You are on page 1of 297

Đờn Bà Con Gái – Chuyện phiếm của gã Siêu

Lâu lắm rồi, gã được nghe một câu nói thuộc hạng danh ngôn, đại khái như thế này :

- Đờn bà con gái giống như con mèo, nếu con mèo ngoáy đuôi bên trái, thì chắc chắn nó sẽ nhảy sang
bên phải.

Cũng trong chiều hướng ấy, gần đây ở Việt Nam giới choai rất khoái một bài hát mang tựa đề là ‘’đừng
nghe những gì con gái nói’’. Bài hát này được liệt vào ‘’tốp ten’’ nghĩa là mười bài hát được thiên hạ ưa
chuộng nhất với những lời lẽ thật dí dỏm về dễ thương :

- Con gái nói có là không, con gái nói không là có.

Con gái nói một là hai, con gái nói hai là một.

Con gái nói ghét là thương, con gái nói thương là ghét.

Con gái nói giận là yêu, con gái nói yêu là giận.

Đừng nghe những gì con gái nói, đừng nghe những gì con gái nói.

Con gái nói không biết ghen là ghen như điên đấy nhé.

Con gái nói không biết yêu là yêu tới quên đường về.

Đừng nhge những gì con gái nói, đừng nghe những gì con gái nói.

Gã có một thằng bạn, thâm niên quân vụ về cái khoản đờn bà con gái. Sau nhiêu phen bị các nường đá
lên đá xuống, nó đã tích lũy được một số vốn kinh nghiệm khá đồ sộ, đáng mặt sự phụ. Ngày kia vị sư
phụ nay đã truyền cho đệ tử bài học vỡ lòng về tâm lý con gái như sau :

- Con ơi, con nên nhớ rõ điều này : khi cô nường nói với con “ghét anh ghê…à”, nhất là lại kèm theo một
cái liếc nhìn, nheo mắt có đuôi, thì con có thể yên chí nhớn mà hét toáng lên rằng : ôi sung sướng quá
nhẽ vì đời toàn màu hồng. Bởi vì đó chính là lúc cô nường đã chịu đèn, yêu con khủng khiếp. Con hãy
nhào vô liền tù tì để kiếm chút cháo, kẻo dịp may đã qua đi thì khó mà trở lại đó, ngốc ạ.

Đối với một tên đại ngố như gã, thì đờn bà con gái quả thực là một màu nhiệm, toàn những chuyện
ngược đời và nghịch lý, nhiều kiểu rắc rối, đến quỉ thần cũng không lường nổi. Đọc lại sách Sáng thế ký,
gã nhận thấy thửa ban đầu, thượng đế lấy bùn đất nhào nặn mà làm thành Adong. Sau khi ban cho
Adong sinh khí bằng cách thổi hơi vào lỗ mũi, Ngài đã cho Adong sống trong vườn địa đàng. Với khu
vườn kỳ diệu này, dù chim hót có véo von, cây cối có trổ bông khoe sắc, thì Adong vẫn chỉ cu ki một
mình, lặng lẽ đến từng bước chân âm thầm.

Chính thượng đế cũng cám cảnh trước sự cô đơn đậm đặc ấy, Ngài thầm nghĩ :

- Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta sẽ dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó.

Nói và làm. Thượng đế chờ cho tới lúc Adong ngủ say, bèn rút trộm một chiếc xương sườn của Adong
mà dựng nên Evà, rồi dẫn Evà tới ra mắt Adong. Thoạt nhìn thấy Evà, cặp mắt Adong long lên còng cọc
và miệng ông sững sờ kêu to :

- Này đây xương tôi và thịt bởi thịt tôi.

Nếu lúc bấy giờ Adong biết dùng tiếng Việt Nam để diễn tả ý tưởng tuyệt vời này, thì hẳn ông chỉ cần
rên lên hai tiếng ngắn gọn :

- Mình ơi!

Bởi vì chữ ‘’mình’’ vừa là thân xác, vừa là anh, vừa là em, vừa là chúng ta nữa. Ôi hai tiếng ‘’mình ơi’’ sao
mà ngọt như đường cát, mát như đường phèn, thấm tới tận lục phủ ngũ tạng, làm chết lịm cả con tim.
Ôi, mình ơi! Thế nhưng, đời không như là mơ. Sau cái phút gặp em tinh tú quay cuồng, ‘’sau cái’’ thuở
ban đầu lưu luyến ấy, sau cái cảm giác ngọt lịm của hai tiếng ‘’mình ơi’’ và bốn mắt liếc nhìn nhau, thì
khởi sự cho những ngược đời và nghịch lý, những nhiều kê và rắc rối. Evà không còn bằng lòng với thân
phận của mẩu xương sường nữa, mà muốn nhảy phóc vào lồng ngực Adong, chiếm lãnh vị trí con tim,
đòi Adong phải yêu thương và chiều chuộng. Rồi thừa thắng xông lên, tiến thẳng tới đầu và xơi ngay vai
trò óc não, muốn chỉ huy cả Adong nữa.

Chính vì thế, dân Tây ban nha, một dân tộc rất mê đấu bò, cũng đã phải kêu lên :

- Đờn bà là tai họa khủng khiếp nhất trong tất cả những tai họa của loài người.

Tai họa đầu tiên đó là đờn bà đã cám dỗ đờn ông.


Thực vậy, nước làm hư rượu, xe bò làm hư đường lộ thế nào thì đờn bà cũng làm hư đờn ông như rứa.
Đúng thế, đờn bà vốn nổi tiếng về cái thói ăn vặt như tục ngữ đã diễn tả

- Đi chợ mất tám tiền quà,

Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Cái thói ngốn hàng này đã thấm sâu vào máu huyết và trở thành nghề ruột của các nường. Thậm chí các
em nữ sinh mắt nai ngơ ngác, thế mà trong chiếc cặp sách dễ thương cũng đã tích lũy bao nhiêu thứ
lỉnh kỉnh có thể xơi được : nào ổi, nào cóc, nào xoài, nào tầm duộc, nào xí muội…

Chính vì thế, ngay từ lời dụ khị đầu tiên của con rắn, Eva đã nuốt phăng ngay trái cấm. Rồi sau đó, Eva
đã năn nỉ ỉ ôi Adong :

- Thôi mờ, ăn đi mờ…

Với lời lẽ nhỏng nhẻo mầm duyên như thế, Adong làm sao có thể chối từ. Adong đưa mắt nhìn, nuốt
nước bọt và xơi liền tù tì, ăn ngấu ăn nghiến, đến nỗi mắc nghẹn nơi cổ, làm thành một cục, còn tồn tại
cho đến ngày hôm nay ở bất cứ anh chàng đờn ông con trai nào.

Ghiền ngẫm về sự việc này, ông thánh Âu cu tinh đã phát biểu một câu xanh dờn :

- Đờn bà chính là thủ phạm làm tăng thêm tội lỗi cho loài người.

Kinh nghiệm trên không ngừng lặp đi lặp lại trong dòng lịch sử. Vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỉ bỏ bê
triều chính, ăn chơi trác táng, sau bị Thành thang cướp mất ngai vàng. Vua Trụ vì nghe theo nàng Đắc Kỷ
giết hại trung thần, lòng dân oán thán, cuối cùng sự nghiệp cũng bị tan tành theo mây khói. Ngô phù Sai
yêu quí nàng Tây Thi. Cô nàng bé bỏng này có chứng đau bụng. Mỗi lần đau bụng thì lại nhăn mặt. Và
mỗi lần nhăn mặt thì lại đẹp quỉ khóc thần sầu, khiến cho Ngô Phù Sai cứ mê mẩn cả tâm thần.

Tương truyền rằng : Ngô Phù Sai đã ra lệnh ai làm cho Tây Thi cười thì sẽ được trọng thưởng. Nghe theo
lời hiến kế của bọn quân sư quạt mo, ông đã cho xé hết lụa trong kho vì nghĩ rằng khi nghe tiếng lụa xé,
nàng xẽ cười mím chi, thế nhưng nét mặt Tây Thi vẫn buồn rười rượi. Sau cùng ông cho đốt lửa trên Cô
Tô đài để khẩn báo cho các chư hầu biết kinh thành đang nguy khốn, nên phải vội đem quân về tiếp
cứu. Nhưng khi về đến nơi thì mới chưng hủng, chẳng thấy địch đâu cả, mà chỉ thấy Ngô Phù Sai đang
cũng cụng li mí Tây Thi. Trước thái độ chưng hủng ấy, Tây Thi đã phát cười như nắc nẻ. Nhưng rồi khi
địch quân vây hãm thực sự, dù lửa báo động đã nổi lên, thì cũng chẳng ma nào đến tiếp cứu, khiến Ngô
Phù Sai phải thua chạy.

Từ những bằng chứng cụ thể ấy thiên hạ đã kết luận :

- Vua nghe vợ mất nước.

Một chính trị gia mà lem nhem, gây nên sì căng đen với đờn bà con gái, thì chỉ có nước thân bại danh
liệt mà chớ. Bình thường chúng ta thường gọi đờn ông là phái mạnh đờn bà là phái yếu. Thế nhưng nếu
đem ra cân đo, đong đếm, chưa chắc đờn ông đã ăn được đờn bà và phái nam chưa chắc đã xơi tái
được phái nữ.

Thực vậy, đờn ông phải thức trắng một vài đêm, thì tứ chi liền bải hoải, ngồi đâu ngáp đấy. Trong khi
đó, làm sao có thể kể hết những giấc ngủ đứt đoạn và những đêm thức trắng của các bà mẹ để chăm
sóc cho đứa con của mình.

Xét về góc cạnh bền bỉ, dẻo dai để chịu đựng, thì đờn bà hơn hẳn đờn ông. Vì thế, đờn bà con gái
thường sống thọ hơn đờn ông con trai. Nói cách khác, các ông thường ngỏm sớm hơn các bà. Sự kiện
này để lại một hậu quả trầm trọng, đó là số đờn bà góa chồng đông hơn số đờn ông góa vợ bội phần.

Chẳng biết có ai đã lưu tâm tìm cách giải quyết vấn đề xã hội này chưa ? Bình thường đờn bà con gái
vốn dịu hiền và tế nhị, thế nhưng hãy đợi đấy. Nói vậy mà hỏng phải vậy đâu. Con mèo tuy hiền thật,
nhưng khi cần nó chỉ cào cho một phát, là đã toạc da và vãi máu, vì móng của nó rất nhọn và răng của
nó rất sắc.

Đờn bà con gái một khi đã nổi máu tam bành, thì hiền cũng hóa dữ. Gã đã từng chứng kiến những cô em
bé bỏng tựa nai vàng ngơ ngác, dịu hiền như… ni cô, hỏng dám như ma xơ đâu, thế mà khi cơn giận
bừng bừng bốc lên, tẩu hỏa nhập ma, cũng lồng lộn như bò điên nước Ăng lê, cũng xỉa xói như con choi
choi, cũng chửi rủa có bài có bổn như mấy cô đào cải lương ca sáu câu vọng cổ có mùi.

Gã xin đưa ra một vài nạn nhân của quí bà chằng lửa.
Trước hết là Socrate. Ông là một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp, một bậc thầy trong thiên hạ, nhưng oái
oăm thay, ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà khinh bỉ ông là thứ trói gà không chặt. Ngày kia, ông
định ra phố, thì liền bị bà tặng cho một chậu nước dơ vào mình sau cơn giận lôi đình. Thế nhưng, ông
vẫn bình tĩnh nói :

- Có sấm có sét, ắt trời phải đổ mưa.

Ngán ngẩm trước mụ vợ đanh đá, ông đã phát biểu một cách chua chát :

- Trời đất sinh ra biết bao thú dữ, những đờn bà mới thật là con thú dữ đáng sợ nhất.

Đó là chuyện bên tây, còn chuyện bên đông thì kể lại :Thi hào Tô đông Pha có một người bạn tên là Trần
quí Thường. Quí Thường có người vợ hay ghen tức và hung dữ. Mỗi lần Tô đông Pha đến chơi, thì đều
được nghe những tiếng chửi bới la hét ầm ĩ. Thấy vậy, họ Tô bèn làm thơ chế diễu như sau:

- Hốt văn Hà đông sư tử rống

Trụ trượng lạc thủ tâm mang mang.

Có nghĩa là :

- Bỗng nghe sư tử Hà đông rống

Tay run gậy rớt lòng kinh hãi.

Từ đó, bốn chữ “sư tử Hà đông” thường được dùng để chỉ người vợ có tính tình hung dữ. Tuy nhiên, Hà
đông ở đây là Hà đông bên Tàu, chứ không phải là Hà đông bên Ta. Vì thế quí bà quí cô gốc Hà đông,
đừng vội lòng động lòng lo mà sinh ra buồn bã. Bình thường thì tề gia nội trợ và giáo dục con cái vốn là
lãnh vực riêng của đờn bà con gái. Vì thế, thiên hạ thường phong cho quí bà quí cô làm ‘’nội tướng’’. Và
nhiều khi uy quyền của vị ‘’nội tướng’’ thật là ghê gớm, khiến cho mấy ông chồng thuộc nòi râu quặp
phải nín khe :

- Làm trai rửa bát quét nhà,


Vợ gọi thì dạ, bẩm bà… em đây.

Gã đã thấy có những ông giám đốc hay những viên chức cấp nhớn, đến công sở thì hét ra lửa, nhưng khi
về nhà, thì lại miềm nhũn như con chi chi, phục vụ và vâng lời bà xã hết mình.

Vì thế tục ngữ đã bảo :

- Lệnh ông không bằng cồng bà.

Lợi dụng điểm yếu này, dân bắt mánh áp phe thường đi của hậu, nghĩa là đút lót, lấy lòng quan bà
trước, rồi mới nhờ quan bà ton hót, tấu với quan ông, thì việc khó đến đâu cũng xong cả. Được đằng
chân lân đằng đầu. Từ vai trò người nội trợ, làm bạn đường cùng đi, đờn bà con gái xông tới, nắm
quyền chỉ huy. Lúc bấy giờ quả thực là nguy to như một cơn ác mộng, vì họ cai trị theo tình cảm và lệnh
truyền đổi thay như chong chóng. Thực vậy, trên đời không có gì hay thay đổi cho bằng thời tiết và đờn
bà con gái. Có lẽ do sự nể nang và nhượng bộ của Adong thuở ban đầu, mà nhân loại đã trải qua một
thời gian sống dưới chế độ mẫu hệ, trong đó người mẹ nắm giữ vai trò điều khiển gia đình và xã hội.

Thật là tội nghiệp cho thân phận đờn ông con trai lúc bấy giờ :

- Ba đồng một chục đờn ông,

Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.

Ngày nay với phong trào giải phóng đờn bà, nam nữ bình quyền, quí bà quí cô đang hăng hái xông xáo
tiến ra ngoài xã hội, chiếm giữ những lãnh vực mà từ xưa cho đến rày, vốn là của phe đờn ông con trai.
Và họ đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Có những bà những cô đã làm tới thủ tướng và bộ
trưởng, giám đốc và chuyên viên. Cung cách điều khiển của họ cũng cứng không kém gì phe đờn ông
con trai, chẳng hạn như bà đầm già Thatcher, cựu thủ tướng nước Ăng lê, vốn được mệnh danh là bàn
tay sắt bọc nhung. Đờn bà con gái chiếm được uy quyền không phải chỉ bởi tài năng, mà còn bởi nhiều
thứ vũ khí khác nữa, chẳng hạn như sắc đẹp, như nước mắt, như nụ cười…

Vì thế người Đức đã nói :

- Chỉ một sợi tóc của người đờn bà cũng giật mạnh hơn cả giây chuông.
Còn dân Nhật thì bảo :

- Chỉ với một sợi tóc, người đờn bà có thế trói được cả… voi.

Chuyện đời còn bất công hơn nữa. Người đờn ông chắt chiu học hành mới ẵm được cái bằng bác sĩ, đấu
tranh vào tủ ra khám bao nhiêu năm mới leo lên được cái ghế bộ trưởng. Trong khi đó người đờn bà chỉ
cần gật đầu hay ừ một phát, bằng lòng lấy anh ta, thì liền khều được cả con người lẫn chức vị của anh
ta, nghiễm nhhiên trở hành bà bác sĩ, bà bộ trưởng, mà chẳng cần tốn một giọt mà hôi. Đờn bà là một
phản ứng cộng, một chiếc tàu há mồm, khả dĩ vơ vét về cho mình đủ mọi thứ.

Xem ra gã khen thì ít mà chê thì thật nhiều, chỉ biết kê tủ đứng, kể tội đờn bà con gái. Cứ điệu này, lỡ
thò mặt ra đường, ắt sẽ bị quí bà quí cô cho ăn trứng thối mất thôi. Cho đến bây giờ, đờn bà con gái vẫn
là một màu nhiệm, một vấn đề lớn. Để diễn tả về sự ngược đời và nghịch lý của đờn bà con gái, hình
như một ông nhà văn Ấn độ đã bảo:

- Khi tạo dựng đờn bà con gái, Thượng đế đã trộn lẫn những vật thể đối kháng vào với nhau. Chẳng hạn
Ngài lấy một chút gió mát mùa thu với một chút nắng chói chang mùa hạ, một chút ngọt của mật ong
với một chút đắng của bồ hòn, một chút cay của ớt với một chút chua của chanh, một chút hiền hòa của
chim bồ câu và một chút hung dữ của sư tử, một chút khôn ngoan của con rắn và một chút ngốc nghếch
của con bò… Tất cả được Ngài hòa lẫn với nhau và tạo nên người đờn bà đầu tiên.

Cách đây không lâu, gã lượm được một bài thơ nói về người vợ, đại khái như thế này :

-Vợ là tình cảm sâu xa,

Vợ là gió mát, vợ là bão dông.

Vợ như một đóa hoa hồng,

Vợ là sự tử Hà đông kinh người.

Vợ là êm ái tuyệt vời,

Vợ là bão táp rụng rời chân tay.

Vợ là một chất men say

Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.


Có người nhờ vợ nên ông,

Có người vì vợ mất không cơ đồ.

Và tác giả kết luận :

-Tốt số lấy được vợ hiền,

Vô duyên vớ phải bà khùng bà điên.

Đờn bà con gái mãi mãi ngược đời như thế đó, nhưng thử hỏi :

- Nếu không có họ thì đời còn gì là đời nữa…

Phải, nếu không có họ, thì lũ đờn ông con trai lại lầm lũi cu ki một mình, như những ‘’con sâu làm tổ,
trong trái vả cô đơn”. Cho nên, đờn ông Pháp, vốn dư chất ‘’ga lăng’’ trong máu, đã phát biểu :

- Nhà không có đờn bà như xác không hồn, như đờn không giây.

Chả hiểu quí bà quí cô đã bằng lòng và sẵng sàng ban cho gã một nụ cười… ruồi chưa đấy ?
HƯ - CHUYỆN PHIẾM CỦA GÃ SIÊU

Theo những nhận định về nam châm, gã được biết :

- Khác cực thi hút nhau, đồng cực thì đẩy nhau. Âm với dương thì hút nhau và ngược lại cũng vậy. Còn
dương với dương thì đẩy nhau và ngược lại cũng thế.

Trong lãnh vực con người, gã thấy chẳng khác bao nhiêu :

- Nam với nam thì nhiều khi đánh nhau phun cả máu đầu. Còn nam với nữ thì lôi cuốn lẫn nhau, quyện
lẫn vào nhau, như tục ngữ đã diễn tả :

- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.

Tuy nhiên, khi phe đờn bà con gái ngồi lại với nhau, thì thường hay nói xấu và dí mũi vào cánh đờn ông
con trai. Và cánh đờn ông con trai, khi trà dư tửu hậu, cũng thường hay bới móc và…chõ mõm vào
chuyện đờn bà con gái.

Trong một tiệc nhậu lai rai, khi các…”chiến hữu” bắt đầu tửu nhập ngôn xuất, một đấng mày râu đã lớn
tiếng so sánh :

- Nếu so sánh con gái với con nai, ta thấy có những điểm khác nhau như sau :

Một là nai luôn ngơ ngác suốt cả đời, còn con gái thì chỉ ngơ ngác mỗi khi cần ngơ ngác.

Hai là nai không bao giờ giả nai cả, còn con gái thì nhiều lúc lại thích giả nai.

Ba là nai có sừng trên đầu, còn con gái thì có sừng trong ánh mắt.

Bốn là nai luôn ăn cỏ, còn con gái thì đôi lúc lại ăn cả thịt nai.

Năm là khi gặp tai nạn, nai biến thành khô nai, còn con gái thì biến thành…mít ướt.

Sáu là nai nhảy tưng tưng trong rừng, còn con gái thì nhảy tưng tưng trong…shop.

Một đấng tu mi khác đã so sanh sự giống nhau giữa đờn bà và con cọp như sau :

- Một là cọp thì gầm, đờn bà nhiều lúc cũng gầm.


Hai là cọp thì uyển chuyền, đờn bà đôi khi cũng uyển chuyển.

Ba là cọp thì được gọi bằng ông ba mươi, còn đờn bà lắm khi được gọi là…sư tử Hà Đông.

Bốn là cọp rất oai phong, còn đờn bà cũng rất lẫm liệt, chẳng thế mà người xưa đã bảo : nhất vợ nhì
giời, lệnh ông không bằng cồng bà.

Năm là cọp rất quan tâm tới móng vuốt, còn đờn bà cũng rất quan tâm tới móng chân móng tay.

Sáu là cọp nổi tiếng về da, đờn bà cũng chăm chút về làn da cùng với áo quần của mình.

Bảy là cọp đôi khi chỉ vồ chứ không ăn, đờn bà đôi khi chỉ yêu mà không lấy.

(Báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 8 ra ngày 4.3.2007)

Giữa lúc bầu khí đang hồ hởi, thì bỗng anh chàng chiến hữu, sắp sửa đi vào tình trạng ngắc ngư con tàu
đi, đã phát biểu một câu …xanh lè, khiến cho bàn dân thiên hạ ngẩn tò te :

- Còn tớ ấy hả, tớ vừa mới khám phá ra một chân lý, mới nghiệm một qui luật của muôn đời, đó là : Đờn
ông, muốn hư thì phải có tiền, còn đờn bà, muốn có tiền thì phải…hư.

Câu nói trên đây đã làm cho gã đi từ chỗ ngẩn tò te, đến chỗ cúi đầu và suy gẫm.

Dĩ nhiên, câu nói này không hoàn toàn đúng “một chăm phần chăm đâu em ơi”, bởi vì nhiều ông có tiền,
được liệt vào hàng đại gia, giàu nứt đố đổ vách mà đâu có hư, đồng thời cũng có nhiều bà đã kiếm được
tiền bằng chính công sức, mô hôi, nước mắt của mình và họ cũng chẳng bao giờ hư đốn cả.

Tuy nhiên, câu nói trên cũng phản ảnh phần nào sự thật, nhất là sự thật về một hạng người nào đó
trong xã hội Việt Nam ngày hôm nay. Gã xin…bình loạn thêm về câu nói này.

TRƯỚC HẾT, ĐỜN ÔNG MUỐN HƯ, THÌ PHẢI CÓ TIỀN.

Kinh nghiệm cho gã thấy : khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, người ta dễ dàng đạo đức ăn ra, trái lại khi
khó khăn đã qua đi và hoàn cảnh trở nên tươi sáng hơn, người ta trở về nếp sống cũ và lại khô khan
nguội lạnh, nếu không muốn nói là còn xấu xa hơn trước nữa.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đờn ông con giai thì sợ phải đi tù và học tập cải tạo, còn đờn bà con gái
thì sợ phải đi lấy thương phế binh…”Viêt Cộng”, thành thử người ta vội vã tới nhà thờ xưng tội rước lễ,
như để dọn mình chết lành vậy, nhà thờ lúc nào cũng đầy ắp những người.

Sau đó, những sinh hoạt tôn giáo trong nước bị hạn chế tới múc tối đa : không còn các hội đoàn, không
còn các chủng viện, việc đi lại của các linh mục tu sĩ từ nơi này tới nơi khác cũng khó khăn…Tuy nhiên,
càng bị hạn chế, càng gặp nhiều khó khăn, thì dường như người ta lại càng sốt sắng hơn.

Còn bây giờ, chính sách của nhà nước phần nào thông thoáng và hoàn cảnh cũng sáng sủa hơn, người ta
lao mình vào công ăn việc làm, người ta ra sức tìm tiền kiếm bạc và dầu tư mọi công sức cho vấn đề
cơm áo gạo tiền và làm giàu đã trở thành nỗi ưu tư số một, hay cái lý tưởng sáng chói cần phải thực
hiện. Tôn giáo và đạo đức bị tụt hạng, nếu không nói là đã bị một sô người…xếp xó.

Nước Mỹ, ngay sau biến cố 11.9 với tòa tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế bị sụp đổ tan
tành, thì dường như chỗ nào cũng dấy lên một phong trào đạo đức : người ta thắp nến để cầu nguyện,
người ta xác nhận lại niềm tin vào Thượng Đế, người ta tôn vinh những hành động can đảm của những
người đã dám hy sinh mạng sống…Nhưng rồi những cảm tình đạo đức này dần dần bị chìm vào quên
lãng, khi người ta thấy mình vẫn được sống trong bình an, đất nước mình vẫn liên tục phát triển và bọn
khủng bố chưa dám tái xuất giang hồ, sờ đến gáy hay đá động tới quê hương mình.

Biến cố đau thương này, không phải chỉ là như viên sỏi nhỏ, nhưng là như một tảng đá lớn ném xuống
mặt hồ, tạo được những chao đảo, những làn sóng trên làn nước vốn đã từ lâu êm ả. Tuy nhiên, dù
sóng có to, thì cũng sẽ tới một lúc nào đó, tảng đá chìm xuống đáy nước và mặt hồ trở lại với tình trạng
phẳng lặng và yên tĩnh của mình.

Cùng với nhận định này, gã xin đi xuống lãnh vực cá nhân và gia đình. Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại rằng :

Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm nhà vua đến ăn tiệc tại nhà Án Tử, thấy
vợ Án Tử bèn hỏi :

- Phu nhân đấy phải không ?

Án Tử thưa :

- Vâng, phải ạ.

Nhà vua nói :

- Ôi, phu nhân trông sao vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có đứa con gái trẻ đẹp muốn cho về hầu, khanh
nghĩ sao ?

Án Tử đứng dậy thưa rằng :

- Nội tử tôi nay thật già và xấu, nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay
đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường
nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn chắc cũng không nỡ để
cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đã nhờ cậy bấy lâu nay.

Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.


Đọc xong mẩu chuyện này, hẳn có nhiều người cho rằng : Án Tử sao mà khờ quá vậy, chẳng bù cho
những con người thời nay.

Thực vậy, có anh chàng “Hai Lúa” được cha mẹ cho lên Saigon…du học. Trước khi khăn gói quả mướp
lên đường, anh ta đã thề độc thề địa với người yêu bé bỏng của mình rằng :

- Nếu không lấy được em thì anh sẽ chết. Em ráng chờ đợi anh nhé.

Và trong đầu óc đơn sơ của anh chàng Hai Lúa này đã vẽ nên một cảnh tương huy hoàng như người xưa
đã diễn tả :

- Võng anh đi trước, võng nàng theo sau.

Nhưng rồi sau khi đã khều được mảnh bằng, anh chàng Hai Lúa năm nào đã trở thành dân Saigon chính
hiệu con nai vàng. Vì cần phải có hộ khẩu ở thành phố, vì cần phải có ô dù che chắn trước sau, vì cần
phải mở ra con đường tiến thân, vì cần phải bảo đảm cho công danh sự nghiệp…nên anh ta đã lấy một
cô vợ mà nhà thì giàu, bố thì thế lực và quên béng mất cô gái miền quê năm xửa năm xưa. Thật đúng
với lời bàn của tác giả Cổ Học Tinh Hoa :

“Ngán thay thói đời giàu hay quên bạn, sang hay phụ vợ. Lắm kẻ lúc còn hàn vi, vợ nuôi cho ăn đi học,
một mai được chút tiền của, chức tước, đã phụ ngay vợ cũ mà kiếm vợ mới, hoặc kiếm vào chỗ giàu,
chỗ sang hay người trẻ tuổi xinh đẹp hơn. Nhưng kẻ như thế dù viện lẽ gì, cũng chỉ là kẻ phụ bạc cả mà
thôi”.

Nhiều ông chồng, khi còn là “bần cố nông”, khi còn nghèo túng, khố rách áo ôm, thì lại sống rất chung
thủy và hạnh phúc với vợ với con, thiếu điều như ca dao đã từng diễn tả :

- Trên đồng cạn dưới đồng sâu,

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

- Râu tôm nấu với ruột bầu,

Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.

Thế nhưng, khi đã có một địa vị với cái ghế ngồi khá vững chắc và nhất là khi đã có sẵn tiền trong tay,
thì bỗng quay phắt 180 độ và bị…hư đi. Dĩ nhiên ở đây gã xin miễn bàn đến chuyện kiếm cho ra nhiều
tiền, chẳng hạn như : làm ăn chân chỉ hạt bột, điêu ngoa xảo trá hay tham nhũng hối lộ…mà chỉ bàn tới
việc tiêu tiền thế nào khiến cho mình chóng bị hư đi.

Nếu kiếm được tiền mang về nuôi vợ nuôi con, trang bị cho gia đình những tiện nghi thì chả cần phải
nói. Nhưng đàng này thì khác, kiếm được tiền và chi cho những cuộc du hí riêng tư của mình, để rồi
nhiều khi thân bại danh liệt và gia đình đổ vỡ tan hoang.
Kinh nghiệm cũng cho thấy : có tiền, người ta sẽ dễ dàng “rửng mỡ”, mà lao mình vào những cuộc chơi
bời trác táng. Hay nói cách khác, muốn chơi bời thỏa thích thì phải có sẵn tiền trong túi.

Bình thường, sau một ngày lao động mệt mỏi hay căng thẳng, khi chiều xuông, bè bạn thường rủ nhau
tới quán nhậu, làm một chầu để mở mang trí hóa, cũng như giải bớt cơn sầu. Chẳng thế mà các tụ điểm
ăn nhậu, các nhà hàng cao cấp, các làng nướng cũng như các phố…chó, mọc lên như nấm ở Saigon và ở
khắp nơi trên đất nước này,. Còn thức uống thì đủ loại từ rượu ta đến rượu tây, từ nước ngọt đến bia
bọt, với các thứ nhãn hiệu trình tòa, từ đẳng cấp địa phương cho tới đảng cấp quốc tế, thôi thì…đủ cả.

Tuy nhiên, nếu chỉ nhậu tăng một, thì dù có say một tí, cũng vẫn là chuyện thường ngày ở huyện. Thế
nhưng, người ta lại tiếp tục tăng hai và ở tăng hai này, người ta nhậu ở đâu và nhậu như thế nào thì chỉ
có ông trời mới biết được mà thôi. Cũng vì tăng hai ấy mà người ta phải chi ra không biết bao nhiêu tiền
và cũng dễ bị hư đi.

Ngoài những người đã hư đi vì chuyện ăn uống, thì trong thực tế, còn có người hư đi vì chuyện hút sách.
Khẩu hiệu được họ đưa ra, đó là :

- Có tiền làm tiên cũng được.

Nếu chỉ bắn thuốc lào, hay hút thuốc lá, thì vẫn là những chuyện thường ngày ở huyện, nhưng đàng này
họ lại thích chơi những thứ hàng độc, như bạch phiến, xì ke ma túy… Họ muốn làm bạn với nàng tiên
nâu và bản thân muốn được trở thành một…ông tiên, đi mây về gió. Giấc mơ phù du này đòi phải chi
những số tiền lớn và cũng chóng kết thúc bằng sự hư đi.

Sau cùng, có tiền mua tiên cũng được. Một số người lại thích cầm tiền đi mua những…cô tiên qua
những cuộc tình thầm lén và vụng trộm, những cuộc tình chớp nhoáng và…ngoài luồng, bằng cách chơi
bời trác táng hay đèo bòng bồ nhí.

Có những ông gìa đang bước vào cảnh hoàng hôn của cuộc đời, thế mà vẫn cứ anh dũng bỏ vợ trốn con,
bỏ tiền ra xây tổ ấm và trang bị những tiện nghi hiện đại cho cô bồ nhí trẻ măng của mình, để rồi nhiều
lúc đã phải chịu nỗi đắng cay như ngậm bồ hòn trong miệng :

- Bắc thang lên hỏi ông trời,

Mang tiền cho gái, có đòi được không ?

Có những ông ở nước ngoài về, đã lợi dụng cái “mác” việt kiều, cũng như cái ưu thế của đồng đô la, để
rồi chơi bời vung vít và mua đứt không những một, mà có khi cả hai ba cô gái trong nước làm vợ…hờ.
Vừa đỡ tốn kém, vừa được cưng chiều, lại vừa bảo đảm an toàn giữa thời buổi căn bệnh HIV bùng nổ
như một cơn ác mộng.

Từ những sự việc kể trên, gã có thể kết luận : Đờn ông muốn hư thì phải có tiền. Chứ nghèo rớt mồng
tơi thì làm sao dám bước chân vào những nhà hàng cao cấp, những chốn chơi bời du hí và dù có nằm
mơ thì cũng chẳng thấy được những người đẹp…chân dài.
TIẾP ĐẾN, ĐỜN BÀ MUỐN CÓ TIỀN, THÌ PHẢI HƯ.

Sống trên đời, ai mà chẳng muốn có được nhiều tiền. Nhưng để thực hiện ước muốn…hoành tráng này,
nhiều người đã cố gắng phấn đấu để vươn lên. Và họ trở thành những người tốt lành, cũng như đã giúp
ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, cũng có những kẻ đã rơi tõm xuống vực thẳm tội lỗi và đã hư đi. Ở đây, gã chỉ xin bàn đến
phe đờn bà con gái đã hư đi vì muốn có nhiều tiền một cách dễ dàng mà thôi. Gã xin tạm chia thành hai
loại.

Loại thứ nhất là vì hoàn cảnh.

Họ có thể là những cô gái nông thôn, muốn thoát khỏi cảnh nghèo túng của miền quê bằng cách lên
thành phố tìm việc làm, vừa để đổi đời, vừa để kiếm tiền giúp đỡ gia đình, nhưng rồi bị lừa gạt. Lúc đầu
chỉ là phụ giúp bán cà phê, rồi bị ép bán cà phê ôm và sau cùng là bán tất cả cái vốn mình tự có.

Họ có thể là những sinh viên nghèo, nhưng lại muốn theo đuổi việc học, vì thế ngoài những giờ đến
trường hay lên lớp, họ phải tìm việc làm để kiếm thêm chút tiền còm, bù lỗ cho những chi phí của mình.

Những việc làm thêm này, chẳng hạn như dạy kèm cho trẻ, bán hàng tại cửa tiệm, rửa chén bát cho các
nhà hàng…lắm lúc thật vất vả mà lương bổng, thù lao lại chẳng bao nhiêu.

Vì thế, có những cô đã vào làm trong quán cà phê đèn mờ, những vũ trường hay cam phận với kiếp sống
tầm gửi, làm vợ hờ, làm bồ nhi…Sở dĩ như vậy, vì những dịch vụ này thu nhập vừa cao, lại vừa nhàn hạ.
Và rồi từ đó bị trượt chân, như viên bi lăn mãi lăn hoài cho tới tận cùng con dốc mới thôi. Gã xin đưa ra
một vài chứng từ sống động cho vấn đề này.

Để có tiền trang trải cho chuyện ăn, chuyện ở và chuyện học, Hằng quyết định làm thêm công việc tiếp
thị bia vào ban đêm tại một quán nhậu. Vơi thân hình khá bắt mắt của một cô gái đương thì, cộng với
tính tình nhanh nhẹn vui vẻ, Hằng nhanh chóng được lòng rất nhiều anh lẫn…”ông” nhậu lui tới quán.

Trong số những khách hàng thường xuyên uống bia ủng hộ cô, có Khánh, một dược sĩ 32 tuổi, chủ nhân
tiệm thuốc tây tọa lạc gần nơi Hằng tiếp thị bán bia mỗi đêm. Sau vài lần gặp gỡ, trò chuyện, Hằng bằng
lòng cho chàng dược sĩ này đưa đón, đi ăn uống và về nhà trọ khi hết giờ làm việc ở quán nhậu.

Chỉ sau một tháng đưa đón, Hằng đã sẵn sàng ngã vào vòng tay của chàng dược sĩ, mà cô nghĩ có thể
bao bọc được cho mình trong những tháng ngày ăn học khó khăn. Đúng như Hằng nghĩ, để tiện bề lui
tới, Khánh thuê hẳn cho Hằng một căn nhà nhỏ trong hẻm…

Tuy nhiên, sự cung phụng của Khánh dành cho Hằng chỉ được một năm thì người thứ ba xuất hiện. Đó là
một ông nhà thầu xây dựng, cũng là bạn nhậu của Khánh. Ông nhà thầu 42 tuổi này đã có vợ con đề
huề. Sau vài lần gặp Hằng, ông đâm ra “kết” cô.

Sau đó không lâu, đã diễn ra một thỏa thuận rành mạch giữa ba người : Ông nhà thầu bỏ tiền ra cho
Hằng mướn nhà trọ và ăn học. Anh chàng dược sĩ cung phụng cho cô mua sắm. Phần cô sinh viên Hằng
tự chia lịch : 2-4-6 dành “tiếp ông thầu”, còn 3-7-5 thì” đi chơi” cùng anh dược sĩ. Chủ nhật là ngày cô
được tự do…(Báo Phụ nữ Chủ nhật, số 7 ra ngày 19.2.2006).

Loại thứ hai là vì đua đòi

Có những cô gái, đua đòi cách ăn chơi của bè bạn, chạy theo những mốt áo quần hàng hiệu, theo kiểu
bóc ngắn cắn dài, vung tay quá trán, con nhà lính tính nhà quan…vì thiếu tiền chi ra, nên sẵn sàng chấp
nhận thân phận làm bồ nhí, làm gái bao…

Thanh xuất thân trong một gia đình khá giả. Thi đậu đại học. Bất chấp lời khuyên của những người thân,
Thanh dọn ra ở riêng trong một căn phòng cho thuê khá tiện nghi. Không có sự kiểm soát của người
thân, Thanh tự do bay nhảy, đàn đúm.

Để có tiền ăn chơi, thanh không ngần ngại cặp bồ với nhiều người đàn ông lớn tuổi nhưng có tiền. Trong
số các “đại gia” ấy, Thanh chọn ông Phát đã có vợ con, nhưng lại là ông chủ cửa hàng kinh doanh xe gắn
máy làm “bến đậu lâu dài” vì mọi chi phí thuê nhà, sắm sửa đều được ông Phát chu cấp hậu hĩ. (Báo
Phụ nữ Chủ nhật, số 7, ra ngày 19.2.2006).

Có những cô gái khác vì cám dỗ của đồng tiền, hay vì một cuộc sống buông thả, sẵn sàng đánh đổi cả
thân xác và không ngần ngại kinh doanh bằng cái vốn tự có, bằng cái vẻ tươi mát trời cho.

Lúc ban đầu, có thể chỉ lâu mới nhảy dù, tiếp khách một lần để có phương tiện tiếp tục nếp sống chơi
bời quậy phá của mình. Nhưng rồi thấy việc kiếm tiền bằng phương cách này quá dễ dàng, nên bỗng trở
thành chuyên nghiệp lúc nào không hay.

Và khi hàng đã quá đát, thì chỉ còn nước đứng ra ngoài vỉa hè và trở thành một loại bướm đêm, mà
thiên hạ vốn thường thấy bay lượn dọc theo những quãng đường vắng hay tại những công viên, khi
thành phố đã lên đèn.

Và cuối cùng, đờn ông cũng như đờn bà, tất cả đều phải cúi đầu lãnh nhận một kết thúc đáng buồn !!!
chuyện phiếm gã Siêu (Vì tôi là linh mục)
VÌ TÔI LÀ LINH MỤC

Đối với người Việt nam, đề tài linh mục cho đến bây giờ vẫn còn là một đề tài lạ lẫm, bởi đó thỉnh thoảng
nó lại được lôi lên sân khấu, nhét vào phim ảnh hay được những ngòi bút đá động tới, mỗi lần như thế
thì thường gây nên nhiều ấn tượng, nhiều chú ý và nhiều ồn ào.

Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước giải phóng, Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu thuyết mang
tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà vĩnh Duy (?), một linh
mục nhạc sĩ.

Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc bấy giờ thiên hạ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Vào thời
điểm ấy, gã đang dạy Việt văn tại một trường trung học hẻo lánh vùng Thất sơn khỉ ho cò gáy. Các em
nhỏ học sinh, nhất là phe kẹp tóc, đa số là người Phật giáo, thậm chí còn có cả đôi ba cậu sư Miên, đến
tuổi thì vào ở chùa theo tục lệ, rồi sau đó mới được thả về nhà lấy vợ…thế mà cũng nhao nhao đòi
thuyết trình và hội thảo về tác phẩm này.

Hình như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng được ra lò và chiềng làng.

Bài hát này đã gây được một âm vang khá lớn, thậm chí những lúc buồn tình, các cô gái ngây thơ cũng
chu mỏ và ngay cả các “ma xơ” cũng mở miệng nghêu ngao :

- Vì tôi là linh mục,


Không mặc chiếc áo dòng,
Nên chi đời đau khổ,
Nên trót đời lang thang…

Hẳn đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại trót yêu một tín đồ duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc áo
chùng thâm mà đi bụi đời ?

Sau giải phóng, hễ nghe có cuốn chuyện nào viết về linh mục, gã cũng vội vã đi mua hay đi mượn mang
về coi cọp, chẳng hạn như Bão biển của Chu văn, Người mục tử trong sương mù…

Lúc đầu thì đọc ngấu đọc nghiến vì tò mò, nhưng chỉ được dăm bảy trang thì bèn giở quẻ ngáp dài ngáp
vắn, ngáp lên ngáp xuống, ngán đến tận cần cổ, đành phải cố nhướng mắt mà nuốt cho hết thế mà nó
vẫn chẳng chịu trôi.

Bởi vì, ngay từ những trang đầu gã đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác và đã nhận ra ý đồ đen tối của
những tác giả trong luồng, đó là chụp lên đầu những vị linh mục tội nghiệp ấy cái mũ phản động hay cái
mũ đồi trụy.

Chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy, nên những cuốn chuyện này đã mau chóng bị chìm vào
quên lãng, chẳng cuốn hút được người đọc, thậm chí còn phản tác dụng, khiến thiên hạ lại càng thương
cho…mấy ông cha hơn.
Xét về nguyên do của việc tu trì, thiên hạ thối mồm thường bảo :
- Trốn việc quan đi ở nhà chùa…Chán đời, hay thất tình thì đi…tu, bởi vì tu là cõi phúc, tình là giây…
thung.

Và người ta đã khai thác chủ đề này, viết thành những tác phẩm nổi tiếng, chẳng hạn như “Hồn bướm
mơ tiên”, hay dàn dựng thành những vở kịch ăn khách, chẳng hạn như “Chuyện tình Lan và Điệp”

Gã chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này thương một cô nàng, nhưng đây chỉ là một tình yêu đơn
phương, có nghĩa rằng thì là anh chàng thì thương da thương diết, còn cô nàng thì lại lạnh lùng, ngoảnh
mặt làm ngơ, khiến cho lái tim của anh chàng cứ héo hắt và quay quắt.

Thế rồi, cô nàng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên với một thằng bạn cùng học chung “mí nhau” từ thuở còn
mặc quần thủng đũng. Lái tim anh chàng tan nát theo kiểu :
- Ngày nhà em pháo nổ,
Anh cuộn mình trong chăn,
Như con sâu làm tổ,
Trong trái vải cô đơn.

Anh chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn, lang thang như người cõi trên và miệng thì lảm nhảm theo
giai điệu của bài “Love story” :
- Ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá.
Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá…

Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn bị vỡ tung, anh chàng lặng lẽ khăn gói quả mướp, lê từng bước
chân âm thầm vào một nhà dòng và tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau, anh chàng được thụ
phong linh mục. Trong ngày mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và nói :
- Con ạ cha đi con.
Cha mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng đãng nhìn về chốn xa xôi…Bây giờ mỗi khi nhắc lại
chuyện xưa, vị linh mục này thường hay mỉm cười nói với bè bạn :
- Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc đầu xẻ mũi, thì có lẽ mình đã làm bố cụ, chứ đâu có thèm
làm cụ như anh em thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn một cây tầm thường. Quả là ý Ngài nhiệm màu
hết xảy.

Bên đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng phải là không có, nhưng xem ra rất họa hiếm vì chú nhóc
thường vào chủng viện hay nhà dòng từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm.Thế nhưng, ở cái thuở “thò lò mũi
xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu được ơn gọi là đí gì ?

Đơn giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy “cụ” được đi giày tây, ăn bánh tây và ở nhà tây. Ra ngoài
đường được cả và thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào :
- Con xin phép lạy cha ạ.

Đôi khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để sau này chúng được nhàn hạ và hạnh phúc, như lời phát
biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu nọ với cha phó kia trong một cuộc hội họp hàng tháng :
- Đi tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ đèo bồng ở ngoài đời như chúng con khổ lắm cha ạ.
Có chú nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm mong được mọi người gọi mình là “ông cố”, “bà cố”. Bởi cái
giấc mộng vàng ấy, khi thấy chú nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu, một ông “chuẩn cố” đã
thẳng thừng nói với “chú nhà tràng” như sau :
- Thà rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn là làm vương làm tướng ngoài thế gian, con ạ.

Những lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với năm tháng dần dần được đẽo gọt, được mài dũa, để rồi
kết tinh và cô đọng lại thành cái lý tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến xùi cả bọt mép đề cao vẻ
đẹp tuyệt vời của thiên chức linh mục, ít ai cả gan dám đề cập tới những thập giá của tước vị này, khiến
cho cha mới chỉ nhìn thấy bông hồng mà quên đi những gai nhọn của nó.

Với những lời ca ngợi và chúc tụng ấy, ngày mở tay được coi như là đỉnh vinh quang Taborê của cha
mới, không khéo thì cha mới cũng thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa :
- Lạy Thày, chúng con được ở đây thì thích lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thày, một cho
Maisen và một cho Elia.

