You are on page 1of 99

Nội dung trang bìa:

SƯ PHẠM GIÁO LÝ CĂN BẢN

Tài liệu Sư Phạm Giáo Lý của Lm. Nguyễn Văn Hiền (Lm. Quang Uy biên
tập)

Lưu ý về format:

- Khổ giấy A5, in thành sách

- Bìa cứng, có giấy kiếng

- Đánh số trang ở cuối trang

- Bổ sung số trang vào mục lục

- Số lượng in: 2 cuốn, giấy tốt.

1
MỤC LỤC

Dẫn Nhập: Giáo Hội Ngày Nay Tùy Thuộc Giáo Lý Hôm Nay

Bài 1: Dạy Giáo Lý là gì?

Bài 2: Ba Nguyên Tắc Trong Việc Dạy Giáo Lý

Bài 3: Tính Cách Quy Kitô trong Giáo Lý

Bài 4: Đức Kitô, Bậc Thầy của Giáo Lý Viên

Bài 5: Tổ Chức Một Lớp Giáo Lý

Bài 6: Diễn Tiến Một Buổi Học Giáo Lý

Bài 7: Phương Pháp Trình Bày Giáo Lý

Bài 8: Nghệ Thuật Đặt Câu Hỏi Giáo Lý

Bài 9: Bầu Khí Một Lớp Giáo Lý

Bài 10: Cầu Nguyện Trong Giáo Lý 

Bài 11: Phương Pháp Cầu Nguyện Bốn Bước Dành Cho Giáo Lý
Viên 

Bài 12: Tìm Hiểu Tâm Lý Trẻ Em - Phần 1

Bài 13: Tìm Hiểu Tâm Lý Trẻ Em - Phần 2 

Bài 14: Những Rối Loạn Tâm Sinh Lý của Tuổi Mới Lớn

2
3
Sư Phạm Giáo Lý Căn Bản_Lời Mở Đầu

GIÁO HỘI NGÀY MAI TÙY THUỘC GIÁO LÝ HÔM NAY

Thay cho phần dẫn nhập, xin mượn lời của Linh Mục R.H. Lesser, người
Anh, phụ trách về Giáo Lý tại một Giáo Phận truyền giáo ở Ấn-độ, được
trích từ Báo Asia Focus số ra ngày 10.4.1991, như sau:

Cho đến nay, chúng ta vẫn dạy và học Giáo Lý. Thế nhưng, chúng ta đã
dạy và học một cách từ chương về Thiên Chúa và về Giáo Hội, bằng cách
vận dụng trí nhớ của chúng ta. Các bài Giáo Lý không đưa chúng ta đến
gần Thiên Chúa. Cuộc sống của chúng ta cũng không tiến triển về tâm linh
và luân lý. Chỉ thông tin mà không có huấn luyện (Only information was
given, not formation !)

Việc dạy Giáo Lý không đơn thuần chỉ là việc dạy và học. Nó là, và nó
phải là một tiến trình liên vị giữa 3 phía: Thiên Chúa, Giáo Lý Viên và
người học Giáo Lý. Chính Giáo Lý Viên và người học Giáo Lý phải được
biến đổi, trở nên phong phú hơn trong quá trình dạy và học này. Dù cho chỉ
tập trung học Giáo Lý mỗi tuần có một buổi vỏn vẹn hơn kém một giờ
đồng hồ, thì Giáo Lý vẫn là một tiến trình kéo dài suốt cả ngày, cả năm, cả
đời mình. Mục đích của mỗi buổi học là dẫn trẻ đến gần Chúa hơn, nhờ
vậy trẻ sẽ tiến bộ về mọi mặt, phát triển những thái độ và ứng xử đúng đắn
đối với Thiên Chúa, tha nhân và chính bản thân.

Để tiếp xúc, thu hút và khơi lên sự ham thích nơi trẻ, mỗi buổi học phải
nên được khởi sự từ những kinh nghiệm sống. Sau đó, đề tài sẽ được khai
triển qua một đoạn Kinh Thánh, được nội tâm hóa bằng việc cử hành cầu
nguyện ngay tại lớp. Tiếp theo là phần sinh hoạt để củng cố. Cứ thế, trẻ bắt
đầu hiểu và yêu mến Đức Ki-tô. Hạt giống đã được gieo. Sự khao khát

4
triển nở, trẻ sẽ tìm tòi để biết nhiều hơn, gặp gỡ thường xuyên hơn với
Đấng mà trẻ yêu mến, từ đó Đức Tin được hình thành và khắc sâu.

Các Đức Giáo Hoàng Phao-lô đệ lục và Gio-an Phao-lô đệ nhị đã nhấn
mạnh đến việc dạy Giáo Lý, hiểu như là việc huấn luyện Đức Tin , chính
là hoạt động chính yếu của Giáo Hội, phải được ưu tiên hàng đầu cả về
nhân lực lẫn tài lực. Giáo Hội ngày mai tùy thuộc vào việc dạy Giáo Lý
hôm nay.

Trích Nổi Lửa Cho Đời 3 - Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế

5
BÀI 1: DẠY GIÁO LÝ LÀ GÌ ?

I. NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ LÂU NAY

Trước tiên chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ và cách làm lâu nay về
công việc dạy Giáo Lý, đặc biệt đối với người Việt Nam chúng ta, với
những hoàn cảnh thời đại và xã hội có quá nhiều hạn chế.

1.    Dạy Giáo Lý không phải là dạy hỏi - thưa:

Do mức độ còn hạn chế tùy từng nơi, từng vùng, nhất là ở ngoại thành và
thôn quê, một số chương trình Giáo Lý hiện nay vẫn xoay chung quanh
việc hỏi - thưa, một cách hệ thống ngắn gọn, chắc ăn, dễ triển khai, dễ
kiểm tra. Dù vậy, Giáo Lý Viên trong trường hợp này, vẫn phải tránh lối
học từ chương, mà phải luôn cố gắng tổ chức buổi dạy Giáo Lý một cách
sống động, có đối thoại, có hội thoại trao đổi, sao cho nội dung Giáo Lý
không dừng lại ở từng câu từng chữ giảng máy móc và học thuộc lòng rồi
trả bài làu làu như... vẹt !

2.    Dạy Giáo Lý không phải là học kinh hạt:

Trong giai đoạn còn quá khó khăn trước đây, khi còn thiếu nhiều Linh
Mục, lại thiếu các Giáo Lý Viên được đào tạo có hệ thống, rất nhiều nơi đã
phải đành chấp nhận chỉ dạy kinh hạt cho các em thiếu nhi thay vì dạy
Giáo Lý. Một số Giáo Phận cũng đã cố gắng chuyển tải các điểm cốt yếu
trong Giáo Lý bằng những bài thơ lục bát để giúp các em dễ nhớ, dễ thuộc.
Dẫu sao, đó chỉ là cách ứng phó tạm thời và hạn chế ở mức độ thấp nhất
của việc dạy Giáo Lý.

3.    Dạy Giáo Lý không phải là dạy luân lý:

Đương nhiên nội dung Giáo Lý có đưa ra một nếp sống luân lý Ky-tô giáo
sâu sắc, nhưng không vì thế Giáo Lý Viên dừng lại ở mức độ liệt kê cho
các học viên một loạt các điều cho phép được làm và một loạt các điều cấm

6
không được làm trong đời sống đạo. Dạy Giáo Lý vượt lên trên cả những
điều ấy khi mở ra cho người học một mối tương quan mật thiết và thấm
thía với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với tha nhân chung quanh trong cuộc
đời.

4.    Dạy Giáo Lý không phải là dạy thần học:

Thần học là một khoa học chuyên biệt, với nhiều trường phái và quan điểm
khảo cứu về Thiên Chúa ( Théologie ), nó cung cấp rất nhiều kiến thức, lý
luận, nhận định có hệ thống chặt chẽ về Thiên Chúa, tuy đôi khi vẫn còn có
thể gây ra nhiều tranh cãi đưa tới nhiều canh tân đổi mới.

Trong khi đó, việc dạy Giáo Lý, dẫu có vận dụng đến một số điểm thần
học căn bản, lại muốn đưa các em đến Lòng Tin, Lòng Yêu Mến và Lòng
Cậy Trông chân thành đối với Thiên Chúa, để rồi thể hiện cụ thể ra trong
đời sống của mình, vượt qua mọi thứ kiến thức và lý luận của lý trí. Do
vậy, học Giáo Lý dứt khoát không phải là để nghe những bài thuyết trình
hùng hồn hấp dẫn về Thiên Chúa.

5.    Dạy Giáo Lý không phải là loan báo Tin Mừng:

Việc loan báo Tin Mừng là hoạt động truyền giáo, đem Lời Chúa đến với
người chưa hề biết đạo là gì, chưa hề biết Chúa là Ai. Thường thì việc loan
báo Tin Mừng đi trước, kế ngay sau đó là việc giảng dạy Giáo Lý.

Một số vùng truyền giáo ở thượng du phía Bắc và ở Tây Nguyên dành cho
người dân tộc hiện nay, sau khi đã được loan báo Tin Mừng, dự tòng là
người lớn và cả trẻ em có thể có nhiều năm liền để học Giáo Lý, trong khi
bản thân họ vẫn mau mắn quay trở về loan báo Tin Mừng cho những người
khác.

6.    Dạy Giáo Lý không phải là dạy học như ở Phổ Thông:

Việc dạy Giáo Lý, cho dẫu cũng dựa trên một số nguyên tắc sư phạm
( pédagogie ) và phương pháp giáo dục ( méthodologie ) chung, nhưng lại
vượt xa việc dạy học ở trường Phổ Thông ở chỗ: Giáo Lý giúp các em gặp
7
gỡ Lời Chúa, gặp gỡ chính Thiên Chúa, khơi gợi và tăng cường Đức Tin ở
tận thâm sâu tâm hồn các em và chuyển thành sự sống tôn giáo thiêng
liêng.

7.    Dạy Giáo Lý cũng chẳng phải là sinh hoạt tập thể:

Khi dạy Giáo Lý ở các độ tuổi thiếu nhi và thiếu niên, đương nhiên cần
phải có những sinh hoạt vui chơi hát hò, nhưng đó chỉ là một phương cách
phụ trợ để gây bầu khí sống động hấp dẫn, góp phần rèn luyện cũng như
giáo dục nhân bản cho các em. Cái chính yếu của việc dạy Giáo Lý vẫn là
nhắm đến việc đào tạo các Ki-tô hữu, những môn đệ của Đức Ki-tô.

II.  ĐỊNH NGHĨA VIỆC DẠY GIÁO LÝ

Tắt một lời, việc dạy Giáo Lý chính là: trình bày Lời Chúa một cách đơn
giản, cụ thể và sống động, để giúp các em có thể hiểu và sống Đức Tin.
Chữ dạy ở đây, theo nguyên ngữ Hy-lạp, không phải là "didaskein"
( dạy các lý thuyết và kiến thức ), nhưng là "mateutein" ( đào tạo thành
những môn đệ ). Từ rất sớm, người ta đã dùng thuật ngữ "Dạy Giáo Lý" để
gọi toàn thể các nỗ lực trong Giáo Hội nhằm đào tạo các môn đệ, để giúp
mọi người tin rằng Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa, để rồi nhờ
Đức Tin và nhờ việc dạy dỗ ấy, họ được sống nhân danh Đức Ki-tô
ngay giữa lòng đời, góp phần xây dựng Thân Mình của Đức Ki-tô là
Giáo Hội.

Trong Tông Huấn Catechesi Tradendae ( CT ), Đức Giáo Hoàng Gio-an


Phao-lô 2 đã ân cần dặn dò như sau:

Dạy Giáo Lý là một giai đoạn hay một khía cạnh của việc Tin Mừng hóa,
do đó, nội dung của Giáo Lý không gì khác hơn nội dung của Tin Mừng
hóa: cũng một sứ điệp Tin Mừng cứu độ đã được nghe hằng trăm lần,
và được tiếp nhận với tất cả lòng quý mến, sẽ luôn được đào sâu nhờ suy tư
và nghiên cứu có hệ thống trong Giáo Lý ( CT 26 ).

8
Dạy Giáo Lý bao giờ cũng lấy nội dung từ nguồn mạch sống động là
Lời Chúa được lưu truyền qua Thánh Truyền và Thánh Kinh, vì
Thánh Truyền và Thánh Kinh hợp thành kho tàng thánh thiện duy nhất
chứa đựng Lời Chúa và được giao phó cho Giáo Hội ( CT 27 ).

III.  DẠY GIÁO LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ CỦA GIÁO


HỘI

Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến riêng hoạt động mục vụ rao giảng Lời Chúa
của Giáo Hội bên cạnh việc cử hành các Bí Tích, tổ chức và quản trị cộng
đoàn, tổ chức đời sống và các việc bác ái.

Mục vụ rao giảng Lời Chúa của Giáo Hội gồm có:

 Tiền Phúc Âm hóa ( Pré-Évangélisation )

 Phúc Âm hóa hay loan báo Tin Mừng ( Kérygme - Évangélisation )

 Dạy Giáo Lý ( Catéchèse )

 Giảng thuyết ( Homélie )

 Thần Học ( Didascalie )

Mục vụ Giáo Lý là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu được học Giáo Lý
của mọi thành phần tín hữu, để đưa cả cộng đoàn lẫn bản thân người tín
hữu tới chỗ trưởng thành trong Đức Tin. Đặc biệt đối với trẻ em, sứ mệnh
cao cả mà Thiên Chúa và Giáo Hội đã ủy thác cho các Giáo Lý Viên chính
là: làm cho Ngôi Lời được sinh ra và lớn lên trong các em.

Ngoài ra, Tông Huấn Catechesi Tradendae còn nhắc nhở:

Bản chất của việc dạy Giáo Lý gắn liền với tất cả các hoạt động Phụng
Vụ và các Bí Tích, vì chính các Bí Tích và nhất là Bí Tích Thánh Thể là
nơi Đức Ki-tô hoạt động một cách sung mãn để biến đổi nhân loại. Việc
dạy Giáo Lý sửa soạn cho việc lãnh nhận các Bí Tích ( CT 23 ).

9
Việc dạy Giáo Lý là cần thiết, không những để làm cho Đức Tin của các
Ki-tô hữu thêm chín chắn, mà còn để họ làm chứng trên toàn thế giới, sẵn
sàng trả lời cho tất cả những ai chất vấn về niềm hy vọng của họ ( CT 25 ).

Để được như thế, phải phân tích và đánh giá tình hình để tìm phương cách
hoạt động hữu hiệu cho từng đối tượng. Việc giảng dạy Giáo Lý phải có
đường hướng và nguyên tắc chỉ dẫn, có chương trình và kế hoạch, có tổ
chức và phương pháp thích hợp, cũng như phải có những phương tiện cần
thiết.

IV. VIỆC DẠY GIÁO LÝ CẦN ĐƯỢC CANH TÂN KHÔNG


NGỪNG

Việc dạy Giáo Lý luôn luôn cần được canh tân cùng với từng biến chuyển
lớn của thời đại và xã hội. Khi so sánh với Lời Chúa, Giáo Lý chỉ có giá trị
tương đối. Lời Chúa mới có tính chất tuyệt đối. Do đó, Giáo Lý có thể và
cần phải được thay đổi và cải tiến. Việc dạy Giáo Lý phải được canh tân
không ngừng để Lời Chúa được diễn đạt đúng hơn, dõ hơn, sống động và
hợp thời hơn.

Chính Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ 4 năm 1977 đã khẳng định
trong Tông Huấn Catechesi Tradendae:

Việc canh tân Giáo Lý là một ân huệ quý giá của Chúa Thánh Thần ban
cho Giáo Hội ngày nay ( CT 3 ).

Việc dạy Giáo Lý cần được canh tân liên tục và quân bình về phương
pháp, về việc tìm kiếm một ngôn ngữ thích hợp, về việc khai thác các
phương tiện mới mẻ để truyền thông sứ điệp ( CT 17 ).

Giáo Hội phải tỏ ra khôn ngoan, can đảm và trung thành với Tin Mừng
trong việc tìm kiếm và vận dụng các đường lối và bối cảnh mới mẻ cho
việc dạy Giáo Lý ( CT 17 ).

Việc dạy Giáo Lý hiện nay cần được canh tân vì  2 lý do:

10
 Thế giới ngày nay biến chuyển không ngừng biến chuyển một cách
sâu xa, khoa học kỹ thuật phát triển quá nhanh đưa tới tình trạng
tục hóa, giải thiêng. Thời chiến tranh lạnh giữa các cường quốc đã
chấm dứt. Mặt khác, nhân loại đặc biệt coi trọng các giá trị nhân
văn và xã hội, đặt nặng tinh thần phục vụ hữu hiệu.

 Trong khi đó, chính đời sống của Giáo Hội cũng có những đổi thay
khi các giá trị cổ truyền bị lung lay, một đông tín hữu tỏ ra lãnh
đạm với các sinh hoạt tôn giáo, thậm chí đánh mất Đức Tin. Ngược
lại, Công Đồng Va-ti-ca-nô 2 được triệu tập, cùng với việc xuất
hiện rất nhiều phong trào thiêng liêng hoạt động rất tích cực, đã
khiến cho Giáo Hội mở ra cả một bình minh rực rỡ và lạc quan.

V.   KẾT LUẬN:

Như vậy, mọi thành phần trong Giáo Hội cần phải đổi mới cách nhìn (tư
duy), nhận thức việc dạy Giáo Lý là một nhiệm vụ ưu tiên và tối quan
trọng của Giáo Hội, là nhiệm vụ của mọi Ki-tô hữu nhằm giáo dục Đức
Tin và đào tạo nên những người Ki-tô hữu trưởng thành. Ngoài ra, còn
phải đổi mới cả cách làm ( hành động ) trong việc soạn thảo những nội
dung chương trình hợp lý và sâu sắc, chọn được những hình thức giảng dạy
phong phú, đầu tư vật chất và nhân sự của Giáo Hội cho việc dạy Giáo Lý.

Riêng với các Giáo Lý Viên, trong tư cách là người đảm nhận việc dạy
Giáo Lý, phải luôn chuyên cần học hỏi Lời Chúa, phải kết thân sâu xa với
Đức Ki-tô, phải có tinh thần cầu nguyện, biết sẵn sàng từ bỏ chính
mình trong công việc phục vụ.

11
BÀI 2: BA NGUYÊN TẮC TRONG VIỆC DẠY GIÁO LÝ

I. NGUYÊN TẮC TOÀN VẸN ( INTÉGRITÉ )

Nguyên tắc toàn vẹn được trải ra trong 2 mặt chính yếu:

1.    TOÀN VẸN VỀ NỘI DUNG DẠY GIÁO LÝ

Tông Huấn Catechesi Tradendae ( CT 30 ) dặn dò chúng ta 3 điểm quan


trọng sau đây về sự toàn vẹn của nội dung Giáo Lý:

 Lời Đức Tin dứt khoát không được cắt xén, thay đổi, giảm bớt,
nhưng phải đầy đủ và toàn vẹn, nghiêm túc và có uy lực. Đứng
trước kho tàng Đức Tin của Giáo Hội, không một Giáo Lý Viên
chân chính nào được tự ý chọn lựa điều gì họ coi là quan trọng và
điều gìø họ cho là không quan trọng, để sau đó dạy điều này mà bỏ
không dạy điều kia.

 Phương pháp và ngôn ngữ Giáo Lý Viên sử dụng phải thật sự là


phương tiện để họ truyền đạt trọn vẹn nội dung Giáo Lý, chứ không
phải chỉ là một phần của "Lời ban sự sống đời đời".

 Việc dạy Giáo Lý không thể xa lạ với chiều kích hiệp nhất và đại
kết đối với Giáo Lý của các tôn giáo bạn, nhưng nội dung Giáo Lý
sẽ chỉ có tính chất đại đồng nếu dạy rằng: toàn thể chân lý mặc khải
và các phương tiện cứu độ vẫn tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo.

2.    TOÀN VẸN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO LÝ

Giáo Lý phải có ảnh hưởng trên toàn diện con người gồm có cả tâm hồn và
thể xác, lý trí, tình cảm và các hoạt động, phải chi phối toàn bộ cuộc sống
và môi trường sống của con người ( nhất là ở độ tuổi thanh thiếu niên )
như gia đình, học đường, Giáo Xứ, khu phố, làng xóm..., và cũng đồng thời
chi phối toàn bộ cuộc đời của họ, chứ không chỉ dừng lại ở những năm

12
tháng theo học Giáo Lý, lãnh nhận các Bí Tích xong rồi là hết chuyện như
lâu nay nhiều người vẫn quan niệm !

II. NGUYÊN TẮC THÍCH ỨNG ( ADAPTATION )

Việc dạy Giáo Lý phải luôn luôn được cân nhắc trong việc soạn thảo nội
dung và chương trình, cũng như trong việc lo liệu áp dụng các hình thức và
phương pháp để trình bày, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu trong khoa Sư
Phạm Giáo Lý của Giáo Hội toàn cầu, sao cho thích ứng với 2 mặt sau đây:

1.     TÂM LÝ CÁC ĐỘ TUỔI

Vẫn tôn trọng sự toàn vẹn thống nhất của sứ điệp Giáo Lý, nhưng nội dung
sẽ lần lượt được dàn trải một cách tiệm tiến, được diễn đạt bằng các hình
thức phù hợp với tâm lý của từng độ tuổi các em.

Về cách chia các độ tuổi tâm lý, xin tham khảo thêm phần Tìm Hiểu Tâm
Lý Trẻ Em trong Vui Đời Phục Vụ tập 13; phần Giáo Dục Đức Tin Cho
Từng Lứa Tuổi trong cuốn Sư Phạm Huấn Giáo của cố Linh Mục Nguyễn
Văn Tuyên; và phần phụ chương 4 Lịch Trình Tiến Triển Tâm Lý trong tập
Sư Phạm Huấn Giáo của Ban Mục Vụ Giới Trẻ Giáo Phận Sài-gòn.

Ở đây, chúng tôi xin đề nghị một cách chia độ tuổi đặc trưng theo mức độ
tham gia vào các đoàn thể tương ứng với Giáo Lý như sau:

 Lứa tuổi Ấu Nhi ( từ 1 đến 3 tuổi )

 Lứa tuổi Nhi Đồng ( từ 3 đến 7 tuổi )

 Lứa tuổi Thiếu Nhi ( từ 7 đến 11 tuổi )

 Lứa tuổi Thiếu Niên ( từ 11 đến 14 tuổi )

 Lứa tuổi Kha Niên ( từ 14 đến 18 tuổi )

 Lứa tuổi Thanh Niên ( từ 18 đến 30 tuổi )

 Lứa tuổi Tráng Niên ( từ 30 tuổi trở lên )


13
2.       HOÀN CẢNH VÀ MÔI TRƯỜNG

Tùy theo những hoàn cảnh đặc thù của xã hội và thời đại, cũng như tùy
theo từng môi trường khác biệt của từng miền, từng vùng, từng Giáo Phận,
chương trình và hình thức chuyên chở nội dung Giáo Lý có thể có những
uyển chuyển chính đáng.

Địa bàn dân cư toàn tòng hoặc giáo dân ở tản mạn, nội thành hay ngoại
thành, tỉnh lỵ hay thôn quê, đồng bằng hay thượng du, người Kinh hay
người dân tộc... tất cả đòi hỏi một sự cân nhắc cần thiết để Lời Chúa và
Giáo Lý đến được với mọi tầng lớp tín hữu.

III.  NGUYÊN TẮC SỐNG ĐỘNG ( VIVANT )

Chương trình chung của Ban Giáo Lý một Giáo Phận, một Giáo Xứ, cũng
như bầu khí riêng ở từng lớp Giáo Lý phải luôn giữ được tính cách sống
động phấn khởi, để việc dạy và học trở thành một niềm vui. Cần phải tránh
rơi vào khuôn khổ cứng ngắc, đơn điệu, kém hiệu quả. Dứt khoát không
chủ trương "nhồi sọ", "học vẹt", "so kè thành tích", "biểu dương lực lượng"
hoặc "qua loa đại khái" cho xong nhiệm vụ... Muốn được như thế, đòi hỏi
cả 2 phía cùng song hành, ăn khớp nhịp nhàng với nhau:

 Về phía người dạy: phải biết cách trình bày chân lý, biết động
viên các em khao khát khám phá chân lý.

 Về phía người học: phải khao khát tiếp cận chân lý, nỗ lực hòa
mình tham gia vào việc khám phá chân lý

IV. KẾT LUẬN

Trên đây là những nguyên tắc quan trọng để việc dạy Giáo Lý đi đúng
đường hướng của Giáo Hội.

Xin các vị Giám Mục, các Linh Mục quản xứ, các Linh phụ trách Ban Giáo
Lý cần thường xuyên nhắc nhở, hằng năm nên tổ chức một khóa bồi dưỡng
nhiều mặt về Sư Phạm Giáo Lý, trong đó có đề cập lại về các nguyên tắc

14
này, để các Giáo Lý Viên, vốn là những người trực tiếp đứng lớp giảng
dạy, có thể nắm vững các nguyên tắc, không bỏ sót, không xem nhẹ bất cứ
nguyên tắc nào.

15
BÀI 3: TÍNH CÁCH QUY KI-TÔ TRONG GIÁO LÝ

I.  KHÁI NIỆM QUY KI-TÔ:

Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ 4 năm 1977 nhấn mạnh đến tính
cách Quy Ki-tô (Christocentrisme) trong việc dạy Giáo Lý.

Ở trọng tâm của khoa Giáo Lý, cốt yếu có một Ngôi Vị là Đức Giê-su Ki-
tô, để rồi chúng ta chỉ có một câu trả lời duy nhất là chính Đức Giê-su
Ki-tô cho cả 3 câu hỏi thiết yếu trong việc dạy Giáo Lý như sau:

II.   AI DẠY GIÁO LÝ ?

Trước hết, chính Đức Ki-tô là Đấng giảng dạy, các Giáo Lý Viên chỉ là
phát ngôn viên của Người, là những người trung thành và trung thực truyền
đạt lại những gì đã được Đức Ki-tô trao phó. “Thầy đã được trao toàn
quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh
em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 18 –
20 ).

