You are on page 1of 18

Leonardo Fibonacci, tỷ lệ vàng, dãy

số fibonacci
Mục lục
 1. Giới thiệu về Leonardo Fibonacci:
 2. Dãy số Fibonacci và tỷ lệ vàng
o 2.1. Bài toán con thỏ:
o 2.2. Câu trả lời cho bài toán con thỏ:
o 2.3. Dãy Fibonacci:
o 2.4. Tỷ lệ vàng:
o 2.5. Những điều đặc biệt:
 3. Dãy Fibonacci trong cuộc sống:
o 3.1. Fibonacci trong tự nhiên:
o 3.2.  Số Fibonacci và sự mọc của lá xanh từ thân cây:
o 3.3. Fibonacci trong thiết kế:

Bạn đã bao giờ tự hỏi ở đâu chúng ta có hệ thập phân chưa? Đế chế La Mã đã để lại cho Châu
Âu hệ thống số La Mã, số La mã đã không bị thay thế cho đến thế kỷ 13 sau công nguyên khi
mà Fibonacci xuất bản “Liberabaci” với ý nghĩa là “Cuốn sách của tính toán”.
1. Giới thiệu về Leonardo Fibonacci:
Leonardo Fibonacci, ngưới Ý, (khoảng 1170 – khoảng 1240) tên thật
là Léonard de Pise, tự Fibonacci (nghĩa là con của Bonaccio”),
Leonardo là con trai của một thương gia Pisan và cũng là một viên
chức hải quan ở Bắc Phi. Công việc của cha ông đã tạo sự thích thú
cho ông về môn số học và nhờ những chuyến đi dài ngày sang Ai
Cập, Syria, Hy Lạp, Sicily và Provence đã giúp cho ông có cơ hội tiếp
xúc với toán học Ai Cập và toán học Phương Đông. Ông bị thu hút
bởi tính thực tiễn cao của nền toán học Ấn Độ – Á Rập, Vào năm 1200 ông trở về Pisa và sử
dụng kiến thức mà mình học được trong các chuyến đi để viết “Liber abaci” trong đó ông đã
giới thiệu với cộng đồng nói tiếng La-tinh về hệ thập phân. Chương 1 của tập 1 bắt đầu như
thế này:
Đây là chín con số của người Ấn Độ: 9 8 7 6 5 4 3 2 1. Với chín con số này, và với ký hiệu 0
– cái mà trong Arabic được gọi là zephirum, thì bất kỳ số nào cũng có thể được viết ra và
cũng sẽ chứng minh được.
Vào năm 1202 ở tuổi 32 Fibonacci đã công bố công trình nổi tiếng của mình là “Liber
abaci”. “Liber abaci” viết về số học và đại số sơ cấp. Cuốn sách minh hoạ rất nhiều và bênh
vực mạnh mẽ các ký hiệu của Ấn Độ – Á Rập và đã tìm mọi cách đưa những chữ số này vào
Châu Âu. Trong 15 chương của công trình này đã giải thích cách đọc và cách viết các chữ số
mới , các phương pháp tính toán các căn bậc hai và bậc ba, việc giải các phương trình bậc
nhất, bậc hai bằng các quá trình đại số. Các nghiệm âm và ảo chưa được biết tới. Có đưa ra
những ứng dụng trong việc trao đổi, góp vốn, giải các bài toán hợp thành và hình học đo
lường. Công trình gồm cả một sưu tập lớn các bài tóan xem như kho tàng cho các tác giả về
sau trong nhiều thế kỷ. Một bài toán đưa đến dãy Fibonacci nổi tiếng.
Bằng tài năng đặc biệt của mình Fibonacci đã tìm ra các phép tính hoàn hảo. Ông có thể tìm
nghiệm dương của phương trình bậc 3 sau:

Điều đáng chú ý hơn là ông đã thực hiện tất cả các công việc của mình bằng cách sử dụng hệ
thống toán học của người Babylon với cơ số 60. Ông đã đưa ra kết quả là 1, 22, 7, 42, 33, 4,
40 nghiệm đó bằng:

Không biết bằng cách nào mà ông đã tìm ra


kết quả này, nhưng nó đã có 300 năm trước
khi một số người khác có thể tìm ra kết quả
chính xác như vậy. Một điều thú vị là khi
Fibonacci đưa ra kết quả bằng cách trên thì nó
đồng thời cũng thuyết phục những người khác
sử dụng hệ thập phân!
Tài năng của Fibonacci đã được Hoàng đế
Frederick II chú ý và đã được thỉnh về để dự
một cuộc tranh tài về toán học. Ba bài toán
được đặt ra bởi John ở Palermo. Bài toán đầu
tiên là tìm một số hữu tỉ x sao cho x +5 và x -5
2 2