Thế nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì qua mau, vinh quang Taborê chỉ kéo dài trong thoáng
chốc, để rồi tới lúc phải xuống núi và đối đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì nhiêu khê, lắm
nỗi truân chuyên và nhiều phen lao đao, xất bất xang bang…
Các bậc lão thành thường đề cập tới ảnh hưởng của linh mục đối với giáo dân như sau :
- Linh mục thánh thiện thì giáo dân đạo đức. Linh mục đạo đức thì giáo dân loàng xoàng. Linh mục loàng
xoàng thì giáo dân nguội lạnh. Linh mục nguội lạnh thì giáo dân xấu xa. Linh mục xấu xa thì giáo dân
biến thành… quỉ dữ.
Như thế, giáo dân bị đánh tụt một bậc so với linh mục. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi vì linh mục là sư phụ,
còn giáo dân là đệ tử về đàng thiêng liêng. Đệ tử làm sao hơn sư phụ. Linh mục là người hướng dẫn.
Nếu người hướng dẫn mà mù, thì như lời Chúa đã dạy :
- Mù dẫn mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.
Cùng với những ý tưởng trên, gã nhớ tới một bài giảng nhân ngày mở tay của một cha mới. Đại khái như
thế này :
“Hãy cột một chiếc nút để xe kết hai đầu giây, đó là linh mục, bởi vì linh mục xe kết con người với Thiên
Chúa. Hãy xây một cây cầu nối liền hai bờ bến xa cách, đó là linh mục bởi vì linh mục nối liền đất với trời.
Nói cách khác, linh mục là trung gian giữa nhân loại và Đấng Tối Cao.
“Vì vậy, một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, còn một bên linh mục phải nắm chặt
lấy bàn tay con người, để rồi đặt bàn tay con người vào lòng bàn tay của Thiên Chúa, cho tình yêu được
đâm bông kết trái và ơn tha thứ được trao ban. Chính cái thế tay trong tay này là điều chúng ta mong
mỏi nơi các linh mục.
“Cái thế tay trong tay ấy đòi hỏi linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa đã đành mà con phải gần gũi với
con người. Nếu linh mục rời bỏ một trong hai bàn tay, không nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa hay không
nắm chặt lấy bàn tay con người, lúc bấy giờ linh mục sẽ không chu toàn chức vụ của mình.
“Phải gắn bó với Thiên Chúa, đó là bổn phận thứ nhất của linh mục. Thực vậy, nhiệm vụ của linh mục là
không ngừng đem Chúa đến cho mọi người. Và muốn đem Chúa đến cho mọi người thì chính bản thân
linh mục phải là người có Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn và có Chúa trong cuộc đời vì linh mục
không thể cho người khác cái mình không có.
“Đức Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh mục, phải là thần tượng của linh mục, phải là điểm khởi
đầu và kết thúc của cuộc đời linh mục, phải là trọng tâm cho mọi hoạt động của linh mục. Trái đất xoay
quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời của linh mục cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi linh
mục có thể hãnh diện nói lên như thánh Phaolô : Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức
Kitô sống trong tôi.
“Tiếp đến linh mục còn phải gần gũi với con người. Gần gũi với con người bằng cách chia sẻ những lo
lắng, cảm thông những khó khăn và tận tình giúp đỡ những cần thiết, để rồi từ đó linh mục sẽ chỉ cho
con người nhận ra bàn tay dịu hiền và trái tim nhân hậu của Thiên Chúa.
“Phải gắn bó với Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Phải nắm chặt lấy bàn tay
Thiên Chúa cũng như phải nắm chặt lấy bàn tay con người để tạo cho được cái thế yêu thương tay trong
tay.
“Tội lớn nhất của linh mục không phải là đã trót sa ngã, đã trót vấp phạn, bởi vì Thiên Chúa không chọn
các thiên thần, nhưng đã chọn những con người tầm thường và yếu đuối làm linh mục của Ngài. Tội lớn
nhất của linh mục, đó là đã rời bỏ một trong hai bàn tay ấy. Hoặc là đã quay lưng chống lại Thiên Chúa,
hoặc là đã thờ ơ lạnh nhạt với anh em đồng loại. Lúc bấy giờ, linh mục chỉ còn là một nhịp cầu đã gẫy,
một nút giây đã đứt hay một người lính đã đào ngũ. Trong chiến tranh, mục tiêu kẻ thù thường nhắm tới
trước hết để triệt hạ, để phá hủy, chính là những cây cầu…”
Từ đó, gã không ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, bởi vì đó là mưu
thâm chước độc của …”địch”.
Tuy nhiên, không phải chỉ phe địch mới bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, nhiều khi chính con cái trong
nhà cũng đã bạo phổi và mạnh miệng chỉ trích các linh mục một cách đầy ác ý. Họ luôn hỏi rằng :
- Linh mục đã làm gì cho tôi ?
Nhưng lại chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào lương tâm để kiểm điểm xem :
- Tôi đã làm gì cho linh mục.
Hễ thấy linh mục có chút gì sai lỗi thì lập tức liền xì xầm bàn tán, rồi mím môi mím lợi thổi phồng bong
bóng. Họ đâu có ngờ rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư linh mục.
Sau đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ, trong đó giáo dân đã xô linh mục vào
chân tường, đã đẩy linh mục tới chỗ bất ổn hay đã làm hư linh mục.
Trường hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng kính đến độ khúm núm, coi linh mục như là một người
thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ” mí nhau, nhưng
một khi đã thụ phong linh mục, từ hòn đất được cất nên ông bụt, thì lập tức được gọi là cha, là cụ, là
cố…khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất, cũng phải “kính nhi viễn chi”.
Trọng kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá trọng kính đến độ khúm núm thì lại là điều nguy hiểm vì
nó dễ làm cho linh mục quên đi mình xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường
trong bàn tay Thiên Chúa, đồng thời luôn mang ảo tưởng mình là một ông bụt, mình là cái rốn của vũ
trụ, rồi từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán và…mất dạy.
Đọc tới đây, hẳn có người sẽ nghĩ rằng :
- Tên này thật lếu láo, dám cả gan bạo phổi nói mấy cố mất dạy, thì đúng là hết thuốc chữa.
Bởi đó, gã xin lớn tiếng thanh minh thanh nga rằng :
- Mất dạy ở đây không có nghĩa là vô phép, hỗn hào… mà đơn giản chỉ là không còn được dạy bảo nữa
mà thôi.
Nếu hiểu như thế, cộng thêm với một chút suy nghĩ, chúng ta sẽ nhận ra phần nào sự thật. Đây cũng là
lời khuyên của một bà cố nói với người con của mình vừa mới đỗ cụ :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ, thì con sẽ trở nên một người mất dạy, bởi vì với chức
linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, xuất phát từ quan niệm cho rằng linh mục là người thông suốt mọi sự, nên trong bối cảnh của
xã hội Việt Nam, linh mục thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Từ một người rao giảng
lời Chúa và cử hành các Bí tích cho đến một người đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp và kiện tụng, làm
cố vấn cho các đôi hôn nhân và các gia đình, làm kỹ sư kiêm đốc công cho các dự án xây dựng, làm
quân sư quạt mo hướng dẫn bà con về cung cách làm ăn…Ấy là chưa nói tới những linh mục còn phải
lãnh nhận cả những chức vụ phần đời, như thành viên của tổ chức này, phần tử của tổ chức nọ, đứng
đầu hợp tác xã hay làm chủ máy cày, máy xay…
Với những công việc vừa đa dạng, vừa bận rộn như thế, linh mục rất dễ sao lãng việc sống gắn bó với
Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Từ việc sao lãng ấy, linh mục không còn nhận ra sự soi dẫn và chỉ
bảo của Chúa nữa, để rồi trở nên mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa.
Tiếp đến, do những thành công gặt hái được và nhất là do những trọng kính thái quá người ta dành cho
mình, linh mục cứ ngỡ rằng mình là một bậc thày lỗi lạc, trổi vượt lên trên mọi người, ý kiến của mình
phải luôn luôn đúng…nên dễ dàng gạt phăng xi lô những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng khi
những ý kiến đóng góp và những đề nghị xây dựng ấy khác với đường lối chủ trương của mình.
Từ đó, như đã trình bày, linh mục dễ rơi vào tình trạng độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe và
đón nhận. Như vậy, phải chăng linh mục cũng đã làm cho mình dần dần trở nên mất dạy ?
Ấy là chưa nói đến những trường hợp vì đa đoan công việc, linh mục sao lãng chuyện tìm hiểu và trau
dồi thêm kiến thức đạo đức, khoa học, xã hội…qua sách vở, báo chí và những phương tiện truyền thông
khác, để rồi trình độ mỗi ngày một xuống cấp và không sớm thì muộn cũng sẽ bị “tụt hậu”.
Trong ngôn ngữ thường ngày, người giáo dân được gọi là con chiên. Quan niệm này xuất phát từ Kinh
thánh. Chiên ngoan thì phải biết lắng nghe và vâng phục chủ chăn. Điều đó rất đúng, nhưng phải làm
thế nào để xóa bỏ tính thụ động của nó, bởi vì người giáo dân hôm nay tương đối đã trưởng thành, nên
cần phải biết chia sẻ trách nhiệm và góp phần xây dựng tích cực của mình vào cộng đoàn dân Chúa.
Trường hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm khắc và thiếu cảm thông của giáo dân đôi khi đã làm cho
linh mục buồn đau đến…rơi cả nước mắt.
Một trong những nguyên tắc cư xử thông thường, đó là hãy nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung
với người khác. Thế nhưng, thiên hạ lại hành động ngược với nguyên tắc thông thường ấy, bằng cách tỏ
ra nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan điểm này cũng được giáo
dân áp dụng vào mối liên hệ với linh mục.
Thiên hạ thường nói : nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình, kể cả linh
mục vì linh mục cũng mang thân phận mỏng dòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người mười ý, bàn tay còn
có ngón dài ngón ngắn. Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Linh mục được sánh ví như người làm dâu trăm họ, nên khó có thể làm vừa lòng mọi người và nếu cố
gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng làm vừa lòng một ai.
Giáo dân hay quên mất những công ơn linh mục đã làm, mà chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của linh
mục để lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao, rồi dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp đơn cho
Đức cha hay cho nhà nước mà kiện tụng linh tinh.
Thưở ban đầu, vùng Cái sắn chỉ là một cánh đồng hoang với cỏ dại mọc um tùm. Một cha sở dẫn đoàn
chiên của mình tới cắn dùi. Cha sở ấy bỏ công sức, tiền bạc ra xây dựng, từ nhà thờ, nhà xứ đến trường
học…
Cùng với thời gian, cha sở mỗi ngày một già. Và đã già thì cũng hay có những sự lẩm cẩm. Trước những
sự lẩm cẩm ấy, người ta đã xì xào bàn tán, viết thư nặc danh ném vào phòng, hay tố cáo chỗ này chỗ
nọ, chỉ vì cha sở đã già.
Tòa giám mục hay biết liền đổi cha sở đi một nơi khác. Nhận được tin ấy, người ta mừng rỡ ra mặt,
nhưng vẫn cử đại diện lên gặp Đức giám mục để xin cho cha sở được ở lại với dáng bộ rất thiểu não. Thế
nhưng, khi được hỏi :
- Bộ các ông đã chẳng muốn cho cha đi hay sao ?
Một trong những vị đại diện đã trả lời :
- Cha đi mà mình chẳng níu kéo thì coi sao được. Ôi dào, đời mà.
Nghe câu trả lời này, đến như gã chỉ là một kẻ hậu sinh mà cũng còn cảm thấy tê tái cõi lòng, đúng như
người xưa đã bảo :
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Bao lâu linh mục còn khỏe mạnh để phục vụ giáo xứ, thì vẫn là một người cha đáng mến đáng trọng,
nhưng một khi đã đau yếu, đã già nua và đã là một gánh nặng, thì liền trở nên một cái gai cần phải nhổ
đi. Nói vậy xem ra khí quá, nhưng trong thực tế, có những sự việc xảy ra khiến cho gã phải suy nghĩ.
Một cha sở trẻ chẳng may bị ung thư và qua đời. Việc chạy chữa và mai táng tốn kém khá nhiều. Tốn
kém ấy được chi trả bằng tiền riêng của cha sở. Vì không đủ nên còn tồn đọng lại một món nợ. Sau khi
cha sở được “mồ yên mả dài”, người ta đã cãi nhau chí chóe về món nợ này. Giáo xứ cũng như dòng họ
không ai muốn trả cả. Cuối cùng thì Tòa giám mục đành phải ép lòng ép xác mà nhận vậy…
Một cha sở trẻ khác vừa mới khánh thành ngôi nhà thờ cho giáo xứ thì lâm bệnh nặng. Bệnh nặng chữa
không khỏi mà tiền bạc thì lại hao tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi cứ vài tuần phải đi tái
khám và mua thuốc uống tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu chưa có chuyện gì, nhưng sau một thời
gian, những tiếng eo xèo bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn cộng thêm với chuyện này chuyện nọ, rồi
cuối cùng cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi hưu…non, như “con chim ẩn mình chờ chết”.
Có lẽ thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục. Gã nhớ không rõ một tác giả nào đó đã diễn tả :
- Chiều Chúa nhật, mọi người ra về, cửa nhà thờ khóa lại. Một mình tôi đơn độc trong khu nhà xứ rộng
mênh mông. Thưa chuyện với Chúa, thì hình như Chúa cũng xa vời. Cuối cùng thì cũng chỉ vò võ một
mình, tôi nhìn tôi trên vách.

Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau yếu. Một cha phó đã bật mí cho gã biết như sau :

- Ngày nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm người cạo gió. Nhờ bà này hay cô kia thì không ổn, bởi
vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là chước mốc ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng đôi khi cũng dữ
như sư tử Hà đông. Khi đoàn “nữ binh mùa thu” này mà đã loan tin bằng chiến thuật rỉ tai thì còn nhanh
hơn cả những máy móc điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú nhỏ giúp lễ kêu về một ông
hàng xóm đang trong tình trạng say không ra say, xỉn không ra xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà
như dân ghiền thường bảo : một xị thì mở mang trí hóa, hai xị thì giải bớt cơn sầu, ba xị thì mũi chảy đầy
râu, bốn xị thì ngồi đâu khóc đó…Vì được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình đang nóng bừng
bừng, thì bỗng dưng cảm thấy lạnh toát ở xương sống, hóa ra nước mũi của ông hàng xóm cứ vô tư rơi
thánh thót trên tấm lưng của mình. Lần khác khi giác, ông ấy đã đổ ụp cả một ống dầu hôi lên người…
Nhiều khi đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên trần mà xem những con thằn lằn đuổi nhau.

Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục về già. Nhà hưu thì nơi có nơi không. Mà có thì cũng khá
xập xệ. Còn về ở với gia đình, không phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm giắt cạp quần, thì
con cháu xem ra hăm hở nhiệt thành. Nhưng khi tiền đã hết, thì tình cũng chấp cánh bay cao và sự chăm
sóc bèn trở thành một gánh nặng. Có khi chưa chết mà chúng đã vội chia chác, hay chôm chỉa được cái
nào hay cái ấy.

Mặc dù còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện nhim nhím.

Chuyện thứ nhất : Đức giáo hoàng Piô X, ngay sau khi vừa được tấn phong làm Giám mục Montova, đã
về thăm gia đình và khoe với mẹ chiếc nhẫn giám mục của mình :
- Này bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp hay không ?
Người mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay và bảo :
- Nếu không có cái này thì làm sao có cái kia.

Chuyệnthứ hai : Nghỉ hè, mấy thày rủ nhau đi Lái thiêu. Ban trưa ghé vào một gia đình mượn con dao để
bổ trái cây. Chủ nhà là một sư huynh Lasan đã xuất và lập gia đình, bèn nói với các thày như sau :

- Hãy cố mà tu cho đắc đạo để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Còn không tu được thì cũng
chẳng sao, về đây qua sẽ liệu cho. Bởi vì lũ con của qua toàn là…thị mẹt không à. Bậc sống nào cũng tốt.
Tu là cõi phúc mà tình cũng là cõi phúc, miễn là mình đi đúng con đường của Chúa.

Từ khi đi chủng viện cho tới lúc ra làm cha, tỷ lệ 10%, nghĩa là cứ 10 kẻ vào tu thì chỉ có 1 người leo lên
tới chức linh mục. Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi rụng dọc
đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải là chuyện dễ và đời tu không phải là vắng bóng thập giá. Có ở
trong chăm mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Đã cố gắng mà chẳng được làm cha cố, thì làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố, làm sao có cha
cố.
Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Tây và Ta

Khi học về tâm lý, gã được biết nơi con người có hai yếu tố luôn ảnh hưởng lẫn nhau, đó là
yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Trước hết, yếu tố bên trong ảnh hưởng tới bên ngoài.
Chẳng hạn khi buồn, ta có cảm tưởng như môi trường chung quanh cũng ảm đạm và tê tái
như muốn chia sớt nỗi buồn đang đầy ứ trong cõi lòng của ta. Vì thế, Nguyễn Du đã viết :

‘Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu,


Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.’

Tiếp đến, yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới bên trong. Chẳng hạn vừa mới ngủ dậy mà bỗng
trời đổ mưa, ta liền cảm thấy một chút lười biếng, chả muốn bắt tay làm bất cứ công việc
gì, mà chỉ muốn nằm ngủ nướng trong chăn cho đẫy con mắt. Chẳng hạn đang đi thất tha
thất thểu ngoài phố, bỗng nghe thấy một khúc quân hành, ta liền cảm thấy phấn chấn hẳn
lên, bước đều bước theo điệu nhạc đong đưa.

Một trong những yếu tố bên ngoài khá quan trọng đó là địa dư, hay nói một cách nôm na là
nơi ăn chốn ở. Yếu tố này cũng đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành con người
chúng ta. Thực vậy, nhìn vào bản đồ, gã thấy có bốn hướng: Đông tây nam bắc. Như thế,
người bắc khác với người nam và người phương đông khác với người phương tây.

Thực vậy, tuy cùng là dân Việt mình với nhau, nhưng người bắc có một số đặc điểm khác
với người nam. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ nho nhỏ mà thôi.

Chẳng hạn tại miền bắc đất đai thì ít, còn sông Hồng Hà như bà già khó tính hay như cô gái
đỏng đảnh, gây nên lụt lội thất thường. Chính vì phải đương đầu với một hoàn cảnh nghiệt
ngã như vậy, nên người bắc thường chí thú làm ăn, tích lũy tiền của phòng khi tai ương
hoạn nạn xảy ra.

Trong khi đó, tại miền nam, ruộng đất thẳng cánh cò bay, còn sông Cửu Long, như người
mẹ hiền hay như cô gái dịu dàng, lụt lội cứ đúng hẹn lại lên, không có sức tàn phá dữ dội,
nhưng mang lại phù sa cùng mọi thứ tôm cá. Đứng trước môi trường được thiên nhiên ưu
đãi như thế, người miền nam thường sống một cách nhàn hạ, chả cần phải ky cóp, nhưng
làm ngày nào xào ngày ấy.

Vào năm 1954, cả triệu người miền bắc di cư xuống miền nam. Sau năm mươi năm chung
sống, những người bắc 54 cũng đã mang lấy không ít thì nhiều những đặc tính của người
miền nam. Thành thử bây giờ họ không còn cần cù siêng năng mấy so với những người bắc
75, tức là những người vào nam sau ngày thống nhất đất nước.
Bây giờ gã xin so sánh người tây với ta. Người tây dĩ nhiên là sống ở phương tây, còn ta thì
dĩ nhiên sống ở phương đông. Vị trí đông và tây này cũng đã ảnh hưởng trên con người và
tạo nên những khác biệt.

Vì sống ở bắc bán cầu với khí hậu lạnh, người tây thường to con, trắng trẻo và râu tóc rậm
rạp. Còn ta vì sống gần đường xích đạo, nên có vóc dáng nhỏ hơn, da vàng và râu tóc cũng
thưa thớt hơn. Người tây dùng màu đen để chỉ sự tang tóc, còn ta thì lại dùng màu trắng.
Người tây gọt các thứ từ dưới gọt lên, còn ta thì gọt từ trên gọt xuống. Người tây khi gọi thì
ngửa tay ra mà vẫy, còn ta khi gọi thì úp tay xuống mà vẫy. Người tây không ăn thịt chó, còn
ta thì lại coi thịt chó là một món khoái khẩu. Thành thử trong những năm gần đây các thứ
quán “cờ tây”, “nó kìa”, “sống trên đời”…mọc lên như nấm, có mặt trên khắp nẻo đường
đất nước, từ thành thị cho đến thôn quê.

Đó mới chỉ là những khác biệt lẻ tẻ, mà nếu kể ra thì sẽ chẳng bao giờ cùng. Trong khuôn
khổ bài viết này, gã chỉ xin tập trung vào mấy điểm khác biệt chính yếu mà thôi. Đầu tiên, là
về phép tính ngày tháng năm. Người tây căn cứ theo dương lịch. Còn ta căn cứ theo âm lịch.
Vậy thế nào là dương lịch và thế nào là âm lịch ?

Dương lịch hay lịch tây là lịch tính theo mặt trời. Thực vậy, trái đất xoay quanh mặt trời,
cứ 365 ngày 6 giờ thì được một vòng. Vì thế, cứ bốn năm lại có một năm nhuận. Và năm
nhuận được tính thêm một ngày vào tháng hai. Người tây chắc hẳn là phải ăn tết tây, tức là
mừng ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm dương lịch.

Còn âm lịch, lịch ta hay lịch tàu là lịch căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng chung quanh
trái đất. Đối với âm lịch, năm nhuận là năm có thêm hẳn một tháng. Theo Trung Quốc, âm
lịch có từ thời nhà Hạ. Ta thì chắc hẳn là phải ăn tết ta, hay còn được gọi là tết Nguyên đán,
mừng ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm âm lịch. Theo tác giả Toan Ánh trong “Tín ngưỡng Việt
Nam” thì : “Nguyên là bắt đầu, đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên đán là tết đầu năm, mở
màn cho một năm mới với mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang”.

Ngày nay, qua sự giao lưu văn hóa, đông và tây không còn cách biệt ngàn trùng nữa. Vì thế,
ta vẫn giữ lại một số lễ tết chính, chẳng hạn tết Nguyên đán và tết Trung thu, đồng thời
cũng mở rộng cửa đón nhận một số lễ tết của người phương tây, chẳng hạn tết Dương
lịch.

Và trong những năm gần đây giới trẻ, nhất là tại các thành phố lớn, cũng đã bắt đầu mừng
những lễ hội khác, như ngày tình nhan, ngày mẹ hiền, ngày phụ nữ, ngày quỷ dữ
Halloween…Chẳng khác gì một anh chàng, vừa có họ với cô dâu lại vừa có họ với chú rể,
nên khi được mời dự đám cưới, đã hăng hái phát ngôn vung vít :
- Giai hay gái, tớ cũng đều…xơi tuốt!

Tiếp đến, nếu đưa mắt quan sát, thì gã ghi nhận được hai đặc tính về con người và về xã
hội. Hai đặc tính này cũng đã tạo nên những sự khác biệt giữa ta và tây.

Trước hết là về con người. Nếu so sánh, gã thấy người tây vốn thường suy nghĩ bằng cái
đầu, còn ta vốn thường suy nghĩ bằng trái tim. Nói cách khác, người tây sống bằng lý trí hơn
sống bằng tình cảm, còn ta thì sống bằng tình cảm hơn sống bằng lý trí. Đối với người tây,
ngang bằng xổ thẳng, hai với hai phải là bốn, chứ không được nghiêng bên nọ, ngả bên kia.
Còn ta thì khác, lắm khi nói vậy mà chẳng phải đâu và trong cách cư xử thường uyển
chuyển và du di, bởi vì :

‘ Một trăm cái lý không bằng một tí cái tình.’

Tiếp đến là về xã hội. Người tây vốn phát triển về khoa học kỹ thuật nên đòi hỏi sự chính
xác. Còn ta vốn phát triển về nghề nông, nên cứ thủng thẳng mà đi. Có thể nói được rằng
từ thời ông “Bành Tổ” và cho đến ngày hôm nay, xã hội ta vốn dĩ đã là một xã hội nông
nghiệp :

‘ Nhất sĩ nhì nông,


Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.’

Người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa. Mà đã trồng lúa, thì đòi hỏi nhiều lao động,
nhiều công sức, nhất là vào thời buổi “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, chưa được hiện
đại hóa bằng những thứ máy móc lỉnh kỉnh. Vì thế, cần phải đông con nhiều cháu, để cùng
nhau chia sẻ và gánh vác những công việc nặng nhọc trên ruộng đồng.

Thế nhưng, ngày nay, với những phương tiện thông tin hiện đại, đồng thời với xu hướng
toàn cầu hóa, ta và tây đang xích lại gần nhau bằng những bước chân khổng lồ. Gã không
hiểu ta đã tạo được ảnh hưởng gì đối với tây, chứ tây thì đã để lại những dấu ấn sâu đậm
trên ta, khiến ta mất dần những nét đẹp truyền thống của mình. Gã chỉ xin đưa ra một vài
thí dụ cụ thể :

Chẳng hạn về lòng quí trọng sự sống. Theo một bài viết trên Ephata thì: Vấn đề nạo phá
thai của thanh thiếu niên tại Việt Nam đang có khuynh hướng ngày một tăng cao, con số
nạo phá thai hàng năm xấp xỉ với tổng số các cháu bé được sanh ra trên toàn quốc. Năm
1997, tổng số sanh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo phá thai là 934.302 ca.
Năm 1998, số sanh là 1.101.791 ca, thì nạo phá thai là 861.353 ca. Riêng bệnh viện Từ Dũ
mỗi năm có trên 40.000 ca nạo phá thai. Các nhà xã hội học ước tính số người nạo phá thai
trong cả nước hàng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và
xếp nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới.

Chẳng hạn về sự chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng. Theo một bài viết của Nữ tu Phạm
Thị Oanh thì: Hiện nay, tệ nạn mãi dâm đang xuất hiện dưới nhiều dạng thức: Nhà hàng,
cà-phê, karaoke, xông hơi, xoa bóp, vũ trường, chat group trên internet... Ngoài ra nhiều
hình thức văn hóa phẩm đen đã khiến nhiều bạn trẻ ngộ nhận cho rằng tình yêu chỉ là sự
cuốn hút của cảm xúc, chiếm hữu, tình dục, tiền tài, thương hại. Tình trạng yêu sớm, yêu
thử, yêu ào ào theo phong trào, yêu như điên, yêu hết mình xẩy ra nơi học sinh cấp 2, 3, và
trong giới sinh viên ngày một tăng. Đó phải chăng là những nhân tố làm nên một dòng nhạc
“vô cảm” và “não tình” mà dư luận quần chúng trên báo chí gần đây đã đề cập đến khá
nhiều:

‘ Tình yêu đến em không mong đợi gì.


Tình yêu đi em không hề nuối tiếc.’

Tiếp đến là nhiều cặp sống chung không đăng ký kết hôn, không muốn có con để tránh
trách nhiệm. Nhiều gia đình được hình thành trong một cam kết hời hợt lợi dụng lẫn nhau.
Tất cả những vấn đề đó đã dẫn đến tỉ lệ ly dị ngày một tăng. Theo thống kê của Tòa Án
Nhân Dân Thành Phố Sài-gòn năm 2000, thì mỗi ngày trung bình có 32 vụ ly hôn, vị chi một
năm là 11680 chỉ nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn tình trạng bạo hành
trong gia đình về mặt thể chất, tinh thần và tình dục cũng rất phổ biến trong nhiều gia đình
ở thành phố cũng như ở thôn quê.

Phải chăng đó là những cảnh tỉnh nhức nhối cho cha mẹ và con cái, những báo đồng đỏ cho
xã hội. Không khéo thì ta chỉ hấp thụ được những cái xấu, những cái rởm của tây, để rồi
trắng tay, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi. Truyền thống cũ thì chẳng còn, mà cái mới
thì lại khập khà khập khiễng. Tây chẳng ra tây, ta cũng chẳng ra ta. Đầu An-nam-mít, đít
Phăng-xe hay Ăng-le mà thôi!
Chuyện phiếm của Gã Siêu
INTERNET

Cách đây mười mấy năm, gã tậu được một chiếc máy vi tính và đã được
coi là hơi bị văn minh. Vì không phải là dân chuyên nghiệp, cho nên đối
với gã, chiếc máy vi tính được dùng thay cho chiếc máy chữ cổ lỗ sĩ. Ngồi
đánh văn bản không còn đau buốt những đầu ngón tay. Rồi lại còn có thể
chỉnh sửa theo ý muốn của mình. Bỏ chỗ này, thêm chỗ kia, thật là trên
cả tuyệt vời.

Sau đó, chiếc máy vi tính được nối mạng và gã có thể ngồi nhà mà liên
lạc với bè bạn khắp bốn phương thiên hạ. Đây quả thực là một phương
tiện phù hợp với chủ trương của gã, đó là ngon, bổ rẻ…

Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam” thì internet là mạng thông tin máy
tính toàn cầu, cho phép bất kỳ máy tính nào nối với mạng đều có khả
năng thông tin với các máy tính trên mạng thông qua một địa chỉ chính
xác. Mạng được xây dựng trên cơ sở hạ tầng viễn thông để cung cấp các
dịch vụ công cộng và dịch vụ cá nhân.

Internet được thai nghén và được hình thành tại Hoa Kỳ vào năm 1969.
Thuở ban đầu chỉ là một mạng máy tính của bộ Quốc phòng, có tên là
Arpanet, nhằm liên lạc thông tin giữa các trường đại học và các đơn vị
quân đội. Rồi từ đó cho đến nay, internet không ngừng được hoàn chỉnh
và được bàn dân thiên hạ, từ chú nhóc tì cho đến ông già đầu bạc, chiếu
cố và sử dụng.

Riêng tại Việt Nam, dịch vụ internet được chính thức khai trương vào
ngày 19 tháng 11 năm 1997. Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng internet tại
Việt Nam vẫn liên tục phát triền và có mặt khắp các hang cùng ngõ hẻm
của đất nước này.

Chắc hẳn không ai dám phủ nhận những lợi ích to lớn mà internet đã đem
đến cho nhân loại.

Trước hết, đây là một phương tiện liên lạc thông tin thật mau chóng. Gã
còn nhớ ngày xưa muốn viết và gửi một bài báo, thì phải tốn rất nhiều
công sức. Đồng thời, phải trừ hao ít nữa là hai tháng.

Trước hết, phải ngồi vào bàn đánh máy, rồi mang ra bưu điện gửi. Thời
gian bức thư được chuyển từ Việt Nam qua Thụy Sĩ là ba tuần hay một
tháng. Sau đó, tòa soạn phải đánh máy lại, dàn trang, in ấn và phát hành
cũng mất toi một tháng nữa. Còn bây giờ thì khỏe re. Viết xong chỉ cần
nhấn nút. Và trong giây lát, bài viết đã có mặt tại tòa soạn. Nhân viên tòa
soạn chỉ cần cắt dán và trình bày mà thôi.

Cũng vậy trong phạm vi liên lạc cá nhân. Viết và gửi một bức thư vừa vất
vả, lại vừa hao tốn thời giờ và tiền bạc. Còn bây giờ gửi một cái “meo” với
tài liệu đính kèm, vừa rẻ lại vừa mau. Chỉ hơi buồn cười một tí là viết
không có dấu, nên phải đoán. Và trong một vài trường hợp đã đoán sai,
đoán trật. Chẳng hạn hai chu “nghi ngoi”, co thể hiều là “nghỉ ngơi” hay
“nghĩ ngợi” tùy theo mạch văn. Và còn những chữ độc địa hơn nhiều.

Tuy nhiên, một lợi ích khác không kém phần quan trọng, đó là internet đã
cung cấp cho chúng ta một kho tài liệu thật đa dạng, thật phong phú, khả
dĩ làm cho chúng ta mở rộng tầm nhìn và trau dồi thêm được vô vàn kiến
thức. Internet được coi như là một cánh cửa mở rộng, để chúng ta đi vào
thế giới. Với internet, chúng ta có thể giải trí, có thể du lịch, có thể học
hỏi, có thể trao đồi kinh nghiệm…

Tuy nhiên, một đồng tiền có mặt sấp và mặt ngửa, mặt phải và mặt trái,
internet cũng có hai mặt : mặt tốt và mặt xấu, mặt lợi và mặt hại.

Cái hại đầu tiên mà bản thân gã đã phải hứng chịu, đó là internet đã biến
gã trở nên một tên ăn trộm, ăn cắp. Thực vậy, ngày xưa ngồi lọc cọc
đánh máy, nhưng gã lại rất tự hào, bởi vì bài nào viết ra, thì chính xác là
của gã, do gã đã đổ công sức của mình mà đầu tư cho bài viết ấy. Còn
bây giờ, với số lượng thông tin ồ ạt, khiến gã tối tăm cả mặt mũi. Cứ việc
liếc qua, thấy hay thì lưu vào kho tài liệu và khi cần, sẽ mang ra “chế
biến” mà xài đỡ.

Thành thử, gã cứ vô tư mượn đỡ, hay vô tư xài chùa của thiên hạ, miết
rồi trở thành một thói quen lúc nào cũng không hay. Thói quen này làm
thui chột khả năng sáng tác. Đầu óc không suy nghĩ, không làm việc, thì
cũng sẽ bị cùn dần và mòn dần đi với thời gian mà thôi.

Bây giờ, xin bàn tiếp mấy hiện tượng đang được bàn dân thiên hạ chú ý,
nhưng đồng thời cũng mang lại những hậu quả tai hại cho bản thân cũng
như cho gia đình, cho người già cũng như cho người trẻ.

Xin được nói ngay rằng gã không phải là một cư dân thường trú trên
mạng, nên chỉ lượm lặt những gì báo chí đăng tải, hay bàn dân thiên hạ
xì xèo mà thôi.

THỨ NHẤT LÀ…WEB ĐEN.

Đối với người phương Đông, chuyện tình dục là chuyện riêng tư, rất ít khi
được bàn luận một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật với bàn
dân thiên hạ. Đôi khi còn là điếu cấm ky.

Nhưng đối với người phương Tây thì lại khác, đây là một nhu cầu rất tự
nhiên, như ăn và uống. Vì thế, họ thường có thái độ thông thoáng và cởi
mở hơn. Cũng vì thái độ thông thoáng và cởi mở này, mà hằng ngày gã
nhận được không biết bao nhiêu thư rác, trong đó đa số đều nói đến
chuyện tình dục cũng như quảng cáo cho những loại thuốc, chẳng hạn
như viagra…

Hơn thế nữa, làm sao có thể kể hết những trang web trên internet bàn về
chuyện tình dục. Hằng hà sa số. Bất cứ nghĩ ra một chữ nào, gõ vào máy
rồi thêm cái đuôi…”com”, rồi nhấn nút. Thế là trang web đó sẽ hiện ra.

Ở Việt Nam, người ta gọi những trang web chuyên về tình dục với những
hình ảnh thuộc loại phim “con heo”, sỗ sàng, khích thích là những trang…
web đen.

Nhiều nhà giàu trang bị may vi tính cho con cái ở phòng riêng. Thấy con
suốt ngày cặm cụi học hành. Ai dè những cậu ấm va cô chiêu ấy suốt
ngày vùi đầu vào những trò chơi, hay đi lang thang vào những trang web
đen để sưu tầm hàng độc. Sao chép và truyền cho nhau, đề rồi cuối cùng
việc học hành bị sa sút. Sống vật vờ như kẻ mất hồn và thiếu ngủ.

Không phải chỉ bọn trẻ mới la cà trên những trang web đen cho thỏa mãn
óc tò mò và tính hiếu kỳ, mà ngay cả những người mang nặng tuổi đời
cũng vẫn chịu khó chui vào đó để tìm lấy cho mình những cảm giác
mạnh. Gã không nhớ rõ một tờ báo nào đó đã làm cuộc điều tra và cho
biết kết quả không ít người đã…”nghiện” những trang web đen này.

Chiếc áo vấy bẩn, ta có thể giặt đi giặt lại một cách dễ dàng. Thế nhưng,
một hình ảnh xấu, khi đã lọt vào trong tâm hồn, thì khó mà tẩy xóa cho
được. Nó sẽ cắm dùi và chiếm lấy tâm hồn làm nơi cư trú, để rồi bất kỳ
lúc nào nó cũng có thể hiện lên và nhảy múa trong đầu óc.

Kinh nghiệm cũng cho thấy : chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội
mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể, mà chắc chắn
Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.Từ những hình ảnh nhảy
múa trong đầu óc, đến những cám dỗ và từ những cám dỗ đến những
hành động tội lỗi, tất cả chỉ là những đoạn đường ngắn mà thôi.

Ở Việt Nam, số thanh thiếu niên phạm vào những trọng tội, như cướp
của, giết người, hãm hiếp…hình như mỗi ngày một gia tăng. Va khi được
hỏi tại sao lại hành động như thế, nhiều em đã trả lời tỉnh bơ :

- Thấy trên phim ảnh người ta làm vậy, nên bắt chước mà làm theo.

THỨ HAI LÀ…CHÁT.

Chát là trò chuyện, trao đổi thông tin trên mạng giữa hai hay nhiều người
bằng hình thức điện thư. Cái thế mạnh của chát là không ai biết được ai,
nên dân chát cứ mặc sức tung hoành.

Họ thường dùng những “nickname” thật ấn tượng để cho bàn dân thiên
hạ phải chú ý đến, chẳng hạn : quandui (quần đùi), emconcodon (em còn
cô đơn), chiconaothoi (chỉ còn áo thôi), taychoisungsuc (tay chơi sung
sức), natso (nát sọ), chemchamay (chém cha mày)…Những cái tên ấy
vừa ít văn hóa, vừa kém thẩm mỹ, lại vừa thiếu giáo dục, nhưng vẫn
được lôi lên mạng, khiến cho nhiều người phải giật mình và ngao ngán.

Vì không ai biết ai, nên họ tha hồ tán hươu tán vượn, với những lời lẽ sặc
mùi máu me thô tục khi họ chửi bới lẫn nhau, hay ủy mị ướt át khi họ nói
đến chuyện tình cảm và mời chào.

Tác giả Đinh Quý Anh, trong một bài viết trên báo “Công An Thành Phố”,
đã kể lại những ghi nhận của mình như thế này :

Chiều 12 tháng 10, tôi vào phòng máy tính trên đường Phạm Viết Chánh,
tại đây có trên 30 máy, đa số đã có người. Khách là những gương mặt
còn non choẹt, đang say sưa chơi game và tán dóc.

Lấy lý do tìm bạn, tôi lướt một vòng quanh phòng. Ngoài những nickname
khiêu chiến, khích bác lẫn nhau, nhiều tay chát còn thản nhiên trao đổi
chuyện tình rất sành điệu, trong khi tuổi đời của họ vẫn còn quá trẻ.

Một cô bé 14, hay 15 tuổi là cùng, mang nickname “ghientrai” (ghiền trai)
viết :

- Mình đã có một đời chồng, làm tình rất sõi.
Viết xong, cô bé cười ha hả vì đối phương đã bị đánh lừa. Tuy nhiên, bạn
chát của cô bé cũng rất cao thủ khi nhắn lại :

- Với một người từng làm đàn ông từ lúc 15 tuồi, thì đó chỉ là chuyện nhỏ.

Chẳng biết “người đàn ông” kia bao nhiêu tuổi, hay chỉ là một cô bé còn
thích ô mai, lấy nickname người lớn để đùa cợt.

Tôi hỏi một học sinh cấp ba ngồi bên phải :

- Tại sao em khoái chát ?

Chú nhóc cho biết :

- Vì thấy vui, tụi nó với mình chửi nhau thoải mái. Một vài người còn dạy
mình cách “cưa” con gái…nên muốn thử.

- Em không thấy là vượt quá sức mình à ?

- Chẳng sao cả. Chát chỉ là trò ảo, mọi người đều dối gạt nhau, không
riêng gì em. Chủ yếu là tìm cảm giác lạ.

Do tính chất ảo của chát, người ta tha hồ hoán đổi vị trí cho nhau : già
biến thành trẻ, còn trẻ thì lại biến thành già. Con giai biến thành con gái,
còn con gái thì lại biến thành con giai. Đờn ông biến thành đờn bà, còn
đờn bà thì lại biến thành đờn ông.

Hơn thế nữa, người ta lại còn mặc sức thêm râu thêm ria, vẽ vời về địa vị,
nghề nghiệp cũng như con người của mình, để lừa gạt đối phương.

Vừa mới làm quen trên mạng, chị L được người bạn trai mời đi hát
karaoke. Tại đây, trong lúc người bạn trai mời chị uống bia, thì tên bạn
hắn viện cớ vào toilet. Sau đó, người bạn trai lấy lý do ra ngoài để gọi
điện thoại, rồi cả hai tên đều chuồn mất tăm, đề lại chị ngồi một mình,
cùng với tờ hóa đơn trị giá 1,2 triệu đồng.

Có những ông chồng và những bà vợ, vì không được hạnh phúc, hay gặp
phải những khó khăn và rạn nứt trong gia đình, nên đã chọn chát làm nơi
trút bàu tâm sự. Họ say mê chát, bởi vì họ được thoải mái giãi bày những
hoàn cảnh éo le của mình.
Hơn thế nữa, người tình ảo trên mạng lại chẳng bao giờ gây phiền toái và
rắc rối cho họ. Trái lại, luôn “chiều” họ ở mọi nơi và trong mọi lúc. Cuối
cùng họ lấy ảo làm thực và lấy thực làm ảo, để rồi cuối cùng gia đình họ
chắc chắn sẽ đứng bên bờ vực thẳm của đổ vỡ.

Tệ hại hơn nữa, chát còn là nơi “mần ăn” của gái mãi dâm. Thực vậy, các
chị em ta cũng đua nhau lên mạng để săn tìm khách làng chơi. Nếu đồng
ý, thì sẽ cho ngắm “hàng” qua webcam, để dễ bề trả giá, biến chát trở
thành một cái bẫy moi tiền của những “con nai vàng ngơ ngác”, hay của
những kẻ ham của lạ và thích chơi trống bỏi.

Tóm lại, một số người đến với chát để học hỏi, để trao đổi kinh nghiệm,
để chia sẻ những tâm tình chân thật, cũng như để kiếm tìm cho mình một
chút tình cảm, vốn đã bị thiếu hụt nơi bản thân, hay trong cuộc sống gia
đình.

Tuy nhiên, nhiều người khác đến với chát cốt để tán dóc, để chửi bới, đề
dối gạt, để nói những chuyện tầm bậy tầm bạ. Họ đã vô tình biến một
sân chơi vốn lành mạnh, dành cho những người bạn lâu ngày muốn gặp
nhau để trao đồi thông tin, thành một đám xà bần hổ lốn, mang nhiều
tính cách độc hại, hơn là đem lại những lợi ích thiết thực.

THỨ BA LÀ LỐC (BLOG)

Hiểu một cách đơn giản, lốc là một thứ nhật ký điện tử mà người khác
cũng có thể tham dự. Chẳng hạn gã đưa ra một quan điểm và người khác
cũng có thể gửi vào đó những ý nghĩ, những suy tư của mình.

Theo tac giả Kim Cúc của báo Gia Đình, thì trong thời gian gần đây, lốc
nở rộ như một sân chơi cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ.

Với lốc, họ thể hiện được những cá tính của mình một cách cởi mở và tự
nhiên, chẳng hạn khả năng làm báo trên mạng, phản ảnh sinh động cuộc
sống của giới trẻ.

Với lốc, họ là những ông vua của thế giới mạng, một thế giới không biên
cương. Chính vì tự coi mình là một ông vua, nên nhiều người đà biến lốc
trở thành một thế giới ích kỷ, một nơi truyền bá những quan điểm thiếu
lành mạnh của mình.

Một cậu học trò lớp 11 đã dành mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ để viết và trang
trí cho lốc của mình. Đồng thời, qua đó cậu hô hào chống lại sự “chuyên
chế” của gia đình, mà cậu gọi đó là “thuộc địa của những lễ giáo phong
kiến”. Mỗi ngày cậu đưa lên mạng khuôn mặt “tội nghiệp” của mình sau
những trận “tra tấn” bằng cách răn dạy của cha mẹ. Thỉnh thoảng cậu lại
bỏ nhà đi chơi, có khi một hai ngày và cậu rất tự hào coi đó là những
“cuộc đào tẩu thoát khỏi sự kìm kẹp của cha mẹ”.

Hành động này đã gây nên những hậu quả rất tai hại, vì đám bạn cậu rất
ủng hộ lập trường của cậu và tôn cậu lên làm “đại ca”. Thỉnh thoảng cả
đám bạn này cùng với đại ca của mình lại trốn nhà đi chơi, tiêu phí tiền
bạc của cha mẹ.

Một cô bé khác với biệt danh là “búp bê Bắc Kinh” lại quảng bá cho lập
trường yêu chuộng tự do của mình. Cô bé phát biểu :

- Con gái ở xứ mình đến hắt xì hơi cũng phải xin phép.

Vì thế, cô bé hô hào giới trẻ vùng dậy chống lại mọi thứ lễ giáo, chống lại
cha mẹ và những người vốn đặt ra luật lệ kỷ cương và kìm hãm sự phát
triển.

Những lốc như trên phải chăng là một kiểu tuyên truyền cho những tư
tưởng độc hại?

Ngoài những lốc mang nặng tính cách đấu tranh, phổ biến những quan
điểm lệch lạc, còn có những người đã biến lốc của mình thành một trang
web đen, bằng cách phóng lên đó những hình ảnh khiêu gợi, những hình
ảnh chụp lén ở ngoài đường hay ở những nơi sinh hoạt công cộng khác.
Cùng với những hình ảnh này là những lời chú thích đầy khiêu khích. Tất
cả đều được coi là thứ hàng độc, là một cách chơi trội để hơn người khác.

Lốc không phải chỉ ảnh hưởng tới giới trẻ, mà đôi khi còn làm tê liệt đời
sống gia đình. Gã không có kinh nghiệm gì về vấn đề này, nên xin trích
một vài đoạn trong một bài viết của Nguyên Phương, đăng trên báo Phụ
Nữ Chủ Nhật, số ra ngày 15 tháng 4 năm 2007, như sau :

…Vợ chồng tôi cưới nhau đã hơn 20 năm. Cuộc sống của chúng tôi tương
đối đầy đủ vì cả hai đều có thu nhập ổn định. Bé Vy, con gái duy nhất của
chúng tôi, đang theo đại học năm cuối.

… Một bữa, Vy đi học về sớm, nhìn tôi chăm chăm :

- Mẹ, có khi nào mẹ…mất ba không?


Tôi chưng hửng:

- Con ăn nói gì kỳ vậy, Vy?