Một Giáo Lý Viên chân chính có thể bộc bạch chân thành theo như Thánh
Phao-lô rằng: Không phải là tôi dạy Giáo Lý, mà là chính Đức Ki-tô,
Người dạy Giáo Lý cho mọi người nơi tôi, qua tôi, và trong tôi. “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).

III.    DẠY GIÁO LÝ VỀ AI ?

Dạy Giáo Lý chính là tỏ bày trong Đức Giê-su Ki-tô tất cả ý định vĩnh cửu
của Thiên Chúa, là thông truyền Giáo Lý của Đức Ki-tô, thông truyền chân
lý của Người. Do việc, dạy Giáo Lý là dạy về chính Đức Ki-tô.

Muốn trình bày về Chúa Cha, không gì hơn là công bố những gì Đức Giê-
su Ki-tô đã giới thiệu về Cha của Người cũng là Cha của chúng ta. “Chính
16
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ) “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha... Thầy
ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” ( Ga 14, 11 ).

Muốn đề cập đến Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng phải xác tín rằng chính
Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. “Thầy sẽ
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở
với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể
đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em
biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” ( Ga 14, 16 –
17 ).

Muốn học về Đức Ma-ri-a, chúng ta cũng phải dõi mắt nhìn vào biến cố
Nhập Thể của Đức Giê-su Ki-tô, để Mẹ được trở nên E-và mới, hạ sinh
Đức Giê-su Ki-tô, trở nên Mẹ của Thiên Chúa và là Mẹ của nhân loại.
"Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về,
vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh
con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu
dân Người khỏi tội lỗi của họ." ( Mt 1, 20 – 21 ).

Muốn tìm hiểu về Giáo Hội, chúng ta không thể quên chính Đức Giê-su
Ki-tô là Đầu của Hội Thánh, là vị Tân Lang chung thủy sắt son, còn Hội
Thánh chính là Thân Mình của Người, là Hiền Thê yêu dấu của Người.
“Chính Đức Ki-tô là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người”
( Ep 5, 23 – 24 ). Mọi hoạt động của đời sống Ki-tô hữu cũng đều hướng
về Đức Giê-su Ki-tô là trung tâm, là đỉnh cao, là điểm hội tụ, là hệ quy
chiếu, là tiêu chuẩn, là mẫu mực tuyệt đối, là trọn vẹn, là tất cả những
gì mà Thiên Chúa muốn mặc khải nhờ Người và trong Người. “Đây là
điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em”  ( Ga 15, 12 ). “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm và hãy nói
nhân danh Chúa Giê-su, và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” ( Cl
3, 17 ). IV.  DẠY GIÁO LÝ THEO CÁCH THỨC CỦA AI ? Mẫu mực
đời sống và công việc phục vụ của người Giáo Lý Viên chính là Đức Ki-tô
chứ không phải là ai khác ! Đức Giê-su Ki-tô đã để lại cho chúng ta không
17
những một khoa Sư Phạm Giáo Lý độc đáo và sâu sắc, Người còn lưu lại
một cung cách mô phạm của một bậc Tôn Sư vừa đầy quyền năng xuất
phát từ Thiên Chúa ( x. Mc 1, 22 ), lại vừa chan chứa lòng trắc ẩn yêu
thương đối với mọi người ( x. Mt 15, 32 ), nhất là với những kẻ tội lỗi ( x.
Lc 5, 32 ), những người nghèo khổ tật bệnh ( x. Mt 15, 30; Mc, 3, 10; Lc 4,
40 ), và sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ thù đã hãm hại Người ( x. Lc 23, 34 ).
Mặt khác, Đức Giê-su Ki-tô đặt nền tảng cho các hoạt động rao giảng bằng
đời sống cầu nguyện. Trước khi khởi đầu sứ vụ công khai, Người đã vào
hoang địa để được Chúa Thánh Thần hướng dẫn cầu nguyện và tĩnh tâm
suốt 40 ngày ( x. Lc 4, 1 – 2 ). Khởi sự một ngày hoạt động của Người
luôn luôn là cầu nguyện ( x. Mc 1, 35 ). Người cầu nguyện suốt đêm trước
khi chọn Nhóm Mười Hai ( x. Lc 6, 12 ). Kết thúc một ngày tất bật, Người
lại lánh mình đi cầu nguyện (  x. Lc 5, 16 ). Bắt đầu bước vào cuộc Thương
Khó, Đức Giê-su Ki-tô cầu nguyện với các môn đệ trong bữa ăn cuối cùng
( x. Ga 17 ), nơi vườn Ghết-xê-ma-ni trước khi Người bị bắt ( x. Lc 22, 39
– 44 ) và trong giây phút Người sắp lìa đời trên Thập Giá ( x. Lc 23, 46 ).
Tắt một lời, sứ điệp Đức Giê-su Ki-tô rao giảng và chính bản thân Người là
một, không có sự tách biệt, so le, hay mâu thuẫn. Người loan báo Tin
Mừng Yêu Thương và cũng chính Người là Tình Yêu Thương của Thiên
Chúa dành cho nhân loại. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15,
13 ).

V.  KẾT LUẬN: Xin mượn lời của Tông Huấn Catechesi Tradendae:
“Người Giáo Lý Viên theo chân Đức Giê-su Ki-tô, phải luôn chuyên cần
học hỏi Lời Chúa do Huấn Quyền của Giáo Hội thông truyền, phải luôn
kết thân sâu xa với Đức Ki-tô và với Chúa Cha, phải có được tinh thần cầu
nguyện, từ bỏ bản thân, hoàn toàn để Chúa Thánh Thần làm việc nơi mình
trong mọi sự và mọi lúc” ( CT 5 và 6 ).

18
BÀI 4: ĐỨC KI-TÔ, BẬC THẦY CỦA GIÁO LÝ VIÊN

Chúng ta đã đặt vấn đề dạy Giáo Lý theo cách thức của Đức Giê-su Ki-tô.
Vậy không gì hơn là chúng ta hãy phân tích để học hỏi đường lối dạy Giáo
Lý của chính Đức Giê-su Ki-tô đã áp dụng. Xin liệt kê 8 nguyên tắc rất
đơn giản mà hiệu nghiệm:

I.  TRỰC TIẾP NÓI VỚI NGƯỜI NGHE

Đức Giê-su Ki-tô quả thật là một con người của quần chúng. Người đi
khắp nơi trong suốt cả cuộc đời để gặp gỡ quần chúng. Chung quanh
Người luôn có một đám đông tìm đến để lắng nghe, và Người đã chạnh
lòng thương họ, không quản ngại giảng dạy cho họ, nhiều khi đến kiệt sức.

Trên núi, trong hoang địa, dưới thuyền, ngoài bãi biển, trong Hội Đường,
nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, tại bàn ăn, giữa tiệc cưới, ở mọi góc phố, và cả
trên Thập Giá, ở đâu Người cũng có những lời giảng dạy về Chúa Cha, về
Nước Trời, về giới răn Yêu Thương, về lòng tha thứ...

Người tiếp xúc với đủ mọi hạng người: kẻ giàu người nghèo, kẻ bệnh tật,
người đang gặp khổ đau, người Pha-ri-sêu, các Luật Sĩ, sĩ quan Rô-ma,
người miền Sa-ma-ri, các cô gái điếm, người thu thuế, kẻ tử tù... miễn là họ
có lòng chân thành sám hối, muốn đi theo con đường Đức Giê-su mời gọi.

Đức Giê-su không hề biên soạn và viết ra một tác phẩm nào cho mục đích
giảng dạy gián tiếp, Người trực tiếp nói với mọi người, đối thoại một cách
ân cần, khi nhỏ nhẹ, lúc hùng hồn, và đặc biệt là yêu quý trẻ em lúc nào
cũng quấn quít bên Người ( x. Mt 18, 2; Mc 10, 14).

II. TRÌNH BÀY VỪA TẦM NGƯỜI NGHE

Đa số thính giả của Đức Giê-su là người bình dân chất phác, lao động chân
tay, mù chữ hoặc ít học. Người đã dùng ngôn ngữ của chính họ và những
hình ảnh minh họa gần gũi dễ hiểu để giảng dạy và trò chuyện thân
tình với họ, tận tụy giải đáp các thắc mắc của họ và không tiếc lời khen
ngợi, khích lệ những ai có thành tâm thiện chí.
19
Ngược lại, đối với những  một số ít người có học, hoặc khi họ muốn tranh
luận bắt bẻ, Đức Giê-su cũng sẵn sàng lý luận, trưng dẫn Kinh Thánh (x.
Mt 11, 10; 12, 40; 15, 4. 8) vận dụng Luật Mô-sê ( x. Mt 5, 21. 27. 31. 33.
38. 43), viện lẽ khôn ngoan trong cuộc sống ( x. Mt 5, 15; 6, 24; 12, 25. 29.
33; Lc 6, 39 - 40; 48 - 49) để thuyết phục họ, hoặc thẳng thắn phi bác, cho
thấy họ đã lầm lạc hay ngoan cố.

III. DÙNG CÁI DỄ HIỂU ĐỂ NÓI VỀ CÁI KHÓ HIỂU

Khi muốn dạy một chân lý cao siêu, một mầu nhiệm khó hiểu, mới lạ và
khó tin, Đức Giê-su đã chọn những sự việc và sự vật  cụ thể, mượn những
khái niệm gần gũi, những hình ảnh quen thuộc, những kinh nghiệm sống
động của đời thường làm dẫn chứng hay minh họa.

Có thể nói, Người đã vận dụng phương pháp quy nạp đơn sơ hơn là
phương pháp diễn giải phức tạp; dùng lối ẩn dụ so sánh để đi tới kết luận
hơn là chọn những luận lý kinh viện bác học.

Đức Giê-su còn thường dùng các dụ ngôn ( Paraboles) để giảng dạy. Thay
cho những định nghĩa trừu tượng, các chân lý và mầu nhiệm đã được gói
ghém trong một câu truyện kể ngắn gọn, với đầy đủ tình tiết hấp dẫn mà
hợp lý hợp tình, nghe xong là tự khắc hiểu được bài học, tự mình rút ra
được một số yếu tố siêu việt của Nước Trời và có thể áp dụng ngay vào đời
sống thường nhật hiện tại.

IV. ĐÚC KẾT THÀNH NHỮNG CÂU DỄ NHỚ

Sau khi đã diễn giải một chân lý, một mầu nhiệm, một giới luật mới để
giúp người nghe hiểu được một cách sáng tỏ, bao giờ Đức Giê-su cũng có
những lời đúc kết ngắn gọn và giản dị để giúp họ ghi nhớ sâu xa và thấm
thía, đồng thời sẵn sàng đem ra thực hành một cách dễ dàng.

Xin đơn cử những câu kết luận như thế trong Tin Mừng:

 Về việc cầu nguyện: "Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ
cửa thì sẽ mở cho" ( Lc 11, 9).
20
 Về đức khiêm tốn: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình
xuống sẽ được nâng lên" ( Lc 14, 11).

 Về tinh thần phục vụ: "Thầy đến để phục vụ, chứ không phải để
được phục vụ" ( Mc 10, 41).

 Về sự bền đỗ: "Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì
lại ít" ( Mt 22, 14).

 Về lòng tình yêu thương: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em" ( Ga 15, 12).

 Về sự từ bỏ: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo" ( Lc 9, 23).

V. NHẮC LẠI DƯỚI NHIỀU HÌNH THỨC

Khi trình bày một chân lý hay một điểm Giáo Lý, Đức Giê-su thường nhắc
đi nhắc lại dưới nhiều hình thức khác nhau. Như vậy, vấn đề càng dễ
nhớ, dễ hiểu, dễ thực hành trong đời sống hơn mà lại không sợ nhàm chán
đơn điệu. Hơn nữa, một lần vấn đề được nhắc lại, vẫn có dịp để thêm bổ
túc những khía cạnh mới.

Ví dụ, để minh họa cho lòng Chúa yêu thương những người tội lỗi, luôn
chờ mong họ hoán cải, Đức Giê-su đã dùng rất nhiều dụ ngôn khác nhau
mà Tin Mừng theo Thánh Lu-ca đã ghi lại trong toàn bộ chương 15 như:
Dụ Ngôn Con Chiên Bị Mất, Dụ Ngôn Đồng Bạc Bị Mất, Dụ Ngôn Người
Cha Nhân Hậu ( x. Lc 15, 1 - 32).

VI. TIẾN TỪNG BƯỚC THEO TRÌNH ĐỘ CỦA NGƯỜI NGHE

Một chân lý cao siêu, một mầu nhiệm khó hiểu không thể trong một bài
dạy, trong một lần học mà có thể đón nhận trọn vẹn ngay được. "Mưa lâu
thấm đất". Rõ ràng cần phải có thời gian để thấm thía. Vì thế, Đức Giê-su
đã luôn luôn vén tỏ mầu nhiệm Nước Trời, Nước Thiên Chúa từng bước,

21
từng chút một. Mỗi lần giảng dạy, Người lại bổ túc thêm một ít, đào
sâu và mở rộng thêm những gì đã dạy trước đó.

Lấy ví dụ, Đức Giê-su đã từ từ tỏ mình cho các môn đệ rằng chính là Đấng
Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế, để rồi cuối cùng, đến lúc chín muồi, Người
mới tự giới thiệu Người chính là Con Thiên Chúa trong biến cố Hiển Dung
trên một ngọn núi cao ( x. Mc 9, 2 - 8 ).

Một ví dụ khác: Đức Giê-su đã 3 lần tiên báo về cuộc thương khó và cái
chết Người sẽ phải chịu để chuẩn bị cho các môn đệ có thể bình tĩnh đón
nhận biến cố Vượt Qua đau xót nhưng cần thiết này ( x. Mc 8, 31; 9, 30 -
32; 10, 32 - 34 ).

VII. DÙNG KINH THÁNH ĐỂ MINH CHỨNG

Đức Giê-su thường trích dẫn những lời Thánh Kinh để giúp người nghe dễ
tin và hiểu sâu hơn những lời Người giảng dạy.

Những lời Kinh Thánh ấy còn minh chứng rằng: Người đến là để hoàn tất
mọi sự. Những lời Người nói, những việc Người làm vừa nối tiếp, vừa thực
hiện những gì đã được tiên báo trong Cựu Ước. Người chính là Đấng mở
ra thời Tân Ước, thực hiện mọi lời hứa và mọi ý định của Thiên Chúa đối
với Dân của Người ( x. Mt 11, 10; 12, 40; 15, 4. 8).

VIII.  VỪA GIẢNG DẠY VỪA CẢM HÓA

Trong khi diễn giải mầu nhiệm Nước Trời, Đức Giê-su cũng gợi lên nơi
người nghe lòng yêu thích, khao khát đón nhận chân lý và sẵn sàng
thay đổi cuộc sống.

Đã có một số không hưởng ứng lời mời gọi ấy ( như chàng thanh niên giàu
có còn tiếc rẻ của cải đời này trong Mc 10, 17 - 22), nhưng ngược lại đã có
rất đông người đã được cảm hóa để đổi đời ( như: người đàn bà xứ Sa-
ma-ri trong Ga 4, 7 - 42; người phụ nữ ngoại tình trong Ga 8, 3 - 11; người
mù từ thuở mới sinh trong Ga 9, 1 - 38; người bệnh liệt giường vác chõng

22
ra về trong Ga 5, 5 - 14; ông Da-kêu trong Lc 19, 1 - 10; người gian phi
trên thập giá trong Lc 23, 39 - 43... )

IX. KẾT LUẬN

Đã từng có một Hội Nghị Quốc Tế, thuần túy phi tôn giáo, được tổ chức
đặc biệt để nghiên cứu về khoa sư phạm của "thầy giáo Giê-su thành Na-
da-rét". Và các nhà khoa học về giáo dục và sư phạm của hơn 120 quốc
gia đã nhất trí chọn Người là "Nhà Giáo mẫu mực của mọi thời".

Vậy, chẳng lẽ các Giáo Lý Viên là các môn đệ của Đức Giê-su, lại không
học hỏi khoa Sư Phạm Giáo Lý nơi chính vị Tôn Sư vĩ đại của mình ?

23
BÀI 5: TỔ CHỨC MỘT LỚP GIÁO LÝ

I. NHÂN SỰ

Để có thể đáp ứng được Tính Cách Quy-Ki-tô như đã trình bày, đồng thời
lại phải nắm vững các nguyên tắc sư phạm, có 2 mặt quan trọng trong việc
huấn luyện đội ngũ các Giáo Lý Viên, đó là:

 Huấn luyện về nội dung Giáo Lý: Ngoài các kiến thức về Thánh
Kinh, Thần Học, Phụng Vụ, Luân Lý, Lịch Sử Cứu Độ, Giáo Hội...
các Giáo Lý Viên còn cần được giúp tăng tiến về đời sống cầu
nguyện, tác phong đạo đức Ki-tô hữu.

 Huấn luyện về phương pháp sư phạm: Các Giáo Lý Viên cần


phải hiểu biết tương đối thấu đáo về tâm lý các độ tuổi học sinh
Giáo Lý, được tập huấn để làm quen với các phương pháp sư phạm
để có thể tự tin khi đứng lớp.

Cần lưu ý rằng: việc huấn luyện cả hai mặt nói trên không phải chỉ làm
một lần mà xong, nhưng phải vừa toàn diện, vừa tiệm tiến, từ căn bản
từng môn đạt tới mức độ chuyên sâu hơn. Cũng cần phải thường
xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng và nâng cao, bổ túc, cập nhật hóa cho
kịp với những biến chuyển, canh tân, phát kiến của thời đại, xã hội và Giáo
Hội.

Thường thì theo một quy luật thực tế, cứ sau khoảng 5 năm, lại cần phải có
một đội ngũ Giáo Lý Viên mới để kế thừa lớp đàn anh đàn chị. Khởi
đầu, những bạn trẻ mới được đào tạo và huấn luyện sẽ tập sự, phụ tá cho
quen thạo dạn dĩ, tích lũy kinh nghiệm thực tế đứng lớp, dần dần sẽ tiến tới
việc cộng tác, và nếu cần thì có thể thay thế. Có như vậy, Ban Giáo Lý mới
không bị khủng hoảng vì thiếu nhân sự.

Chúng ta thấy rõ: trước tiên là vai trò và trách nhiệm của Cha Sở hết sức
quan trọng, ngài phải lo sao để quy tụ và đào tạo được một số người trong
Giáo Xứ có khả năng đảm nhận việc dạy Giáo Lý. Kế đến là sự hưởng

24
ứng và cộng tác nhiệt thành của anh chị em giáo dân, nhất là những
bạn trẻ.

Cũng cần phải thấy rằng, trong thời gian mấy thập niên vừa qua, nhiều
vùng kinh tế mới xa xôi hẻo lánh, tuy không thể có Linh Mục, nhưng lại đã
hình thành được một đội ngũ anh chị em Giáo Lý Viên rất có năng lực và
nhiệt tâm, tự đứng ra lo liệu việc tổ chức Ban Giáo Lý, chọn lựa chương
trình giảng dạy phù hợp, đạt kết quả khả quan. Đến khi có được Linh Mục
mới thụ phong bổ nhiệm về, thì tiếc thay, mọi sự đều bị... lật nhào, xóa sổ !

II. CHƯƠNG TRÌNH VÀ KẾ HOẠCH

Hiện nay, chúng ta hiện có nhiều giáo trình Giáo Lý khác nhau, như của
Giáo Phận Đà-nẵng, Xuân-lộc, Nha-trang, Sài-gòn... Do vậy, các Đức
Giám Mục, các Linh Mục Quản Xứ có thể có hai cách:

 Chọn sử dụng một trong các giáo trình trên đây và thích nghi
với hoàn cảnh riêng của Giáo Phận và của Giáo Xứ mình.

 Tham khảo các giáo trình đã có cùng các tài liệu khác để hình thành
một Ban Mục Vụ Huấn Giáo, soạn ra một giáo trình riêng, có
đường hướng rõ rệt của Giáo Phận và Giáo Xứ của mình.

Từ đó, các ngài dựa theo chương trình này để phác thảo một kế hoạch
giảng dạy Giáo Lý chi tiết cho từng tháng, từng niên khóa Giáo Lý,
trong đó có thể chia thành 2 học kỳ, mỗi học kỳ khoảng từ 3 tới 4 tháng,
sao cho thích hợp với thời điểm của các Đại Lễ Phụng Vụ, với thời điểm
trao ban các Bí Tích Hòa Giải, Thánh Thể ( Rước Lễ Lần Đầu ), Thêm Sức
và Tuyên Tín trọng thể ( trước đây quen gọi là Bao Đồng ).

Cũng nên dành ra một thời gian để các em được nghỉ hè, hoặc ôn thi hết
cấp học ở trường Phổ Thông. Đây cũng là dịp để các Giáo Lý Viên được
nghỉ ngơi, đi hành hương hoặc giao lưu với các đoàn Giáo Lý Viên
bạn, nhất là để tổng kết các kinh nghiệm của năm học Giáo Lý vừa qua,

25
chuẩn bị chu đáo cho năm học mới, cho ngày khai giảng Giáo Lý sắp
tới.

III. SOẠN BÀI

Trước khi bắt tay vào việc soạn giáo án cho một bài dạy Giáo Lý, mỗi
Giáo Lý Viên cần lưu ý các điểm sau đây:

 Phải nắm vững toàn bộ chương trình của niên khóa Giáo Lý
của lớp mình đảm nhận, và cả toàn bộ Chương Trình Huấn Giáo
chung cho lớp trước và lớp sau của lớp mình sắp dạy, từ đó mới có
thể có cái nhìn bao quát, hệ thống liền lạc ăn khớp với nhau về các
nội dung mình cần chuyển tải đến các em.

 Phải suy gẫm và sống Lời Chúa mà mình sẽ thông truyền cho
các em trong từng bài dạy, cần đọc kỹ và tìm hiểu sâu xa chính bản
văn Lời Chúa trong từng bài, soát xét lại đời sống bản thân.

 Phải quan tâm đến đời sống và sinh hoạt của các em trong tuần
vừa qua, xem có sự kiện hay biến cố nào có thể giúp mình đưa vào
bài soạn như một chứng từ sống động, có tính thuyết phục.

Đến khi bắt tay vào việc soạn giáo án, các Giáo Lý Viên cần được Cha Sở
hoặc người phụ trách Ban Giáo Lý hướng dẫn các mặt như sau:

 Cách thức soạn bài: Giáo Lý Viên cần phải xác định được ngay
từ đầu 8 điểm quan trọng dưới đây của một bài Giáo Lý:

1.      Chủ đề chung của bài: Mỗi năm học Giáo Lý đều có một chủ đề
chung duy nhất, thâu tóm toàn bộ nội dung các phần, các bài sẽ được dạy.
Chủ đề chung này sẽ được ghép vào với từng chủ đề riêng. Ví dụ: Lớp Một
chương trình Giáo Lý của Giáo Phận Sài-gòn có chủ đề chung là: "Chúa
yêu con".

2.      Chủ đề riêng của bài: Sẽ có từng loạt nhiều bài nằm trong một
chủ đề riêng được khai triển từ một chủ đề chung của năm học Giáo Lý.

26
Như ở ví dụ vừa nêu, chủ đề chung "Chúa yêu con" có tất cả 3 chủ đề riêng
như sau:

    Phần 1: Chúa yêu con, cho con mọi sự


    Phần 2: Chúa yêu con, cho con biết Chúa
    Phần 3: Chúa yêu con, đến ở với con.

3.      Đề tài riêng của bài: Đề tài cũng chính là tên của từng bài, là nội
dung mà bài muốn đề cập đến. Có thể nói đề tài của bài là bản toát yếu cô
đọng nhất của bài. Từ một chủ đề riêng, các đề tài được triển khai, quảng
diễn thành nhiều bài, để từ đó Giáo Lý Viên dễ dàng giúp các em từng
bước nắm được từng ý lực, từng chủ đề riêng có liên quan chặt chẽ với
nhau trong một năm học. Như ở ví dụ đề cập trên đây, Chủ đề phần 1 là:
"Chúa yêu con, cho con mọi sự" là chủ đề riêng của 4 bài:

     Bài 01: Chim trời, cá biển hãy chúc tụng Thiên Chúa.
     Bài 02: Mặt trời, mặt trăng hãy ca ngợi Thiên Chúa.
     Bài 03: Thiên Chúa cho chúng ta tất cả, vì Người là Cha ta.
     Bài 04: Chúa dựng nên chúng ta giống Chúa.

4.      Khởi điểm của từng bài: Chúng ta có thể thấy ngay khởi điểm của
mỗi bài nằm ở ngay trong đề tài cũng là tựa đề, tên gọi của bài. Từ khởi
điểm này, Giáo Lý Viên sẽ bắt đầu câu chuyện với các em. Đối với các độ
tuổi thiếu nhi, bài giảng áp dụng phương pháp quy nạp, nên Giáo Lý Viên
sẽ có khởi điểm là những chuyện, những sự vật gần gũi quen thuộc mà các
em tiếp xúc và thấy thường ngày chung quanh mình. Với ví dụ nêu trên,
khởi điểm của bài 01 chính là chuyện con chim trên trời, con cá dưới
biển...

5.      Đích điểm của bài: Rõ ràng mục tiêu của bài Giáo Lý ở đây
không giống như ở trường Phổ Thông, chúng ta không nhắm cung cấp cho
các em kiến thức khoa học thường thức, chúng ta chỉ mượn chuyện con
chim, con cá để dẫn các em đến với đích điểm là nhận ra Thiên Chúa chính

27
là Đấng đã tạo dựng nên con chim, con cá và trao tặng cho con người, cho
các em được hưởng dùng.

