát
triển đất nước mà vẫn đảm bảo giữ gìn và phát triển văn hóa đặc sắc của dân tộc
Việt Nam. Một dấu mốc lịch sử quan trọng trên con đường nghiên cứu nền văn
hóa đặc biệt của dân tộc ra đời cách đây 77 năm thế nhưng giá trị của bản “Đề
cương văn hóa Việt Nam” do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943
vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Sự xuất hiện của bản “Đề cương văn
hóa Việt Nam” được ví như bản cương lĩnh đầu tiên về văn hóa được Đảng cho
ra đời. Kỉ niệm 75 năm ra đời của bản Đề cương trên trang Tổ quốc của Báo
điện tử của bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch có viết: “Đề cương văn hóa Việt
Nam 1943: Ngọn đèn soi rọi cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại.”.
Trải qua gần 80 năm lịch sử, nhiều người ắt hẳn sẽ thắc mắc rằng giá trị của
bản Đề cương liệu có còn đúng và phù hợp với hiện nay không. Thế giới luôn
xoay chuyển theo những quỹ đạo không hề cố định, xã hội, nhân dân Việt Nam
cũng thay đổi ngày ngày để kịp thích ứng với thế giới đầy biến động đó. Thế
nhưng cái cốt lõi giá trị của bản Đề cương đã vô cùng xuất sắc vượt qua thời
gian để đi cùng với đất nước Việt Nam đến tận ngày nay để tiếp tục định hướng
phát triển cho đất nước cũng như dân tộc Việt tiếp bước vững tin mà phát triển.
Đặc biệt là cho tầng lớp sẽ đi lên kế thừa và phát huy nó chính là giới trẻ, lớp
thanh niên đầy nhiệt huyết cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Nó như một nguồn
động lực thúc đẩy tôi và cùng các thành viên trong nhóm của mình chọn nghiên
cứu về chủ đề: “Đề cương văn hóa Việt Nam 1943”- Giá trị lịch sử và kế thừa
trong giáo dục lí tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ”.
Mong rằng với bài nghiên cứu và tìm hiểu của nhóm chúng tôi để tự hiểu
cũng như giúp bạn đọc sẽ hiểu hơn bản “tuyên ngôn” đầu tiên về văn hóa mang
đầy ý nghĩa này. Nhất là khi hiện nay một số bạn trẻ đang dần “hòa tan” với nền
văn hóa các nước khác mà quên đi nền văn hóa tốt đẹp lâu đời của đất nước con
người Việt Nam ta. Đồng thời sự đi lên của các mạng xã hội cũng đang làm cho
lối sống của cá nhân hiện đại thay đổi đi rất nhiều so với trước đây. Điển hình là
đánh giá về thái độ văn minh khi sử dụng mạng xã hội của Việt Nam đang trở
nên khá quan ngại khi lọt vào xếp hạng top 5 nước có mức độ kém văn minh
nhất trên không gian mạng trên thế giới. Câu hỏi đặt ra là những người sử dụng
không gian mạng đã và đang có những hành động gì để khiến chúng ta nhận
đánh giá như vậy? Giá trị tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam liệu có đang dần trở
nên mai một, những người kế thừa nền văn hóa lâu đời ấy có suy nghĩ gì. Một
bản Đề cương văn hóa đã ra đời cách đây 77 năm liệu sẽ giúp Đảng có được
những phương pháp giáo dục mới mẻ nào tối ưu cho giai đoạn hiện nay về lối
sống văn hóa của thế hệ trẻ. Đó chính là cốt lõi của đề tài nghiên cứu mà chúng
tôi đã lựa chọn: “Đề cương văn hóa 1943- Giá trị lịch sử và kế thừa trong giáo
dục lý tưởng Cách mạng, Đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những đề tài đặc sắc khi nghiên cứu về nội dung có liên quan đến bản Đề
cương văn hóa Việt Nam năm 1943 chắc chắn sẽ luôn được nhiều tác giả lựa
chọn để nghiên cứu. Tuy nhiên, các bản nghiên nghiên cứu trong lịch sử hầu hết
là đi đề cao những giá trị mà bản Đề cương đã mang lại cho công cuộc xây dựng
và phát triển nền văn hóa của đất nước. Và trong từng giai đoạn riêng, bản Đề
cương ấy lại phát huy những giá trị phù hợp khác nhau cho đất nước. Ra đời
trong cuộc chiến toàn dân chống lại Phát xít Pháp- Nhật, bản Đề cương đã thể
hiện mối quan tâm của Đảng đến mặt trận đấu tranh văn hóa của nhân dân bên
cạnh việc tập trung xây dựng lực lượng về mọi mặt chuẩn bị đấu tranh trực diện
với địch.
Các tác giả trong quá khứ khi nghiên cứu về bản Đề cương văn hóa Việt
Nam năm 1943 tiêu biểu có thể kể đến như:
Bài “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943: Xây dựng bản sắc văn hóa quân
sự Việt Nam hiện nay” của Đại tá, PGS.TS Phạm Văn Nhuận - Viện Khoa học
xã hội nhân văn Quân sự đã làm rõ vai trò to lớn của bản Đề cương văn hóa Việt
Nam trong việc xây dựng bản sắc Văn hóa quân sự Việt Nam hiện nay.
Hay cuốn sách “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943- Giá trị lịch sử và
hiện thực” do NXB Quân đội nhân dân xuất bản là công trình nghiên cứu khoa
học của tập thể các cán bộ lãnh đạo, quản lý, các giảng viên, nhà khoa học trong
và ngoài quân đội do Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đình Minh chủ biên nhằm tiếp
tục khẳng định và phát huy những giá trị lịch sử và hiện thực của đề cương văn
hóa Việt Nam; thiết thực góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bài viết trên trang điện tử báo Nhân dân bài “65 năm Đề cương văn hóa Việt
Nam (1943-2008) đăng Thứ Sáu, ngày 17/09/2010 của tác giả Nguyễn Sĩ Đại
một lần nữa khẳng định “trên cơ sở của Ðề cương, mỗi thời đại cần phải không
ngừng phát triển, hoàn thiện lý luận, đường lối về văn hóa, văn nghệ, biết đề ra
những giải pháp và chính sách thích hợp, nhằm khơi dậy sức sáng tạo vô bờ của
nhân dân, biến cách mạng văn hóa dưới sự lãnh đạo của Ðảng thành một ngọn
sóng trào dào dạt, cuốn phăng mọi rác bẩn từ hủ tục, lai căng; thành sự hồ hởi và
sức mạnh trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội; dâng cao nét đẹp tính
người và lòng tự tôn dân tộc”.
Một bài viết khác có chủ đề khá sát với đề tài mà nhóm chúng tôi đang chọn
để viết về. Đó là bài viết “Đề cương văn hóa Việt Nam- Nhìn từ khía cạnh văn
hóa học và văn bản học” của GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm viết bàn về tính khoa
học và tính cách mạng của đề cương, giá trị lịch sử và những hạn chế của đề
cương, mô ̣t số vấn đề văn bản học trong quá trình tồn tại của đề cương. Bài đăng
trên Tập san “Khoa học xã hội & nhân văn”, số 34, tháng 3-2006, tr. 5-12.
Những ví dụ nêu trên là minh chứng cho sự đa dạng giá trị nội dung của bản
Đề cương, với mỗi tác giả khác nhau họ lại có những góc nhìn mới mẻ hơn,
những góc độ chưa được khám phá của bản Đề cương. Những bài viết phân tích
ấy đã góp phần nâng cao giá trị cho bản Đề cương và tạo ra tính thời đại. Tuy
rằng các bài viết trên đã công phu về nhiều khía cạnh nội dung từ bản Đề cương
nhưng lại ít đề cập đến những giá trị về đạo đức, lối sống văn hóa mà bản Đề
cương văn hóa Việt Nam 1943 lan tỏa đến cho thế hệ trẻ. Vì vậy công trình
nghiên cứu của nhóm chúng tôi sau đây sẽ đi vào tìm hiểu khía cạnh mới mẻ của
một phần giá trị mà bản Đề cương đã mang lại cho đất nước và dân tộc Việt
Nam. Mỗi thời kì bản Đề cương lại mang một giá trị đặc sắc riêng, và trong giai
đoạn ngày nay giá trị của bản Đề cương văn hóa 1943 sẽ giúp đất nước giáo dục
lý tưởng tốt đẹp, một nhân cách đạo đức và lối sống văn hóa cao cả của người
dân Việt Nam trong thời đại mới đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
CẦN VIẾT TÁCH THÀNH 2 Ý
- Mục đích:
- Nhiệm vụ:
Khi nghiên cứu về vấn đề này chúng tôi mong muốn sẽ chỉ ra được giá trị
của bản cương lĩnh mang tính tuyên ngôn đầu tiên về văn hóa Việt Nam trong
suốt quá trình từ khi nó được ra đời đến nay. Dựa trên những đường lối chính
sách của Đảng đã đề ra trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa đất nước,
những chủ trương để giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho thế hệ trẻ Việt Nam. Tiếp đó khẳng định lại giá trị của bản Đề cương là
không thể phủ nhận nhưng vấn đề mà cũng không kém phần quan trọng đó là
làm sao để tiếp tục phát huy những giá trị tốt đẹo của bản Đề cương văn hóa
Việt Nam 1943. Hướng đi nào cho việc áp dụng bản Đề cương ấy vào giáo dục
lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ Việt Nam nói
chung và cho sinh viên Đại học Bách khoa nói riêng để phục vụ cho quá trình
hội nhập và phát triển đất nước. Làm sao để giới trẻ như chúng ta không đánh
mất đi giá trị nền văn hóa “Ngàn năm văn hiến”, suy nghĩ sao cho đúng đắn về
nhiệm vụ, trách nhiệm của mình đối với dân tộc. Sống sao cho phát huy hết
những giá trị văn hóa của ông cha đã dày công vun đắp qua hàng ngàn thế hệ và
đem nền văn hóa tươi đẹp này quảng bá đến khắp các dân tộc trên thế giới với
lòng tự tôn dân tộc mãnh liệt. Góp phần thay đổi cách nhìn của các nước trên thế
giới dành cho Việt Nam, khẳng định giá trị của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong bài viết này đó chính là giá trị của bản Đề cương
văn hóa Việt Nam năm 1943 cùng với những chính sách văn hoá của Đảng để
giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Đồng
thời cũng nói về cách tự nhận thức và thay đổi lối sống văn hóa của mỗi cá nhân
sao cho đúng với thời kỳ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu sẽ là tiến trình xuyên suốt từ khi bản Cương lĩnh ấy ra
đời (năm 1943) cho đến ngày nay và một số ý tưởng cho tương lai sắp tới.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Công trình nghiên cứu dựa vào các nguồn tài liệu cơ bản sau để thực hiện:
Các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết… của Đảng và các bộ ngành có liên quan
đến văn hoá, phát triển văn hoá từ năm 1943 cho đến nay; ngoài ra, công trình
cũng tham khảo những công trình, bài viết có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: kết hợp sử
dụng phương pháp logic, lịch sử là chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
6. Kết cấu của công trình nghiên cứu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung công trình
nghiên cứu gồm ba chương:
Chương 1. “Đề cương văn hóa Việt Nam 1943”- Giá trị lịch sử mang tính
tuyên ngôn về văn hóa của Đảng
Chương 2. Chủ trương giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống
văn hóa cho thế hệ trẻ của Đảng- Sự kế thừa về đường lối từ đề cương văn hóa
Việt Nam năm 1943
Chương 3. Tiếp tục phát huy các giá trị của Đề cương văn hóa Việt Nam
năm 1943 vào giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế
hệ trẻ Việt Nam nói chung, sinh viên Đại học Bách khoa nói riêng, phục vụ tiến
trình hội nhập và phát triển đất nước
Chương 1
“ĐỀ CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM 1943” - CƯƠNG LĨNH LỊCH SỬ
MANG TÍNH TUYÊN NGÔN VỀ VĂN HÓA CỦA ĐẢNG