- Con không kỳ đâu, mẹ theo con.

Con bé lôi tôi vào phòng như một cơn lốc, bật CPU.

- Gì vậy con, để mẹ nấu cơm.

- Mẹ cứ lo nấu cơm đi, có ngày mất ba thiệt đó.

- Là sao, con giải thích cụ thể đi.

- Mẹ biết lốc không?

- Lốc hả, mẹ có nghe nói, nhưng liên quan gì đến ba con?

- Mẹ ơi, ba tạo lốc lâu rồi, pây-viu (page views) đã lên tới mấy chục
ngàn, lít-phren (list friends) hơn cả trăm người.

- Ừ, thì sao?

- Thì ba bắt đầu quan tâm tới mấy lốc-gờ (blogger) khác chứ sao!

- Trời ơi, con nói cái gì mẹ không hiểu?

- Có gì mà không hiểu, mỗi người trên thế giới mạng tạo cho mình ít nhất
mộtlốc, đặt níc-nem (nickname), đì-zai (design) theo gu của mình, rối
bắt đầu viếten-trai (entry). Lốc nào có nhiều en-trai hay sẽ được đông
đảo lốc-gờ theo dõi,còm-măng (comment), đòi ạt (add)…

- À, vậy là ba con viết an-trai hay nên có nhiều người còm-măng và
đòi ạt hả?

- Ba con viết cũng hay, nhưng có nhiều người hay hơn. Trong
số phren của ba nổi bật một lốc-gờ có níc (nick) là Ướtmi. Cô này viết về
tổ ấm của mình…

- Trời, tưởng gì, cái đó mẹ cũng viết được vậy. Mẹ cũng có ba, có con.
Con tôi khẳng định chắc nịch làm tôi cụt hứng :

- Không dám đâu! Mẹ sẽ không bao giờ viết được như cô ấy. Vì cô ấy tỏ
ra rất sâu sắc, rất nhạy cảm tinh tế và dặc biệt là rất “prồ” nữa. Bên cạnh
những trang viết về chồng con, cô ấy còn có những bài rất hay về ba mẹ,
họ hàng, bè bạn, thời thơ ấu, thời thiếu nữ, shopping…Bài nào cũng hay.
Cô ấy lại siêng viết mỗi ngày nên thu hút được cả mấy trăm ngàn lượt
người đọc. Đến con từng là học sinh giỏi Văn mà cũng phải gật gù tấm
tắc khi đọc lốc cô ấy.

- Nhưng tại sao con biết ba con có lốc và quan tâm đến lốc cô ấy?

- Bạn con cho con ling (link) của lốc Ướtmi, con đọc thấy thích
nên ạt Ướtmi vàolốc mình, rồi vào lít-phren của cô ấy và thấy ba.

- Sao con biết đó là ba?

- Mặc dù ba lấy níc là Rong Rêu, nhưng con vẫn biết đó là ba, vì cái a-va-
ta(avatar) ba đề là hình ba dắt con đi lãnh thưởng hồi học mẫu giáo, cái
hình trắng đen đó, mẹ nhớ không?

Tôi cười phá lên :

- Trời, ba con mà rong rêu nỗi gì, bình thường thấy ổng khô như ngói mà!

- Vậy là mẹ không hiểu ba rồi. Ba con là người rất giàu tình cảm, con
theo dõi lốcba cả năm nay nên con biết. Ba viết lại các kỷ niệm khi học
phổ thông, lên đại học, về hoa lá cỏ cây, quán cà phê, về cô N, cô X gì gì
mà ngày xưa ba yêu và yêu ba. Nhưng con thích nhất en-trai “Con gái
của ba”. Bài đó ba nói ba hối hận vì đã quát con khi con đòi đi học hip-
hop, ba nói là ba hiểu ai cũng có một thời tuổi trẻ, ba còn nhắc lại đã vui
khi thấy con biết lật, biết đi thế nào, đau lòng khi con bị sốt xuất huyết ra
sao…Nhờ đọc lốc ba mà con thương ba hơn đó.

- Vậy ba có nói gì về mẹ không?

- Dạ không.

Tôi lặng đi.

…Dạo này tôi không còn xem tivi buổi tối nữa. Tôi lên phòng bé Vy,
đọc lốc anh và lốc “người ta” dưới sự hướng dẫn của chuyên viên mạng là
con tôi. Tôi đọc kỹ từng en-trai của anh, từng com-măng người ta gửi cho
anh và anh đáp trả người ta. Không ngờ chồng tôi “trẻ hóa” quá…

Con tôi bảo:

- Cô ấy ạt ba sau khi đọc một en-trai của ba có nhắc đến tên cô ấy.

Tôi dò tìm :

- “…Những người ưa che giấu nỗi buồn thường là những người buồn lâu
và buồn sâu nhất. Mong Ướtmi đủ bản lãnh vượt qua những giai đoạn khó
khăn trong đời…”

Và đây là com-măng của người ta :

- “Cảm ơn moungu chưa quen bao giờ nhưng lại thấu hiểu một ngóc
ngách tâm hồn của Ướtmi…Cho phép Ướtmi ạt bạn vào phren nhé!”

Và en-trai này :

- “Hôm nay bé Mía sốt cao quá. Mình đã gọi cho anh hai lần, nhưng lần
nào anh cũng từ chối. Mình hiểu là anh đang có nhiều công việc, nó ngăn
không cho anh chạy về với mẹ con mình như ngày nào…”

Cũng từ en-trai này mà con tôi cho rằng mẹ sắp mất ba :

- Ba không cầm lòng được nên đã đi mua một con gấu bông. Con không
biết ba chuyển bằng cách nào mà mấy ngày sau khi bé Mía lành bệnh, cô
ta đã post hình đứa bé ôm con gấu trắng lên, rồi viết là “Chú Rong Rêu
ơi, chú chưa biết bé Mía thương con gấu thế nào đâu. Không có nó là bé
không chịu ngủ đâu!”

- Thôi, con không nên nghĩ ngợi lung tung. Chuyện ba tặng quà cho một
đứa trẻ cũng thường thôi.

Con tôi cong môi nói :

- Không đâu, ba tặng vì thương mẹ nó ấy chứ.

Tôi trấn an con mà lòng dạ nào yên. Không ngờ cái thế giới tưởng chừng
như vô thưởng vô phạt, “sắc sắc không không” đó lại có thể khiến chồng
tôi dành công sức và thời gian cho nó đến vậy.
Nơi đó, anh tự do hồi tưởng, tự do mơ mộng, tự do độc thoại, cũng như
đối thoại và mong ngóng chia sẻ. Nơi đó không có người đàn bà ngoài 50,
vóc dáng sồ sề, tối ngày chỉ biết còng lưng lo chuyện tiền nong, cơm
nước, cằn nhằn. Nơi đó toàn là những đôi cánh thiên thần thuần khiết và
ăm ắp xúc cảm. Chuyện đời đẹp như thơ như tranh.

Tôi biết phải làm gì bây giờ? Chẳng lẽ nhờ con biến mình thành một “lốc-
gờ”. Hay là tôi sẽ cam phận…mất chồng, như con tôi đang dự đoán ?
Chuyện phiếm của Gã Siêu
INTERNET

Cách đây mười mấy năm, gã tậu được một chiếc máy vi tính và đã được
coi là hơi bị văn minh. Vì không phải là dân chuyên nghiệp, cho nên đối
với gã, chiếc máy vi tính được dùng thay cho chiếc máy chữ cổ lỗ sĩ. Ngồi
đánh văn bản không còn đau buốt những đầu ngón tay. Rồi lại còn có thể
chỉnh sửa theo ý muốn của mình. Bỏ chỗ này, thêm chỗ kia, thật là trên
cả tuyệt vời.

Sau đó, chiếc máy vi tính được nối mạng và gã có thể ngồi nhà mà liên
lạc với bè bạn khắp bốn phương thiên hạ. Đây quả thực là một phương
tiện phù hợp với chủ trương của gã, đó là ngon, bổ rẻ…

Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam” thì internet là mạng thông tin máy
tính toàn cầu, cho phép bất kỳ máy tính nào nối với mạng đều có khả
năng thông tin với các máy tính trên mạng thông qua một địa chỉ chính
xác. Mạng được xây dựng trên cơ sở hạ tầng viễn thông để cung cấp các
dịch vụ công cộng và dịch vụ cá nhân.

Internet được thai nghén và được hình thành tại Hoa Kỳ vào năm 1969.
Thuở ban đầu chỉ là một mạng máy tính của bộ Quốc phòng, có tên là
Arpanet, nhằm liên lạc thông tin giữa các trường đại học và các đơn vị
quân đội. Rồi từ đó cho đến nay, internet không ngừng được hoàn chỉnh
và được bàn dân thiên hạ, từ chú nhóc tì cho đến ông già đầu bạc, chiếu
cố và sử dụng.

Riêng tại Việt Nam, dịch vụ internet được chính thức khai trương vào
ngày 19 tháng 11 năm 1997. Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng internet tại
Việt Nam vẫn liên tục phát triền và có mặt khắp các hang cùng ngõ hẻm
của đất nước này.

Chắc hẳn không ai dám phủ nhận những lợi ích to lớn mà internet đã đem
đến cho nhân loại.

Trước hết, đây là một phương tiện liên lạc thông tin thật mau chóng. Gã
còn nhớ ngày xưa muốn viết và gửi một bài báo, thì phải tốn rất nhiều
công sức. Đồng thời, phải trừ hao ít nữa là hai tháng.

Trước hết, phải ngồi vào bàn đánh máy, rồi mang ra bưu điện gửi. Thời
gian bức thư được chuyển từ Việt Nam qua Thụy Sĩ là ba tuần hay một
tháng. Sau đó, tòa soạn phải đánh máy lại, dàn trang, in ấn và phát hành
cũng mất toi một tháng nữa. Còn bây giờ thì khỏe re. Viết xong chỉ cần
nhấn nút. Và trong giây lát, bài viết đã có mặt tại tòa soạn. Nhân viên tòa
soạn chỉ cần cắt dán và trình bày mà thôi.

Cũng vậy trong phạm vi liên lạc cá nhân. Viết và gửi một bức thư vừa vất
vả, lại vừa hao tốn thời giờ và tiền bạc. Còn bây giờ gửi một cái “meo” với
tài liệu đính kèm, vừa rẻ lại vừa mau. Chỉ hơi buồn cười một tí là viết
không có dấu, nên phải đoán. Và trong một vài trường hợp đã đoán sai,
đoán trật. Chẳng hạn hai chu “nghi ngoi”, co thể hiều là “nghỉ ngơi” hay
“nghĩ ngợi” tùy theo mạch văn. Và còn những chữ độc địa hơn nhiều.

Tuy nhiên, một lợi ích khác không kém phần quan trọng, đó là internet đã
cung cấp cho chúng ta một kho tài liệu thật đa dạng, thật phong phú, khả
dĩ làm cho chúng ta mở rộng tầm nhìn và trau dồi thêm được vô vàn kiến
thức. Internet được coi như là một cánh cửa mở rộng, để chúng ta đi vào
thế giới. Với internet, chúng ta có thể giải trí, có thể du lịch, có thể học
hỏi, có thể trao đồi kinh nghiệm…

Tuy nhiên, một đồng tiền có mặt sấp và mặt ngửa, mặt phải và mặt trái,
internet cũng có hai mặt : mặt tốt và mặt xấu, mặt lợi và mặt hại.

Cái hại đầu tiên mà bản thân gã đã phải hứng chịu, đó là internet đã biến
gã trở nên một tên ăn trộm, ăn cắp. Thực vậy, ngày xưa ngồi lọc cọc
đánh máy, nhưng gã lại rất tự hào, bởi vì bài nào viết ra, thì chính xác là
của gã, do gã đã đổ công sức của mình mà đầu tư cho bài viết ấy. Còn
bây giờ, với số lượng thông tin ồ ạt, khiến gã tối tăm cả mặt mũi. Cứ việc
liếc qua, thấy hay thì lưu vào kho tài liệu và khi cần, sẽ mang ra “chế
biến” mà xài đỡ.

Thành thử, gã cứ vô tư mượn đỡ, hay vô tư xài chùa của thiên hạ, miết
rồi trở thành một thói quen lúc nào cũng không hay. Thói quen này làm
thui chột khả năng sáng tác. Đầu óc không suy nghĩ, không làm việc, thì
cũng sẽ bị cùn dần và mòn dần đi với thời gian mà thôi.

Bây giờ, xin bàn tiếp mấy hiện tượng đang được bàn dân thiên hạ chú ý,
nhưng đồng thời cũng mang lại những hậu quả tai hại cho bản thân cũng
như cho gia đình, cho người già cũng như cho người trẻ.

Xin được nói ngay rằng gã không phải là một cư dân thường trú trên
mạng, nên chỉ lượm lặt những gì báo chí đăng tải, hay bàn dân thiên hạ
xì xèo mà thôi.

THỨ NHẤT LÀ…WEB ĐEN.

Đối với người phương Đông, chuyện tình dục là chuyện riêng tư, rất ít khi
được bàn luận một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật với bàn
dân thiên hạ. Đôi khi còn là điếu cấm ky.

Nhưng đối với người phương Tây thì lại khác, đây là một nhu cầu rất tự
nhiên, như ăn và uống. Vì thế, họ thường có thái độ thông thoáng và cởi
mở hơn. Cũng vì thái độ thông thoáng và cởi mở này, mà hằng ngày gã
nhận được không biết bao nhiêu thư rác, trong đó đa số đều nói đến
chuyện tình dục cũng như quảng cáo cho những loại thuốc, chẳng hạn
như viagra…

Hơn thế nữa, làm sao có thể kể hết những trang web trên internet bàn về
chuyện tình dục. Hằng hà sa số. Bất cứ nghĩ ra một chữ nào, gõ vào máy
rồi thêm cái đuôi…”com”, rồi nhấn nút. Thế là trang web đó sẽ hiện ra.

Ở Việt Nam, người ta gọi những trang web chuyên về tình dục với những
hình ảnh thuộc loại phim “con heo”, sỗ sàng, khích thích là những trang…
web đen.

Nhiều nhà giàu trang bị may vi tính cho con cái ở phòng riêng. Thấy con
suốt ngày cặm cụi học hành. Ai dè những cậu ấm va cô chiêu ấy suốt
ngày vùi đầu vào những trò chơi, hay đi lang thang vào những trang web
đen để sưu tầm hàng độc. Sao chép và truyền cho nhau, đề rồi cuối cùng
việc học hành bị sa sút. Sống vật vờ như kẻ mất hồn và thiếu ngủ.

Không phải chỉ bọn trẻ mới la cà trên những trang web đen cho thỏa mãn
óc tò mò và tính hiếu kỳ, mà ngay cả những người mang nặng tuổi đời
cũng vẫn chịu khó chui vào đó để tìm lấy cho mình những cảm giác
mạnh. Gã không nhớ rõ một tờ báo nào đó đã làm cuộc điều tra và cho
biết kết quả không ít người đã…”nghiện” những trang web đen này.

Chiếc áo vấy bẩn, ta có thể giặt đi giặt lại một cách dễ dàng. Thế nhưng,
một hình ảnh xấu, khi đã lọt vào trong tâm hồn, thì khó mà tẩy xóa cho
được. Nó sẽ cắm dùi và chiếm lấy tâm hồn làm nơi cư trú, để rồi bất kỳ
lúc nào nó cũng có thể hiện lên và nhảy múa trong đầu óc.

Kinh nghiệm cũng cho thấy : chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội
mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể, mà chắc chắn
Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.Từ những hình ảnh nhảy
múa trong đầu óc, đến những cám dỗ và từ những cám dỗ đến những
hành động tội lỗi, tất cả chỉ là những đoạn đường ngắn mà thôi.

Ở Việt Nam, số thanh thiếu niên phạm vào những trọng tội, như cướp
của, giết người, hãm hiếp…hình như mỗi ngày một gia tăng. Va khi được
hỏi tại sao lại hành động như thế, nhiều em đã trả lời tỉnh bơ :

- Thấy trên phim ảnh người ta làm vậy, nên bắt chước mà làm theo.

THỨ HAI LÀ…CHÁT.

Chát là trò chuyện, trao đổi thông tin trên mạng giữa hai hay nhiều người
bằng hình thức điện thư. Cái thế mạnh của chát là không ai biết được ai,
nên dân chát cứ mặc sức tung hoành.

Họ thường dùng những “nickname” thật ấn tượng để cho bàn dân thiên
hạ phải chú ý đến, chẳng hạn : quandui (quần đùi), emconcodon (em còn
cô đơn), chiconaothoi (chỉ còn áo thôi), taychoisungsuc (tay chơi sung
sức), natso (nát sọ), chemchamay (chém cha mày)…Những cái tên ấy
vừa ít văn hóa, vừa kém thẩm mỹ, lại vừa thiếu giáo dục, nhưng vẫn
được lôi lên mạng, khiến cho nhiều người phải giật mình và ngao ngán.

Vì không ai biết ai, nên họ tha hồ tán hươu tán vượn, với những lời lẽ sặc
mùi máu me thô tục khi họ chửi bới lẫn nhau, hay ủy mị ướt át khi họ nói
đến chuyện tình cảm và mời chào.

Tác giả Đinh Quý Anh, trong một bài viết trên báo “Công An Thành Phố”,
đã kể lại những ghi nhận của mình như thế này :

Chiều 12 tháng 10, tôi vào phòng máy tính trên đường Phạm Viết Chánh,
tại đây có trên 30 máy, đa số đã có người. Khách là những gương mặt
còn non choẹt, đang say sưa chơi game và tán dóc.

Lấy lý do tìm bạn, tôi lướt một vòng quanh phòng. Ngoài những nickname
khiêu chiến, khích bác lẫn nhau, nhiều tay chát còn thản nhiên trao đổi
chuyện tình rất sành điệu, trong khi tuổi đời của họ vẫn còn quá trẻ.

Một cô bé 14, hay 15 tuổi là cùng, mang nickname “ghientrai” (ghiền trai)
viết :

- Mình đã có một đời chồng, làm tình rất sõi.
Viết xong, cô bé cười ha hả vì đối phương đã bị đánh lừa. Tuy nhiên, bạn
chát của cô bé cũng rất cao thủ khi nhắn lại :

- Với một người từng làm đàn ông từ lúc 15 tuồi, thì đó chỉ là chuyện nhỏ.

Chẳng biết “người đàn ông” kia bao nhiêu tuổi, hay chỉ là một cô bé còn
thích ô mai, lấy nickname người lớn để đùa cợt.

Tôi hỏi một học sinh cấp ba ngồi bên phải :

- Tại sao em khoái chát ?

Chú nhóc cho biết :

- Vì thấy vui, tụi nó với mình chửi nhau thoải mái. Một vài người còn dạy
mình cách “cưa” con gái…nên muốn thử.

- Em không thấy là vượt quá sức mình à ?

- Chẳng sao cả. Chát chỉ là trò ảo, mọi người đều dối gạt nhau, không
riêng gì em. Chủ yếu là tìm cảm giác lạ.

Do tính chất ảo của chát, người ta tha hồ hoán đổi vị trí cho nhau : già
biến thành trẻ, còn trẻ thì lại biến thành già. Con giai biến thành con gái,
còn con gái thì lại biến thành con giai. Đờn ông biến thành đờn bà, còn
đờn bà thì lại biến thành đờn ông.

Hơn thế nữa, người ta lại còn mặc sức thêm râu thêm ria, vẽ vời về địa vị,
nghề nghiệp cũng như con người của mình, để lừa gạt đối phương.

Vừa mới làm quen trên mạng, chị L được người bạn trai mời đi hát
karaoke. Tại đây, trong lúc người bạn trai mời chị uống bia, thì tên bạn
hắn viện cớ vào toilet. Sau đó, người bạn trai lấy lý do ra ngoài để gọi
điện thoại, rồi cả hai tên đều chuồn mất tăm, đề lại chị ngồi một mình,
cùng với tờ hóa đơn trị giá 1,2 triệu đồng.

Có những ông chồng và những bà vợ, vì không được hạnh phúc, hay gặp
phải những khó khăn và rạn nứt trong gia đình, nên đã chọn chát làm nơi
trút bàu tâm sự. Họ say mê chát, bởi vì họ được thoải mái giãi bày những
hoàn cảnh éo le của mình.
Hơn thế nữa, người tình ảo trên mạng lại chẳng bao giờ gây phiền toái và
rắc rối cho họ. Trái lại, luôn “chiều” họ ở mọi nơi và trong mọi lúc. Cuối
cùng họ lấy ảo làm thực và lấy thực làm ảo, để rồi cuối cùng gia đình họ
chắc chắn sẽ đứng bên bờ vực thẳm của đổ vỡ.

Tệ hại hơn nữa, chát còn là nơi “mần ăn” của gái mãi dâm. Thực vậy, các
chị em ta cũng đua nhau lên mạng để săn tìm khách làng chơi. Nếu đồng
ý, thì sẽ cho ngắm “hàng” qua webcam, để dễ bề trả giá, biến chát trở
thành một cái bẫy moi tiền của những “con nai vàng ngơ ngác”, hay của
những kẻ ham của lạ và thích chơi trống bỏi.

Tóm lại, một số người đến với chát để học hỏi, để trao đổi kinh nghiệm,
để chia sẻ những tâm tình chân thật, cũng như để kiếm tìm cho mình một
chút tình cảm, vốn đã bị thiếu hụt nơi bản thân, hay trong cuộc sống gia
đình.

Tuy nhiên, nhiều người khác đến với chát cốt để tán dóc, để chửi bới, đề
dối gạt, để nói những chuyện tầm bậy tầm bạ. Họ đã vô tình biến một
sân chơi vốn lành mạnh, dành cho những người bạn lâu ngày muốn gặp
nhau để trao đồi thông tin, thành một đám xà bần hổ lốn, mang nhiều
tính cách độc hại, hơn là đem lại những lợi ích thiết thực.

THỨ BA LÀ LỐC (BLOG)

Hiểu một cách đơn giản, lốc là một thứ nhật ký điện tử mà người khác
cũng có thể tham dự. Chẳng hạn gã đưa ra một quan điểm và người khác
cũng có thể gửi vào đó những ý nghĩ, những suy tư của mình.

Theo tac giả Kim Cúc của báo Gia Đình, thì trong thời gian gần đây, lốc
nở rộ như một sân chơi cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ.

Với lốc, họ thể hiện được những cá tính của mình một cách cởi mở và tự
nhiên, chẳng hạn khả năng làm báo trên mạng, phản ảnh sinh động cuộc
sống của giới trẻ.

Với lốc, họ là những ông vua của thế giới mạng, một thế giới không biên
cương. Chính vì tự coi mình là một ông vua, nên nhiều người đà biến lốc
trở thành một thế giới ích kỷ, một nơi truyền bá những quan điểm thiếu
lành mạnh của mình.

Một cậu học trò lớp 11 đã dành mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ để viết và trang
trí cho lốc của mình. Đồng thời, qua đó cậu hô hào chống lại sự “chuyên
chế” của gia đình, mà cậu gọi đó là “thuộc địa của những lễ giáo phong
kiến”. Mỗi ngày cậu đưa lên mạng khuôn mặt “tội nghiệp” của mình sau
những trận “tra tấn” bằng cách răn dạy của cha mẹ. Thỉnh thoảng cậu lại
bỏ nhà đi chơi, có khi một hai ngày và cậu rất tự hào coi đó là những
“cuộc đào tẩu thoát khỏi sự kìm kẹp của cha mẹ”.

Hành động này đã gây nên những hậu quả rất tai hại, vì đám bạn cậu rất
ủng hộ lập trường của cậu và tôn cậu lên làm “đại ca”. Thỉnh thoảng cả
đám bạn này cùng với đại ca của mình lại trốn nhà đi chơi, tiêu phí tiền
bạc của cha mẹ.

Một cô bé khác với biệt danh là “búp bê Bắc Kinh” lại quảng bá cho lập
trường yêu chuộng tự do của mình. Cô bé phát biểu :

- Con gái ở xứ mình đến hắt xì hơi cũng phải xin phép.

Vì thế, cô bé hô hào giới trẻ vùng dậy chống lại mọi thứ lễ giáo, chống lại
cha mẹ và những người vốn đặt ra luật lệ kỷ cương và kìm hãm sự phát
triển.

Những lốc như trên phải chăng là một kiểu tuyên truyền cho những tư
tưởng độc hại?

Ngoài những lốc mang nặng tính cách đấu tranh, phổ biến những quan
điểm lệch lạc, còn có những người đã biến lốc của mình thành một trang
web đen, bằng cách phóng lên đó những hình ảnh khiêu gợi, những hình
ảnh chụp lén ở ngoài đường hay ở những nơi sinh hoạt công cộng khác.
Cùng với những hình ảnh này là những lời chú thích đầy khiêu khích. Tất
cả đều được coi là thứ hàng độc, là một cách chơi trội để hơn người khác.

Lốc không phải chỉ ảnh hưởng tới giới trẻ, mà đôi khi còn làm tê liệt đời
sống gia đình. Gã không có kinh nghiệm gì về vấn đề này, nên xin trích
một vài đoạn trong một bài viết của Nguyên Phương, đăng trên báo Phụ
Nữ Chủ Nhật, số ra ngày 15 tháng 4 năm 2007, như sau :

…Vợ chồng tôi cưới nhau đã hơn 20 năm. Cuộc sống của chúng tôi tương
đối đầy đủ vì cả hai đều có thu nhập ổn định. Bé Vy, con gái duy nhất của
chúng tôi, đang theo đại học năm cuối.

… Một bữa, Vy đi học về sớm, nhìn tôi chăm chăm :

- Mẹ, có khi nào mẹ…mất ba không?


Tôi chưng hửng:

- Con ăn nói gì kỳ vậy, Vy?

- Con không kỳ đâu, mẹ theo con.

Con bé lôi tôi vào phòng như một cơn lốc, bật CPU.

- Gì vậy con, để mẹ nấu cơm.

- Mẹ cứ lo nấu cơm đi, có ngày mất ba thiệt đó.

- Là sao, con giải thích cụ thể đi.

- Mẹ biết lốc không?

- Lốc hả, mẹ có nghe nói, nhưng liên quan gì đến ba con?

- Mẹ ơi, ba tạo lốc lâu rồi, pây-viu (page views) đã lên tới mấy chục
ngàn, lít-phren (list friends) hơn cả trăm người.

- Ừ, thì sao?

- Thì ba bắt đầu quan tâm tới mấy lốc-gờ (blogger) khác chứ sao!

- Trời ơi, con nói cái gì mẹ không hiểu?

- Có gì mà không hiểu, mỗi người trên thế giới mạng tạo cho mình ít nhất
mộtlốc, đặt níc-nem (nickname), đì-zai (design) theo gu của mình, rối
bắt đầu viếten-trai (entry). Lốc nào có nhiều en-trai hay sẽ được đông
đảo lốc-gờ theo dõi,còm-măng (comment), đòi ạt (add)…

- À, vậy là ba con viết an-trai hay nên có nhiều người còm-măng và
đòi ạt hả?

- Ba con viết cũng hay, nhưng có nhiều người hay hơn. Trong
số phren của ba nổi bật một lốc-gờ có níc (nick) là Ướtmi. Cô này viết về
tổ ấm của mình…

- Trời, tưởng gì, cái đó mẹ cũng viết được vậy. Mẹ cũng có ba, có con.
Con tôi khẳng định chắc nịch làm tôi cụt hứng :

- Không dám đâu! Mẹ sẽ không bao giờ viết được như cô ấy. Vì cô ấy tỏ
ra rất sâu sắc, rất nhạy cảm tinh tế và dặc biệt là rất “prồ” nữa. Bên cạnh
những trang viết về chồng con, cô ấy còn có những bài rất hay về ba mẹ,
họ hàng, bè bạn, thời thơ ấu, thời thiếu nữ, shopping…Bài nào cũng hay.
Cô ấy lại siêng viết mỗi ngày nên thu hút được cả mấy trăm ngàn lượt
người đọc. Đến con từng là học sinh giỏi Văn mà cũng phải gật gù tấm
tắc khi đọc lốc cô ấy.

- Nhưng tại sao con biết ba con có lốc và quan tâm đến lốc cô ấy?

- Bạn con cho con ling (link) của lốc Ướtmi, con đọc thấy thích
nên ạt Ướtmi vàolốc mình, rồi vào lít-phren của cô ấy và thấy ba.

- Sao con biết đó là ba?

- Mặc dù ba lấy níc là Rong Rêu, nhưng con vẫn biết đó là ba, vì cái a-va-
ta(avatar) ba đề là hình ba dắt con đi lãnh thưởng hồi học mẫu giáo, cái
hình trắng đen đó, mẹ nhớ không?

Tôi cười phá lên :

- Trời, ba con mà rong rêu nỗi gì, bình thường thấy ổng khô như ngói mà!

- Vậy là mẹ không hiểu ba rồi. Ba con là người rất giàu tình cảm, con
theo dõi lốcba cả năm nay nên con biết. Ba viết lại các kỷ niệm khi học
phổ thông, lên đại học, về hoa lá cỏ cây, quán cà phê, về cô N, cô X gì gì
mà ngày xưa ba yêu và yêu ba. Nhưng con thích nhất en-trai “Con gái
của ba”. Bài đó ba nói ba hối hận vì đã quát con khi con đòi đi học hip-
hop, ba nói là ba hiểu ai cũng có một thời tuổi trẻ, ba còn nhắc lại đã vui
khi thấy con biết lật, biết đi thế nào, đau lòng khi con bị sốt xuất huyết ra
sao…Nhờ đọc lốc ba mà con thương ba hơn đó.

- Vậy ba có nói gì về mẹ không?

- Dạ không.

Tôi lặng đi.

…Dạo này tôi không còn xem tivi buổi tối nữa. Tôi lên phòng bé Vy,
đọc lốc anh và lốc “người ta” dưới sự hướng dẫn của chuyên viên mạng là
con tôi. Tôi đọc kỹ từng en-trai của anh, từng com-măng người ta gửi cho
anh và anh đáp trả người ta. Không ngờ chồng tôi “trẻ hóa” quá…

Con tôi bảo:

- Cô ấy ạt ba sau khi đọc một en-trai của ba có nhắc đến tên cô ấy.

Tôi dò tìm :

- “…Những người ưa che giấu nỗi buồn thường là những người buồn lâu
và buồn sâu nhất. Mong Ướtmi đủ bản lãnh vượt qua những giai đoạn khó
khăn trong đời…”

Và đây là com-măng của người ta :

- “Cảm ơn moungu chưa quen bao giờ nhưng lại thấu hiểu một ngóc
ngách tâm hồn của Ướtmi…Cho phép Ướtmi ạt bạn vào phren nhé!”

Và en-trai này :

- “Hôm nay bé Mía sốt cao quá. Mình đã gọi cho anh hai lần, nhưng lần
nào anh cũng từ chối. Mình hiểu là anh đang có nhiều công việc, nó ngăn
không cho anh chạy về với mẹ con mình như ngày nào…”

Cũng từ en-trai này mà con tôi cho rằng mẹ sắp mất ba :

- Ba không cầm lòng được nên đã đi mua một con gấu bông. Con không
biết ba chuyển bằng cách nào mà mấy ngày sau khi bé Mía lành bệnh, cô
ta đã post hình đứa bé ôm con gấu trắng lên, rồi viết là “Chú Rong Rêu
ơi, chú chưa biết bé Mía thương con gấu thế nào đâu. Không có nó là bé
không chịu ngủ đâu!”

- Thôi, con không nên nghĩ ngợi lung tung. Chuyện ba tặng quà cho một
đứa trẻ cũng thường thôi.

Con tôi cong môi nói :

- Không đâu, ba tặng vì thương mẹ nó ấy chứ.

Tôi trấn an con mà lòng dạ nào yên. Không ngờ cái thế giới tưởng chừng
như vô thưởng vô phạt, “sắc sắc không không” đó lại có thể khiến chồng
tôi dành công sức và thời gian cho nó đến vậy.
Nơi đó, anh tự do hồi tưởng, tự do mơ mộng, tự do độc thoại, cũng như
đối thoại và mong ngóng chia sẻ. Nơi đó không có người đàn bà ngoài 50,
vóc dáng sồ sề, tối ngày chỉ biết còng lưng lo chuyện tiền nong, cơm
nước, cằn nhằn. Nơi đó toàn là những đôi cánh thiên thần thuần khiết và
ăm ắp xúc cảm. Chuyện đời đẹp như thơ như tranh.

Tôi biết phải làm gì bây giờ? Chẳng lẽ nhờ con biến mình thành một “lốc-
gờ”. Hay là tôi sẽ cam phận…mất chồng, như con tôi đang dự đoán ?
Chuyện phiếm của Gã Siêu
INTERNET

Cách đây mười mấy năm, gã tậu được một chiếc máy vi tính và đã được
coi là hơi bị văn minh. Vì không phải là dân chuyên nghiệp, cho nên đối
với gã, chiếc máy vi tính được dùng thay cho chiếc máy chữ cổ lỗ sĩ. Ngồi
đánh văn bản không còn đau buốt những đầu ngón tay. Rồi lại còn có thể
chỉnh sửa theo ý muốn của mình. Bỏ chỗ này, thêm chỗ kia, thật là trên
cả tuyệt vời.

Sau đó, chiếc máy vi tính được nối mạng và gã có thể ngồi nhà mà liên
lạc với bè bạn khắp bốn phương thiên hạ. Đây quả thực là một phương
tiện phù hợp với chủ trương của gã, đó là ngon, bổ rẻ…

Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam” thì internet là mạng thông tin máy
tính toàn cầu, cho phép bất kỳ máy tính nào nối với mạng đều có khả
năng thông tin với các máy tính trên mạng thông qua một địa chỉ chính
xác. Mạng được xây dựng trên cơ sở hạ tầng viễn thông để cung cấp các
dịch vụ công cộng và dịch vụ cá nhân.

Internet được thai nghén và được hình thành tại Hoa Kỳ vào năm 1969.
Thuở ban đầu chỉ là một mạng máy tính của bộ Quốc phòng, có tên là
Arpanet, nhằm liên lạc thông tin giữa các trường đại học và các đơn vị
quân đội. Rồi từ đó cho đến nay, internet không ngừng được hoàn chỉnh
và được bàn dân thiên hạ, từ chú nhóc tì cho đến ông già đầu bạc, chiếu
cố và sử dụng.

Riêng tại Việt Nam, dịch vụ internet được chính thức khai trương vào
ngày 19 tháng 11 năm 1997. Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng internet tại
Việt Nam vẫn liên tục phát triền và có mặt khắp các hang cùng ngõ hẻm
của đất nước này.

Chắc hẳn không ai dám phủ nhận những lợi ích to lớn mà internet đã đem
đến cho nhân loại.

Trước hết, đây là một phương tiện liên lạc thông tin thật mau chóng. Gã
còn nhớ ngày xưa muốn viết và gửi một bài báo, thì phải tốn rất nhiều
công sức. Đồng thời, phải trừ hao ít nữa là hai tháng.

Trước hết, phải ngồi vào bàn đánh máy, rồi mang ra bưu điện gửi. Thời
gian bức thư được chuyển từ Việt Nam qua Thụy Sĩ là ba tuần hay một
tháng. Sau đó, tòa soạn phải đánh máy lại, dàn trang, in ấn và phát hành
cũng mất toi một tháng nữa. Còn bây giờ thì khỏe re. Viết xong chỉ cần
nhấn nút. Và trong giây lát, bài viết đã có mặt tại tòa soạn. Nhân viên tòa
soạn chỉ cần cắt dán và trình bày mà thôi.

Cũng vậy trong phạm vi liên lạc cá nhân. Viết và gửi một bức thư vừa vất
vả, lại vừa hao tốn thời giờ và tiền bạc. Còn bây giờ gửi một cái “meo” với
tài liệu đính kèm, vừa rẻ lại vừa mau. Chỉ hơi buồn cười một tí là viết
không có dấu, nên phải đoán. Và trong một vài trường hợp đã đoán sai,
đoán trật. Chẳng hạn hai chu “nghi ngoi”, co thể hiều là “nghỉ ngơi” hay
“nghĩ ngợi” tùy theo mạch văn. Và còn những chữ độc địa hơn nhiều.

Tuy nhiên, một lợi ích khác không kém phần quan trọng, đó là internet đã
cung cấp cho chúng ta một kho tài liệu thật đa dạng, thật phong phú, khả
dĩ làm cho chúng ta mở rộng tầm nhìn và trau dồi thêm được vô vàn kiến
thức. Internet được coi như là một cánh cửa mở rộng, để chúng ta đi vào
thế giới. Với internet, chúng ta có thể giải trí, có thể du lịch, có thể học
hỏi, có thể trao đồi kinh nghiệm…

Tuy nhiên, một đồng tiền có mặt sấp và mặt ngửa, mặt phải và mặt trái,
internet cũng có hai mặt : mặt tốt và mặt xấu, mặt lợi và mặt hại.

Cái hại đầu tiên mà bản thân gã đã phải hứng chịu, đó là internet đã biến
gã trở nên một tên ăn trộm, ăn cắp. Thực vậy, ngày xưa ngồi lọc cọc
đánh máy, nhưng gã lại rất tự hào, bởi vì bài nào viết ra, thì chính xác là
của gã, do gã đã đổ công sức của mình mà đầu tư cho bài viết ấy. Còn
bây giờ, với số lượng thông tin ồ ạt, khiến gã tối tăm cả mặt mũi. Cứ việc
liếc qua, thấy hay thì lưu vào kho tài liệu và khi cần, sẽ mang ra “chế
biến” mà xài đỡ.

Thành thử, gã cứ vô tư mượn đỡ, hay vô tư xài chùa của thiên hạ, miết
rồi trở thành một thói quen lúc nào cũng không hay. Thói quen này làm
thui chột khả năng sáng tác. Đầu óc không suy nghĩ, không làm việc, thì
cũng sẽ bị cùn dần và mòn dần đi với thời gian mà thôi.

Bây giờ, xin bàn tiếp mấy hiện tượng đang được bàn dân thiên hạ chú ý,
nhưng đồng thời cũng mang lại những hậu quả tai hại cho bản thân cũng
như cho gia đình, cho người già cũng như cho người trẻ.

Xin được nói ngay rằng gã không phải là một cư dân thường trú trên
mạng, nên chỉ lượm lặt những gì báo chí đăng tải, hay bàn dân thiên hạ
xì xèo mà thôi.

THỨ NHẤT LÀ…WEB ĐEN.

Đối với người phương Đông, chuyện tình dục là chuyện riêng tư, rất ít khi
được bàn luận một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật với bàn
dân thiên hạ. Đôi khi còn là điếu cấm ky.

Nhưng đối với người phương Tây thì lại khác, đây là một nhu cầu rất tự
nhiên, như ăn và uống. Vì thế, họ thường có thái độ thông thoáng và cởi
mở hơn. Cũng vì thái độ thông thoáng và cởi mở này, mà hằng ngày gã
nhận được không biết bao nhiêu thư rác, trong đó đa số đều nói đến
chuyện tình dục cũng như quảng cáo cho những loại thuốc, chẳng hạn
như viagra…

Hơn thế nữa, làm sao có thể kể hết những trang web trên internet bàn về
chuyện tình dục. Hằng hà sa số. Bất cứ nghĩ ra một chữ nào, gõ vào máy
rồi thêm cái đuôi…”com”, rồi nhấn nút. Thế là trang web đó sẽ hiện ra.

Ở Việt Nam, người ta gọi những trang web chuyên về tình dục với những
hình ảnh thuộc loại phim “con heo”, sỗ sàng, khích thích là những trang…
web đen.

Nhiều nhà giàu trang bị may vi tính cho con cái ở phòng riêng. Thấy con
suốt ngày cặm cụi học hành. Ai dè những cậu ấm va cô chiêu ấy suốt
ngày vùi đầu vào những trò chơi, hay đi lang thang vào những trang web
đen để sưu tầm hàng độc. Sao chép và truyền cho nhau, đề rồi cuối cùng
việc học hành bị sa sút. Sống vật vờ như kẻ mất hồn và thiếu ngủ.

Không phải chỉ bọn trẻ mới la cà trên những trang web đen cho thỏa mãn
óc tò mò và tính hiếu kỳ, mà ngay cả những người mang nặng tuổi đời
cũng vẫn chịu khó chui vào đó để tìm lấy cho mình những cảm giác
mạnh. Gã không nhớ rõ một tờ báo nào đó đã làm cuộc điều tra và cho
biết kết quả không ít người đã…”nghiện” những trang web đen này.

Chiếc áo vấy bẩn, ta có thể giặt đi giặt lại một cách dễ dàng. Thế nhưng,
một hình ảnh xấu, khi đã lọt vào trong tâm hồn, thì khó mà tẩy xóa cho
được. Nó sẽ cắm dùi và chiếm lấy tâm hồn làm nơi cư trú, để rồi bất kỳ
lúc nào nó cũng có thể hiện lên và nhảy múa trong đầu óc.

Kinh nghiệm cũng cho thấy : chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội
mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể, mà chắc chắn
Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.Từ những hình ảnh nhảy
múa trong đầu óc, đến những cám dỗ và từ những cám dỗ đến những
hành động tội lỗi, tất cả chỉ là những đoạn đường ngắn mà thôi.

Ở Việt Nam, số thanh thiếu niên phạm vào những trọng tội, như cướp
của, giết người, hãm hiếp…hình như mỗi ngày một gia tăng. Va khi được
hỏi tại sao lại hành động như thế, nhiều em đã trả lời tỉnh bơ :

- Thấy trên phim ảnh người ta làm vậy, nên bắt chước mà làm theo.

THỨ HAI LÀ…CHÁT.

Chát là trò chuyện, trao đổi thông tin trên mạng giữa hai hay nhiều người
bằng hình thức điện thư. Cái thế mạnh của chát là không ai biết được ai,
nên dân chát cứ mặc sức tung hoành.

Họ thường dùng những “nickname” thật ấn tượng để cho bàn dân thiên
hạ phải chú ý đến, chẳng hạn : quandui (quần đùi), emconcodon (em còn
cô đơn), chiconaothoi (chỉ còn áo thôi), taychoisungsuc (tay chơi sung
sức), natso (nát sọ), chemchamay (chém cha mày)…Những cái tên ấy
vừa ít văn hóa, vừa kém thẩm mỹ, lại vừa thiếu giáo dục, nhưng vẫn
được lôi lên mạng, khiến cho nhiều người phải giật mình và ngao ngán.

Vì không ai biết ai, nên họ tha hồ tán hươu tán vượn, với những lời lẽ sặc
mùi máu me thô tục khi họ chửi bới lẫn nhau, hay ủy mị ướt át khi họ nói
đến chuyện tình cảm và mời chào.

Tác giả Đinh Quý Anh, trong một bài viết trên báo “Công An Thành Phố”,
đã kể lại những ghi nhận của mình như thế này :

Chiều 12 tháng 10, tôi vào phòng máy tính trên đường Phạm Viết Chánh,
tại đây có trên 30 máy, đa số đã có người. Khách là những gương mặt
còn non choẹt, đang say sưa chơi game và tán dóc.

Lấy lý do tìm bạn, tôi lướt một vòng quanh phòng. Ngoài những nickname
khiêu chiến, khích bác lẫn nhau, nhiều tay chát còn thản nhiên trao đổi
chuyện tình rất sành điệu, trong khi tuổi đời của họ vẫn còn quá trẻ.

Một cô bé 14, hay 15 tuổi là cùng, mang nickname “ghientrai” (ghiền trai)
viết :

- Mình đã có một đời chồng, làm tình rất sõi.
Viết xong, cô bé cười ha hả vì đối phương đã bị đánh lừa. Tuy nhiên, bạn
chát của cô bé cũng rất cao thủ khi nhắn lại :

- Với một người từng làm đàn ông từ lúc 15 tuồi, thì đó chỉ là chuyện nhỏ.

Chẳng biết “người đàn ông” kia bao nhiêu tuổi, hay chỉ là một cô bé còn
thích ô mai, lấy nickname người lớn để đùa cợt.

Tôi hỏi một học sinh cấp ba ngồi bên phải :

- Tại sao em khoái chát ?

Chú nhóc cho biết :

- Vì thấy vui, tụi nó với mình chửi nhau thoải mái. Một vài người còn dạy
mình cách “cưa” con gái…nên muốn thử.

- Em không thấy là vượt quá sức mình à ?

- Chẳng sao cả. Chát chỉ là trò ảo, mọi người đều dối gạt nhau, không
riêng gì em. Chủ yếu là tìm cảm giác lạ.

Do tính chất ảo của chát, người ta tha hồ hoán đổi vị trí cho nhau : già
biến thành trẻ, còn trẻ thì lại biến thành già. Con giai biến thành con gái,
còn con gái thì lại biến thành con giai. Đờn ông biến thành đờn bà, còn
đờn bà thì lại biến thành đờn ông.

Hơn thế nữa, người ta lại còn mặc sức thêm râu thêm ria, vẽ vời về địa vị,
nghề nghiệp cũng như con người của mình, để lừa gạt đối phương.

Vừa mới làm quen trên mạng, chị L được người bạn trai mời đi hát
karaoke. Tại đây, trong lúc người bạn trai mời chị uống bia, thì tên bạn
hắn viện cớ vào toilet. Sau đó, người bạn trai lấy lý do ra ngoài để gọi
điện thoại, rồi cả hai tên đều chuồn mất tăm, đề lại chị ngồi một mình,
cùng với tờ hóa đơn trị giá 1,2 triệu đồng.

Có những ông chồng và những bà vợ, vì không được hạnh phúc, hay gặp
phải những khó khăn và rạn nứt trong gia đình, nên đã chọn chát làm nơi
trút bàu tâm sự. Họ say mê chát, bởi vì họ được thoải mái giãi bày những
hoàn cảnh éo le của mình.
Hơn thế nữa, người tình ảo trên mạng lại chẳng bao giờ gây phiền toái và
rắc rối cho họ. Trái lại, luôn “chiều” họ ở mọi nơi và trong mọi lúc. Cuối
cùng họ lấy ảo làm thực và lấy thực làm ảo, để rồi cuối cùng gia đình họ
chắc chắn sẽ đứng bên bờ vực thẳm của đổ vỡ.

Tệ hại hơn nữa, chát còn là nơi “mần ăn” của gái mãi dâm. Thực vậy, các
chị em ta cũng đua nhau lên mạng để săn tìm khách làng chơi. Nếu đồng
ý, thì sẽ cho ngắm “hàng” qua webcam, để dễ bề trả giá, biến chát trở
thành một cái bẫy moi tiền của những “con nai vàng ngơ ngác”, hay của
những kẻ ham của lạ và thích chơi trống bỏi.