6.      Xác tín của bài: Từ đích điểm đã đạt được sau khi diễn giảng cho
các em, Giáo Lý Viên sẽ dẫn các em tới một xác tín quan trọng. Tắt một
lời, bao giờ đích điểm của bài Giáo Lý cũng là tuyên xưng một chân lý về
Thiên Chúa. Tất cả mọi đích điểm của mọi bài Giáo Lý đều đã được cô
đọng trong Kinh Tin Kính. Ví dụ: Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng nên mọi
sự; Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng; Thiên Chúa là Tình Yêu; Đức Giê-su
là Con Một của Thiên Chúa Cha; Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ...

7.      Tâm tình của bài: Từ xác tín vào Thiên Chúa, Giáo Lý Viên lại
đưa dẫn các em vào tâm tình chính yếu của bài như một thái độ đáp trả
xứng đáng của bản thân các em với Thiên Chúa. Tâm tình này sẽ được
Giáo Lý Viên lồng vào phút cầu nguyện đỉnh cao trong bởi dạy Giáo Lý.
Có thể đó là một lời tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng cho em, đã tạo dựng nên
chính em, cũng có thể đó là lời tôn vinh chúc tụng quyền năng của Thiên
Chúa...

8.      Thực hành của bài: Giáo Lý Viên dặn dò các em những việc,
những điều thực hành cụ thể nho nhỏ và vừa tầm trong cuộc sống của các
em được rút ra từ kết luận của bài Giáo Lý. Ví dụ: Em sẽ vâng lời cha mẹ,
các thầy cô; Em sẽ sống dễ thương nhân ái với bạn bè; Em sẽ không nói
tục chửi thề hay đánh nhau; Em sẽ tôn trọng thiên nhiên và môi trường
bằng cách không bẻ cành vặt hoa hay xả rác bừa bãi...

8 điểm mấu chốt quan trọng vừa nêu sẽ được trình bày như một cái
khung của Giáo Án từng bài, cứ lần lượt theo đó để đặt ra các câu hỏi cho
các em khi diễn giảng.

 Mỗi Giáo Lý Viên phải soạn bài đầy đủ, cho dù đã có sẵn thủ
bản hay giáo trình Giáo Lý trong tay. Dứt khoát không nên lấy sách
bổn ra đọc, cắt nghĩa, và bắt các em chép vào tập. Bài soạn phải
trình bày rõ ràng, chu đáo trong sổ giáo án.

28
 Sau khi đứng lớp, nên có bước tự lượng giá, ghi chú thêm vào cuối
phần bài soạn của mình những sáng kiến tự phát của mình đã
có trong lúc giảng, cũng như những phản ứng tinh tế từ phía các em
( uể oải, chán ngán, khó hiểu, hoặc hăng hái, hứng khởi, mau tiếp
thu, đặt ra nhiều thắc mắc chính đáng, đưa ra được những nhận xét
độc đáo... ) để buổi dạy sau và năm học sau có thể tham khảo, canh
tân, gia giảm.

 Thỉnh thoảng Cha Sở hoặc người phụ trách Ban Giáo Lý có thể
kiểm tra, góp ý, giới thiệu những sổ giáo án đạt hiệu quả mẫu mực
cho toàn Ban Giáo Lý cùng nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau. Những anh chị em Giáo Lý Viên kỳ cựu, vì lý do nào đó
phải nghỉ dạy, có thể gửi lại các sổ giáo án các năm đã dạy để lưu
trong tủ sách tham khảo chung của Ban Giáo Lý.

 Có thể tổ chức soạn bài chung trong một nhóm Giáo Lý Viên cùng
phụ trách một cấp lớp như: khối Khai Tâm, Thánh Thể, Thêm Sức,
Tuyên Tín ( Bao đồng ), Vào Đời...

Diễn tiến một buổi họp soạn bài chung được đề nghị như sau:

 Mỗi nhóm Giáo Lý Viên cùng cấp, cùng khối sẽ tự hình thành theo
các phương pháp Nhóm Ong hoặc Hoạt Động Xưởng ( Các phương
pháp Buzz-Group hoặc Système d'Atelier - xin xem thêm Tuyển
Tập Nối Lửa Cho Đời số 1 ). Trưởng Nhóm là một Linh Hoạt Viên
sẽ đọc đề tài và nội dung cần soạn, mỗi người trong Nhóm suy nghĩ
và cầu nguyện riêng trong khoảng 5 - 10 phút.

 Lần lượt từng Giáo Lý Viên trình bày ý kiến, một người làm thư ký
ghi nhận, tất cả chưa vội bàn cãi tranh luận hay quyết định chọn lựa
một ý kiến nào ngay. Có thể dùng các phương pháp Lập Phiếu và
Động Não ( Các phương pháp Fichier và Brain Storming - xin xem
thêm Tuyển Tập Nối Lửa Cho Đời số 1 ) để tiến hành thu nhặt ý
kiến nhanh và đầy đủ chi tiết liên quan đến bài Giáo Lý.

29
 Trưởng Nhóm dựa vào ý chính của bài Giáo Lý ( có thể dựa vào
một giáo trình gốc, một tài liệu thủ bản Giáo Lý chuần xác nào
đó ), cứ theo trình tự từng phần của giáo án đòi hỏi mà chọn ra và
đúc kết những nét quan trọng cốt yếu mà mọi người đều cùng đồng
ý. Tất cả cùng ghi nhận vào sổ giáo án của mình.

 Cả Nhóm lại cùng nhau tìm chọn thái độ tâm linh, tức là những
tâm tình sống cho các em, chọn đoạn Lời Chúa thích hợp, tìm
các kinh nghiệm sống có thể giúp các em hiểu bài và nhớ bài, đề
nghị các tài liệu nghe - nhìn ( nếu có và nếu cần ), các bài hát và
câu truyện minh họa, các trò chơi sinh hoạt ứng với bài Giáo Lý
đang soạn.

IV. KẾT LUẬN

Hiệu quả từ một công việc làm chung theo Nhóm bao giờ cũng cao hơn
việc làm đơn độc. Nội dung của bài Giáo Lý trong cùng một cấp, một khối
được bảo đảm đồng nhất, chính xác mà vẫn phát huy được tính đa dạng
phong phú của mỗi cá nhân khi giảng dạy thật sự.

Hơn nữa tình thân của các Giáo Lý Viên trong một Nhóm cũng nhờ đó mà
càng trở nên gắn bó, làm cho sự đoàn kết trong Ban Giáo Lý thêm bền
vững.

Dẫu sao, các phương pháp năng động Nhóm có hiệu quả đến đâu, vẫn cần
luôn nhớ: Hãy dành chỗ cho Chúa Thánh Thần tác động.

30
BÀI 6: DIỄN TIẾN MỘT BUỔI HỌC GIÁO LÝ

Một buổi học Giáo Lý cần thiết được phân định thành 3 giai đoạn như sau:

I. TRƯỚC BUỔI HỌC

 Giáo Lý Viên cần chuẩn bị phòng học cho sạch sẽ, ngăn nắp. Có
thể tùy theo nhu cầu của buổi học mà sắp xếp các dãy bàn ghế theo
hình chữ U hay hình chữ nhật, thậm chí có thể dẹp hết bàn ghế vào
sát vách để trải chiếu ngồi vòng tròn dưới nền nhà.

 Không hẳn buổi học nào cũng là ngồi trong phòng, nhưng có thể
tùy theo nội dung và yêu cầu sư phạm, mạnh dạn đổi địa điểm học
ra sân Nhà Thờ, dưới chân tượng đài Đức Mẹ, trong lòng Nhà Thờ
hoặc ngay trên Cung Thánh...

 Bản thân Giáo Lý Viên luôn luôn phải đến lớp trước hết, thường là
sớm 15 phút để chủ động đón tiếp các em. Hành trang luôn sắp sẵn:
sổ giáo án, sách Kinh Thánh, các tài liệu giảng dạy kèm theo như
truyện kể, bài hát, trò chơi, hình ảnh minh họa...

II. TRONG BUỔI HỌC

Các bước diễn tiến dưới đây chỉ mang tính tương đối, có thể uyển chuyển
thay đổi thứ tự hoặc thêm bớt, miễn là đạt được mục đích nhắm tới của nội
dung bài Giáo Lý .

 Mở đầu là đón tiếp từng em. Kế đó, khi đã đông đủ thì ổn định lớp,
thường là bằng cách để tạo bầu khí sôi nổi hứng thú. Sau đó, mời
các em đứng lên bắt lên một bài hát sinh hoạt quen thuộc, sửa sang
y phục tề chỉnh, lắng lòng lại để chuẩn bị cầu nguyện.

 Cầu nguyện đầu buổi học, có thể chính Giáo Lý Viên dâng một
lời nguyện ngắn với Chúa Thánh Thần, cũng có thể đọc đoạn Lời
Chúa ý lực của bài học lần trước, hoặc của bài sắp dạy, hát chung

31
một bài Thánh Ca ( chọn được bài hát của thiếu nhi, dùng cho cả
năm học thì càng tốt).

 Ôn bài Giáo Lý đã học lần trước. Tránh dùng hình thức sáo
mòn lâu nay như: khảo bài - trả bài, ghi điểm vào sổ, trách mắng, ra
các hình phạt phản giáo dục... Nên dùng hình thức hội thoại, gợi ý
để các em trả lời theo trí hiểu hơn là theo trí nhớ.

 Dẫn nhập vào bài mới bằng một kinh nghiệm sống hoặc một
câu truyện kể ( xin sử dụng Tuyển Tập Nối Lửa Cho Đời số 2, 4,
6). Cũng có thể móc nối với bài đã học lần trước, đặt một vài câu
hỏi gợi ý cho các em để hướng dẫn từng bước đến chủ đề của bài
sắp dạy.

 Viết đoạn Lời Chúa ý lực trên bảng, hoặc cũng có thể viết sẵn trên
một băng giấy lớn rồi lúc này gắn lên bảng). Mời các em đứng lên
nghe Giáo Lý Viên công bố hoặc cả lớp cùng đọc đoạn Lời Chúa
một cách trân trọng. Có thể dùng phương pháp đọc Lời Chúa theo 3
thì ( 3 temps): tất cả đọc chung ( đọc bằng miệng); thinh lặng
trong ít phút để nhìn lên bảng đọc thầm ( đọc bằng mắt); cuối cùng
Giáo Lý Viên sẽ đọc lại với tốc độ chậm, to và rõ chữ ( đọc bằng
tai).

 Chuyển sang phần diễn giải bài Giáo Lý mới, mời các em ngồi
xuống, nên dùng hình thức hội thoại để gợi ý cho các em suy nghĩ
và phát biểu cùng xây dựng bài. Nếu Giáo Lý Viên muốn chủ động
giúp các em hiểu bài theo hướng đã soạn trong giáo án thì nên dùng
phương pháp quy nạp chứ hạn chế dùng phương pháp diễn giải,
vừa khó hiểu, vừa dễ khiến các em mau chóng... ngủ gật và chán
ngán việc phải đi học Giáo Lý.

 Đến đỉnh cao của buổi học Giáo Lý, mời cả lớp đứng lên cử hành
cầu nguyện (célébration de la prière) một cách long trọng, vì
đây là giây phút các em gặp gỡ chính Lời Chúa, là mục tiêu mà bài
Giáo Lý nhắm tới. Cùng nhau công bố Lời Chúa một lần nữa . Sau
32
đó có thể mời các em dâng lời nguyện tự phát, xin ơn, cảm tạ, chúc
tụng, quyết tâm... Giáo Lý Viên dâng lời cầu nguyện kết ngắn gọn.
Hát chung bài ca ý lực Lời Chúa thật hân hoan phấn khởi.

 Cho các em ngồi xuống, ghi bài toát yếu vào tập. Bài toát yếu
thường rất gọn, chỉ từ 2 đến 6 giòng tùy trình độ và lứa tuổi học
sinh. Giáo Lý Viên dặn dò công việc ở nhà nếu có, thường là thực
hành một cử chỉ đẹp, tập luyện một tính tốt theo mời gọi của Lời
Chúa.

 Chuyển sang phần sinh hoạt để củng cố bài Giáo Lý vừa học. Có
thể chọn hoặc chế biến một trò chơi nhỏ ứng với chủ đề bài Giáo
Lý. Có thể tập một bài hát có cử điệu ( xin xem thêm Tuyển Tập
Nối Lửa Cho Đời số 1 ).

Trong suốt năm học, cũng có thể dành ra từ 5 tới 7 phút cuối mỗi buổi dạy
để đọc nối tiếp nhau một truyện dài nhiều chương có chủ đề hợp với nội
dung toàn chương trình ( ví dụ: Truyện Cuộc Đời Các Thánh, Những
Tâm Hồn Cao Thượng...).

 Cầu nguyện cuối giờ thật ngắn gọn nhẹ nhàng, như một lời
chào Chúa để chia tay nhau, xin ơn bình an cho giấc ngủ đêm nay
hoặc cho một tuần lễ sống sắp tới. Hát chung bài ca ý lực hoặc một
bài sinh hoạt ngắn. Buổi học kết thúc, Giáo Lý Viên tiễn các em ra
về.

III. SAU BUỔI HỌC

 Nếu là một Giáo Xứ nằm lọt trong một khu xóm bình dân, hoặc ở
vùng ven đô hay ngoại thành, và nhất là ở thôn quê, phạm vi hẹp
nhưng mật độ dân cư đông đúc, nhiều khi lại là vùng Công Giáo
toàn tòng, ai cũng biết khá rõ về nhau, các Giáo Lý Viên phải giữ
gìn lời ăn tiếng nói, cách ứng xử và việc sống đạo sao cho ăn
khớp với những gì đã dạy các em ở lớp Giáo Lý. Cần nhớ, cuộc
đời mình là một bài dạy Giáo Lý nối dài.
33
 Mỗi Giáo Lý Viên đều là một người con cháu hay bạn hữu của cha
mẹ các em học sinh, cần phối hợp cộng tác với gia đình trong việc
giáo dục Đức Tin và Nhân Bản cho các em, bằng cách thường
xuyên lui tới gia đình, nhắc nhở đôn đốc các em sống Lời Chúa đã
học ở lớp, thăm hỏi khi các em đau yếu phải nghỉ học, khuyến
khích các em khi có dấu hiệu bỏ lớp hoặc bị gia đình hiểu lầm hay
ngược đãi, khuyên nhủ các em khi lỡ phạm lỗi lầm trong gia đình
hay ở trường Phổ Thông...

 Đặc biệt khi Ban Giáo Lý của Giáo Xứ có tổ chức Trò Chơi Chiến
Dịch Giáo Lý hoặc Hội Thi Đố Vui Giáo Lý,tham gia hết mình.

34
BÀI 7: PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY GIÁO LÝ

I. DẪN NHẬP

Nếu như trong giáo dục, các mặt trí dục, đức dục và thể dục đòi hỏi phải có
phương pháp chuyển tải thì ngành Sư Phạm Giáo Lý cũng cần phải có
phương pháp. Phương pháp chính là con đường ngắn nhất đưa cả
người dạy lẫn người học đạt đến mục tiêu nhắm tới.

Có hai phương pháp chính và một số phương cách hỗ trợ để Giáo Lý Viên
có thể vận dụng trong việc trình bày một nội dung Giáo Lý.

Thật ra, mỗi phương pháp đều có mặt mạnh mặt yếu của nó, không hoàn
toàn tuyệt đối hay cho mọi trường hợp. Do vậy, tùy từng vấn đề phải
chuyển tải, tùy từng hoàn cảnh và môi trường giảng dạy, và tùy từng đối
tượng tham dự lớp, mà Giáo Lý Viên uyển chuyển chọn lựa phương pháp
này hay phương pháp kia, đôi khi khéo léo phối hợp cả 2 phương pháp
trong cùng tiến trình truyền đạt một nội dung Giáo Lý, cốt là đạt được hiệu
quả cao nhất.

II. HAI PHƯƠNG PHÁP CHÍNH

1.    Phương pháp diễn giải ( Méthode déductive ):

Người trình bày đi từ một định luật, một định đề lớn và tổng quát, dần dần
suy luận, diễn tả, chứng minh và giải thích, mổ xẻ thành những vấn đề nhỏ,
những trường hợp riêng biệt để từ đó tổng hợp từng bước để người học  có
thể nắm được nội dung chính.

Ví dụ: Học về Hội Thánh trong chương trình Vào Đời. Định nghĩa Hội
Thánh là gì ? Hội diễn tả một cuộc nhóm họp thành cộng đoàn với một
mục đích, một công việc chung. Thánh nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Vậy,
Hội Thánh là cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa quy tụ thành
Dân Chúa và thành Thân Mình Của Đức Giê-su Ki-tô... ( Kế đó, lại phải
trình bày về Lời Chúa, được quy tụ bởi Lời Thiên Chúa là thế nào ? Tại
sao lại nói Hội Thánh là Nhiệm Thể, là Thân Mình của Đức Ki-tô ?... )
35
Phương pháp này buộc người dạy phải vận dụng những suy luận và định
nghĩa vững chắc và mạch lạc, có phần nào hơi áp đặt các em phải chấp
nhận ngay từ đầu một mệnh đề, một định luật, đòi hỏi phải đầu tư suy nghĩ
nhiều.

Hơn nữa, phương pháp giảng dạy này dùng đường lối thuyết
trình ( didactique ), nghĩa là độc thoại một chiều từ phía người nói đến
người nghe, sử dùng khá nhiều từ ngữ Thần Học cao siêu và Mầu
Nhiệm khó hiểu, gây ra bầu khí động não căng thẳng, nặng nề, khô khan,
thiếu sự trao đổi và cảm nhận sống động nơi các em.

Nếu đành phải áp dụng phương pháp này trong giảng dạy thì phải huy
động thêm nhiều phương cách hỗ trợ để minh họa dẫn dắt các em từ những
cái khó hiểu đi dần tới những cái dễ hiểu.

Một hình thức biến thể và đơn giản hóa của phương pháp diễn giải là các
sách Giáo Lý Hỏi - Thưa dành cho trẻ em, mà hiện nay một số Giáo Phận,
đặc biệt ở miền Bắc vẫn đang còn áp dụng.

2.    Phương pháp quy nạp ( Méthode inductive ):

Người dạy khởi đi với các kinh nghiệm của bản thân, hoặc những dẫn
chứng thực tế, những câu chuyện trong đời sống thường nhật mà
người học có thể từng trải và cảm nhận một cách tự nhiên. Từ đó tiến dần
đến một kết luận có tính khái quát về nội dung vấn đề muốn truyền
đạt.

Ví dụ: Học về việc "Thiên Chúa ban trí khôn loài người" trong chương
trình Giáo Lý Khai Tâm. Kể truyện em bé Hi-cô-i-chi trong truyện Tảng
Đá Chắn Đường ( xin xem Tuyển Tập Nối Lửa Cho Đời số 2 ). Bắt đầu từ
đời sống nhân bản: Em có trí khôn nên em sống khôn ngoan và làm vui
lòng mọi người. Dẫn vào nội dung Giáo Lý: Em được Thiên Chúa ban cho
trí khôn để có thể nhận biết Chúa, sống yêu thương như ý Chúa muốn. Đẩy
tới tâm tình tôn giáo: Mỗi tối, trước khi đi ngủ, em thưa với Chúa: "Xin

36
cho con biết điều gì đẹp lòng Chúa để con làm, và điều gì làm buồn lòng
Chúa để con tránh"...

Phương pháp này rất phù hợp với trẻ em, vì các em thường suy nghĩ bằng
sự kiện và hình ảnh hơn là bằng ý niệm và lý luận trừu tượng. Hơn nữa,
phương pháp này dùng đường lối đối thoại ( méthode dialogique ), nghĩa là
có tương quan hai chiều giữa người hướng dẫn và người khám phá. Thầy
gợi ý để trò suy nghĩ và từng bước tiến gần đến chân lý. Các câu hỏi
vừa tầm, mở đường cho lời đáp, tiệm tiến, xoáy dần vào vấn đề chính.

Chúng ta nhận thấy Đức Giê-su đã dùng phương pháp quy nạp một cách
xuất chúng khi luôn mở đầu một bài giảng bằng một dụ ngôn hoặc bằng
một hình ảnh, một sự kiện bình thường trong cuộc sống con người.

III. CÁC PHƯƠNG CÁCH HỖ TRỢ

Để việc áp dụng các phương pháp vừa nói ở trên đạt được hiệu quả cao
nhất, xin đề nghị 2 phương cách hỗ trợ.

Cần lưu ý là cả 2 phương cách này đều dựa trên nguyên tắc năng động
( dynamique ), đòi hỏi người Giáo Lý Viên như một Linh Hoạt Viên trong
lớp Giáo Lý, biết cách huy động các em trong một bầu khí vui tươi sống
động, biết cộng tác với nhau trong việc khám phá từng bước và toàn bộ nội
dung Giáo Lý thông qua các Trò Chơi, Bài Hát, Truyện Kể và những sinh
hoạt tập thể như: Kịch Chạy, Pa-Nô Chạy, Báo Chạy... ( Xin xem thêm
tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 )

Như thế, các phương cách hỗ trợ này tạo ra các tương quan đa chiều,
không những giữa Giáo Lý Viên và các em, mà còn giữa các em với nhau
trong sự hướng dẫn của Giáo Lý Viên. Khái niệm dạy - học trong một bầu
khí sống động như vậy, sẽ trở nên tương đối, mà đúng hơn, phải thay bằng
khái niệm cùng nhau khám phá.

Không gian lớp học thường được sắp xếp rất linh động uyển chuyể. Bàn
ghế có thể bố trí theo hình vuông, hình chữ nhật hoặc chữ U. Cũng có thể

37
bỏ hết bàn ghế để thầy và trò ngồi xuống đất theo hình tròn. Đương nhiên,
số lượng các em không nên quá đông ( vượt quá 30 trẻ ) để việc hội thoại,
sinh hoạt và hoạt động không bị loãng hoặc hỗn độn, cả lớp đều dễ dàng
tham gia mà ít có em nào thụ động khép kín.

Ở đây xin tạm phác họa một xã hội đồ ( sociogramme ), các mũi tên đan
xen qua lại sẽ diễn tả những mối tương quan đa chiều trong lớp xoay quanh
nội dung Giáo Lý được đem ra hội thoại, giữa Giáo Lý Viên    (ô tròn tô
đậm) và các em ( các ô để trắng ):

1.   Phương cách trực quan ( intuitive ):

Trực quan nghĩa là các em có thể trực tiếp vận dụng một hoặc nhiều giác
quan ( mắt nhìn, tai nghe, tay chạm, mũi ngửi, lưỡi nếm ), để từng chút
một, thông qua các sự việc, sự vật và khái niệm trung gian mà đến gần hơn
với nội dung Giáo Lý.

Phương cách này đặc biệt thu hút các em học sinh Giáo Lý, nhưng cũng dễ
gây ấn tượng nếu khéo áp dụng cho cả các dự tòng người lớn.

Ở đây, chúng tôi xin đơn cử hai mặt trực quan sinh động dễ được vận dụng
nhiều nhất:

 Mắt nhìn ( thị giác ), Giáo Lý Viên có thể vận dụng các tranh
ảnh, pa-nô cắt dán minh họa một phần của nội dung Giáo Lý, một
tấm bản đồ Đất Thánh, một bản phân nhánh hình thành các Giáo
Phận ở Việt Nam, một bản gia phả Chúa Giê-su, một bình hoa thật
đẹp, sách Kinh Thánh... hoặc một mẫu vật thật như: hòn đá núi,
ngọn đèn có giá, con chim sẻ trong lồng, đồng bạc cổ, chùm nho,
bó lúa, đóa hoa dại, nhánh cỏ lùng... gợi liên tưởng đến các câu Lời
Chúa trong Tân Ước... Cũng có thể cho các em chơi trò chơi lắp
ghép tranh hình ô vuông theo một tranh Kinh Thánh mẫu, làm Báo
Chạy, Pa-nô Chạy...

38
 Tai nghe ( thính giác ), Giáo Lý Viên có thể mở cho lớp nghe
một bài Thánh Ca, một câu truyện kể với nhạc nền được thâu sẵn
trong băng cassette có nội dung dẫn vào hoặc củng cố bài Giáo Lý.
Ngoài ra, phải kể cả các loại hình minh họa Sư Phạm Giáo Lý như
kể truyện, đọc truyện, tập hát cũng giúp vào việc nghe hết sức hiệu
quả. Cũng có thể cho lớp chơi các trò chơi Kim về thính giác để
nhận định những tiếng động khác nhau của các mẫu vật, những âm
giọng riêng của từng người... từ đó dẫn nhập vào bài dạy.

2.   Phương cách hoạt động ( active ):

Ở phương cách này, Giáo Lý Viên vận dụng tối đa các phương pháp năng
động như Lập Phiếu, Nhóm Ong, Động để tổ chức các dạng sinh hoạt
tại lớp như: hoạt cảnh, diễn kịch ngắn, Báo Chạy, Pa-nô Chạy, triển lãm
mi-ni...

Giáo Lý Viên các khối cũng có thể phối hợp tổ chức cho nhiều khối học
sinh Giáo Lý sinh hoạt các trò chơi trong Hội Trường hoặc tại sân Giáo
Xứ, hoặc thỉnh thoảng tổ chức Trò Chơi Lớn, Chiến Dịch Giáo Lý ( x.
thêm tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 ).

Cuối học kỳ hoặc cuối năm, có thể tổ chức cho các em một chuyến đi hành
hương, phục vụ từ thiện, xuất du, những buổi xem phim Kinh Thánh, phim
Giáo Dục... Sau mỗi buổi hoặc mỗi chuyến đi như thế, cả lớp sẽ họp mặt
với nhau để lượng giá, trao đổi, chia sẻ và được Giáo Lý Viên hỗ trợ, sẽ
cùng nhau rút ra một chân lý Tin Mừng cần lãnh hội.