1.1. Bối cảnh ra đời của bản Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Đầu những năm 30, các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã liên kết thành
liên minh phát xít (trục Béc-lin – Rô-ma – Tô-ki-ô), tăng cường các hoạt động
quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Sáng 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với
Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng ở châu Âu.
Ngày 22-6-1941, phát-xít Ðức tấn công Liên Xô. Tính chất của cuộc chiến tranh
thế giới đã thay đổi. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu
và từ cuối 1942, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, liên minh thế giới
chống phát-xít được thiết lập và bắt đầu những hành động phản công của mình.
Đó là lúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi gần tới kết thúc, Nhật Bản
xâm chiếm Đông Dương, thiết lập chế độ phát-xít ở đây. Cách mạng Việt Nam lúc
này không những đứng trước một tình thế vô cùng căng thẳng “ngàn cân treo sợi
tóc”, mà còn gặp phải những thủ đoạn của phát-xít hòng trói buộc văn hóa, thậm
chí giết chết tiền đồ của nền văn hóa dân tộc ta.
Cuộc cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang bước vào thời kỳ tiền khởi
nghĩa là một tất yếu chính trị. Tuy nhiên trong bối cảnh lúc bấy giờ, trước hết rất
cần phải có một sự thay đổi cơ bản có tính lý luận về tư tưởng - văn hóa. Đề cương
ra đời đáp ứng cơ bản yêu cầu đó của lịch sử cách mạng dân tộc
1.1.3. Bối cảnh trong nước
Ở nước ta vào đầu những năm 40 thế kỷ XX, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội rất
rối ren và phức tạp. Thực dân Pháp đã biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu cũ,
nhưng nước Pháp lại thua trận rơi vào tay phát xít Đức và phát xít Nhật nhảy vào
Đông Dương (9-1940). Nhân dân ta lầm than trong tình cảnh một cổ hai tròng . Vì
thế, vùng dậy đấu tranh, đuổi giặc, cứu nước có ý nghĩa sống còn đối với toàn dân
tộc. Vấn đề huy động lực lượng cho một cuộc cách mạng làm thay đổi vận mệnh
dân tộc trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Nhưng, để làm được điều đó, trước tiên
cần phải có một bước mở đầu về lý luận làm tiền đề. Bởi, chỉ có như vậy mới thức
tỉnh được quần chúng, định hướng được nguồn lực, quy tụ được sức mạnh. Đối
tượng phù hợp nhất cho bước mở đầu này, không thể là ai khác ngoài tầng lớp trí
thức đương thời. Nhưng bản thân tầng lớp này, như thực tế lịch sử cho thấy, lại
đang bị chia rẽ bởi những khuynh hướng văn hóa - tư tưởng khác nhau.
Ngay sau khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, một bộ phận trí thức tỏ ra
“thức thời” - một mặt họ chủ trương bài Pháp, quay sang chê bai và miệt thị văn
hóa phương Tây, mặt khác lại tỏ rõ lòng tin mù quáng vào thuyết “đồng văn, đồng
chủng”, ca ngợi hết lời phong tục, tập quán và tinh thần “võ sĩ đạo” của văn hóa
Nhật. Trào lưu “cạo trọc đầu”, nói tiếng Nhật bồi,... nhanh chóng trở thành “mốt”.
Một số người trong số này còn cam tâm làm tay sai cho Nhật, lún sâu vào con
đường phản nước, hại dân.
Trong khi đó, một bộ phận trí thức khác thì ngược lại, tỏ rõ lòng trung thành với
“cố nhân”, tung hô khẩu hiệu “Pháp - Việt phục hưng”, hết lòng ca ngợi công lao
“khai sáng” của Pháp, nhiệt thành chứng minh cho sự “đồng quy” giữa tôn chỉ
“cần lao, gia đình, Tổ quốc” của văn hóa Pháp với truyền thống Nho giáo trước đó
của văn hóa Việt Nam. Một số trí thức cực đoan dưới sự hậu thuẫn của Pháp, đã
chuyển sang công khai chống lại Đảng Cộng sản Đông Dương, phủ nhận và bôi
nhọ lịch sử dân tộc. Còn phần lớn trí thức Việt Nam lúc bấy giờ, dù giàu lòng tự
tôn dân tộc, đặc biệt khát khao về dân chủ và tự do, nhưng do chưa được thức tỉnh
về con đường giải phóng dân tộc nên, hoặc là còn đang mò mẫm tìm đường, hoặc
là “án binh bất động”, nghe ngóng, chờ thời. Nhiều người trong số họ tìm thú vui
trong những “nghiên cứu” vô thưởng, vô phạt hay tự thỏa mãn với những tìm tòi
siêu thực, bí hiểm,...
Trong bối cảnh ấy, để thức tỉnh được tầng lớp trí thức đang bị chia rẽ, qua đó
thức tỉnh được quần chúng nhân dân, Đảng phải có một đường lối văn hóa thực sự
đúng đắn, khoa học và phù hợp. Đường lối này phải bảo đảm tính chính xác, khách
quan, thu phục được tầng lớp trí thức, thống nhất được nhận thức của họ. Nó cũng
phải đảm bảo tính logic, ngắn gọn và dung dị để dễ dàng truyền bá tới quảng đại
quần chúng trong điều kiện Đảng chưa ra hoạt động công khai. Đặc biệt, đường lối
này cũng phải thể hiện rõ nguyên tắc tính đảng, tính chiến đấu nhằm hiệu triệu
toàn dân theo Đảng bước vào một mặt trận đầy cam go, nhưng sẽ quyết định tương
lai của toàn dân tộc - mặt trận văn hóa.
1.2. Nội dung và giá trị lịch sử của bản Đề cương văn hoá Việt Nam năm
1943
1.2.1. Nội dung bản Đề cương văn hóa Việt Nam 1943
Trong hội nghị Ban thường vụ Trung Ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày
28/2/1943 tại thôn Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội, tại đậy đã thông qua bản
Đề cương văn hóa Việt Nam của Tổng Bí Thư Trường Chinh soạn thảo. Nội dung
của bản đề cương này nó đã đi vào lịch sử và có giá trị lâu dài cho đến tận ngày
nay . Sự ra đời của bản đề cương đã mở ra cho nền văn hóa cách mạng Việt Nam
một con đường mới, một thời kỳ mới. Hầu hết các tư tưởng về văn hóa của Nguyễn
Ái Quốc đều được Trường Chinh tiếp thu và phát huy trong bản Đề cương văn hóa
Việt Nam. Sự tiếp nối ấy được được thể hiện từ cách đặt vấn đề, cách hiểu văn hóa
cũng như xác định được mức độ cần thiết của việc đấu tranh chống lại văn hóa
phản động, khắc phục văn hóa lạc hậu… tất cả đều được trình bày đầy đủ trong
Bản đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.
Bản Đề cương văn hóa Việt Nam được viết rất ngắn gọn, chỉ có dung lượng
khoảng trên 1300 chữ. Bản đề cương chỉ nêu lên những luận điểm lớn, mỗi luận
điểm trình bày một cách khái quát. Bản đề cương Văn hóa Việt Nam đã trình bày 5
vấn đề lớn của văn hóa Việt Nam: Phần thứ nhất: “Cách đặt vấn đề”; Phần thứ
hai: “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”; Phần thứ ba: “Nguy cơ của văn hóa
Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp”; Phần thứ tư: “Vấn đề cách mạng văn hóa
Việt Nam” và Phần thứ năm: “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mác xít
Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mác xít Việt Nam”. Một số những quan
điểm cơ bản về văn hóa cách mạng Việt Nam lần đầu tiên đã được Đảng xác định
và trình bày trong bản Đề cương văn hóa Việt Nam.
- Văn hóa với phạm vi bao hàm cả tư tưởng học thuật và nghệ thuật.
- Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, nền tảng xã hội phụ thuộc vào
văn hóa của xã hội đó.
- Văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó thì người
cộng sản phải hoạt động
- Không phải chỉ làm cách mạng chính trị, mà còn phải làm cách mạng văn hóa,
cách mạng văn hóa phải làm sau cách mạng chính trị, phải hoàn thành cách mạng
văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội.
- Cách mạng văn hóa phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Một trong những vấn đề
quan trọng nhất của bản Đề cương văn hóa Việt Nam là ba nguyên tắc vận động
văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Ba nguyên tắc này còn giữ
nguyên được giá trị vốn có của nó từ khi ra đời cho đến nay. Thứ nhất là về nguyên
tắc dân tộc hóa tức là phát triển văn hóa nhằm chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và
thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển một cách độc lập. Bản chất xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ là một nước thuộc địa, nằm dưới quyền thống trị của đế quốc
Pháp, do đó văn hóa Việt Nam chịu khá nhiều ảnh hưởng của văn hóa thực dân
nhằm nô dịch và chia rẽ nước ta, ngăn cản con đường giành độc lập dân tộc. Bên
cạnh nền văn hóa Pháp đang thống trị thì lại có một nền văn hóa khác cũng đang
chèn ép văn hóa của Việt Nam đó là phát xít Nhật. Khi mà nền độc lập chưa giành
lại được thì việc văn hóa không được chú trọng phát triển dẫn đến việc bị tha hóa
biến chất là điều khó tránh khỏi. Chính vì vậy mà một chủ trương kế hoạch phát
triển văn hóa là rất cần thiết lúc này. Bên cạnh đó thì còn nhiều vấn đề làm cản trở
nền văn hóa làm cho văn hóa thiếu đi tính dân tộc như là: các phong trào lai hóa,
làm mất bản sắc văn hóa dân tộc, việc dạy chữ quốc ngữ,… công nghiệp không
phát triển, hệ thống công trình công cộng không được mở mang làm cản trở rất
nhiều đến quá trình phát triển văn hóa. Một mặt nữa là do nước ta đang bị thống trị
cho nên việc dạy và truyền bá văn hóa dân tộc giữa các vùng là khác nhau và khó
khăn. Tất cả những điều đó làm cho nguyên tắc dân tộc hóa là một trong những
nguyên tắc vô cùng quan trọng.
Thứ hai đó là nguyên tắc đại chúng hóa tức là chống lại mọi chủ trương hành
động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng. Nước ta vốn là một nước còn
chịu khá nhiều tàn dư phong kiến đồng thời quyền kinh tế và chính trị thì lại đang
nằm trong tay bọn đế quốc làm cho quyền hạn của người dân bị khinh rẻ và mất
quyền tự chủ. Một vấn đề nữa đó là bệnh mù chữ nó đã trở thành một thứ giặc
nguy hiểm cần phải đánh đuổi của nước ta lúc bấy giờ. Hầu hết các sản phẩm của
văn hóa đều chỉ nhằm phục vụ cho một số tầng lớp nhất định như bọn tay sai
quyền quý, bọn thực dân cai trị… chứ các sản phẩm đó không thiết thực và phù
hợp với người dân. Mặt khác thì những tác phẩm văn hóa này còn có cái hại khác
đó là bài hát để ru ngủ quần chúng tạo lòng tin cho quần chúng. Chính vì thế mà
nền văn hóa Việt Nam thời điểm đó đang rất xa rời quần chúng. Rất nhiều các xu
hướng phản đại chúng có thể nhận thấy rõ ràng như xu hướng “nghệ thuật vị nghệ
thuật” hay “siêu thực” hay là “lập dị”... có thể thấy một tình trạng trái ngược xuất
hiện khá rõ nét mà nếu không có hướng đi đúng đắn thì văn hóa Việt Nam sẽ bị
phá hoại. “Đại chúng mang vật chất của xã hội, vì đại chúng là những người sản
xuất nuôi đời; các nhà văn hóa mang sức sống về tinh thần của xã hội, đáng lẽ phải
phục vụ đại chúng, cái vú sữa của xã hội, mật thiết với đại chúng, nhưng đằng này
lại phản đại chúng, xa đại chúng. Văn hóa không bắt rễ thẳng ở đại chúng kết quả
văn hóa sẽ cằn cỗi héo hon” (1 Trường Chinh về văn hóa văn nghệ: ba căn bệnh
lớn của văn hóa Việt Nam Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2006, tr.70) CÁCH CHÚ
THÍCH PHẢI LÀ: [số thứ tự của tài liệu tham khảo này, tr.70] ví dụ, nếu tài liệu
này được xếp thứ 5 trong Danh mục TLTK thì chú thích sẽ là [5, tr.70].
Thứ ba đó là nguyên tắc khoa học hóa tức là chống lại tất cả những gì làm cho
văn hóa trái khoa học phản cách mạng. Việt Nam là một nước nông nghiệp hơn
nữa lại bị nền công nghiệp nặng của chủ nghĩa đế quốc kìm hãm cho nên không có
cơ hội để tiếp cận và nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật. Sự nghiệp phát triển và
mở rộng trên lĩnh vực khoa học kĩ thuật luôn bị Pháp bóp nghẹt chính vì thế mà
ảnh hưởng không nhỏ đến các ngành văn học nghệ thuật.
Chính vì thế mà cần phải phát triển nguyên tắc khoa học hóa để cho trình độ văn
hóa của dân tộc được phát triển kịp thời đại.
Ba nguyên tắc trên là một trong những nội dung quan trọng và có giá trị xuyên
suốt mọi thời đại của bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Ba nguyên tắc trên có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau, hầu hết những nguyên tắc
trên đều nhằm khắc phục những nhược điểm của xã hội Việt Nam.

1.2.2. Đánh giá nhận xét về nội dung bản Đề cương Văn hóa Việt Nam năm
1943
Bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 được ra đời trong hoàn cảnh đất nước
đang sục sôi khí thế đề chuẩn bị cho Cách mạng tháng 8 năm 1945. Sự ra đời của
bản đề cương văn hóa này nó mang một ý nghĩa quan trọng, được đánh giá và xem
như là một bản tuyên ngôn của Đảng về văn hóa văn nghệ. Đề cương đã đưa ra
những quan điểm rất mới và đúng, đồng thời đưa ra những đường lối chỉ đạo để
xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta. Bên cạnh đó nó còn là ngọn cờ đoàn kết
tập hợp các nhà văn hóa văn nghệ, các trí thức cán bộ tích cực tham gia vào sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Với luận điểm “... nền tảng kinh tế của một xã hội
và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”
(1), Đề cương văn hóa đã thực sự đem lại một bước tiến mới về chất so với các
phương pháp tiếp cận đương thời về văn hóa Việt Nam. Ở đó, với tư cách là một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng, văn hóa phải phản ánh hiện thực và do cơ sở
kinh tế quyết định. Đây chính là một nội dung căn bản của một trong những quy
luật cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với phương pháp tiếp cận này, Đề
cương văn hóa đã trình bày và cắt nghĩa khá chính xác theo lập trường mác xít
những vấn đề cốt lõi nhất của văn hóa Việt Nam đương đại: từ lịch sử có tính giai
đoạn đến tính chất của từng giai đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển văn hóa
Việt Nam; từ những nguy cơ hiện hữu đến những nguyên tắc vận động của nó; từ
tiền đồ đến mục đích trước mắt cũng như những việc cần kíp của những nhà văn
hóa,...
Không dừng lại ở đó, với sức mạnh của công cụ nhận thức khoa học, Đề cương
văn hóa đã tiến xa hơn khi vạch ra lộ trình của cuộc vận động văn hóa Việt Nam
với những hình thức, bước đi và mục tiêu phù hợp với điều kiện lịch sử. Theo đó,
mặc dù khẳng định “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải
thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”(2), nhưng trên cơ sở phân tích điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, Đề cương văn hóa đã xác định tính chất của
nền văn hóa mới mà Đảng ta chủ trương “chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa
hay văn hóa Xô Viết”(3). Đây là một nhận định rất đúng đắn, cho phép ngăn ngừa
ngay từ đầu những biểu hiện chủ quan, duy ý chí mang tính chất “tả khuynh”.
Cũng theo logic ấy, dựa chắc vào nguyên tắc lấy hiện thực lịch sử làm tiền đề, Đề
cương văn hóa đã xác định dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa là ba
nguyên tắc vận động cho cuộc vận động văn hóa Việt Nam đương đại. Khẳng định
phải dân tộc hóa vì văn hóa Việt Nam khi đó dưới ách áp bức của phát xít, thực
dân đã và đang bị nô dịch và chia rẽ nặng nề. Đó là một nền văn hóa thiếu hẳn tinh
thần độc lập, tự do và thống nhất dân tộc. Đặt nguyên tắc khoa học hóa lên vị trí
ưu tiên vì một nền văn hóa muốn thực sự mang tính cách mạng, trước hết nó phải
có một nền tảng khoa học chắc chắn làm tiền đề. Trong khi đó, ở một nước nông
nghiệp lạc hậu thì chủ nghĩa kinh nghiệm thường lấn át tri thức khoa học và khoa
học trong một nước bị đô hộ thì khó mà được ưu tiên phát triển. Đại chúng hóa là
một nguyên tắc của vận động văn hóa vì quần chúng là cội nguồn của sức mạnh, là
chủ thể đích thực của mọi giá trị văn hóa. Nhưng trên thực tế lúc đó, văn hóa lại
đang trở thành, hoặc là thứ xa xỉ mà quần chúng không thể với tới, hoặc là những
sản phẩm độc hại, phản giá trị mà quần chúng không thể thụ hưởng.
CẦN THỐNG NHẤT CÁCH CHÚ THÍCH TRONG TOÀN CÔNG TRÌNH
NCKH: những văn kiện này cần được sắp xếp theo abc vào danh mục tltk, sau đó
chú thích trong bài theo ngoặc vuông đã hướng dẫn ở trên: “câu trích” [số thứ tự
tào liệu trong Danh mục TLTK, tr. …].
(Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2013
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7,
tr. 316.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7,
tr. 316-319.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7,
tr.319.)

Mặc dù là công trình về văn hóa nhưng Đề cương văn hóa lại không chủ yếu bàn
về văn hóa nói chung, không quá chú trọng đến các vấn đề về học thuật hay câu từ
mà tư tưởng xuyên suốt là vấn đề về văn hóa giải phóng và giải phóng văn hóa
Việt Nam khỏi xiềng xích của văn hóa trung cổ và nô dịch.
Bản đề cương đã khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của văn hóa trong sự
nghiệp phát triển đất nước, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực cho cách mạng Việt
Nam thời kì này. Ngoài ra nó còn chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành cuộc cách mạng
trong lĩnh vực văn hóa. Điều đặc biệt là ba nguyên tắc mà bản đề cương đã nêu ra
đó là: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Đó là ba nguyên tắc căn bản mang
tính khái quát bởi nó thể hiện được những đặc trưng và tính chất của nền văn hóa
Việt Nam.
Có thể nói Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đặt nền móng cho việc xây
dựng và phát triển đường lối văn hóa, nó đã giải quyết được các nhiệm vụ mà cách
mạng văn hóa cần làm, đưa ra được mối quan hệ cần thiết giữa các vấn đề cách
mạng chính trị, kinh tế và văn hóa. Tóm lại bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm
1943 đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển của văn hóa Việt
Nam từ khi ra đời cho đến ngày nay.
Bản đề cương văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu,
khoa học, nghiêm túc. Nó được xem là sự kết tinh trí tuệ và kinh nghiệm tập thể
của cả một quá trình xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà. “Đề cương văn hóa,
từ năm 1943, văn hóa, văn nghệ cách mạng của chúng ta đã được đặt vào đúng quỹ
đạo và từ đó đến nay, nó đi thẳng trên con đường lớn, dành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác”2 Đề cương đã hoàn thành được nhiệm vụ đưa con đường phát triển
văn hóa Việt Nam vào đúng quỹ đạo của nó.