Tóm lại, một số người đến với chát để học hỏi, để trao đổi kinh nghiệm,
để chia sẻ những tâm tình chân thật, cũng như để kiếm tìm cho mình một
chút tình cảm, vốn đã bị thiếu hụt nơi bản thân, hay trong cuộc sống gia
đình.

Tuy nhiên, nhiều người khác đến với chát cốt để tán dóc, để chửi bới, đề
dối gạt, để nói những chuyện tầm bậy tầm bạ. Họ đã vô tình biến một
sân chơi vốn lành mạnh, dành cho những người bạn lâu ngày muốn gặp
nhau để trao đồi thông tin, thành một đám xà bần hổ lốn, mang nhiều
tính cách độc hại, hơn là đem lại những lợi ích thiết thực.

THỨ BA LÀ LỐC (BLOG)

Hiểu một cách đơn giản, lốc là một thứ nhật ký điện tử mà người khác
cũng có thể tham dự. Chẳng hạn gã đưa ra một quan điểm và người khác
cũng có thể gửi vào đó những ý nghĩ, những suy tư của mình.

Theo tac giả Kim Cúc của báo Gia Đình, thì trong thời gian gần đây, lốc
nở rộ như một sân chơi cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ.

Với lốc, họ thể hiện được những cá tính của mình một cách cởi mở và tự
nhiên, chẳng hạn khả năng làm báo trên mạng, phản ảnh sinh động cuộc
sống của giới trẻ.

Với lốc, họ là những ông vua của thế giới mạng, một thế giới không biên
cương. Chính vì tự coi mình là một ông vua, nên nhiều người đà biến lốc
trở thành một thế giới ích kỷ, một nơi truyền bá những quan điểm thiếu
lành mạnh của mình.

Một cậu học trò lớp 11 đã dành mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ để viết và trang
trí cho lốc của mình. Đồng thời, qua đó cậu hô hào chống lại sự “chuyên
chế” của gia đình, mà cậu gọi đó là “thuộc địa của những lễ giáo phong
kiến”. Mỗi ngày cậu đưa lên mạng khuôn mặt “tội nghiệp” của mình sau
những trận “tra tấn” bằng cách răn dạy của cha mẹ. Thỉnh thoảng cậu lại
bỏ nhà đi chơi, có khi một hai ngày và cậu rất tự hào coi đó là những
“cuộc đào tẩu thoát khỏi sự kìm kẹp của cha mẹ”.

Hành động này đã gây nên những hậu quả rất tai hại, vì đám bạn cậu rất
ủng hộ lập trường của cậu và tôn cậu lên làm “đại ca”. Thỉnh thoảng cả
đám bạn này cùng với đại ca của mình lại trốn nhà đi chơi, tiêu phí tiền
bạc của cha mẹ.

Một cô bé khác với biệt danh là “búp bê Bắc Kinh” lại quảng bá cho lập
trường yêu chuộng tự do của mình. Cô bé phát biểu :

- Con gái ở xứ mình đến hắt xì hơi cũng phải xin phép.

Vì thế, cô bé hô hào giới trẻ vùng dậy chống lại mọi thứ lễ giáo, chống lại
cha mẹ và những người vốn đặt ra luật lệ kỷ cương và kìm hãm sự phát
triển.

Những lốc như trên phải chăng là một kiểu tuyên truyền cho những tư
tưởng độc hại?

Ngoài những lốc mang nặng tính cách đấu tranh, phổ biến những quan
điểm lệch lạc, còn có những người đã biến lốc của mình thành một trang
web đen, bằng cách phóng lên đó những hình ảnh khiêu gợi, những hình
ảnh chụp lén ở ngoài đường hay ở những nơi sinh hoạt công cộng khác.
Cùng với những hình ảnh này là những lời chú thích đầy khiêu khích. Tất
cả đều được coi là thứ hàng độc, là một cách chơi trội để hơn người khác.

Lốc không phải chỉ ảnh hưởng tới giới trẻ, mà đôi khi còn làm tê liệt đời
sống gia đình. Gã không có kinh nghiệm gì về vấn đề này, nên xin trích
một vài đoạn trong một bài viết của Nguyên Phương, đăng trên báo Phụ
Nữ Chủ Nhật, số ra ngày 15 tháng 4 năm 2007, như sau :

…Vợ chồng tôi cưới nhau đã hơn 20 năm. Cuộc sống của chúng tôi tương
đối đầy đủ vì cả hai đều có thu nhập ổn định. Bé Vy, con gái duy nhất của
chúng tôi, đang theo đại học năm cuối.

… Một bữa, Vy đi học về sớm, nhìn tôi chăm chăm :

- Mẹ, có khi nào mẹ…mất ba không?


Tôi chưng hửng:

- Con ăn nói gì kỳ vậy, Vy?

- Con không kỳ đâu, mẹ theo con.

Con bé lôi tôi vào phòng như một cơn lốc, bật CPU.

- Gì vậy con, để mẹ nấu cơm.

- Mẹ cứ lo nấu cơm đi, có ngày mất ba thiệt đó.

- Là sao, con giải thích cụ thể đi.

- Mẹ biết lốc không?

- Lốc hả, mẹ có nghe nói, nhưng liên quan gì đến ba con?

- Mẹ ơi, ba tạo lốc lâu rồi, pây-viu (page views) đã lên tới mấy chục
ngàn, lít-phren (list friends) hơn cả trăm người.

- Ừ, thì sao?

- Thì ba bắt đầu quan tâm tới mấy lốc-gờ (blogger) khác chứ sao!

- Trời ơi, con nói cái gì mẹ không hiểu?

- Có gì mà không hiểu, mỗi người trên thế giới mạng tạo cho mình ít nhất
mộtlốc, đặt níc-nem (nickname), đì-zai (design) theo gu của mình, rối
bắt đầu viếten-trai (entry). Lốc nào có nhiều en-trai hay sẽ được đông
đảo lốc-gờ theo dõi,còm-măng (comment), đòi ạt (add)…

- À, vậy là ba con viết an-trai hay nên có nhiều người còm-măng và
đòi ạt hả?

- Ba con viết cũng hay, nhưng có nhiều người hay hơn. Trong
số phren của ba nổi bật một lốc-gờ có níc (nick) là Ướtmi. Cô này viết về
tổ ấm của mình…

- Trời, tưởng gì, cái đó mẹ cũng viết được vậy. Mẹ cũng có ba, có con.
Con tôi khẳng định chắc nịch làm tôi cụt hứng :

- Không dám đâu! Mẹ sẽ không bao giờ viết được như cô ấy. Vì cô ấy tỏ
ra rất sâu sắc, rất nhạy cảm tinh tế và dặc biệt là rất “prồ” nữa. Bên cạnh
những trang viết về chồng con, cô ấy còn có những bài rất hay về ba mẹ,
họ hàng, bè bạn, thời thơ ấu, thời thiếu nữ, shopping…Bài nào cũng hay.
Cô ấy lại siêng viết mỗi ngày nên thu hút được cả mấy trăm ngàn lượt
người đọc. Đến con từng là học sinh giỏi Văn mà cũng phải gật gù tấm
tắc khi đọc lốc cô ấy.

- Nhưng tại sao con biết ba con có lốc và quan tâm đến lốc cô ấy?

- Bạn con cho con ling (link) của lốc Ướtmi, con đọc thấy thích
nên ạt Ướtmi vàolốc mình, rồi vào lít-phren của cô ấy và thấy ba.

- Sao con biết đó là ba?

- Mặc dù ba lấy níc là Rong Rêu, nhưng con vẫn biết đó là ba, vì cái a-va-
ta(avatar) ba đề là hình ba dắt con đi lãnh thưởng hồi học mẫu giáo, cái
hình trắng đen đó, mẹ nhớ không?

Tôi cười phá lên :

- Trời, ba con mà rong rêu nỗi gì, bình thường thấy ổng khô như ngói mà!

- Vậy là mẹ không hiểu ba rồi. Ba con là người rất giàu tình cảm, con
theo dõi lốcba cả năm nay nên con biết. Ba viết lại các kỷ niệm khi học
phổ thông, lên đại học, về hoa lá cỏ cây, quán cà phê, về cô N, cô X gì gì
mà ngày xưa ba yêu và yêu ba. Nhưng con thích nhất en-trai “Con gái
của ba”. Bài đó ba nói ba hối hận vì đã quát con khi con đòi đi học hip-
hop, ba nói là ba hiểu ai cũng có một thời tuổi trẻ, ba còn nhắc lại đã vui
khi thấy con biết lật, biết đi thế nào, đau lòng khi con bị sốt xuất huyết ra
sao…Nhờ đọc lốc ba mà con thương ba hơn đó.

- Vậy ba có nói gì về mẹ không?

- Dạ không.

Tôi lặng đi.

…Dạo này tôi không còn xem tivi buổi tối nữa. Tôi lên phòng bé Vy,
đọc lốc anh và lốc “người ta” dưới sự hướng dẫn của chuyên viên mạng là
con tôi. Tôi đọc kỹ từng en-trai của anh, từng com-măng người ta gửi cho
anh và anh đáp trả người ta. Không ngờ chồng tôi “trẻ hóa” quá…

Con tôi bảo:

- Cô ấy ạt ba sau khi đọc một en-trai của ba có nhắc đến tên cô ấy.

Tôi dò tìm :

- “…Những người ưa che giấu nỗi buồn thường là những người buồn lâu
và buồn sâu nhất. Mong Ướtmi đủ bản lãnh vượt qua những giai đoạn khó
khăn trong đời…”

Và đây là com-măng của người ta :

- “Cảm ơn moungu chưa quen bao giờ nhưng lại thấu hiểu một ngóc
ngách tâm hồn của Ướtmi…Cho phép Ướtmi ạt bạn vào phren nhé!”

Và en-trai này :

- “Hôm nay bé Mía sốt cao quá. Mình đã gọi cho anh hai lần, nhưng lần
nào anh cũng từ chối. Mình hiểu là anh đang có nhiều công việc, nó ngăn
không cho anh chạy về với mẹ con mình như ngày nào…”

Cũng từ en-trai này mà con tôi cho rằng mẹ sắp mất ba :

- Ba không cầm lòng được nên đã đi mua một con gấu bông. Con không
biết ba chuyển bằng cách nào mà mấy ngày sau khi bé Mía lành bệnh, cô
ta đã post hình đứa bé ôm con gấu trắng lên, rồi viết là “Chú Rong Rêu
ơi, chú chưa biết bé Mía thương con gấu thế nào đâu. Không có nó là bé
không chịu ngủ đâu!”

- Thôi, con không nên nghĩ ngợi lung tung. Chuyện ba tặng quà cho một
đứa trẻ cũng thường thôi.

Con tôi cong môi nói :

- Không đâu, ba tặng vì thương mẹ nó ấy chứ.

Tôi trấn an con mà lòng dạ nào yên. Không ngờ cái thế giới tưởng chừng
như vô thưởng vô phạt, “sắc sắc không không” đó lại có thể khiến chồng
tôi dành công sức và thời gian cho nó đến vậy.
Nơi đó, anh tự do hồi tưởng, tự do mơ mộng, tự do độc thoại, cũng như
đối thoại và mong ngóng chia sẻ. Nơi đó không có người đàn bà ngoài 50,
vóc dáng sồ sề, tối ngày chỉ biết còng lưng lo chuyện tiền nong, cơm
nước, cằn nhằn. Nơi đó toàn là những đôi cánh thiên thần thuần khiết và
ăm ắp xúc cảm. Chuyện đời đẹp như thơ như tranh.

Tôi biết phải làm gì bây giờ? Chẳng lẽ nhờ con biến mình thành một “lốc-
gờ”. Hay là tôi sẽ cam phận…mất chồng, như con tôi đang dự đoán ?
CÁI MẶC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Bài trước đã nói về cái ăn, nên bài này xin bàn về cái mặc, để đáng được gọi là đủ trò, đủ kiểu, đủ thứ
ăn chơi.

Rảo qua một vòng báo chí, gã thấy người ta đã dành nhiều giấy bút, nhiều chữ nghĩa, nhiều hình ảnh
cho vấn đề thời trang. Đúng là thời trang đang ở vào thời điểm cực thịnh, trăm hoa đua nở.

Nào là thời trang xuân, hạ, thu, đông, cho dù ở miền Nam đất nước này chỉ có hai mùa là nắng và mưa.

Nào là thời trang áo dài. Nào là thời trang dạ hội, cho dù nhiều người từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi
‘’rình sinh thì’’ cũng chẳng hề biết dạ hội là cái đí gì.

Nào là thời trang tuổi ba bi lắc, tuổi học trò, tuổi sồn sồn của các bà mẹ và ông bố, tuổi các vị bô lão gần
đất xa trời.

Người ta khoác vào những bộ áo quần lạ mắt, nhiều lúc đến kinh dị và quái đản mà lôi lên sân khấu từ
anh liền ông đến chị liền bà, từ thằng cu tí đến bà cụ già khú đế. Thôi thì tất tật nam phụ lão ấu, già trẻ
lớn bé đều có mặt.

Người ta tổ chức biểu diễn thời trang ở mọi nơi và trong mọi lúc. Từ những thành phố lớn cho chí đến
những quận huyện xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy. Chỉ cần dăm bảy cô nường lượn ra lượn vào, đi tới đi
lui cũng đủ để mà câu khách.

Ở Việt Nam, nghề làm người mẫu thời trang mới bắt đầu nảy mầm trong những năm tháng gần đây, nên
chưa có được một đội ngũ chuyên nghiệp.

Phần đông những người tham gia biểu diễn thời trang là những người mẫu ngẫu hứng qua cầu, những
người mẫu thậm chí có khi còn phải ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Lúc lên sân khấu thì hào nhoáng
bóng lộn, nhưng khi về nhà thì cũng vẫn chịu khó chui vô bếp vét tí cơm nguội dằn lòng.

Còn ở nước ngoài, có những cô người mẫu, mà một buổi trình diễn luợn ra lượn vào, đi tới đi lui dăm bảy
lần là đã kiếm được một khoản tiền khổng lồ mà anh chàng nông dân chất phác khố rách áo ôm, quần
quật đổ mồ hôi sôi nước mắt trên ruộng đồng suốt một đời cũng chả dám tơ tưởng đến.

Vậy thời trang, mốt miếc là đí gì ?

Nếu định nghĩa một cách nghiêm chỉnh, nói có sách mách có chứng, thì theo ‘’Việt Nam tự điển’’ của Lê
văn Đức :

- Thời trang là cách ăn mặc, trang điểm theo thời.

Còn mốt miếc, xuất phát từ tiếng tây, có nghĩa là :

- Kiểu cọ này kia.


Và như trên đã nói :

- Có những kiểu cọ thật kinh dị và quái đản, người ta khoác vào để lên sân khấu biểu diễn, chứ đố chị
nào đủ can đảm mặc vô trong đời thường của mình.

Suy gẫm về hiện tượng thời trang, gã thấy nó chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi từ thái cực này đến thái
cực kia. Gã xin đưa ra một vài thí dụ.

Trước hết là thái cực từ cao đến thấp rồi từ thấp đến cao, mà tiêu biểu là chiếc áo dài Việt Nam.

Thời gã còn để chỏm, thì các bậc đàn chị mặc áo dài có cái cổ cao cả tấc, cái vạt thì dài chấm đất, còn
cái eo thì phải thắt như eo con ong.

Cùng với thời gian, cái cổ cứ ngắn dần để rồi không còn nữa, thậm chí đã được khoát sâu đến tận ngực,
đi tiền phong cho chiếc áo dài hở cổ này hình như là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của ông cố vấn Ngô đình
Nhu.

Còn tà áo thì cứ vén lên, vén lên mãi, thậm chí trên cả đầu gối và người ta gọi đó là mốt áo dài mini.

Thế nhưng bây giờ, trải qua một cuộc bể dâu với mấy chục năm biến hóa theo kiểu thanh hải biến vi
tang điền rồi tang điền biến vi thanh hải, có nghĩa là biển xanh biến thành ruộng dâu rồi ruộng dâu biến
thành biển xanh, chiếc áo dài dường như lại muốn trở về điểm khởi hành của nó.

Tiếp đến là thái cực dài và ngắn mà tiêu biểu là cái váy.

Đừng tưởng rằng cái váy là y phục đặc thù của Phương Tây dành cho liền bà, và đôi khi cũng dành cho
cả liền ông nữa. Cụ thể là các chàng trai Tô cách lan vẫn khoái mặc váy cho thêm phần mát mẻ.

Có thể nói về cái khoản này, người Việt Nam chúng ta đã đi trước một bước. Bởi vì các cụ bà ngày xưa
cũng đã từng mặc váy, thế nên mới có câu đố :

- Cái thúng mà thủng hai đầu,

Bên ta thì có, bên Tàu thì không.

Thế nhưng cái váy đã bị đào thải nơi những cụ bà từ lâu, để rồi bây nó lại được tái xuất giang hồ nơi
những cô gái trẻ với một phong cánh mới, phong cách của Âu Mỹ !

Ngày xưa ở bên Tây, các cô gái nhà lành, đoan trang và đứng đắn, chiếc váy phải dài quét đất, thậm chí
người ta còn đặt vào phía trong cả một cái khung cho nó được phồng to.

Rồi chiếc váy cứ được cắt ngắn dần, tới bắp chân, tới đầu gối, rồi trên cả đầu gối cho đến chỗ không thể
cắt được nữa, và người ta gọi đó là cái “mini jupe”.

Khi mini không còn hợp thời, người ta lại bắt đầu thả xuống, thả xuống cho tới quét đất và người ta gọi
đó là cái váy maxi.

Từ maxi tới mini, rồi từ mini tới maxi, chỉ là vấn đề thời gian và sáng kiến của các tạo mốt để hốt tiền liền
bà con gái !

Sau cùng là thái cực dày và mỏng.

Ngày xưa các cụ ta thường bảo :

- Ăn chắc mặc bền.

Mà muốn bền thì phải dày. Thế nhưng dưới ảnh hưởng của thời trang, vải cứ mỏng dần mỏng dần, thậm
chí còn siêu mỏng và trong suốt, khiến cho người mặc và kẻ nhìn người mặc đều chia sẻ chung cùng một
cảm giác là có cũng như không !

Rồi từ siêu mỏng người ta tìm về với những thứ dày. Chẳng hạn áo lông thú. Đây là một kiểu cọ đắt tiền
và đang bị lên án. Bởi vì để có một cái áo lông chồn, người ta phải giết chết bao nhiêu con chồn thì mới
đủ.

Nữ tài tử Brigitte Bardot, trong tuổi xế chiều, với lòng yêu thương và bảo vệ súc vật đã từng lên tiếng chỉ
trích. Và cách đây mấy năm, người ta đã xuống đường ở bên Nhật để phản đối những kẻ mặc áo lông
thú.

Chả hiểu ông Thánh Gioan tiền hô, nếu sống vào thời buổi hôm nay, thì sẽ nghĩ thế nào, bởi vì Phúc Âm
đã nghi lại :

- Trong hoang địa, ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng giây da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng !

Tiếp tục suy gẫm, gã thấy hiện tượng thời trang xuất hiện rất sớm trên mặt đất này.

Sách Sáng Thế Ký kể lại rằng :

- Sau khi phạm tội, tức khắc Adong và Evà nhận thấy mình trần truồng, nên lấy lá vả kết lại mà che
thân.

Phải chăng đó là cái mốt đầu tiên của con người.

Tiếp đến, sau khi tuyên phạt Adong Evà, Thiên Chúa đã làm cho mỗi người một chiếc áo bằng da.

Phải chăng đó là cái mốt thứ hai do chính Thiên Chúa đã thiết kế.

Cùng với khí hậu khắc nghiệt, con người đã phải chế tạo ra những thứ quần áo khác để giữ lại sự ấm áp
cho cơ thể.

Thế là chúng ta thấy rõ được mục đích của áo quần ngay từ thuở ban đầu. Đó là che để khỏi hở và mặc
để khỏi lạnh… Đúng như các cụ ta ngày xưa đã bảo :

- Ăn no mặc ấm.

Tuy nhiên, cuộc sống vẫn cứ liên tục phát triển. Từ kiếp du mục nay đây mai đó, con người bắt đầu định
cạnh định cư, xây dựng và phát triển nông nghiệp, rồi công nghiệp và kỹ nghệ.
Vật chất và tiền bạc càng được thu nhập nhiều, thì cuộc sống được càng nâng cao. Và từ một cuộc sống
được nâng cao, người ta không còn cần phải ăn no mặc ấm nữa, mà bèn nghĩ ngay đến chuyện ăn ngon
mặc đẹp.

Và thế là như nấm mọc ào ào sau cơn mưa, thời trang đua nhau ra lò, các thứ mẫu mã cứ thay nhau
xuất hiện, liên tu bất tận đến cả quỉ thần cũng không lường nổi.

Đồng thời, các mục đích thuở ban đầu cũng dần bị chìm vào quên lãng.

Thực vậy, ngày xưa vì hở nên mới phải che, còn bây giờ nghệ thuật của thời trang dường như là che để
mà hở.

Thực vậy, đã có những bộ quần áo cực kỳ khiêu khích. Khiêu khích ví quá mỏng và quá xẻ. Khiêu khích vì
quá ngắn và quá nghèo, để rồi che đấy mà vẫn hở đấy và hở một cách cố ý.

Ngày xưa vì lạnh nên mới phải mặc, còn bây giờ dù trời có lạnh, người ta vẫn chịu khó mặc phong
phanh.

Gã còn nhớ hồi ở trên Đà Lạt, thời gian lạnh nhất là vào khoảng từ lễ Giáng Sinh cho đến Tết Nguyên
đán, trời rét căm căm, thế mà quí “nường” vẫn cứ anh dũng chơi váy ngắn, đóng mini jupe mà thênh
thang, dung dăng dung dẻ, dắt nhau qua lại bên bờ hồ bởi vì lúc bấy giờ mốt mini đang ở vào thời hoàng
kim của nó.

Trong những năm gần đây, tại Việt Nam các bà các cô rất ưa mốt quần đùi, hay đúng hơn là quần “xẩng
lẩng”, một thứ quần-dài quá-ngắn, hay một thứ quần-đùi-quá-dài, bởi vì nó lửng lơ ở khoảng đầu gối.

Từ già đến trẻ, từ bé tới lớn, từ thành thị đến nông thôn, quí cô quí bà, kể cả những bà ở lứa tuổi “chiều
tà bóng ngả về tây”, gần đất xa trời, hay gần trời xa đất nếu nói theo kiểu đức tin của con nhà có đạo,
cũng đều thích vận thứ quần này, chỉ tội nghiệp cho những cặp giò vừa to lại vừa đen.

Dù thế nào chăng nữa thì người vẫn là một con vật biết may mặc. Chẳng hiểu phát biểu như thế có
phảng phất hơi hướm một thứ triếy lý rẻ tiền và lẩm cẩm quá hay không ?

Để kết luận tôi xin đưa ra hai quan điểm khác biệt nhau về áo quần.

Bên đông phương thì nói :

- Yphục xứng kỳ đức.

Có nghĩa là cách ăn mặc phải xứng hợp với đức hạnh. Người thế nào thì phải ăn mặc thế ấy. Đồng thời,
qua cách ăn mặc, thiên hạ sẽ nhận ra và đánh giá được con người chúng ta.

Còn bên Tây phương thì bảo :

- L’ habit ne fait pas le moine.

Có nghĩa là chiếc áo không làm nên thầy tu. Áo quần chỉ là chuyện nhỏ, không làm nên nhân cách của
một con người.
Vì thế, quần áo cũng như xiêm y bên Tây phương có phần thông thoáng, tươi mát và “nghèo nàn” hơn.

Xuất phát từ hai quan niệm trên, mà thời trang mỗi nơi đều có những khác biệt, những đặc tính riêng.

Tuy nhiên, với nền văn minh tin học hiện nay, cái gì bên tây vừa mới có thì lập tức bên ta cũng có, bằng
cách cóp pi mà chẳng phải trả một đồng xu cắc bạc nào cho quyền lợi của tác giả.

Và rồi thời trang được pha trộn, nửa đông nửa tây, nửa nạc nửa mỡ, hay nói một cách khác, thì “đầu
anamít, đít phăng xe”.

Thực vậy, gã đã từng nhìn thấy có những chiếc áo, nửa trên là áo dài Việt nam, còn nửa dưới lại là chiếc
váy của dân tây phương, hay ngược lại, nửa trên là áo dạ hội của dân tây phương, còn nửa dưới lại xẻ tà
theo áo dài Việt Nam.

Có một anh chàng lính Mỹ được gửi đi oánh nhau tại Việt Nam. Anh ta rất thích chiếc áo dài, nhất là khi
chiếc áo dài này được những cô gái Việt Nam mặc vào thì thật là tuyệt vời : vừa dịu dàng lại vừa kín
đáo.

Vì thế, anh ta bèn tới một cửa tiệm nổi tiếng tại Saigon, đặt may một chiếc áo dài theo đúng kích thước
và vóc dáng của chị vợ, rồi gửi về quê nhà làm quà tặng, nhân ngày sinh nhật của chị vợ.

Chị vợ hớn hở mặc thử, nhưng lại chẳng dám thò mặt ra ngoài đường để chiềng làng, khoe khoang với
bà con lối xóm.

Ban tối, chị ngồi tâm sự và viết cho anh :

- Chiếc áo anh tặng, em mặc vào đẹp ơi là đẹp, nhưng sao mà nó…khêu gợi quá, ”sexy” quá, còn hơn cả
xường xám Hồng kông xẻ ngược lên tới tận… Chẳng hiều những cô gái bên đó có dám mặc để đi bát phố
không đấy. Nếu có thì quả là thiên hạ tha hồ mà rửa mắt.

Anh chàng lính Mỹ không hiểu chị vợ muốn nói gì. Sau cả tiếng đồng hồ suy nghĩ, anh ta mới vỗ đùi đánh
đét một cái rồi nhủ thầm :

- Chết cha tôi rồi. Đúng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Té ra anh chàng lính Mỹ này gửi áo dài về cho chị vợ mà quên béng đi mất chiếc….quần dài. Thế mới
rách việc.

Còn bạn, nhất là phe kẹp tóc, bạn nghĩ gì về trời trang cũng như mốt miếc ?

Và nhất là bạn sẽ may sắm cho mình như thế nào ?


CÁI LƯỠI - Chuyện phiếm của Gã Siêu
CÁI LƯỠI

Ngày xưa có một ông vua nước Ai Cập gửi cho nhà hiền triến Bias một con vật vừa quí lại vừa hiếm để tế
lễ các thần minh. Thế nhưng ông vua này muốn chơi khăm nhà hiền triến một vố, bèn phán :

- Sau khi cúng kiếng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất lại vừa xấu nhất nơi con vật quí
hiếm ấy.

Nhà hiền triết cũng không phải là tay vừa, bèn xẻo ngay cái lưỡi mà trao cho ông vua.

Cử chỉ đó gián tiếp nói lên rằng :

- Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu không biết sử
dụng.

Đúng thế, cái lưỡi là một bộ phận quan trọng để phát ra tiếng nói. Hồi tôi còn bé, mẹ gã thường răn đe :

- Con mà chửi tục, thì cái lưỡi sẽ thụt vào trong cổ, để rồi từ rày mà đi cho đến lúc rình xinh thì sẽ chẳng
còn nói năng được nữa !

Hay :

- Con mà chửi tục, ông ba bị nghe thấy, thì ông ấy sẽ cắt ngay cái lưỡi để xơi…tái.

Và như chúng ta đã thấy :

- Tiếng nói là một phương tiện hữu hiệu để chuyển đạt cho người khác biết những tư tưởng, những ý
nghĩ, những ước muốn thầm kín ấp ủ tận đáy tâm can tỳ phế, nhờ đó bắc lấy một nhịp cầu cảm thông.

Chính vì thế, mấy ông triết gia đã phát biểu :

- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói. Sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy ngàn
đời vẫn không thây đổi.

Một kẻ câm ú a ú ớ, diễn tả bằng cử điệu thật là vất vả và người không quen cũng khó mà hiểu được
những cử điệu ‘’búa xua’’ ấy.

Tuy nhiên, cái lưỡi cùng với lời nói lại là điều chúng ta thường hay vấp phạm hơn cả, bởi vì chúng ta có
thể vấp phạm bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào và bất kỳ với ai.

Do đó Kinh thánh đã bảo :

- Số người chết vì cái lưỡi thì nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo ngoài chiến trường.
Và tục ngữ dân Ăng lê cũng xác quyết :

- Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.

Trước hết là trong lãnh vực gia đình.

Nhiều khi sóng gió nổi lên chỉ vì một lời nói nóng nảy và thiếu tế nhị.

Có một chị vợ cặm cụi nhổ cỏ ở thửa ruộng sau nhà. Theo sự phân công thì hôm đó anh chồng đóng vai
tề gia nội trợ. Và thế là anh chồng bèn trổ mấy món ruột của mình để lấy điểm ‘’mí’’ bà xã.

Mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng ròng. Khi đã nấu nướng xong, yên chí nhớn và hớn hở bắn một điếu
thuốc lào, anh chồng mới sai đứa con nhỏ ra mời mẹ.

Đứa bé chạy tới và nói :

- Bu ơi bu, bố bảo về ăn cơm.

Chẳng nói chẳng rằng, chị vợ vẫn cứ lặng lẽ nhổ cỏ.

Đứa bé trở về, mặt xụ xuống như bánh bao chiều.

Một lúc sau, anh chồng lại sai đứa khác ra mời, nhưng chị vợ vẫn cứ nín thinh cặm cụi nhổ cỏ.

Đứa bé trở về, mặt xìu xìu như trái bóng xì hơi.

Dường như không chờ đợi được nữa, vả lại sợ thức ăn để lâu sẽ nguội và mất ngon, nên lát sau anh
chồng liền sai đứa út ra mời, ông cười ruồi và thầm nghĩ trong bụng :

- Quá tam ba bận. Ba keo mèo phải mở mắt đứt đuôi con nòng nọc chứ còn gì.

Thế nhưng lần thì chị vợ lại tỏ ra tức tối. Chị ta đứng lên. Hai tay chống nạnh. Mắt long còng cọc như
một tia chớp. Miệng hét toáng chẳng khác gì sư tử rống :

- Bố con mày có hốc thì cứ việc hốc đi.

Trước sự nổi tam bành của chị ta, đứa út run cầm cập, ba chân bốn cẳng vội chạy về méc bố.

Đến đây thì chuyện phải đến ắt sẽ đến. Sau khi nhổ hết đám cỏ bợ, chị vợ đủng đỉnh về nhà. Thế nhưng
vừa mới tới sân thì hàng xóm đã phải nghe thấy những tiếng kêu la thất thanh :

- Ối giời ơi ! Ối đất ơi ! nó đánh tôi, nó giết tôi, làng nước ơi, cứu tôi với…

Rồi thì nồi niêu soong chảo, chổi cùn rế rách, mâm bàn chén đĩa cùng với những thứ cao lương mỹ vị thi
nhau bay ra ngoài sân, bởi sức người chịu đựng có hạn. Và lúc này đến lượt anh chồng đang nổi máu
yêng hùng, đùng đùng nổi trận lô đình như Trương Phi !
Giá như chị vợ biết nhún nhường và tế nhị một chút trong lời nói của mình thì đâu đến nỗi xảy ra sự việc
đáng tiếc kể trên. Còn thân thể ‘’liễu yếu đào tơ’’ của chị ta đâu đến nỗi tím bầm và lãnh đủ những thứ
cú thượng cẳng chân hạ cẳng tay của đức ông chồng, ‘’vai năm thước rộng, thân mười thước cao’’, như
vóc dáng của anh chàng Từ Hải trong truyện Kiều !

Bởi đó, tục ngữ đã dậy :

- Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cười tươi hỏi rằng anh giận gì.

- Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.

Còn nếu ông cũng ghê bà cũng gớm, thì chắc chắn phải kết thúc bằng xô xát, bằng tan hoang và đổ vỡ.

- Bên thẳng thì bên phải chùng

Hai bên đều thẳng thì cùng đứt dây.

- Bên giận thì bên phải lùi

Hai bên cùng giận thì… dùi nó quăng.

Cho nên, muốn gia đình được êm ấm thì phải biết nhường nhịn và tha thứ :

- Một sự nhịn là chín sự lành.

Đồng thời phải biết phát ngôn cho êm dịu và tế nhị, bởi vì :

- Lời nói chẳng mất tiền mua

Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Tiếp đến là trong tương quan xã hội, trong mối liên hệ với người khác.

Hẳn rằng, đã có lần chúng ta bực bội tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng
lưỡi thâm độc và xảo trá của người đời. Bởi vì dư luận vẫn thường là luận dư, lời đôn thổi bao giờ cũng
phóng đại tô màu, chẳng biết đâu mà lường :

- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Hay như ca dao đã diễn tả :

- Ở sao cho vừa lòng người


Ở rộng người cười ở hẹp người chê

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn

Béo chê béo trục béo tròn

Gầy chê xương sống, xương sườn hở ra.

Tuy nhiên, chúng ta không thể nào sống cu ky, đơn độc, lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như
một pháp đài biệt lập. Trái lại, sống là sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này,
chúng ta không thể tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền.

Nếu biết dùng những lời nói ôn tồn, chúng ta sẽ hóa giải được những thù oán, triệu tiêu được những
giận hờn, bởi vì mật ngọt chết ruồi. Người ta có thể giết được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn
là bằng cả một thùng dấm chua.

Một lời thiếu ý thức được sánh ví như một lon dầu đổ vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thiêu hủy hết
tình ruột thịt cũng như nghĩa bà con lối xóm.

Một lời nói vu oan có thể làm người khác mất hết tiền bạc, mất hết danh dự, tiêu tan sự nghiệp để rồi
thân bại danh liệt và đi vào thế giới lao tù.

Sau cùng là trên bình diện cá nhân.

Như chúng ta đã biết :

- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.

Dựa vào lời nói, người khác có thể biết được phần nào tâm hồn chúng ta. Dựa vào lời nói, thiên hạ sẽ
đánh giá con người và nhận rõ bộ mặt thực của chúng ta.

Nếu chúng ta nói những điều hữu lý, thiên hạ sẽ cho chúng ta là người tài giỏi và khôn ngoan. Nếu
chúng ta nói những điều vô lý, thiên hạ sẽ cho chúng ta là kẻ ngu ngốc và dại khờ. Nếu chúng ta nói
những điều xằng bậy, thiên hạ sẽ cho chúng ta là kẻ tầm phào và láo khoét.

Được yêu mến và kính trọng hay bị khinh bỉ và ghét bỏ một phần lớn là do bởi cái lưỡi và lời nói của
chúng ta.

Như thế, cái lưỡi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành uy tín và thế giá của mọi người,
như một câu danh ngôn đã bảo :

- Lưỡi người khôn ngoan tạo nên danh dự, còn mồm kẻ ngu dại gây đổ vỡ tan hoang.

Bởi đó, phải biết đắn đo cân nhắc, để tránh đi những lời lộng ngôn xúc phạm đến Đấng Tối Cao, những
lời chua cay độc địa nhằm hạ nhục uy tín người khác, cũng như những lời côc cằn tục tĩu làm hoen ố
những tâm hồn đơn sơ trong trắng, đồng thời bôi nhọ chính bản thân mình, vì ngậm máu phun người dơ
miệng mình.
Như thế, nếu không biết sử dụng cái lưỡi cho đúng đắn, thì lời nói sẽ là nguồn ngốc phát sinh rất nhiều
giống tội thay vì là một phương tiện giúp chúng ta cảm thông và xích lại gần nhau.

Êsôpe là một tên lô lệ, nhưng lại được ông chủ tên là Santô rất yêu mến và kính trọng.

Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Êsôpe ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo là mua những thứ
gì. Êsôpe bèn dinh về đủ các thứ lưỡi : lưỡi lợn, lưỡi bò và lưỡi ngựa… để nấu nướng.

Lạ miệng nên xơi ngon. Ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài bếp núc của Êsôpe. Rồi khen lấy
khen để.

Lần sau cũng có khách, ông chủ lại sai Êsôpe đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì, Êsôpe cũng
lại dinh về toàn những lưỡi là lưỡi, chỉ khác ở cách chế biến và thêm bớt gia vị.

Thấy vậy, ông chủ rất đỗi ngạc nhiên, còn Êsôpe thì kính cẩn làm một màn lý luận, bàn về cái lưỡi như
sau :

- Phàm ở trên đời này, mọi sự tốt hay xấu, lợi hay hại… tất tật đều do bởi việc sử dụng cái lưỡi một cách
khôn khéo hay vụng về.

Chính nhờ vậy, mà Êsôpe được chủ yếu mến và sau này được giải thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than.

Ý thức được tầm mức quan trọng của cái lưỡi là như vậy, chúng ta hãy lắp đặt một cái phanh vào miệng,
để những lúc ngứa mồm, muốn phát ngôn bừa bãi, thì biết “sì tốp” lại đúng nơi và đúng lúc.

Viết tới đây, gã bèn nhớ tới lời khuyên của người xưa, đó là :

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.


CÒ - CHUYỆN PHIẾM CỦA GÃ SIÊU
Theo “Việt Nam tự điển” của Lê văn Đức thì cò được định nghĩa là một loại chim cẳng cao, mỏ dài, mình
thon, đuôi nhọn, ăn cá, bình thường lông màu trắng, nhưng cũng có loại lông màu xám như cò hương,
hay lông màu đỏ như cò lửa…

Khi tìm hiểu về ca dao, gã thấy hình ảnh con cò là một hình ảnh quen thuộc và thân thương nhất của
người bình dân.

Thực vậy, vãi mồ hôi trên đồng ruộng, người nông dân có con trâu làm bạn để giúp đỡ họ. Thế nhưng
trâu thì nặng nề, chậm chạp và suốt đời vất vả.

Vì vậy, để đầu óc được thư giãn, thảnh thơi và bay bổng, người nông dân đã mượn hình ảnh con cò, một
hình ảnh vừa thơ mộng lại vừa đẹp đẽ để nói lên những ước mơ và những hiện thực của đời mình.

Như người nông dân, con cò cũng đã phải vất vả kiếm sống :

- Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo xèo mặt nước buổi đò đông,

Như người nông dân, con cò đã chết đi trong cô đơn nghèo túng :

- Cái cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngay làm ma.

- Cái cò chết tối hôm qua,

Có hai hạt gạo với ba đồng tiền,

Một đồng mua trống mua kèn

Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong

Một đồng mua mớ rau rong

Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

Như người nông dân, con cò cũng đã phải chịu nhiều cảnh oan ức vì thấp cổ bé miệng :

- Cái cò cái vạc cái nông,

Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò,

Không không tôi đứng trên bờ,

Mẹ con cái vạc đổ thừa cho tôi,


Chẳng tin ông đến tận nơi,

Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.

Như người nông dân, con cò cũng đã chia sẻ số phận cay đắng của đất nước :

- Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuong gềnh bấy nay.

Và đôi lúc cũng đã bị đàn áp dã man :

- Con cò mà đậu cành tre,

Thằng Tây bắn súng cò què một chân,

Đến mai ra chợ Đồng xuân,

Chú khách mới hỏi sao chân cò què,

Cò rằng cò đứng bờ tre,

Thằng Tây bắn súng cò què một chân.

Như người nông dân, con cò cũng có những giây phút mộng mơ và nhung nhớ :

- Một đàn cò trắng bay quanh,

Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta,

Mình nhớ ta như cà với muối,

Ta nhớ mình như cuội với trăng.

Như người nông dân, con cò dù có phải chết vẫn cố gắng giữ lấy sự trong trắng của mình :

- Con cò mày đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm luôn cổ xuống ao,

Ông ơi ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng,

Có xáo thì xáo nước trong,


Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Dĩ nhiên con cò không phải chỉ là hình ảnh tượng trưng cho người nông dân, mà hơn thế nữa, nó còn
được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau.

Nào là hình ảnh của một em bé mồ côi :

- Cái cò là cái cò vàng,

Mẹ đi đắp đàng con ở với ai,

Con ở với bà, bà không có vú,

Con ở với chú, chú là đàn ông.

Nào là hình ảnh của một cô gái được muông chiều :

- Cái cò là cái cò con

Mẹ nó yêu nó, nó càng làm thơ.

- Cái cò là cái cò kỳ,

Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô,

Đêm nằm thì gáy o o,

Chửa ra đến chợ đã lo ăn quà.

- Cái cò bay bổng bay lơ,

Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng.

- Cái cò lặn lội bờ ao,

Phất phơ hai giải yếm đào gió bay.

Và nhất là hình ảnh người vợ Việt Nam tần tảo, chắt chiu nuôi chồng, nuôi con :

- Cài cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng hãy trở lại cùng con,

Để anh đi trẩy nước non Cao bằng.


Hình ảnh con cò trong ca dao, trong văn chương bình dân thật là phong phú, gã có thể kê đơn hoàn tán
nhiều nhiều nữa.

Còn trong đời thường, con cò cũng không kém phần đa dạng. Này nhé, cò là nhảy một chân. Cò là thanh
tre mỏng dùng để điểm công gánh, công vác bằng cách bẻ từng đoạn ngắn, vì thế mới gọi là bẻ cò. Cò là
một bộ phận của cây súng, khi bấm nó mổ vào viên đạn và làm cho đạn nổ, vì thế mới nói là bóp cò. Cò
là tem để dán vào thư. Có cò thì bưu điện mới chuyển, bằng không thì cũng vẫn chuyển nhưng người
nhận sẽ bị phạt.

Riêng trong phạm vi con người, cò cũng rất ư là nhiêu khê. Trước hết, hồi còn bé, gã không hiểu tại sao
ở làng gã, thiên hạ thường gọi những đứa con trai thuộc vào hàng suy dinh dưỡng là…thằng cò. Chắc
hẳn chỉ vì thân hình của chúng còm cõi, mảnh mai như một bộ xương cách trí, khẳng khiu như cánh cò
trên ruộng đồng.

Rồi cò còn là một tiếng chửi nhẹ nhàng của bọn con nít. Vì thế, khi bực bội, tức tối, chúng liền không
ngần ngại cho nhau ăn…cò.

Dưới thời Pháp thuộc, gã thấy xuất hiện một vài loại cò đặc biệt.

Thực vậy, cò là sửa bài trong nhà in. Bài viết được xếp chữ và in thử. Khi bản in đầu tiên mới ra lò, thì
lập tức được chuyển đến thày cò, để anh ta đọc và ghi chú những chỗ sai hay chưa vừa ý, cần phải đổi
thay. Chữ cò này xuất phát từ chữ “corriger” nghĩa là sửa, chữa. Còn “correcteur” nghĩa là thày cò, người
sửa bài, người chữa bài.

Tiếp đến, cò còn chỉ viên cảnh sát trưởng nói riêng, hay mấy thày cảnh sát nói chung. Chữ cò nay xuất
phát từ chữ “commissaire” nghĩa là ông cò. Còn “phú lít” xuất phát từ chữ “police” cũng có nghĩa là cảnh
sát.

Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam đang có một nghề mới phất lên như diều gặp gió mà gã xin đề cập đến,
đó là nghề…cò.

Theo báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, chữ cò này xuất phát từ chữ “commission” nghĩa là tiền hoa hồng, tiền
côm hay tiền cò.

Còn theo ngu ý của gã, cò nay có lẽ xuất phát từ “cò mồi”, là loại cò được nuôi làm mồi để dụ khị lũ cò
hoang sa vào bẫy. Vì thế bọn cò mồi là bọn giả bộ theo phe mình đề làm hại cho phe mình và làm lợi cho
phe chúng.

Nghề làm cò bây giờ đôi lúc thật tệ lậu và trắng trợn, đã tạo nên không ít những cảnh dở mếu, dở khóc
và dở cười…

Nói một cách văn hoa thì đó là nghề làm môi giới, làm trung gian, làm tiếp thị. Còn nói một cách nôm na
và bình dân thì đó là hạng mối lái, dụ khị thiên hạ mua hàng hay cậy nhờ một công việc nào đó. Họ chỉ
cần dẻo mép, mánh khóe và đôi khi cả áp lực nữa để kiếm lời cho mình. Họ là những người trung gian,
chuyên bán nước bọt để chấm mút tí tiền còm.

Nếu ai đã từng sống ở Châu đốc, hẳn phải biết từ sau tết nguyên đán, thiên hạ đã chuẩn bị cho ngày lễ
hội Bà Chúa xứ tại núi Sam, vốn được gọi là Vía Bà.

Trong những ngày lễ hội này, hiện nay ở đây hội tụ đủ mặt mọi hạng cò mà báo “Công an” đã phải gọi là
“làng cò Núi Sam” . Thôi thì thượng vàng hạ cám, hầm bà lằng xắng cấu. Đủ loại cò. Đủ thứ cò.

Này nhé, khi khách vừa chân ướt chân ráo đến nơi thì đã có ngay một lực lượng cò dành dật khách tới
nhà trọ này, tới khách sạn nọ.

Bước vào lễ hội, khách là thiện nam tín nữ, muốn biểu lộ tấm lòng thành của mình đối với Bà, thì liền có
ngay một đội ngũ cò đông đảo để phục vụ cho nhu cầu lễ bái và cúng kếng.

Nào là “cò heo quay” với khoảng ba chục tên chuyên nghiệp, rất giỏi việc khua môi múa mỏ, gian lận
trong giá cả và trong cân đo, sẵn sàng nhét đầy tiết heo, tiết bò trong bụng heo quay để cân cho nặng,
vì thế mà hạng cò này ăn nên làm ra một cách mau chóng.

Nào là “cò nhang đèn”, thay vì thắp một nén nhang để tỏ lòng tôn kính, người ta đã lạm phát nhang, để
rồi nhang đã trở thành một dụng cụ để…hun Bà. Suốt ngay khói tỏa nghi ngút thì làm sao mà chịu nổi.

Nào là “cò phóng sinh” mối lái để khách mua chim rồi thả ra để cầu mong lộc Bà. Chim trong lồng nhảy
lên nhảy xuống, nên mặc sức đếm gian theo kiểu năm mười mười lăm…Chim được xổ lồng bay ra thì ít
mà chim được đếm thì lại nhiêu.

Và khi khách buồn tình, muốn giải sầu thì lập tức có ngay bọn “cò tệ nạn”, hay nói huỵch toẹt ra, đó là
cò…gái, cò mãi dâm. Quả là hết ý.

Báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” đã phải lên tiếng báo động :

- Chưa bao giờ nghề cò lại phát triển bát nháo như hiện nay.

Theo tác giả Nguyễn thị Oanh, thì ngày xưa có “ông mai bà mối” nhưng họ chỉ ăn “đầu heo” thôi vì mục
đích giới thiệu này mang tính cách nhân đạo. Chẳng hạn mách cho bệnh nhân được gặp thày gặp
thuốc…Đẹp biết mấy những môi giới vì hạnh phúc con người.

Còn bây giờ thì khác, hoạt động cò không xuất phát từ nhu cầu của người “bị phục vụ” mà từ động cơ
ranh ma lợi dụng và khai thác họ.

Chẳng hạn tiệm bán thịt nằm sát mặt đường, khách có thể dừng xe để mua hay người bán hàng có thể
bước ra vài bước để giao hàng. Vậy mà có tới hàng chục thanh niên vạm vỡ, la hét, níu kéo làm người
mua ngao ngán bực mình. Con người bán, đã mất khách, lại phải nộp tiền mãi lộ cho chúng mà chẳng
dám ho he.

Đai loại gã có thể phân chia thành hai loại cò.

Trước hết là cò dịch vụ, làm trung gian mua bán vật dụng như cò xe, cò nhà, cò đất, hay chạy chot giấy
tờ với những thủ tục hành chánh rắc rối, nhiêu khê tựa mê hồn trận như cò xuất ngoại, cò hộ khẩu, cò
sang nhượng…
Thế nhưng khi mắc míu, dính líu với hạng cò này, chúng ta cần tỉnh táo và đề cao cảnh giác, bởi vì rất
nhiều mánh chỉ là mánh dổm, rất nhiều cò chỉ là cò giả, nhận tiền rồi tung cánh bay cao, khiến chúng ta
tiền mất tật mang, công việc thì cứ dậm chân tại chỗ, hết tháng này qua tháng khác, chẳng đi đến đâu
cả.

Tuy nhiên, đáng kinh tởm hơn cả phải là loại cò thứ hai này, đó là cò người, gã chỉ xin liệt kê một vài loại
chính điển hình mà thôi.

Chẳng hạn như cò tệ nạn, cò mãi dâm, cò…gái. Một buổi tối bạn lang thang trên phố vắng hay tại công
viên, rất có thể bạn sẽ bị hỏi thẳng thừng một cách sỗ sàng :

- Có mốn giải sầu không sư phụ ?

- Có cần em út không đại ca ?

Chẳng hạn như cò lấy chồng nước ngoài, nhất là lấy mấy chú ba tàu xếnh xáng gốc Đài loan. Hạng cò
này len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, luồn lách tận vùng thôn quê hẻo lánh, gạ gẫm, dụ dỗ, rót vào tai
những cô gái và những bậc phụ huynh những lời ngon ngọt, đường mật về tiền bạc và hạnh phúc, để rồi
mấy cô gái nhẹ dạ ấy đã ca bài “cũng liều nhắm mắt đưa chân”, cuối cùng phần đông đã phải ngậm
đắng nuốt cay một số phận nghiệt ngã, một kết thúc bẽ bàng nơi đát khách quê người.

Chẳng hạn như cò con nuôi. Một cô gái chửa hoang đang lo lắng sợ hãi thì vớ ngay được tên cò loại này.
Hắn không những trấn an mà còn đặt tiền cọc cho cái bầu nữa.

Vậy là thay vì ăn năn hối cải, cô gái sẽ chai lì và dám làm thêm một cái bầu nữa để kiếm tiền. Như thế,
cô gái không chỉ vi phạm luật pháp, chà đạp nhân phẩm phụ nhữ và trẻ em, mà còn tích cực góp phần
làm băng hoại các giá trị đạo đức.

Chẳng hạn như cò phá thai. Một cô gái lỡ mang bầu, ngơ ngác và rụt rè tới cổng bệnh viện, lập tức được
mấy tay cò nạo thai xớp đi mau chóng và nhiều cô đã bỏ mạng vì đến những chỗ phá thai lậu, không
bảo đảm về mặt vệ sinh và y khoa.

Chắc chắn là còn nhiều loại cò khác nữa, nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ ngán ngẩm và nhức nhối
cho một xã hội đang nhích lên về mặt kinh tế, nhưng lại đang tuột dốc về mặt đạo đức.

Biết làm sao vực lên bây giờ ?


CÁI ĂN - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Nếu tôi không lầm, thì kể từ khi những làn gió lạnh len lén trở về, cũng là lúc người ta bắt đầu ‘’mùa ăn
nhậu’’.

Thực vậy, mùa mưa đã qua đi cùng với lũ lụt và dông bão, để chào đón những ngày nắng ấm và trong
xanh.

Thiên hạ thường bảo : chim chóc cứ đến mùa làm tổ, thì con người cũng đến mùa cưới hỏi, đây chính là
thời gian cho những cặp tình nhân, trẻ cũng nhữ già, hối hả đi xây tổ uyên ương.

Mà đã làm đám cưới, thì thế nào cũng phải có tiệc tùng. Mỗi lần nhận được thiệp hồng với một tí trà…
móc câu, là phải chuẩn bị hào bao và dạ dày để…ăn cưới.

Rải rác vào thời điểm này là những ngày lễ lớn, như Giáng sinh, tết tây và tết ta. Để lễ được lớn và thêm
phần long trọng thì không thể thiếu vắng phần ăn nhậu, như thiên hạ vẫn thường bảo :

- Trước là kính thánh, sau la đánh chén.

Đúng là người ta ăn nhậu tơi bời hoa lá, người ta tiệc tùng tưng bừng khói lửa.

Ngày xưa, lúc còn trẻ hồ hởi ăn nhậu bao nhiêu, thì bây giờ khi đã có tí tuổi, lại cảm thấy ngán ngẩm khi
phải vác cái thân già cho đình đám bấy nhiêu.

Nào là thời giờ bị đảo lộn. Nào là bao tử bị hành hạ… tham thực cực thân! Dẫu sao thì cũng vẫn phải đi
vì tình nghĩa, vì nợ miệng…chuyện đời mờ lị.

Vậy thì người ta ăn để mà làm gì ?

Câu hỏi này quả thực xưa như trái đất và một đứa nhỏ cũng có thể trả lời ‘’phăng xi lô’’ rằng :

- Ăn để mà sống, chứ còn để làm cái đí gì nữa. Khéo ỡm ờ, vờ vĩnh, vẽ chuyện !

Thực vậy, người ta ăn để mà sống. Giống như chiếc xe không xăng dầu thì không thể nổ máy và chạy
được. Cũng vậy, nếu không ăn, không đổ ‘’xăng’’, không bồi dưỡng, chúng ta sẽ không thể nào sống và
hoạt động cho nổi.

Kinh nghiệm bản thân cho thấy :

- Khi bụng đói, thì mắt mờ tiệt và tay chân bủn rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng buồn
xua.

Đặc biệt là những ngày ăn chay. Mới kiêng nhim nhím tí xíu, mà lúc gần tới bữa, đã thấy đói cồn đói cào.
Và mẹ gã thường bảo :

- Đó là chước mốc ma quỉ.

Không kể trường hợp suy dinh dưỡng, mà nhiều người Việt Nam chúng ta vốn thường mắc phải do cái
bệnh nghèo, hiện nay trên thế giới hàng triệu người đang lâm vào cảnh đói kém.

Những em bé chỉ còn da bọc xương nằm la liệt chờ đợi chút thực phẩm nhân đạo để sống qua ngày xuất
hiện dài dài trên màn ảnh truyền hình, chẳng biết có đánh động được cõi lòng băng giá nào không hầu
góp tí tiền còm làm phúc bố thí.

Ăn để mà sống, đó là chuyện đời thường, nhưng đời thường vốn có những cái nghịch lý của nó. Vì thế,
không thiếu gì những người sống để mà ăn.

Họ đi tìm những khoái cảm trong việc ăn uống. Có những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, kéo dài từ ngày
này qua ngày khác. Ăn no uống đủ nhưng vẫn chưa đã. Và thế là ‘’a-lê-hấp’’ móc cổ họng cho chó ăn chè
để tiếp tục nhậu nữa. Tiệc một chưa đủ bèn rủ nhau gầy sòng làm tiệc hai.

Bên cạnh những kẻ thiếu ăn, có những bàn tiệc mâm cao cỗ đầy, thức ăn thừa mứa, mà mỗi khẩu phần
trị giá bằng cả một năm lao động cực nhọc của những kẻ khố rách áo ôm. Đúng là tác phong ném tiền
qua cửa sổ.

Thánh kinh diễn tả rất đúng về hạng người thừa tiền và rửng mỡ này, khi gọi họ là những kẻ chỉ biết lấy
cái bụng của mình làm chúa, ‘’quorum deus venter est’’ !

Tiếp đến, người ta thường ăn những gì ?

Thưở ban đầu, khi còn là những bộ lạc du mục, người ta ăn những gì kiếm được trên rừng như : hoa trái,
thịt thà, cá mú… và thường là ăn sống nuốt tươi cho đến khi tìm ra lửa.

Với lửa, người ta bắt đầu chế biến những thức ăn tươi sống thành những món cao lương mỹ vị. Từ đó
nghệ thuật nấu nướng không ngừng phát triển.

Nếu là một triết gia, hẳn gã đã phát biểu một cách rất hách xì xằng như sau :

- Người là một con vật biết nấu nướng.

Lời phát ngôn này chắc chắn sẽ được treo ở các nhà hàng, tiệm ăn và xó bếp.

Có lần gã định viết một luận án phó tiến sĩ về vấn đề này.

Đường đường là một đấng nam nhi, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, gã bèn truyền cho mấy cô em
gái giao nộp cho mình tất cả những cuốn sách nữ công gia chánh.

Suốt mấy tuần liền chúi mũi vào đống sách ấy để mà…‘’ngâmkíu’’. Từ bản mục lục phân tích do mình tự
biên tự diễn, gã nghiệm ra rằng thì là mọi món ăn đều được chế biến dưới bốn dạng khác nhau :

- Dạng thứ nhất qua nước hay hơi nước như : luộc, hấp…

- Dạng thứ hai qua dầu mỡ như : chiên, xào…

- Dạng thứ ba qua lửa như : nướng…


- Dạng thứ bốn là chơi tươi sống như ăn gỏi…

Nắm vững bốn dạng này, rồi tùy cơ ứng biến, thêm mắm thêm muối, thêm hành thêm tỏi, uyển chuyển
trong cách thức trình bày, để mà thiên biến vạn hóa, trở thành những món ăn khác nhau, vừa bắt mắt lại
vừa khoái khẩu.

Thế nhưng, bao tử con người vốn có những đòi hỏi kỳ cục, hay nói đúng hơn người ta càng bày ra những
món ăn lạ đời thì lại càng nổi tiếng.

Chẳng hạn như máu nào chẳng là máu, nhưng khi ngả thịt con bò, phải múc lấy bát màu từ trong lồng
ngực của nó mà…húp xùm xụp, thì mới bổ béo.

Dân ghiền thịt rắn, trước khi xơi thịt phải uống máu nó bằng cách treo con rắn lên chặt mẩu đuôi, rồi kê
miệng vào đó mà mút như cu Tí bú sữa mẹ, hay để cho những giọt máu ấy nhỏ xuống ly rượu nồng rồi
chuyền tay nhau mà uống.

Và theo những thày lang chính hiệu con nai vàng, thì đây mới đúng là ‘’tửu xà’’ rượu rắn thứ thiệt đại bổ.
Uống vào không bổ ngang cũng bổ dọc, và nếu lỡ quá chén chút xíu, bảo đảm sẽ… ‘’bổ chẩng’’ liền tại
chỗ.

Thiên hạ có kể cho gã nghe câu chuyện sau đây :

Ngày xưa, Từ Hi Thái Hậu bên Tàu mở tiệc thiết đãi các ông tây bà đầm. Bữa tiệc có một món đặc biệt
đó là món óc khỉ.

Bàn ăn được khoét một lỗ nhỏ cho mỗi người. Dưới lỗ nhỏ ấy là một hộc bên trong nhốt một con khỉ.
Chỏm đầu con khỉ vừa vặn với lỗ nhỏ ấy.

Tới lúc thực khách xơi món này, người ta chỉ cần dùng một con dao thật sắc, phạt ngang một phát, bay
luôn chỏm đầu cho óc khỉ hiện lên. Thực khách chỉ cần nêm vào đó chút muối tiêu chanh, rồi dùng thìa
mà múc như khi ăn… vịt lộn vậy.

Một định luật kinh tế được áp dụng trong phạm vi nghệ thuật ăn uống đó là phàm cái gì càng hiếm thì lại
càng quí. Mà càng quí thì lại càng mắc.

Thẩn thơ trên hè phố Sàigòn, tôi đã từng đọc thấy những mẩu quảng cáo của các nhà hàng đặc sản.
Thôi thì từ rùa, rắn, chuột đến khỉ, nai, tê tê… tất cả mọi thứ trên trời, dưới biển cũng như trong rừng
đều chui tuốt luốt vào cái bụng con người.

Thảo nào mà có biết bao nhiêu loài động vật quí hiếm đang dần dần bị tuyệt chủng. Mai mốt con cháu
mình chỉ còn thấy chúng qua hình ảnh của những trang sách nằm trong thư viện mà thôi !

Đồ ăn thì để mà ăn, đó cũng là chuyện đời thường. Tuy nhiên, có những thứ không thể đút vào miệng
mà ăn, thế mà người ta vẫn cứ phải ăn hay cứ vẫn muốn ăn.

Trước hết, có những thứ không thể ăn mà vẫn phải ăn, nổi cộm trong lãnh vực này đó là ăn đòn.
Gã nhớ rất rõ, hồi còn bé ít khi nào ba gã cho gã ăn đòn. Nhưng đã cho ăn, thì phải ăn đến nơi đến
chốn, không biết bao nhiêu roi mà kể.

Việc ăn đòn cũng có mục đích cao cả của nó. Cha mẹ cho con cái ăn đòn là để giáo dục chúng, cho
chúng biết vâng lời. Còn trong chốn giang hồ, xã hội đen, thì cho nhau ăn đòn là để đánh phủ đầu, dằn
mặt nhau lần sau chớ có làm như vật nữa. Con nít Tây phương bây giờ được pháp luật bảo vệ, chẳng
được… ăn đòn, nghĩ cũng uổng.

Tiếp đến, có những thứ không thể ăn mà người ta vẫn muốn ăn, đó là ăn tiền.

Thực vậy, nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy có biết bao nhiêu mánh mung, có biết bao nhiêu cách thức
để ăn tiền của nhau.

Gã nghĩ rằng ăn tiền đó là cả một nghệ thuật, cũng thiên biến vạn hóa đến qủy thần cũng không lường
nổi.

Gã xin kê đơn hoàn tán, đại khái như sau : ăn bẩn, ăn hối lộ, ăn bòn, ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm, ăn chận,
ăn gian, ăn quỵt, ăn bớt… Tất cả những kiểu này đều có một mẫu số chung là tiền.

Hiện nay việc ăn hối lộ là một cơn bệnh trầm trọng, không riêng gì Việt Nam, mà hầu như quốc gia nào
cũng mắc phải. Nó làm cho dân chúng khổ cực, đất nước nghèo túng và chính quyền sụp đổ.

Nhưng thấy tiền ai mà chẳng muốn xơi, nhất là tiền chùa của nhân dân cũng như của nhà nước.

Một đứa con nít cũng thấy được quyền lực và giá trị của đồng tiền :

- Có tiền mua tiên cũng được

- Tiền là tiên là phật

Là sức bật của người già

Là cái đà của danh vọng

Là cái lọng để che thân

Là cái cần của công lý

Ăn tiền là chuyện khó. Nhưng chùi mép sau khi đã ăn tiền cũng lại là chuyện khó nữa. Vì nếu không khéo
chùi mép, chắc chắn một lúc nào đó sẽ thân bại danh liệt, nằm bóc lịch trong nhà đá mà than thở :

- Của Cêsar trả cho Cêsar… Của thiên trả địa…sự giả trá thế gian là như thế đó.

Sau cùng gã xin viết thêm chút xíu nữa cho câu hỏi :

- Phải ăn như thế nào ?


Kinh nghiệm cho thấy : nhân cách con người được biểu lộ rất rõ trong khi ăn.

Thực vậy, người tham thì muốn xơi luôn phần của kẻ khác. Gã nhớ mang máng trong một cuốn sách nào
đó về phép lịch sự có kể mẩu chuyện như sau :

Bàn ăn có bốn người. Đĩa có bốn miếng giò. Anh chàng tham ăn gắp cá cặp một phát hai miếng liền, rồi
giả bộ vẩy vẩy để cho nó bong ra.

Thế nhưng, người ngồi cạnh bèn kê tủ đúng vào miệng hắn ta mà nói :

- Anh có lấy chân mà đạp, thì nó cũng chẳng bong ra đâu.

Người bất lịch sự thì chỉ biết cúi mặt xuống như muông chim mà ăn lấy ăn để, chả còn lưu ý tới kẻ khác.
Họ có thể ợ ngáp như ở trong phòng riêng. Họ có thể húp canh sùm sụp như biển gầm sóng vỗ, muốn
trôi cả bàn ghế và những người chung quanh.

Vì thế, cha ông chúng ta đã dạy :

- Học ăn học nói học gói học mở.

- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

Tuy nhiên, có một góc cạnh của bữa ăn chúng ta cần lưu ý đó là bầu khí yêu thương.

Thực vậy, bữa ăn là lúc qui tụ những người có cùng một mẫu số nào đó. Mẫu số ấy có thể là tình nghĩa
ruột thịt như bữa ăn trong gia đình, cũng có thể là một niềm vui hay một nỗi buồn như tiệc cưới, đám
giỗ…hay công việc làm ăn.

Trước hết, những người cùng bàn chia sẻ với nhau thức ăn, nguồn sinh lực cho thân xác. Trong cuốn
“Người Việt cao quí”, tác giả Pazzi đã ca tụng chén nước mắm của mâm cơm Việt Nam. Hơi mất vệ sinh
một tý đấy nhưng lại là một biểu tượng của chia sẻ và hiệp thông.

Tiếp đến, những người cùng bàn còn chia sẻ với nhau niềm vui và nỗi buồn… vì vậy cần phải tạo ra một
bầu khí yêu thương cho bữa ăn, đừng biến nó trở thành phiên tòa xử án con cái hay trở thành một dịp
để đả kích, chửi xéo lẫn nhau vì :

- Trời đánh còn tránh bữa ăn.

Gia đình Việt Nam đâu cần đến những thứ cao lương mỹ vị mới nồng nàn yêu thương, trái lại chỉ cần :

- Canh tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Viết đến đây gã cảm thấy hết chất, bèn phải vác tự điển ra để tra cứu và tham khảo thêm, gã bỗng
khám phá ra rằng : phạm trù ăn là một phạm trù quan trọng vào bậc nhất trong ngôn ngữ Việt Nam.
Thực vậy, để diễn tả động tác “ăn”, ngôn ngữ Việt Nam thật là phong phú.

Trang trọng thì :

- Xơi, mời…

Bình thường thì :

- Ăn, dùng…

Vui vẻ thì :

- Nhắm, nhậu, lai rai…

Bực bội tức tối thì :

- Đớp, hốc…

Nếu Phạm Quỳnh đã viết :

- Dân An nam ta phàm cái gì cũng cười.

Còn gã, gã cũng có thể xác quyết :

- Người Việt Nam chúng ta phàm cái gì cũng ăn.

Vui cũng ăn như ăn cưới, an khao. Buồn cũng ăn như ăn đám ma, ăn đám giỗ.

Trong “Việt Nam từ điển” của Lê Văn Đức, gã đếm được cả thảy hơn một trăm năm chục tiếng được
nghép với chữ ăn, như : ăn chay, ăn chực, ăn vụng… Thậm chí có những hành động chẳng hề liên hệ tới
mồm miệng hay lục phủ ngũ tạng mà vẫn được ghép với chữ ăn như : ăn đòn, ăn gian, ăn trộm, ăn
năn…

Gã không biết Thượng đế có bé cái lầm hay không khi trao ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng.
Công dụng của cái miệng là nói và ăn.

Rất nhiều lần chúng ta đã phải khổ sở vì những lời dèm pha đầy ác ý. Lưỡi người còn sắc hơn cả gươm
giáo và độc hơn cả nọc ong. Số người chết vì cái lưỡi còn nhiều hơn vì chiến tranh. Lời nói có thể làm cho
chúng ta thân bại danh liệt, tiêu tan sự nghiệp.

Còn cái khoản ăn cũng không kém phần nhiêu khê và rắc rối. Người ta lao động quần quật cũng để tìm
kiếm của ăn đút vào miệng. Cái miệng con người đã làm cho bao súc vật bị tuyệt chủng, cây cối đi đến
chỗ xác xơ tiêu điều… và đến núi cũng phải lở.

Rồi những cuộc chiến tranh giữa người với người đã xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Ôi, miếng ăn quả là
miếng nhục.
Giá như con người không phải ăn nữa thì sẽ lợi biết bao nhiêu. Lợi được thời gian. Lợi được công sức. Lợi
được tiền bạc. Nhưng mà có lẽ lúc bấy giờ đời cũng sẽ buồn đi rất nhiều.

Vì thế, gã vẫn cứ phải chịu khó ăn để mà sống mỗi ngày, cho dù là ăn những của đắng đót.
CẦN KIỆM VÀ LÃNG PHÍ - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Muốn phát triển, phải cần kiệm, đó là qui luật của muôn đời. Nhìn ra thế giới, gã nhận thấy thiên hạ đã
sống qui luật này một cách rất y là nghiêm ngặt và chặt chẽ.

Thực vậy, ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết :

- Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu, còn muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng.

Thảo nào mà nước Mỹ luôn đứng đầu sổ trong lãnh vực phát triển kinh tế.

Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm :

- Mua gì ăn nấy.

Đồng thời :

- Ăn đâu hết nấy.

Chứ không để thừa mứa, cho heo và cho chó vét cù, hay xơi tới xơi lui mà vẫn cứ còn tồn…kho.

Người ta chẳng bao giờ chiều theo ý thích của con nít, đòi gì được nấy, vì đó chỉ là một cách thương hại,
nghĩa là thương trẻ, nhưng lại làm hại trẻ nhiều hơn.

Thảo nào mà dân Phù tang, con cháu Thiên hoàng, đã trở thành một cường quốc giàu mạnh nhất tại Á
châu, làm cho nhiều nước phương Tây cứ đứng nhìn mà phát…thèm.

Ở bên Israel cũng rứa. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay
tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu đại khái :

- Hãy tiết kiệm điện. Hãy tiết kiệm nước…

Còn tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ phắt vào lương cho những ai đến
làm việc chậm trễ.

Thảo nào mà dân Do thái, mới lục đục kéo nhau về lập quốc từ năm 1945, sau thế giới đại chiến lần thứ
hai, thế mà ngày nay đất nước này đã trở nên giàu có và phát triển, thậm chí thu nhập bình quân đầu
người lên tới 17.000 mỹ kim một năm, khiến những người Việt nam, khố rách áo ôm như gã, sông trên
quê hương yêu dấu và thân thương này, có nằm mơ cũng chẳng thấy được như vậy.

Đã nói chuyện bên Tây, thì cũng phải nói chuyện bên Tàu, một anh hàng xóm khổng lồ nằm sát cạnh
chúng ta.

Hoàn cảnh kinh tế không khá hơn chúng ta bao nhiêu. Thế nhưng, trong những năm tháng gần đây, đã
vươn mình để trở thành giàu mạnh. Hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường, dù không bền lắm,
nhưng được cái giá rẻ bèo, hợp với túi tiền của bàn dân thiên hạ.

Tại đây, người ta đang ra sức tiết kiệm, chống lãng phí và tham nhũng.
Tác giả Nguyễn văn Hùng, trong một chuyến đi công tác, đã “mục kích sở thị” thái độ và những việc làm
tiết kiệm của người Tàu, đã kể lại như sau :

“Trong thời gian làm việc tại thành phố Nam ninh, thủ phủ của tỉnh Quảng tây, chúng tôi được ông
Trương Sinh, tổng giám đốc một công ty lớn của tỉnh này, hai lần mời cơm tại nhà hàng. Tôi đặc biệt để
ý đến những cử chỉ khá là lạ của vị chủ nhà.

“Đó là sau mỗi bữa tiệc, ông tổng giám đốc này đều trút toàn bộ thức ăn thừa vào các bao ny lông để
mang về trước những con mắt ngỡ ngàng của quí khách. Nhận thấy những ánh nắt khang khác ấy, ông
Sinh vui vẻ giải thích :

- Cũng như Việt nam,Trung quốc còn nghèo, nên đặc biệt coi trọng yêu cầu tiết kiệm, ngay từ việc nhỏ
nhất. Ở Trung quốc, tiết kiệm thực sự là quốc sách.

“Đất nước Trung quốc rộng lớn nên xây dựng và phát triển được là nhờ biết tiết kiệm, và tôi để ý thấy
trong cái nhà hàng sang trọng này, chẳng riêng gì ông Sinh, mà còn có rất nhiều thực khách cũng làm
như thế…”

Thấy người mà nhớ tới ta. Nhìn người mà gẫm đến thân. Té ra quí vị Tây Tàu Nhật trên đây cũng chả
làm được điều gì mới mẻ và khác lạ với những điều cha ông chúng ta đã từng dạy bảo.

Thực vậy, từ ngàn xưa cần kiệm vốn là một nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, bởi vì các cụ ta
đã phán :

- Tiểu phú do cần, đại phú do mưu. Có nghĩa là giàu nhỏ thì phải cần kiệm, còn giàu lớn thì phải mưu trí.

Đồng thời, các cụ ta còn căn dặn con cháu :

- Được mùa chớ phụ ngô khoai,

Đến khi thất bát, lấy ai bạn cùng.

Ngoài ra, các cụ luôn chú trọng và hô hào mọi người :

- Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn. Có nghĩa là hãy tích lũy lúa thóc phòng khi đói kém, hãy tích lũy
áo quần phòng khi lạnh giá.

Viết đến câu này, gã bỗng nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên về nàng ve và chị kiến, đã
được Nguyễn văn Vĩnh dịch thành thơ, mà gã chỉ còn nhớ lõm bõ, đại khái như thế này :

- Ve sầu kê ve ve.

Ca hát suốt mùa hè,

Đến khi gió bấc thổi,


Nguồn cơn thật bối rối.

Đang khi đó, chị kiến cần cù tích lũy lương thực trong kho, nên chẳng sợ gì mưa to và gió lớn.

Thế nhưng, ngày nay lớp hậu sinh chúng ta, thay vì khả úy, thì nhiều lúc lại khả ố, nghĩa là đáng lẽ lớp
đàn em đến sau phải tốt hơn thì lại xấu hơn lớp đàn anh đi trước.

Sở dĩ như vậy vì nhiều người trong chúng ta đang sống theo khẩu hiệu :

- Bóc ngắn cắn dài.

Chúng ta làm ra được một đồng nhưng lại tiêu xài những hai đồng, nên công nợ cứ chồng chất và liên
tục phát triển, khiến chúng ta không tài nào ngóc đầu lên nổi.

Chúng ta thích chơi trội theo kiểu :

- Vung tay quá trán.

Hay :

- Con nhà lính, tính nhà quan.

Chúng ta đã xài thì phải xài cho sộp, xài cho xịn, xài cho sang. Mà sộp xịn sang chính là con đường ngắn
nhất để rơi tõm vào cảnh lãng phí.

Và lãng phí cũng chính là con đường ngắn nhất làm nghèo gia đình và đất nước.

Dĩ nhiên ở đây, gã không hể cổ võ cho tính hà tiện keo kiệt, theo kiểu :

-Vắt cù chày ra nước.

Hay :

- Đãi cứt sáo lấy hạt đa.

Bởi vì từ lâu lắm rồi, gã vẫn nhớ lời khuyên chí lý của một bậc đáng kính :

- Con ơi, đối với những chuyện cần thiết và hữu ích thì tiền vạn, tiền triệu con cũng đừng tiếc xót. Còn
đối với với những chuyện lãng phí, thì một đồng một cắc cũng không, con nhé.

Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển
hình.

Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau : thất nghiệp, lao
động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng,
chảy máu chất xám…
Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục
triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.

Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng
đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất.

Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia”
với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.

Chắc chắn lúc đó ít ai nghĩ đến một điều sơ đẳng sau đây :

- Mỗi lon bia bình quân trị giá 5 ký thóc. Ấy thế mà người nông dân “một nắng hai sương “ ở đồng bằng
sông Hồng, giỏi lắm một ngày cũng chỉ làm ra được số thóc tương đương trị giá của một lon bia!

Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước.
Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.

Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di
động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.

Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự
kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải
cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.

Tác giả viết :

“Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn
sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học.

“Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng
chúng lại bảo :

- Không phải loại sách của trường con.

(Dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách
đó một hai năm mà thôi!!!

“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi
vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…
Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.

“Tôi đã qua cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn
uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có
tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước ?

“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là
quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì
lý do gì và có lãng phí không ?

“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ
có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô
này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.

Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã
cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã
chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.

Người Tây thì bảo :

- Le temps, c’ est l’ argent. Thời giờ là bạc.

Còn người Tàu thì nói :

- Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.

Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách
lãng xẹt.

Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê.
Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay
xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy.

Đáng lẽ ra :

- Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.

Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà
phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.

Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí.

Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường
ngày ở huyện.

Gã có một người bạn. Tên người bạn ấy là Văn. Vì có tí tuổi, nên gã thường gọi người bạn ấy là ‘’cụ
Văn’’.

Cụ Văn của gã là người rất năng nổ, rất bận rộn. Công việc hàng trăm thứ bà giằng đè xuống trên đôi vai
ọp ẹp của cụ ấy, đến nỗi có lần cụ ấy đã phải tâm sự ‘’mí’’ gã :

- Giá như Đức Chúa Trời cho phép mình đi xin thời giờ của những kẻ nhàn rỗi, cất vào tủ lạnh để rồi lúc
nào cần thì lôi ra xài chơi. Nhưng Đức Chúa Trời cũng công bằng vô cùng, mỗi ngày chỉ có 24 tiếng đồng
hồ, muốn kéo dài thêm cũng chẳng được.
Trước nỗi búc xúc của cụ ấy, gã chỉ biết cười ruồi mà an ủi :

- Ôi dào, đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày là cái chắc và việc nhà Đức Chúa Trời thì có bao giờ mà
thiếu. Nhưng Đức Chúa Trời lại rất lòng lành. Ngài đâu có đòi chúng ta phải làm ông ba bị, sáu tay mười
hai con mắt để ôm mọi thứ vào mình. Thôi mờ, thư giãn đi một tí cho đời còn thấy màu hồng.

Chả biết lời phát biểu của gã có bị kết án là lãng phí thời gian hay không và nhất là có xúc phạm đến
nhiệt tình hăng say của cụ ấy hay không thì để gã hỏi lại cụ ấy cái đã. Vậy xin hạ hồi phân giải.

Riêng bản thân thì một ngày gã đã tiêu xài biết bao nhiêu phút giây cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí…
Còn thời giờ làm việc một cách nghiêm văn chỉnh thì chỉ được tẻo tẹo mà thôi. Không hiểu mai này khi
tính sổ cuộc đời với Đức Chúa Trời thì sẽ phải nói sao đây ?

Ai có kế gì hay thì làm ơn làm phước ‘’méc’’ giùm cho gã biết với nhé. Bảo đảm sẽ hậu tạ.

Còn bây giờ, gã sẽ đưa ra bản thống kê rất khoa học của một kẻ thích đùa tại Đại học Tổng hợp Milan để
tất cả cùng cười… mí nhau.

Bản thống kê về các thành phần dân số nước Ý, trong đó có một kết luận rất độc đáo về số người thực
sự lao động ở nước này. Dưới đây là nguyên văn bản thống kê :

Tổng số dân trên toàn nước Ý là 52.000.000 người.

Trừ đi số người trên 65 tuổi là 11.750.000 người, còn lại số người có thể lao động là 40.250.000 người.

Trừ đi số người dưới 18 tuổi là 14.120.000 người, còn lại số người có thể lao động là 26.130.000 người.

Trừ đi số phụ nữ không đi làm là 17.315.000 người, còn lại số người có thể lao động là 8.815.000 người.

Trừ đi số sinh viên phải nuôi học là 275.000 người, còn lại số người có thể lao động là 8.540.000 người.

Trừ đi số người làm ở các cơ quan không sản xuất là 3.830.000 người, còn lại số người có thể sản xuất là
: 4.710.000 người.

Trừ đi số người thất nghiệp, cùng với số người hoạt động đảng phái chính trị là1.380.000 người, còn lại
số người có thể lao động là 3.330.000 người.

Trừ đi số quân nhân tại ngũ là 780.000 người, còn lại số người có thể lao động là 2.550.000 người.

Trừ đi số người đau ốm, tâm thần, lưu manh, chào hàng, vô công rồi nghề là 1.310.000 người, còn lại số
người có thể lao động là 1.240.000 người.

Trừ đi số người mù chữ, nghệ sĩ, tòa án… là 880.000 người, còn lại số người có thể lao động là 360.000
người.

Trừ đi số tu sĩ, triết gia, thày bói là 240.000 người.


Trừ đi số nghệ sĩ, tù nhân là 119.000 người.

Vậy số người thực sự lao động còn lại tại nước Ý là 1 người.

Khẩu phục tâm phục, gã xin chào thua và tôn tác giả bản thống kê này lên hàng sư phụ.

Còn bạn, bạn nghĩ sao ? Liệu có lãng phí lắm không ?
THAM NHŨNG VÀ HỐI LỘ - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Trong những năm tháng gần đây, việc gian lận, xơi tiền của dân của nước mỗi ngày một phát triển, cả về
số lượng lẫn về phẩm chất. Mặc dù không nhớ rõ lắm, nhưng gã cũng xin “kê đơn hoàn tán” những vụ
điển hình.

Ngày xưa, Nguyễn văn Mười Hai, chủ tiệm nước hoa Thanh Hương, đã dùng thủ đoạn vay vay mượn
mượn để ẵm của những người dân tội nghiệp hơn 104 tỷ đống.

Theo vết xe đổ, Phạm công Tước cũng đã dùng mánh mung trên để nuốt trửng 130 tỷ đồng của ngân
hàng Nhà nước.

Người đẹp Trần xuân Hoa, với độc chiêu ấy cộng thêm tí nhan sắc trời ban cho, đã xơi tái 250 tỷ đồng
của ngân hàng.

Noi gương các vị tiền bối, Phạm huy Phước cũng đã vay vay mượn mượn và rồi đã ăn trọn hơn 300 tỷ
đồng.

Có một thời, phong trào giật hụi, bể nợ như một trận cuồng phong thổi vào đất nước, ở mọi nơi và trong
mọi lúc, người ta dở khóc dở cười, dở mếu dở máo vì đồng tiền chắt chiu bằng mồ hôi nước mắt của
mình bỗng dưng bị bốc hơi, còn thủ phạm thì cao chạy xa bay, hay ngồi tù ít ngày để tồn tâm dưỡng
tánh vì không còn khả năng chi trả.

Và gần đây hơn, hai vụ nổi cộm đã làm cho người dân phải xót xa, đó là vụ Tân trường sanh và Tăng
minh Phụng.

Với vụ Tân trường sanh thì số hàng nhập lậu lên tới hơn 900 tỷ đồng. Riêng số tiền chè nước lo lót
khoảng 9 tỉ rưỡi. Còn vụ Tăng minh Phụng, thì Nhà nước mất toi 4.000 tỷ đồng, bằng số tiền của toàn
dân thắt lưng buộc bụng mua công trái trong hai tháng đầu tiên được phát động của năm 1999.

Từ những sự kiện trên, gã bỗng nhớ tới câu chuyện cổ tích “ăn khế trả vàng”.

Ngày xửa ngày xưa, tại một làng nọ có một nhà kia, ông bố chết đi để lại hai người con trai với một gia
tài kếch xù. Ông anh, ỉ mình là trưởng nam quyền huynh thế phụ, đã nuốt vội nuốt vàng toàn bộ sản
nghiệp to lớn ấy, chỉ để lại cho chú em một túp lều tranh xiêu vẹo và một cây khế.

Hằng ngày, chú em hái khế đem ra chợ bán lấy tí tiền còm đong gạo và mua sắm những thứ cần thiết
cho sinh hoạt gia đình bởi vì đó là nguồn thu nhập duy nhất.

Cũng như mọi ngày, sáng sớm hôm đó chú em ra hái khế, thì một con quạ to ơi là to đã xơi hết những
trái chín. Thấy vậy, chú em bèn than thở cả tiếng :

- Quạ ơi quạ, quạ biết tôi nghèo túng mà còn nỡ lòng nào xơi hết những trái khế chín của tôi.

Quạ trả lời :

- Anh đừng lo, ta sẽ đền ơn đáp nghĩa cho anh. Anh hãy về may một cái túi rồi sáng mai chờ ta tại đây.
Nghe quạ nói, chú em về nhà may một cái túi, rồi sáng hôm sau ra gốc cây khế chờ quạ. Chờ chưa được
bao lâu thì quạ đến và công chú em tới một hải đảo xa xôi, nhưng lại đầy vàng.

Khi chú em lượm chặt túi, quạ liền công chú về. Với túi vàng này, chú em làm lại nhà cửa và trở nên một
người giàu có trong làng.

Sững sờ trước sự phất lên mau chóng của chú em, ông anh bèn gạ gẫm hỏi cho biết bí quyết mánh
mung. Chú em đơn sơ thật thà kể lại đầu đuôi sự việc là như thế cho ông ta.

Sáng hôm sau, ông ta ra hái khế, thấy quạ đã xơi hết trái chín, liền than thở đúng bài bổn và được quạ
căn dặn về nhà may túi.

Khấp khởi mừng thầm vì phen này ắt hẳn vớ to. Ông ta quát tháo bà vợ may cho mình một chiếc bao
thật lớn, loại bao hai dạ “được mùa” của các bác nông dân vùng đồng bằng sông Cửu long.

Sáng hôm sau, ông ta cũng ra chờ ở gốc khế và được qua công ra đảo vàng. Ông ta lèn cho đầy một
bao, rồi lại còn nhét vào trong túi quần, túi áo và ngậm cả ở trong miệng.

Quạ công ông ta về, nhưng vì không kham nổi trọng lượng của bao vàng, nên cuối cùng đã phải thả ông
ta xuống biển khiến ông ta bị chết trôi chết nổi giữa sóng nước.

Từ câu chuyện trên gã nghiệm ra một sự that :

- Phàm đã là người thì dường như không nhiều thì ít, ai cũng có tí máu tham trong mình. Đã cầm cuốc
thì ai cũng cuốc vào chứ nào ai có cuốc ra bao giờ. Hễ có dịp, thì dường như ai cũng chịu khó vơ vét cho
đầy túi tham. Chỉ phiền một nỗi là đối với lắm kẻ thì túi tham ấy lại thủng đáy, cho nên vơ vét vào mà
chẳng bao giờ đầy.

Sự việc xảy ra ở bên Đức :

Khi trận đấu bóng kết thúc, mọi người ra khỏi sân vận động, không hiểu tiền ở đâu mà rơi vãi lắm thế
trên hè phố. Thế là tất cả, từ những người đạo mạo và mô phạm cho đến những tay cà chớn, ai nấy đều
mắt trước mắt sau, lấm lét cúi giả bộ như sửa giây giày, nhưng thực chất là xuống lượm và lượm cho
bằng hết những đồng tiền rơi vãi.

Tuy nhiên, khi về tới nhà, dưới ánh đèn sáng choang thì mới bật ngửa, té ra đó chỉ là những đồng tiền
giả của một kẻ chơi khăm, muốn trắc nghiệm xem có quí vị nào không tham.

Nếu gian tham là một chứng bệnh, thì nơi những người có quyền có chức, chứng bệnh này thường được
bộc phát qua hai dạng đặc biệt, đó là tham nhũng và hối lộ.

Đúng thế, phải có quyền có chức, phải là các quan thì mới có điều kiện và cơ may để đớp tiền chùa của
nhà nước cũng như xơi tiền mồ hôi nước mắt của dân, như cha ông chúng ta ngày xưa đã từng lên tiếng
báo động :

- Con ơi, nhớ lấy câu này,


Cướp đêm là giặc, cướp ngày là…quan.

Người ta thường dùng lẫn lộn tham nhũng và hối lộ, nhưng theo thiển ý của gã, mặc dầu có chung một
mẫu số là xơi tiền của dân của nước, nhưng mỗi bên đều có những lãnh vực riêng biệt.

Vậy thế nào là tham nhũng và thế nào là hối lộ ?

Trước hết, chúng ta sẽ cùng nhau bàn về tham nhũng.

Impact, một tạp chí chuyên ngành về tài chính có uy tín đã đưa ra một định nghĩa khá mỹ miều như
sau :

- Tham nhũng là sự coi thường tính minh bạch và liêm khiết trong các vấn đề có liên quan đến lợi ích
công cộng.

Định nghĩa này xem ra có vẻ hoa hòe hoa sói, nhiêu khê và rắc rối.

Còn theo “Việt nam tự điển” của Lê văn Đức thì :

- Tham nhũng xuất phát bởi bốn chữ “tham lam nhũng lạm”. Bốn chữ này có nghĩa là ăn bớt của chung.

Còn nếu nói huỵch toẹt như gã, thì :

- Tham nhũng chính là ăn cắp của công.

Nghệ thuật ăn bớt, ăn xén, ăn cắp…của các quan thì thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường
nổi.

Chẳng hạn như Nhà nước trao cho quan xây dựng một công trình. Quan liền ký hợp đồng với một công
ty nào đó, thỏa thuận nâng giá thành lên để rồi chia nhau phần sai biệt. Làm như vậy, cả hai đều có lời,
nhưng lại là một thứ cấu kết liên doanh với ma quỉ.

Rồi khi mua sắm vật tư, quan có thể làm hóa đơn khống, nghĩa là không mua mà vẫn có hóa đơn, hay
mua một nhưng ghi thành hai, hay mua rẻ nhưng ghi thành mắc…Vì thế, quan càng làm, càng có tiếng
với dân, lại càng có nhiều miếng để mà đớp.

Quan đánh hơi thấy chỗ nào có mùi tiền là liền vươn vòi bạch tuộc tới đó, hay chịu khó nhúng cả bàn tay
lông lá vào ngay. Thậm chí có những quan vui vẻ xơi ở cả những chỗ không đáng xơi.

Chẳng hạn đồng tiền của những cơ quan viện trợ giúp cho những người phong cùi hay mồ côi, chạy vòng
vo tam quốc, thế nào cũng rò rỉ vào túi các quan một mớ, quan lớn xơi nhiều, quan bé xơi ít, để rồi khi
tới tay trại phong cùi hay viện cô nhi thì chẳng còn bao nhiêu. Chỉ là như mấy giọt nước tong teo được
nhỏ xuống mà thôi.

Gã còn nhớ, năm 1978 vùng gã ở bị lụt lớn. Nhà nước kêu gọi toàn dân nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm
lá rách. Thậm chí ngay cả những thày cô giáo vùng gã, vốn mang danh là những người “húp cháo”, lại
đang gặp thiên tai cũng phải hưởng ứng lời kêu gọi cứu trợ. Mà không hưởng ứng cũng không được vì
thiên hạ trừ tật vào tiền lương của mình. Thôi thì lá rách ít đùm lá rách nhiều, lá rách vừa vừa đùm lá
rách te tua, cứu trợ bất dắc dĩ cũng chẳng sao, đổi khóc thành cười mà miệng thì cứ méo xệch.

Theo số liệu trên báo chí thì khoản tiền cứu trợ này thật đáng khích lệ, nhưng cuối cùng trong cả ấp của
gã thì chỉ có mấy gia đình thuộc hạng “khố rách áo ôm”, nghèo rớt mùng tơi là được chiếu cố, đi lãnh
mấy ký gạo hẩm và một lít nước mắm thối của cái được gọi là cứu trợ đồng bào bị thiên tai. Quả là đầu
voi đuôi chuột.

Những vị quan có máu tham nhũng được sánh ví như là những con chuột nhắt đục khoét bồ lúa, hay như
một loại mối mọt ăn rỗng cây cột và làm cho cây cột bị gẫy đổ lúc nào không hay. Quĩ của Nhà nước mỗi
ngày một tóp lại và trở nên rỗng tuếch, còn quĩ của các quan mỗi ngày một phình ra, nào nhà lầu, nào
xe hơi và trăm thứ lỉnh kỉnh khác nữa.

Hồi gã còn bé ở ngoài Bắc không có nhiều kẹo như bây giờ. Cả nhà có mỗi một khạp mật được bố cất kỹ
để dùng mỗi khi cần đến chất ngọt. Thế là những lúc bố đi vắng, gã bèn chui vô ăn vụng bằng cách
chấm ngón tay vào khạp mật, ngoáy một vòng rồi đưa lên miệng mút lấy mút để, mút hết cả ghét khiến
ngón tay cứ…trắng tươi.

Với các quan cũng vậy, hành động tham nhũng chính là hành động chấm mút. Các quan chấm ngón tay
vào công quĩ rồi vô tư, mặc sức mà…mút cho thoải mái.

Bây giờ gã xin bàn tới phạm trù thứ hai, đó là ăn hối lộ.

Ngày xưa có những bọn cướp thường chặn và bắt dân chúng phải đóng một khoản tiền được gọi là “mãi
lộ”, để “mua đường đi”, thì mới được qua lại trên đoạn đường ấy. Chẳng hiểu có phải vì vậy mà phát sinh
ra hai chữ hối lộ, tức là đút lót tiền cho các quan để nhờ cậy một công việc, để được che chở hay được
một ơn huệ nào đó.

Nói cách khác, hối lộ là việc người dân dùng tiền bạc hay quà cáp… có khi vui lòng, có khi bị ép buộc mà
dâng cho các quan một cách kín đáo trong một dịch vụ nào đó.

Thuở ban đầu, khi nhân chi sơ tính bản thiện, thì hành vi biếu xén rất có thể chỉ là một hành vi đền ơn
đáp nghĩa.

Chẳng hạn gia đình bị mất trộm, tôi đến công an trình báo và công an không những đã tìm ra thủ phạm
mà còn bắt thủ phạm phải hoàn trả những món đồ đã chôm được của gia đình tôi. Khi nhận lại những
của đã mất, tôi thầm nghĩ mình cũng phải biết điều, ít nữa là đối với những anh em công an. Mặc dầu họ
không đòi, nhưng mình vẫn phải làm, như có một sự thúc ép từ bên trong :

- Đã nhận ơn thì phải biết ơn và đền ơn.