Được như vậy, nội dung Giáo Lý sẽ khắc họa sâu xa trong tâm hồn, và
được biến thành "sự sống" cụ thể nơi mỗi em.

Học đi đôi với hành, kiến thức hòa nhập với cảm nhận, các em sẽ thật sự
gặp gỡ Đức Ki-tô, đến gần với Thiên Chúa hơn, đồng thời lại nhận ra rất rõ
chiều kích tha nhân và sự hiệp thông trong Giáo Hội qua những bạn
học cùng lớp cũng như qua tha nhân mà các em tiếp xúc, đặc biệt là "người
nghèo".
39
IV. KẾT LUẬN

Xin nhắc lại, mục tiêu ở đây chính là giúp học viên gặp gỡ Đức Ki-tô, hiểu
biết, yêu mến và sống theo Lời của Người. Do vậy, các phương pháp
nêu trên chỉ mang ý nghĩa chuyển tải và hỗ trợ, đừng quá lệ thuộc.

Cũng xin nhớ là không có phương pháp nào là chuẩn mực và lý tưởng cho
mọi Giáo Lý Viên, mọi độ tuổi các em và trong mọi lúc, mọi trường hợp,
do vậy, dùng phương pháp nào đi nữa thì cũng không miễn chước cho mỗi
Giáo Lý Viên khỏi việc tự mình khao khát tìm hiểu, cầu nguyện và sống
Lời Chúa.

40
BÀI 8: NGHỆ THUẬT ĐẶT CÂU HỎI GIÁO LÝ

I. DẪN NHẬP

Giảng dạy Giáo Lý không phải là áp đặt một chiều những giáo điều cứng
nhắc vào đầu người học, nhất là người học ở đây lại là trẻ em. Đây là cả
một tiến trình mời gọi cùng suy tư, khám phá và cảm nhận Chân Lý của
Thiên Chúa dưới dạng hội thoại nhiều chiều qua lại.

Do vậy, các câu hỏi luôn được đặt ra với mục đích khơi gợi, từ từ từng lớp
một, sẽ "bóc vỏ" vấn đề cho đến khi đạt được cốt lõi. Đây là cả một nghệ
thuật tinh tế mà các Giáo Lý Viên cần được chuẩn bị và đào tạo kỹ lưỡng.

II. PHÂN LOẠI CÁC DẠNG CÂU HỎI

1.   Khi soạn bài:

Giáo Lý Viên nên soạn sẵn trong giáo án các câu hỏi để giúp triển khai
từng bước nội dung Giáo Lý. Câu hỏi không nên bao hàm vấn đề quá
lớn, quá rộng, nhưng đi theo hướng quy nạp, dẫn dắt từ cái dễ hiểu, gần
gũi, từ các vòng ngoài mà xoáy dần vào cốt lõi vấn đề.

Mỗi câu hỏi đều đã được dự đoán câu trả lời, hoặc tiên liệu các hướng trả
lời theo tầm hiểu biết và suy nghĩ của các em. Ở giữa mạch các câu hỏi,
nên có thêm một ít thông tin mới, những minh họa sống động để "gút" từng
chặng vấn đề, rồi lại nêu một câu hỏi tiếp theo, mở sang một chặng khác.

Ví dụ: "Trong thực tế, theo các em, người ta cần gì để sống ? ( Cần thức ăn
và nước uống ) Đúng rồi, theo các thí nghiệm khoa học, người bình
thường có thể nhịn ăn tới 30 ngày, nhưng nhịn uống thì tối đa chỉ được 7
ngày... Vậy, nước quan trọng lắm. Thế, theo các em, ở Việt Nam chúng ta,
nước có dễ kiếm không ?"... Cứ thế dẫn vào chất liệu nước được dùng
trong Bí Tích Thánh Tẩy.

2.   Khi kiểm tra miệng:

41
Giáo Lý Viên cần chuẩn bị các câu hỏi để kiểm tra miệng bài Giáo Lý đã
học. Mục đích việc kiểm tra không phải để "truy bài" và cho điểm
như ở trường Phổ Thông, nhưng là để giúp các em củng cố những gì đã
học trong các buổi trước, từ đó dẫn nhập, móc nối sang nội dung Giáo Lý
bài sắp học.

Câu hỏi loại này càng giúp các em hiểu bài thêm ( question de
compréhension ), nó không cần được các em trả lời thuộc lòng làu làu y
như nhau, nhưng lại vận dụng đến trí hiểu và cảm nhận riêng của mỗi em.

Ví dụ: Các em có nhớ Chúa Giê-su đã nói như thế nào về Ngôi Nhà của
Người không ?...Thế còn Nhà Cha của Người ?...Thế nào là nhà cầu
nguyện ?... Trong Kinh Thánh, em có nhớ Chúa Giê-su đã làm gì để chấn
chỉnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem ?... Hiện nay, em nào có thể cho biết địa chỉ
hộ khẩu thường trú hiện nay của Chúa Giê-su ?

3.   Khi giảng bài:

Nếu đã hiểu giảng dạy là một cuộc đối thoại hai chiều hoặc hội thoại nhiều
chiều giữa Giáo Lý Viên và các em, thì việc đặt các câu hỏi là cả một nghệ
thuật.

Dựa vào các câu hỏi đã soạn sẵn trong giáo án, Giáo Lý Viên gợi ra cho
các em những hướng suy nghĩ, tưởng tượng, hồi nhớ, lý luận và cảm nhận.
Từ đó các em có thể trả lời từng chặng một, để dần dần khai phá nội dung
Giáo Lý với sự giúp đỡ của Giáo Lý Viên. Các câu hỏi cần gần gũi với
thực tế đời sống, với ngôn ngữ thông dụng, có thể mang một chút dí
dỏm nhưng không nên tầm thường và thô tục.

Cũng đừng nên quá cứng ngắc dựa thật sát vào những gì đã soạn, mà nên
uyển chuyển tận dụng ngay những tin tức trong xã hội, những tình huống
vừa xảy ra để đặt câu hỏi. Ví dụ: "Ban nãy, chắc những em đến lớp
sớm khoảng 15 phút, đã chứng kiến một tai nạn ngay trước cổng Nhà
Thờ, vậy..." Hoặc "Hôm qua, chúng ta vừa tham dự Lễ Tro, vậy, em nào có
thể cho biết..."
42
4. Khi tổ chức thi:

Giáo Lý Viên cũng cần biết cách soạn các câu hỏi cho các bài thi Giáo Lý.
Cuối một loạt bài, hoặc cuối học kỳ, cuối năm học, hay nhất là cho các
em một câu hỏi gợi ý viết một bài cảm nhận, trong đó có thể đúc kết được
nhiều vấn đề hiểu biết đã được hệ thống hóa, có liên hệ đến Giáo Hội hiện
tại, đến đời sống bản thân các em. Do vậy, bài làm dứt khoát không
nên chấm điểm và xếp hạng, chỉ nên có những lời phê tích cực, khuyến
khích.

Ví dụ: "Các em hãy kể lại một câu truyện về Lòng Mến mà em đã nghe kể
ở lớp, hoặc chính em đã gặp trong đời sống. Em cho biết tại sao em lại
thích truyện ấy ? Nó gợi đến bài học Giáo Lý nào em đã được học ? Cuối
cùng em hãy ghi lại một câu Kinh Thánh có thể soi dẫn những ý tưởng và
cảm nhận ấy.

5.    Khi tổ chức Hội Thi Giáo Lý:

Đã là Hội Thi, tức là có sự nỗ lực thi đua giữa các Đội, cần được một Ban
Tổ Chức nghiên cứu soạn thảo kỹ lưỡng để câu hỏi người hướng dẫn
chương trình ( speaker ) đưa ra phải thật chính xác, không được dị nghĩa
hàm hồ, không cố tình gài bẫy các em, không gây tranh cãi giữa các em với
Ban Giám Khảo về nội dung và về số điểm phân định...

Cũng cần lưu ý rằng: các câu hỏi không nên nhắm đến những chi tiết vụn
vặt, vô bổ, thậm chí là... lẩm cẩm ! Ví dụ: Đức Giê-su bị treo trên Thập Giá
bao nhiêu giờ đồng hồ ? Mặt khác, lại có thể sử dụng những câu hỏi mẹo.
Ví dụ: Có mấy Tin Mừng ? ( Chỉ có duy nhất Tin Mừng Đức Giê-su
Ki-tô được ghi lại trong 4 sách Tin Mừng ).

Khi nêu câu hỏi, cần chú ý là giọng phải to, dõng dạc, rõ ràng, không cần
tạo sự hấp dẫn bằng cách biểu diễn tốc độ nói nhanh ( như thường thấy ở
các speakers chương trình Đường Lên Đỉnh Olympia trên đài truyền hình ).
Nếu cần, phải chuẩn bị các pa-nô, băng giấy, hình ảnh được gắn trên bảng
để minh họa cho câu hỏi.
43
III. PHÂN LOẠI CÁC CÂU TRẢ LỜI

Trong các tình huống đặt câu hỏi nêu trên, luôn luôn các Giáo Lý Viên
phải trực diện với các câu trả lời của các em để có đáp án và thái độ thích
hợp. Có 5 loại câu trả lời như sau:

1.   Câu trả lời hoàn toàn đúng:

Giáo Lý Viên xác nhận ngay là hoàn toàn đúng, khích lệ các em ngay bằng
một lời khen đúng mức. Sau đó tiếp tục đào sâu thêm vấn đề bằng một câu
hỏi khác khó hơn một chút, đến gần với chủ đề hơn một chút, lấy nền tảng
từ câu trả lời vừa có được.

Ví dụ: "Em vừa rồi đã trả lời rất đúng. Quan là nhìn xem; Phòng là gìn giữ,
lo liệu. Vậy chúng ta nói Thiên Chúa Quan Phòng có nghĩa là thế nào ?
Em nào có thể cho một ví dụ ?... Điều này cho chúng ta biết gì về tấm lòng
của Thiên Chúa đối với loài người ?..."

2.   Câu trả lời có phần đúng, có phần sai:

Giáo Lý Viên xác nhận ngay phần đúng, chỉ rõ cho các em phần sai. Nên
dùng cách nói tích cực "Các em đã trả lời chưa đúng lắm ở chỗ này... Các
em thử nghĩ coi, nếu như các em vừa nói, không thể nào lại..."

Cần mạnh dạn nhận khuyết điểm về phía mình trong câu đã hỏi, nếu vì thế
mà các em đã trả lời có phần chưa chính xác. Sau đó đặt lại câu hỏi một lần
nữa cho rõ nghĩa. Điều này giải tỏa ức chế tâm lý nơi các em, lại làm các
em nhớ bài hơn.

3.   Câu trả lời hoàn toàn sai:

Giáo Lý Viên nhạy bén nhận định ngay trong đầu những lý do khiến các
em trả lời sai. Kiên nhẫn đặt câu hỏi khác, theo một hướng khác, có thể gợi
một vài ý phụ để các em có cơ sở tìm ra câu trả lời đúng.

Tuyệt đối không nên dùng cách nói tiêu cực, chế nhạo, quát nạt: "Học đến
lớp này mà em còn trả lời tệ hại như thế sao ?"
44
4.   Câu trả lời lạc hướng:

Giáo Lý Viên bình tĩnh lắng nghe câu trả lời trọn vẹn của các em, sau đó
vui vẻ chỉ ra cho các em thấy đã đi quá xa vấn đề, lạc hướng, đốt giai đoạn.
Lập lại câu hỏi, gợi một vài ý để giúp các em xác định vấn đề cần suy nghĩ
để trả lời cho chính xác.

Có thể dí dỏm khôi hài một chút để bầu khí lớp được thư giãn thoải mái,
các em sẽ dễ dàng tái vận dụng óc suy nghĩ và lý luận.

5.   Câu trả lời vượt ngoài dự đoán:

Luôn luôn có một vài em thông minh trổi vượt trong lớp nên có thể câu trả
lời sẽ rất bất ngờ, nằm ngoài dự đoán của Giáo Lý Viên, đẩy tới một khái
niệm độc đáo, giúp cho tiến trình khai phá nội dung Giáo Lý đạt một bước
thật xa và thật sâu. Những câu trả lời như thế thường lại đặt ra một câu hỏi
ngược lại cho Giáo Lý Viên và cho cả lớp. Vì thế, Giáo Lý Viên cần bình
tĩnh, vui hơn là lo.

Ví dụ: Ở một lớp Giáo Lý Khai Tâm miền nông thôn Nam bộ, sau khi Giáo
Lý Viên kể truyện ở vườn Địa Đàng, đã đặt câu hỏi: "Sau khi ông A-đam
và bà E-và phạm tội hái ăn trái cấm, khi Chúa gọi, họ đã làm gì ?" Một
em bé 8 tuổi đã hồn nhiên trả lời: "Dạ thưa cô, họ sợ Chúa quá trời nên
trốn mất tiêu, rồi chối tội tùm lum. Hổng chừng, nếu bữa đó, Chúa thủng
thẳng biểu họ xin lỗi Chúa, thì họ cũng chịu xin lỗi rồi, có dè đâu mà bị
phạt cho khổ sở dữ vậy cô ?"

IV. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG

Trong các trường hợp đặt câu hỏi, nhất là khi giảng bài, Giáo Lý Viên nên
nhớ 5 nguyên tắc sau đây:

1.      Tránh không đặt quá nhiều câu hỏi, nhưng nên hỏi dưới nhiều
dạng khác nhau để có sự phong phú.

45
2.      Tránh hỏi những câu chỉ cần trả lời có hoặc không, nhưng nên
dùng câu hỏi trực tiếp gợi đến tâm tư các em.

3.      Tránh hối thúc, làm gián đoạn câu trả lời, nhưng nên nghe cho
trọn vẹn câu trả lời.

4.      Tránh hỏi những câu chỉ cần trả lời vuốt đuôi, nhưng nên đặt câu
hỏi chung cho cả lớp, rồi mời gọi một em nào đó giơ tay tự nguyện trả lời.
Khi cần thiết lắm mới chỉ định đích danh.

5.      Trong hội thoại, có thể sẽ có nhiều câu trả lời khác biệt nhau, thậm
chí đối nghịch nhau. Cần nắm bắt sự nhạy cảm hoặc dị ứng của một số em,
để tìm được ý chung của cả nhóm trước vấn đề vừa nêu, rồi từ đó, cũng
lại qua hội thoại mà dần dần phân tích cho các em khám phá ra chân lý.

Xin đơn cử một số câu hỏi có thể đặt cho các em khi trình bày nội dung
"Chúa Giê-su hiến dâng mạng sống mình cho chúng ta":

 Thường thì người ta có sợ chết không ?

 Nhưng cũng có những trường hợp người ta dám liều chết chứ, phải
không các em ?

 Em nào biết một trường hợp có người đã dám liều chết không ? Có
ai biết câu chuyện Lê Lai liều mình cứu vua Lê Lợi không ? Hay có
em nào đã được đọc truyện "Anh phải sống" của nhà văn Khái
Hưng chưa ?

 Vậy, khi nào thì người ta dám liều chết ?

 Chúa Giê-su đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người dám hiến dâng mạng sống cho bạn hữu". Vậy Chúa Giê-su
đã làm gì trên Thập Giá ?

 Tại sao Chúa Giê-su lại chịu chết để hiến thân cho chúng ta ?

46
 Nếu chúng ta được Chúa Giê-su kể như là bạn hữu của Người, thì
Người hiến thân để làm gì cho chúng ta ?

V. KẾT LUẬN

Đặt câu hỏi là một phương cách để giảng dạy. Biết cách đặt câu hỏi là
dễ đạt hiệu quả giảng dạy. Do vậy, đây là cả một nghệ thuật, không thể
trong một vài buổi dạy, thậm chí trong một niên khóa Giáo Lý mà chúng ta
đã có thể tích lũy được đầy đủ kinh nghiệm để luôn luôn thành công. Cần
khiêm tốn nhận ra những điểm còn yếu trong việc giảng dạy của mình,
cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng trước khi đứng lớp, có dịp
thuận tiện là xin dự lớp của các Giáo Lý Viên già dặn lâu năm để học hỏi
kinh nghiệm.

47
BÀI 9: BẦU KHÍ MỘT LỚP GIÁO LÝ

I. DẪN NHẬP:

Để giúp các trẻ em có hứng thú khi đến với lớp, và hơn nữa có thể lãnh hội
sâu xa vững chắc nội dung bài Giáo Lý, từ đó trẻ lại còn có thể diễn tả
được niềm tin của mình ít là ngay tại lớp, các Giáo Lý Viên cần phải biết
tạo bầu khí cho lớp Giáo Lý, phải biết cách trình bày nội dung Giáo
Lý, và riêng với trẻ em, còn phải biết giúp sinh hoạt một cách sống động
vui tươi. Muốn vậy, các Giáo Lý Viên nên chú ý đến các yếu tố vật chất và
các yếu tố tinh thần được trân trọng đề nghị sau đây:

II. CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT:

1. Khung cảnh:

Trong thực tế tại các vùng ngoại thành và nông thôn nghèo, khó mà có
Trong thực tế tại các vùng ngoại thành và nông thôn nghèo, khó mà có
được những phòng học Giáo Lý lý tưởng như tại một số không lớn lắm các
Giáo Xứ tại các đô thị và thành phố. Do vậy ở đây xin mở rộng khái niệm
phòng học Giáo Lý thành khung cảnh Giáo Lý.

Dù thế, ở bất cứ khung cảnh nào, khi mở một lớp Giáo Lý, chúng ta cũng
cần ý thức rằng lớp Giáo Lý chính là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người,
nên phải có tính cách thánh thiêng. Đây cũng không phải là một lớp học
Phổ Thông, vì Giáo Lý không chỉ là học, cũng không phải là Nhà Thờ, vì
Huấn Giáo khác với Phụng Vụ. Nơi học Giáo Lý có thể được coi như một
khung cảnh nằm giữa thế giới bên ngoài và cung thánh Nhà Thờ.

2. Bầu khí:

Dạy Giáo Lý là hướng dẫn các em đi từ đời thường, chuyển dần sang đời
sống hiệp thông với Chúa, rồi từ đó lại quay về với đời thường. Quay về
nhưng đã khác trước, bởi các em đã gặp Chúa, đã nhận được từ Chúa một
vốn liếng Tin Mừng để sống khác hơn, tốt hơn, là con cái của Chúa sâu
đậm mật thiết hơn trước.
48
Cho nên, bầu khí lớp Giáo Lý có nét giống như Nhà Thờ ( nếu là trong
phòng ), có khung cảnh giống như nơi ông Mô-sê, ông Gio-an Tẩy Giả, và
chính Chúa Giê-su đã gặp gỡ Thiên Chúa trong sa mạc ( nếu ở ngoài trời ),
nhờ đó mới có thể nâng tâm hồn người học lên tới sự thánh thiêng.

III. CÁC YẾU TỐ TINH THẦN:

1. Tâm lý:

Trong mối tương quan xưng hô và ứng xử giữa Giáo Lý Viên và các em
cũng đặt ra những vấn đề tâm lý đặc biệt, khác hẳn ở các lớp học Phổ
Thông. Chúng ta sẽ không gọi các em là học trò. Bởi thật ra bản thân Giáo
Lý Viên không phải là người dạy chính thức, mà là chính Đức Giê-su và
Thần Khí của Người đang tác động và hướng dẫn.

Do vậy, Giáo Lý Viên nên nói với trẻ em, tùy độ tuổi hai bên mà gọi là
"các em", "chúng con", "các bạn" cho thân tình gần gũi.

Trong tâm lý trẻ em, có một quy luật là luật Chuyển Hóa, nghĩa là trong
quan hệ của các em với Chúa, các em sẽ dùng chính những quan hệ đã có
với Giáo Lý Viên. Các em nói với Giáo Lý Viên thế nào thì cũng thưa với
Chúa như vậy. Do đó, thái độ của các em với chúng ta sẽ ảnh hưởng nhiều
trên thái độ với Chúa: cách yêu mến, tin tưởng, thân mật, vâng lời...

Chúng ta sẽ là một phần "hình ảnh" của Chúa cho các em. Các em sẽ thấy
Chúa, gặp Chúa nơi chúng ta.

Và như thế, chúng ta phải hết sức chú ý tu dưỡng và tự huấn luyện tư cách
của mình. Chúng ta sẽ tôn trọng các em, trân trọng những lời các em
nói, không bao giờ quát tháo, nhiếc móc, trừng phạt, xúc phạm đến phẩm
giá các em.

Mở rộng hơn, vì đã không phải là một lớp học Phổ Thông, nên cũng không
cần thiết cho điểm, xếp hạng các em trong lớp. Trong giờ Giáo Lý, thật sự
là Giáo Lý Viên sẽ cùng các em lắng nghe Lời Đức Giê-su là Người Anh
Cả (Trưởng Tử ), lắng nghe tiếng Thiên Chúa là Cha, rồi tất cả cùng thưa
49
với Người. Các em sẽ nhận ra mình được Chúa yêu và được Giáo Lý Viên
là người thay mặt Chúa quý mến mình.

Một quy luật tâm lý khác là luật Chứng Tá. Huấn Giáo dựa trên chứng tá.
Giáo Lý Viên chia sẻ chính kinh nghiệm của mình cho lớp. Chúng ta
không cần nói nhiều về Đạo, nhưng cần sống Đạo nhiều hơn và chân thật
hơn trước mặt trẻ. Khi chứng tá của Giáo Lý Viên có phẩm chất cao, thì
các em sẽ được giáo dục sâu xa hơn.

Nếu thế, có người sẽ thắc mắc: "Thế, chẳng lẽ làm Giáo Lý Viên, tôi phải
là Thánh hay sao ?"

Xin thưa, đúng là như vậy, trong thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc
(Redemptoris Missio ), ở chương 8, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đệ
nhị đã vạch ra Linh Đạo của người truyền giáo ( mà Giáo Lý Viên đúng là
người truyền giáo ) như sau:

 Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn,

 Theo gương Đức Giê-su Ki-tô, Đấng được sai đến,

 Yêu mến Giáo Hội và các linh hồn như Chúa Giê-su yêu mến,

 Và, phải là THÁNH !

Giáo Lý lấy từ Nguồn Sống là Thiên Chúa, Giáo Lý lấy từ Nguồn Sống là
Thiên Chúa, được truyền đạt đến các em qua chính cách dạy và cách sống
của Giáo Lý Viên.

Như vậy, các em vừa được biết Giáo Lý, lại vừa thấy cung cách sống nội
dung Giáo Lý ấy một cách sinh động cụ thể nơi Giáo Lý Viên, chắc chắn
các em sẽ được khích lệ đi theo hướng sống Tin Mừng ấy.

2. Thinh lặng:

Trẻ không thể gặp Thiên Chúa trong bầu khí ồn ào hỗn độn. Nhiều người
cứ lầm tưởng lớp học Giáo Lý cho trẻ em lúc nào cũng phải giống một câu
50
lạc bộ với đủ thứ sinh hoạt tưng bừng náo nhiệt. Ngược lại cũng đừng áp
đặt một kiểu thinh lặng bề ngoài, vì một thinh lặng thụ động thì không dẫn
đến Thiên Chúa.

Chính trong bầu khí thinh lặng nội tâm, những lời trò chuyện hội thoại
giữa Giáo Lý Viên và các em, giữa các em với nhau lại là điều kiện giúp
các em đến với Thiên Chúa, Đấng các em khao khát kiếm tìm xuyên qua
nội dung bài Giáo Lý.

Vì thế, Giáo Lý Viên cần khuyến khích trẻ khám phá và yêu quý sự thinh
lặng. Thinh lặng là một đức tính tôn giáo. Biết thinh lặng là biết "ở trước
mặt Chúa", là biết sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa nói.

3. Vui tươi:

Trong giờ Giáo Lý, Giáo Lý Viên phải tạo được bầu khí vui tươi cởi mở,
không biến các em thành những nhà khổ tu, hay những binh sĩ giữ kỷ
luật khô khăn một cách răm rắp. Các em có thể hỏi nhau, giải thích cho
nhau, khi cần có thể đi lại, hỏi mượn nhau dụng cụ học tập. Nhưng mọi sự
phải được diễn ra trong cái trật tự của thinh lặng, dễ thương và hồn nhiên.
Ở đâu có Chúa, ở đấy có tình yêu và niềm vui.

Giáo Lý Viên phải luôn giúp các em ý thức mình đang sống dưới cái nhìn
trìu mến của Chúa, đến nỗi trước giờ học thì các em thấy khao khát,
cuối giờ học thì các em vẫn còn muốn tiếp tục.

Trong lớp Giáo Lý, không thể có chuyện học để được nhiều điểm, để được
đứng nhất khi so kè kèn cựa với các bạn, hoặc thậm chí cũng không chỉ
nhắm đến việc thu thập kiến thức càng nhiều càng tốt. Ở đây, các em cùng
nhau gặp gỡ Chúa và đi theo Người.

Ở một chiều kích nhân cách Ky-tô giáo, các em còn được luyện tập để tôn
trọng yêu quý lẫn nhau. Nếu có hai em lỡ đánh nhau, thay vì chỉ chú ý
phân giải ai đúng ai sai, bạn hãy hỏi các em: "Những người con của Chúa

51
có đánh nhau không ? Tay các con, Chúa ban cho là để làm việc tốt, làm
những cử chỉ đẹp cho nhau cơ mà !"...