đều là số những số bình phương của các số


hữu tỉ. Fibonacci đã giải và đưa ra đáp số đúng
là 41/12.
Vào năm 1225, Fibonacci đã viết “Liber quadratorum”, một công trình xuất sắc và độc đáo
về tính bất định khiến ông trở thành nhà toán học nổi tiếng trong lĩnh vực này cùng với
Diophantus và Fermat.
Vào thế kỷ XIII cũng xuất hiện một toán học cùng thời với Fibonacci là Jordanus
Nemorarius. Ông viết nhiều công trình về số học, đại số, hình học, thiên văn học và (có lẽ) cả
về tĩnh học . Những công trình này có giá trị không cao. Tuy nhiên Nemorarius có lẽ là người
đầu tiên đã sử dụng rộng rãi các chữ cái để biểu thị các số tổng quát. Đối với điều này,
Fibonacci chỉ làm trong một điều cá biệt duy nhất.

Vào những năm đầu của thế kỷ thứ XIII đã mọc lên những trường đại học ở Paris, Oxford,
Cambridge, Padua và Naples. Những trường đại học này sau này trở thành những nhân tố
quan trọng cho sự phát triển toán học sau này, và có nhiều nhà toán học đã có liên hệ với một
hoặc nhiều đại học trên.

Năm 1240, Fibonacci được cộng hòa Pisa vinh danh, đến nay tượng của ông được đặt tại thư
viện Camposanto.

2. Dãy số Fibonacci và tỷ lệ vàng


Fibonacci có lẻ được biết đến nhiều nhất với một dãy số đơn giản, được giới thiệu trong Liber
abaci và sau đó lấy tên là số Fibonacci để tôn vinh ông.

Dãy này bắt đầu với 0 và 1. Sau đó, dùng một quy tắc đơn giảnlà cộng hai số cuối để được số
tiếp theo:

1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233, 377, 610, 987,…
Bạn thắc mắc rằng nó đến từ đâu? Ở thời của Fibonacci thì các cuộc thi đấu và những thách
thức toán học là phổ biến.
Ví dụ như, Vào năm 1225, Fibonacci tham gia một cuộc thi đấu ở Pisa theo lệnh của vua
Frederick II.
2.1. Bài toán con thỏ:
Đây là một cuộc thi công bằng với bài toán đặt ra như sau:

Bắt đầu với một cặp thỏ duy nhất, nếu mỗi tháng mỗi cặp sản xuất (sinh sản) ra một cặp thỏ
mới, cặp thỏ mới này bắt đầu sản xuất khi chúng được 1 tháng tuổi, thì sẽ có bao nhiêu thỏ
sau n tháng?

2.2. Câu trả lời cho bài toán con thỏ:


Trong hình vẽ trên, ta quy ước:
 Cặp thỏ nâu là cặp thỏ có độ tuổi 1 tháng.

 Cặp thỏ được đánh dấu (màu đỏ và màu xanh) là cặp thỏ có khả năng sinh sản.

Nhìn vào hình vẽ trên ta nhận thấy:

 Tháng Giêng và tháng Hai: Chỉ có 1 đôi thỏ.


 Tháng Ba: đôi thỏ này sẽ đẻ ra một đôi thỏ con, do đó trong tháng này có 2 đôi thỏ.
 Tháng Tư: chỉ có đôi thỏ ban đầu sinh con nên đến thời điểm này có 3 đôi thỏ.
 Tháng Năm: có hai đôi thỏ (đôi thỏ đầu và đôi thỏ được sinh ra ở tháng Ba) cùng sinh
con nên ở tháng này có 2 + 3 = 5 đôi thỏ.
 Tháng Sáu: có ba đôi thỏ (2 đôi thỏ đầu và đôi thỏ được sinh ra ở tháng Tư) cùng sinh
con ở thời điểm này nên đến đây có 3 + 5 = 8 đôi thỏ.
 …

Khái quát, nếu n là số tự nhiên khác 0, gọi f(n) là số đôi thỏ có ở tháng thứ n, ta có:

 Với n = 1 ta được f(1) = 1.

 Với n = 2 ta được f(2) = 1.

 Với n = 3 ta được f(3) = 2.