1.2.3. Giá trị lịch sử


Với bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó, khi “vǎn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và
hoàn toàn có tính cách thuộc địa”1 thống trị, thì sự ra đời của “Đề cương về văn
hóa Việt Nam” là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng; là ngọn đuốc sáng soi
đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn
hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Nó đã lôi cuốn và tập hợp đông đảo những người hoạt động văn hóa yêu nước vào
Hội Văn hóa cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh - để chuẩn bị cho
cuộc Tổng khởi nghĩa vào tháng 8-1945. Chính vì vậy, Đảng ta đã nhấn mạnh:
“Những phương pháp cải cách vǎn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc
cách mạng triệt để mai sau”2, tức là chuẩn bị cho “cách mạng chính trị thành
công”.
Trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng duy
vật, “Đề cương về văn hóa Việt Nam” đã luận giải một cách sắc sảo tình hình tư
tưởng, văn hóa, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, chỉ ra sự tác động của
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tội ác tột cùng của phát xít Nhật cùng thực
dân Pháp cấu kết với bọn tay sai, bán nước. Đề cương cũng chỉ rõ bản chất, âm
mưu, thủ đoạn dã man, tàn ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp trong việc trói
buộc và bức tử nền văn hóa nước ta. Qua đó, cảnh báo nguy cơ có thể bị diệt vong
đối với một quốc gia dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, nhưng đang
mất độc lập, chủ quyền.
Ðề cương văn hóa có giá trị soi sáng về nhận thức, về phương pháp luận. Ý nghĩa
lịch sử lớn lao của nó là đã tập hợp được đông đảo đội ngũ trí thức, một nhân tố
quan trọng bảo đảm cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau đó vài năm,
và là hạt nhân làm nảy nở, phát triển sức mạnh văn hóa, sức mạnh dân tộc trong
hai cuộc kháng chiến tiếp theo.
Viện sĩ Hoàng Trinh đã đánh giá: Ðề cương là "một văn kiện cứu nước, một bản
hịch văn hóa". Nhà thơ Huy Cận cũng đã từng viết: "Năm 1943, anh chị em làm
văn thơ và nghệ thuật chúng tôi đã tiếp nhận Ðề cương về văn hóa của Ðảng với
một tấm lòng rất náo nức, phấn khởi. Vì chúng tôi thấy Ðảng Cộng sản đã rất coi
trọng vấn đề dân tộc, để lên hàng đầu trong các phương châm, điều đó thỏa mãn
lòng mong đợi của chúng tôi, những người mang hoài bão thiết tha về dân tộc, về
văn hóa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên, mà Ðề cương mới ra đời đã nhanh chóng
tập hợp được nhiều nhà văn hóa, nhiều văn nghệ sĩ trong Hội Văn hóa cứu quốc,
Bản Ðề cương chứa chan tinh thần dân tộc, tinh thần cố hữu của giống nòi, đồng
thời nó cũng mở ra triển vọng xây dựng một nền văn hóa mới sau khi giải phóng,
hợp với xu thế của thời đại". Giáo sư Ðặng Thai Mai khẳng định: "Ðề cương văn
hóa xác định thêm niềm tin của tôi". Nhà thơ nghệ sĩ sân khấu Trần Huyền Trân
cảm nhận: "Ðề cương không chỉ là những cặp mắt của trí tuệ, của tình cảm lớn
thấu suốt... mà còn là ý chí sắt thép, chiến thắng ngoại xâm. Ðề cương ấy soi mãi
bước chân đi...".
Ðể tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường hội nhập và phát triển, chúng ta cần
có điểm tựa. Ðiểm tựa đó chính là văn hóa, là tinh thần dân tộc.

Chương 2
CHỦ TRƯƠNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG VĂN HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ CỦA ĐẢNG - SỰ KẾ THỪA VỀ
ĐƯỜNG LỐI TỪ ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM 1943

2.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho thế hệ trẻ - sự tiếp nối các giá trị của Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943
2.1.1. Bối cảnh
2.1.1.1. Bối cảnh trong nước
Nhìn chung, thế hệ trẻ Việt Nam được giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng ngày
một tốt hơn, phần lớn thanh thiếu niên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con
đường phát triển của đất nước, sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và bản
thân. Giới trẻ hiện nay rất năng động, sáng tạo, không ngừng học hỏi để nâng cao
kỹ năng, cả về thể chất lẫn tinh thần. Đặc biệt hiện nay thanh thiếu niên Việt Nam
rất lạc quan, tự tin trong cuộc sống, sống có bản lĩnh hơn, nhạy bén hơn và nhận
biết được vai trò, trách nhiệm của bản thân đối với quốc gia, dân tộc. Điều này rất
cần trong xã hội ngày càng hội nhập, đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay.
Tuy nhiên việc định hướng giáo dục cho thế hệ trẻ cũng như một số thực trạng xã
hội về lứa tuổi này còn gặp một số khó khăn. Đó là việc nhiều bạn trẻ hiện nay
không thực sự mặn mà với việc tiếp thu các kiến thức lý luận, bỏ qua tầm quan
trọng thực tiễn của việc học lý luận chuyên sâu. Thực tế là giới trẻ cho rằng kiến
thức môn học là nhàm chán, khó hiểu, khó áp dụng và việc học chỉ là để chống đối.
Thanh niên dễ sa vào chủ nghĩa hình thức, chưa bám sát vào yêu cầu thực tiễn của
việc trao đổi ls luận. Vì thế thanh niên dễ mắc sai lầm khi cho rằng kỹ năng là căn
bản, kiến thức chuyên môn không quan trọng bằng. Đặc biệt một vấn đề gây khó
khăn cho việc giáo dục tư tưởng cho giới trẻ hiện nay đó là các bạn cảm thấy rất
mệt mỏi, khó tập trung, hứng thú và rất nhàm chán khi học các môn liên quan đến
chính trị.Đa số các bạn đều không thích và có thái độ chống đối, thiếu tính tích cực
trong các giờ học chính trị. Các khóa học, các lớp bồi dưỡng về tư tưởng chính trị
là con đường chủ yếu nâng cao trình độ nhận thức lý luận cho thanh niên. Tuy
nhiên một bộ phận thanh niên không coi trọng việc học, thiếu tính tự giác, cho rằng
kiến thức ấy là cao siêu.
Bên cạnh đó, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống văn hóa cho thế hệ
trẻ còn nhiều yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm
quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có
nhiều thay đổi. Việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về công tác giáo dục thế hệ trẻ chưa kịp thời và hiệu quả, nhiều mục tiêu
còn chưa đạt yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận
giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý
tưởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số thanh niên bị các
thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ đang diễn biến phức tạp.
2.1.1.2. Bối cảnh quốc tế
Trong những năm gần đây và sắp tới, tình hình thế giới sẽ biến đổi rất phức
tạp, khó lường; khoa học công nghệ và kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ; mức độ
toàn cầu hóa ngày càng cao. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai
trò, trách nhiệm sẽ ngày càng đè nặng lên vai thế hệ trẻ - thế hệ tương lai của nước
nhà. Thanh thiếu niên sẽ phải suy nghĩ dần đến việc giúp gì được cho đất nước,
làm sao để có thể đưa đất nước bắt nhịp với tiến độ phát triển chóng mặt ấy, làm
thế nào để Việt Nam ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như lời căn
dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại năm xưa. Khó khăn còn nhiều hơn khi thế hệ
trẻ tiếp tục là đối tượng, mục tiêu mà các thế lực thù địch tập trung lôi kéo, kích
động, chia rẽ. Như chủ nghĩa hư vô lịch sử luôn tìm cách tấn công hòng bôi nhọ
lịch sử Đảng ta và đất nước ta, làm xấu đi hình ảnh các vị lãnh tụ của Đảng. Một
bộ phận không nhỏ thanh niên trở nên hoài nghi đối với lý tưởng, quan điểm, nhận
thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh mất sự kiên định theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Do tình hình bối cảnh như vậy nên công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức. lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ ngày càng quan trọng. Những chủ trương của
Đảng về vấn đề này là thực sự cần thiết, nó làm cho chúng ta nhớ đến vai trò
không thể thiếu của đề cương văn hóa Việt Nam 1943, bản đề cương còn nhiều giá
trị để chúng ta kế thừa về đường lối trong giai đoạn hiện nay
( trang thông tin điện tử trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh ) CHÚ DẪN
CHO CHUẨN THEO HƯỚNG DẪN Ở TRÊN, BÀI VIẾT LẤY TRÊN MẠNG
CŨNG CẦN ĐƯỢC DẪN NGUỒN, VÍ DỤ: Nguyễn Văn A, Giá trị lịch sử của
Đề cương văn hoá 1943…, dẫn nguồn link, truy cập ngày 5-5-2020.
2.1.2. Nội dung
2.1.2.1. Nghị quyết 25-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”

Cần gia công thêm các phần trong 2.1.2. này sao cho thành 1 chỉnh thể thống
nhất, chứ không chỉ là copy paste thế này. Phải giới thiệu về Nghị quyết này,
tóm tắt các mục chính, làm gọn rõ, chứ không phải bê nguyên xi thế này.
Trong chính văn của công trình nghiên cứu, nhất định không viết in hoa, đậm
bừa bãi (chỉ dành cho tên Chương), cần bám sát mẫu văn bản (nghiêng, hoặc
đứng, đậm hoặc mảnh…) của Đề cương bên trên để làm.

QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH NIÊN
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1. Quan điểm chỉ đạo
- Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm
trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo,
phát triển,thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và
phát triển vững bền của đất nước.
- Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng vừa
chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, gia đình, nhà trường và xã hội.
- Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ
trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh
niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập
và noi theo.
- Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật chính sách,
chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các
ngành.
- Sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên
thời kỳ mới. Mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên là nội dung quan trọng
của công tác đoàn để giáo dục, bồi dưỡng, động viên và phát huy vai trò thanh niên
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Mục tiêu
Mục tiêu chung
Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân
tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng,
ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh
trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp
trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh
niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học -
công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Hình thành một lớp thanh niên
ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”; góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên rèn luyện, cống hiến
và trưởng thành; được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống văn
hoá, tinh thần lành mạnh.
Mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt, trọng tâm từ nay đến năm 2010 là:
“Nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên, nhất
là học sinh, sinh viên. Tập trung giáo dục, định hướng, cổ vũ thanh niên thực hiện
có hiệu quả Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
tạo chuyển biến thực sự trong đạo đức, lối sống và hành động của thanh niên.
- Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và
trưởng thành. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác
thanh niên trong thời kỳ mới. Tập trung nguồn lực, thực hiện thành công Chiến
lược thanh niên đến năm 20l0.
- Có chính sách mang tính đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực trẻ chất lượng
cao đáp ứng quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hưởng thụ văn hoá, vui chơi, giải trí của thanh
niên.
- Tạo bước chuyển biến mới về chất lượng tổ chức và hoạt động của Đoàn, Hội;
phát triển các loại hình tổ chức tập hợp thanh niên nhằm tăng tỷ lệ thanh niên được
tập hợp; thu hẹp cơ sở yếu kém, tăng tỷ lệ thanh niên vào Đoàn, Hội. Xây dựng đội
ngũ cán bộ đoàn, hội, nhất là cán bộ chuyên trách có phẩm chất đạo đức, trình độ,
năng lực, gương mẫu, có khả năng vận động, đoàn kết, tập hợp thanh niên. Đảm
bảo đủ số lượng cán bộ đoàn chuyên trách theo quy định, ít nhất 70% đội ngũ cán
bộ đoàn chuyên trách trong độ tuổi thanh niên.
- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên từ đoàn viên, phấn đấu đạt tỷ lệ ít nhất
70% đảng viên mới được kết nạp từ đoàn viên. Bố trí, sử dụng cán bộ trẻ có đủ tiêu
chuẩn về phẩm chất và năng lực nhằm tăng nhanh tỉ lệ cán bộ trẻ trong cơ cấu các
cơ cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ
Trung ương đến các cấp ở địa phương so với hiện nay.
3. Nhiệm vụ và giải pháp
3.1 Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa, ý thức
công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và
quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
- Đầu tư hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về thanh niên và
công tác thanh niên trong tình hình mới; dự báo xu hướng phát triển, nhận thức,
thái độ của thanh niên để có luận cứ khoa học, thực tiễn, kịp thời đề ra các chủ
trương, chính sách giáo dục, bồi dưỡng thanh niên trở thành lực lượng to lớn, xung
kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường
giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử của Đảng và dân tộc, lý tưởng cách mạng
cho thanh niên. Coi trọng giáo dục thanh niên trong hoạt động thực tiễn và các
phong trào thi đua yêu nước.
- Xây dựng chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị mới cho thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chủ động hơn công tác chính trị, tư tưởng; nắm bắt và dự báo
tình hình tư tưởng thanh niên; kịp thời đấu tranh, tuyên truyền làm rõ các âm mưu,
luận điệu sai trái, giúp thanh niên hiểu và tích cực đấu tranh với âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
- Bảo đảm tính chính trị, sự định hướng của Đảng làm phong phú và sâu sắc hơn
các nội dung giáo dục, nhất là về lý tưởng, đạo đức lối sống, trong hoạt động báo
chí xuất bản, văn hoá, văn nghệ hướng thanh niên vươn tới giá trị chân - thiện -
mỹ. Chấn chỉnh, đổi mới hoạt động và quản lý báo chí, xuất bản nói chung nhất là
báo chí, xuất bản trong hệ thống Đoàn, Hội, thực sự là phương tiện hữu hiệu giáo
dục thanh niên.
- Mọi cấp uỷ đảng, nhất là người đứng đầu thường xuyên nắm tình hình định
hướng và kiểm tra việc thực hiện công tác thanh niên; phân công đảng viên phụ
trách công tác Đoàn, Hội; lãnh đạo Đảng, Chính quyền các cấp định kỳ gặp gỡ, đối
thoại với thanh niên. Kết quả công tác thanh niên, công tác đoàn và phong trào
thanh niên là một tiêu chí đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng hằng năm. Mỗi
đảng viên phải là tấm gương sáng cho thanh niên noi theo.
3.2. Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi thanh niên được
học tập, không ngừng nâng cao trình anh, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang
tầm với thanh niên các nước tiên tiến trên thế giới.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý nội
dung, phương pháp dạy và học; xây dựng một số cơ sở giáo dục - đào tạo đạt trình
độ quốc tế; khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo nước ngoài tại Việt Nam đối
với một số ngành, lĩnh vực cần thiết đáp ứng sự nghiệp phát triển đất nước. Xác
định rõ mục tiêu đào tạo từng cấp học, bảo đảm giáo dục toàn diện về đức - trí - thể
- mỹ nhằm hình thành lớp thanh niên có đủ bản lĩnh và năng lực, có tri thức và kỹ
năng vươn lên ngang tầng với thanh niên các nước tiên tiến. Xây dựng cho thanh
niên ý thức tự học, học tập suốt đời, phương pháp tư duy sáng tạo, độc lập, khả
năng làm việc tập thể, kỹ năng thích nghi và tự tin trong cuộc sống.
- Tạo cơ hội cho thanh niên được thụ hưởng chính sách giáo dục, chú trọng tới nữ
thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nông thôn, thanh niên khuyết
tật. Sớm có biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học trong thanh thiếu thi. Phấn đấu
hoàn thành phổ cập bậc trung học cơ sở cho thanh niên. Mở rộng chính sách tín
dụng ưu đãi cho thanh niên vay để học tập trong các cơ sở đào tạo sau giáo dục
phổ thông.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên học tập ở nước ngoài bằng nhiều nguồn
lực khác nhau. Nhà nước dành ngân sách thỏa đáng để lựa chọn sinh viên giỏi, cán
bộ trẻ có năng lực để đưa đi đào tạo ở các nước phát triển. Quản lý, giúp đỡ thanh
niên học tập ở nước ngoài. Chú trọng công tác tư vấn, lựa chọn ngành học; bố trí,
sử dụng có hiệu quả số thanh niên du học về nước.
3.3. Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải
thiện đời sống cho thanh niên.
- Huy động nhiều nguồn lực xã hội, đầu tư ngân sách thỏa đáng để đẩy mạnh dạy
nghề, phổ cập sơ cấp nghề cho thanh niên. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề,
giải quyết việc làm; có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt
các nghề kỹ thuật cao; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao
động; tín dụng ưu đãi cho thanh niên vay tạo việc làm, lập nghiệp; khuyến khích
thanh niên đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
-Xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp, việc làm
cho thanh niên. Bảo đảm cơ cấu hợp lý trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
- Tập trung đào tạo hình thành nguồn nhân lực khoa học - công nghệ có chất
lượng cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ mới đáp ứng yêu cầu của kinh tế
tri thức, tạo mũi nhọn phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tập trung dạy nghề cho thanh niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ,
thanh niên dân tộc thiểu số. Khuyến khích đào tạo nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất. Chú trọng giáo dục ý thức kỹ, thuật kỹ năng lao động, tay nghề cho thanh
niên đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; đồng thời có biện pháp quản lý, giáo
dục, giúp đỡ số thanh niên này.
- Tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất
tạo việc làm mới và tăng thu nhập cho thanh niên, cải thiện đời sống. Phát triển thị
trường lao động lành mạnh, năng động. Khuyến khích thanh niên làm giàu chính
đáng. Nhà nước hỗ trợ để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức sản xuất
kinh doanh cho thanh niên nông thôn; biểu dương, tôn vinh thanh niên làm kinh tế
giỏi. Phát huy thế mạnh lao động nông nghiệp để đưa đi lao động ở một số quốc
gia có địa bàn phù hợp.
3.4. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng
cao đời sống văn hoá tinh thần, phát triển toàn diện
- Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động ''Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'' gắn với xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên thoái hoá, biến chất, vi phạm pháp luật, tạo môi trường chính trị và đạo đức
lành mạnh củng cố niềm tin cho thanh niên. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội
bức xúc, tạo chuyển biến trong phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội (nhất là ma
tuý, mại dâm, mê tín dị đoan), an toàn giao thông bảo vệ môi trường sống..., góp
phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, hình thành lối sống văn hóa trong
thanh niên.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ quan văn hoá, văn học nghệ thuật, xuất
bản, báo chí sáng tác và phổ biến nhiều công trình, tác phẩm có giá trị cao để giáo
dục thế hệ trẻ. Tăng cường quản lý văn hoá, xử lý nghiêm các sai phạm, kịp thời
ngăn chặn các sản phẩm không lành mạnh tác động xấu đến thanh niên, nhất là qua
Internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sớm hoàn thiện quy hoạch
mạng lưới và từng bước xây dựng các trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi, trung
tâm sinh hoạt dã ngoại, nhà thiếu nhi trong toàn quốc. Sớm có chính sách để các
thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá-thể thao, phát triển các
loại hình giải trí lành mạnh cho thanh niên.
- Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong
nâng cao chất lượng dân số, hôn nhân và xây dựng gia đình hạnh phúc, biết chăm
lo và nâng cao sức khỏe bản thân. Chú trọng giáo dục tiền hôn nhân, kiến thức và
kinh nghiệm sống cho thanh niên. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chiến lược,
chương trình mục tiêu quốc gia về dân số, chăm sóc sức khỏe, phòng, chống
HIV/AIDS, trong đó tập trung là đối tượng thanh niên.
- Đầu tư, đổi mới nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường. Đẩy mạnh xã hội
hoá các phong trào thể dục, thể thao quần chúng, huy động và tạo điều kiện để
thanh niên luyện tập thể dục, thể thao, rèn luyện sức khỏe.
3.5. Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tài năng trẻ, tạo bước chuyển có tính đột
phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực
- Tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trẻ đều được tham
gia phát triển đất nước; bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan
trọng, phù hợp trong hệ thống chính trị, nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ trong các cơ quan
lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Tạo bước đột phá trong việc bố trí, sử dụng
cán bộ trẻ cán bộ trong độ tuổi thanh niên ở tất cả các cấp, coi đây là một nội dung
quan trọng về công tác cán bộ của Đảng để lựa chọn cán bộ lãnh đạo cho tương lai.
- Xác định tiêu chí và phương pháp khoa học để phát hiện, theo dõi quá trình phát
triển các tài năng trẻ, nhất là số học sinh, sinh viên xuất sắc, cá nhân điển hình
trong các phong trào thanh niên. Xây dựng chương trình đào tạo thích hợp để hình
thành đội ngũ tài năng trẻ trên mọi lĩnh vực, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Có chính sách sử dụng và đãi ngộ hợp lý để thu hút tài năng trẻ đang học tập,
công tác, sinh sống ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước.
3.6. Xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh thực sự là
trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đội dự bị tin cậy của Đảng
- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng Đoàn thực sự vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thu hẹp nhanh các cơ sở đoàn yếu kém. Nâng cao
sức hấp dẫn các phong trào thanh niên do Đoàn tổ chức, qua đó tạo môi trường
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, khơi dậy và phát huy tính xung kích của tuổi trẻ,
xây dựng các điển hình thanh niên tiên tiến, chăm lo lợi ích chính đáng của thanh
niên; phát hiện, lựa chọn đoàn viên ưu tú để bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng
viên và đào tạo cán bộ trẻ.
Bảo đảm vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong xây
dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam vững mạnh;
đổi mới phương thức vận động, đa dạng hoá các loại hình tập hợp để thu hút rộng
rãi các đối tượng thanh niên. Tăng cường xây dựng lực lượng thanh niên nòng cốt
để thành lập tổ chức cơ sở của Đoàn, Hội ở mọi lĩnh vực.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn các cấp thực sự có trình độ năng lực,
nhiệt tình, có khả năng vận động quần chúng, độ tuổi sát với tuổi thanh niên, thực
sự tiêu biểu trong thanh niên. Ban hành quy chế cán bộ đoàn, xác định rõ trách
nhiệm các cấp uỷ đảng trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển cán
bộ đoàn. Thực hiện định biên cán bộ đoàn chuyên trách khối cơ quan hành chính
sự nghiệp, doanh nghiệp. Xây dựng Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nằm
trong hệ thống đại học quốc dân và trường Đoàn các khu vực thực sự trở thành
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn.
- Tạo mọi điều kiện để Đoàn huy động, tổ chức cho thanh niên tham gia thực hiện
các nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Chăm lo xây dựng Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, tích cực, bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ làm công tác thiếu nhi, chuẩn hóa tổng phụ trách Đội, phụ trách thiếu nhi trong
các trường tiểu học, trung học cơ sở, nhà thiếu nhi.
- Có nội dung, phương thức vận động phù hợp để tập hợp thanh niên đang học
tập, lao động ở nước ngoài, thanh niên Việt kiều; cung cấp kịp thời các thông tin
về tình hình đất nước, có các hình thức hỗ trợ kịp thời, động viên thanh niên không
ngừng học tập, lao động, hướng về Tổ quốc.
- Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
với các tổ chức thanh niên các nước trong khu vực và thế giới, cùng phấn đấu cho
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tích cực hợp tác trên mọi lĩnh
vực với các tổ chức thanh niên tiến bộ trên thế giới.
3.7. Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức kinh tế- xã
hội và gia đình, phối hợp giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác
thanh niên, mỗi đoàn thể phải có chương trình cụ thể về công tác thanh niên, quy
chế phối hợp hoạt động với Đoàn và các tổ chức thanh niên, chú trọng công tác nữ
thanh niên; phân công cán bộ làm công tác thanh niên; vận động đoàn viên, hội
viên thuộc đoàn thể mình tham gia tập hợp, giáo dục thanh thiếu nhi; tham gia
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách liên quan đến thanh niên và công
tác thanh niên.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể nhân dân các bậc lão thành cách mạng, các
nhà hoạt động văn hóa xã hội, nhân sĩ, trí thức, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh
hùng lao động, doanh nghiệp và gia đình với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh để chăm lo giáo dục, xây dựng ước mơ, hoài bão, bồi dưỡng và phát huy
thanh niên.
- Đề cao trách nhiệm của gia đình trong giáo dục, quản lý thanh niên, xây dựng
gia đình hạnh phúc, là môi trường quan trọng hình thành nhân cách, giáo dục ý
thức công dân, giữ gìn và phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc cho thanh thiếu nhi. Biểu dương các gia đình nuôi dạy con tốt, phê phán
các gia đình không làm tốt nghĩa vụ giáo dục, quản lý con em. Gia đình tạo điều
kiện, động viên con em là thanh niên tham gia hoạt động xã hội và cống hiến cho
đất nước.
3.8. Phát huy sự nỗ lực phấn đấu của mỗi thanh niên trong học tập, lao động và
cuộc sống; không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách trở
thành công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình, tích cực đóng góp cho sự
phát triển của đất nước
- Mỗi thanh niên phải luôn rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong học tập, lao động
và cuộc sống; nhận thức rõ vị trí, vai trò, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của thanh
niên với Tổ quốc; tích cực tham gia sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp
phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” và cho chính tương lai của thanh niên.
- Thanh niên luôn chủ động và không ngừng học tập, nâng cao trình độ, kiến thức
chuyên môn, tay nghề; cần cù, chịu khó, sáng tạo, có tác phong công nghiệp trong
lao động; vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng.
- Thanh niên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh,
giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc; có thái độ và hành vi ứng xử cao đẹp trong
tình bạn, tình yêu; yêu thương con người, chăm lo hạnh phúc gia đình; kính trọng
ông bà, cha mẹ, thầy, cô giáo và người lớn tuổi; tích cực rèn luyện, nâng cao sức
khỏe, trở thành công dân hữu ích, thành viên tốt của gia đình; hăng hái tham gia
các hoạt động cộng đồng.
- Thanh niên luôn xung kích, tình nguyện, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; đảm nhận những việc khó khăn, gian khổ khi
Đảng, Tổ quốc và nhân dân yêu cầu.
3.9. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác
thanh niên
- Củng cố kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam đủ mạnh và giao
cho Uỷ ban một số nhiệm vụ, quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công
tác thanh niên theo lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công phân cấp của Chính
phủ. Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở các tỉnh, thành phố, trực thuộc
Trung ương làm nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân nhân tỉnh , thành phố thực
hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn tổ
chức thực hiện mô hình này.
- Xác định chỉ số về thanh niên và công tác thanh niên trong chỉ số thống kê quốc
gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp
- Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của Đoàn, các tổ chức thanh
niên đối với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về
thanh niên, công tác thanh niên.
- Thực hiện tốt Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để thiếu
nhi phát triển toàn diện, trở thành những thanh niên tốt.
- Tập trung chỉ đạo để hoàn thành các mục tiêu trong Chiến lược phát triển thanh
niên Việt Nam đến năm 2010; xây dựng Chiến lược phát triển thanh niên Việt
Nam đến năm 2020, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; cụ thể hóa các
chủ trương của đảng trong giáo dục, bồi dưỡng phát huy thanh niên.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh niên phù hợp với tình hình mới. Ban hành Luật
Việc làm. Sớm ban hành cơ chế, chính sách để giải quyết chỗ ở, nơi sinh hoạt văn
hóa, thể thao cho thanh niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học
sinh, sinh viên đang học tập.

2.1.2.2. Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015- 2030”
CẦN LÀM RÕ BỐI CẢNH RA ĐƠI, GIỚI THIỆU VÀ TÓM TẮT CÁC
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỈ THỊ, KHÔNG COPY NGUYÊN XI THẾ NÀY.

Theo chỉ thị, Ban bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
1- Nhận thức đúng, đầy đủ tính cấp bách và tầm quan trọng của công
tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ, từ
đó xác định trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn xã hội đối với công tác này
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ là nhiệm
vụ chiến lược, lâu dài, quan trọng, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng.
Đầu tư cho giáo dục, trong đó có giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hoá cho thế hệ trẻ là đầu tư cho tương lai của đất nước. Đây là nhiệm vụ của
toàn Đảng, của các cấp, các ngành, đoàn thể, gia đình và toàn xã hội; tạo điều kiện
tối đa cho thế hệ trẻ học tập, lao động, cống hiến, là lực lượng xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và vận động toàn xã hội thấy được ý
nghĩa, vai trò, sự cần thiết của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hoá cho thế hệ trẻ; nhìn nhận đúng thế mạnh, cũng như những hạn chế
vốn có của giới trẻ Việt Nam, đổi mới nội dung, phương thức giáo dục thanh thiếu
nhi. Lãnh đạo cấp uỷ, tổ chức đảng và chính quyền định kỳ gặp gỡ, đối thoại, nắm
bắt tâm tư, tình cảm, định hướng tư tưởng, giải quyết kịp thời nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng và chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thế hệ trẻ.
Chủ động, kịp thời cung cấp thông tin chính thống về tình hình trong nước và thế
giới cho thanh niên. Chú trọng tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước,
gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đấu tranh phòng,
chống "diễn biến hoà bình", phản bác các luận điệu, thông tin sai trái; tăng sức đề
kháng cho thế hệ trẻ trước sự chống phá của các thế lực thù địch.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, nhất là các cơ
quan báo chí, xuất bản của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Khắc phục tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản
hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, làm ảnh hưởng đến nhận thức, tư tưởng
của thế hệ trẻ. Chú trọng khai thác, sử dụng có hiệu quả các phương tiện truyền
thông hiện đại, thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là Internet trong công tác giáo
dục thanh thiếu nhi.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ cán
bộ làm công tác giáo dục thanh thiếu nhi các cấp. Xây dựng đội ngũ làm công tác
thông tin, định hướng tuyên truyền trên mạng Internet; nâng cao hiệu quả hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, giảng viên chính trị… làm công
tác giáo dục thế hệ trẻ.
2- Xây dựng môi trường lành mạnh, tạo điều kiện để thế hệ trẻ học tập, rèn
luyện, phấn đấu, trưởng thành
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ tư khoá XI về công tác xây dựng Đảng; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ
Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; phát huy vai
trò, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; ngăn
chặn và từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên.
Thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước liên quan đến thanh thiếu nhi, gắn với việc thực hiện các Chương
trình mục tiêu quốc gia, Chiến lược Phát triển gia đình Việt Nam, Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em, Chiến lược Phát triển thanh niên Việt Nam, Chương
trình xây dựng nông thôn mới… Tăng cường giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện
chính sách, pháp luật liên quan. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn, lên án các hành vi
bạo lực, vi phạm pháp luật. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan
đến công tác giáo dục thanh thiếu nhi.
Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người", có ý thức tự trọng, tự chủ, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, phù hợp thuần phong mỹ tục, truyền
thống của người Việt Nam.
Tăng cường quản lý văn hoá, thông tin, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm văn hoá
độc hại, thông tin sai trái tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ,
nhất là qua các trang mạng xã hội, trang web phản động, đồi truỵ. Có cơ chế
khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ quan văn hoá, văn học nghệ thuật, xuất bản,
báo chí sáng tác và phổ biến tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, góp
phần định hướng, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ
trẻ. Khai thác, phát huy hiệu quả các thiết chế và sản phẩm văn hoá hiện có; đầu tư
xây dựng các thiết chế văn hoá mới; phát triển các loại hình giải trí lành mạnh cho
thanh thiếu nhi. Xây dựng môi trường văn hoá công sở; khu dân cư tiên tiến; làng,
xã, gia đình văn hoá.
Từng bước tăng ngân sách đầu tư cho sự nghiệp giáo dục lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Ưu tiên bố trí quỹ đất và kinh phí để xây
dựng trường học, công trình phúc lợi, vui chơi, giải trí cho thanh thiếu nhi.
Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tạo chuyển biến trong phòng,
chống tội phạm và tệ nạn xã hội (nhất là ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan), an toàn
giao thông, bảo vệ môi trường sống, bảo đảm cho thế hệ trẻ được an toàn trong
cuộc sống, học tập, vui chơi.
3- Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, giữa các ban,
ngành, đoàn thể trong công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hoá cho thế hệ trẻ
Đề cao vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo
vệ thanh thiếu nhi; cùng với nhà trường giáo dục hình thành nhân cách và trang bị
kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Xây dựng và nhân
rộng các mô hình gia đình văn hoá, ông bà, cha mẹ, anh chị mẫu mực, con cháu
hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, gia đình đoàn kết, thương yêu nhau, bảo vệ cái tốt,
cái đúng, chống lại cái xấu, cái ác.
Xây dựng trường học thực sự trở thành trung tâm văn hoá, giáo dục, rèn luyện
thanh thiếu nhi; kết hợp hài hoà giữa học chính khoá và ngoại khoá, qua đó góp
phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Tạo
điều kiện để các tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong trường học phát huy vai trò, ảnh
hưởng và tích cực tham gia quá trình giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính
trị, đạo đức, bảo đảm thực chất, giúp thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc, toàn diện về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sống có văn hoá, nghĩa tình, phấn đấu
thực hiện mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", bồi đắp lòng
yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con
đường phát triển đất nước.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá", các phong trào thi đua yêu nước; tạo điều kiện thuận lợi để thanh
thiếu nhi tham gia các hoạt động thực tiễn, qua đó rèn luyện, cống hiến, trưởng
thành.
4- Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức của thanh thiếu nhi
Tăng cường giáo dục chính trị cho thế hệ trẻ bằng nhiều hình thức phong phú, đa
dạng, với sự tham gia, phối hợp có trách nhiệm của nhà trường, gia đình, đoàn thể
và toàn xã hội. Thường xuyên trao đổi, đối thoại với thế hệ trẻ, kịp thời nắm bắt,
dự báo tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong thanh thiếu nhi, nhất là
ở các thành phố lớn và địa bàn nhạy cảm. Kịp thời đấu tranh, phê phán, uốn nắn
nhận thức lệch lạc, biểu hiện sai trái trong cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi.
Đề cao vai trò nêu gương của cán bộ Đoàn, Hội, Đội, nhân rộng điển hình tiên
tiến gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
phát huy tinh thần tự học tập, rèn luyện, phấn đấu trong cán bộ, đoàn viên, thanh
thiếu nhi.
Tổ chức Đoàn, Hội, Đội chủ động phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội
trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ.
Xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của hệ thống các nhà văn hoá thanh thiếu
nhi, trường đào tạo, báo chí, xuất bản của Đoàn trong công tác này.
Chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thanh
thiếu nhi qua các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, qua đó, vừa làm
công tác giáo dục, vừa phát huy vai trò của lớp trẻ tham gia phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; đồng thời, tăng cường khả năng đoàn kết, tập
hợp thanh thiếu nhi vào tổ chức.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác giáo dục
của Đoàn; tiến hành đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Đoàn, Hội, Đội phù hợp với yêu cầu, tình hình mới.
Nâng cao chất lượng đoàn viên và công tác bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú
cho Đảng.
5- Tổ chức thực hiện
Cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp có biện
pháp cụ thể, thiết thực thực hiện Chỉ thị này.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc thể chế hoá, xây
dựng các đề án, chương trình thực hiện Chỉ thị.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ động phối hợp
với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện Chỉ thị
này.
Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và các bộ, ngành liên quan đôn đốc, theo dõi việc thực hiện
Chỉ thị, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.