4. Tự do:

Trẻ cần cảm thấy tự do đến với lớp Giáo Lý, tự do ở lại và tự do lắng nghe
Giáo Lý Viên trình bày nội dung Giáo Lý. Không nên biến việc học Giáo
Lý thành một công việc khổ sai, bị cha mẹ bó buộc, bị cha sở và các ông
bà quản giáo khống chế. Đến với Chúa rõ ràng là một lời mời gọi, khuyến
khích tự nguyện. Hãy thành thật nói với trẻ: "Các con có muốn gặp gỡ
Chúa, thì các con hãy đến !".

Đức Tin là một hành vi tự do. Vì thế, trong giờ học, hãy để trẻ được tự do
nói với Chúa, nói về Chúa trong sự hướng dẫn ân cần và nhẫn nại của
Giáo Lý Viên. Không thể đào tạo một tín hữu chân chính bằng cách dọa
nạt, trừng phạt hay ra lệnh.

Dứt khoát không nên lấy cớ tránh tác hại lây lan, ảnh hưởng đến việc học
của các em bình thường để chủ trương tách hẳn các em cá biệt ra, lập một
lớp riêng để có chương trình uốn nắn riêng theo kiểu quen làm ở các
trường Phổ Thông. Như vậy là đã phản giáo dục hoàn toàn khi phân biệt
đối xử, vô tình "dán nhãn" xếp loại các em ngỗ nghịch, cứng đầu, khó
dạy.

Sư Phạm Giáo Lý thì khác hẳn, Đức Giê-su bảo: "Tôi không đến để kêu
gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi !" ( Mt 9, 13 b ). Hơn
nữa ở đây, các em chưa phải là hạng người... tội lỗi. Cho dẫu các em đã
phạm pháp trầm trọng, thì như Thánh Đông Bốt-xcô dặn dò các nhà giáo
dục: vẫn còn ít nhất là 5 % lương tri hướng thiện.

5. Trung thực:

Có thể nói ở nhà trường Phổ Thông, trẻ quen nói dối ! Trẻ nhận ra cứ nói
đúng ý thầy cô là được điểm cao, là được thầy cô ưu đãi. Làm bài thi, thì
phải khéo léo khôn ngoan để "quay cóp" hoặc "trúng tủ" mới mong ngoi

52
lên để trúng tuyển, hạ "đo ván" các bạn học. Điểm số, bằng khen và các
danh hiệu phấn đấu đạt được thường là dựa trên sự bon chen thủ lợi, thiếu
vắng hẳn sự thật thà trong sáng.

Trong Giáo Lý, dứt khoát chúng ta không được để óc thực dụng này tiêm
nhiễm. Giữa cuộc hội thoại, trẻ được thẳng thắn nêu thắc mắc, nói lên suy
nghĩ và cảm nhận của mình.

Khi làm bài, trẻ được mời gọi viết lại điều đã hiểu và đã yêu mến một cách
chân thành, chứ không phải chép nguyên xi toát yếu để làm hài lòng Giáo
Lý Viên.

Khi trẻ trả lời, bạn đừng khen hay chê. Nếu được khen "đúng", lần sau trẻ
lại tìm cách trả lời để được khen, dù đó không phải là điều em đã nghĩ và
đã hiểu. Còn nếu chê "sai", trẻ sẽ không bao giờ nói nữa.

Câu vè: "Thấy tốt thì làm, mà làm thì làm cho tốt, đừng cốt được khen,
đừng quen vì khen mới làm" thật đáng cho các Giáo Lý Viên chú tâm mời
gọi các em sống như một châm ngôn.

IV. KẾT LUẬN:

Trong mọi trường hợp và trong mọi mặt, các bạn Giáo Lý Viên hãy luôn
xác tín, hãy tin vào trẻ, hãy tin vào Chúa Thánh Thần, và hãy tin vào chính
bạn.

Để đúc kết, xin mượn lời Thánh Phao-lô: "Anh em là những người được
Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có
lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu
đựng và tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng
mến, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo !" ( Cl 3, 13 - 14 )

53
BÀI 10: CẦU NGUYỆN TRONG GIÁO LÝ

I. MỤC ĐÍCH:

Như đã trình bày từ các bài trước, mục đích cuối cùng của việc dạy Giáo
Lý là giúp các em gặp gỡ và kết hợp với Chúa. Do đó, cầu nguyện có một
vai trò hết sức quan trọng trong một buổi Giáo Lý. Có thể nói, cả buổi
Giáo Lý phải là một cuộc gặp gỡ Chúa. Chính những phần cầu nguyện
ở đầu, ở giữa và ở cuối buổi Giáo Lý giúp các em đi vào cuộc hạnh ngộ
tuyệt vời này. Tuy nhiên, mỗi phần cầu nguyện đều có ý hướng và nội
dung khác nhau, thích ứng với trình tự của một buổi học Giáo Lý.

II. NỘI DUNG:

Trước khi đi vào ý hướng và nội dung từng phần, thiết tưởng cũng nên
nhắc lại những điều kiện thiết yếu cho việc cầu nguyện. Đó là:

1. Khát vọng gặp Chúa:

Chính Giáo Lý Viên là người trước hết khao khát gặp gỡ Chúa, xin Chúa
soi dẫn để mình biết trình bày sứ điệp của Chúa đến cho các em. Kế đó,
Giáo Lý Viên truyền lan nỗi khao khát được gặp Chúa sang cho tất cả các
em, để về phía các em, các em cũng khao khát xin Chúa mở trí mở lòng để
đón nhận nội dung Giáo Lý mà các em sắp học, đang học và vừa học xong.

Điều này thể hiện cả ở việc làm dấu Thánh Giá, ở tư thế lúc cầu nguyện.
Hãy thường xuyên nhắc cho các em hiểu ý nghĩa của việc làm dấu, của cử
chỉ cúi mình bái lạy. Không nên làm dấu quều quào như... đuổi ruồi, chưa
làm dấu kết thúc đã vội làm ngay, nói ngay sang chuyện khác. Giáo Lý
Viên phải giúp các em cầu nguyện với cả con người, nghĩa là với tất cả trí
nhớ, trí tưởng tượng, tâm hồn và thể xác. Nên dùng những lời và những cử
chỉ đơn sơ mộc mạc chân thành.

2. Thời gian gặp Chúa:

54
Những giây phút cầu nguyện ngay trong buổi học Giáo Lý phải là khoảng
thời gian dành trọn cho Chúa, Những giây phút cầu nguyện ngay trong
buổi học Giáo Lý phải là khoảng thời gian dành trọn cho Chúa, được Giáo
Lý Viên chuẩn bị chu đáo, diễn ra một cách trang trọng, chứ không làm
cho có, làm theo thói quen. Cầu nguyện đừng quá ngắn ngủn cộc lốc, gây
cảm tưởng là sợ phí giờ. Cũng đừng quá lê thê, tạo ra tâm lý ngán ngẩm
hoặc ngột ngạt. Điều này sẽ âm thầm huấn luyện rất hiệu quả cho các em
biết cần phải thường xuyên cầu nguyện với Chúa không chỉ trong lớp mà
vào mọi nơi mọi lúc trong ngày sống của các em, đặc biệt là trước khi đi
ngủ và vừa khi thức dậy, khi vừa lãnh nhận một Bí Tích và trước khi ăn
cơm.

Cũng cần nhớ rằng: cầu nguyện không phải là đọc kinh liên tục kéo dài,
hết kinh này đến kinh khác một cách máy móc. Mỗi kinh nếu được sử dụng
đều là những lời cầu nguyện đã được Giáo Hội cô đọng sâu xa ( Kinh Lạy
Cha, Kinh Tin Kính, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin-Cậy-Mến, Kinh cầu Chúa
Thánh Thần, Kinh Cúi Xin Chúa sáng soi... )

3. Lắng nghe tiếng Chúa:

Tâm lý chung của đám đông là sợ sự thinh lặng. Hễ cứ thấy im lặng hơi lâu
một chút là sốt ruột, thấy cần phải hát, phải làm một cái gì đó ngay.

Đã muốn lắng nghe được tiếng Chúa thì thầm trong tâm hồn hay được cất
lên khi công bố Lời Chúa, rõ ràng là cần phải biết thinh lặng. Trong giây
phút cầu nguyện, Giáo Lý Viên phải dành những khoảnh khắc thinh lặng
hoàn toàn, không nên nói liên tục đến mức lải nhải dông dài, cầu xin kể lể
đủ thứ chuyện mà không có trọng tâm ý chính.

Cần nhớ là một lời cầu nguyện thường có ý cảm tạ, ngợi khen, xin lỗi hoặc
xin ơn tùy nội dung bài Giáo Lý gợi ra.

Cũng nên tập cho các em khi dâng lời nguyện tự phát thì cần nói chậm, to,
dõng dạc, rõ ý để cộng đoàn mới có thể hiệp thông với ý nguyện được. Khi

55
kết thúc một lời nguyện, nên thinh lặng một chút rồi thêm câu: "Xin Chúa
nhậm lời chúng con..."

Sau những lời nguyện tự phát của các em, Giáo Lý Viên nên đợi tất cả
lắng lại một lúc rồi mới dâng lời tổng nguyện kết thúc. Sau đó có thể hát
một bài thánh ca phù hợp với nội dung vừa cầu nguyện.

III. CÁC PHẦN CẦU NGUYỆN:

1. Cầu nguyện đầu giờ:

Phút cầu nguyện đầu giờ có mục đích giúp các em đi vào cuộc gặp gỡ với
Chúa trong buổi Giáo Lý, bằng cách đặt các em trước sự hiện diện của
Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở
đấy, giữa họ" ( Mt 18, 20 ).

Hãy giúp các em nhớ lại Lời Chúa mời gọi: "Cứ để trẻ em đến với Thầy..."
( Mc 10, 14 ). Hãy để các em nhận ra một buổi học Giáo Lý chính là thời
gian đến với Chúa để học cùng Chúa: "Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng
hiền hậu và khiêm nhường..." ( Mt 11, 29 )

2. Cầu nguyện giữa giờ:

Phút cầu nguyện giữa giờ chính là đỉnh cao của buổi học Giáo Lý, vì sau
khi nghe công bố và giải thích Lời Chúa, sau khi đã tiếp nhận lời mời gọi
của Chúa với cả tâm tình, các em hẳn có nhiều điều muốn nói với Chúa,
muốn đi vào cuộc đối thoại trang nghiêm mà thân tình với Chúa.

Như thế, cuộc gặp gỡ giữa các em với Chúa đã được chuẩn bị qua việc
công bố và giải thích Lời Chúa, và sẽ được tiếp nối trong phần sinh hoạt
tiếp theo sau đó. Nội dung của phút cầu nguyện này là ý chính và tâm tình
của bài Giáo Lý.

3. Cầu nguyện cuối giờ:

Phút cầu nguyện cuối giờ sẽ giúp các em trình bày với Chúa quyết tâm
sống những gì đã học. Nếu như phút cầu nguyện đầu giờ giúp các em
56
từ cuộc sống bước vào cuộc gặp gỡ với Chúa, thì phút cầu nguyện cuối giờ
hướng các em đến một cuộc gặp gỡ khác với Chúa ngay trong đời thường.
Nhờ đó, toàn bộ cuộc sống các em sẽ là lời cầu nguyện liên lỉ.

IV. KẾT LUẬN:

Cầu nguyện trong Giáo Lý giúp các em nội tâm hóa những giáo huấn của
Lời Chúa, chuyển sứ điệp thành hành động cụ thể. Như thế, cầu nguyện
gắn Giáo Lý với Phụng Vụ và cuộc sống.

Hãy cẩn thận, đừng để rơi vào một cung cách cầu nguyện mà Đức Giê-su
đã nhắc nhở: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy
Chúa !" là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi..." ( Mt
7, 21 )

BÀI 11: PHƯƠNG PHÁP CẦU NGUYỆN 4 BƯỚC  DÀNH CHO


GIÁO LÝ VIÊN

Có thể nói: mỗi buổi dạy Giáo Lý là một buổi cầu nguyện với Lời Chúa.
Để giúp các em học sinh Giáo Lý đón nhận được chân lý Lời Chúa và
đáp trả lại bằng lời cầu nguyện hồn nhiên đơn sơ, chính bản thân Giáo Lý
Viên cũng phải là những người chuyên chăm cầu nguyện, biết cách hướng
dẫn cho các em cầu nguyện và cùng với các em cầu nguyện trong một bầu
khí chân thành trang trọng.

Nên chăng, ngoài những buổi họp nhau soạn Giáo Án Giáo Lý, những buổi
đến lớp dạy Giáo Lý, những buổi sinh hoạt gây tình đoàn kết thân ái và
trao đổi kinh nghiệm giữa các Giáo Lý Viên với nhau, Ban Giáo Lý của
Giáo Xứ cũng cần phải tổ chức cho các Giáo Lý Viên họp nhau cùng cầu
nguyện ít là hàng tuần.

Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu một phương pháp cầu nguyện hết sức đơn
giản nhưng lại rất dễ đạt hiệu quả chiều sâu tâm linh. Đó là Phương Pháp
57
Cầu Nguyện 4 Bước của Dòng Chúa Cứu Thế, mà chúng tôi đã có dịp
thử nghiệm và phổ biến tại Đại Chủng Viện Hà-nội và một số Giáo Xứ ở
miền Nam lẫn miền Bắc trong Năm Thánh 2000.

I. DẪN NHẬP:

Cầu nguyện trước tiên là hiện diện trước Chúa và Cầu nguyện trước tiên là
hiện diện trước Chúa và để Chúa ở với mình. Cầu nguyện là đối thoại với
Chúa bằng môi miệng, trí óc, linh hồn, và bằng cả chân, cả tay, cả thân
mình nữa. Đặc trưng của đối thoại là Nói và Nghe. Nếu chỉ nói không, thì
mới là thuyết trình hay giảng day, nhưng chúng ta không có gì để dạy Chúa
cả. Còn nếu chỉ nghe không, mà không nói lại bằng lời hay hành động, thì
thật ra chưa nghe.

Như đôi trai gái lúc đầu mới làm quen, ai cũng muốn nói để chứng tỏ, để
cho người kia hiểu về mình - mình là người tốt. Nhưng đến lúc đã thân
nhau hơn, người ta bắt đầu có nhu cầu nghe nhau, để hiểu người bạn của
mình, để thấu cảm với bạn mình. Còn khi đã yêu nhau mãnh liệt thì việc
nói hay nghe không còn quan trọng bằng sự hiện diện, có mặt với nhau
càng nhiều càng tốt.

Đó là khởi đầu của dấu hiệu muốn trở nên và có khả năng trở nên "một thịt
với nhau". Cầu nguyện cũng là một cuộc tâm giao của hai người yêu nhau,
nên cũng có tiến trình đi khá giống: nói - nghe - hiện diện.

II. TIẾN TRÌNH:

Phương Pháp Cầu Nguyện 4 Bước sẽ giúp bạn gặp gỡ Thiên Chúa,
nhất là Chúa Giê-su như một người bạn, một người tình. Nếu bạn có lòng
khát khao điều này, xin hãy dừng lại đôi phút mời Chúa Giê-su đến với
bạn ngay lúc này.

 "Lạy Chúa Giê-su, con mời Chúa đến với con trong giờ này và ngay bây
giờ ! Xin Chúa chạm vào mắt con để con thấy Chúa trên các giòng chữ
này. Xin Chúa chạm đến tay con, chạm đến tim con, để con như được ôm

58
lấy Chúa. Xin Chúa chạm vào toàn thân con để toàn thân con có Chúa và
xin cho con ca ngợi Chúa".

Bạn hãy hát cho Chúa nghe một bài hay chỉ một đoạn của một bài ca chúc
tụng ngợi khen Thiên Chúa mà bạn thuộc.

Như vậy, từ giờ phút này, chúng tôi nhân Danh Chúa Giê-su Ki-tô và
quyền năng Phục Sinh của Người là Chúa Thánh Thần chúc lành cho bạn.
Xin Máu Thánh cứu độ của Người xua đuổi mọi âm mưu ma quỷ là các
trạng thái lo lắng, hoài nghi, bực bội, căng thẳng, nóng bức hay ớn lạnh và
nhất là mặc cảm tội lỗi đang hiện diện trong tâm trí, trong thân xác của bạn
và trong căn phòng này ra khỏi bạn và nơi bạn đang có mặt.

Bạn hãy công bố: "Chỉ có Chúa và những gì thuộc về Ngài mới được hiện
diện trong con người con và trong căn phòng này !

"Tên của 4 Bước giúp bạn thiết lập tương quan với Chúa gồm có: MIỆNG
ĐỌC - TÂM SUY - KHẨN NGUYỆN - DẤN THÂN.

Bước 1: MIỆNG ĐỌC

Bạn sẽ đọc cái gì ? Xin bạn vui lòng luôn luôn có bên mình quyển Kinh
Thánh Tân Ước nhỏ, để bất cứ lúc nào bạn muốn gặp gỡ Chúa Giê-su theo
cách này, bạn sẽ không bị cản trở. Bạn hãy mở Kinh Thánh ra, chọn một
đoạn ( có thể chỉ có một câu hoặc nhiều hơn cũng được ). Lưu ý, bạn có
thể chọn các đoạn Kinh Thánh giúp cầu nguyện theo những cách sau:

Mở sách và chọn ngẫu nhiên: bất kỳ đoạn nào mở ra và gây chú ý cho
mắt bạn trước nhất.

Mở sách và chọn theo các bản chỉ dẫn: hiện nay có rất nhiều bản chỉ
dẫn ý cho mắt bạn trước nhất. bản chỉ dẫn đọc Kinh thánh theo hoàn cảnh.
Nếu bạn đang hân hoan thì chọn đoạn nào và nếu đang cô đơn thì chọn
đoạn nào.

59
Mở sách và chọn theo Lịch Phụng Vụ: trên Lịch Công giáo các địa
phận đều có ghi ngày nào cần đọc đoạn nào.

Trước khi vào bước một, bạn nên mơi Chúa Giê-su đến với mình, tương tự
như đã đề nghị ở phần trên. Kế đó bạn bắt đầu đọc sau một, hai phút thinh
lặng. Cách đọc: Đọc bằng miệng, sao cho tai nghe được tiếng mình đọc.
Nếu đọc một mình bạn, bạn lập lại một lần nữa như thể đang nuốt lấy
từng chữ, từng lời Thánh Kinh.

Nếu đọc trong một Nhóm nhỏ ( 8 người trở xuống ), bạn nhờ một người
thay mặt cộng đoàn công bố lại bản văn Lời Chúa một cách chậm rãi, trong
khi đó những người kia nghe như thể đang nuốt lấy từng chữ, từng lời
Thánh Kinh. Nếu Nhóm đông hơn 8 người, có thể nhờ 2 người lập lại.

Sau khi đọc xong, bạn thinh lặng khoảng một phút, rồi đọc lên một chữ,
hay những chữ mà bạn còn nhớ và đã được đánh động. Bạn lập lại chậm
rãi ba lần. Ví dụ: "Tôi biết chiên của tôi - Tôi biết chiên của tôi - Tôi
biết chiên của tôi" ( x Ga 10, 14 ).

Sau khi xướng lên lời Thánh kinh này, bạn hãy cảm tạ Chúa đã đến với
bạn, đang chạm đến bạn và đã ban cho bạn một Lời Sống.

Khi có nhiều người, thì người này xướng xong, mọi người lắng lại vài giây
rồi người khác tiếp tục xướng lên. Lưu ý, trước khi xướng bản văn Thánh
Kinh, bạn nên đọc xuất xứ, để mọi người dễ hiệp thông, ví dụ: "Câu 14".

Nếu bạn thấy Lời Thánh Kinh đánh động bạn đã được người khác xướng
rồi bạn vẫn cứ xướng lại, vì điều đó cần cho cộng đoàn và cho chính bạn,
bởi cũng một LỜI, nhưng Chúa sẽ nói những điều cụ thể khác nhau cho
từng người và cho mỗi hoàn cảnh riêng biệt.

Bạn cần liên tục cảm tạ Chúa cho mình và cho những người đang cầu
nguyện chung với bạn, vì Chúa thương chúng ta, Người đang viếng thăm
chúng ta và ban cho chúng ta Sự Sống.

Bước 2: TÂM SUY


60
Bạn đừng vội đặt ra câu hỏi: "Những câu, những chữ Lời Chúa vừa đọc,
vừa đánh động bạn có ý nghĩa gì ?" Nhưng hãy thật thư giãn và thả lỏng
tâm trí, để Chúa có thêm cơ hội chạm vào cuộc đời bạn, nhất là chạm vào
những khoảng trống tâm linh sâu thẩm.

Sau hai, ba phút thinh lặng như thế, bạn bắt đầu lập lại những câu, những
chữ mà lúc nãy bạn đã được đánh động, một cách chậm rãi nhiều lần và chỉ
cho một mình bạn nghe là đủ.

Kế đó, bạn hãy kéo câu, chữ Lời Chúa đó vào chính cuộc đời của bạn.

Ví dụ: "Tôi biết chiên của tôi... Chúa biết chiên của Chúa... Chúa biết
con... Chúa biết con đang buồn... Chúa biết con đang bất lực trước một
thử thách lơn lao... Chúa biết tim con đang xao động... Chúa biết lòng con
đang hoài nghi... Chúa biết con... Chúa biết hoàn cảnh gia đình con...
Chúa biết sự đổ vỡ sắp xảy ra trong nhà con... Chúa biết chiên của Chúa...
"

Sau đó, bạn ước ao được bàn tay cứu độ của Chúa Giê-su chạm đến từng
vấn đề đó của bạn.

Ví dụ: "Chúa biết con, vì con là chiên của Chúa... Chúa biết gia đình con,
vì là gia đình con cũng thuộc về đàn chiên của Chúa... Xin bàn tay cứu độ
của Chúa chạm đến tim con, chạm đến mạch máu của con... Xin bàn tay
cứu độ của Chúa chạm đến và gìn giữ gia đình con..."

Bước 3: KHẨN NGUYỆN

Lúc này, bạn hãy mở miệng cầu nguyện lớn tiếng cho tai bạn nghe được
giọng nói của mình.

Bạn hãy cầu nguyện với Chúa trong tâm tình phó thác tuyệt Bạn hãy cầu
nguyện với Chúa trong tâm tình phó thác tuyệt đối, tức là ngoài Chúa ra
không ai làm được việc đó, kể cả bạn. Tiền bạc, uy tín của địa vị hay tình
cảm cũng không giải quyết được. Chỉ có một mình Chúa Giê-su mới có thể
giải quyết được mà thôi.
61
Bạn đừng sợ hay ngại ngùng không biết nói gì khi cầu nguyện lớn tiếng, vì
mọi lời nguyện đều hướng về Chúa, mà Chúa thì có vô số lời hay ý đẹp rồi,
nên Người không cần phải nghe thêm một lời nào theo cách trau chuốt của
chúng ta thường dùng để nói hoa mỹ với nhau, nhưng Người cần tấm lòng
chân thật.

Nhất là, thánh Phao-lô đã dạy chúng ta: "Có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là
những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải;
nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng
rên siết khôn tả" ( Rm 8, 26 ).

Do đó, bạn hãy nói ngay với Chúa điều gì chợt đến lúc ấy với bạn, bất kể
đó là điều gì, chỉ với một ý định rõ ràng là khẩn xin và ngợi khen Chúa.

Ở phần này, bạn cũng có thể sám hối một cách đặc biệt, xin được giải thoát
khỏi những ràng buộc của sự dữ ẩn nấp trong cơ thể bạn dưới các hình
thức bệnh tật, nghiện ngập, mệt mỏi, lo sợ, oán thù, hoài nghi... Rồi bạn
hãy nói với Chúa quyết tâm tha thứ và làm hòa của bạn với Chúa và với
những người nào đó cụ thể.

Bạn hãy xin Mẹ Ma-ri-a Hằng Cứu Giúp, thánh An-phong, Thánh Bổn
Mạng và các Thánh khác mà bạn đặc biệt quý mến cầu nguyện cho bạn, để
bạn có thể sẵn sàng để Chúa Giê-su tự do sử dụng bạn, ngõ hầu Người sẽ
thực hiện điều bạn khẩn xin ngay nơi thân xác bạn và tha nhân.

Bước 4: DẤN THÂN

Nếu quyết tâm chỉ mới là một ước muốn thực hiện đến cùng một điều tốt
nào đó ( lý trí và ý chí ), thì dấn thân sẽ bao gồm trọn vẹn quyết tâm và còn
đòi phải có thêm ít là một hành vi, hành động cụ thể nào đó để thực hiện
quyết tâm ấy. Ở đây, bạn sẽ dấn thân theo lời mời gọi mà trong suốt thời
gian cầu nguyện vừa qua bạn đã được đánh động, thúc đẩy.

62
Khi nhận ra điều này, bạn hãy mau mắn thực hiện mà đừng lo sợ khả năng
có phù hợp với quyết tâm hay không, vì lúc đó chính Chúa sẽ giúp bạn, sẽ
làm thay cho bạn.

III. KẾT LUẬN:

Khi nào bạn chưa thực hiện xong phần Dấn Thân, nghĩa là giờ cầu nguyện
của bạn chưa kết thúc; nghĩa là Chúa Giê-su vẫn đang hiện diện cách đặc
biệt với bạn để nghe bạn tâm tình.

Như vậy, mặc dầu bạn chỉ dành ra 15 phút mỗi ngày và đều đặn như vậy,
nhưng sẽ có những ngày bạn được gắn bó với Chúa liên tục cả ngày. Nếu
bạn là người Ki-tô hữu thực thụ, chắc bạn cũng có một mong ước như
người viết bài này là được Chúa Giê-su kết chặt cuộc đời Người với cuộc
đời mình. Vậy đây là một lời đề nghị, một cách thức mà nhiều bạn trẻ
đã đón nhận và đã gặp gỡ Đức Ki-tô muốn được chia sẻ với bạn.

Kinh nghiệm cụ thể cho thấy, nếu một Nhóm hoặc mỗi cá nhân trung thành
thực hiện theo Phương Pháp này trong khoảng 49 ngày, thì đến ngày thứ
50, Nhóm hoặc cá nhân có thể nhận được ân huệ Chúa ban một cách diệu
kỳ.