Do đó với n > 3 ta được: f(n) = f(n-1) + Số đôi thỏ ở tháng thứ n.

Điều đó có thể được giải thích như sau: Các đôi thỏ sinh ra ở tháng n -1 không thể sinh con ở
tháng thứ n, và ở tháng này đôi thỏ tháng thứ n – 2 sinh ra một đôi thỏ con nên số đôi thỏ
được sinh ra ở tháng thứ n chính là giá trị của f(n – 2).

Đó là quy tắc đơn giản tạo nên các số Fibonacci.


2.3. Dãy Fibonacci:
Dãy Fibonacci là dãy vô hạn các số tự nhiên bắt đầu bằng hai phần tử 0 và 1, các phần tử sau
đó được thiết lập theo quy tắc mỗi phần tử luôn bằng tổng hai phần tử trước nó. Công thức
truy hồi của dãy Fibonacci là:

F0=0, F1=1, F2=1, F3=2, F4=3, F5=5, F6=8, F7=13, F8=21,…


Người ta chứng minh được rằng công thức tổng quát cho dãy Fibonacci là:

2.4. Tỷ lệ vàng:
Tỷ lệ vàng  (phi), được đinh nghĩa là tỷ số khi chia đoạn thẳng thành hai phần sao cho tỷ lệ
giữa cả đoạn ban đầu với đoan lớn hơn bằng tỷ số giữa đoạn lớn và đoạn nhỏ.

Có thể chứng minh rằng nếu quy độ dài đoạn lớn về đơn vị thì tỷ lệ này là nghiệm dương của
phương trình:
 
hay tương đương:

 
chính là số:

 
Như vậy, tỷ lệ vàng là một số vô tỷ. Tỷ lệ vàng
thường được chỉ định bằng ký tự φ (phi) trong bảng chữ cái Hy Lạp nhằm tưởng nhớ đến
Phidias, một nhà điêu khắc và kiến trúc sư của đền Parthenon.

2.5. Những điều đặc biệt:


Quan sát lại một lần nữa dãy Fibonacci:
0, 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233, 377, 610,…

Dãy số trên có những tính chất đặc biệt đáng chú ý. Thật vô cùng bất ngờ, tỷ số giữa hai số
liên tiếp nhau của dãy số đó ngày càng tiến đến số tỷ lệ vàng là 1.618 (căn bậc 2 của 5 cộng 1
rồi chia cho 2)

Thử lấy nghịch đảo của dãy số trên:

Thật thú vị khi:

Và:

Hay:

Ngoài ra ta còn có:


Bây giờ ta xem:

Mà 0.382=1 – 0.618

Còn nữa:

Ta có:

3. Dãy Fibonacci trong cuộc sống:


3.1. Fibonacci trong tự nhiên:
Dãy Fibonacci xuất hiện ở khắp nơi trong thiên nhiên. Những chiếc lá trên một nhành cây
mọc cách nhau những khoảng tương ứng với dãy số Fibonacci. Các số Fibonacci xuất hiện
trong những bông hoa. Hầu hết các bông hoa có số cánh hoa là một trong các số: 3, 5, 8, 13,
21, 34, 55 hoặc 89.
 3 cánh: hoa loa kèn, hoa Iris

 5 cánh: hoa dâm bụt, hoa cẩm chướng, mao lương vàng, hoa hồng dại, phi yến, hoa
sứ, hoa đào…

 8 cánh: phi yến

 13 cánh: cúc vạn thọ, cỏ lưỡi chó, một số loài cúc

 21 cánh: cúc tây, rau diếp xoắn

 34, 55, 89 cánh: hoa cúc, hoa mã đề

Các số Fibonacci cũng xuất hiện trong các bông hoa hướng duơng. Những nụ nhỏ sẽ kết
thành hạt ở đầu bông hoa hướng dương được xếp thành hai tập các đường xoắn ốc: một tập
cuộn theo chiều kim đồng hộ, còn tập kia cuộn ngược theo chiều kim đồng hồ. Số các đường
xoắn ốc hướng thuận chiều kim đồng hồ thường là 34 còn ngược chiều kim đồng hồ là 55.
Đôi khi các số này là 55 và 89, và thậm chí là 89 và 144. Tất cả các số này đều là các số
Fibonacci kết tiếp nhau (tỷ số của chúng tiến tới tỷ số vàng).