2.1.2.1. Chủ trương chính sách của Đảng từ khi ra đời đến trước thời kỳ đổi
mới năm 1986
Trong giai đoạn này cùng với sự phát triển chung của các mặt trận quân sự, chính
trị, kinh tế thì mặt trận văn hóa đã có những bước phát triển mới. Trong hội nghị
mở rộng vào tháng 1/1948 nghị quyết hội nghị đã nêu rõ: “Về văn hóa giáo dục
động viên văn hóa thật sự tham gia kháng chiến ủng hộ kháng chiến, đào tạo nhân
tài và cán bộ cung cấp cho các ngành kháng chiến” (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, tập 9, năm 1948, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.24).
CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH
Như vậy nghị quyết của trung ương Đảng đã đặt vấn đề phát triển văn hóa nên
ngang tầm với các nhiệm vụ khác trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Những nội dung được đề ra đều bám sát với những kế hoạch được đưa ra trong
bản Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 của Tổng bí thư Trường Chinh. Đảng
xác định rõ các nhiệm vụ của mặt trận văn hóa cần phải phục vụ cho kháng chiến
bởi vì trong đề cương có nêu phải thành công trong cách mạng chính trị mới có thể
thành công trong cách mạng văn hóa.
Bản đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đã khẳng định: “Phải tiến lên thực
hiện cách mạng xã hội” (Cách mạng xã hội và văn hóa xã hội.)
Một loạt các hoạt động khác của Đảng chú trọng đến vấn đề phát triển văn hóa
như thành lập Hội văn nghệ Việt Nam (7-5-1948). Hội này tập hợp đông đảo các
đoàn thể sân khấu, nhạc sĩ, họa sĩ, kiến trúc... Việc thành lập hội văn nghệ Việt
Nam như thế này cũng là một trong những bước đi đúng đắn của Đảng. Thành lập
hội nhằm quy tụ các nghệ sĩ cùng tham gia trong phong trào xây dựng và phát triển
văn hóa dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng, điều này tạo nên một môi trường
phát triển có tính thống nhất về mặt nội dung cũng như tổ chức.
Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh việc tích cực đấu tranh
trên mặt trận chính trị thì dưới sự chỉ đạo của Đảng mặt trận văn hóa cũng không
ngừng phát triển. Trong khoảng thời gian từ những năm 1948-1950 đã có nhiều
đoàn văn nghệ trung ương đi thực tế ở các đơn vị bộ đội đề tìm ra các đề tài sáng
tác và gây dựng phong trào văn hóa văn nghệ. Chính vì vậy đã có rất nhiều các văn
nghệ sĩ tham gia như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu… Bên cạnh đó thu
được rất nhiều các kết quả như là các tác phẩm văn học, bút ký, kịch ngắn. Không
những thế mà cũng đã có hàng loạt các tác phẩm nước ngoài mang tư tưởng mới lạ
du nhập vào Việt Nam. Các kết quả thu được của phong trào văn hóa văn nghệ
trong thời chiến nó phản ánh rõ rệt nhất những tư tưởng đường lối của Đảng đề ra.
Các tác phẩm đều nhằm mục đích phục vụ cho mặt trận chính trị, với cách trình
bày vấn đề dễ hiểu dễ tiếp cận, nội dung phong phú chân thực phù hợp với mọi
người mọi lứa tuổi
Vào tháng 2 năm 1951, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp trong
tình hình đất nước và quốc tế đang có nhiều biến động và chuyển biến quan trọng.
Trong bài báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam đã có trình bày đến vấn đề đường
lối tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng. Đặc biệt là trong phần nói về
văn hóa dân chủ nhân dân, bản báo cáo có khẳng định lại một lần nữa tính dân tộc,
khoa học và đại chúng, đồng thời cũng nêu rõ các chính sách văn hóa, giáo dục của
Đảng. Bên cạnh việc đưa ra những vấn đề phương hướng phát triển như thế thì
Đảng cũng mạnh mẽ và thẳng thắn nêu ra những điểm yếu trong công cuộc xây
dựng và phát triển văn hóa để rút kinh nghiệm .
Để nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa Đảng đã đi sát
theo nguyên tắc dân tộc hóa, chú trọng đến vấn đề thống nhất trong phát triển văn
hóa, đồng thời tích cực đẩy mạnh phong trào giáo dục như kiện toàn lại bộ máy và
chương trình học, xây dựng các trường học, mở các lớp bình dân học vụ. Tất cả
nhằm mục đích xóa mù chữ, bổ túc văn hóa cho người dân để họ có thể tiếp cận
được với nền văn hóa đồng thời nhờ đó sẽ đẩy lùi được các tư tưởng văn hóa ngoại
lai, phong kiến, những hủ tục lạc hậu...
Bước sang giai đoạn từ những năm 1954 trở đi, miền Bắc chuyển sang giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy mà kế hoạch của Đảng cũng có những
bước thay đổi cho phù hợp. Trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, nghị
quyết của Đảng có đề ra “Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ
nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nắm vững
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm
phản ánh chân thực hơn về cuộc sống mới, con người mới, góp phần giáo dục và
động viên nhân dân đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp thống
nhất nước nhà” (Văn kiện Đại hội, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam xuất bản, 1960, tập I, tr.187.) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY
ĐỊNH
Trong đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II họp vào tháng 2/1957 giữa lúc phong
trào của nhóm Nhân văn – Giai phẩm đang hoạt động với mục đích làm xuyên tạc
chủ trương tư tưởng của Đảng trên các lĩnh vực. Nhưng không vì thế mà phong
trào văn hóa văn nghệ bị mất phương hướng, Đảng vẫn đưa các vấn đề quan trọng
của bản Đề cương văn hóa ra dưới tình hình mới để thực hiện, nhằm tích cực chỉ rõ
những thủ đoạn âm mưu phá hoại của bọn Nhân văn-Giai phẩm.
Có thể nói bản Đề cương văn hóa Việt Nam giống như kim chỉ nam dẫn đường
cho sự gây dựng và phát triển nền văn hóa của dân tộc. Nhờ có bản đề cương mà
Đảng ta đã lãnh đạo phong trào cách mạng văn hóa thành công phù hợp với hoàn
cảnh thực tế của đất nước, không mắc phải sai lầm về đường lối, luôn phát huy
được hết những giá trị của bản Đề cương mang lại.
Đảng luôn luôn nhắc lại và củng cố những quan điểm của bản Đề cương văn hóa
Việt Nam đồng thời tích cực phát huy những điểm tích cực của bản Đề cương đề
có thể xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc một cách đúng đắn. Chính vì vậy mà
văn hóa văn nghệ đã có những bước tiến và thành quả mới. “Với tất cả những
thành tựu đã đạt được, văn nghệ miền Bắc nước ta hiện nay là một nền văn nghệ xã
hội chủ nghĩa , tuy còn trẻ tuổi nhưng nó đã tỏ ra có sức dồi dào và đầy hứa hẹn”
(Văn kiện của Đảng và nhà nước về Văn hóa văn nghệ, Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội, 1970, tr.82.) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH

Trước tình hình hoạt động văn hóa của Mỹ - ngụy ở miền Nam đang diễn biến
phức tạp như chúng dùng mọi hình thức đề tô vẽ cho bộ mặt của chúng tốt đẹp
nhằm lừa bịp người dân, đưa các trào lưu tư tưởng, mê tín dị đoan vào nhằm làm
biến chất nền văn hóa của dân tộc. Mỹ trực tiếp đưa các lối sống lối ăn chơi sa đọa
du nhập vào Việt Nam nhằm phá hủy tâm hồn ý chí của bộ phận thanh niên Việt
Nam. Những hoạt động này của địch đã để lại những hậu quả rất nặng nề cho đời
sống văn hóa tinh thần của thanh niên và nhân dân .
Trước nguy cơ của những chính sách đó thì nhân dân dưới sự chỉ đạo của Đảng
đã tiến hành đấu tranh chống lại văn hóa thực dân mới bảo vệ văn hóa dân tộc và
nhân phẩm con người. Đảng còn khẳng định tinh thần dân tộc qua bài nói “ Văn
nghệ phải góp phần giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, xây
dựng chủ nghĩa xã hội tiến tới thống nhất nước nhà “(Bài nói tại Đại hội văn nghệ
toàn quốc lần thứ IV, 12-1968) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH.
Ngoài ra thì Đảng còn quan tâm đến các phong trào đấu tranh hợp pháp của các tổ
chức trên mặt trận văn hóa như “lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc”, “hội bảo vệ
nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ”,… đ ặc biệt là có sự tham gia hoạt động tích cực
của Hội văn nghệ giải phóng, và các hoạt động văn hóa khác tiến hành dưới sự
lãnh đạo của Đảng.