IV. TÓM LƯỢC:

Cuối cùng, để giúp người hướng dẫn ( còn gọi là Linh Hoạt Viên Cầu
Nguyện ) cho một Nhóm nhỏ khoảng từ 10 tới 30 người, xin tóm lược tất
cả Phương Pháp Cầu Nguyện 4 Bước theo một trình tự như sau:

Bước 1: MIỆNG ĐỌC

 Tập họp chung tại một nơi thích hợp.

 Chân thành mời Chúa đến với Nhóm.

 Hát chung một bài Thánh Ca ngắn.

 Thinh lặng ít phút.


63
 Cùng mở Tân Ước, đọc chung đoạn Lời Chúa đã chọn.

 Nhờ thêm 2 người nữa lần lượt đọc lại đoạn Lời Chúa.

 Thinh lặng ít phút.

 Mời tất cả ai được đánh động bởi câu, chữ nào trong đoạn Lời Chúa
vừa đọc, xướng lên chậm rãi 3 lần kèm theo xuất xứ.

Bước 2: TÂM SUY

 Người hướng dẫn nói với Chúa thay cho cả Nhóm.

 Mỗi người cũng thầm nói với Chúa niềm ước ao được chính Lời
Chúa vừa xướng lên, chạm đến từng vấn đề riêng của mình, chạm
đến cuộc đời mình.

Bước 3: KHẨN NGUYỆN

 Người hướng dẫn khẩn nguyện lớn tiếng thay cho cả Nhóm. Mọi
người hiệp ý, hoặc có thể thầm khẩn nguyện trong lòng cho một
vấn đề riêng của bản thân.

 Sau đó, lần lượt mỗi người cũng có thể khẩn nguyện lớn tiếng trước
cả Nhóm, nếu thấy bản thân cần được cả Nhóm cầu nguyện giúp
cho mình.

 Có thể nài xin với Đức Ma-ri-a, Thánh Bổn Mạng của mỗi người,
Thánh Bảo Trợ của Nhóm mình cầu bầu cùng Chúa.

Bước 4: DẤN THÂN

 Người hướng dẫn thưa với Chúa một quyết tâm chung của Nhóm,
hướng tới một việc dấn thân cụ thể: hoán cải một lỗi lầm, hòa giải
một chuyện bất hòa, sống bác ái...

 Mỗi người cũng thầm hứa với Chúa sẽ quyết tâm và dấn thân làm
một việc cụ thể nào đó mà mình được Chúa soi dẫn.
64
 Nếu có mặt một Linh Mục, mời ngài thánh hóa và chúc lành.

 Hát chung một bài Thánh Ca, làm dấu Thánh Giá kết thúc.

65
BÀI 12: TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM - PHẦN 1

I. DẪN NHẬP VỀ TÂM LÝ HỌC:

Từ lâu, trên thế giới, khoa Tâm Lý Học đã phát triển, củng cố và đem lại
nhiều kết quả to lớn cho hầu như tất cả các ngành khoa học xã hội và tự
nhiên của nhân loại. Tâm Lý Học được định nghĩa nhiều cách để chúng ta
có thể thấu đáo được hết mọi khía cạnh như sau:

Đó là một khoa học tìm hiểu về ý thức con người để biết mình biết người,
đường biết ứng xử cho hợp tình hợp lý, đường biết sống một cách hài hòa
và sung mãn, để trưởng thành tốt đẹp ứng với từng lứa tuổi, và tránh được
những thất bại trên đường đời.

Đó là một khoa học về con người với những suy tư và hành động, cảm
nhận và tương tác, bên trong và bên ngoài, chiều sâu và chiều rộng. Tất cả
đều được quan sát, mô tả và giải thích, đối chiếu với thực tế kinh nghiệm
chung của xã hội, của nhân loại.

Như thế, tâm lý chính là cuộc sống con người với muôn hình muôn dạng,
đầy bí nhiệm, rất khó khám phá và không bao giờ có thể hiểu cho trọn vẹn,
bởi đối tượng của nó là con người, luôn chuyển biến, lớn lên và triển nở về
thân xác lẫn tinh thần.

II.  TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM:

Trong chừng mực của vấn đề giáo dục thanh thiếu niên và thiếu nhi, các
nhà sư phạm và giáo dục cũng sẽ không thể nào bỏ qua, không tìm hiểu
Khoa Tâm Lý Học đặc biệt đối với từng lứa tuổi các em.

Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu dựa vào những thành quả quý giá, tích lũy
từ bao thời, của bao người cũng như chính các nét đặc thù truyền thống của
dân tộc Việt Nam chúng ta nữa.

66
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cũng nên đối chiếu lại với chính kinh nghiệm
thời thơ ấu và niên thiếu của mình, những gì mình đã bị gánh chịu thiệt
thòi, cũng như những gì mình đã may mắn được đón nhận. Xin hãy luôn
nhớ: bản thân mỗi người chúng ta đều từng là một đứa trẻ nhỏ. Vậy, xin
đừng biến các trẻ nhỏ hôm nay thành "những ông cụ non", các "bà thánh
nhỏ", nghĩa là bắt các em phải rập khuôn về tâm lý và luân lý theo kiểu
người lớn, một điều mà ngày xưa chính chúng ta đã bực bội khó chịu và
âm thầm đề kháng mỗi khi bị áp đặt !

Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu tâm lý các em ở từng độ tuổi thể lý.

III. LỨA TUỔI ẤU NHI ( 1 - 3 tuổi):

Trong thực tế, ở độ tuổi này, các em vẫn còn hoàn toàn thuộc về vòng tay
chăm sóc và giáo dục của bố mẹ và anh chị trong gia đình các em. Thế
nhưng, các Huynh Trưởng và các Giáo Lý Viên vẫn cần nghiên cứu thấu
đáo để có thể hiểu được các diễn biến tâm lý nơi các em đến sinh hoạt với
mình sau này, bởi nơi mỗi một con người luôn có một sự phát triển liên tục
từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, cái trước làm tiền đề cho cái sau kế thừa.

Với lứa tuổi Ấu Nhi. Các nhà chuyên môn gọi giai đoạn tâm lý này là
Première Enfance, bởi lý do khởi từ đây, đứa bé bắt đầu "thôi nôi", lẫm
chẫm tập đi những bước đầu đời, đưa tay sờ nắm bất cứ vật gì nằm trong
tầm tay, dõi mắt khám phá những khung cảnh tương đối xa hơn và hoàn
toàn mới lạ, phạm vi tương quan tiếp xúc với tha nhân cũng rộng hơn chứ
không chỉ dừng lại nơi vòng tay người mẹ.

Do vậy, cần chuẩn bị cho bé một không gian và môi trường an toàn,
khoáng đãng, không ô nhiễm về tiếng động và khí thở, có nhiều đồ vật tròn
trĩnh, dễ thương, nhiều màu sắc hài hòa mà hấp dẫn.

Ngoài ra, bầu khí tương quan chung quanh phải nhất thiết là sự trìu mến,
yêu thương, hạnh phúc. Giấc ngủ của các em có thể được nâng niu bằng
âm nhạc, nhất là những điệu ru hời dân gian Việt Nam và nhạc cổ điển êm
dịu của Tây phương...
67
Tóm lại, đây là thời kỳ của những giác động ( sensori motrice) mở ra cho
các em những tiếp xúc vật chất và những tương quan nhân vị, chủ yếu dựa
vào ngũ giác quan ( nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vượt trội hơn hẳn giai đoạn
bé còn nằm trong nôi hoặc được bồng ẵm trên tay của người lớn.

Riêng đối với việc chuẩn bị giúp thức tỉnh những tâm tình tôn giáo lành
mạnh nơi các em, chúng ta có thể tìm đọc cuốn "L'Éveil Religieux du Tout
Petit" của Chanoine Boyer.

Cũng cần phải nhìn nhận rằng: điều gì đã là khởi đầu thì tất yếu sẽ là nền
tảng hết sức quan trọng cho tương lai. Ngay trước lứa tuổi Ấu Nhi này, các
nhà chuyên môn đang mở ra một giai đoạn ngược về thời kỳ đứa bé còn
nằm trong bụng mẹ để khởi sự việc giáo dục một cách gián tiếp bằng khoa
Thai Giáo.

IV. LỨA TUỔI NHI ĐỒNG  ( 3 - 7 tuổi)

Bước vào giai đoạn này, các nhà chuyên môn gọi là giai đoạn Deuxième
Enfance, bởi các em có thể đã được gửi vào Nhà Trẻ ( trước đây gọi là
Vườn Trẻ - Jardin d' Enfants) và sau đó bắt đầu vào các lớp Mẫu Giáo
Mầm Chồi Lá.

Tại các nước tiên tiến, phong trào Hướng Đạo mới đây đã khai sáng thêm
ngành Nhi, đặt trước các ngành Aáu, Thiếu, Kha, Tráng vốn đã có từ lâu.
Riêng ở Việt Nam, việc thử nghiệm ngành Nhi cũng đã được khởi sự.

Gạt ra ngoài lý do không đáng khuyến khích là bố mẹ các em chỉ muốn


đùn cho xã hội phải lo thay để mình còn rảnh tay làm ăn và giải trí, thì
phương cách sớm cho các em đến trường cũng có những giá trị tích cực.

Đây là dịp để các em được mở rộng tiếp xúc nhiều hơn nữa với thế giới
chung quanh muôn màu muôn vẻ, đồng thời các em được các cô bảo mẫu,
các thầy cô giáo Mẫu Giáo có lương tâm tập tành cho các em một số những
đức tính, những thói quen tập quán tốt.

68
Thế nhưng, ngoài thời gian đi Nhà Trẻ hoặc Mẫu Giáo, thì không gian, thời
gian và bầu khí sống chính yếu của các em vẫn là gia đình. Đây là thời kỳ
các em phải trải qua một cơn khủng hoảng tâm lý tương đối nhẹ nhàng để
tự củng cố cái Tôi ( le Moi) của mình.

Các em bắt đầu ý thức được rằng mình có thể cưỡng chống lại tất cả những
gì xem ra người lớn muốn áp đặt lên tự do của mình. Sau một đôi lần thành
công, các em sẽ tìm cách tận dụng khả năng này, sao cho có lợi nhất cho
bản thân, không cần quan tâm rằng điều đó có lợi hay có hại cho mình và
cho người khác.

Trí khôn của các em chuyển dần từ chỗ tiền quan niệm ( précon-ceptuelle)
còn khá mơ hồ, sang thế trực giác ( intituive) một cách cụ thể.

Cũng trong giai đoạn này, các em thường tự tìm hiểu hoặc đặt ra cho người
lớn những câu hỏi "tại sao?" có chủ ý vụ lợi ( utilitaire) và có chủ đích
( finaliste) rằng điều đó, cái đó "để làm gì vậy?"

Do vậy, người lớn cần kiên nhẫn để trả lời các câu hỏi loại này, đồng thời
hướng các em đến những khái niệm bớt vị kỷ vụ lợi cho bản thân. Cũng
đừng nên trình bày vấn đề quá sâu xa phức tạp khiến các em đâm ra lúng
túng, nản chí hoặc bị ngộ nhận tai hại về lâu về dài.

Đối với lứa tuổi này, những chuyến đi dạo công viên, nghỉ mát giữa thiên
nhiên bao la trong lành là những dịp giúp các em mở rộng tâm tình và óc tò
mò đến những khái niệm tốt lành, đẹp đẽ, dễ thương. Âm nhạc cổ điển
hoặc hòa tấu cũng giúp một phần quan trọng để giúp các em hình thành sự
nhân ái dịu dàng.

Về mặt sinh hoạt, các em bắt chước người lớn rất nhanh, cộng thêm trí
tưởng tượng đang hình thành khá phong phú để tự bày ra các trò chơi như:
xây nhà, nấu bếp, dọn hàng, ru búp bê, và có thể cứ thế mà chơi một mình
rất lâu, ngày này qua ngày kia không biết chán...

69
Về mặt tôn giáo, các câu truyện cổ tích giữ một vai trò quan trọng. Các
tính cách nhân ái, thật thà, hiếu thảo nơi các nhân vật trạc tuổi các em sẽ
đặc biệt được ghi sâu trong tiềm thức, dần dần mở ra cho tính cách tôn giáo
hướng thượng nếu người lớn biết kết hợp với việc giúp các em cầu nguyện,
tham dự thánh lễ...

Tại một số nước phương Tây hiện nay có chủ trương đến tuổi này mới cho
các em được chịu Bí Tích Thanh Tẩy cũng phần nào là chính đáng, bởi nếu
các em được chăm lo đúng cách và đúng mức, các em bắt đầu nảy nở
những tâm tình tôn giáo chính thức ở giai đoạn này.

V. LỨA TUỔI THIẾU NHI ( 7 - 11 tuổi):

Đây là giai đoạn Troisième Enfance, lứa tuổi bắt đầu theo học Tiểu Học,
hoặc còn gọi là Phổ Thông Cơ Sở cấp 1. Ngoài ra, các em cũng có thể
được cha mẹ cho tham gia các lớp Giáo Lý Khai Tâm, các Đoàn thể tôn
giáo như Thiếu Nhi Thánh Thể, Húng Tâm Dũng Chí, các phong trào giáo
dục như Hướng Đạo...

Đây cũng là lứa tuổi mà những ai thật sự muốn dấn thân trở thành người
cộng tác mật thiết với gia đình các em để chăm lo việc giáo dục nhân bản
và tâm linh cho các em, như các Giáo Lý Viên, các Huynh Trưởng, các
thầy cô giáo rất cần quan tâm tìm hiểu.

Do vậy, kể từ phần này trở đi, vấn đề sẽ được cố gắng phân tích chi tiết và
sâu xa hơn trong từng đề mục có liên quan trong từng lứa tuổi.

1.    CÁC EM MANG ĐẬM MẶC CẢM:

Tự bẩm sinh, các em đã mang mặc cảm ¬dipe ( le complexe d' ¬dipe).
Thần thoại Hy-lạp kể rằng: ¬dipe do cuộc đời oan nghiệt đưa đẩy, đã ngộ
sát cha mình là Laios để lên ngôi vua và cưới luôn mẹ là Jocaste làm hoàng
hậu... Các nhà Tâm Lý Học mượn điển tích này để diễn tả hiện tượng tâm
lý bẩm sinh phổ biến nơi lứa tuổi thiếu nhi.

70
Các em luôn tìm sự gần gũi, yêu thương, chiều chuộng của người lớn khác
phái:  bé gái gần bố mà xa mẹ, còn bé trai lại gần mẹ xa bố. Đây không
phải là một tội lỗi ghê gớm đáng lên án và nghiêm phạt như cách nghĩ
thiển cận của một số người chủ trương đạo đức quá khắt khe cổ hủ.

Cần phải biết khéo hướng dẫn để giúp các em từ từ nhận ra sự cần thiết
phải có đủ các tính cách giáo dục qua cả bố lẫn mẹ, anh và chị trong gia
đình, cả thầy lẫn cô ở trường và ở lớp Giáo Lý. Sau này, khi bước vào tuổi
dậy thì, các em sẽ dần dần chuyển hóa sang thế quân bình về phái tính.

Nếu người lớn quá khắc nghiệt hoặc lơi lỏng thiếu quan tâm, có thể sẽ gây
ra nơi các em những ấn tượng lệch lạc, di hại suốt đời các em về mặt nhân
cách tâm lý và ứng xử. Ngược lại, cần bắc một nhịp cầu hết sức tế nhị để
gặp gỡ chính tâm hồn bé bỏng non nớt của các em, biết mở chuyện hỏi han
các em bằng ngôn ngữ và cung cách của chính các em.

Khi đó, các em mới dễ bộc lộ một cách hồn nhiên những tâm sự, những "bí
mật" có khi rất ngô nghê của các em, mà không hề e dè, giấu giếm, sợ
người lớn la rầy, kết tội hoặc chế giễu.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải như là người cha
người mẹ thứ hai, có tấm lòng yêu thương chăm sóc, ân cần tận tụy và tinh
tế nhạy cảm, nắm bắt cho được mọi biểu hiện tích cực lẫn tiêu cực nơi các
em.

2.    CÁC EM TIN TƯỞNG NGƯỜI LỚN TUYỆT ĐỐI:

Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc
bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác.
Vì vậy, nếu các em nhận ra nơi các người lớn như thầy cô giáo, linh mục,
nam nữ tu sĩ, Giáo Lý Viên, Huynh Trưởng... một sự bảo bọc chở che, nhất
là sự quan tâm cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn quít, tin cậy đến
mức tuyệt đối.

71
Hãy tránh đừng bao giờ đùa chơi với các em bằng cách xí gạt để các em
mắc lừa cho vui. Cũng đừng bao giờ tạo cho các em cảm tượng bị người
lớn áp đặt, ăn hiếp, lấn lướt, sai bảo vặt và khống chế các em bằng luật lệ
mà chính người lớn chưa chắc đã tuân thủ đàng hoàng.

Do vậy, thông qua những hoạt động về giáo dục, làm việc, sinh hoạt vui
chơi, người lớn cần biết tạo ra cơ hội để gần gũi các em, xóa bỏ mọi ngăn
cách về tuổi tác và tâm lý, hòa mình trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, biết cách
gợi ý tổ chức cùng chơi, cùng làm với các em, từ đó mới có dịp để giúp đỡ,
dạy dỗ các em một cách đầy đủ và kịp thời.

Bên cạnh đó, cũng cần kích thích cho các em luôn háo hức chịu làm quen
thêm với nhiều bạn trai bạn gái mới đồng trang lứa ở trường lớp và khu
xóm.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một quản trò đa
năng, biết biến báo, lôi cuốn, trang bị nhiều kỹ năng thành thạo, thu hút
được đám đông các em, đồng thời lại có vốn liếng kinh nghiệm về tâm lý
để có thể tiếp cận mà lắng nghe và đối thoại với từng em.

3.    CÁC EM ÔM ẤP NHIỀU MƠ MỘNG:

Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền
hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian
được kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự
thêu dệt những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ.

Sau này, lớn hơn một chút. Tính thần thoại chuyển dần sang khía cạnh thần
tượng hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp xúc thân tình với một
người lớn nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh chóng hình
thành các ước mơ sẽ có được nhân cách ấy ( ví dụ: "lớn lên em sẽ làm cô
giáo như cô..."; "Mai mốt con sẽ đi tu như cha..."; "Em sẽ là một Ronaldo
của Việt Nam...").

72
Do đó, nếu người lớn biết khéo nương theo trí tưởng tượng và những mơ
mộng hồn nhiên trong sáng của các em, có thể hướng dẫn các em dần dần
gạn lọc đi những nét viễn vông huyền hoặc để chuyển những giá trị tốt đẹp
hiện thực nơi nhân cách các em.

Bước đầu thấu hiểu được những nhu cầu khát vọng ngây thơ của các em
rồi, vẫn chưa đủ, bởi tính khí các em luôn bị đột biến, thay đổi hoặc bị tổn
thương. Do vậy, ngoài việc hòa mình cùng chơi, cùng trò chuyện với các
em, người lớn còn cần khéo léo tạo sức thu hút lâu dài bền bỉ, bằng cách
lồng các hoạt động tập thể vào các trò chơi ( học và làm mà là chơi, chơi
mà lại là học và làm một cách hữu ích).

Đồng thời, cũng đừng quên tiếp xúc riêng từng em, giúp các em tập nỗ lực
nho nhỏ để vươn lên trong từng khát vọng, từng ước mơ hồn nhiên của
chính mình, mỗi ngày một chút theo phương pháp giáo dục tiệm tiến.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một người bạn trẻ
trung, tâm huyết, đáng tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt vui nhộn cũng như
tâm linh sâu lắng của các em.

4.    CÁC EM RẤT ĐA CẢM, DỄ XÚC ĐỘNG:

Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới
tinh. Ngay cả trường hợp một số em phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ
trong gia đình, thì chắc chắn tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ
bị xúc động.

Do đó, bất cứ hành động thô bạo nào đối với chính bản thân các em, đối
với các em khác, đối với súc vật và đối với thiên nhiên đều gây tổn thương
nơi các em, để lại trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt.
Cần tránh cho các em phải đối mặt với những nghịch cảnh và bất hạnh,
những thực tế quá phũ phàng, những hình ảnh dã man bạo lực trên sách
báo, truyền hình, những biến cố quá gay cấn ngoài đường phố, trong gia
đình, nơi trường học.

73
Riêng với các câu truyện kể Giáo Lý, cần nhớ rằng: một nội dung quá bi
lụy thương tâm có thể gợi ra nơi các em lòng trắc ẩn nhân ái, nhưng cũng
có thể âm thầm hình thành trong tiềm thức và vô thức của các em tính hiếu
chiến, hiếu sát, thích trả đũa, nhẫn tâm, hoặc ngược lại, sự mủi lòng ủy mị,
mau nước mắt vì quá sức đa sầu đa cảm.

Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về giác quan,
thích sờ tận tay nhìn tận mắt, nên các em rất vui thích khi được thưởng cụ
thể bằng vật chất hơn là khen ngợi tuyên dương suông suông vậy thôi. Các
em rất hãnh diện thấm thía khi được người lớn khéo léo góp ý khích lệ hơn
là phê bình chê trách hay nổi cáu lên quát tháo om sòm.

Chúng ta thấy, nhà trường đã từng áp dụng những cách khen thưởng khá
cụ thể như các phiếu "bon point", các bông hoa điểm 10 cho từng môn học.
Còn trong Giáo Lý thì một số cha sở và các sơ vẫn phát các phiếu thưởng
khi các em siêng năng đi học hoặc dự thánh lễ... Chắc chắn có nhiều người
lớn không thích, cho rằng như thế là gây ra đầu óc thực dụng. Thế nhưng,
bản thân chúng ta khi còn bé, hẳn ai cũng đã từng ao ước hoặc hãnh diện
khi thấy tên mình được ghi trên Bảng Danh Dự  (Tableau d' honneur) treo
tại một nơi trang trọng và dễ thấy ở trường. Còn Sổ Học Bạ ( Livret
Scolaire) hoặc Sổ Liên Lạc thì không ai muốn cha mẹ mình lại phải đọc
thấy những giòng chữ thầy cô chủ nhiệm phê xấu và yếu kém. Do vậy, đây
là những cách khen thưởng có vẻ vật chất nhưng lại hàm ý về chiều sâu
tinh thần nhiều lắm...

Ở lứa tuổi này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một "bề trên"
hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghiêm minh mà quảng đại, công bình mà bao
dung, vẫn luôn đòi hỏi cao mà lại biết khích lệ nâng đỡ.

5.    CÁC EM RẤT HIẾU ĐỘNG:

74
Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó,
các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là
khủng hoảng về ý thức cử động ( idée motrice).

Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn
chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đủa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi
táy máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức
mình.

Riêng bên nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao
chiến và đua tranh giữa hai phe ( ví dụ: kéo co, cướp cờ, đánh trận giả...).
Các em sẵn sàng chơi hăng say hết mình, bởi đối với các em, chuyện thắng
thua rất là quan trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính cho dù các
em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân.

Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em đặc biệt thích các trò
chơi tuy nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện luân phiên thi đua
giành phần thắng cho mình ( ví dụ: nhảy cò cò, đánh chuyền, nhảy lèo,
chơi ô ăn quan...).

Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động, lại cho
rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm
lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em. Người lớn không ngờ đã đẩy các
em sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn,
rất có hại về lâu về dài.

Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý
tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò
mò thắc mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý
tưởng như thế dần dần sáng tỏ ra, cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn
theo dạng đặt vấn đề "vì vậy", "cho nên", "do đó" như người lớn...

Nhưng mặt khác, các em đã không còn thỏa mãn với dạng câu hỏi "tại
sao?" mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó hơn nhiều: "làm thế nào?" tức là
có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn.
75
Dù vậy, các em chưa thể cầm lòng cầm trí lâu để kịp phân tích vấn đề và
quan sát một cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học
hỏi sao cho đúng mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng
"học mà chơi" đầy hấp dẫn.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một người thầy,
một người cô vừa có kiến thức quảng bác, lại vừa có tâm hồn sâu sắc để
truyền đạt tri thức, gợi mở sáng kiến và nhất là vun đắp cho các em những
tâm tình nhân ái vị tha, vui tươi và dễ thương, đúng với độ tuổi các em.

6.    CÁC EM CÓ THỂ TRUNG TÍN ĐẾN CÙNG:

Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu
các em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào
đó, với lời giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức
về công việc, cảm thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả
mong đợi của người lớn. Ấn tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc
đời, hình thành một nhân cách khó co gì có thể làm biến dạng.

Hiểu được điều này, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy các phong
trào giáo dục đứng đắn trên thế giới đều có những nghi thức tập tục rất
long trọng như: trao trách nhiệm Đàn trưởng trong bầy Ấu Sinh, Đội
Trưởng Nhất trong Đoàn Thiếu Sinh, làm lễ cho Sói Con mở mắt, đội mũ,
trao cờ, tuyên hứa thiếu nhi, thắt khăn quàng, gắn sao...

Riêng với chuyên hiệu cứu thương, các em còn được gắn hai cái cùng lúc
trên đầu hai vai áo, xem đó như một trọng trách và vinh dự cao nhất.

Tại trường học, có nơi, nếu biết huấn luyện tinh thần và kỹ thuật tới nơi tới
chốn, người lớn có thể tin tưởng giao phó cho các em ở các lớp tiểu học
đảm nhận chuẩn bị âm thanh, xếp đội hình danh dự, kéo cờ, bắt nhịp và
đồng ca bài quốc ca v.v... mà không sợ gặp sự cố trục trặc, bởi các em ý
thức khá chững chạc về tính cách quan trọng và trang nghiêm của công
việc cùng với niềm hãnh diện được đại diện cho toàn trường.