Thế nhưng chuyện đời không đơn sơ và phẳng phiu như thế. Kinh nghiệm cho thấy : đồng tiền đi trước,
đồng tiền khôn. Đằng nào cũng đút thì nên đút trước, bởi lẽ sẽ làm cho quan vui vẻ hơn. Và một khi
quan đã vui vẻ thì công việc của mình hẳn sẽ đầu xuôi đuôi lọt, đỡ phải những mắc míu khó khăn, như
một nhà thơ đã phát biểu :

- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.


Trong báo”Tuổi trẻ chủ nhật” có ghi lại một mẩu chuyện hài hước của Zadorop. Mẩu chuyện ấy đại khái
như thế này.

Vừa qua, người ta đưa tôi vào bệnh viện để mổ ruột thừa gấp. Thế nhưng bác sĩ nói :

- Hôm nay chúng tôi phải giải phẫu cho mấy người nước ngoài.

- Xin bác sĩ cứ tính gấp đôi.

Bác sĩ vui vẻ nói :

-Đây lại là chuyện khác, đáng lẽ anh nên nói ngay từ lúc đầu.

Thế là bác sĩ mổ cho tôi ngay lập tức, không kịp tiêm thuốc tê vì cô y tá gây tê xin nghỉ bù sáng nay.

Khi ruột thừa đã cắt xong thì đúng mười hai giờ. Bác sĩ buông dụng cụ, lột bao tay và nói :

- Hết giờ làm việc.

- Thế ông không khâu lại cho tôi sao ?

- Tự nó sẽ lành thôi.

Tôi lại thử một lần nữa :

- Chỗ quen biết, ông cứ tính cả tiền xăng dầu, lẫn tiền cà phê luôn nhé.

- Thế thì được, theo nguyên tắc chúng tôi không khâu cho ai ngoài giờ cả. Nhưng chỗ quen biết với
nhau, tôi linh động cho anh đấy.

Cuối cùng, bác sĩ đã khâu bụng lại cho tôi. Nhưng chẳng có ai đưa tôi về phòng. Tôi cố gọi mấy cô y tá,
nhưng ai cũng đi qua vội vã. Mãi nửa đêm tôi mới nhờ được một người tàn tật cho bám vào xe lăn.

Chính vì thế, dân cảm thấy đó là như một bổn phận vì muốn được việc thì cần phải biết điều, cần phải
hối lộ. Còn các quan, được đút mãi, được xơi hoài thành tật theo kiểu “quen mui thấy mùi ăn mãi”, và
nghiễm nhiên coi đó là một thái độ phải có, một bổn phận phải làm của dân.

Đây quả là cái vòng luẩn quẩn của một mê hồn trận, của một thế cài răng lược, tựa lưng vào nhau mà
sống : Có đớp thì mới đút và có đút thì mới đớp.

Thậm chí trong vụ Tân trường sanh, bị cáo Phùng long Thất, một cán bộ Hải quan cao cấp đã phải thốt
lên ai oán :

- Thân mình không thể không nhận “bồi dưỡng”, vì ngày nào cũng bị khách hàng o bế cung phụng.

Và như thế, tệ trạng hối lộ đã trở thành chuyện đời thường, như một tục lệ đương nhiên. Mà đã là lệ thì
khó mà xóa bỏ, bởi vì phép vua còn thua cả lệ làng.

Tệ trạng hối lộ vẫn đang liên tục phát triển, trăm hoa đua nở với những danh xưng thật mỹ miều, nào là
tiền bồi dưỡng, tiền chè nước, nào là phong bì, quà cáp…Tệ trạng này có mặt trong mọi lãnh vực, gã xin
ghi lại nơi đây một số ý kiến của bạn đọc về vấn đề này đã được đăng tải trên báo Công giáo và Dân tộc.

“Khi xin giấy tờ về nhà đất, về kinh doanh hay mua bán xe…tất cả đếu phải “trà nước” nếu muốn nhanh
việc. Cho dù đây không phải là luật, nhưng đã là lệ. Nếu phải chạy đi chạy lại nhiều lần cho một công
việc nào đó, gia đình sẽ bảo tôi là khờ, là không bén “nhạy”.

“Bây giờ muốn làm gì thì khó mà đi tay không. Việc tặng quà đã trở thành cái nếp, gần như là một cố tật
của xã hội. Người ta cho rằng những món quà chỉ mang ý nghĩa “tình cảm”. Thật ra chẳng tình cảm chút
nào cả, chỉ có người tặng quà và người nhận quà mới biết rõ nó mang ý nghĩa gì. Theo tôi, hối lộ có
nhiều mức độ khác nhau, nhưng mức độ khởi đầu của nó là quà biếu.

“Tôi xin làm bản sao khai sinh cho con để nộp đơn đi học. Nhân viên hộ tịch bảo phải một tuần sau. Tôi
đành đưa một phong bì bồi dưỡng. Thế là mọi chuyện ổn thỏa nhanh chóng.

“Mấy lần trước về tới Tân sơn nhất, nhiều Việt kiều nhét 5 USD vào giấy thông hành. Lần này về thăm
gia đình, lại chẳng tốn đồng nào. Tôi nghĩ đã có sự thay đổi trong đội ngũ hải quan. Nhưng gia đình tôi
lại nói chắc là họ quên.

“Ba tôi mất ở bệnh viện bị đưa xuống nhà xác. Gia đình phải chi tiền bồi dưỡng cho nhân viên quản lý,
xác ba tôi mới được nhanh chóng về nhà. Mẹ tôi cũng nằm viện, do rút kinh nghiệm, nên khi mẹ hấp hối,
gia đình xin đưa mẹ về trước. Nhưng cũng phải bồi dưỡng cho các bác sĩ, y tá…

“Có người đã gọi ngày nhà giáo là “ngày cho đồ thày cô”. Tôi buồn quá. Một ngày kỷ niệm bị biến thành
ngày nặng về vật chất, bôi nhọ luôn những món quà đầy ắp tình cảm.

Lời phát biểu trên chưa đau cho bằng lời phát biểu của một vị phụ huynh mà gã đã được nghe thấy :

- Chúng tôi đã đóng tiền cho các thày các cô nhậu rồi còn đòi hỏi gì nữa!!!

Từ những cảm nghĩ trên, có người đã cho rằng : tiền hối lộ chính là một “chất mỡ” bôi trơn bánh xe vận
hành thương mại và đầu tư ở các nước đang phát triển.

Họ nêu ra trường hợp một địa phương miền nam Trung quốc, nhà đầu tư phải lo lót tiền cho chính quyền
xã để mở một con đường giao thông huyết mạch đi ngang qua xã này mà không có trong qui hoạch. Mấy
năm sau, con đường ấy phát huy tác dụng, nhà đầu tư lẫn địa phương đó đều giàu lên.

Tuy nhiên, một vài trường hợp như trên không đủ để thuyết phục bất cứ ai thấm thía với tệ nạn tham
nhũng hối lộ bởi vì nó chính là yếu tố quan trọng hơn cả làm suy thoái kinh tế và mất ổn định xã hội.

Luật sư Nguyễn văn Phương cũng viết :

“Một nguyên nhân nổi bật và gây nhức nhối là vấn đề “tiền bồi dưỡng”. Với “tiền bồi dưỡng”, người ta đã
có thể mua được cả một ngành mà nhiệm vụ là gác cổng không để hàng lậu lọt vào phá hoại kinh tế
quốc gia. Nhưng đâu chỉ có ngành Hải quan nhận tiền bồi dưỡng, mà vấn đề tiền bồi dưỡng có mặt ở
khắp nơi, trong mọi hoạt động, trong mọi ngành nghề. Thiếu nó thì công việc không chạy, hoặc chạy
không trơn tru, nên thật khéo khi người ta gọi nó là “tiền bôi trơn”. Vấn đề này xảy ra thường xuyên quá
đến nỗi người ta coi nó là chuyện đương nhiên và không hề có mặc cảm tội lỗi khi thực hiện nó.

Theo con số thống kê quốc tế, trong thời gian từ 1988-1992, kim ngạch xuất khẩu bình quân hằng năm
của mười tập đoàn xuất khẩu vũ khí đạn dược lớn trên thế giới là 30 tỷ mỹ kim, trong đó có khoảng 4 tỷ
mỹ kim được dùng vào việc hối lộ trực tiếp hoặc gián tiếp các chính khách và các quan chức cao cấp.

Nếu gã không lầm thì hình như chính phủ của thủ tướng Tanaka bên nước Nhật cũng đã bị gục ngã vì số
tiền hối lộ của một công ti chế tạo máy bay tại nước Mỹ!

Tuy nhiên đút được và được đút cũng như đớp được và được được đớp quả là một nghệ thuật. Ở đây gã
chỉ bàn thêm chút xíu về hai thứ nghệ thuật này.

Hồi trước ngày Giải phóng, tất cả các xe đò muốn qua trạm kiểm soát một cách mau chóng thì anh lơ
phải mau mắn nhảy xuống xe đút một tờ báo cho viên cảnh sát. Dĩ nhiên là trong tờ báo ấy có kẹp thêm
“Đức thánh Trần”, tức là tiền năm trăm thời đó.

Bây giờ, các Việt kiều muốn thủ tục nhập cảnh được êm xuôi, thì khi tới sân bay, cứ việc kẹp sẵn vài
đồng đô la trong hộ chiếu là qua cửa ải cái vù. Đó cũng là một cách đút.

Nếu đút cửa trước xem chừng có vẻ…căng, thì hãy chịu khó luồn cửa hậu, cửa sau, nghĩa là hãy chịu khó
liên hệ với quan bà, vì một lời của quan bà đối với quan ông thì bằng ngàn lời của người dưng nước lã.

Thấy tiền và nhất là thấy vàng, chắc chắn quan bà sẽ rất lấy làm xúc động mà bàu cử cho.

Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì lấy vàng để nhử đờn bà và lấy đờn bà để nhử đờn ông, vốn là một qui
luật của ngàn đời.

Riêng các quan, muốn đớp một cách khéo léo ít kẻ biết được, thì mỗi khi có tí chuyện vui hay tí chuyện
buồn như : đám giỗ cho các cụ thân sinh, đám cưới cho con, đám thôi nôi cho cháu, hay đám kỷ niệm
quan ông lấy quan bà…thì cứ việc mở tiệc cho linh đình.

Đối với dân đen, thì đông vui hao, chứ đối với các quan, đông vui…thì chỉ có lời. Các thân chủ khi nhận
được thiệp báo tin thì hãy lo chuẩn bị một phong bì thật chất lượng, hay quà cáp thật hậu hĩnh.

Có một vở kịch mang tựa đề là “phong bì” được báo Công An thành phố tóm lược như sau :

Có ông bác sĩ “lương y như từ mẫu” nên rất nghèo, quanh năm cứ được bà vợ cho ăn cơm với rau
muống. Hết luộc tới xào, hết xào tới nộm, khiến ông thấy rau muống là phát ngán.

Cuối cùng hai vợ chồng mới tìm ra nguyên nhân khi soi rọi lại các đồng nghiệp của mình cứ giàu lên, đó
là do ông bác sĩ chân chính này không chịu nhận phong bì. Hai vợ chồng ông bác sĩ sau khi “ngộ” ra cái
nguyên nhân nghèo của mình, nên quyết định…nhận phong bì.

Bất ngờ có một đứa bé gái đến gõ cửa nhờ cứu mẹ đang nằm trong bệnh viện chờ mổ và đưa cho ông
bác sĩ cái phong bì. Quyết tâm thì có, nhưng lương tâm thì chống lại, nên ông bác sĩ rất khổ sở, giằng xé
trước cái phong bì. Nhận hay không nhận ? Bà vợ càng thúc giục, ông bác sĩ càng đau khổ.

Hỏi thăm hoàn cảnh của “khổ chủ” mới vỡ lẽ ra rằng trước đây đứa bé gái cũng có một người cha đau
nặng phải vào nhà thương để mổ, nhưng vì nghèo quá không có phong bì nên người cha ấy đã chết. Bây
giờ cô bé không muốn mất thêm người mẹ, nên cương quyết phải đưa phong bì cho ông bác sĩ.

Cuối cùng, cái gút của vấn đề đã được mở cũng từ cái phong bì khi có sự giằng co của bà vợ ông bác sĩ
khiến tiền trong bì bị rơi : thì ra chỉ là mấy đồng bạc lẻ.

Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ trong sách “Cổ học tinh hoa”.

Có một ông quan vừa mới nhận chức tại một huyện xa xôi. Ban đêm, một người bạn đến thăm và đút
cho ông ta một số tiền lớn. Ông quan thanh liêm nhất định không nhận, nhưng người bạn liền nói :

- Trời thì tối, chẳng có ai biết được đâu mà sợ.

Ông quan trả lời :

- Trời biết, đất biết, anh biết và tôi biết, sao lại nói chẳng có ai biết được đâu ?

Thế nhưng, các vị quan thời nay cứ phớt tỉnh ăng lê, ung dung xơi một cách tận tình, miễn sao đừng để
cho sao quả tạ chiếu tướng. Chỉ khi nào lỡ chùi mép không kịp, bị sờ vào gáy và bị lôi ra tòa xét xử thì
mới giật mình và vội vã kêu lên rằng :

- Mình bị oan…mình bị lừa…hay mình dốt và thiếu khả năng nhưng bị đặt ngồi vào ghế cao một cách bất
đắc dĩ…

Giữa lúc ba tòa quan lớn xét xử những vụ tham nhũng hối lộ nổi cộm như Tân trường sanh, Minh
phụng… thì báo chí cho biết :

- Các nhân viên hải quan đang thi hành nhiệm vụ vẫn tiếp tục nhận tiền bồi dưỡng và những người làm
thủ tục hải quan vẫn tiếp tục đưa tiền bồi dưỡng như thường lệ.

Nếu vậy, cứ diệt tham nhũng, nhưng diệt rồi thì biết lấy ai mà lo việc dân việc nước.
TẤP TỂNH NGƯỜI ĐI - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Sáng hôm ấy, sau khi đã uống một ly cà phê đen và “bắn” một phát thuốc…lào, gã đang ngồi vểnh cằm
lên trần nhà mà vặt mấy sợi râu mọc vô tổ chức và để cho hồn mình “mơ theo trăng mà vơ vẩn cùng
mây”, bỗng có tiếng chuông điện thoại.

Bốc máy lên, mới vỡ nhẽ :

- À thì ra đó là cụ chủ nhiệm.

Chưa kịp mở mồm mở miệng, thì đã nghe cụ ấy làm một màn “đắc nhân tâm” :

- Chuyện phiến của chú mày khá là được chiếu cố đấy nhé.

Nghe vậy, gã bèn kê tủ đứng :

- Xin cụ hãy nhớ cho rằng kẻ nào bốc thơm mà bốc phải ấy là bạn ta, còn kẻ nào bốc thối mà bốc phải ấy
là thày ta. Cụ muốn điều gì thì xin cứ nói mẹ nó ra, bởi vì tôi tớ cụ đang lắng tai nghe, cần gì phải vòng
vo tam quốc.

Hình như có tiếng hắng giọng kèm theo một nụ cười ruồi. Cụ bảo :

- Sinh ta ra là cha mẹ ta, còn hiểu được lòng ta chính là chú mày đấy. Sao chú mày lại đi guốc trong
bụng ta vậy. Thôi, chú mày hãy chịu khó viết nhăng viết cuội, tán hươu tán vượn cho ta tí tẳng về đề tài
việt…kều được không ?

Chẳng kịp suy nghĩ, gã đã buột miệng nói :

- Chuyện nhỏ, dễ ợt mà.

Thế là cụ bèn cúp máy cái rụp, chẳng kịp để cho gã lấy thêm mấy cái ý kiến ý cò chỉ đạo. Thôi đành chịu
vậy, biết sao được.

Thiên hạ thường bảo :

- Lao động thì vinh quang,

Lang thang thì chết đói,

Hay nói thì ở tù,

Lù khù thì sống lâu.

- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Có nghĩa là một lời nói tuột ra khỏi miệng, thì bốn ngựa đuổi
theo cũng chẳng kịp.

- Chẳng cái dại nào bằng cái dại miệng.


Vì thế, bây giờ gã mới ân hận, bởi vì gã chưa bao giờ để tâm để trí vào lãnh vực này, hay bới lông tìm
vết mà khám phá ra những cái sở trường và sở đoản, những cái hay và dở, những cái tốt lành và lôm
côm của…phe ta, khi trở về thăm lại quê hương.

Giá mà gã cứ chối phắt ngay từ đầu, thì có phải là khỏe re, như con bò kéo xe hay không. Nhưng hối bất
cập, “bi giờ” thì đã quá muộn, đành phải vò đầu bứt tai làm tròn điều đã lỡ hứa với cụ chủ nhiệm vậy.

Đối với dân Việt nam ta, phàm cái gì cũng có thể trở nên một phong trào, một hiện tượng.

Nếu trí nhớ của gã không tồi thì trước ngày giải phóng, ở miền Nam đã có những phong trào, những hiện
tượng. Chẳng hạn như phong trào nuôi chim cút, hiện tượng đọc chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, hay
đọc chuyện tình cảm ẩm ướt của Quỳnh Dao.

Còn trong những ngày gần đây, thì trên cả nước có hiện tượng sì ke ma túy, hiện tượng học trò đánh
đấm thày cô, phong trào dật hụi, phong trào thi cử gian lận…Và nếu không lầm, thì thời gian từ năm
1978 đến năm 1981 chính là cao điểm của phong trào…vượt biên.

Hồi ấy, gã đã từng nơm nớp lo sợ :

- Có một buổi sáng sám xịt nào đó, khi thức giấc tỉnh dậy sau giấc ngủ mệt mỏi đầy ác mộng, thì ngó tới
ngó lui, chẳng còn ai ở chung quanh mình, bởi vì tất cả đều đã khăn gói quả mướp…ra đi.

Thêm vào đó, ngày nào cũng có những tin tức về những “kẻ ngồi thuyền vượt biển” được rêu rao trên
các đài phát thanh BBC, VOA…Thậm chí có kẻ đã trả lời phỏng vấn như sau :

- Nếu cái cột đèn biết đi thì nó cũng…đi.

Thành thử, những người bám trụ, còn ở lại cũng cảm thấy chao đảo và nếu lập trường không vững, thì
cũng rất dễ sa vào “cơn cám dỗ cuối cùng” này, theo kiểu :

- Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,

Cũng thuyền, cũng bến cũng…ra khơi.

Ra đi lúc bấy giờ quả thật là một hành động liều lĩnh và mạo hiểm, một được hai thua, được thì vẻ vang,
còn thua thì nắm chắc cái chết trong tay, hay ít nữa thì cũng tù tội. Thế mà thiên hạ vẫn cứ ào ào ra đi,
bất chấp mọi khó khăn.

Nơi gã ở lúc bấy giờ đang trong cao điểm ấy, không ngày nào mà không có một vài người, hay một vài
gia đình…biến. Thậm chí có những người đã từng bị bắt đôi ba lần, thế mà khi được thả ra, liền lập tức
âm mưu, tính toán cho một chuyến đi khác.

Làm sao kể cho hết những khó khăn và gian khổ của những người ra đi. Ở đây, gã chỉ xin “kê đơn hoàn
tán” một vài khó khăn gian khổ chính yếu mà thôi.

Cái khó khăn thứ nhất là phải làm thế nào thoát khỏi sự dòm ngó và lùng bắt của công an.
Gã có một thằng bạn, nhà liền vách với trạm công an, thế mà hắn đã đưa được cả gia đình xuống tàu
một cách êm ru bà rù. Quả là tâm phục, khẩu phục. Sau này gã mới khám phá ra mưu chước của hắn.

Số là hắn có một thửa ruộng cách xa nhà. Và thế là ngày nào hắn cùng vợ con đi lao động, chăm sóc
thửa ruộng ấy. Cho đến một ngày, khi mọi sự đã sẵn sàng…và thế là hắn đã biến cùng với những người
thân yêu của hắn.

Nhiều người muốn được bảo đảm an toàn đã mua đứt bến bãi, bằng cách đút tiền cho công an, nhưng
nếu chẳng may vớ phải mánh dổm, thì tiền mất tật mang, trọn ổ bị hốt về trại giam, hay bỏ của chạy lấy
người, mạnh ai người ấy trốn, mỗi người một ngả, may thì thoát.

Cái khó khăn thứ hai là phương tiện di chuyển.

Đối với những người sống ở ven biển, có sẵn tàu thuyền thì không mấy khó khăn. Còn đối với những
người sống sâu trong đất liền, có khi chưa một lần đặt chân tới vùng biển, thì cách thức đơn giản nhất là
đi theo mánh. Phó mặc toàn bộ công việc cho những kẻ tổ chức. Tới thời điểm đã định, chỉ việc đến
điểm hẹn để được…ém quân, rồi sau đó được chở bằng thuyền nhỏ, gọi là “tắc xi” để được bốc lên
thuyền lớn. Thế nhưng rất nhiều người đã méo mặt vì vớ phải mánh dổm, đụng phải những kẻ lừa gạt
chuyên nghiệp.

Bọn này cũng cho đi xem ghe thuyền đàng hoàng, cũng ấn định điểm hẹn và còn bảo đảm cả bến bãi đã
được mua đứt…Những rồi khi tay xách nách mang tới điểm hẹn, thì chẳng thấy ma nào hết.

Ở lại thì sợ bị công an thộp cổ, nên chỉ còn cách “dĩ đào vi thượng sách”, chạy trốn là kế sách hay hơn
cả, bằng mọi cách phải cao chạy xa bay khỏi điểm hẹn chết tiệt ấy.

Giá cả lúc bấy giờ cũng thật là chóng mặt. Mỗi đầu người là mười đồng, tức là mười cây vàng, chứ nào
có phải là ít. Vì thế, có những gia đình chỉ sau một đêm mà mất toi sản nghiệp được chắt chiu gầy dựng
suốt bao nhiêu năm trời, đúng là “kiếm củi ba năm thiêu một giờ”, hay :

- Ra đi trong hy vọng khấp khởi,

Trở về trong rầu rĩ hoang mang.

Thấy kiểu này vừa hao tốn, vừa bấp bênh, nên về sau nhiều người đã tự tổ chức lấy, đứng ra sắm ghe
thuyền, hải bàn, bản đồ… mua lương thực, săng dầu…rồi thuê tài công, thợ máy…nghĩa là lo từ A đến Z
cho chuyến đi định mệnh ấy.

Tuy nhiên, đứng ra tổ chức không phải là không có những trục trặc và rủi ro. Chẳng hạn người tài công
hay thợ máy vào phút chót thì giở quẻ, đòi cho vợ con hay tình nhân của mình đi theo.

Chẳng hạn để bù lỗ phần nào những chi phí, thường phải nhờ kẻ dắt mối bắt khách ăn chia, thế những
khi thuyền sắp rời bến, kẻ dắt mối lại đòi phải nhồi nhét thêm cho một vài khuôn mặt ăn có khác nữa
làm cho con thuyền bị…quá tải.

Người xưa đã từng diễn tả :


- Thùng thùng trống đánh ngũ liên,

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Ở đây thì những người ra đi phải trốn chui, trốn nhủi, làm gì có cảnh đưa tiễn rầm rộ, nhưng nước mắt
đổ ra khi rời bỏ nơi quê cha đất tổ và những người thân yêu chắc chắn không phải là ít.

Thế nhưng bước chân được xuống thuyền đã là điều mừng, để rồi từ đó phó mặc cho số phận dun dủi :

- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Mà xem con tạo xoay vần tới đâu.

Thực vậy, ghe thuyền nhiều khi chỉ là một chiếc “cà dom” ọp ẹp, dài hơn chục mét mà phải chất chứa
đến mấy chục mạng người. Thêm vào đó, máy móc lại quá “đát”, có lúc chỉ là một chiếc máy xăng BS9…
tất cả chẳng khác chi một chiếc vỏ trứng tròng trành trên sóng nước, nhưng mà :

- Một liều ba bảy cũng liều.

Còn tài công lắm khi cũng chỉ là những kẻ “ấm ớ hội tề”, mang tý nhãn hiệu trình tòa hay cái mác của hải
quân mà chẳng biết đã có lần nào chui xuống tàu hay đi ra biển chưa là nghiễm nhiên có quyền gật đầu,
ừ đại để được đi…chùa, khỏi tốn tiền hao bạc, mà lại còn được cõng thêm một vài người khác gọi là chút
đỉnh thù lao đền bù. Vì thế đôi khi đã xảy ra những chuyện cười làm vãi cả nước mắt.

Có một nhóm bè bạn liên kết với nhau để tổ chức bằng cách tự mua sắm thuyền và thuê mướn tài công.
Lúc xuất phát từ Nha trang, họ đã xin lễ cầu bằng an. Lúc xuống thuyền, mặc dầu không hát thành lời,
nhưng hầu như ai nấy đều thầm thĩ kêu xin :

- Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển….

Con thuyền thuận buồm xuôi gió, luớt sóng được mấy ngày thì thấy một hải đảo hiện ra. Mọi người đều
tin rằng miền đất hứa đang mở rộng vòng tay chào đón.

Và thế là họ lớn tiếng dâng lời cám ơn Thiên Chúa :

- Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa…

Tuy nhiên, khi bước chân lên bờ, họ bỗng rụng rời khiếp hãi khi nhìn thấy cờ đỏ sao vàng phấp phới tung
bay. Thì ra nơi họ tưởng là miền đất hứa chính là đảo Phú quốc. Rồi chuyện gì phải đến ắt sẽ đến. Tất cả
mọi người, nam phụ cũng như lão ấu, liền ông cũng như liền bà, không trừ một ai, đều được thưởng
thức món cơm hẩm nhà tù một thời gian.

Và như trên gã đã viết :

- Đây là chuyến đi định mệnh, một được hai thua.

Về cái chuyện được thua ấy, thiên hạ đã diễn tả như sau :


- Được làm vua, thua chui vô hàm cá mập.

Hay :

- Được làm vua, thua làm mồi cho cướp.

Có một ông chồng đã dặn dò người vợ yêu dấu trước khi bước chân xuống thuyền như thế này :

- Nếu sau một thời gian mà không nhận được tin tức gì của anh cả thì : “giỗ tết từ đấy nhớ đến ngày”.
Coi như anh đã đi đứt, đang phiêu diêu miền cực lạc, hay đang tắm mát dưới suối vàng.

Còn biết bao nhiêu gian truân và hiểm nguy trên mặt đại dương. Còn biết bao nhiêu tủi nhục và cay đắng
khi sa vào tay bọn hải tặc. Còn biết bao nhiêu hãi hùng và nước mắt khi thuyền chìm giữa biển khơi. Còn
biết bao nhiêu ê chề khi ở trại tị nạn. Và không biết bao nhiêu người đã chết mất xác…

Có lần gã đã hỏi một người bạn ở Mỹ về như thế này :

- Liệu bây giờ mi có dám làm một chuyến vượt biển như hồi đó hay không ?

Hắn đã lắc đầu quầy quậy mà trả lời :

- Có các vàng thì em cũng…chả dám đâu.

Nhiều người tin rằng vượt biên cũng có cái số của nó. Có kẻ đi mãi đi hoài, vào tù ra khám, tiêu tan sản
nghiệp, mà vẫn không xong. Có kẻ đi một cú là liền tới bến. Có kẻ vượt biên bất đắc dĩ, không muốn đi
nhưng bị ép phải đi thế mà cũng êm ru bà rù.

Những người ra đi lúc bấy giờ, theo gã nghĩ, gồm có ba thành phần.

Thành phần thứ nhất là những người muốn đi tìm một cuộc sống tự do vì họ nghĩ rằng :

- Nếu ở lại, họ sẽ bị trù dập, bị tù tội vì đã tham gia vào guồng máy cai trị của chế độ cũ, hay sẽ không
được thực sự sống niềm tin của mình.

Thành phần thứ hai là những người muốn đi tìm một cuộc sống giàu sang, thỏa mái vì họ nghĩ rằng :

- Nếu ở lại, kinh tế gia đình họ sẽ gặp khó khăn và tương lai con cái họ không được sáng sủa.

Thành phần thứ ba là những người chẳng có ý định nào suốt, thấy người ta bồng bế nhau đi thì mình
cũng đi.

Họ có thể là những người ra đi “bất đắc dĩ”. Chẳng hạn như cha mẹ bắt con cái phải đi để có được một
ngày mai tươi sáng hơn. Chẳng hạn một anh chàng nào đó dạo chơi phất phơ gần chỗ thiên hạ”bốc
hàng”, và thế là để bảo đảm an toàn, thiên hạ bèn dùng áp lực bắt anh ta xuống thuyền và cho dông
luôn.
Ngoài ra còn có một hạng người được gọi là dân “can me”.

Họ là những kẻ không có một đồng xu dính túi để đóng góp, nên đành phải đi chùa của thiên hạ bằng
cách nhờ tình cảm của tài công, thợ máy, kẻ dắt mối giới thiệu cho đi ké mà chẳng phải mất một cắc
bạc… hay do hoàn cảnh dun dủi, gặp được thời cơ thuận lợi, họ cứ nhảy đại xuống thuyền theo kế sách :
nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu…rồi thì đến một lúc nào đó con thuyền cũng sẽ cặp bến mà chớ.

Ra đi lúc bấy giờ không phải chỉ là “chết trong lòng một tí”, mà hơn thế nữa, còn được coi như là chia lìa
vĩnh viễn, đôi ngả ngăn cách ngàn đời, như cõi âm và cõi dương, người sống và kẻ chết, vì “bước chân đi
cấm kỳ trở lại”.

Gã còn nhớ hồi năm 1954, những người di cư vào miền Nam, lúc đầu còn được liên hệ với những thân
nhân tại miền Bắc bằng cách viết vào một tấm giấy bìa màu vàng, tựa như tấm “cạc pót tan”, rồi nhờ “Ủy
hội quốc tế kiểm soát đình chiến” chuyển giao.

Viết thì cứ viết, nhưng liệu tấm thư bỏ ngỏ ấy có đến được tay người thân hay không, thì hãy bắc thang
lên hỏi ông trời vì chỉ có một mình ông mới biết mà thôi.

Giòng sông Bến Hải nào có rộng rãi chi, thế mà người từ bên ấy muốn qua bên này cũng chẳng được và
ngược lại, người từ bên này muốn qua bên ấy cũng đành bất nhóc nhách, huống lọ là hai bờ Thái Bình
Dương cách xa ngàn trùng, thì làm sao mà có thể trở về thăm lại quê hương.

Người ra đi thì hiểm nguy khiếp hãi, còn kẻ ở lại thì cũng không kém phần long đong khốn khó…Nhưng
thôi, chả dám viết nữa, kẻo có người lại thở dài mà than :

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.

Thế nhưng sự đời vốn thường thiên biến vạn hóa, thay đổi không ngừng, như người xưa đã bảo :

- Thương hải biến vi tang điền. Nghĩa là biển cả biến thành ruộng dâu.

Hay như một bài hát quen thuộc :

- Than ôi trái đất vẫn tròn,

Chúng mình hai đứa vẫn còn gặp nhau.

Đúng thế, một luồng gió mới đã thổi vào Việt nam với chính sách đổi mới. Nhà nước mở cửa, kêu gọi
nước ngoài đầu tư, nới rộng kinh doanh, phát triển du lịch, một loại kỹ nghệ không có khói nhưng đem
lại nhiều lợi nhuận…

Gã không thông thạo lắm về chuyện này, nhưng có lẽ vấn đề cấp bách là phải vực cái nền kinh tế vốn dĩ
đã èo uột và lạc lậu lên vì lợi tức đầu người hàng năm lúc bấy giờ của mình thuộc vào hạng thấp nhất
thế giới.

Thôi thì như Đặng Tiểu Bình đã nói, nếu như gã không lầm, rằng :
- Mèo trắng, mèo đen không sao cả, miễn là bắt chuột.

Song song với đó, nhà nước cũng kêu gọi những người Việt nam đang sinh sống ở nước ngoài góp phần
xây dựng đất nước, sẵn sàng mời họ trở về thăm lại quê hương xứ sở. Và thế là các Việt kiều bắt đầu lục
tục kéo nhau về.

Lúc đầu các Việt kiều còn e dè vì sợ rằng đây chỉ là một cái bẫy do Nhà nước giăng ra. Một khi đã về thì
bẫy liền sập, nhất là đối với những người đã từng cộng tác với chế độ cũ. Vì có tội thì phải đền tội. Hoặc
còn ngại ngùng vì sợ tư thù cá nhân, không được luật pháp bảo vệ, sẽ bị đối xử theo luật rừng, hay theo
kiểu giang hồ, mắt đền mắt, răng thế răng…

Nhưng rồi những cái “sợ rằng” ấy không phải là sự thật. Khi đặt chân xuống mảnh đất quê hương, họ
được ân cần tiếp đón như những người thân yêu đi vắng xa nay đã trở về, như những người con đã lạc
mất nay lại tìm thấy.

Sở dĩ như vậy vì có lẽ chính sách, đường lối và lập trường của Nhà nước đã thay đổi, nếu không muốn
nói là chiếc bản lề đã quay hẳn một góc 180o.

Trước kia, nếu những người vượt biên bị coi là phản quốc, thì nay được coi là yêu nước, được cưng như
cưng trứng, hứng như hứng hoa…

Và sở dĩ có bước ngoặt này vì có lẽ Nhà nước đã ý thức được rằng Việt kiều cũng là những người con của
Mẹ Việt nam, cũng là những thành phần trong lòng dân tộc, khả dĩ có thể đóng góp khả năng và chất
xám, vật chất và tiền của để xây dựng và phát triển đất nước. Cụ thể là những đồng đô la do các Việt
kiều gửi hay đem về giúp đỡ thân nhân.

Tuy nhiên, đồng đô la thì cũng có mặt phải và mặt trái. Việt kiều thì cũng có người tốt và kẻ xấu.

Có những đồng đô la hữu ích đem lại vui mừng và hy vọng, nhưng cũng có những đồng đô la bất hạnh
gây đổ vỡ tan hoang. Có những Việt kiều trở về đã sưởi ấm tình yêu thương trong gia đình hay khu xóm,
nhưng cũng có những Việt kiều trở về chỉ để hưởng thụ, lường gạt hay toan tính những việc làm ăn mờ
ám.

Muốn biết được những sự việc tốt lành và lôm côm này, xin mời bạn đọc đón xem những bài sau ắt sẽ
rõ.
CƯỜI - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Nếu gã nhớ không lầm, thì hình như Phạm Quỳnh có viết trên “Nam Phong Tạp Chí” như sau :

- Dân An Nam ta cái gì cũng cuời. Vui cũng cuời, mà buồn cũng cuời.

Ăn theo chiều hướng ấy, gã bèn suy ra rằng :

- Dân An Nam ta cái gì cũng cười. Động một tí là vén môi cuời tồ tồ.

Đây cũng có thể là một điểm khác biệt giữa ta và tây.

Ngày nọ, có một linh mục người Canada trịnh trọng thông báo cho đám học trò của mình như sau :

- Tôi rất lấy làm đau buồn báo tin cho các anh hay, cha Bolumburu của chúng ta mới qua đời…

Vừa nghe tới đây đám học trò bèn cười ồ lên, khiến cho vị linh mục người Canada ấy giận tới mức đỏ
mặt tía tai, bỏ cái một về phòng của mình :

- Tôi không hiểu được tại sao các anh lại vô duyên đến thế. Trong khi tôi báo một tin buồn thì các anh lại
cười ồ.

Đám học trò bèn phải cả tiếng lại dài hơi cắt nghĩa cho vị linh mục người Canada ấy hiểu rằng :

- Chúng con cười, không phải vì tin buồn được cha loan báo, nhưng chúng con cười chỉ vì tên gọi
Bolumburu nghe kỳ quá…

Miết rồi vị linh mục người Canada ấy mới hiểu và cảm thông cho cái cười của người An Nam mình.

Mở tự điển tra cứu, gã ghi nhận được hai nghĩa chính của động từ cuời :

Nghĩa thứ nhất theo “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, thì cười là động tác nhích môi, hé miệng, nhe
răng, phát ra tiếng hay không phát ra tiếng, để bày tỏ sự vui mừng hay một một ý tứ gì đó. Tuy nhiên,
hai chữ “nhe răng” ở đây xem ra bất ổn vì còn đâu nữa vẻ đẹp của những nụ cười mỉm chi, chẳng hạn
như cái mỉm cười đầy vẻ bí ẩn đã được Léonard de Vinci diễn tả qua tác phẩm “La Joconde”. Gã thấy
nàng Monna Lisa đâu có…nhe răng.

Còn theo tự điển “Larousse” của Pháp, thì cười là hành vi biểu lộ niềm vui bằng cách chuyển động môi
miệng và thường phát ra tiếng.

Tiếng Việt Nam của chúng ta rất phong phú, để diễn tả ý nghĩa thứ nhất này, gã đếm được cả thảy 80
kiểu cuời khác nhau, như cười duyên, cười giòn, cười khúc khích, cười chúm chím, cười ruồi, cười toe
toét, cười tủm tỉm, cười xòa…

Nghĩa thứ hai cũng theo “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, thì cười là chê bai, chế nhạo, khinh khi, đe
dọa, thái độ có khi tỏ ra bên ngoài bằng tiếng cười và vẻ mặt, có khi lại dấu kín trong lòng :

- Cười người chớ có cười lâu,


Cười người hôm trước, hôm sau người cười.

Cũng trong ý nghĩa thứ hai này, gã đếm được gần hai mươi kiểu cười khác nhau, như cười gằn, cười
khảy, cười mỉa, cười nhạo, cười thầm…

Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, gã chỉ xin bàn tới hành động cười với ý nghĩa thứ nhất mà thôi.

Trong một bài viết mang tựa đề “Chuyện lạ về cười” được đăng trên báo “Kiến thức ngày nay”, tác giả
cho biết :

Vào ngày 03 tháng 01 năm 1962, một dịch cười kỳ lạ đã bộc phát trong một trường học do các nhà
truyền giáo phụ trách tại một ngôi làng gần Bukoba, thuộc nước Tanzanie, gần hồ Victoria.

Những triệu chứng đầu tiên là cười và khóc xuất hiện ở những học sinh nam và nữ trong độ tuổi thiếu
niên. Bệnh phát ra đột ngột với những tràng cười dài từ vài phút đến nhiều giờ, thậm chí kéo dài đến 16
ngày, bị ngắt quãng bởi những đợt lắng dịu tạm thời. Ngay cả khi không cười, các bệnh nhân cũng tỏ ra
kích động, không thể tập trung ý chí. Những tiếng cười cuồng loạn gây xáo trộn đến độ trường học phải
đóng cửa vào cuối tháng sáu.

Khi trở về làng, các bệnh nhân nữ lây truyền bệnh cười cho bạn bè và người thân. Chỉ những người đàn
ông trưởng thành và dân làng có học vấn cao mới chống lại được sự lây nhiễm này. Dù không làm chết
người, căn bệnh cười ấy lan tràn khắp vùng trong khoảng hai năm rưỡi.

Do không tìm ra một triệu chứng nào thuộc về thể xác, những viên chức thuộc cơ quan y tế công cộng
loại bỏ nguyên nhân nhiễm trùng và đầu độc qua thực phẩm. Họ kết luận cơn bệnh mang nguồn gốc tâm
lý : có thể đây là trường hợp cuồng loạn tập thể.

Những bệnh dịch tương tự từng bộc phát vào thời trung cổ ở châu Âu. Liệu chúng ta có được miễn dịch
chống lại sự lây nhiễm của tiếng cười ? Hầu như không ai có thể nín cười trước một màn trình diễn hài
hước hay một vở kịch vui trên truyền hình. Cái cười tước đi lớp vỏ bọc xã hội và văn hóa, khiến chúng ta
để lộ ra nền tảng sinh học đầu tiên trong những họat động xã hội.

Những “dịch cười” như trên thật là họa hiếm và rất ít khi xảy ra. Trong đời thường, hằng ngày chúng ta
vẫn cười và vẫn chiêm ngắm những nụ cười của bàn dân thiên hạ. Vậy nụ cười đem lại những hậu quả
nào và chúng ta phải cười ra làm sao ? Đó là những vấn đề gã xin đề cập đến.

Trước hết, gã có thể xác quyết được rằng :

- Người là một con vật biết cười.

Hay như Rebelais đã nói :

- Cười là đặc tính của con người.

Thực vậy, để biểu lộ những tình cảm, con vật thường sủa, thường hót, thường gầm gừ, thường vẫy đuôi
hay thường…nhảy cẫng lên. Chỉ con người mới biết biểu lộ tình cảm của mình qua tiếng cười mà thôi.
Cũng trên báo “Kiến thức ngày nay”, thì cách đây không lâu, Jaak Pansepp và Jeffrey Burdorf, hai nhà
tâm lý tại trường đại học Bowling Green State, bang Ohio bên Mỹ, đã dành phần lớn thời giờ để làm một
công việc khá ngộ nghĩnh, đó là gãi nhẹ lông các chú chuột ở phòng thí nghiệm để làm cho chúng…cười.

Họ đã sử dụng một máy khả dĩ ghi lại được những âm thanh có tần số cao như của loài dơi và họ sửng
sốt khi thấy con chuột được “cù léc” thoạt đầu phát ra một tiếng kêu la như khi bị kích thích tình dục.
Nhưng sau khi cù hàng trăm lần và ghi lại thì họ lại cho rằng đó là tiếng cuời khúc khích vì khoái trá và
vui thích. Sở dĩ như vậy vì họ muốn chứng minh cho bàn dân thiên hạ thấy rằng loài chuột cũng biết cười
rúc rích.

Thế nhưng, báo chí và mọi người thì lại cho đó là một trò đùa để cười cợt. Vì thế cho tới bây giờ, nụ cười
và tiếng cười vẫn là một nét đặc sắc của con người, bởi vì chỉ con người mới biết cười mà thôi.

Tiếp đến là giá trị của nụ cuời. Người xưa đã bảo :

- Nhất tiếu thiên kim. Một nụ cuời đáng giá ngàn vàng.

Câu nói này bắt nguồn từ một điển tích cũ như sau :

U Vương đời nhà Châu là một ông vua hoang dâm vô độ, lại rất say mê nhan sắc của Bao Tự. Thế
nhưng, Bao Tự suốt ngày buồn bã, chẳng bao giờ cười lên được một tiếng. Vì thế, ông rất băn khoăn lo
lắng, sẵn sàng làm đủ mọi trò và mọi cách cốt sao đem lại cho Bao Tự một nụ cười.

Nghe nói Bao Tự thích nghe tiếng lụa xé. Thế là ông liền truyền cho nội thị mở kho và mỗi ngày lấy ra
hàng trăm tấm lụa mà xé cho Bao Tự nghe, nhưng Bao Tự vẫn chẳng cười.

Thất bại nhưng không tuyệt vọng, ông truyền cho bá quan văn võ trong triều, ai có cao kiến chi làm cho
Bao Tự cười, dù chỉ một lần mà thôi, cũng sẽ được trọng thưởng ngàn vàng. Quách Công bèn hiến kế :
đốt lửa ở Ly Sơn và nổi trống dối gạt các chư hầu, thế nào Bao Tự cũng cười.

Số là để phòng ngừa giặc Hung nô và rợ Khương Nhung ở phía bắc tràn xuống kinh thành quấy nhiễu,
các đời vua trước đã cho xây những phong hỏa đài ở Ly Sơn và đặt những cỗ trống lớn. Mỗi khi thấy lửa
ở phong hỏa đài đốt lên và nghe tiếng trống nổi dậy, các chư hầu biết đó là hiệu lệnh báo động ở kinh
đô có loạn, phải đến tiếp cứu.

Nghe theo lời Quách Công, U Vương đã phế bỏ cả luật lệ của cha ông ngày trước, làm nhục chư hầu, để
cốt được tiếng cười của Bao Tự, lại còn đem ngàn vàng thưởng ban cho Quách Công, kẻ đã bày kế giúp
cho Bao Tự cười. Nhưng rồi sau này, khi bị rợ Khương Nhung tấn công, U Vương truyền đốt lửa và nổi
trống ở Ly Sơn, nhưng chẳng chư hầu nào chịu đến tiếp cứu. U Vương bị giết, còn Bao Tự thì bị bắt.

Có lẽ rút ra từ chuyện trên mà người xưa còn bảo :

- Nhất tiếu khuynh thành, tái khuynh quốc.

Có nghĩa là cười…một phát thì nghiêng thành, cười thêm…một phát nữa thì nghiêng nước, để nói lên
rằng đờn bà đẹp thường làm cho hư nhà hại nước là thế !!!
Nói như vậy thì chắc chắn sẽ bị coi là tiêu cực và bôi bác, nếu không muốn nói là sẽ bị kết án là báng bổ
phe đờn bà con gái.

Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho thấy nụ cười có khi còn đáng giá hơn cả ngàn vàng. Vì thế, người ta
đã mở những trường lớp để dạy…mỉm cười, để dạy…mần duyên.

Một thiếu nữ dự thi hoa hậu, nếu không có được một nụ cuời tươi như nụ hồng thì khó mà được lọt vào
những cặp mắt cú vọ của ban giám khảo. Một cô gái phục vụ tại siêu thị, mặt mũi lúc nào cũng nhăn
nhó, không biết chiêu đãi “các thượng đế” bằng những nự cuời của mình, thì làm sao bán được hàng.
Một trong những lý do khiến Thái Lan hấp dẫn được du khách vì người Thái nào cũng sẵn sàng mỉm cười
trước những người ngoại quốc và đất nước họ thường được tuyên truyền và quảng cáo là “Xứ sở của
những nụ cười”.

Một kinh nghiệm khác cụ thể hơn đã được cha ông chúng ta phát biểu như sau :

- Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.

Kinh nghiệm này đã được giới y khoa từ cổ chí kim, từ đông sang tây xác nhận. Thực vậy từ thời cổ đại,
nụ cười đã được coi như là một liệu pháp, một phương pháp trị liệu. Hippocrate, ông tổ của ngành tây y,
đã dùng nụ cười để chữa trị cho những cái đau của thể xác và tinh thần.

Vào thế kỷ thứ hai, danh y Galien đã nhận xét :

- Những phụ nữ vui tính lành bệnh nhanh hơn những phu nữ u sầu.