2.1.2.2. Chủ trương chính sách của Đảng từ sau năm 1986 đến nay
Bước sang giai đoạn này, đây là một giai đoạn mới trong quá trình phát triển của
dân tộc, quá trình phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn có
những sự biến đổi to lớn trong sự phát triển của dân tộc. Sau khi hoàn thành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc năm 1975 dân tộc Việt Nam đã bước sang một thời
kì phát triển mới. Có thể nói đến bây giờ thì ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng
hóa, khoa học hóa, là những nguyên tắc hết sức quan trọng trong quá trình vận
động xây dựng và phát triển văn hóa. Nó trở thành cơ sở nền tảng cho mọi hoạt
động văn hóa. Mặc dù qua từng thời kì từng chặng đường phát triển khác nhau thì
những nội dung này sẽ có những sự vận dụng, kế thừa và phát huy, bổ sung để phù
hợp với hoàn cảnh.
Từ những nền tảng đó thì khi bước sang giai đoạn phát triển mới Đảng ta cũng
luôn chú trọng quan tâm đến vấn đề văn hóa, vận dụng và thay đổi một cách phù
hợp với điều kiện mới.
Trước hết có thể thấy trải qua từng thời kỳ lịch sử phát triển của dân tộc thì tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt là trong thời
kỳ bối cảnh thế giới đang ngày càng có những biến đổi vô cùng phức tạp thì việc
chú trọng phát triển văn hóa sẽ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong tiến
trình phát triển đổi mới đất nước. Trước tình hình đó thì bên cạnh việc đề cao vai
trò của bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng cũng đã nhận định rằng
cho đến nay thì bản đề cương mặc dù có nhiều khía cạnh không còn phù hợp hoàn
toàn với giai đoạn phát triển mới của đất nước nhưng những tư tưởng và quan điểm
cơ bản thì vẫn có ý nghĩa chỉ đạo đường hướng phát triển cho văn hóa của nước ta.
Thời kì này Việt Nam đang dần bước vào một thời kỳ mới với những cơ hội và
thách thức mới, đây được xem là bước chuyển mình quan trọng của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nghị quyết
hội nghị Trung ương bốn khóa (VII) đã nhận định: “Nhiệm vụ trung tâm của văn
hóa, văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng
ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu nước mạnh xã hội văn minh”. Đồng thời
bên cạnh đó là tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao, giao lưu văn hóa với nước
ngoài nhưng phải chủ trương chú trọng đến vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc.
Đảng xác định văn hóa văn nghệ có nhiệm vụ trực tiếp trong vấn đề này, văn hóa
văn nghệ đóng một vai trò điều tiết về mặt tinh thần cho sự phát triển của đất nước.
Cần phải tích cực phấn đấu đề cho ra đời những tác phẩm mới nhằm phản ánh
những hiện tượng nhân tố, những xu hướng tích cực, bồi dưỡng đạo đức cho người
dân, phát triển môi trường sống lành mạnh.
Vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta khi bước sang thời kỳ đổi
mới, Đảng đã không xa rời các nguyên tắc mà Đề cương văn hóa đã nêu ra bao
gồm ba nội dung chủ yếu là: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Trong nghị
quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã đề
ra năm quan điểm cơ bản về vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hóa:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng đã xác định và đặt vai trò của văn hóa vào đúng vị trí của nó đó là nền tảng
cho sự phát triển dân tộc mà nguồn gốc chính là nhân dân. Đảng nêu rõ quan điểm
đó là “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và từng cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Vì một
nền văn hóa Việt Nam dân tộc hiện đại, Nguyễn Phú Trọng, Nhà xuất bản văn hóa
thông tin, Hà Nội, 2002, tr.35) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH.
Tính dân tộc hóa và đại chúng hóa được giữ vững trọng công tác xây dựng và phát
huy đường lối phát triển văn hóa của Đảng.
- Nền văn hóa xây dựng phải là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa phát triển phải tập trung vào việc phát triển con người về các mặt tư
tưởng, đạo đức, lối sống phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Đảng nhấn mạnh
việc phát triển văn hóa phải tiên tiến, khoa học. Đó là việc phát triển hệ thống cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phải kế thừa và phát huy những thành tựu của nhân
loại. Mặc dù ko ngừng đề cao vấn đề phát triển tiên tiến mà Đảng còn nhấn mạnh
phát triển nhưng không được tách rời bản sắc vốn có của dân tộc, phải lấy nó làm
gốc rễ cho sự phát triển.
- Nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam vốn là một quốc gia có nhiều dân tộc khác nhau mỗi dân tộc đều có
những nét văn hóa riêng, chính vì vậy văn hóa Việt Nam mang nhiều màu sắc đa
dạng khác nhau. Đảng luôn chủ trương phát triển văn hóa một cách thống nhất
giữa các nền văn hóa với nhau. Điều đó sẽ tạo nên một sợi dây liên kết chặt chẽ
giữa các dân tộc, nêu cao tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Đảng đã thể hiện và phát huy hết khả năng lãnh đạo dẫn dắt của mình để xây
dựng một nền văn hóa phát triển phù hợp với điều kiện đất nước. Việc phát triển
văn hóa là nhiệm vụ của toàn Đảng bời việc nhân dân nỗ lực xây dựng và phát
triển trước hết là phục vụ cho chính nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mỗi cá
nhân đều phải góp phần xây dựng nền văn hóa của dân tộc mình.
- Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Trong sự nghiệp cách mạng văn hóa này, bên cạnh việc không ngừng nỗ lực xây
dựng thì cũng cần phải tiến hành đấu tranh chống lại các tư tưởng văn hóa phản
tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc với những giá trị cao quý
của con người.
Các quan điểm trên của Đảng đều có một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau,
tạo nên một sự thống nhất và hoàn chỉnh, góp phần xây dựng văn hóa đậm đà và
toàn diện.
Vai trò của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa được đề cao và được thể hiện
rất rõ qua các nghị quyết của Đảng. Dựa trên nền tảng là bản Đề cương văn hóa
Việt Nam năm 1943 của Đảng, qua từng thời kỳ và giai đoạn phát triển của đất
nước khác nhau thì chủ trương đường lối của Đảng cũng thay đổi một cách linh
hoạt và phù hợp với sự phát triển chung của đất nước.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) có đề cập đến vấn đề
văn hóa văn nghệ đã đa dạng hơn về nội dung và hình thức nhưng sự hưởng thụ
các giá trị văn hóa của người dân còn thấp và đặc biệt là những khu vực nông thôn
miền núi. Chính vì vậy mà nhiệm vụ quan trọng lúc này là cần phải phát huy hết
những điều kiện tốt nhất để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc.Tích cực nêu cao
tinh thần nhiệm vụ xây dựng gia đình văn hoá, bởi vì mỗi gia đình văn hóa sẽ tạo
nền tảng cho cả một xã hội. Về văn hóa văn nghệ, Đảng khuyến khích tự do sáng
tạo văn học, nghệ thuật, trong đó nhấn mạnh đến việc vừa phải phát huy các giá trị
truyền thống, vừa phải bám sát đời sống quần chúng nhân dân. Phát triển các sự
nghiệp thông tin báo chí, xuất bản, để góp phần nâng cao giá trị văn hóa góp phần
những giá trị văn hóa được đến gần với người dân hơn.
Đặc biệt trong nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7-1998) về xây dựng và phát
triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết này ra đời
trong hoàn cảnh nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập và phát triển. Có thể nói đây được xem như là một văn kiện riêng của
Đảng về văn hóa trong thời kỳ mới. Ở nghị quyết này đã không hề phủ nhận những
giá trị của bản đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 mà nó được nâng cao, bổ
sung thêm để phù hợp với điều kiện và nhiệm vụ cách mạng dân tộc trong thời kỳ
mới. Trong tình hình mới như hiện nay sau khi chiến tranh lạnh đã kết thúc các
cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn hóa đã có nhiều biến đổi khi mà các cuộc
du nhập văn hóa giữa các nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và diễn ra nhanh
chóng thì vấn đề văn hóa càng được nâng cao hơn. Với quan điểm về văn hóa của
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đó là văn hóa là bao gồm cả tư tưởng, học
thuật, nghệ thuật chính vì vậy mà Đảng đã đưa ra nghị quyết để xây dựng một nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể thấy phương châm dân tộc hóa, đại chúng
hóa, khoa học hóa đến nay vẫn còn giá trị tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng về
lĩnh vực văn hóa cùng việc xây dựng đường lối đúng đắn trong thời kỳ mới nó có
khác hơn. Bởi vì trong thời kỳ mới này với hai nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ tổ
quốc thì phương thức lãnh đạo của Đảng có khác để có thể vừa phù hợp vừa đảm
bảo giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Đảng phải đưa ra được đường lối
phương hướng nhiệm vụ sao cho phù hợp vừa uyển chuyển, mềm dẻo, mà đủ để
phát huy được tốt các năng lực sáng tạo, hoạt động văn hóa văn nghệ của mỗi cá
nhân của mỗi tập thể.
Đảng cũng đặc biệt chú trọng đến vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện
về các mặt chính trị, tư tưởng, trí tuệ, lối sống văn hóa, quan hệ cộng đồng xã hội...
Đề được như vậy thì xã hội cần phải có một nền tảng văn hóa sâu sắc tốt đẹp. Mối
quan hệ giữa con người và văn hóa đi liền với nhau.
Trong nghị quyết đại hội IX có đề cập đến vấn đề nhiệm vụ xây dựng văn hóa là
nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân ,mỗi người đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ
cùng góp phần xây dựng và phát triển văn hóa.
Một trong những vấn đề định hướng cho sự phát triển của đất nước trong giai
đoạn sau năm 2000 Đảng có chú trọng đến vấn đề phát triển văn hóa. Nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con
người mới, mà nền tảng là bắt đầu từ mỗi cá nhân mỗi gia đình. Việc xây dựng và
phát triển văn hóa cần phải đi cùng với việc chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa
văn hóa của các dân tộc Việt Nam. Tích cực trong công tác bảo tồn và phát triển
ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đảng cũng đề cập đến việc tích cực và khuyến
khích việc tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, giữ gìn và nâng cao các loại hình văn
hóa, nghệ thuật truyền thống, bảo vệ và tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử. Tăng
cường và hiện đại hóa các thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng, nội dung cho
phù hợp với các loại hình đối tượng văn hóa.

2.1.3. Những giá trị đã được tiếp nối, kế thừa


2.1.3.1. từ khi ra đời đến trước thời kỳ đổi mới năm 1986
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đi vào cuộc sống góp phần to lớn tạo
ra những chuyển biến cho cách mạng Việt Nam.
Mặc dù mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa của Việt Nam trong giai đoạn
này gặp rất nhiều khó khăn. Việt Nam vừa phải thực hiện đồng thời cả hai nhiệm
vụ đó là cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng văn hóa. Chính vì
vậy con đường xây dựng một nền văn hóa dân tộc theo đúng hướng là một điều
khó khăn và đầy thử thách. Đảng đã bám sát vào những điểm lớn của bản Đề
cương văn hóa Việt Nam mà phát triển và xây dựng nền văn hóa sao cho phù hợp
với hoàn cảnh và điều kiện của đất nước. Đảng đã luôn đề cao ba nguyên tắc cơ
bản trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 và vận dụng nó vào các chủ
trương chính sách đề ra. Tích cực phát triển mở rộng tính dân tộc và tính đại chúng
nhằm nâng cao nhận thức của người dân, mở rộng giá trị văn hóa của dân tộc nhằm
đẩy lùi những tàn dư văn hóa cũ.
2.1.3.2. từ sau năm 1986 đến nay
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam luôn luôn trung thành với ba
nguyên tắc. Cùng với sức sống mãnh liệt của nền văn hóa dân tộc thì tính dân tộc
ngày càng được biểu hiện một cách rõ nét hơn. Tính dân tộc trong thời đại mới
không còn là nguyên tắc mà nó trở thành mục tiêu của sự phát triển văn hóa Việt
Nam. Tính dân tộc được thể hiện qua những giá trị đặc trưng, những giá trị được
hình thành từ điều kiện tự nhiên điều kiện lịch sử, hoàn cảnh môi trường của từng
đất nước. Do đó mà tính dân tộc nó trở thành yếu tố nhằm phân biệt văn hóa của
khu vực này với khu vực khác. Có thể thấy cách nhìn nhận về vấn đề dân tộc hóa
trong thời kì này có hơi khác so với thời kỳ trước nhưng bản chất đều là nâng cao
giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Ngay từ khi bước sang thời kỳ mới, Đảng đã xác định được xây dựng nền văn hóa
mới nhưng phải dựa trên cơ sở của những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng
của Việt Nam. Bời vì những giá trị của dân tộc không phải có thể xây dựng trong
một hai ngày mà nó phải trải qua thời gian dài củng cố và phát triển . Như vậy có
thể thấy tính dân tộc nó mang ý nghĩa là những giá trị văn hóa đặc thù của dân tộc,
tồn tại lâu đời. Và khi nhắc đến bản sắc văn hóa dân tộc thì luôn nhấn mạnh đến
những giá trị đặc trưng đó. Bởi vậy mà khi xác định nguyên tắc xây dựng văn hóa
năm 1943 của Đảng đến nay vẫn còn những đóng góp nhất định. Có thể thấy mục
tiêu phấn đấu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc ”đó chính là một sự kế thừa phát triển của bàn Đề cương văn hóa Việt
Nam.
Trong thời kỳ mới nguyên tắc Đại chúng hóa được đảng vận dụng vào nội dung
phương hướng phát triển văn hóa, phát triển con người, với tư cách vừa là động lực
vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Quan điểm của Đảng đó là xây
dựng văn hóa chính là xây dựng con người, tạo điều kiện để phát huy nhân tố của
mỗi người sao cho phù hợp hiệu quả.
Trong nghị quyết 5 của Trung ương Đảng có nêu: “Nhiệm vụ của cách mạng và
tư tưởng văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân
dân, đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hết sức chăm lo đời
sống văn hóa ở nông thôn”. Đảng đã quan tâm về văn hóa với những chủ trương
đường lối phù hợp với từng cấp từng đối tượng. Với những quy định, những điều
khoản những quy chế được ban hành quy định thực hiện thì nó phần nào phản ánh
được tính đại chúng hóa trong văn hóa ở thời kỳ hiện nay.
Nhìn chung thì những giá trị nội dung của bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm
1943 nó đã để lại những giá trị to lớn và sâu sắc cho công cuộc xây dựng và phát
triển của dân tộc. Có thể những luận điểm những nguyên tắc đưa ra trong bản Đề
cương văn hóa Việt Nam năm 1943 nó phù hợp với thời điểm đó, những mục đích
nhiệm vụ của thời kỳ đó và khi sang một giai đoạn mới một thời kỳ mới thì nó có
sự thay đổi. Tuy nhiên bản chất sâu xa vẫn là những giá trị cốt lõi mà đề cương
mang lại. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 nó giống như một trang sách mới
cho tương lại cách mạng văn hóa Việt Nam. Trang sách mở ra cho văn hóa Việt
Nam một con đường mới với những hướng đi đúng đắn và phù hợp nhất, góp phần
làm nên chiến thắng trên con đường xây dựng và phát triển của dân tộc Việt Nam.
2.2. Thực tiễn triển khai chủ trương giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ trên cơ sở tiếp nối các giá trị của Đề cương Văn hóa Việt
Nam 1943
2.2.1. Những thành tựu
Chất lượng tổ chức, hoạt động được nâng cao
Ngay sau khi BCH T.W Ðảng khóa X ban hành Nghị quyết 25, BCHTƯ Ðoàn
khóa IX đã ban hành Nghị quyết về "Ðổi mới phương thức giáo dục của Ðoàn" chỉ
đạo hoàn thiện Ðề án "Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống, bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng cho thanh thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay". Với những nỗ lực đó,
trong 5 năm qua, công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa,
ý thức công dân cho thanh niên đã thu được những kết quả tích cực. Cuộc vận
động "Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác" tạo được chuyển biến trong
nhận thức và hành động của cán bộ Ðoàn, đoàn viên, thanh thiếu nhi. Ðồng hành
với thanh niên trong nghề nghiệp, việc làm là một nội dung quan trọng trong
phong trào của Ðoàn.
Các cấp bộ đoàn đã tập trung các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đối tượng
kết nạp Ðoàn, chủ động tạo nguồn, chú trọng bồi dưỡng thanh niên tiên tiến và đội
viên lớn tuổi để kết nạp vào Ðoàn, ở từng đối tượng, khu vực, nhất là tại những địa
bàn còn khó khăn. Công tác phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể đạt
nhiều kết quả tích cực. Việc triển khai thực hiện các chương trình phối hợp, kế
hoạch liên tịch... đạt hiệu quả cao. Công tác sơ kết, tổng kết và xây dựng chương
trình phối hợp trong giai đoạn mới được chú trọng, tạo cơ chế và nguồn lực hoạt
động cho công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, phát huy vai trò xung kích
của thanh niên trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; hỗ trợ,
giúp đỡ thanh niên lập thân, lập nghiệp (nguồn báo nhân dân) CHÚ DẪN NGUỒN
CHO CHUẨN QUY ĐỊNH
“Những năm gần đây, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều tiến bộ trong đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động. Công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi đã đạt được kết quả toàn
diện, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của
đoàn viên, thanh thiếu nhi. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống
văn hóa cho thế hệ trẻ được tăng cường. Nội dung, phương thức giáo dục không
ngừng được đổi mới. Các phong trào "Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp" tạo
được dấu ấn tốt trong đời sống xã hội, vừa tạo môi trường thực tiễn rộng lớn,
phong phú, thiết thực để giáo dục, rèn luyện thanh niên; vừa góp phần thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Đoàn đã có
nhiều cố gắng trong định hướng tư tưởng cho thanh niên trước những vấn đề mới,
phức tạp; tích cực tham gia giải quyết những khó khăn đột xuất nảy sinh như khắc
phục hậu quả thiên tai bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn; hỗ trợ và tạo điều kiện tốt
cho thanh niên học tập, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên. Tổ chức
Đoàn ngày càng được củng cố và phát triển. Mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên
được mở rộng. Công tác phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và
chăm sóc thiếu niên, nhi đồng được quan tâm. Ý thức chính trị của đoàn viên từng
bước được nâng lên; đội ngũ cán bộ Đoàn được chuẩn hóa, trở thành nguồn cán bộ
kế cận tin cậy của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp. Từ thực tiễn hoạt
động phong phú và sôi nổi của tuổi trẻ, trên khắp các lĩnh vực đã xuất hiện nhiều
tấm gương điển hình tiên tiến, thanh niên đi đầu và thành công trong học tập, lao
động, sản xuất, kinh doanh và hội nhập, góp phần tạo dựng hình ảnh đẹp về lớp
thanh niên Việt Nam thời kỳ mới, khẳng định vai trò của tổ chức Đoàn trong hệ
thống chính trị, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh” (Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) CHÚ DẪN
NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Theo đánh giá của Ban Bí thư T.Ư Ðoàn, hạn chế chủ yếu gồm tính cụ
thể hóa, năng lực tổ chức thực hiện Nghị quyết ở nhiều cấp bộ đoàn, nhiều cán bộ
đoàn chưa tốt; có biểu hiện chạy theo hình thức; thụ động trong tham mưu, đề xuất,
phối hợp triển khai thực hiện.
Chất lượng tổ chức Ðoàn tại cơ sở, nhất là ở khu vực xã, phường, thị trấn trên
thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; chất lượng tổ chức và hoạt động Ðoàn trên
địa bàn khu dân cư yếu. Công tác phát triển tổ chức Ðoàn, Hội tại các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất gặp nhiều khó
khăn; tác động, ảnh hưởng của tổ chức Ðoàn, Hội tại cơ sở đối với thanh niên
nhiều nơi chưa rõ nét.
Việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn kế cận tại một số địa
phương, đơn vị còn chưa được chú trọng đúng mức. Một bộ phận thanh niên thiếu
ý chí phấn đấu, thiếu kỹ năng xã hội, không chịu khó học tập, rèn luyện, dễ bị dao
động về lập trường tư tưởng, có biểu hiện lệch lạc về giá trị đạo đức và lối sống, đề
cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm với
cộng đồng, đi ngược lại thuần phong mỹ tục của dân tộc, sa vào các trào lưu mới
không phù hợp với văn hóa dân tộc; tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật
và mắc các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Một số thống kê cho thấy rõ hơn: Giai
đoạn 2007 - 2012, các lực lượng công an đã điều tra hơn 49.000 vụ phạm pháp
hình sự với gần 76.000 đối tượng người chưa thành niên phạm pháp. Riêng năm
2012, số vụ vi phạm pháp luật ở lứa tuổi này trong cả nước lên tới 8.820 vụ (tăng
231 vụ so với năm 2011) do 13.300 trẻ em và người chưa thành niên gây ra. Đặc
biệt, số vụ án do người chưa thành niên phạm tội lần hai trở lên chiếm tỷ lệ cao
(44,8%) (Nguồn: Báo cáo tại hội nghị góp ý cho “Dự án hỗ trợ người CTN vi
phạm pháp luật giai đoạn 2013-2016” do Sở LĐ-TB & XH TP. Hồ Chí Minh và
UNICEF tổ chức ngày 16/4/2013) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY
ĐỊNH.
Từ năm 2013 đến tháng 6 năm 2014, toàn quốc đã phát hiện 20.805 vụ trên tổng
số 30.389 đối tượng thanh thiếu niên phạm tội. Lực lượng công an các cấp đã tiến
hành điều tra làm rõ và xử lý hình sự 13.185 vụ với 21.297 đối tượng (chiếm 63%
số vụ, chiếm 70% số đối tượng) và xử lý hành chính 7.620 vụ với 9.092 đối tượng.
Trong đó: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục: 1327 người; giáo dục tại xã,
phường: 1.544 người; giao cho gia đình quản lý, giáo dục: 4.130 người, biện pháp
khác: 2.091 người (Nguồn: Bộ Công an, Thống kê số liệu thanh thiếu niên vi phạm
pháp luật năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014) CHÚ DẪN NGUỒN CHO
CHUẨN QUY ĐỊNH.