76
Trong thực tế, đã có trường hợp một em đệ tử tiểu chủng viện đã can đảm
đứng nguyên một chỗ suốt nhiều giờ để giữ chiếc xe cho vị bề trên của em
giốc toàn tâm toàn lực cấp cứu và đưa vào bệnh viện một người bị nạn trên
xa lộ vắng người.

Như vậy, ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một
Người Lãnh Đạo ( leader) đúng nghĩa, biết cách huấn luyện chỉ dẫn cho
các em thành thạo tháo vát trong các việc nhỏ, vừa tầm hiểu, vừa sức làm
của các em mà lại có tầm quan trọng không thua gì việc của người lớn, sau
đó, biết mạnh dạn tin tưởng trao phó công việc đó để các em tự chơi, tự
làm, tự giải quyết trong khả năng của các em ...

77
BÀI 13: TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM - PHẦN 2

VI. LỨA TUỔI THIẾU NIÊN ( 11 - 14 TUỔI):

Các nhà tâm lý gọi lứa tuổi này là Quatrième Enfance. Trong phong trào
Hướng Đạo thì ứng với tuổi Thiếu tức là thành viên tham gia các Đội của
một Thiếu Đoàn.

Ở trường, các em bắt đầu chuyển lên học trường Phổ Thông Cơ Sở cấp 2,
trước đây gọi là Trung Học Đệ Nhất Cấp, từ lớp đệ thất đến lớp đệ tứ. Ở
Giáo Xứ, các em theo học các lớp chuẩn bị đón nhận Bí Tích Thêm Sức,
sau đó một vài năm, nhiều nơi còn cho các em tiếp tục lên lớp Bao Đồng
để tuyên tín trọng thể.

Các Tiểu Chủng Viện của các Giáo Phận hoặc các Đệ Tử Viện của các
dòng tu nam nữ cũng bắt đầu tiếp nhận các em mà gia đình muốn cho đi tu,
các em sẽ vừa học văn hóa vừa tập sống đời sống chung xa nhà.

Như vậy, rõ ràng các em ở độ tuổi này đã chuyển hẳn sang một giai đoạn
phát triển về thể lý và tâm lý hoàn toàn mới, với các đặc nét khác hẳn lứa
tuổi Thiếu Nhi trước đó.

Chúng ta cũng sẽ chú ý tìm hiểu và phân tích tâm lý của các em một cách
thấu đáo, hầu có thể nhận định được vai trò giáo dục của người lớn bên
cạnh các em quan trọng và cần thiết như thế nào.

1.    CÁC EM THÍCH THẦN TƯỢNG HÓA NGƯỜI KHÁC:

Đến giai đoạn này, các em rất muốn tìm những con người nổi tiếng chung
quanh để tôn sùng như những thần tượng ( idoles).

Với các em trai, có thể thần tượng là một cầu thủ bóng đá nếu các em mê
chơi môn túc cầu, bản thân sẽ bắt chước y khuôn lối đi bóng, đầu tóc, số áo
và cả đến những sở thích nho nhỏ của cầu thủ thần tượng ấy, không những
ở các mặt tốt mà luôn cả các tật xấu.Với các em gái, thần tượng lại có thể
78
là một cô diễn viên ngôi sao, một người mẫu thời trang, một nữ ca sĩ đang
nổi tiếng, Top Ten trong nước hay ngoại quốc...

Và rồi, đã gọi là thần tượng, không sớm thì muộn, các em sẽ nhanh chóng
thay thế bằng một thần tượng khác cùng loại hoặc chuyển hẳn sang lãnh
vực khác, miễn là hợp với thị hiếu thời thượng của đám đông quần chúng,
của bè bạn cùng trang lứa, và nhất là phải hợp với các sở thích cũng luôn
tạm bợ, nhất thời của bản thân các em. Rõ ràng, các ấn tượng do các thần
tượng ghi dấu nơi các em rất nhanh mà cũng chóng qua, cái sau chồng lấp
mên cái trước, hời hợt, dễ đảo lộn.

Tuy nhiên, cái còn đọng lại và đi vào tiềm thức các em thì sẽ vô cùng tai
hại nếu những ấn tượng đó đã kịp ăn sâu, trở thành một kiểu ứng xử, thái
độ sống, cung cách hành động, và nhất là trở thành thứ lý tưởng mẫu cho
đời các em.

Hiện tượng tôn sùng cá nhân là chuyện đương nhiên khó tránh khỏi cho
các em ở độ tuổi này. Vì thế, người lớn không nên chọn cách thế ngăn cấm
hay chỉ trích lên án các em một cách tiêu cực, nhưng hãy chủ động đến với
các em, đáp ứng cho các em những mẫu người lớn thật sự quân bình, đáng
tin cậy và có ảnh hưởng sâu xa trên các em về nhân cách. Họ vẫn luôn có
đó, chung quanh và gần gũi với các em mà các em không ngờ.

Nhờ vậy, dần dần các em sẽ khám phá ra nơi chính con người đó những
đặc nét xứng đáng cho các em khâm phục, yêu mến và noi gương, đồng
thời vẫn nhận ra họ cũng chỉ là những con người tương đối, bình thường
mà vẫn không hề tầm thường, không nổi tiếng những lại nhiều danh thơm
tiếng tốt, đủ để cho các em hãnh diện và tự hào được làm "đệ tử", làm "đàn
em", làm "học trò ruột", làm "bạn vong niên" của những con người như thế
trong sinh hoạt đời thường hằng ngày...

Cũng cần lưu ý rằng: ở lứa tuổi này, các em không thích sống loanh quanh
trong khung cảnh gia đình. Bóng dáng người cha, người mẹ đâm ra quá
quen thuộc, và sẽ là nhàm chán nếu cha mẹ quá khó chịu mà lại mắc nhiều
khiếm khuyết trước com mắt xét đoán còn ngô nghê của các em. Từ đó,
79
chính người lớn trong gia đình đừng ngạc nhiên và rơi vào khủng hoảng
khi thấy các em đâm ra lì lợm, khó bảo, thích cãi lời cha mẹ !

Thay vào đó, các em bắt đầu mở rộng tình cảm mình theo chiều kích xã hội
để tìm kiếm những người lớn thu hút hấp dẫn hơn mà các em chỉ gặp trong
một số dịp, một số giờ trong ngày, hay một số ngày trong tuần.

Ở trường trung học, các em không còn học các môn với một thầy cô giáo,
nhưng lại được học với nhiều thầy cô giáo khác nhau của từng môn. Các
em sẽ so chiếu rất nhanh và chọn ra thầy cô nào là "thần tượng" theo tiêu
chuẩn riêng của các em.

Ở các Đoàn thể sinh hoạt cũng thế, người Huynh Trưởng của các em được
coi như những người anh người chị, biết hết mọi chuyện lý thú, thành thạo
nhiều kỹ năng hấp dẫn, làm được mọi việc, ứng xử được trước mọi tình
huống, và nhất là sẵn sàng gợi cho các em những sáng kiến mới lạ, những
trò chơi lôi cuốn.

Với bè bạn ngang vai, các em bắt đầu nhận thấy cần cộng tác với nhau,
không chỉ trong những trò nghịch ngợm mà cả trong các việc đứng đắn
nghiêm chỉnh như học tập, sinh hoạt...

Do vậy, khái niệm năng động tập thể trong sinh hoạt và làm việc chung lúc
này rất cần thiết nơi các Huynh Trưởng phụ trách các em để có thể biết
cách gợi ý và tổ chức cho các em các sinh hoạt năng động bổ ích.

Tuy nhiên, ở ngưỡng cửa của một hai năm trước tuổi dậy thì, các em lại có
những tham vọng riêng đôi khi khá mãnh liệt để tự khẳng định cá nhân
mình, muốn mình nổi trội hơn các bạn cùng trang lứa. Do vậy mà bên cạnh
các sinh hoạt năng động chung, các em vẫn muốn tách ra để sống với khả
năng và sở thích riêng.

Do vậy mà ngành Thiếu của phong trào Hướng Đạo đã đáp ứng cho nhu
cầu này của các em một cách tài tình bằng cả một chương trình thi lấy các

80
chuyên hiệu hết sức đa dạng và phong phú ( sơ cấp cứu, sửa xe đạp, chơi
tem, nuôi cá đá, chụp ảnh, hát sinh hoạt...).

Điều này lại càng khiến cho người Huynh Trưởng phải tỏ rõ bản lĩnh, sự đa
năng và tháo vát của mình, hay nhất là biết liên kết và phối hợp các sở
trường cũng như sở đoản của mình với một nhóm nhỏ các anh chị Huynh
Trưởng khác để cùng nhau giúp các em trong mọi mặt sinh hoạt.

2.    CÁC EM MUỐN TỰ TÌM HIỂU VỀ CHÍNH MÌNH:

Đặc nét tâm lý thứ hai này xem ra có vẻ đối lập mâu thuẫn với đặc nét vừa
trình bày, thế nhưng, đây lại là một thực tế. Mặc dù nhìn chung, các em ở
độ tuổi này vẫn còn hết sức hồn nhiên vô tư, nhưng từ sâu thẳm tâm hồn,
các em đang dần dần hình thành một khái niệm mơ hồ về chính bản thân.

Các em rất dễ rơi vào trạng thái: khi thì co rút, thủ thế, ù lì trong một thứ
vỏ sò kiên cố do chính các em tự dựng lên để đối phó với tha nhân và
ngoại cảnh; khi thì bùng nổ những khiêu khích, chống đối rất ngô nghê ( ví
dụ: dứt khoát không chịu ngủ trưa, không chịu ăn món cá, không chịu bỏ
áo trong quần, không gài nút áo cổ... nếu như bị người lớn bắt buộc).

Các em loay hoay bối rối tự tìm hiểu, tự bắt gặp những khoảnh khắc vô
nghĩa, hụt hẫng. Tâm trạng này khiến cho những nhận định và dự tính của
các em bị đảo lộn, như thể dao động từ cực này sang cực kia, mới vui đó
đã thấy buồn buồn ủ dột. Nhiều lúc các em còn rơi vào mặc cảm tự ti, mất
niềm tin và đau khổ khi thấy thần tượng của mình bị sụp đổ trong phút
chốc.

3. CÁC EM BƯỚC VÀO TUỔI DẬY THÌ:

Đặc biệt đối với các em gái, ở cuối độ tuổi này, các em bắt đầu bước vào
giai đoạn dậy thì, chuyển từ một "bé-gái-đã-lớn" thành một "thiếu-nữ-còn-
nhỏ", với những biến đổi sâu xa và mạnh mẽ về tâm sinh lý.

81
Mặc cảm tự ti do vậy lại càng tác động dữ dội hơn nơi các em, rất dễ biến
thành những cơn khủng hoảng khiến các em cau có, khó chịu, lầm lì, thích
rút vào một góc riêng ngay nơi chốn đông người.

Mặt khác, các em đâm ra uể oải, lười biếng, không thích làm những loại
công việc đã quen thuộc nhàm chán, khi bắt buộc phải làm thì ngán ngẩm,
đâm ra hồ đồ hậu đậu, dễ "hư bột hư đường"...

Đối với các bạn trai đồng trang lứa, các em gái tự nhiên thấy mình lớn hơn
hẳn cả về vóc dáng lẫn những suy nghĩ và sở thích, chẳng còn say mê
những trò chơi nghịch ngợm con nít của lũ con trai như trước đây. Các em
gái mang máng cảm nhận ra nơi bản thân mình, cái sau này sẽ được xác
định là bản năng người phụ nữ trong xã hội và là thiên chức của người mẹ
trong gia đình.

Ở nhà, các em bắt đầu quan tâm chăm sóc đến những đứa em nhỏ hơn
trong gia đình, tập tành trông coi cửa hàng nếu cha mẹ buôn bán, thích học
thêu thùa may vá, bắt đầu lo việc cơm nước giặt giũ nếu như gia cảnh
không còn cho phép các em vui chơi vô tư lự.

Trong học tập, các em gái chịu khó chuyên cần và đương nhiên trổi vượt
hơn các bạn trai, nhất là ở các môn ngoại ngữ, văn học, sử ký, địa lý và
sinh vật. Nếu cho các em học các loại nhạc cụ như organ, piano, đàn tranh
ngay từ độ tuổi này, các em gái sẽ rất mau tiếp thụ và phát triển năng khiếu
nghệ thuật âm nhạc hơn các em trai.

Do vậy, ở đây, ngoài những kinh nghiệm chuyên môn tâm lý, người lớn
cần có những kiến thức y học, đặc biệt trong khoa sinh lý giới tính để có
thể là những người tham vấn đáng tin cậy của các em trong các mặt vệ sinh
thân thể, học tập và năng khiếu.

Hãy giúp các em vượt qua được mọi khủng hoảng của lứa tuổi đang dậy thì
để sau này chính các em sẽ can đảm và sáng suốt vượt qua nhiều khó khăn
còn lớn hơn nữa trong cuộc đời.

82
Xin hãy đừng để các em hụt hẫng, thiếu sự hướng dẫn nghiêm túc, khiến
cho các em rơi vào tình trạng tự mình mầy mò khám phá mà tự định hình
những quan niệm và mặc cảm tai hại khôn lường về tính dục.

4.    CÁC EM THÍCH ĐÁNH GIÁ NGƯỜI LỚN:

Các em thường có khuynh hướng nhận định những sự việc xẩy tới trong
đời sống hằng ngày, đồng thời cũng thích lượng giá mọi người chung
quanh một cách khá sắc bén, Đôi khi lại rất khôi hài châm biếm.

Những suy nghĩ này đa phần là phiến diện và cực đoan nhưng lại không
hẳn là vô căn cứ ( ví dụ: Hôm nay thầy hiệu trưởng cau có gắt gỏng hơn
mọi ngày, chắc là thầy mới hụt trúng số... Ba mới đi hớt tóc về, sao trông
ba có vẻ ngố ngố thế nào ấy... Thế là má lại mắng mình nữa rồi, đúng là
má chỉ thương mấy thằng em trai của mình mà thôi... Tối nay, lúc sinh hoạt
vòng tròn, anh Huynh Trưởng cứ đá lông nheo với chị Huynh Trưởng hoài,
coi bộ họ "chịu" nhau rồi đó...).

Cứ thế, các em lặng lẽ quan sát, suy luận rồi lại cũng âm thầm tự rút ra
nhận xét đánh giá mà có khi chẳng bao giờ chịu phát biểu trực tiếp. Nó cứ
hình thành dần nơi các em những quan niệm hoặc là quá xét nét người
khác, hoặc là lại rơi vào mặc cảm tự ti hay tự tôn.

Hậu quả là các em rất dễ tránh né người lớn, lủi thủi, khép kín hoặc bướng
bỉnh, lì lợm, không phục thiện.

Do vậy, người lớn phải cố gắng giữ cho bản thân có được một đời sống
tương đối mẫu mực trong nề nếp tác phong cũng như liêm khiết trong sáng
trong nhân cách luân lý.

Hãy là một tấm gương soi càng ít tỳ vết càng tốt, để các em có thể soi
mình, tìm được một sự quý mến, khẩu phục mà cũng tâm phục, từ đó thiết
lập được một mối tương giao hai chiều trong giáo dục và huấn luyện cho
các em và cho chính bản thân người lớn nữa.

5.    CÁC EM THÍCH LÀM NHỮNG VIỆC LỚN LAO:


83
Trong sinh hoạt tập thể hay cộng đồng, các em thường tỏ ra uể oải lười
nhác, không thích làm những việc quen thuộc và bình thường do người lớn
giao cho.

Nếu người lớn dùng cách thức ra lệnh để buộc các em phải làm, thì dù đã
quen thạo với công việc đến đâu đi nữa, các em cũng sẽ cố tình tỏ ra thờ ơ
với công việc, hoặc cố tình làm thật vụng về.

Rồi khi người lớn có ý chê bai hay la rầy, các em lại cảm thấy khoái trá
trong bụng, cho rằng đã thành công khi làm người lớn phải một phen bị hố,
lần sau đừng có mà ép các em phải làm loại công việc ấy nữa, càng khoẻ
chứ sao !

Ngược lại, trước một công việc thật sự mới lạ, hứa hẹn nhiều khó khăn và
đòi hỏi trách nhiệm cao, thì dù chưa biết cách phải làm thế nào, chưa quen
thao tác gì cả, các em cũng sẽ phấn khởi tình nguyện nhận ngay công việc
đó, sau đó, bằng mọi giá các em sẽ học hỏi cách thức làm thật mau lẹ, lại
còn nẩy ra thêm nhiều sáng kiến. Và như thế, các em sẽ hoàn thành công
việc hết sức tốt đẹp, vượt trên mọi dự đoán của người lớn.

Riêng đối với các em nam, dường như các em càng cảm thấy được khích lệ
hăng hái nếu như các em tưởng tượng ra thêm, một cách hơi cường điệu về
công việc vốn dĩ thật bình thường đơn giản, khoác lên cho nó một tầm vóc
quảng đại phi thường, đầy hy sinh lớn lao, hay hết sức anh hùng hào hiệp.

Các em trai hình dung mình là một thứ "anh hùng", dám can trường đứng
ra đương đầu giải quyết những chuyện tầy đình mà cả đến người lớn cũng
còn phải cân nhắc e dè mới dám nhận dám làm ! Cũng đừng quên là các
em sẽ tỏ ra hãnh diện tự hào ghê lắm, nếu như, khi nhận làm một "công
trình" nào đó mà lại có mặt các bạn gái đồng trang lứa vốn thường bị các
em cho là hạng "nữ nhi" chân yếu tay mềm, phải trông dựa vào sức vóc và
trí khôn của "cánh đàn ông" !

Đối với người lớn, trước hiện tượng muốn "chơi nổi" nói trên, chúng ta nên
bình tĩnh, không vội lo ngại, nhưng biết tạo cơ hội để các em khẳng định
84
được "thế giá" của mình cho đúng mức mà vẫn không đánh mất sự hồn
nhiên trong sáng.

Cần nhớ rằng: niềm tự hào và hãnh diện chính là một trong những phương
cách tự giáo dục và tự huấn luyện rất hiệu quả, hơn hẳn những lời nói
khích lệ suông, những bài học đạo đức "chay", miễn là đừng đẩy các em đi
quá xa mà rơi vào thói kiêu căng hợm hĩnh hết sức tai hại cho nhân cách
các em sau này.

6. CÁC EM RẤT THÍCH SỐNG HƯỚNG NGOẠI:

Ở cuối độ tuổi này, đối với các em trai 14, 15 tuổi, không gian và bầu khí
trong gia đình dường như quá chật chội và ngột ngạt, quen thuộc đến nhàm
chán, không còn gợi ra được những trò chơi hấp dẫn cho đám bạn đông
đảo của các em.

Mặt khác, tương quan của các em với mọi người chung quanh đã mở ra
khá rộng, không chỉ dừng lại ở cha mẹ, anh chị trong gia đình. Do vậy, thời
gian sống của các em đa phần là ở bên ngoài gia đình, chẳng đặng đừng
lắm các em mới có mặt ở nhà để ăn hai bữa cơm, và để lăn ra ngủ sau một
ngày đã thỏa chí bình sinh, thỏa sức ngang tàng, vùng vẫy tung hoành ở
trường lớp, ở sân nhà thờ, ở sân banh, ở công viên, và có khi ngay trên
lòng lề đường phố nữa.

Trong phong trào Hướng Đạo, ngành Kha được mở ra cho các em ở độ
tuổi gọi nôm na là "lỡ cỡ, không giống ai" này. Các em không còn hoàn
toàn là trẻ em mà cũng chưa hoàn toàn là người lớn. Vóc dáng đang phát
triển, năng lượng trong cơ thể dường như lúc nào cũng thừa thãi, thúc giục
đầu óc và tay chân các em phải luôn hành động.

Với các em nam, thanh quản bắt đầu thay đổi làm cho vỡ tiếng, giọng đang
trong trẻo như "thiên thần" bỗng trở nên ồ ồ trầm đục như đàn ông. Ở các
ban tốp ca, hợp ca nhà trường hay các ban hát lễ sinh nhà thờ, các em thấy
mình đâm ra "phá bè", nếu có ai lỡ miệng gọi đùa là giọng "vịt đực" thì các
em rất dễ nổi xung vì tự ái, lẳng lặng bỏ ra với một tổn thương sâu xa.
85
Trong học tập, các em nam cũng gặp trở ngại về phát âm trong giờ sinh
ngữ hay trong các buổi thuyết trình, luận nói. Các em có cảm giác bị các
bạn gái "cười ruồi" chế nhạo ngầm, cứ thế mà ăn nói câu cú lại càng đâm
ra lúng túng ngọng nghịu.

Mặc cảm thất bại trong mọi sự luôn luôn đeo đuổi các em, làm các em đâm
ra hay quạu cọ với mọi người và bực bội với chính mình, đưa tới việc thích
"cúp cua" trốn học, lang thang phá phách ngoài phố, đua xe bạt mạng, lê la
ở các tiệm cà phê, rất dễ rơi vào tệ nạn nghiện ngập xì ke ma túy và trộm
cắp.

Ngược lại, về các môn thể dục thể thao và về mặt sinh hoạt các trò chơi thi
đua hay đối kháng, các em thấy mình tự tin với sức vóc "trổ giò", nhanh
hơn, khoẻ hơn, "lì đòn" hơn.

Nhưng dẫu sao, những cuộc tranh tài như thế này có vẻ không còn tạo
hứng thú nhiều so với các trò chơi lớn mang tính phiêu lưu mạo hiểm và
khai phá, tổ chức ngoài thiên nhiên rộng lớn, trải qua nhiều trạm thử thách
gian nan, kéo dài nhiều giờ hoặc nhiều ngày ròng rã, tiến hành vào ban
đêm lại càng hấp dẫn hồi hộp ( trại bay, trèo núi băng rừng, thám hiểm
hang động, đột nhập các ngôi nhà hoang, vượt sóng ra thăm đảo xa, leo đèo
bằng xe đạp...)

Phải nói đầu óc các em trong giai đoạn này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi
các truyện phiêu lưu và trinh thám hình sự trong các loại sách báo phim
ảnh, có lợi về mặt kích thích trí tưởng tượng và sư gan dạ nhưng cũng lại
gây ra những hậu quả tai hại như: liều lĩnh dại dột theo kiểu "anh hùng
rơm", phung phí sức khoẻ vào những cái vô bổ, nhất là khích động tính
hiếu chiến manh động, dễ đưa tới phá phách, bạo lực.

Riêng với các em gái, vấn đề có khác đi, cũng hướng ngoại nhưng là cái
hướng ngoại trong tâm tưởng. Kể ra thì các em gái ngại ra khỏi nhà, xa
khung cảnh quen thuộc của gia đình, hơn nữa, dẫu sao các em cũng tương
đối đã khá lớn để có những bổn phận và công việc riêng phải làm ở nhà sau
khi đi học về. Thế nhưng, tâm hồn các em thì lại "bay" đi rất xa.
86
Các em thích viết nhật ký, thích chép lại các bài thơ tình học trò và các bài
hát nhẹ nhàng lãng mạn của tuổi mới lớn mà các em hết sức ưa chuộng.
Đặc biệt, mỗi độ hè sang, vào dịp bãi trường, các em gái rất thích làm một
tập lưu bút để xin các thầy cô mà các em yêu mến ghi vào vài giòng khen
ngợi khuyên nhủ, và sau đó tiếp tục chuyền tay đến các bạn đồng trang lứa.

Nhìn chung, ở lứa tuổi giao thời và dậy thì cho cả hai phái, các em đều
muốn mở ra thêm nhiều mối tương giao với mọi người, cho dù các liên hệ
này cũng sẽ chóng qua đi, phai nhạt dần với thời gian, hoặc rất mong
manh, khó lưu tồn đến khi các em trưởng thành, chỉ cần một xích mích nhỏ
là đổ vỡ ngay, và sẽ còn là những kỷ niệm nhẹ nhàng man mác của một
thời niên thiếu học trò.

Do vậy, cha mẹ, các thầy cô giáo và các Huynh Trưởng khi đối diện với
các em phải hết sức năng động mà kiên nhẫn, quyết đoán mà dịu dàng,
cương nghị mà bao dung, nhạy bén mà tế nhị.

Ngoài ra, sở trường phải chuyên sâu mà sở đoản thì phải đa dạng, lãnh vực
nào cũng biết tương đối vững, đủ để theo kịp và nhất là để đón đầu, thu
phục được lòng tín nhiệm của các em, hầu kịp thời giúp đỡ, dẫn dắt các em
vượt qua những khủng hoảng có tính "nổi loạn".

Đối với các em nam, cần biết định hướng một cách khéo léo, vận dụng và
chuyển hóa các "năng lượng thặng dư" cũng như những đặc nét tâm lý của
các em vào việc "khai phá" đầy lý thú mà vẫn đồng thời "giúp ích" cho bản
thân các em, cho mọi người chung quanh và cho cả cộng đồng xã hội.

Cần phải hình thành dần dần nơi các em bản phác họa cho một mẫu người
đàn ông đầy nam tính trong tương lai, lịch sử, quả cảm, thông minh, hữu
ích cho xã hội và nhân loại, nhưng cũng sẽ là một người chồng, người cha
cao thượng, đôn hậu, nhân ái, có một chút nữ tính và nhất là biết tôn trọng
người phụ nữ chứ không chỉ "ga-lăng" hời hợt bên ngoài.

Riêng các em nam có ý hướng đi tu thì rất cần được chuẩn bị tốt về trí
thức, óc phán đoán, tính thích nghi, sự nhạy cảm với các vấn đề của Giáo
87
Hội để sau này các em sẽ là những tu sĩ, những linh mục có lòng đạo dức,
chí truyền giáo và nhất là quân bình về nhân cách của một người đàn ông
độc thân.