Vào thời trung cổ Henri de Mandeville cũng dùng nụ cười để chữa bệnh. Ông đánh giá nụ cười làm tăng
thêm sức khỏe cho cơ thể, trong khi sự buồn phiền làm cho sức khỏe bị suy yếu.

Hiện nay, những nhà sinh lý học thừa nhận một số tác dụng tích cực của tiếng cười như thư giãn, xoa
bóp nội tạng…Vì vậy, “liệu pháp cười” có thể giúp các bệnh nhân tìm lại sức khỏe thể chất và tinh thần.

Bác sĩ người Pháp Pierre Vachet dùng nụ cười làm phương pháp chữa bệnh cho các thân chủ của mình và
ông nhận thấy họ mau khỏi hơn những bệnh nhân khác. Thời xưa, những anh hề thường chiếm một vị trí
quan trọng bên cạnh các vị vua. Vai trò của họ là mua vui cho triều đình.

Gần đây, nhà báo Mỹ Norman Cousins, tổng biên tập tờ Saturday Riview, khẳng định nhờ những màn hài
hước. ông được chữa khỏi bệnh viêm khớp đốt sống, một chứng bệnh được coi như không chữa được.
Ông nhận thấy rằng 10 phút cười giòn mang lại cho ông 2 giờ ngủ ngon không đau đớn và ông đã kết
luận :

- Nụ cười là một liều thuốc mạnh tác động tích cực đến tinh thần, thể xác và cảm xúc của chúng ta.

Người ta cũng thừa nhận một cách khoa học rằng nụ cười kích thích các endorphine, một thứ morphine
tự nhiên sinh ra từ hệ thần kinh của chúng ta và có tác dụng chống đau nhờ vào hậu quả gây tê…Ngoài
ra, nụ cười còn ảnh hưởng tới việc hô hấp, làm giãn nở phế nang, kích thích sự tiêu hóa, trừ tiệt chứng
táo bón. Nụ cười làm phát sinh adrénaline, giúp chúng ta nhanh nhẹn và nhạy cảm, chống lại chứng trầm
uất và mất ngủ…

Ngày no, gã đi khám bệnh và phát hiện mỗi trái thận đều có một cục sạn nhỏ. Gã bèn hỏi :

- Liệu có phải mổ để lấy ra hay không ?

Bác sĩ trả lời :

- Vì nó nhỏ, nên không cần phải mổ.

Gã hỏi thêm :

- Vậy tôi phải làm gì ?

Bác sĩ trả lời :

- Có ba việc cần phải làm ngay : Thứ nhất là uống thuốc theo toa, thứ hai là uống nhiều nước vì nước
chảy đá mòn, thứ ba là đừng lo nghĩ nhưng hãy…cười nhiều.

Chính vì thế có người đã nói :

- Một ngày không cười là một ngày vô ích nhất.

Và :

- Người hay vui cười mới thực sự là người hiền lành.

Gã xin kể ra những lợi ích của nụ cười bằng một sưu tầm như sau :

1- Cười là một thần dược trị được cả bệnh thể xác lẫn bệnh tâm hồn.

2- Cười làm cho ta cởi mở bao dung và có một tinh thần lạc quan yêu đời.

3- Cười làm tăng hồng huyết cầu và lá lách hoạt động tích cực hơn.

4- Cười làm tăng sinh lực, khiến ta vui vẻ lanh lợi và thêm lòng yêu thương.

5- Cười làm cánh cửa cảm thông rộng mở thật dễ dàng với mọi người.

6- Cười mím, cười nụ, cười ra tiếng làm khuôn mặt chúng ta dễ mến hơn.

7- Cười làm thư giãn các bắp thịt trên mặt, tan biến những căng thẳng.

8- Cười làm toàn thân được nhẹ nhàng thanh tịnh, thư thái và an lạc.

9- Cười giúp ta tránh được tâm trạng cay đắng khổ đau, phản ứng kịp thời.
10- Cười giúp cho tâm hồn lành mạnh và thêm khả năng sáng tạo mọi việc.

11- Cười nhiều giúp ta biết tự kỷ có trách nhiệm và thực tế hơn.

12- Cười nhiều tránh được buồn nản, dễ thành công vì tiếng cười là trí tuệ.

13- Cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn, là biết nghệ thuật sống.

14- Cười dễ vui theo cái vui của người khác, hoan hỉ như mình thành đạt vậy.

15- Cười có thể làm tan di nỗi bực mình, buồn phiền của người đối diện.

16- Cười giúp ta vui sống hiện tại, quên hết quá khứ và lo lắng về tương lai.

17- Cười giúp ta trở về với chính mình, tức là thực sự trở về đời sống mới.

18- Cười có nhiều lợi ích cho ta về sức khỏe, tinh thần và cảm xúc tâm linh.

19- Cười giúp hồn nhiên tươi sáng,có nhiều khả năng chống lại bệnh tật.

20- Cười giúp các tế bào loại T trong máu tăng lên, có sức đề kháng mạnh.

21- Cười làm giảm phong thấp, các khớp xương đỡ bị sưng và chống sưng.

22- Cười làm giảm các chất hóc môn (Cortisone) trong thận, sẽ sống khỏe hơn.

23- Cười tránh được nhức đầu, đau tim, cao huyết áp và mỡ trong máu.

24- Cười giúp tống khứ các khí dơ, thêm nhiều dưỡng khí cho bộ não thông minh.

25- Cười làm tăng máu, chống viêm khớp, làm con người luôn tỉnh táo.

26- Cười tạo điều kiện cho ánh sáng nội tâm thể hiện, thấu suốt mọi sự vật.

27- Cười giúp những nét phiền muộn tan biến, gương mặt trở nên tươi trẻ ra.

Cũng trong chiều hướng ấy mà rải rắc khắp nơi trên thế giới, người ta đã bắt đầu tổ chức những “festival
cười”.

Tại Đan Mạch, cứ đến Chúa nhật thứ hai của tháng giêng là mọi người lại tụ tập về quảng trường Town
Hall của thành phố Copenhagen để…cười sảng khóai.

Câu lạc bộ cười lần đầu tiên được sáng lập ở Bombay năm năm trước đây bởi bác sĩ tâm lý Ấn Độ Madan
Kataria. Tiếng tốt về câu lạc bộ này đã nảy sinh ra một ý tưởng tương tự ở anh công nhân quảng cáo
thất nghiệp Đan Mạch, Jan Thygesen Poulsen. Và anh ta đã trở thành người khởi xướng câu lạc bộ cười ở
đất nước này.
Tại Québec bên Canada, từ nhiều năm nay đã xuất hiện “festival chỉ để cười”. Tại festival này, mọi người
đều có đủ thời giờ để lập cho mình một kiểu cười chẳng giống ai. Tại Pháp cũng rộ lên “Festival hóm
hỉnh” ở Seine-et-Marne. Và mới đây hồi cuối tháng 6 năm 2005 tại Hồng Kông, người ta cũng đã tổ chức
đại hội…cười.

Tuy nhiên, có một điều khác cũng không kém phần quan trọng, đó là hãy đem lại cho người khác những
nụ cười lành mạnh, bởi vì chính những nụ cười này sẽ đem lại cho họ niềm an ủi trong những khi đau
khổ và niềm khích lệ trong những lúc tuyệt vọng.

Trong một trại phong nọ, các bệnh nhân hầu như bị quên lãng. Họ sống lầm lũi trong đau khổ cả thân
xác lẫn tâm hồn. Những tháng ngày còn lại trên trần gian chỉ là khoảng thời gian vô vọng, buồn tẻ và cô
đơn. Duy chỉ có một người đàn ông luôn mỉm cười vui tươi.

Vị nữ tu chăm sóc bệnh nhân hết sức ngạc nhiên và cố tìm hiểu nguyên nhân. Cuối cùng vị nữ tu này
cũng khám phá ra được lý do, đó là mỗi ngày đều có một phụ nữ thập thò ngoài hàng rào chờ người đàn
ông đến và bà nở một nụ cười thân ái, trìu mến, đầy yêu thương dành cho ông. Người đàn ông ngày
ngày ra gần đó để đón nhận nụ cười ban sức mạnh và tạo niềm hy vọng như hoa xuân đón ánh mặt trời,
như cây cỏ hứng giọt sưong mai. Khi vị nữ tu đến gần, người đàn ông nói :

- Vợ tôi đấy.

Sau một lúc yên lặng, ông ta nói tiếp :

- Trước khi vào đây, cô ấy đã cố chạy chữa cho tôi. Một thầy lang đã cho tôi một loại dầu và mỗi ngày cô
ấy thoa lên mặt tôi. Cô ấy cũng không quên chừa lại một khoảng nhỏ để đặt vào đó một nụ hôn. Nhưng
rồi tất cả đều vô hiệu, người ta đã đưa tôi vào đây. Cô ấy đã không bỏ tôi đơn độc, trái lại mỗi ngày cô
ấy đều đến để mỉm cười với tôi, mang lại cho tôi sinh khí để sống. Nhờ thấy cô ấy mỗi ngày mà tôi còn
ham sống và như sơ đã thấy đấy, tôi đã sống rất vui tươi.

Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ :

Có một anh hề chết đi và được đưa lên trước tòa Chúa để chịu phán xét. Chúa hỏi :

- Anh đã làm được những gì trong cuộc sống ở trần gian.

Anh ta lo toát cả mồ hôi hột vì thấy mình chẳng làm nên trò trống chi cả. Anh ta bèn thưa lên :

- Lạy Chúa, con chỉ làm cho người ta cười mà thôi.

Chúa liền phán :

- Này con, hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho con, vì khi con làm cho người ta cuời và
vui sướng, thì đó là con đã làm cho chính Ta cười và vui sương rồi đó.

Như vậy, muốn được hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau, chúng ta hãy cười… và cười luôn mãi,
đồng thời cũng đừng cố gắng đem lại cho người khác những nụ cười trong sáng
CHỬI - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Cách đây không lâu, một anh bạn từ bên Mỹ, chẳng biết sưu tầm được ở đâu, đã gửi cho gã một mẩu
chuyện, đọc xong gã chẳng biết nên cười hay nên khóc. Mẩu chuyện ấy như thế này :

Lần đầu tiên mới tới Hà Nội, tôi không khỏi bỡ ngỡ khi tìm nhà của một người bạn, hiện làm trưởng một
khu phố văn hóa.

Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài đầu ngõ, tôi hỏi :

- Này các cháu, các cháu có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở đâu hay không ?

Một đứa bé trai, khoảng trên dưới mười tuổi, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt xấc láo và ranh mãnh, rồi đáp
gọn lỏn :

- Biết nhưng…đéo chỉ.

Tôi lắc đầu, tiếp tục đi sâu vào con hẻm văn hóa. Gặp một thanh niên, tôi liền hỏi:

- Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở chỗ nào hay không?

Gã trẻ tuổi chẳng thèm nhòm ngó gì đến tôi và trả lời cộc lốc :

- Đéo biết.

Miết rồi cũng tìm thấy nhà ông trưởng khu phố văn hóa. Khi gặp ông, tôi kể lại chuyện này cho ông ta
nghe với lời than thở :

- Anh ạ, các bậc cha mẹ ở đây không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với những người
khách lạ một cách thô bỉ và tục tĩu đến thế hả anh ?

Chẳng cần suy nghĩ, ông trưởng khu phố văn hóa đã thuận miệng trả lời tôi ngay:

- Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó…đéo nghe.

Lúc ấy người con gái của ông bạn tôi, hiện là một cô giáo dạy môn văn, vừa từ nhà trường trở về và tôi
liền đem câu chuyện ấy ra mà kể.

Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một sự việc như sau :

Hôm ấy, cháu giảng bài văn, có đoạn trình bày thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đã
đánh gục giặc Tây, đã đánh nhào giặc Mỹ…Cuối cùng, cháu kêu một em trai lớn nhất lớp và bảo :

- Em hãy định nghĩa xem hai chữ “dũng cảm là gì ?”

Nó đứng lên, suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn lỏn :

- Thưa cô, nghĩa là…đéo sợ ạ.


Sau đó, trong cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và đào tạo, cháu liền đem câu chuyện thằng bé
học trò đã cắt nghĩa hai chữ “dũng cảm” là…”đéo sợ” cho ông ta nghe.

Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu, ra điều suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, ông nghiêm nghị nhìn
tôi, rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa mới khám phá ra một chân lý cao siêu, ông ta chậm rãi đáp
:

- Ừ, nó cắt nghĩa như thế thì cũng…đéo sai.

Nghe vậy, tôi chua chát nghĩ thầm trong bụng rằng :

- Giáo dục và đào tạo theo kiểu này thì đất nước mình…đéo khá lên được.

Gã nghĩ rằng mẩu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại được “phệu ra” với một chủ đích…châm chích
chọc nào đó mà thôi. Nhưng câu chuyện dưới đây lại là một câu chuyện có thật một chăm phần chăm,
do một cha già khả kính đã kể cho gã nghe.

Vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh, cha già đạp xe từ nhà thờ xứ tới nhà thờ họ lẻ để ban lễ vào lúc tám
giờ. Cũng trong khoảng thời gian ấy, có hai vợ chồng nhà kia chẳng hiểu lục đục với nhau vì lý do gì, đã
chửi bới nhau một cách thậm tệ.

Thế nhưng, đang lúc hăng say dọn cho nhau xơi những thứ cao lương mỹ vị, chị vợ nhác thấy bóng cha
già sắp đi qua bèn đề nghị…đình chiến. Chị nói :

- Thôi, không cãi nhau nữa, cha đấy.

Anh chồng còn đang hậm hực và tức tối, từ trong nhà chõ mõm ra ngoài ngõ và quát lớn:

- Cha thì ông cũng…đéo sợ.

Ngay lúc đó, vị cha già khả kính của gã đạp xe ngang qua và đã nghe thấy “nguyên văn” câu nói ấy.

Như vậy, chẳng phải chỉ có người Hà Nội mới chửi, mà người Saigon cũng chửi. Chẳng phải chỉ có người
miền Bắc mới chửi, mà người miền Nam cũng chửi. Chẳng phải chỉ có đờn ông mới chửi, mà đờn bà cũng
chửi. Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, từ đông sang tây
cũng như từ cổ chí kim.

Và gần đây, gã thấy hiện tượng này xem ra đã bùng nổ mãnh liệt và liên tục phát triển nơi giới…nữ sinh.
Cứ nhìn những cặp môi ngây thơ và xinh đẹp ấy phát ngôn một cách bừa bãi, tuôn ra rông rổng những
lời chửi bới cộc cằn. Chẳng khác gì các bà hàng cá, hàng tôm, hàng thịt… Dường như đối với các em mới
nhớn này phải biết chửi mới là dân chơi thứ thiệc, chính hiệu con nai vàng ngơ ngác.

Tình cờ đi qua một đám nữ sinh đang chu mỏ lại bình loạn về lão nọ, lão kia. Nhưng những lão ấy là ai
thế ? Gã xin thưa những lão ấy có khi là cha mẹ của họ, có khi là thầy dạy của họ và cũng có khi là…bồ
bịch của họ nữa.
Nghe được những lời bình loạn này, hẳn nhiều người sẽ phải sởn gai ốc, nổi da gà và phát sốt phát rét
lên ấy chứ. Nếu có sống lại, Đức Khổng Tử cũng phải thở dài thườn thượt, rồi sau đó lăn đùng ra mà
chết, miệng vẫn còn nói những lời sau cùng như muốn cảnh báo :

- Hỉ ôi! Hỉ ôi! Hậu sinh khả…ố. Tứ đức công dung ngôn hạnh của ta biến sạch đằng nào cả rồi ?

Như trên gã đã xác quyết bằng cả hai tay lẫn hai chân rằng :

- Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, đã là người thì ai cũng có tình cảm. Và theo sự phân tích của người xưa, thì có bảy thứ tình
cảm chi phối toàn bộ đời sống con người và được gọi là thất tình.

Vì vậy, gã xin cả tiếng lại dài hơi thanh minh thanh nga rằng : thất tình ở đây chẳng phải là mất đi tình
yêu để rồi phát buồn phát sầu mà đi lang thang như người cõi trên. Trái lại, thất tình là bảy thứ tình cảm
chất chứa trong lòng con người, đại khái như sau :

Thứ nhất hỉ là mừng.

Thứ hai nộ là giận.

Thứ ba ai là buồn.

Thứ tư cụ là sợ.

Thứ năm ái là yêu.

Thứ sáu ố là ghét.

Thứ bảy dục là muốn.

Kinh nghiệm cho thấy khi cái sự “nộ” tức là cái sự giận nổi lên đùng đùng, nó sẽ ám vào lục phủ ngũ
tạng khiến cho đương sự như bị tẩu hỏa nhập ma, mặt đỏ tía tai và thế nào miệng cũng phát ra những
lời chửi bới độc địa.

Vậy thế nào là chửi ?

Theo gã nghĩ chửi là biểu lộ sự nóng giận của mình bằng những lời lẽ thô lỗ, xúc phạm tới ông bà cha
mẹ người ta, gán cho người ta những tên xấu xa của súc vật, hay cho người ta ăn những của lạ…Như
vậy, sự chửi bới thường đi đôi với những lời nói tục tĩu.

Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhưng xem ra cách chửi của dân An-nam-ta vừa trầm lại vừa
bổng, vừa đậm đà lại vừa ý vị, ăn đứt những dân tộc khác trên trái đất này.

Nếu coi việc chửi bới là như một chứng bệnh, thì gã có thể phân chia thành hai loại.

Loại thứ nhất là chửi mãn tính.


Chửi mãn tính là thứ chửi thường xuyên. Người mắc phải chứng bệnh này, hễ mở mồm ra là phải chửi.
Họ chửi một cách tự nhiên. Họ chửi một cách vô tư, không tội vạ chi sốt. Nếu không chửi thì xem ra họ
sẽ bị nhạt miệng hay bị ngứa ngáy khó chịu.

Bất cứ câu nói nào của họ cũng phải được đệm theo một thứ tiếng lạ, như tiếng Đức hoặc tiếng Congo...
Tất cả tạo thành một thứ hợp âm cho ngôn từ của họ được tròn trịa, được hài hòa và cân đối.

Hồi còn bé sống trong nội trú, tên nào chửi tục mà bị thầy giám thị vớ được, sẽ bị trừ điểm kỷ luật và
chiều thứ năm, thay vì được đi “bát phố”, thì sẽ phải ở nhà để làm công tác. Vì thế, những tên “ghiền”
chửi tục, đã bịa ra những từ nhẹ nhàng và thanh tao hơn để mà chửi, cho dù bản chất vẫn là thô tục.

Chẳng hạn như từ “điếu” :

- Ông điếu sợ…

Chẳng hạn như từ “bè mẹ” :

- Bè mẹ nó chứ, ông đánh cho vỡ mỏ ra bây giờ.

Thanh thử, đám trẻ cứ thoải mái qua mặt thầy giám thị cái vù, mà chẳng hề hấn chi.

Gã có một anh bạn mắc phải chứng bệnh này một cách “thâm niên quân vụ”. Là miền người Bắc, nhưng
vì sống lâu năm với đám học trò nhỏ người miền Nam, nên tiếng đệm của anh ta cũng bị pha trộn.

Hầu như lúc nào trên môi miệng anh ta cũng vang lên điệp khúc “đủ mẻ”. Vì thế, gã đã phong cho anh
ta cái hỗn danh là “ông thầy Đủ Mẻ”.

Ngày kia, anh ta đang lái xe phom phom đi trên đường phố, nhưng có lẽ vì lơ đãng hay sao ấy, anh ta đã
va quẹt vào chiếc xe của một cô gái. Thế là nhanh như chớp, anh ta xuống xe, khoa chân múa tay mà
chửi :

- Đủ mẻ, lái thế mà coi được à. Bộ đui bộ mù hay sao ?

Tội nghiệp cho cô gái, hai mắt rưng rưng như muốn khóc, lên tiếng năn nỉ ỉ ôi với anh ta:

- Thôi mà chú. Tội nghiệp cháu. Chú đừng chửi nữa. Cháu sợ lắm. Hết bao nhiêu cháu xin đền ạ.

Về tới nhà, gã bèn hỏi anh ta :

- Sao lúc đó ông hung hăng con bọ xít đến thế ?

Anh ta điềm nhiên trả lời :

- Đủ mẻ nó chứ, hễ đụng xe là phải chửi liền tù tì. Bắn chậm thì chết thế nào, thì chửi chậm cũng chết
như vậy. Đó là quy luật của muôn đời, mày phải nhớ cho kỹ, rồi đem ra mà áp dụng mỗi khi…hữu sự
nghe con.
Đặc biệt nhất là khi tâm hồn anh ta sảng khoái và ngồi vào bàn nhậu. Anh ta đã từng phát biểu thật
hách xì xằng :

- Đã không “dzô”thì thôi, “dzô” thì là một chăm phầm chăm. Đủ mẻ thế mới đã!

Thậm chí anh ta còn cao hứng nghêu ngao hát :

- Đâu có tình yêu thương, ở đó uống rượu thật nhiều.

Đâu có tình bác ái, ở đó uống rượu không say.

Đâu ý hiệp tâm đầu, ở đó uống chăm phần chăm.

Còn rất nhiều những sự việc hay ho hấp dẫn về “ông thầy Đủ Mẻ” này, nhưng gã xin khép lại ở đây để
tiếp tục bàn về chứng bệnh chửi.

Loại thứ hai là chửi cấp tính.

Chửi cấp tính là thứ chửi đột xuất, khi tự ái bị chạm mạch và sự nóng giận bốc lên đầu, khiến người ta
chửi thành từng câu hay thành từng bài với ý đồ thâm hiểm nhằm hạ nhục đối phương, làm cho đối
phương phải te tua nát nước.

Tùy theo tính tình của từng người mà cơn bệnh cấp tính này mang những âm độ khác nhau.

Trước hết, đối với với những kẻ nhát gan, không đủ can đảm biểu lộ sự bực tức ra bên ngoài, bèn nuốt
giận mà chửi lén hay chửi thầm.

Chửi lén là chửi sau lưng, là chửi lúc người ta vắng mặt. Họ giống như hội đồng nhà chuột. Căm thù
trước sự dã man của mấy lão mèo, dòng họ nhà chuột đã họp hội đồng và trong cuộc đại hội này, từ tên
chuột cống đến tên chuột nhắt, tất cả đều to mồm chửi bới mấy lão mèo. Thế nhưng khi mấy lão mèo
xuất hiện, thì họ hàng nhà chuột đều mạnh ai nấy trốn, bỏ của chạy lấy người. Giá như có một tí trí khôn
để suy nghĩ, thì không thiếu những tên chuột khom lưng quì gối mà nịnh bợ mấy lão mèo.

Còn chửi thầm là chửi âm ỉ trong cõi lòng của mình mà không phát thành tiếng thành lời, bản lãnh lắm
thì cũng chỉ lẩm bẩm nơi cửa miệng mà thôi. Nhiều khi cơn giận làm cho thâm gan tím ruột, mà bản mặt
thì vẫn cứ phải tươi cười, cho dù cái cười có quay quắt và héo hắt.

Tiếp đến, đối với những kẻ bạo phổi thì sự bực tức được phát tiết ra bên ngoài, nhất là nơi miệng lưỡi
bằng những lời lẽ cộc cằn và thô lỗ. Đồng thời, tùy theo đối tượng được nhắm tới, gã có thể chia loại
chửi này thành hai kiểu.

Kiểu thứ nhất là chửi trực diện, hay nói theo ngôn ngữ tin học, thì đó là chửi trực tuyến, nghĩa là chửi
thẳng vào mặt đối phương, chẳng cần phải nể nang, chẳng cần phải rào trước đón sau. Những “lời hay
và ý đẹp” cũng như những món “cao lương mỹ vị” cứ tuôn ra ào ào, khiến cho đối phương bị tối tăm mặt
mũi chẳng biết đâu mà đỡ. Nếu không có nội lực thâm sâu, thì chắc chắn sẽ bị…sụm bà chè mất thôi.
Kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi chửi tưới hột sen, chửi như tát nước.
Kiểu thứ hai là chửi gián tiếp. Ta cứ gào to giữa làng và giữa xóm, giữa đường và giữa phố, để cho ai có
tật thì phải giật mình. Ta cứ rút dây cho rừng phải động. Ta cứ nổ sấm bên đông cho động tới bên tây.
Ta cứ nói đấy để cho đây phải chạnh lòng. Vì thế, kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi là chửi đổng,
chửi khống, chửi lông bông, chửi xiên chửi xéo…

Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi
xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đưa tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng phải cái móng tay đứa
bé và làm cho nó chảy máu.

Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn làm một màn
chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đường duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm ĩ :

- Tiên sư bố nó. Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à. Tiên sư bố nó…
Tiên sư bố nó…

Gã có thể quả quyết được rằng việc chửi đổng hay chửi xiên chửi xéo nơi một số quí bà quí cô đã đạt tới
trình độ nghệ thuật với chất lượng cao, nếu không muốn nói là tuyệt vời và trên cả tuyệt vời nữa.

Họ chửi có cung có điệu và có trầm có bổng. Họ chửi thành câu thành cú và thành bài thành bổn. Lời họ
chửi chẳng khác chi một bài thơ, có bằng có trắc và có vần có vế. Tiếng họ chửi khi thì dồn dập như thác
lũ, khi thì nỉ non ai oán như tiếng người vợ nức nở tiễn đưa người chồng vào nơi chín suối.

Trời bắt đầu nhá nhem. Bà hàng xóm ném một nắm thóc xuống khoảng sân đất và lên tiếng gọi :

- Chắt, chắt, chắt…

Bầy gà lục tục kéo nhau về, mổ những hạt thóc cuối cùng trong ngày trước khi lên chuồng.

Bà hàng xóm đếm đi đếm lại mà sao vẫn thiếu một anh gà trống choai. Rồi bà đếm lại đếm đi mà sao
vẫn cứ thiếu. Và thế là bà ra đứng trước ngõ, mắt long lên còng cọc, cất cao giọng the thé mà chửi một
bài cả thể.

Nhân vật được bà ưu ái nhắm tới thuộc vào hàng vô ngã, “impersonnel”, nên lời chửi của bà cũng vu vơ
và bâng quơ. Tuy vu vơ và bâng quơ, nhưng lại nhằm trực tiếp tới một thằng cha nào đó đã cả gan dám
ăn cắp gà của bà.

Tiếng chửi của bà nhờ gió chuyển tới các gia đình trong khu xóm :

- Cha tiên sư ông cụ,

ông kỵ bảy đời nhà nó.

Nó chẳng bỏ công nuôi,

mà lại muốn ăn không của bà.


Thì đây bà cho nó ăn….

Tới chỗ này thì xin cho gã tự đục bỏ và cắt xén, không dám viết thêm nữa vì sợ sẽ làm cho kẻ thanh
sạch mất lòng khiết tịnh. Chỉ biết rằng anh gà trống choai của bà hàng xóm sáng hôm sau đã xuất hiện
thật sớm trên khoảng sân đất. Anh ta vỗ cánh đùm đụp, rồi cất giọng ồ ề mà gáy. Có lẽ đêm hôm qua
anh ta đã đi tán tỉnh, hay đi mừng sinh nhật của một chị gà mái tơ nào đó chăng ?

Về việc chửi bới cũng như về nhiều việc khác nữa, đôi khi đã xảy ra một nghịch lý đáng buồn trong phạm
vi gia đình.

Thực vậy, cha mẹ nào cũng muốn dạy bảo con cái mình phải nghiêm túc trong lời nói, tránh đi những lời
nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu. Thế nhưng, chính những bậc làm cha làm mẹ ấy lại luôn có những lời
nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu ấy trên môi trên miệng của mình.

Một ông bố đã căn dặn con mình như sau :

- Mày nhớ nhé, không được nói tục nghe con. Mày mà nói tục, ông cha sở nghe thấy, thì ông ấy sẽ xẻo
lưỡi mày đấy. Đủ mẻ mày đã nghe rõ chưa ?

Cũng thế, một bà mẹ luôn nhắc nhở đứa con gái cưng của mình phải thành thật. Thế nhưng, khi có
người đến đòi nợ, bà đã trốn kỹ dưới bếp và sai đứa con gái ra nói người khách bất đắc dĩ ấy rằng bà đi
vắng.

Đứa con gái mở cổng và rất ngây thơ nói với người khách :

- Thưa bác, má cháu bảo cháu ra nói với bác rằng má cháu không có nhà.

Cũng thế, buổi sáng nghe chuông nhà thờ vang lên, ông bố cuộn mình trong chăn, vội lên tiếng giục giã
con cái :

- Nào, thức dậy, đi đái, lấy nước, súc miệng, đánh răng, rửa mặt, đi lễ.

Trong khi con cái uể oải thực thi những mệnh lệnh kể trên, thì ông bố vẫn cứ nằm ngủ nướng…nướng
đến độ cháy khê cháy khét.

Thảo nào, khi người ta hỏi một cậu bé rằng :

- Em muốn gì ?

Cậu bé không ngần ngại trả lời :

- Em muốn làm người lớn.

Người ta hỏi tiếp :

- Tại sao lại thế ?


Cậu bé nhoẻn một nụ cười đầy bí mật và nói :

- Để được chửi tục, nói dối và nằm ngủ nướng mà không bị la mắng!

Cha mẹ nói một đàng nhưng lại làm quàng một nẻo, thành thử trống đánh xuôi kèn thổi ngược, những
lời dạy bảo của họ không đủ sức thuyết phục con cái.

Phương thế giáo dục đạt hậu quả cao nhất, đó chính là gương sáng của cha mẹ, bởi vì chỉ gương sáng
của cha mẹ mới là một bài giảng hùng hồn hấp dẫn được con cái mà thôi, chả thế mà người xưa đã bảo :

- Lời nói như gió lung lay,

Việc làm như tay lôi kéo.

Để kết luận, gã nhớ lại lời người xưa đã khuyên :

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.

Có nghĩa là phải thận trọng đắn đo trước khi nói, để tránh đi những lời chửi bới và tục tĩu, trái lại hãy có
những lời ôn tồn và thành thực để tạo được một bàu khí hòa thuận cũng như bắc được một nhịp cầu
cảm thông, vì :

- Lời nói chẳng mất tiền mua,

Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy :

- Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình.

Hay như người Pháp cũng đã bảo :

- Khi chửi bới thì chính chúng ta lại là người đầu tiên phải nghe những lời tục tĩu ấy.

Hơn thế nữa, lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Căn cứ vào lời nói mà thiên hạ có thể đánh giá được con
người chúng ta. Nếu lời nói của chúng ta cộc cằn và thô lỗ, thì con người chúng ta cũng cộc cằn và thô lỗ
như vậy. Trái lại :

- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,

Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe.


CON NGƯỜI QUẢ LÀ…DỄ SỢ - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Cách đây không lâu, gã có theo dõi trên truyền hình một bộ phim hình sự nhiều tập của Úc mang tựa đề
là “Cuộc chiến thầm lặng”. Tuy chỉ xem bữa đực bữa cái, hôm được hôm không, nhưng rất may mỗi tập
là một vụ án, nên có đứt đoạn cũng chẳng sao cả.

Hôm ấy, anh chàng cảnh sát được lệnh đi công tác nhưng không được mang theo súng để xâm nhập vào
một tổ chức buôn lậu bạch phiến.

Thế nhưng, không hiểu sao, anh chàng lại lén vào kho, lấy trộm một khẩu mà nhét vô cạp quần. Khi
hoàn tất công tác, bị cấp trên khiển trách, anh chàng đã trả lời :

-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người xử dụng khẩu súng mới thật là… nguy hiểm.

Câu trả lời này khiến cho gã phải “vắt chân lên trán” mà suy gẫm lung tung, đến nỗi “đêm quên ăn, ngày
quên ngủ”, khiến cho dung nhan ngày càng thêm tiều tụy và thân thể ngày càng thêm hốc hác.

Tuy nhiên, càng suy gẫm, gã lại càng cảm thấy chí lý. Có lúc khoái quá vỗ đùi đánh đét một cái, xin bái
phục người đã phệu ra câu nói trên.

Thực vậy, theo Khổng tử thì “nhân chi sơ tính bổn thiện”, con người thuở ban đầu vốn tốt lành, nhưng
rồi dần dần trở nên xấu xa do ảnh hưởng của xã hội và những người chung quanh.

Còn theo Kitô giáo, Thượng đế dựng nên con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi hơi vào lỗ mũi, qua đó trao
ban cho nó sự sống cùng với một tấm linh hồn.

Tấm linh hồn này có hai cơ năng chính là trí khôn và ý muốn. Với trí khôn, con người không ngừng phát
triển. Với ý muốn, con người được tự do chọn lựa. Và đây cũng chính là một thảm kịch làm cho con
người trở nên thật…dễ sợ.

Trước hết là với trí khôn. Mấy ông triết gia bên tây thường phát biểu :

- Người là một con vật có trí khôn.

Còn Pascal thì bảo :

- Người là một cây sậy biết suy tư.

Đúng thế, trí khôn nhờ biết suy tư đã làm cho con người trổi vượt trên muôn vật và liên tục phát triển.

Con ong ngày xưa làm tổ và kéo mật thế nào, thì hôm nay nó vẫn làm tổ và kéo mật y chang như vậy.

Nếu có nhúc nhích được tí xíu nào là do con người tập luyện cho chúng, chẳng hạn như con khỉ biết làm
trò, con chó biết múa may quay cuồng.

Đang khi con vật hành động theo bản năng và dậm chân tại chỗ qua muôn thế hệ, thì con người đã tạo
được những tiến bộ trong mọi lãnh vực. Gã xin đưa ra một vài phạm vi thông thường nhất để chứng
minh cho sự thật trên.
Chẳng hạn về chuyện ăn.

Ngày xưa, thiên hạ ăn sống nuốt tươi. Vớ được trái cây hay thú rừng là liền xơi tái ngay lập tức. Rồi con
người đã tìm thấy lửa và bắt đầu nấu nướng. Còn hôm nay, trên thực đơn người ta không biết có bao
nhiêu thứ mà kể. Nào luộc, nào nướng, nào chiên. Rồi món tây, món tàu, món ta…chỉ sợ không có đủ
tiền để nếm thử mỗi món một lần trong đời.

Chẳng hạn về chuyện uống.

Ngày xưa thiên hạ chắc hẳn chỉ uống nước lã. Rồi sau đó biết cách làm cho lên men từ một số lá cây để
rồi hôm nay người ta đã chế ra biết bao nhiêu thứ rượu và bao nhiêu thứ chất uống khác nhau.

Chỉ nguyên tại Việt Nam mà thôi, người ta cũng không thể đếm hết có bao nhiêu thứ nước suối, nước
ngọt, nước uống có ga, nước uống có cồn…Và không hiểu một ai đó đã phát biểu một cách rất anh dũng
và rất “hách xì xằng” như sau :

- Mặc dù quê hương ta còn nghèo đói và khó khăn, nhưng đất nước ta rất lấy làm hãnh diện vì đất nước
này đã hội tụ được đầy đủ các hãng bia nổi tiếng trên cả và thế giới.

Như thế, phải chăng tinh thần ăn và uống của dân ta đã phất lên như diều gặp gió, như rồng gặp mây.

Chẳng hạn về chuyện ở.

Ngày xưa thiên hạ ở dưới hang, ở trong lỗ. Tiến bộ hơn một tí là ngôi nhà tranh vách đất. Còn hôm nay,
người ta ở trong những ngôi nhà gỗ, nhà bê tông cốt thép. Nào chung cư, nào biệt thự, nào lâu đài…

Và người ta đã xây không biết bao nhiêu tòa nhà chọc trời, cao hàng mấy trăm mét. Không hiểu những
kẻ đau tim, can đảm chê cầu thang máy, có đủ sức leo từng bậc từ dưới lên, hay mới chỉ được nửa
đường thì đã thở hồng hộc, đứt hơi mà chết.

Chẳng hạn về chuyện mặc.

Sách Sáng thế ký đã chẳng kể lại sau khi phạm tội, Adong Eva đã kết lá mà che thân vì thấy mình trần
truồng và xấu hổ. Đó là “mô đen” thứ nhất.

Tiến thêm một bước, người ta làm áo quần bằng da thú. Đó là “mô đen” thứ hai.

Còn hôm nay với ngành dệt may phát triển, người ta không ngừng thay đổi mẫu mã, từ thấp lên cao, rồi
lại từ cao xuống thấp. Từ dày tới mỏng rồi lại từ mỏng tới dày. Thời trang mỗi ngày một khác. Thậm chí
có những mốt thật là quái đản và kinh dị, đố chị em đờn bà con gái nào dám mặc vào để nghênh ngang
dạo chơi phố phường.

Chẳng hạn về chuyện đi.

Ngày xưa có lẽ phương tiện duy nhất để di chuyển chính là đôi chân của mình, vì thế, người ta thường
phải đi bộ, đi “căng hải”, hay đi “lô ca chân” đường dài mà chẳng biết mỏi. Nhích lên một chút, người ta
cưỡi lừa, cưỡi ngựa, cưỡi bò, cưỡi lạc đà…

Còn hôm nay, người ta đã có biết bao nhiêu phương tiện di chuyển khác nhau : Nào là đi xe đạp, đi xe
gắn máy, đi xe ô tô. Nào là đi tàu lửa, tàu thủy, tàu bay, tàu ngầm…Rồi còn có cả những phương tiện
thật tối tân và nhanh chóng, như phản lực, phi thuyền, hỏa tiễn… Không phải chỉ đi từ nơi này đến nơi
kia, mà còn đi từ hành tinh này tới hành tinh khác.

Khoa học đã, đang và sẽ còn tiến những bước tiến khổng lồ, đúng như lệnh truyền của Đấng Tối Cao :

- Hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài trên mặt đất.

Tiếp đến là với ý muốn, con người được quyền tự do chọn lựa. Ý muốn và sự tự do chính là một qùa
tặng tuyệt vời nhất Thiên Chúa đã trao ban cho con người và làm cho con người trở nên cao cả.

Một ông vua đầy uy quyền cũng không thể bắt tôi làm điều tôi không muốn. Thậm chí ngay cả Thiên
Chúa cũng đành phải chào thua trước sự tự do của con người, như lời ông thánh Âu cu tinh đã viết :

- Ngài sẽ không thể cứu chuộc tôi nếu như chính bản thân tôi lại không muốn.

Ý muốn và sự tự do làm cho con người trở nên cao cả, nhưng đồng thời cũng có thể biến con người
thành nguy hiểm và dễ sợ. Nếu không biết điều khiển và quản lý chặt chẽ, nó sẽ đọng lại, kết tủa và hóa
kiếp con người thành một con thú hoang lang thang trong cõi lòng. Đây là điều mà các vị tiền bối đã diễn
tả :

- Con người vừa có thể là một thượng đế, lại vừa có thể là một con vật.

- Trong mỗi con người đều có tiềm ẩn một con thú hoang.

- Con người là một con vật hai chân, thuộc loài hỗn thực, nghĩa là xơi được mọi thứ, nhưng lại biết…mặc
quần đùi.

- Dưới làn da của con người đều có bóng dáng của nhiều súc vật.

Bây giờ gã sẽ đi từ trong ra ngoài, từ bản thân đến cuộc đời và xã hội để tìm dấu vết của con thú hoang
ấy.

Trước hết là nơi bản thân.

Thượng đế đã ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng, đôi khi cũng được gọi là cái mồm. Công dụng
của mồm miệng là để ăn và để nói. Dĩ nhiên còn nhiều công dụng khác nữa, chẳng hạn như hôn, hút,
mút…gã xin được miễn bàn tới.

Về chuyện ăn thì như chúng ta vừa thấy : con người thuộc loài hỗn thực, nghĩa là xơi được tất tật mọi
thứ. Đây cũng là một điểm làm cho con người khác với con vật. Bình thường thì mỗi con vật chỉ xơi một
vài loại thức ăn nào đó. Chẳng hạn như con trâu thì ăn cỏ, con hổ thì ăn thịt sống.
Trong khi đó, con người thì thượng vàng hạ cám, có thể đút vào miệng mình đủ thứ, từ lá cây ngọn cỏ
đến hoa trái, từ con giun con rắn đến con gà con vịt. Ngay cả đến những con vật khổng lồ như con voi,
con tê giác…con người cũng xơi được cả.

Mọi vất vả con người phải chịu cũng chỉ để phục vụ cho cái miệng. Và nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra
cũng chỉ vì nhu cầu ăn của con người.

Thậm chí có những thứ không nên xơi mà vẫn cứ xơi, thí dụ trong một trận đấu quyền anh, Mike Tyson
đã xơi tái cái tai của Holyfield. Chẳng hiểu cái tai ấy có dòn như tai lợn bóp gỏi hay không, thì khi nào
thuận tiên gã sẻ hỏi Mike Tyson và sẽ “báo cáo” lại sau.

Hơn thế nữa, còn có những thứ không được xơi mà cứ vẫn phớt tỉnh “ăng lê”, lại còn xơi bạo nữa là
khác, thí dụ ăn tiền, ăn gian, ăn cắp, ăn cướp, ăn hối lộ…May ra thì chỉ có ăn đòn hay ăn tát là…em hỏng
dám đâu.

Còn về chuyện nói, thì như chúng ta đã biết : ngôn ngữ là phương tiện Thượng đế đã trao ban để chúng
ta bộc lộ những ý nghĩ, những ước muốn hầu tạo lấy một sự cảm thông.

Đây cũng là một điểm làm cho con người khác với con vật, bởi vì như thiên hạ thường bảo :

- Người là một con vật có tiếng nói, có ngôn ngữ.

Thế nhưng, lời nói lại là điều chúng ta thường hay sai lỗi vấp phạm hơn cả. Thậm chí, thay vì tạo được
một bàu khí hòa thuận, bắc được một nhịp cầu cảm thông, thì lại gây ra thù oán, làm cho người khác
thân bại danh liệt, đi đoong cả một đời.

Mới đây báo Công An TPHCM có đăng một mẩu tin nho nhỏ với tựa đề là “Câu nói đùa tai hại”, đại khái
như thế này :

Cô H. yêu anh N. và đã có thai được ba tháng. Vốn tính hay ghen, cô H. nghĩ rằng anh N. không còn yêu
mình nữa. Tối hôm trước, anh N. sang nhà cô H. chơi và thấy cô H. đang ngồi khóc, nên nói đùa :

- Anh sẽ cưới em làm vợ nhỏ, còn vợ nhớn anh sẽ đi lấy ở nơi khác.

Trong lúc đang nghi ngờ và giận dỗi, câu nói đùa của anh N. khiến máu ghen nơi cô H. bốc lên đùng
đùng. Vì cho đó là sự thật, nên cô H. đã uất ức, uống thuốc độc tự tử mà chết.

Trên cơ thể con người, Thượng đế còn ban cho chúng ta đôi bàn tay. Với đôi bàn tay, chúng ta có thể
bồng ẵm con cái, lao động sản xuất để nuôi sống gia đình, làm việc để giúp đỡ người khác, vân vân và
vân vân…

Tuy nhiên, rất nhiều lần chúng ta đã dùng đôi bàn tay để làm những việc mờ ám, gây nên thiệt hại cho
những người chung quanh, chẳng hạn dùng đôi bàn tay để uỵch nhau, để thoi nhau, để cướp của, để
giết người…

Nếu cứ lần lượt bới lông tìm vết, mổ xẻ từng bộ phận một để lần ra dấu ấn của con thú hoang, thì e rằng
chẳng biết viết đến bao giờ mới chấm hết. Thế nhưng chỉ với hai bộ phận nho nhỏ ấy mà thôi, chúng ta
cũng đã thấy được con người chính là yếu tố quan trọng, quyết định trong mọi tình huống.

Tiếng Việt Nam chúng ta không phân biệt giống đực và giống cái. Vì thế mới có chuyện rằng :

Hai vợ chồng nhà kia, sau nhiều ngày cơm chẳng lành canh chẳng ngọt bèn rã gánh một cách êm ru bà
rù. Tuy nhiên trước khi ca bổn anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi, thì
cũng phải chia chác tài sản vì của chồng công vợ.

Chị vợ bèn phát biểu :

- Anh là đờn ông còn tôi là đờn bà. Anh là giống đực còn tôi là giống cái. Vậy hễ đồ vật nào là cái thì
thuộc về tôi, còn đồ vật nào là đực thì thuộc về anh. Bằng lòng chứ ?

Anh chồng gật đầu và OK liền tù tì.

Chỉ chờ có vậy, chị vợ bèn vội vã vơ vét về tất cả bởi vì hầu như mọi đồ vật đều mang chữ cái trên đầu :
cái nồi, cái niêu, cái soong, cái chảo…Phát hoảng, anh chồng bèn chộp bừa con dao rựa và hô to :

- Đực rựa.

Có lẽ vì thế mà đực rựa vừa có nghĩa là loại dao lưỡi dài và sống dày, vừa có nghĩa là đờn ông và con
giai.

Trong tiếng Pháp, người ta chia danh từ thành hai giống : giống đực và giống cái. Còn trong tiếng La
tinh, ngoài giống đực và giống cái, còn thêm một giống nữa, đó là giống… dở (neuter), chẳng đực mà
cũng chẳng cái. Trung lập, trung hòa, vô tính.

Sự vật chung quanh chúng ta phần lớn thuộc giống dở, chẳng đực mà cũng chẳng cái. Xét theo phương
diện luân lý, thì chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Nó trở nên tốt hay nên xấu là do con người.

Thực vậy, con người xử dụng nó với ý hướng tốt, hay với mục đích tốt, thì nó sẽ tốt. Còn nếu con người
xử dụng nó với ý hướng xấu, hay với mục đích xấu, thì nó sẽ xấu.

Chẳng hạn như tiền bạc. Tự bản chất, tiền bạc chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Nó tốt hay xấu là do cách
thức con người kiếm nó và xài nó.

Thực vậy, nếu tiền bạc được tìm kiếm một cách chính đáng và công bằng qua lao công vất vả, qua mồ
hôi và nước mắt của chúng ta thì lúc bấy giờ tiền bạc ấy quả thực là tốt.

Còn nếu tiền bạc được tìm kiếm bằng con đường bất chính và bất công : Kẻ sản xuất thì tung ra những
mặt hàng dổm, kém chất lượng. Kẻ buôn bán thì dùng cân thiếu, thước hụt. Quan chức thì tham nhũng
hối lộ…Những đồng tiền được nhồi nhét cho đầy túi tham theo kiểu này, chắc chắn sẽ là những đồng tiền
xấu xa và nhơ bẩn.

Khi đã có đồng tiền rủng rỉnh trong hào bao, thì cách xài tiền cũng không kém phần quan trọng. Nếu tôi
dùng tiền để nuôi sống bản thân và gia đình cũng như giúp đỡ những người chung quanh, thì lúc bấy giờ
tiền bạc sẽ đem lại nhiều lợi ích.