3.2.  Số Fibonacci và sự mọc của lá xanh từ thân cây:


Nhiều loài cây cũng có cách mọc lá tuân theo các số Fibonacci. Nếu chúng ta quan sát kỹ sẽ
thấy lá cây mọc trên cao thường xếp sao cho không che khuất lá mọc dưới. Điều đó có nghĩa
là mỗi lá đều được hưởng ánh sáng và nước mưa, cũng như nước mưa sẽ được hứng và chảy
xuống rễ đầy đủ nhất dọc theo lá, cành và thân cây.

Nếu từ một lá ngọn làm khởi đầu, xoay quanh thân cây từ trên xuống dưới, lá sang lá, đếm số
vòng xoay đồng thời đếm số chiếc lá, cho đến khi gặp chiếc lá mọc đúng phía dưới lá khởi
đầu, thì các số Fibonacci xuất hiện.
Nếu chúng ta đếm xoay theo hướng ngược lại, thì sẽ được một con số vòng xoay khác (ứng
với cùng chừng ấy lá).

Kỳ lạ là: Con số vòng xoay theo 2 hướng, cùng với số lá cây mà chúng ta gặp khi xoay, tất cả
sẽ tạo thành 3 con số Fibonacci liên tiếp nhau!

lấy lá (x) làm khởi điểm, ta có 3 vòng quay thuận chiều kim đồng hồ trước khi gặp lá (8) nằm
đúng phía dưới lá (x), hoặc là 5 vòng nếu quay theo ngược chiều kim đồng hồ. Vượt qua tổng
cộng 8 lá. 3,5,8 là 3 số liên tiếp trong dãy Fibonacci.
Các chiếc lá được đánh số khi quay vòng quanh thân từ trên xuống dưới, bắt đầu từ (x) rồi
đến 1,2,3,… Kinh ngạc thay, mỗi chiếc lá liền kề cách nhau khoảng 222.5°, tức là chính xác
0,618 vòng tròn. 0,618 chính là 1/Ф ( khác với hoa hướng dương là 1- 1/Ф).

Chiếc lá (3) và (5) là những chiếc lá phía dưới gần lá khởi điểm (x) nhất, rồi xuống tiếp nữa
là lá (8) rồi (13).

Có nhà nghiên cứu ước đoán rằng: 90% các loài cây có sự xếp lá tuân theo dãy số Fibonacci,
theo cách này hay cách khác.

Nếu bạn là một tín đồ của vận may, hẳn sẽ không lạ gì với cụm từ “cỏ bốn lá’”. Theo như
niềm tin tao nhã của những người sưu tập cỏ may mắn, mỗi cánh lá tượng trưng cho một điều
gì đó: lá thứ nhất tượng trương cho niềm tin; lá thứ hai là lá Hy vọng; lá thứ ba hẳn là lá của
Tình yêu; và lá thứ tư, là chiếc lá may mắn. Vậy sao mà không phải cỏ ba lá hay năm lá, có lẽ
vì thật sự rất rất hiếm cỏ bốn lá. Và cái gì hiếm thì mới quý!

Theo ta biết, dãy fibonacci không có số 4, nó chỉ gồm: 0, 1, 1, 2, 3, 5…Và như những quy
luật trên, cỏ bốn lá không tồn tại. Tuy nhiên, tạo hóa vốn không phải là điều gì đó có thể đóng
khung trung một hai quy luật. Có những loài cỏ có số lượng cánh cố định, thì cũng có những
loài cỏ (hạn hữu) có số lượng cánh thay đổi (dù nếu trung bình, chúng vẫn thuộc dãy
fibonacci). Vậy có thật sự tồn tại cỏ 4 lá? Có chứ, nhưng theo ước tính thì khoảng 10.000
chiếc cỏ ba lá thì có một chiếc có 4 lá.

3.3. Fibonacci trong thiết kế:


Logo quả táo của Apple không phải được vẽ một cách ngẫu nhiên trên máy tính mà nó tuân
theo hình chữ nhật vàng và dãy số nguyên Fibonacci. Hình chữ nhật được sử dụng để tạo nên
kích thước và kiểu dáng của quả táo khuyến Apple có các hình vuông nhỏ bên trong được
phân chia theo dãy số Fibonacci (hình dưới). Hình dáng của quả táo, các đường cong ở hai
đầu của quả táo, “vết cắn” bên phải, lá của quả táo đều được tạo hình từ hình chữ nhật vàng
với kích thước tuân thủ dãy Fibonacci.