Đối với các em nữ, tuổi dậy thì sẽ qua đi, để chuẩn bị chu đáo cho các em
bước vào tuổi thiếu nữ, người lớn cần hết sức nâng niu cẩn trọng, giúp đỡ
các em sớm trưởng thành để tự tin, sáng suốt, không bị rơi vào cạm bẫy
của xã hội đang ngày càng tục hóa, đầy cám dỗ về danh vọng, tiền bạc và
sắc dục.

Cái tích cực hơn nữa là khích lệ các em nữ vừa triển nở nhân cách và tri
thức, hướng đến tha nhân và cuộc đời nhưng lại vừa ý thức được trách
nhiệm của bản thân trong gia đình là nơi mà tương lai các em sẽ đóng vai
trò hết sức quan trọng của một phụ nữ Việt Nam, làm vợ, làm dâu, làm mẹ
hoặc làm nữ tu.

Các cô giáo, các chị Huynh Trưởng sẽ vừa là người chị, người bạn, lại vừa
là một người mẹ của các em gái, tạo sự đồng cảm trong cùng giới phụ nữ,
chia sẻ một cách tế nhị và chân thành những kinh nghiệm cụ thể đời
thường của chính bản thân mình cho các em, nhất là về mặt sinh lý và tâm
lý.

Các thầy giáo, các anh Huynh Trưởng phải biết giới hạn về phái tính của
mình để kiềm chế, không ở quá xa một cách nghiêm khắc lạnh lùng, nhưng
cũng không ở quá gần, dễ rơi vào các tình huống "cheo leo" hiểm nghèo
trước các em gái. Tốt nhất, hãy để cho các em tin phục chứ đừng thân tình
quá đến mức suồng sã.

Cuối cùng, phải nói rằng hiện nay, trong một xã hội mở, đang không
ngừng tăng trưởng về kinh tế và khoa học, người lớn nói chung không
những thiếu quan tâm đối với các em trong tương lai sẽ là thế hệ kế thừa
của mình, mà ngược lại, còn trực tiếp hoặc gián tiếp làm hỏng các em ngay
trong gia đình, ở trường học, tại giáo xứ, nơi đường phố và cả ngoài xã hội.

88
Do vậy, gánh nặng trách nhiệm của những người lớn còn quan tâm thao
thức đến việc giáo dục và huấn luyện nhân cách cho các em lại càng hết
sức lớn lao và hệ trọng, nhất là trong giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên.

VII. KẾT LUẬN:

Xin được kết thúc tập chia sẻ "Tìm Hiểu Tâm Lý Trẻ Em" này bằng một
lời mời gọi của Đức Khổng Phu Tử, tuy đã rất cổ xưa nhưng lại không hề
lạc hậu: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" nghĩa là "điều gì chúng ta không
muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người khác".

Để tích cực, chủ động và hướng thượng hơn nữa, phải nói thêm một cách
cụ thể, ứng hợp với vấn đề giáo dục vừa trao đổi, đó là:

Điều gì chúng ta đã từng muốn người lớn làm cho mình lúc chúng ta còn là
trẻ em, thì chúng ta cũng hãy làm tất cả những điều ấy mộc cách tận tụy ân
cần cho các em hiện còn đang nằm trong vòng tay giáo dục yêu thương của
chúng ta.

89
BÀI 14:NHỮNG RỐI LOẠN TÂM SINH LÝ CỦA TUỔI MỚI LỚN

Dưới đây là một bài viết được chọn từ Tạp Chí Thế Giới Mới số 408, ra
ngày 16.10.2000 đăng trong mục Giáo Dục Giới Tính, Lê Nguyễn dịch lại
từ tạp chí Elle số tháng 9.2000.

Chúng tôi thiết nghĩ bài báo có thể rất cần thiết để các bạn Huynh Trưởng
và các Giáo Lý Viên tham khảo thêm bên cạnh việc tìm hiểu Tâm Lý các
Lứa Tuổi vừa trình bày ở bài trước.
Lời Tòa Soạn Tạp Chí Thế Giới Mới:

Tuổi mới lớn là một trong những giai đoạn quan trọng nhất của đời người,
góp phần xác định một cá thể chưa hoàn toàn qua khỏi quãng đời thơ ấu,
đồng thời chưa có được những đặc tính của một người thật sự trưởng
thành.

Những biến đổi, thậm chí rối loạn về Tâm Sinh Lý của lứa tuổi này cần
được bản thân họ và các bậc cha mẹ và thầy cô giáo hiểu rõ để có thể nghĩ
đến những cách cư xử phù hợp...

1. BIẾN ĐỔI SINH LÝ Ở TUỔI MỚI LỚN:

Trong cơ thể con người, nhiều chất hóa học đóng những vai trò kỳ thú có
thể sánh ngang với những câu chuyện thần tiên ngoài đời. Chiếc rào chắn
ngăn cách tuổi thơ ngây với lúc trưởng thành là giới hạn cao nhất mà mỗi
con người đều cần phải vượt qua.

Trong cái lò luyện của tuổi dậy thì, người ta nhìn thấy sự sục sôi của chất
men hóa học, và từ đó một con người mới hình thành. Ở những xứ nhiệt
đới, con gái mới đến tuổi 11 là đã có thể trải qua thời kỳ đầy những biến
động của tuổi mới lớn, trong khi ở những vùng ôn đới, thời kỳ này thường
diễn ra vào năm 15 - 16 tuổi. Con trai thường có những diễn biến của tuổi
mới lớn chậm hơn con gái 2 năm.

90
Sự biến đổi sinh lý của tuổi mới lớn là bước chuẩn bị cho cơ thể họ đảm
nhiệm chức năng cơ bản là sinh sản để duy trì nòi giống. Hầu như không
có cơ quan hay mô nào mà không trải qua những thay đổi sâu sắc. Tim và
phổi phát triển nhanh gấp 3 lần so với những năm trước đó. Tuyến giáp
nằm ở cổ to ra theo tỷ lệ sự phát triển của cơ thể, trong khi ở lồng ngực,
tuyến ức đầy bí ẩn lại nhỏ dần để sau này biến mất vĩnh viễn.

Hồi còn nhỏ, các đầu xương được bọc bằng một lớp sụn, tham gia vào quá
trình tăng trưởng của cơ thể. Đến tuổi dậy thì và ít lâu sau đó, lớp sụn này
bắt đầu chứa calcium, các đầu xương cứng dần, sự tăng trưởng chậm lại,
cuối cùng thì ngưng hẳn. Ngay cả da cũng thay đổi cấu trúc, các tuyến bã
nhờn hoạt động mạnh hơn, các lỗ chân lông nở rộng ra, dễ dàng làm mồi
ngon cho vi trùng xâm nhập tạo thành mụn.

Tuổi dậy thì được phát động bởi tuyến yên - một bộ phận nhỏ, chỉ bằng hạt
đậu Hà-lan, nằm ở mặt dưới của não. Người ta chưa được rõ lắm về việc
tuyến yên hoạt động như thế nào, nhưng kết quả hoạt động của nó thì khá
rõ: nó tiết ra một lượng nhỏ hormone thúc sinh dục  (hormone
gonadotrope) để kích thích hoạt động của buồng trứng ở phái nữ và của
tinh hoàn ở phái nam. Thời thơ ấu, những bộ phận này ngủ yên, đến khi
được tuyến yên kích thích, chúng bắt đầu sản xuất các hormone riêng của
chúng.

Ở một cô gái mới lớn, các buồng trứng bắt đầu hoạt động và tiết ra một
lượng thật nhỏ chất oestrdiol, chỉ bằng 1 / 1.000 khối lượng của một hạt
đường mỗi ngày. Những chất này lại có đủ sức mạnh để biến một cô bé
thành một cô gái sắp bước qua ngưỡng cửa của sự trưởng thành. Khi đó, cô
bắt đầu lớn nhanh, chiều cao tăng khoảng 8 cm / năm, bỏ những chàng trai
cùng tuổi lại đàng sau.

Về phát triển xương, ở cô gái mới lớn, khung chậu rộng ra, chuẩn bị cho
những lần sinh nở về sau. Các tuyến vú phát triển, lúc đầu chậm, rồi càng
lúc càng nhanh, dưới tác động của các hormone. Các mô ở đường sinh dục

91
dày lên và vững chắc hơn để có thể "đối phó" với sự căng thẳng của các
lần sinh nở.

Dạ con từ kích cỡ của một quả mận thời thơ ấu, đạt đến kích cỡ của một
quả lê. Tuy nhiên, phải chờ khoảng 2 năm từ lúc bắt đầu có những chuyển
biến trên để cơ thể người phụ nữ có thể sẵn sàng cho việc sinh nở.

Trữ lượng của buồng trứng cũng là một chi tiết thú vị. Nó chứa gần
420.000 trứng chưa thành thục, nhưng trong suốt thời gian sinh nở của một
người phụ nữ, chỉ có từ 400 đến 500 trứng là đạt đến sự thành thục mà
thôi. Xuất phát từ một sự chọn lựa đầy bí ẩn, vào mỗi kỳ kinh nguyệt, chỉ
có một trong hai buồng trứng cung cấp cho dạ con một cái trứng thành
thục.

Khoảng một tuần lễ trước khi trứng rụng, dạ con cũng có những chuyển
biến dưới tác động của các hormone. Thành dạ con dày ra, trong khi một
mạng lưới mạch máu mới xuất hiện, sẵn sàng để nuôi phôi. Trong trường
hợp không xảy ra sự thụ thai, những mạch máu này trở nên vô dụng, chứng
tự hủy, tạo ra kỳ kinh nguyệt đầu tiên của cô gái mới lớn.

Ở nam giới, những biến đổi sinh lý của tuổi mới lớn cũng quan trọng
không kém. Dưới tác động của những hormone do tuyến yên tiết ra, tinh
hoàn phát triển và trở nên thành thục. Đến lúc này, nó đảm trách hai chức
năng: tiết ra testostérone, còn gọi là hormone nam, để lưu chuyển trong
máu, và sản xuất một lượng tinh trùng cần cho sự thụ tinh với trứng.

Tác dụng của testostérone thể hiện rất rõ: hệ lông biến đổi, những sợi râu
đầu tiên xuất hiện, cơ thể phát triển với một tốc độ đầy ấn tượng, thường
cao thêm 15 cm / năm và khối lượng tăng hơn 10 kg cũng trong khoảng
thời gian đó.

Testostérone cũng làm phát triển tuyến tiền liệt, một loại kho trữ chất dịch
giúp cho tinh trùng bơi lội bên trong và tự nuôi sống chúng. Ở tuổi mới
lớn, tuyến tiền liệt từ kích cỡ một hạt đậu nay to bằng một hạt dẻ, và chàng
thiếu niên đã có thể tham gia vào quá trình sinh sản.
92
2.  RỐI LOẠN TÂM LÝ Ở TUỔI MỚI LỚN:

Về mặt tâm lý, tuổi mới lớn là giai đoạn có những rối loạn sâu sắc. Lúc ấy,
như có hai nhân vật cùng tranh nhau một cơ thể duy nhất, và bên nào cũng
muốn chiếm ưu thế. Người thứ nhất muốn bảo tồn những đặc quyền của
thời thơ ấu; còn người thứ hai lại thích sử dụng ưu thế của tuổi trưởng
thành.

Được trang bị về mặt sinh lý như một người trưởng thành, nhưng lại được
định hướng bằng những phản ứng trẻ con, tuổi mới lớn thường chất chứa
lắm điều rồ dại. Điều đó rất nguy hiểm khi các đối tượng ngồi trước tay lái
xe gắn máy, đứng trên cao phóng xuống giòng sông đang chảy xiết hay lao
vào những hoạt động tính dục quá sớm.

Các thế hệ thường không tìm thấy tiếng nói chung. Sự phản kháng đối với
cha mẹ và người lớn không có gì là bất thường khi đứa trẻ sắp bước vào
thế giới của người lớn.

Sinh hoạt của tuổi mới lớn lắm khi chứa đựng không ít điều kỳ dị. Các em
có thể chôn chân hàng giờ liền trước gương soi, bị ám ảnh về một hình
bóng khác phái nào đó, hay cắt chải mái tóc theo một kiểu cách ngược đời.

Tư tưởng của các em lúc nào cũng như sục sôi lên khiến các em không chú
ý mấy đến những gì đang thấy đang nghe. Các bậc cha mẹ hay thầy cô giáo
thường than phiền là con trai hay học trò của họ như đang sống trên mây,
mơ màng và lười biếng.

Điều này chỉ đúng một phần, vì người ta biết rằng sự thấp thỏm lo âu của
tuổi mới lớn thường kéo theo mệt mỏi mà những thiếu niên ở độ tuổi này
thường dành phần lớn thời gian cho sự... lo âu vơ vẩn thẫn thờ, vì thế,
những dấu hiệu mệt mỏi chán nản là điều khó tránh khỏi.

Các cô gái ở tuổi mới lớn cũng thế. Các em cũng gặp nhiều khó khăn khi
phải từ giã tuổi thơ ngây để bước vào một thế giới còn rất xa lạ. Trước tiên,
cái cơ thể đổi mới hoàn toàn thường mang đến cho các em lắm điều phiền

93
lụy. Các em phải che kín bộ ngực đầy vẻ e ấp, cảm thấy xấu hổ lúc hành
kinh, và những điều này khiến các em trở nên khép kín, gò mình trong một
thế giới chật hẹp và kỳ bí.

Thường thì các em không còn hoàn toàn tin vào cha mẹ nữa. Cũng giống
các cậu con trai, các em chỉ chú tâm đến bản thân mình, mỗi một khiếm
khuyết nhỏ của cơ thể cũng dễ trở thành một bi kịch.

Sở thích của các cô gái mới lớn cũng thay đổi. Các em không thích những
cậu con trai cùng tuổi nữa. Với họ, những anh chàng này vẫn còn trẻ con
quá. Các em chỉ chú ý đến những chàng trai lớn tuổi hơn, trông có vẻ già
dặn và hấp dẫn. Một đặc trưng nữa của tuổi mới lớn, đó là sự tôn thờ thần
tượng, một ca sĩ, một diễn viên điện ảnh hay một người mẫu thời trang
chẳng hạn...

Tuổi mới lớn là như thế đó. Những biến đổi, kể cả những rối loạn về Tâm
Sinh Lý là điều khá bình thường. Vấn đề đối với các bậc cha mẹ hay thầy
cô giáo là nắm vững những trạng thái mới mẻ đó của con cái hay học trò
của mình để đề ra những cách ứng xử và hướng dẫn thích hợp. Sự kiên trì
và hiểu biết luôn là những yếu tố không thể thiếu khi đối diện với tuổi mới
lớn.

94
Phụ Lục

MỘT VÀI GỢI Ý VỀ GIÁO DỤC VÀ SƯ PHẠM GIÁO LÝ

Giữa bối cảnh một thế giới và một xã hội phát triển rất nhanh, rất sâu và rất
rộng về giáo dục, về văn hóa, về truyền thông đại chúng như hiện nay,
đường hướng sư phạm hiện đại nói chung, Khoa Sư Phạm Huấn Giáo nói
riêng, mời gọi một cách giảng dạy mới cũng như một cách ra đề bài và
chấm thi khác hẳn thói quen lâu nay. Xin được đề nghị ở đây 6 nguyên tắc
chính yếu như sau:

1. HIỂU VÀ CẢM CHỨ KHÔNG LÀ THUỘC LÒNG MÀ VÔ CẢM:

Đã chọn cách thức giảng dạy bằng phương pháp hội thoại thì cũng nên ra
đề bài thi mang tính cách gợi ý sao cho các em học sinh Giáo Lý không
dựa vào ( mà cũng không thể dựa vào ) việc học thuộc lòng ( học tủ, học
vẹt ) để làm bài thi, nhưng các em sẽ cố gắng ôn lại mọi kiến thức Giáo Lý
về Thiên Chúa đã thu nhặt, kết hợp với những cảm nhận gặp gỡ Thiên
Chúa, được Thiên Chúa soi sáng để hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa mỗi
ngày một hơn.

2. ĐẾN VỚI CHÚA CHỨ KHÔNG CHỈ LÀ HỌC VỀ CHÚA:

Làm bài thi như thế sẽ không còn phải là thi nữa, nhưng chính là dịp để các
em cảm nghiệm lại từ tất cả những gì các em đã từng được khám phá, hiểu
biết, gặp gỡ và gắn bó Thiên Chúa thông qua các bài học Giáo Lý trong
từng học kỳ và trong cả năm học. Xin nhấn mạnh: Giáo Lý không phải là
học về Thiên Chúa mà là đến với Thiên Chúa, không phải là viết về Thiên
Chúa như ngài là ngôi thứ ba, nhưng là trò chuyện với Thiên Chúa như
Ngài là ngôi thứ hai đối với bản thân các em.

95
3. THI MÀ LẠI KHÔNG PHẢI LÀ THI:

Về Tâm Lý, các em sẽ không còn sợ thi, không còn não trạng phải quay
cóp khi thi, không còn coi việc phải làm bài thi là gánh nặng đối với các
em yếu hoặc là một cách để chứng tỏ sức học của mình đối với các em giỏi
hơn, từ đó so kè hơn thua với các bạn, hoặc kiện cáo cò kè với thầy cô
Giáo Lý Viên. Hoàn tất một năm học Giáo Lý cũng không phải là để cốt
lên lớp, để lấy cho được “tấm bằng” đậu Rước Lễ, Thêm Sức hay Tuyên
Tín”. Xin nhấn mạnh, ở đây là lớp học Giáo Lý chứ đâu có phải là lớp học
Phổ Thông Cơ Sở !

4. TRÒ YẾU LÀ TẠI THẦY KÉM:

Nếu dạy một cách ân cần chu đáo ( không nhất thiết là dạy hay dạy giỏi )
thì kết quả giáo dục sẽ thể hiện ngay nơi bài làm ( viết hay nói ) của các
em. Đừng vội hồ đồ than thở: “Lớp tôi dạy, học sinh học dở quá !” hoặc
“Lớp tôi có mấy đứa quậy phá mất dạy quá !” hoặc tệ hơn nữa là rỉa rói
ngay tại lớp: “Tôi chán các em lắm, chưa bao giờ tôi gặp một lớp có nhiều
em tệ hại như thế này !” Cần nhớ Giáo Lý Viên là “khí cụ” của Thiên Chúa
sử dụng để giúp đỡ các em lớn lên trong tình yêu thương của Chúa và tha
nhân. Nếu các em còn yếu, đó là vì cách dạy của ta có vấn đề nào đó đã
gây cản trở cho tương quan của em ấy với Chúa.

5. KHÔNG BAO GIỜ ĐÁNH RỚT:

Toàn bộ chương trình các năm học Giáo Lý là cả một cuộc lữ hành khám
phá, gặp gỡ, yêu mến và thực hành Lời Chúa. Các Bí Tích được trao ban
( Hòa Giải, Thánh Thể, Thêm Sức ) là do ân sủng nhưng-không của Thiên
Chúa đối với từng em. Giáo Lý Viên chỉ là “người bạn lớn đồng hành” bên
96
cạnh các em. Đừng bao giờ căn cứ trên bài làm, kỳ thi, để quyết định
“đánh rớt”, cho “lưu ban” hoặc “cấm vận” không cho các em nhận lấy Bí
Tích. Trong trường hợp gặp những em cá biệt, nhớ ngay rằng: Thiên Chúa
đang yêu thương em ấy cách đặc biệt ! Hãy cố gắng hẹn gặp riêng em ấy
trong ít là 3 buổi để giúp các em hiểu căn bản về Giáo Lý của cả năm học,
sau đó để các em tự quyết định xin được lãnh nhận Bí Tích hay không ?

6. THẦY SẼ LÊN LỚP THEO TRÒ:

Trong thực tế khó có thể áp dụng được nguyên tắc này, vì hầu hết ở các
Giáo Xứ vẫn còn thiếu Giáo Lý Viên, hoặc Giáo Lý Viên chưa được đào
tạo đầy đủ để có được bản lĩnh lên lớp theo các em cho tới khi các em hoàn
tất chương trình Tuyên Tín ( quen gọi là Bao Đồng ). Nhưng nếu áp dụng
được thì hiệu quả giáo dục rất cao, Giáo Lý Viên đúng nghĩa là “người
đồng hành”, chứng kiến và thấu hiểu được tiến trình lớn lên về Đức Tin, về
thể lý lẫn Tâm Lý của các em, từ đó mà nâng đỡ dìu dắt các em.

Dựa trên 6 nguyên tắc giáo dục và sư phạm vừa nói trên, xin gợi ý các
cách thức tổ chức làm bài Giáo Lý cuối học kỳ hoặc cuối năm như sau:

Làm bài ở nhà: Để tránh Tâm Lý căng thẳng khi phải làm ở lớp, nên cho
các em làm bài ở nhà, với thời gian khoảng một tuần. Không sợ tình trạng
cha mẹ hay anh chị làm bài thay cho các em, nhưng chấp nhận cho các em
hỏi thêm ý kiến mọi người để chính các em sẽ tự làm bài. Nhờ thế, chính
phụ huynh các em cũng được dịp ôn lại vốn liếng căn bản Giáo Lý của họ
nữa, càng hay ! Phần các em, các em sẽ tự tin và cố gắng làm bài thật sâu
sắc và chu đáo.

Làm bài ở lớp: Nếu chọn cách làm hội thoại này, nên chia các em thành
từng nhóm 3 em, đưa ra các câu hỏi gợi ý cho từng nhóm, mỗi câu hỏi có
thể liên quan đến một bài Giáo Lý đã học. Sau đó cho các em hội thoại với
nhau trong 15 phút. Kế tiếp, cả lớp sẽ nghe lập lại câu hỏi, câu hỏi thuộc về
nhóm nào thì nhóm ấy có một em đại diện đứng lên trình bày, hai em kia
97
có thể bổ sung. Giáo Lý Viên chú ý điều chỉnh và củng cố thêm phần trình
bày của các em.

Chấm bài thật ân cần: Giáo Lý Viên trước khi chấm bài, dành ra 3 phút
để cầu nguyện với Chúa, xin ơn được thấu hiểu tấm lòng các em gửi gắm
phía dưới và phía sau những hàng chữ hồn nhiên và ngây thơ. Đối với mỗi
bài viết của từng em, cần đọc chậm và kỹ, chú ý trước hết đến nội dung ( ý
tưởng và tâm tình với Chúa, với lớp, với bạn bè, với gia đình, với tha
nhân ), sau mới tới hình thức ( câu cú, nét chữ, cách trình bày ). Như thế có
thể giúp các em lớn lên về tâm linh và cả nhân bản.

Dùng cùng màu mực với các em: Lâu nay ai cũng chấm bài bằng mực
đỏ, nhưng ở đây xin đề nghị các em dùng màu mực nào để viết bài thì Giáo
Lý Viên dùng màu mực ấy, các em dùng bút chì, ta cũng dùng bút chì.
Màu mực đỏ xét ra không tốt về mặt ấn tượng Tâm Lý, nhất là đối với
những bài làm chưa tốt, chưa đủ. Khi gặp một câu các em không làm được
hoặc làm không đúng, không đủ, Giáo Lý Viên chịu khó ghi lại đầy đủ nội
dung đáp án cho câu ấy ở cuối bài. Như thế các em nhận ra Giáo Lý Viên
là người đồng hành chứ không phải là quan tòa xét xử !

Không chấm điểm và xếp loại: Cách này nhiều người chưa đồng ý lắm,
nhưng ở chỗ này chỗ kia đã thử áp dụng thì thấy hiệu quả tốt. Mặc dù Tâm
Lý các em còn trong độ tuổi thích cái gì cụ thể để hãnh diện, nhưng cũng
cần cho các em thấy học Giáo Lý khác với học Phổ Thông. Vì thật ra mối
tương quan giữa bản thân từng em với Thiên Chúa thì con người làm sao
có thể đánh giá bằng điểm số và xếp loại cao thấp, giỏi, khá, trung bình
hay yếu được ?

Lời phê thật tích cực: Khi chấm xong mỗi bài, cố gắng có một lời phê
gọn ( khoảng 2 giòng ) chứ không quá ngắn, cụt lủn ( chỉ có một hai chữ ).
Chú ý đến các khía cạnh tích cực nhất. Ví dụ đối với một bài làm tốt: “Em
đã cố gắng rất nhiều. Chúa rất thương em và em đã có được một sự gắn bó
rất quý với Chúa và với mọi người, em hãy cố gắng sống điều ấy suốt đời.”
Ví dụ đối với một bài làm chưa tốt lắm: “Em sẽ cố gắng nhiều hơn nữa,

98
Chúa đang chờ em để giúp em. Em hãy chịu khó đọc lại phần thầy ( cô ) bổ
túc ở cuối bài”.

Ngày phát bài là một cuộc họp mặt vui: Các em làm bài tốt hay bài chưa
tốt thì Tâm Lý các em đều hồi hộp chờ đợi kết quả. Hãy biến hôm ấy thành
một buổi thật vui và hào hứng, xuyên qua đó, Giáo Lý Viên giúp các em
củng cố và bổ túc được kiến thức và tâm tình Giáo Lý. Em làm bài tốt thấy
được khuyến khích, mà em làm bài chưa tốt cũng không thấy hổ thẹn mặc
cảm. Cả lớp có thể tổ chức một cuộc liên hoan nhỏ với Chúa ( tạ ơn ) với
Giáo Lý Viên ( biết ơn ) và với nhau ( cám ơn ). Như thế các em không còn
“sợ” học Giáo Lý, nhưng sẽ phấn khởi bước vào một kỳ nghỉ hè với một
trò chơi “Chiến Dịch Giáo Lý” đầy hào hứng. Hẹn gặp lại nhau năm sau ở
lớp Giáo Lý lớn hơn.

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

99

You might also like