Chất lượng, hiệu quả của một số phong trào, mô hình, chương trình, hoạt động
của Ðoàn thiếu tính chiều sâu, bền vững; sức hấp dẫn thu hút tập hợp thanh niên
trong các hoạt động của Ðoàn, Hội chưa cao, tỷ lệ thu hút tập hợp thanh niên ở một
số nơi còn thấp; tổ chức, cán bộ đoàn nhiều nơi còn lúng túng trong tiếp cận, định
hướng cho thanh niên, trước nhu cầu, sở thích, trình độ của thanh niên, trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích của thanh niên…
Theo số liệu thống kê, thanh niên Việt Nam (16 - 30 tuổi) hiện nay có
25.078.764 người chiếm 27,7% dân số cả nước, trong đó nam chiếm 50,9% và nữ
chiếm 49,1% (Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014), Kết quả thống kê lao động thanh
niên 2011 - 2014) CHÚ DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH. Chúng ta có
nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào nhưng không tận dụng được triệt để, vẫn còn nhiều
người thất nghiệp, một phần do nguồn nhân lực trẻ nhiều mặt chưa đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; nhiều
cơ sở đoàn mới chỉ chú trọng đến công tác phát hiện, tuyên dương tài năng trẻ mà
chưa quan tâm đúng mức đến công tác tham mưu tạo cơ chế, chính sách đào tạo,
sử dụng tài năng trẻ, chưa quan tâm đúng mức tới việc đồng hành cùng tài năng trẻ
phát huy tài năng, trí tuệ cho sự phát triển của đất nước. Công tác đào tạo nghề,
giới thiệu việc làm, vốn vay cho thanh niên, nhất là trong thanh niên nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu; số vốn vay ủy thác qua kênh của Ðoàn Thanh niên còn thấp
so với nhu cầu của thanh niên; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm trong độ tuổi thanh
niên hiện nay còn cao. Các cơ sở, trang thiết bị phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí
cho thanh thiếu nhi còn thiếu; vấn đề chỗ ở, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao cho
thanh niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên
chưa được giải quyết thấu đáo.
Công tác nghiên cứu lý luận về thanh niên và công tác thanh niên chủ yếu được
thực hiện ở cấp Trung ương, trong khi ở cấp tỉnh, huyện và cơ sở, nội dung này
chưa được thực hiện tốt. Công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin
còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa có nhiều giải pháp hiệu quả. Nhiều đối
tượng thanh niên chưa được tiếp cận (hoặc không đáng kể) các nội dung về chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Một số cấp bộ đoàn, nhất là đoàn cơ sở chưa tích cực, chủ động trong tham mưu
cho cấp ủy đảng lãnh đạo toàn diện công tác thanh niên, trong phối hợp với chính
quyền tháo gỡ khó khăn vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến thanh niên
và công tác thanh niên. Hoạt động Ðoàn, Hội ở một số nơi có chiều hướng chạy
theo thành tích, chỉ quan tâm đến các hoạt động mang tính phong trào, bề nổi mà ít
quan tâm đến các hoạt động có tính chiều sâu, dài hạn, chuyên đề, đến hiệu quả
cuối cùng; một số cơ sở Ðoàn chưa quan tâm đúng mức đến chức năng trường học
xã hội chủ nghĩa của thanh niên; tư duy, trình độ, năng lực, phương pháp, kỹ năng
công tác (nhất là các kỹ năng xã hội) của nhiều cán bộ đoàn còn chưa theo kịp yêu
cầu chung của công tác thanh niên hiện nay; tính biến động nhanh, liên tục của đội
ngũ cán bộ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì và tổ chức hoạt động công
tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, nhất là trên địa bàn dân cư.
Mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; suy thoái kinh tế thế giới, khó
khăn của tình hình kinh tế - xã hội trong nước; tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn
xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch tiếp tục tìm mọi cách gia
tăng ảnh hưởng đến thanh niên, tác động đến tâm lý, tình cảm, nhận thức của giới
trẻ, làm hạn chế hiệu quả các biện pháp tuyên truyền, giáo dục của Ðoàn.
Trong giai đoạn tới, nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên vẫn xoay quanh bốn
vấn đề chính cần được gia đình, xã hội và Nhà nước quan tâm đáp ứng là: việc
làm, thu nhập, học tập và vui chơi giải trí. Tuy nhiên, cũng có những nhu cầu mới
đã được hình thành và ngày càng trở nên bức xúc trong đời sống của thanh niên, đó
là: Thanh niên ngày càng mong muốn được tiếp cận nhiều hơn về thông tin, luật
pháp, nguồn lực, cơ chế và chính sách phát triển thanh niên, các hoạt động trong
nước và quốc tế... Thanh niên cũng có nhu cầu học thêm nâng cao trình độ ngoại
ngữ, tin học hoặc học thêm các kỹ năng sống để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu
cầu công việc hoặc làm thêm góp phần nâng cao thu nhập. Thanh niên mong muốn
được rèn luyện và trưởng thành thông qua việc tham gia các hoạt động xã hội, hoạt
động từ thiện, nhân đạo và các hoạt động tình nguyện...

Chương 3
TIẾP TỤC PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
NĂM 1943 VÀO GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
VĂN HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM NÓI CHUNG, SINH VIÊN ĐẠI HỌC
BÁCH KHOA NÓI RIÊNG, PHỤC VỤ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

3.1. Vai trò của giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho
thế hệ trẻ trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước
Trong Di chúc, ngay sau phần nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”. Người nhấn mạnh: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”
vừa “chuyên”. Vì vậy, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, chính trị tư tưởng,
đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh thiếu nhi có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin, bản lĩnh chính trị, qua đó xây
dựng thế hệ trẻ có hoài bão, lý tưởng, khát vọng và trách nhiệm để xứng đáng làm
chủ nước nhà theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hiện lời di huấn của Người, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí
của thanh niên trong các giai đoạn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng luôn đặt niềm tin vững
chắc vào thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất
nước. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu,
vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Công
tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng; chú trọng chỉ đạo xây dựng tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động, xứng đáng là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, một bộ phận thanh niên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng, vọng ngoại, chủ nghĩa cá nhân. Một số ít
thanh niên dao động, tin theo những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch,
cổ súy cho chủ nghĩa tư bản, hoài nghi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Thực trạng đó đòi hỏi phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thanh niên.
Trước hết, cần phải đổi mới nội dung và phương thức giáo dục, nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm cho thanh niên
nhận thức đầy đủ, đúng đắn tính khoa học và cách mạng, giá trị trường tồn của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đặc biệt nhận thức rõ vị trí, vai trò to lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt
Nam. Động viên, cổ vũ thanh niên tham gia tích cực Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong thanh niên. Thông qua các phong trào hành động
cách mạng, các cuộc thi tìm hiểu lịch sử, truyền thống và tổ chức hoạt động về
nguồn làm cho thế hệ trẻ hiểu rõ được truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc.
Thanh niên cần phải hiểu rõ được những tấm gương thanh niên tiêu biểu trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (như Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi,
Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn Văn Thạc…) trân trọng, học tập và noi theo. Thanh
niên cần phải đến học tập, tham quan nhà bảo tàng và những di tích lịch sử cách
mạng (như Thành cổ Quảng Trị, Ngã Ba Đồng Lộc, Địa đạo Củ Chi…) để bồi đắp
thêm tình cảm uống nước nhớ nguồn, lòng biết ơn các thế hệ cha anh đã hy sinh
quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Cần tăng cường, giáo dục tinh thần say mê trong học tập và lao động sáng tạo, ý
chí quyết tâm phấn đấu vươn lên. Say mê học tập và lao động vốn đã là truyền
thống quý báu của cha ông ta mà thanh niên ngày nay không những phải học tập
mà phải phát huy cao độ. Học tập để lập thân, lập nghiệp; học tập để xây dựng đất
nước; con người có đạo đức, có tri thức là nguồn lực để phát triển đất nước. Thực
tiễn cho thấy, trên nhiều lĩnh vực, thanh niên Việt Nam đã vươn tới đỉnh cao,
mang vinh quang về cho Tổ quốc.
Giáo dục tinh thần đoàn kết, làm cho thanh niên nhận rõ được vai trò của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế trong lịch sử dân tộc cũng như trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bởi đây là vốn quý, là
tài sản, là sức mạnh của dân tộc và động lực phát triển đất nước. Thanh niên có
trách nhiệm giữ gìn, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, cần chủ động nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng thanh niên,
nắm những xu hướng tư tưởng chủ đạo để động viên khuyến khích; nhận biết
những nhận thức lệch lạc để kịp thời uốn nắn. Giải thích cho thanh niên nhận thức
rõ chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hoá. Nắm vững những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và cơ
hội chính trị, để kịp thời đấu tranh, tuyên truyền làm cho thanh niên hiểu rõ những
luận điệu sai trái; tích cực đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch.
Nhìn chung, thế hệ trẻ Việt Nam được giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng ngày
một tốt hơn; phần lớn thanh thiếu nhi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con
đường phát triển của đất nước, sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và bản
thân, có ước mơ, hoài bão, kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động,
sáng tạo, lạc quan, tự tin, dám nghĩ, dám làm; có nhiều đóng góp quan trọng trong
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ
trẻ còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và
đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất
nước có nhiều thay đổi. Việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác giáo dục thế hệ trẻ chưa kịp thời và hiệu quả; nhiều
mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu. Vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội trong chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ chưa được như mong muốn, chưa
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận
giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu
lý tưởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị
các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp.