Với các hình tròn trong thiết kế logo Apple, giả sử chúng có đường kính là các số trong dãy
Fibonacci (hình trên) thì chiếc lá táo được tạo thành từ hai hình tròn với đường kính là 8. Vết
cắn trên thân táo cũng tạo nên bởi một phần của hình tròn đường kính 8. Đường cong phía
dưới đáy được tạo thành từ hai hình tròn 5, một hình tròn 8 và một hình tròn với đường kính
là 1. Sự cân đối trong logo Apple có được cũng là do tỉ lệ vàng này.
Fibonacci là nền tảng của nguyên lý
sóng
Trong cuốn Luật Tự nhiên (Nature’s Law), Elliott đã chỉ ra rằng nền tảng toán học của
nguyên lý sóng chính là dãy số được Leonardo Fibonacci phát minh vào thế kỷ 15. Dãy
số đó đã được thừa nhận và thường được gọi là dãy Fibonacci. Dãy này gồm các con số 1, 1,
2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, và tiếp tục đến vô cực.

Dãy này có rất nhiều đặc tính thú vị, trong số đó là mối liên hệ gần như là
bền vững giữa các con số.
Quan sát lại một lần nữa dãy Fibonacci:

0, 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233, 377, 610,…

Dãy số trên có những tính chất đặc biệt đáng chú ý. Thật vô cùng bất ngờ, tỷ số giữa hai số
liên tiếp nhau của dãy số đó ngày càng tiến đến số tỷ lệ vàng là 1.618 (căn bậc 2 của 5 cộng 1
rồi chia cho 2)

Thử lấy nghịch đảo của dãy số trên:

Thật thú vị khi:

Và:

Hay:
Ngoài ra ta còn có:

Bây giờ ta xem:

Mà 0.382=1 – 0.618

Còn nữa:

Ta có:

Các hệ số fibonacci và sự thoái lùi


Chúng ta đã từng biết rằng lý thuyết sóng có ba khía cạnh: dạng sóng, hệ số và thời gian.
Phần quan trọng nhất về dạng sóng đã được nói đến. Vậy bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang
các hệ số Fibonacci và sự thoái lùi. Những mối quan hệ này đều có thể được áp dụng cho cả
giá cả và thời gian, dù hệ số Fibonacci được coi là đáng tin cậy hơn. Trong phần sau, chúng
ta sẽ thảo luận về khía cạnh thời gian.

Trước tiên, hãy xem ví dụ ở hình trên để thấy rằng mô hình sóng cơ bản luôn luôn được phân
thành những con số Fibonacci. Một chu kỳ đầy đủ bao gồm 8 sóng – năm tăng và ba giảm –
tất cả các con số đều thuộc dãy Fibonacci. Hai lần phân chia nữa sẽ sinh ra 34 và 144 sóng –
cũng thuộc dãy Fibonacci. Tuy nhiên, cơ sở toán học chuỗi Fibonacci của lý thuyết sóng đã
vượt ra khỏi việc đếm sóng đơn thuần. Có một số câu hỏi về mối quan hệ tỷ lệ giữa những
sóng khác nhau, và sau đây là những hệ số Fibonacci được sử dụng thông dụng nhất:
1. Một trong ba sóng xung lượng đôi khi lại được nối dài. Hai sóng còn lại bằng nhau
về thời gian và độ lớn. Nếu sóng 5 được nối dài, sóng 1 và 3 có thể sẽ bằng nhau. Nếu
sóng 3 được nối dài, sóng 1 và 5 có xu thế bằng nhau.

2. Mục tiêu tối thiểu của đỉnh sóng 3 được tính bằng cách nhân chiều dài sóng 1 với
1,618 và cộng tích đó với đáy của sóng 2.

3. Mục tiêu tối đa và tối thiểu của đỉnh sóng 5 được tính bằng tích của sóng 1 với
3,3236 (2×1,618) và lần lượt cộng tích đó vào giá trị của đỉnh hoặc đáy của sóng 1.

4. Khi sóng 1 và 3 bằng nhau thì sóng 5 dự đoán sẽ được nối dài, mục tiêu giá được
xác định bằng khoảng cách từ đáy của sóng 1 đến đỉnh sóng 3, nhân với 1,1618 và cộng
tích đó vào đáy của sóng 4.
5. Đối với sóng hiệu chỉnh, trong mô hình hiệu chỉnh zic zắc 5-3¬5 thông thường,
sóng c thường bằng với chiều dài của sóng a.

6. Một cách khác để xác định chiều dài sóng c là nhân 0,618 với chiều dài của sóng a
và lấy đáy của sóng a trừ tích đó.

7. Trong mô hình hiệu chỉnh mặt phẳng 3-3-5, khi sóng b đạt hoặc vượt khỏi đỉnh
sóng a thì sóng c sẽ ở khoảng 1,618 chiều dài sóng a.

8. Trong mô hình tam giác đối xứng, mỗi sóng kế tiếp đều có mối liên hệ với sóng
trước một giá trị 0,618.

9. Thoái lùi theo tỷ lệ phần trăm


Fibonacci
10. Những hệ số nói trên giúp ta xác định được mục tiêu giá trong cả sóng tới và sóng
hiệu chỉnh. Một cách khác cũng được sử dụng để xác định mục tiêu giá là sử dụng
thoái lùi tỷ lệ phần trăm. Những con số thường được dùng để phân tích thoái lùi là
61,8% (thường được làm tròn thành 62%), 38% và 50%. Hãy nhớ lại Chương 4,
trong đó nói rằng thị trường thường thoái lùi so với những biến động trước đó một
tỷ lệ phần trăm có thể dự đoán được – với những mức phổ biến là 33%, 50% và
67% Chuỗi Fibonacci lọc những con số này lại. Trong một xu hướng vững chắc,
mức thoái lùi nhỏ nhất là khoảng 38%. Trong một xu hướng yếu hơn, mức thoái lùi
theo phần trăm tối đa là 62%.
11. Như đã nói ở phần đầu, các hệ số Fibonacci chỉ đạt gần 0,618 sau 4 số đầu tiên. Ba
tỷ số đầu là 1/1 (100%), 2/2 (50%) và 2/3 (66%). Nhiều bạn đọc không biết rằng
mức thoái lùi 50% phổ biến thực chất là thoái lùi 2/3. Một sự thoái lùi hoàn toàn
(100%) của một thị trường đầu cơ giá lên hoặc giá xuống trước đó cũng đánh dấu
một khu vực hỗ trợ hoăc kháng cự quan trọng.
12.

13. Ba đường ngang là các mức thoái lùi 38%, 50% và 62% được xác định từ mức đáy
năm 1981 đến mức đỉnh 1993 của Trái phiếu Chính phủ. Sự hiệu chỉnh giá trái
phiếu năm 1994 ngừng tại đường thoái lùi 38%.
14.

15. Ba đường tỷ lệ phần trăm Fibonacci được đo từ mức đáy năm 1994 của giá Trái
phiếu đến mức đỉnh đầu năm 1996. Giá Trái phiếu được hiệu chỉnh đến đường 62%.

16. Mục tiêu thời gian fibonacci


17. Tuy chúng ta đã không nhắc nhiều đến khía cạnh thời gian trong phân tích sóng,
nhưng mối quan hệ về thời gian Fibonacci vẫn tồn tại chỉ là đặc điểm khó dự đoán
của nó khiến những người sử dụng lý thuyết Elliott coi nó là khía cạnh ít quan trọng
nhất của lý thuyết này. Mục tiêu thời gian này được tính từ những đỉnh và đáy quan
trọng. Trên đồ thị hàng ngày, các nhà phân tích đếm số phiên giao dịch từ điểm
chuyển đổi quan trọng và kỳ vọng các đáy và đỉnh tương lai sẽ xuất hiện tại những
ngày Fibonacci – ngày thứ 13,21,34,55 hoặc 89. Có thể sử dụng kỹ thuật này trong
đồ thị hàng tuần, hàng tháng và hàng năm. Trên đồ thị tuần, nhà phân tích chọn một
đỉnh hoăc đáy quan trọng và tìm kiếm mục tiêu thời gian trong tuần thuộc dãy
Fibonacci. (Xem hình 1 và hình 2):
18.

19. Hình 1: Mục tiêu thời gian Fibonacci được xác định trong khoảng thời gian từ đáy
năm 1981 của Trái phiếu Chính phủ. Điếu này có thể trùng hợp nhưng 4 mục tiêu
thời gian Fibonacci gần nhất (các thanh đứng) trùng với thời điểm thay đổi giá quan
trọng.
20.

21. Hình 2: Mục tiêu thời gian Fibonacci trong khoảng thời gian từ đáy năm 1982 của
chỉ số Dow. Ba thanh đứng cuối cùng trùng với thời điểm thị trường chứng khoán
giảm giá – 1987, 1990 và 1994. Kể từ mức đáy của năm 1982, đỉnh năm 1987 tồn
tại trong 13 năm – là một con số thuộc dãy Fibonacci

You might also like