3.2. Vai trò của viêc̣ giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội trong tiến trình hội nhập và phát
triển đất nước
Thực hiện lời căn dặn của Bác, trường ĐH Bách Khoa Hà Nô ̣i luôn quan tâm,
chú trọng công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho
sinh viên; xem đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa có tính
cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài trong quá trình lãnh đạo thực hiện mục
tiêu phát triển nhân tố con người, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, để xây
dựng thế hê ̣ sinh viên có hoài bão, lý tưởng, khát vọng và trách nhiệm để xứng
đáng làm chủ nước nhà.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động tòan sinh viên nhằm thấy được
ý nghĩa, vai trò của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ. Lãnh đạo trường tổ chứ gặp gỡ, đối thoại, nắm bắt tâm tư, tình
cảm, giải quyết kịp thời nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh viên. Tuyên
truyền các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực
đời sống xã hội. Khai thác, sử dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông
phục vụ cho công tác giáo dục sịnh viên.
Quan tâm và đầu tư kịp thời, tạo lập môi trường phát triển thuận lợi cho sinh
viên có cơ hội rèn luyện và trưởng thành. Thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến thanh thiếu
niên, gắn với việc thực hiện các Chương trình trọng điểm quốc gia, Chiến lược
Phát triển gia đình, Chiến lược Phát triển thanh niên Việt Nam. Tăng cường quản
lý văn hóa - thông tin, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm văn hóa độc hại tác động
đến nhận thức, tư tưởng của sinh viên.
Giáo dục lý tưởng cho sinh viên là trách nhiệm của tất cả mọi cán bộ, giảng viên,
nhân viên; phòng, khoa trong nhà trường; công việc này đòi hỏi phải có sự phối kết
hợp đồng bộ giữa nhiều tổ chức, bộ phận, trong đó có vai trò, nhiệm vụ của cấp ủy
Đảng, đảng viên giảng viên trong trường đại học: Quan tâm thường xuyên, chỉ đạo
sát sao các hoạt động của Đoàn khoa, Liên chi Hội,…: Trong các đợt sinh hoạt chủ
điểm, các kỳ Đại hội,… cần phân công các đồng chí đảng viên về tận từng Chi
đoàn, chi Hội để chỉ đạo trực tiếp các hoạt động; không những quan tâm về mặt tư
tưởng chính trị mà còn hỗ trợ kịp thời về mặt vật chất giúp sinh viên thuận lợi hơn
trong nhiều hoạt động; Mỗi đảng viên, giảng viên cần hòa mình với sinh viên để
nắm rõ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của sinh viên; giải quyết kịp thời các tình
huống trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình .Căn cứ nhu cầu, hoàn cảnh
cụ thể, Đoàn khoa, Liên Chi hội tổ chức các diễn đàn, các hội thi, các buổi sinh
hoạt tập thể để sinh viên thể hiện mục đích, lý tưởng, khát vọng của mình; Tập hợp
được các em, gắn kết tất cả sinh viên trong các khóa, các lớp thành một khối đoàn
kết chặt chẽ. Ghi nhận kịp thời sự đóng góp của các nhân tố tích cực trong các
khóa, lớp là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Mỗi một đảng viên, giảng
viên trong nhà trường phải trở thành một tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.
3.3. Quan điểm chỉ đạo, các định hướng tiếp tục phát huy giá trị của Đề
cương văn hóa Việt Nam 1943 trong giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống cho thế hệ trẻ
3.3.1. Quan điểm, định hướng chung
Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội lớn, xong những
khó khăn, thử thách cũng đặt ra rất gay gắt. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng
đã nêu rõ mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển văn hóa từ nay đến năm
2010 là:” Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố
thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của
dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Để thực hiê ̣n được mục tiêu đó thì giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống cho thế hệ trẻ đóng mô ̣t phần quan trọng Điều quan trọng. Chúng ta phải
làm cho văn hoá thấm sâu vào từng thế hê ̣ trẻ Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền
thống mới của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá mới của loài người, tăng sức đề
kháng chống văn hoá đồi truỵ, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động
xã hội và sinh hoạt của thế hê ̣ trẻ. Đây cũng chính là "nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa", "cách mạng nhất và tiến bộ nhất" mà Đề cương văn hoá Việt Nam năm
1943 đã chỉ ra.
3.3.2. Định hướng cho sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, đang trong quá trình định hình nhân
cách, đạo đức và lối sống. Đồng thời họ là những người tràn đầy sức sống, có hoài
bão, ước mơ, năng động, được đào tạo một cách cơ bản, toàn diện theo tất cả các
chuyên ngành; họ nhạy bén với cái mới, nắm trong tay tri thức thời đại… Chính vì
thế, đối với đối tượng này cần phải đưa ra được những định hướng, quy định chuẩn
mực cụ thể cả về hành động cũng như tinh thần cho sinh viên một cách đúng đắn
ngay từ khi ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Đối với trường ĐH Bách Khoa, ngay từ những ngày đầu thành lập trường thì
một nét văn hóa rất riêng của sinh viên Bách Khoa vẫn luôn được nhà trường chú
trọng và xây dựng. Ngày đất nước còn đang chiến tranh, theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc và hưởng ứng phong trào "Ba sẵn sàng", gần 200 cán bộ và 2.700 sinh
viên lần lượt nhập ngũ với quyết tâm:
“Ra đi chỉ một lời thề
Chiến thắng giặc Mỹ mới về Bách khoa”
Chính lực lượng này của Bách Khoa đã bổ sung kịp thời một số đáng kể cán bộ
kỹ thuật cho quân đội, nhất là đối với các binh chủng kỹ thuật như Không quân,
Phòng không, Cơ giới, Công binh, Thông tin...
Không ít cán bộ và sinh viên Bách Khoa đã lập những chiến công xuất sắc, nêu
gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng như Anh hùng Trần Thanh Hải, Anh
hùng liệt sỹ Vũ Xuân Thiều (binh chủng Không quân) - người đã lái chiếc Mig-21
lao thẳng vào pháo đài bay B52 trong đêm 25 tháng 12 năm 1972, Anh hùng liệt sỹ
Bùi Ngọc Dương (binh chủng Công binh) - người đã anh dũng hy sinh tại chiến
trường Khe Sanh năm 1968. Trước khi nhắm mắt, Anh đã dặn lại đồng đội báo cáo
với trường Bách Khoa là "Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ Trường giao cho"
Ngày nay, khi trật tự hòa bình đã lập lại trên nước ta, thì tại trường Đại học
Bách khoa Hà Nội văn hóa sinh viên - con người sinh viên vẫn luôn là điểm chú
trọng đặc biệt trong định hướng xây dựng và phát triển của Nhà trường. Với quan
điểm đặt sinh viên làm “chủ thể”, mọi quyết định đều dựa trên lợi ích, nhu cầu,
quan điểm của sinh viên. Nhà trường cần luôn luôn lắng nghe những ý kiến, tâm
tư, nguyê ̣n vọng của sinh viên qua viê ̣c tổ chức các buổi “Tọa đàm đối thoại giữa
sinh viên với lãnh đã nhà trường” để cải tiến cách giáo dục phù hợp.
Trong thời kì hô ̣i nhâ ̣p và phát triển hiê ̣n nay trường trường Đại học Bách
khoa Hà Nội đã và đang tạo mọi điều kiê ̣n cho sinh viên có thể tiếp câ ̣n với các
công ty trong và ngoài nước khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường để sinh viên có
thể định hướng rõ ngành nghề và vị trí sau này của bản thân khi ra trường qua các
buổi hô ̣i thảo giao lưu, nói chuyê ̣n với cựu sinh viên hay các công ty, doanh
nghiê ̣p,... Vì vâ ̣y trách nhiê ̣m của mỗi sinh viên Bách khoa là tích cực tham gia các
chương trình đó và luôn phải có thái đô ̣ tìm tòi, học hỏi không ngừng phát triển
bản thân đồng thời trau dồi kiến thức xã hô ̣i để bản thân trở nên hoàn thiê ̣n hơn.
Nêu cao lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc,
phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo... Trong thời kì 4.0 hiê ̣n nay có rất nhiều nguồn
thông tin, các trang mạng xã hô ̣i để bản thân câ ̣p nhâ ̣p tin tức bên cạnh những
nguồn tin chính xác thì còn có rất nhiều những tổ chức, cá nhân tung tin giả mạo
làm ảnh hưởng xấu tới suy nghĩ, hành đô ̣ng của thế hê ̣ trẻ. Thế hê ̣ trẻ nói chung và
đă ̣c biê ̣t là sinh viên Bách Khoa Hà Nô ̣i nói riêng phải biết chọn lọc những thông
tin chính xác phù hợp với bản thân và phải lên án phê phán những thành phần tung
tin giả mạo…
3.4. Giải pháp thực hiện
3.4.1. Giải pháp chung
Để có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra trong quan điểm định hướng, chúng ta
cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho thế hê ̣ trẻ về vị trí, vai trò của văn hóa; coi
phát triển sự nghiệp văn hóa là trách nhiệm của mọi cá nhân; coi đầu tư cho văn
hóa là đầu tư cho chính bản thân mình và cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tuyên truyền giáo dục thế hê ̣ trẻ giữ gìn phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và
xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa.Tạo điều kiện thuận lợi cho thế hê ̣ trẻ
tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa; ngăn chặn có hiệu quả những sản phẩm
văn hóa - nghệ thuật độc hại, các tệ nạn xã hội xâm nhập vào đời sống xã hội.
Chúng ta cần đặc biệt quan tâm khuyến khích các thanh thiếu niên lao động sáng
tạo để nhanh chóng có được ngày càng nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng
cao, xứng tầm thời đại, phản ảnh và ca ngợi cuộc đấu tranh cách mạng anh hùng
của dân tộc ta trong quá khứ và những thành tựu to lớn mà nhân dân ta giành được
trong lao động, đổi mới xây dựng đất nước. Xét cho cùng, nhiệm vụ bao trùm của
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là chúng ta phải ra sức giữ gìn và phát huy những di sản văn hóa của quá
khứ và tiếp tục sáng tạo, bồi đắp thêm cho truyền thống ấy bằng những giá trị văn
hóa mới của thời đại chúng ta, làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng thắm tươi,
rạng rỡ.
Trong thời kỳ hội nhập, tăng cường hơn nữa giao lưu văn hóa, trao đổi học
sinh sinh viên với các nước, giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới; tiếp thu có
chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học nghệ thuật mang đậm bản sắc, tâm hồn, cốt
cách của người Việt Nam với các nước. Hợp tác với các nước đào tạo tài năng văn
hóa nghệ thuật trên các lĩnh vực điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, hội họa... Đấu
tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy. Quan tâm tạo điều
kiện để cộng đồng du học sinh người Việt Nam ở nước ngoài được thu nhận thông
tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước, nêu cao lòng yêu nước và tự tôn dân tộc,
giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, ngăn chă ̣n
kịp thời những âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm mất ổn định chính trị
xã hội góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong quá trình mở rộng giao lưu,
hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa, cần đấu tranh chống lại khuynh hướng xa rời,
thoát ly truyền thống, tiếp thu không chọn lọc các khuynh hướng, các loại hình
nghệ thuật không phù hợp với truyền thống văn hóa và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cảnh giác với nước ta.
3.4.2. Giải pháp cho sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội
Đoàn Thanh niên trường Đại học Bách khoa Hà Nội cần tích cực phát động
nhiều phong trào để giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên, điển hình
như hai phong trào hành đô ̣ng cách mạng: “xung kích, tình nguyện phát triển kinh
tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”.
Tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, phát huy khả năng tìm tòi, tính sáng tạo
gắn với chuyên ngành học tập; đổi mới phương pháp học tập, trung thực trong thi
cử; thực hiện có hiệu quả phong trào “Sinh viên 5 tốt”. Giảng viên, giáo viên trẻ
thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Nhà giáo trẻ tiêu biểu”, nâng cao chất
lượng giảng dạy, tự nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực nghiên cứu khoa học.
Chú trọng giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng
cho sinh viên; tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch. Chủ động cung cấp thông tin, trang bị kiến thức, phương
pháp, kỹ năng để thanh niên tự phòng ngừa, tự sàng lọc, tự đấu tranh với các luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chống phá. Ngăn chặn, phản bác những
thông tin và luận điệu sai trái, tăng sức đề kháng cho sinh viên trước sự chống phá
của các thế lực thù địch; tham gia đảm đảm an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ an
ninh tư tưởng, an ninh văn hóa trên không gian mạng, nhất là mạng xã hội. Tiếp
tục tận dụng ưu thế của các công cụ, phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã
hội. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0, tập hợp, kết nối, giáo dục và định hướng thanh niên qua các
phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội được xác định là giải pháp quan
trọng trong đổi mới phương thức giáo dục, trong đó chú trọng tuyên truyền yếu tố
tích cực, người tốt, việc tốt, hành động đẹp trên mạng xã hội. Xây dựng các bộ
công cụ tuyên truyền, các sản phẩm truyền thông trên Internet, các ứng dụng trên
mạng xã hội và các thiết bị di động thông minh có nội dung tuyên truyền, giáo dục
lý tưởng cách mạng theo hướng trẻ trung, sinh động, phù hợp với thị hiếu của sinh
viên. Tổ chức một số cuộc thi qua mạng xã hội..
Chủ động mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hữu nghị và hợp tác
quốc tế; chú trọng phát triển quan hệ đi vào chiều sâu, thiết thực; không ngừng
nâng cao nhận thức, hỗ trợ trang bị kiến thức, kỹ năng để sinh viên chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế. Ưu tiên phát triển hợp tác sinh viên với các nước láng giềng,
ASEAN, các nước có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức, cơ chế hợp tác đa phương mà Việt Nam là thành viên. Thúc đẩy
hợp tác trên các lĩnh vực: phát triển thanh niên (đào tạo lãnh đạo trẻ, công dân tích
cực, công dân toàn cầu); môi trường và phát triển bền vững; tình nguyện vì cộng
đồng; khởi nghiệp sáng tạo; phát triển doanh nghiệp xã hội. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về tình hình quốc tế, các vấn đề quốc tế, toàn cầu cho sinh viên.
Nhà trường cần luôn quan tâm tạo điều kiện để cộng đồng sinh viên trao đổi
Quốc tế người Việt Nam ở nước ngoài được thu nhận thông tin và sản phẩm văn
hóa từ trong nước, nêu cao lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống,
bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây
dựng đất nước. Trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực văn
hóa, cần đấu tranh chống lại khuynh hướng xa rời, thoát ly truyền thống, tiếp thu
không chọn lọc các khuynh hướng, các loại hình nghệ thuật không phù hợp với
truyền thống văn hóa và định hướng xã hội chủ nghĩa. Cảnh giác với những âm
mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm mất ổn định chính trị xã hội nước ta.

KẾT LUẬN
Bản Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 là một cột mốc đánh dấu quan
trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
Trong thời chiến, đất nước trong tình thế vô cùng khó khăn nhưng Đảng và
Bác vẫn không quên rằng chúng ta phải đối phó không chỉ với giặc ngoại xâm
mà còn giặc đói, giặc dốt. Nhiệm vụ là phải chiến thắng cả ba thứ giặc này. Chủ
trương của Đảng đó là “Văn hóa không tách rời khỏi sự nghiệp cách mạng” với
khẩu hiệu được Bác Hồ đưa ra: “Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng
chiến”. Với những phương châm này văn hóa chính thức trở thành một mặt trận
của nhân dân ta. Trên mặt trận này ắt hẳn không thể thiếu đường lối để lãnh đạo
cho cuộc kháng chiến ấy. Và bản Đề cương văn hóa Việt Nam đã ra đời năm
1943 để đáp lại sự cấp thiết ấy. Nó chính là gốc rễ, có vai trò định hướng cho
nhận thức và hiểu biết của Đảng và nhân dân ta. Bản Đề cương đã đưa ra được
cốt lõi của dân tộc để Đảng có thể đưa ra những đường lối chính sách phù hợp
giúp nhân dân ta giành chiến thắng trên mặt trận văn hóa và góp phần không nhỏ
vào chiến thắng giặc ngoại xâm của đất nước dân tộc Việt Nam.
Đó là trong thời chiến, còn thời bình bản Đề cương vẫn khẳng định được vai
trò là cái gốc cho sự phát triển của đất nước trong các giai đoạn khác nhau,
khẳng định được tính thời đại tầm nhìn xa trông rộng của Đảng trong bất kỳ giai
đoạn nào của đất nước. Chính vì vai trò tất yếu ấy của bản Đề cương mà Đảng ta
luôn coi đó là động lực, là mục tiêu trên lĩnh vực phát triển văn hóa của dân tộc.
Dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa.
Đến giai đoạn hiện nay, bản Đề cương lại một lần nữa thể hiện vai trò của mình
trên lĩnh vực văn hóa của nước nhà. Bản cương lĩnh về văn hóa này đã trở thành
tiền đề cho các phương pháp giáo dục văn hóa thế hệ trẻ ngày nay góp phần xây
dựng lối sống tốt đẹp cho thế hệ tương lai đất nước. Bác từng viết: “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em” (trích trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, ngày 15-9-1945) CHÚ
DẪN NGUỒN CHO CHUẨN QUY ĐỊNH. Thế hệ trẻ chính là chìa khóa cho vận
mệnh của đất nước, lớp trẻ có đi đúng thì đất nước mới có thể phát triển được.
Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người sự nghiệp giáo dục cho giới trẻ lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa luôn là vấn đề cấp thiết trong bất kì
giai đoạn, thời kì nào. Đồng thời chúng ta phải coi đó là trách nhiệm của mỗi cá
nhân chứ không phải của riêng Đảng. Đảng đã và đang vận dụng, kế thừa những
giá trị của bản Đề cương văn hóa 1943 một cách có hiệu quả vào sự nghiệp trồng
người của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để đào tạo ra một thế hệ thấm
nhuần tư tưởng cách mạng, hiểu biết về lịch sử văn hóa nước nhà coi đó là tiền đề
để đưa giới trẻ phát triển đưa nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam ra
rộng khắp thế giới.
Sinh viên cả nước nói chung và sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội nói
riêng chính là những thế hệ chuẩn bị tiếp bước cho tương lai đất nước phải nhận
thức được những điều đó. Những giá trị mà cha ông ta đã vun đắp qua nhiều thế
hệ. Chúng ta phải biết vận dụng những đặc trưng văn hóa dân tộc một cách linh
hoạt hơn loại trừ những quan điểm cổ hủ, lạc hâu, bài trừ những thói quen văn
hóa xấu đang xâm nhập vào chúng ta. Tránh xa những lối sống văn hóa đồi trụy,
kệch cỡm không đúng với truyền thống dân tộc. Đặc biệt trong không khi cả
nước đang hướng về ngày kỉ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
một tấm gương sáng để noi theo và học tập từ lối sống văn hóa và tư tưởng cách
mạng của Bác. Sinh viên chúng ta lại càng phải thay đổi bản thân dựa trên
những giá trị mà bản Đề cương văn hóa Việt Nam đã lan tỏa để xứng đáng với
lời dặn dò và kỳ vọng của Bác dành cho thế hệ trẻ Việt Nam chúng ta.

LƯU Ý: NHẤT ĐỊNH CÁC EM PHẢI BÁM VÀO ĐỀ TÀI, ĐỀ CƯƠNG ĐỂ


VIẾT, ĐÂY LÀ ĐỀ CƯƠNG CHUẨN VÀ KHOA HỌC CHO VẤN ĐỀ NÀY.
ĐÃ LÀ CÂU TRÍCH, ĐOẠN TRÍCH TƯ LIỆU, SỐ LIỆU THÌ PHẢI DẪN
NGUỒN, NÓI CÓ SÁCH, MÁCH CÓ CHỨNG.
CHỈNH SỬA THEO BẢN NÀY, PHẦN NÀO CŨNG CẦN GIA CÔNG, PHẢI
LÀM DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO CHUẨN, SAU ĐÓ MỚI
CHÚ DẪN NGUỒN CHÚ THÍCH ĐƯỢC.
TẤT CẢ NHỮNG BÀI VIẾT, BÀI THAM KHẢO KỂ CẢ BẢN GIẤY, BẢN
ĐIỆN TỬ, TRANG ĐIỆN TỬ… ĐỀU PHẢI ĐƯỢC KÊ KHAI ĐẦY ĐỦ Ở
DANH MỤC TLTK.
CHỈNH SỬA TỐI ĐA CÁC LỖI DIỄN ĐẠT, VĂN BẢN, KỸ THUẬT, IN
ẤN…

You might also like