Trái lại, nếu tôi vung tiền bạc cho những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng, nếu tôi dùng tiền bạc để dụ
khị kẻ khác làm điều bất chính…lúc bấy giờ tiền bạc sẽ làm rạn vỡ gia đình, gẫy đổ tình yêu và gây nên
biết bao nhiêu đau khổ, đúng như một câu danh ngôn đã bảo :

- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ hà khắc.

Chẳng hạn như thiên nhiên với những sức mạnh tiềm ẩn, tự bản chất chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Ăn
thua là ở con người xử dụng những sức mạnh ấy.

Lâu lắm rồi, gã có đọc một bài trong cuốn “Dừng”, đại khái tác giả đã viết như sau :

Hẳn chúng ta đã biết trái bom nguyên tử đầu tiên đã được ném xuống thành phố Hiroshima vào ngày 6
tháng 8 năm 1945. Trong nháy mắt, trái bom ấy đã giết hại hơn 200.000 người. Từ đó, bao nhiêu vũ khí
khủng khiếp hơn nữa đã được chế tạo. Nào là bom khinh khí. Nào là bon neutron. Một trái bom 500
mégatonnes có đủ sức làm cho Việt Miên Lào và một phần Thái lan bị chìm xuống đáy biển. Một trái bom
2000 mégatonnes có thể làm cho chúng ta thấy được ngày tận thế !

Chiến tranh nguyên tử thật kinh khủng, nó là như một cơn ác mộng đè nặng trên nhân loại, Tuy nhiên
cái đáng sợ không phải là bom nguyên tử mà là con người xử dựng nó. Bom đạn vốn là vật vô hồn,
không thể mang lấy trách nhiệm của cuộc chiến. Chính con người đã chế tạo ra bom đạn và xử dụng
bom đạn mới phải gánh lấy trách nhiệm ấy hoàn toàn.

Các năng lực thiên nhiên tự nó rất hữu ích và cũng chẳng hề biết gì đến nhân nghĩa cả. Nó đã bị con
người lợi dụng để chà đạp nhân nghĩa.

Điện khí rất hữu ích để làm đèn soi sáng, chứ không phải để chạy vào thành ghế, thành giường. Lửa rất
hữu ích để thổi nấu chứ không phải để đốt nhà. Sức mạnh của nguyên tử cũng thế, nó không đe dọa hòa
bình, không tàn sát, không tiêu diệt, trái lại còn phụng sự hòa bình, phát triển nông nghiệp và các ngành
nghề khác. Chỉ có con người xử dụng sức mạnh nguyên tử mới đe dọa hòa bình, tàn sát và phá hoại mà
thôi.

Ngay cả những thực tại vốn dĩ tốt đẹp cũng vẫn có thể bị con người xào xáo, làm cho trở thành xấu xa.

Chẳng hạn như nghề nghiệp. Người xưa đã từng bảo :

- Nghề nghiệp nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu
mà thôi.

Thực vậy, với nghề nghiệp chúng ta kiếm được tiền bạc nuôi sống bản thân và gia đình, như tục ngữ đã
bảo :

- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.

Đồng thời nhờ đó, chúng ta góp phần xây dựng xã hội. Thế nhưng nếu xử dụng tay nghề của mình vào
những mục đích xấu, lúc bấy giờ chúng ta sẽ gây nên những tai họa thảm khốc.
Thí dụ : tôi giỏi nghề in, nhưng không dùng khả năng ấy để in sách, in báo hầu nâng cao dân trí, nhưng
lại dùng để in tiền giả khiến cho nền kinh tế quốc gia bị lũng đoạn.

Tôi giỏi nghề võ, nhưng không dùng khả năng ấy để bảo vệ bản thân và giúp đỡ những kẻ cô thân cô
thế, nhưng lại dùng để uy hiếp, để trấn lột người khác…

Chẳng hạn như tình yêu, một thực tại vốn được ca ngợi là thiêng liêng và cao đẹp, thế nhưng con người
cũng vẫn có thể lợi dụng tình yêu để làm những điều xằng bậy.

Thí dụ : một chàng trai dùng những lời đường mật của tình yêu để dụ dỗ cô gái, khiến cho cô gái phải
mang bầu, rồi truất ngựa truy phong, bỏ rơi cô gái…Hay mượn đỡ danh nghĩa tình yêu để lường gạt tiền
của theo kiểu kỹ sư đào mỏ…Cũng có thể yêu nhầm đối tượng mà làm cho gia đình bị đổ vỡ tan hoang,
vợ mình chẳng yêu lại cứ nhè vợ người ta mà yêu, thế mới rách việc.

Báo Công an TPHCM cũng đăng tải một mẩu tin ngắn như sau :

Anh T. vốn thầm yêu chị H. là một góa phụ. Trong lúc đến chơi, lợi dụng cơ hội tư riêng, anh đã hôn chị
một miếng. Chẳng may vô tình cháu L. nhìn thấy và khóc thét lên rồi chạy sang mách người hàng xóm.
Người hàng xóm bèn đến can ngăn và đuổi anh T. về. Cảm thấy xấu hổ trước mặt bà con lối xóm, ngày
hôm sau chị H. đã thắt cổ tự tử. Chị H. chết đi bỏ lại đứa con thơ mới chín tuổi. Đúng là một cái hôn gây
nên hậu quả khó lường.

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta thấy trong mọi việc yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Và nơi
con người thì cái tâm hay nói một cách nôm na và bình dân hơn, là cái lòng sẽ nắm phần quyết định. Tốt
hay xấu cũng bởi nó. Vì thế sách giáo lý có câu :

- Hỏi tội bởi đâu mà ra ?

- Thưa tội thì bởi trong lòng mà ra.

Hay như người xưa cũng dạy :

- Nhân dục thắng, thiên lý vong.

Có nghĩa là lòng dục của con người phát triển thì đạo lý của trời sẽ bị mai một,

Hay :

- Dục vọng đánh đổ đạo lý.

Chính vì thế có người đã phát biểu :

- Thà rằng ngồi trong trái tim con sư tử còn hơn là ngồi trong trái tim con người.

Và tiền nhân cũng đã từng cay đắng khi đưa ra kinh nghiệm chua chát của mình :
- Homo hominibus lupus.

Có nghĩa là người với người là chó sói của nhau.

Thế nhưng cái tâm ấy lại âm u. Cái lòng ấy lại đầy những ý đồ đen tối như tục ngữ đã bảo :

- Sông sâu còn có kẻ dò,

Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

- Dò sông, dò biển, dễ dò,

Nào ai lấy thước mà đo lòng người.

Điều khó khăn và gay go nhất đó là phải làm thế nào để kiểm soát được cái tâm và hướng dẫn được cái
lòng của mình. Thế nhưng dù khó khăn và cam go đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải thực hiện nếu
muốn cho mọi việc luôn được êm xuôi và tốt đẹp.

Ngày kia, có một đứa bé ném hòn đá vào lớp khiến cho cửa kính vỡ tung. Cô giáo đỏ mặt tức tối. Tuy
nhiên, thay vì sửa phạt cậu học trò tinh nghịch, thì cô giáo lại đi lượm viên đá, rồi lấy thước kẻ đánh cho
viên đá một trận. Vừa đánh vừa nói :

- Từ nay, mày phải trở nên mềm dẻo chứ không được cứng rắn như thế này nữa nhé.

Phải kiểm soát cái tâm, phải hướng dẫn cái lòng vì nhân tâm hay lòng người là nơi sản xuất ra những thứ
vũ khí nguy hiểm, những toan tính mờ ám, những hành động dã man.

Và để kết luận, gã xin lập lại câu nói ban đầu của một diễn viên trong bộ phim “Cuộc chiến thầm lặng” :

-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người xử dụng khẩu súng mới thực nguy hiểm.

Ôi, con người quả là…dễ sợ.


TẾT - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Bây giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ lãng đãng trong
đầu óc gã, khiến cho gã phải thờ dài thườn thượt như người xưa :

- Ôi nhân sinh là thế ấy,

Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.

Thời gian thấm thoát tựa thoi đưa, tựa ngựa hồng qua khung cửa. Một khi đã chắp cánh bay đi thì chẳng
bao giờ trở lại. Nó giống như dòng sông, làm sao có thể chảy ngược về nguồn. Nó cũng lững lờ trôi,
chẳng cần chờ ai mà chẳng cần ai chờ nó :

- Xoay vần ngày tháng thoáng qua

Năm kia nào có đợi ta bao giờ.

Chính trong những ý nghĩ xám xịt ấy, mà gã lan man, tản mạn nghĩ về cái tết.

Vậy tết là đí gì ?

Trước câu hỏi này, gã phải vác tự điển ra tra cứu, vì sự hiểu biết của gã về vấn đề này rất là “lơ tơ lơ
mơ”.

Theo “Việt Nam từ điển” của lê văn Đức, thì tết là ba ngày đầu năm âm lịch. Đồng thời nó còn chỉ
khoảng cách thời gian trước và sau ba ngày này.

Thí dụ như khi tôi nói chợ tết, thì phải hiểu chợ được nhóm trước tết, chứ sau tết thì chỉ còn là chợ ban
những đồ ế, của thừa mà chớ…

Điều rắc rối là về ngày. Khi ta bảo hai mươi chín tết phải hiểu là trước. Trái lại, khi ta nói những ngày còn
ở trong… mùng, như mùng bảy, mùng tám, mùng mười, thì tất ráo cả đều là sau tết.

Ngoài ra, tết còn chỉ những ngày lễ lớn trong năm, như tết trung thu… Hay chỉ hành động xách đồ vật đi
biếu nhân ngày tết :

- Mồng một tết cha,

Mồng hai tết chú

Mồng ba tết thày.

Trong khi đó, theo : “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển”, của Trịnh văn Thanh, thì thời gian ăn tết
co dãn như cao su và thường được kéo dài ra nhiều hơn. Đó là tám ngày đầu năm.

Ngày xưa các cụ cho mỗi ngày thuộc một giống khác nhau. Mùng một thuộc gà, mùng hai thuộc chó,
mùng ba thuộc heo, mùng bốn thuộc dê, mùng năm thuộc trâu, mùng sáu thuộc ngựa, mùng bảy thuộc
người và mùng tám thuộc thóc.
Vì thế, vào dịp tết người ta thường nghỉ sáu ngày, đến ngày mùng bảy thuộc người, được kêu là khai hạ,
mới bắt đầu làm việc.

Chẳng hạn như gã, sống bằng nghề cạo giấy, thì ngày mồng bảy thể nào cũng phải bắn một điếu thuốc
lào, thả hồn theo khói, rồi tay cầm bút nguệch ngoạc vài dòng, gọi là “khai bút” lấy hên cho năm mới.

Riêng quí vị thất nghiệp, ưa ngáp vặt, ngồi chơi xơi nước, thì còn nghỉ mút chỉ hơn nữa :

- Tháng giêng là tháng ăn chơi,

Tháng hai trồng đậu,

Tháng ba trồng cà.

Gã biết một nhóm bè bạn, gồm đúng mười hai tên, được gọi là “thập nhị sứ quân”. Họ nhậu xoay vòng,
cứ ngày mồng bảy âm lịch mỗi tháng là đến “lai rai” tại nhà một tên, thành thử suốt năm họ đều…ăn tết
cả.

Xong chuyện thứ nhất, bước tới chuyện thứ hai. Vậy trong cả và thiên hạ, người ta ăn tết ra làm sao ?

Mỗi lần nghĩ về cái tết, dân khố rách áo ôm như gã thường thở dài ngao ngán, như người xưa đã diễn
tả :

- Tết đến,

Ông vải thì mừng, con cháu thì lo.

Đúng thế, ông vải thì mừng bởi vì được tưởng nhớ, được cúng vái và nhất là được hưởng… hương khói.

Trong khi đó, con cháu thì lo bởi vì phải sắm sửa trăm thức bà giằng.

Còn hôm nay, gã có thể đổi lại câu nói trên một tí xíu :

- Tết đến,

Con nít thì mừng,

Người lớn thì lo’’.

Thực vậy, con nít thì mừng bởi vì sẽ được nghỉ học, sẽ được tiền lì xì, sẽ được mặc quần áo mới, sẽ được
ăn thịt và còn nhiều cái khác ‘’sẽ được’’ khác nữa…

Trong khi đó, người lớn thì lo, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trăm dâu đổ đầu tằm, bao nhiêu chi phí
đều cậy nhờ vào ‘’cái hào bao’’ đang độ rỗng tuếch…

Trước tết thật lâu, thằng bạn gã đã hối bà xã mua hoặc may cho quí vị con nít, mỗi nhóc tì một bộ quần
áo mới. Vì lúc bấy giờ vải còn rẻ và tiền công chưa mắc. Hay âm thầm sắm những bộ đồ “sida” đem về
giặt ủi y như mới, rồi cất kỹ đến tết mới phô ra cho chúng.

Ngày ba mươi tết, bà xã hắn cứ thấp thỏm muốn đi chợ thật sớm, thế là hắn bèn phải vắt óc tìm đủ một
ngàn lẻ một lý do để cản chân bà ta lại, khiến bà ta đi chợ muộn hơn thường lệ, bởi vì từ giờ ‘’ngọ’’ tức là
vào khoảng giữa trưa , thịt thà, đường mứt và hoa kiểng đều rẻ… chỉ tội nó hơi kém tươi, hơi kém ngon
một chút mà thôi.

Nhưng nào có can chi, bởi vì hắn lý luận :

- Của không ngon,

Nhà niều con cũng hết.

- Phải giả bộ đủng đỉnh cho qua ba ngày tết để lấy vải thưa che mắt thiên hạ, khỏi nhìn thấy cái rách
mát te tua của mình.

Hắn cũng giống như một cô gái được ông thày bói sờ mu rùa, gieo quẻ mà phán :

- Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ba mươi tết có thịt heo trong nhà’’.

Miễn là có hoa kiểng, có bánh mứt, có thịt thà cá mú để ‘’lên mặt với đời’’ còn phẩm chất của chúng ra
sao thì thôi, kệ bà chúng. Méo mó có hơn không. Thói đời vốn thường vậy kia mờ :

- Chí cha chí chát khua giày dép

Đen thủi đen thui cũng lượt là.

Tính toán chi li như vậy, hẳn gã sẽ phải phong hắn lên hàng ‘’trùm sò’’ mất thôi. Nhưng đành chịu vậy.
Cái khó bó cái khôn, biết nói sao bi giờ.

Ngoài những mua sắm cần thiết cho cái mặc, cái ăn, cái uống… cả năm đầu tắt một tối, thì cũng phải
phong lưu ít ra trong ba ngày tết cho bõ ghét.

Rồi sau đó, lại cúi gầm mặt xuống, tiếp tục kéo cày trả nợ cho cuộc đời mà vẫn cảm thấy hả lòng hả dạ,
mát ruột mát gan.

Phải, ngoài những chi phí kể trên, là xếp trong gia đình, hắn còn phải dành cả một ngân khoản, cả một
số tiền… khơ khớ, để lì xì.

Ngày xưa hắn vui mừng vì được lì xì bao nhiêu thì bây giờ hắn lại xót ruột, nhót gan và ỉu xìu bấy nhiêu
vì phải lì xì.

Lì xì cho con nít còn đơ đỡ một chút. Nhưng con nít thời nay khôn hơn con nít thời xưa. Qua mặt nó bằng
đồng tiền ‘’mới mà nhỏ’’ là không xong, thế nào nó cũng đòi cho được đồng tiền to, có cũ một tí cũng
chẳng nhằm nhò gì.

Phiền nhất và đau nhất là phải lì xì cho những cặp vợ chồng “đỏ” đi tết mới. Đây cũng là dip để họ ‘’bù
lỗ’’ cho đám cưới.

Theo phong tục quê gã, đồ lỡi thường là một cặp rượu, một cặp bánh chưng, một ký đường… hay thế
nào thì tùy hỉ, không cần thiết lắm. Đồ lỡi chỉ có tính cách nghi thức tượng trưng và trình diễn, vì sau đó
anh chị được lấy lại và đem sang nhà khác, miễn sao bày biện cho đẹp mắt và dễ coi.

Riêng phần khổ chủ, phải mở hào bao lì xì. “Bèo” quá thì không được, bởi vì đây sự góp vốn đầu đời cho
anh chị mới làm ăn. Nhưng “khơ khớ” một chút thì không cáng đáng nổi. Thử hỏi, dịp tết mà có chừng
hai mươi cặp đến tết mới, nhận họ nhận hàng, thì quá là nguy tai, và… vỡ nợ !

Gã là kẻ có khiếu ăn, mà chẳng có khiếu nói, bởi vì tinh thần ăn uống được Chúa ban cho ngay từ lúc lọt
lòng mẹ. Do đó, những lời chúc hay những câu “đáp lê “, gã thường phải nhẩm trước trong bụng.

Nhớ lại hồi còn bé, sáng mồng một tết thật là vui. Thày mẹ gã ở nhà để nhận đồ lỡi, còn anh em gã phải
hớn hở vác đồ lỡi đi tết ông chú bà bác, những người ở… vai trên.

Trước khi đi, mẹ gã thường gài cho một lời chúc, bắt phải học thuộc lòng như sau :

- Năm hết tết đến, thày mẹ chúng cháu cho chúng cháu đến tết hai bác, cầu chúc hai bác trong năm mới
được… vân vân và vân vân…

Lớn lên, gã thường phải “vắt chân lên trán” để phệu ra những lời chúc thật dí dỏm, vừa để cười thầm
một chút vừa để chọc ghẹo thiên hạ cho vui cửa vui nhà.

Thí dụ năm Canh Mùi, cầm tinh con dê, gã bèn mở miệng :

- Trước thềm năm mới, xin chúc chị năm con dê… nhiều may mắn.

Hay :

-Xuân về, chúc anh năm con… dê nhiều… may mắn.

Chúc như vậy, thì cứ liệu hồn đấy, không chừng sẽ được ăn đòn hội chợ đến phù cả mỏ ra. Tuy nhiên, có
những câu chúc mà ngày nay xét ra không còn hợp thời nữa.

Thí dụ :

- Chúc cho anh chị mới, đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái… hay đẻ “tốc hành” theo kiểu cá
cặp, sinh đôi, sinh ba...

Chúc như vậy là đi ngược lại với đường lối và chủ trương của nhà nước, vì nhan nhản ngoài đường phố
thấy những tấm bích chương với khẩu hiệu :

- Vợ chồng son hai con là đủ.


- Dù gái hay trai,

Hai con là đủ.

Hơn nữa, nếu nhiều quá thì vợ chồng trẻ cũng khó mà khan nổi giữa thời buổi gạo châu củi quế này.

Dịp tết, ai cũng mong được nhiều may mắn. Người ta kiêng cữ đủ thứ để tránh cái xui cái xẻo. Người ta
lên chùa hái lộc để rước vận may. Người ta đi xem bói, chấm lá số tử vi để biết được thêm một tí tẹo về
hậu vận.

Bởi vì, như dân Thổ Nhĩ Kì đã bảo :

- Tương lai giống như người đàn bà mang thai, chẳng hiểu bà ta sẽ đẻ ra con trai hay con gái.

Câu danh ngôn này, hôm nay xem ra đã “xưa rồi Diễm ơi”, bởi vì nhờ siêu âm người ta biết rằng bà xã sẽ
sinh con trai hay con gái từ lúc bào thai còn bé tẹo tèo teo.

Nhưng tương lai hậu vận thì vẫn còn mù tịt. Gã sẽ treo giải thưởng, còn đắt giá hơn giải Nobel, cho ai
sáng chế ra chiếc máy dò tìm và xác định được tương lai hậu vận.

Bây giờ thì gã đành phải mượn lời của Tú Mỡ mà long trọng cầu chúc :

- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Đứa thì mua chức đứa mua quan

Phen này thì ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng

Còn rất nhiều chuyện để nói về ngày tết, nhưng cứ lông bông, nói dông nói dài, thì sợ bị thiên hạ kê
ngay tủ đứng vào miệng :

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.

Vì thế, gã xin trở lại với những ý nghĩ xám xịt lúc ban đầu.

Nếu trong chuyện Kiều, Nguyễn Du đã bảo :


- Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Cùng theo thể thức ấy, gã liền phệu :

- Chữ tết liền với chữ chết một vần.

Một ông thi sĩ nào đó đã viết :

- Yêu là chết trong lòng một tí.

Còn gã, gã cũng có thể phệu :

-Tết là chết trong đời một tí.

Đúng thế, trong dịp tết này rất nhiều người sẽ chết.

Phải, họ chết vì rượu bởi vì họ uống tới tình trạng say xỉn, ngoắc cần câu. Rất may cái chết này chỉ là một
cái chết tạm thời, bởi vì người ta sẽ tỉnh lại sau cơn say.

Có những chàng trai và cô gái sẽ chết vì đua xe, vì đụng xe hay vì lạng lách trên đường phố. Rất may cái
chết này chỉ dành cho một số ít, đó là những cô chiêu cậu ấm, ăn no dửng mỡ… mà đứt bóng !

Nhưng quan trọng hơn vẫn là cái chết chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, một năm mới sắp tới, cũng có nghĩa là một năm cũ sắp qua đi trong dòng chảy cuộc đời. Cây
nến hồng cuộc sống sẽ ngắn lại một chút, bởi vì mỗi cái tết là một bước tiến gần đến cái chết, để rồi một
lúc nào đó, cây nến hồng ấy sẽ phụt tắt.

Tết là chết trong đời một tí.

Mới ngày nào, gã còn trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời, thế mà hôm nay đã phải cõng trên vai một tí
tuổi. Tết đến, gã sẽ già hơn một chút.

Với tí tuổi mang nặng, gã cảm thấy lưng oằn xuống, thân xác giở quẻ với những chứng bệnh mà gã
không ngờ trước. Cuối cùng, thuyền đời sẽ cặp bến, nhưng bến đục hay bến trong ? Điều đó lệ thuộc vào
cuộc sống hiện tại của gã.

Lúc này gã đã nghĩ trước một điều ước, để trong đêm giao thừa, lỡ có một bà tiên, hay một cô tiên thì
càng tốt, quá bộ đến vỗ vai và bảo :

-Hãy ước một điều.

Hẳn gã sẽ trả lời liền tù tì như sau :

- Xin cho gã được làm con nít mãi mãi.


Hồi còn bé, gã chỉ mong ước được làm người lớn, để khỏi phải đi học, khỏi phải bị mắng, khỏi phải bị
khua dậy đi lễ… mặc sức la hét om sòm cũng như ngủ nuớng và tết đến lại còn “sẽ được” nhiều thứ.

Gã thường hay hỏi ông ngoại :

- Làm thế nào cho tuổi mới nó vào ?

Ông ngoại xoa đầu gã, rồi mỉm cười và nói :

- Đêm giao thừa hãy chổng mông lên.

Thằng bé mê ngủ quên cả chổng mông, thế mà tuổi vẫn vào ào ào và xác vẫn lớn.

Bây giờ gã mới thấy :

- Mơ làm người lớn quả là điều dại dột, bởi vì người lớn phải nghĩ nhiều, phải lo nhiều, phải làm nhiều và
nhất là… chóng về chầu trời.

Viết tới đây, gã bỗng nghe thấy tiếng hát của Hồng Nhung với chiếc răng khểnh vọng lên từ chiếc “cát
xét” của quán nước bên nhà hàng xóm được vặn hết cỡ thợ mộc điếc cả lỗ nhĩ và rát cả con ráy :

- Em không muốn làm người lớn đâu anh,

Ứ hư….ứ hư…
TIỀN - CHUYỆN PHIẾM CỦA GÃ SIÊU.
Năm nào cũng thế, cứ vào những tháng cuối năm gã đều cảm thấy lo ngay ngáy, lắm lúc lo đến toát cả
mồ hôi hột vì cái túi cạn kiệt, cái hào bao rỗng tuếch, tiên bạc đội nón ra đi hết sạch, trong khi mình lại
đang rất cần đến nó.

Này nhé : nào lễ Giáng sinh, nào tết tây, nào tết ta, rồi trăm thứ bà giằng khác. Dù thắt lưng buộc bung
cách nào chăng nữa, thì cũng vẫn có những khoản bắt buộc phải chi, không chi là không xong. Thành
thử đầu vào thì ít mà đầu ra thì lại nhiều, tới độ ngân sách bị thâm thủng nặng nề.

Càng lo về tiền, thì đêm nằm vắt chân lên trán ngẫm nghĩ chuyện đời, gã càng nhận ra sức mạnh vạn
năng của nó.

Các cụ ta ngày xưa thường tự an ủi lấy mình khi lâm vào cảnh túng quẫn :

- Cái khó bó cái khôn.

Ước mơ thì nhiều, nhưng do thiếu tiền, nên rốt cuộc chả được bao nhiêu. Thảng hoặc một đôi lúc cái khó
ló cái khôn, thì hầu hết những cái khôn được đẻ ra trong hoàn cảnh bi đát này cũng chỉ là một thứ khôn
vặt, thiếu trọng lượng mà thôi.

Vì thế, từ già đến trẻ, từ lớn đến bé, từ nam phụ đến lão ấu, ai nấy cũng đều nhận ra giá trị của tiền bạc,
ngay cả anh mù cũng vẫn nhìn thấy tiền.

Đồng thời, ai nấy đều ra sức tìm tiền kiếm bạc, ky cóp tích lũy và gìn giữ nó kỹ càng, bởi vì đồng tiền liền
với khúc ruột, lỡ mất nó thì tiếc ngẩn tiếc ngơ, tiếc đến độ chảy ra cả nước mắt, đêm không ngủ, ngày
không ăn..

Phàm bắt tay vào bất cứ việc gì thì “ vấn đề đầu tiên “ nổi cộm trong đầu óc vẫn là vấn đề tiền đâu? Một
vấn đề thuộc vào hạng qui luật của muôn đời, không thể không xét đến.

Ngày nay, người ta thương bảo :

- Tiền là tiên là phật,

Là sức bật của tuổi trẻ,

Là sức khỏe của tuổi già,

Là cái đà của danh vọng,

Là cái lọng để che thân,

Là cán cân của công lý.

Còn người xưa thì lại xác quyết :

- Có tiền mua tiên cũng được.


Riêng gã, gã không hiểu tiên là liền ông hay liền bà, đẹp hay xấu, nhưng chắc chắn là phải thuộc “ cõi
trên “, mà gã thì lại hay dị ứng với những người cõi trên, nên chi ngó thẳng vào thực tế để nó được thêm
phần cụ thể hơn.

Trước hết, với tiền bạc, người ta có thể mua được địa vị cùng với quyền ăn và quyền nói như người xưa
đã bảo :

- Mạnh vì gạo bạo vi tiền.

- Miệng nhà giàu có gang có thép.

Nếu tìm hiểu về phong tục của xã hội Việt nam thuở trước, chúng ta thấy nhiều nơi có tục lệ mua quan
bán tước, và ngay cả trong lòng Giáo hội cũng có vài xứ bán chánh bán trùm.

Người nhà giàu chỉ cần bỏ ra một số tiền theo qui định là ẵm ngay được chức lý trưởng, chức chánh
trương, chức trùm quản gì đó để vênh vang với đời.

Rồi mỗi khi có hội hè đình đám, thì được ngồi vào chiếu trên mà ngất ngưởng với các vị bô lão và chức
sắc, bằng không thì sẽ bị xếp vào chiếu dưới, lẫn lộn với hạng cùng đinh, vai nặng chân trơn mà chớ.

Với tiền bạc, người ta còn có thể mua được lẽ phải, mua được công lý.

Hồi còn bé, mỗi lần đi ngang qua tòa án, gã thấy các vị thẩm phán, luật sư, thùng thình trong bộ đồ
riêng của nghành nghề mình, toát ra một sư oai nghiêm, đạo mạo.

Thế nhưng, khi lớn lên và va chạm với cuộc sống, gã thấy rằng quí vị đạo mạo ấy cũng chỉ là người, nên
trong bụng vẫn chất chứa chút sân si và trong máu con virus ham hố vẫn phá thối. Vì thế, có kẻ bạo phổi
dám bỏ tiền ra mua đứt tòa án, đánh gục quí vị đại diện cho thần công lý.

Đúng là :

- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.

- Kim ngân phá lề luật.

Nếu chẳng may đụng phải mấy ông quan tòa có bản lãnh, không tơ tưởng tới tiền bạc, thì cứ yên chí
nhớn, hiên ngang bước chân vào tù.

Thế nhưng, trong thế giới tù ngục, có tiền vẫn hơn, bởi vì, với tiền người ta vẫn mua được mọi thú tiện
nghi chẳng kém gì ở ngoài. Sau đây, gã xin trích một đoạn trong báo Công An mô tả về nhà tù ở Bolovia
thuộc Nam Mỹ :

“ Các nhà tù ở đây giống như những thành phố ở bên trong thành phố. Tại khuôn viên, nhà tù có đủ cả
từ các tiệm tạp hóa cho tới các nhà hàng, thậm chí có cả khoản dịch vụ của các ả mãi dâm…

“Những tù nhân giàu thì có thể sống như ông hoàng. Với 3.000 mỹ kim, Freddy Alvarez, kẻ can tội buôn
lậu ma túy, đã “ mua “ một phòng giam tươm tất để có thể chung sống cùng vợ con.

“Hắn ta kể lại :

- Tôi giống như một kẻ sống ở vùng ngoại ô mà thôi. Tôi có nhà riêng, các con tôi hằng ngày vẫn tới
trường và vợ tôi vẫn đi ra ngoài làm việc, chúng tôi ăn uống no đủ.

“Chưa hết, có một số tù nhân dám bỏ ra cả 15.000 mỹ kim để được ở trong những phòng giam đạt tiêu
chuẩn “ khách sạn năm sao “. Nếu chi khoảng 60 mỹ kim, một tù nhân có thể đi bát phố trọn ngày, còn
với 90 mỹ kim, hắn ta có thể đi dự dạ hội, chơi hộp đêm ngoài phố “ over night” luôn.

“Các nhà tù không lo tù nhân bỏ trôn vì gia đình họ cũng đang sống trong nhà tù như những con tin.

Hơn nữa, với tiền bạc, chúng ta còn có thể mua được cả bạn bè và tình nghĩa.

Các cụ ta ngày xưa đã để lại một kinh nghiệm sống ….khí sượng một chút, đó là :

- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghĩa là nghèo kiết xác mà cắm dùi
ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ma nào viếng thăm, trái lại hễ giàu sang, phất lên một tí thì dù ở chốn
rừng sâu núi thẳm cũng khối kẻ chịu khó cất công tìm đến.

Bên cạnh nhà gã có một anh hàng xóm, thuở còn khố rách áo ôm, dù vợ anh có đẻ cặp hai cặp ba thì
thiên hạ vẫn phớt tỉnh ăng lê, dù bản thân anh có bị tai nạn xe cán gẫy tay hay lòi ruột, thì người ta vẫn
mặc kệ nó.

Bỗng một hôm thần tài gõ cửa, anh trúng số độc đắc, tiền bạc cứ như quà tặng từ trời rơi xuống. Đi tới
đâu các cô gái cũng toét miệng cười :

- Anh sáu ơi, anh sáu à…

Đúng là :

- Thấy người sang bắt quàng lam họ.

Ghé vô chỗ nào anh cũng được thiên hạ mời tiệc tùng ăn nhậu, vì thế về khoản rượu chè, anh lên “ đô “
trông thấy và mặt lúc nào cũng đỏ gay như gà chọi.

Trước kia, chẳng ai dám cho anh vay vì sợ bị ăn quịt. Còn mỗi khi ngân hàng tới đòi nợ, anh bèn phải ẩn
mình đi tị nạn chính trị, ẩy bà xã ú ớ ra tiếp.

Còn bây giờ, người ta mời anh giữ chức này chức nọ, hy vọng anh sẽ chơi trội mà chi cho tí tiền còm mỗi
khi cần đến. Có tiền và có chức, cuộc đời anh lên hương từ đó.

Tiền bạc có thể mua được đủ thứ : nào cơm ăn áo mặc, nào tiện nghi hưởng thụ…đó mới chỉ là những
chuyện thường ngày ở huyện.

Ngoài ra, với tiền bạc người ta còn có thể mua được cả chiến thắng.
Theo dõi những cuộc vận động tranh cử tổng thống Mỹ, chúng ta thấy ứng cử viên nào “ yếu địa “, chắc
chắn sẽ bị rớt đài và đi đoong vì làm sao mà trải thảm mua đứt báo chí, truyền thanh, truyền hình, dư
luận và tình cảm của cử tri.

Bình thường, thể thao vốn là lãnh vực lành mạnh và công bằng, vì mọi người đều cố gắng chơi đẹp dựa
trên sức khỏe và tài năng của mình, thế mà tiền bạc cũng đã len lỏi vào, bằng cách mua đứt trọng tài
hay cầu thủ, khiến cho thiên hạ phải chõ mồm bàn luận chung quanh những vụ bán độ ở chỗ này hay
chỗ khác.

Trên đây là lãnh vực mua, tiếp đến là lãnh vực mở.

Tục ngữ đã bảo :

- Tiền không chân, xa gần đi khắp.

Nó là chiếc chìa khóa vạn năng mở được tất cả. Hay như Shakespeare đã viết :

- Khi tiền bạc dẫn đầu thì mọi cửa đều mở rộng.

Nói theo dân ghiền bóng đá thì tiền bạc chính là tiền vệ xuất sắc nhất chọc thủng mọi cầu môn.

Trước hết, nó sẽ mở được cửa quyền.

Hiện nay trên thế giới, hầu như nước nào cũng có tệ nạn tham nhũng. Với tiền bạc, người ta mua đứt các
viên chức để rồi việc khó hóa thành dễ như người xưa đã bảo :

- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.

Nhiều chính phủ bị sụp đổ, nhiều viên chức phải nằm nhà đá đếm lịch chỉ vì tham nhũng, hám tiền như
tục ngữ cũng đã nói :

- Hạt tiêu nó bé nó cay,

Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.

Ngoài ra, nó còn mở được cửa trái tim.

Có những người không lấy nhau vì tình nhưng lại lấy nhau vì tiền.

Hơn nữa, vì đồng tiền họ dám bán tuốt luốt, kể cả danh dự và nhân phẩm của mình. Có những cô gái vì
tiền mà “cũng liều nhắm mắt đưa chân“ lấy đại chú ba tàu Đài loan nào đó, để rồi cuối cùng đã phải
ngậm đắng muốt cay.

Đã nói đi thì cũng phải nói lại. Dưới một góc cạnh này thì là như thế, còn dưới một góc cạnh khác thì …
hỏng phải vậy đâu. Bởi vì tiền bạc là như con dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, không biết dùng thì có
hại.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo :

- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt có thể giúp chúng ta nhiều việc nhưng đồng thời lại là một ông chủ hà
khắc bóp nghẹt những gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta.

Như trên chúng ta đã thấy :

- Kim ngân phá lề luật.

Trong phạm vi cá nhân, thì tiền tài hắc nhân tâm, nó làm cho tâm địa chúng ta trở nên hắc ám với
những toan tính đen tối, chà đạp công bằng, phá đổ tình thương, coi rẻ nhân nghĩa, mặc sức bóc lột
người khác miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình, đúng như văn hào Léon Tolstoi đã viết :

- Tiền bạc chỉ là một thứ nô lệ mới không người, thay thế cho thứ nô lệ có người trước kia.

Một khi chúng ta để cho lòng mình quá ham hố, quá quyến luyến tiền bạc, thì lúc đó tiền bạc sẽ chỉ huy
chúng ta và làm cho chúng ta phải khốn đốn.

Hơn nữa, nếu chúng ta xây dựng tình nghĩa trên nền tảng căn bản của tiên bạc, thì tình nghĩa ấy thật
bấp bênh và có thể tiêu tan bất kỳ lúc nào như Nguyễn bỉnh Khiêm đã viết :

- Còn bạc còn tiền còn đệ tử,

Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Trong tiếng Việt, chữ tiền thường đi đôi với chữ bạc. Và theo sự suy diễn “ ngang hơn cua “ của gã, thì
tiền chính là thủ phạm làm cho bạc tình bạc nghĩa.

Có tiền, người ta dễ thay lòng đổi dạ :

- Trong tay đã sẵn đồng tiên,

Thì lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Thế nhưng không có tiền, người ta lại càng dễ đi tới chỗ lật lọng, quay phắt 180 độ :

- Hễ không điều lợi khôn thành dại,

Đã có đồng tiền dở cũng hay.

Có một bản tin trên báo Công an mang tựa đề là “ hợp đồng tình yêu “, nội dung như sau :

Châu Sa là một cô gái trẻ đẹp. Năm 17 tuổi, cô bỏ học đi làm vũ nữ. Được hai năm, cô gặp Tuấn, một
người thành đạt trong lãnh vực kinh doanh địa ốc. Vì không muốn người mình yêu bị kẻ khác nhòm ngó,
Tuấn đề nghị Châu sa làm vợ bé của mình.
Thấy Tuấn giàu có lại hào hoa phong nhã, phần vì ngán ngẩm với cảnh đời vũ nữ, Châu sa đồng ý với
điều kiện Tuấn phải mua nhà, mua xe và hàng tháng phải cho 1000 đô để cô xài và gửi về giúp gia đình.

Để ngăn ngừa việc ông chồng hờ của mình nửa chừng chạy theo một bóng hồng khác, Châu sa thảo ra
một bản hợp đồng ghi rõ việc cô sẽ chung sống với Tuấn 5 năm…Nếu ai bỏ ngang giữa chừng thì phải
bồi thường cho đối phương 10.000 đô. Tuấn đã ký vào bản hợp đồng và chấp nhận tất cả những điều
kiện, dù là vô cùng trắng trợn và thực dụng của Châu sa.

Từ đó Tuấn và Châu sa đã chung sống với nhau trong một tổ ấm trị giá 70 cây vàng mà Tuấn đã tậu cho
cô vợ bé xinh đẹp của mình.

Thế nhưng chẳng ai học được chữ ngờ. Bản hợp đồng tình yêu của Tuấn và Châu sa chưa được ba tháng
thì công việc làm ăn của Tuấn ngày càng xuống dốc. Số tiền 1.000 đô đối với Tuấn ngày xưa chỉ là
chuyện nhỏ, thì nay lại trở thành gánh nặng.

Thấy số tiền Tuấn nộp cho mình hàng tháng cứ hao hụt dần, Châu sa cho rằng Tuấn đã thay lòng đổi dạ,
nên quyết định dạy cho ông chồng hờ của mình một bài học vì tội đã dám vi phạm hợp đồng.

Cô photo bản hợp đồng rồi gửi cho gia đình Tuấn. Kết quả là vợ Tuấn nổi giận, kiên quyết đòi ly dị. Lúc
này Tuấn như người bị dồn vào bước đường cùng. Thất bại trong công việc, vợ lớn đòi ly dị, vợ bé đòi
tiền bạc. Tình yêu cùng sự si mê ngày xưa đã cạn. Trong lòng Tuấn chỉ còn lại niềm oán hận đối với cô
vợ bé ngag ngược.

Ngày 20.7.1998, Tuấn mang acit đến nhà Châu sa, đầu tiên chỉ tính dọa cho hả cơn giận. Thế nhưng,
sau một hồi lời qua tiếng lại, Tuấn không kiềm được sự nóng nảy của mình, nên đã vung tay tạt ca acit
vào mặt Châu sa, khiến cô bị thương trầm trọng. Và thế là tiền hết, tình tan.

Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân đôn có yêu cầu đọc giả đưa ra một định nghĩa về
tiền bạc và cho biết đọc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được thưởng.

Tòa soạn đã nhận được cả ngàn câu định nghĩa và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất :

- Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới, trừ lên trời
là không được, với nó chúng ta có thể mua được mọi sự, trừ hạnh phúc.

Còn lúc này, gã đang nghiền ngẫm một tư tưởng của Francis Bacon :

- Tiền bạc như phân bón, nếu không rải nó ra thì chẳng lợi ích gì.

Đúng thế, phân bón phải được tung vãi trên ruộng đồng thì cây lúa mới lớn lên, đâm bông và kết trái,
nhưng nếu cứ xếp đống trong kho thì chăng ăn thua gì.

Còn tiền bạc tiêu dùng thì…ô hố…sao nhỉ ?


TRẺ VÀ GIÀ - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Trong mục sổ tay của tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, gã lượm được một mẩu tin như sau :

- Kể từ nay, chính phủ sẽ không bổ nhiệm người làm thứ trưởng và những chức vụ tương đương quá 55
tuổi. Khi đọc thông báo trên do thủ tướng vừa ký ngày 18 tháng 4, một công chức cấp vụ ở Hà Nội nói
với người viết : dễ có đến 20% số cán bộ mang cấp hàm thứ trưởng sẽ ra đi vì tuổi không còn đúng với
tiêu chuẩn…

Mẩu tin này cũng khiến cho gã phải sờ vào gáy mình và nhận ra rằng :

- Sống lâu lên lão làng, cứ cái điệu này thì mình cũng sắp được …ra ngũ, về nhà đuổi gà và trồng hoa.
Chẳng biết nên vui hay nên buồn.

Gã nhớ lại hồi đầu mình còn để chỏm, hình như có đọc trong sách Quốc âm Giáo khoa thư bài học về
một câu đố :

- Con gì sáng nó đi bốn chân, trưa nó đi hai chân và chiều nó đi ba chân ?

Xin thưa :

- Đó chính là con người.

Thuở còn nhỏ, chúng ta bò lê bò la bằng cả hai tay lẫn hai chân, vị chi là bốn. Lớn lên, chúng ta đứng
thẳng và mạnh mẽ bước tới. Còn khi về già, chúng ta phải chống thêm một chiếc gậy nữa là ba.

Các cụ ta ngày xưa đã ngán ngẩm mà bảo :

- Âm thầm ngày tháng trôi qua,

Năm kia nào có đợi ta bao giờ.

Đúng thế, chẳng ai có thể cản được những bước chân âm thầm của thời gian. Cứ nhìn vào xấp nhỏ, lớn
lên như thổi, gã bèn nghiệm ra gánh nặng tuổi đời đang đè xuống đôi vai còm cõi của gã và dấu ấn thời
gian đã in đậm trên khuôn mặt gã.

Cách đây không lâu, một cô bé Việt kiều hớn hở đến thăm gã. Phối kiểm lại bộ nhớ, gã thấy được rằng :
khi khăn gói quả mướp theo thày bu xuống tàu đi vượt biên, cô bé này còn đang ở lứa tuổi “babilắc”,
suốt ngày chơi ô quan và nhày cò cò ở sân nhà gã, thậm chí còn anh dũng mặc quần đùi đi móc cua
ngoài đồng về cho chị nấu riêu, thế mà giờ đây đang độ đào tơ trổ mã, đẹp như một cô tiên, giống hệt
một bài thơ cổ đã diễn tả :

- Hồng hồng tuyết tuyết,

Mới ngày nào chửa biết cái chi chi,

Mười mấy năm thấp thoát có xá gì,


Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu.

Ngay như chính bản thân gã cũng vậy. Bốn mươi năm được coi là đỉnh cao cuộc đời, rồi sau đó bắt đầu
đi xuống ở triền núi bên kia. Tới cái mốc này, mắt gã bỗng mơ huyền, phải vội vã ra tiệm cắt ngay một
chiếc kính lão, để khỏi trông gà hóa quốc.

Rồi từ đó, lục phủ ngũ tạng bắt đầu rệu rạo. Nhất là khi đã bước vào tuổi “ngũ tuần”, thì sức kéo bị giảm
sút một bậc, làm việc lâu một xíu là cảm thấy mệt mỏi, uể oải liền tù tì ngay à.

Nhớ hồi còn trẻ, ngồi đánh máy chữ lọc cọc suốt tám chín tiếng đồng hồ mà chẳng hề hấn, sứt mẻ chi
cả, thậm chí có những lúc gấp rút, làm ngày không đủ phải tranh thủ làm cả ban đêm mà vẫn cứ phom
phom và hăng tiết vịt.

Chứ bây giờ, khi đã có tí tuổi, gõ máy dù là máy vi tính, chỉ một lúc là liền nhức nhối từ đầu ngón tay cho
đến tận…lái tim. Rồi ăn chẳng biết ngon, ngủ thì cứ mơ mơ màng màng.

Sức kéo giảm sút đã đành, mà tuổi năm mươi còn là khởi điểm cho đủ mọi thứ bệnh hoạn. Nào cao
huyết áp, nào nhồi máu cơ tim, nào tai biến mạch máu não, nào loét bao tử, nào đái…đường. Bản án tử
hình dường như đã được treo lơ lửng trên đầu quí cụ thượng thọ ngũ tuần.

Nghĩ vậy, nên cứ bình tĩnh mà run. Vì thế, hôm rồi gã bèn phải gồng mình đi khám lại toàn bộ đồ lòng,
từ tim gan cho chí đến đến phèo phổi. Qua siêu âm, người ta cho biết gã hiện có hai viên sạn nhỏ nằm ở
trong thận.

Ông bác sĩ thuộc vào hàng chịu chơi bèn phán :

- Vì chúng còn bé tẹo tèo teo, nên chưa cần phải mổ hay bắn biếc chi cả, chỉ cần uống thuốc, uống nước,
vận động và nhất là…cười nhiều.

Vì thế, trong mấy tháng nay, gã đành phải ép mình ép xác mà dùng thuốc, dùng nước và tập thể dục
thẩm mĩ để giữ…eo. Bởi vì lúc này cái eo của gã xem chừng liên tục phát triển theo kích thước của cái eo
con…bò.

Rồi lúc nào cũng phải vén môi lên mà cười. Vui cũng cuời mà buồn cũng cười, thiếu điều bị liệt vào hạng
người…cõi trên. Thế mà chẳng biết đến bao giờ mới tống khứ được hai cái của nợ ấy ra.

Từ những điều gã vừa cà kê dê ngỗng, thì khác biệt thứ nhất giữa già và trẻ là khác biệt về ngoại hình,
về sức khỏe.

Trẻ thì mạnh, già thì yếu. Đó là lẽ đương nhiên, qui luật của muôn đời kia mờ. Trừ ra một vài trường hợp
ngoại lệ mà chúng ta vốn gọi là những cụ… già gân, như Nguyễn công Trứ đã viết :

- Càng già càng dẻo càng dai.

Bình thường, tuổi già là một nhà thương, tiếp nhận đủ mọi thứ bệnh. Hơn nữa, nếu nửa đầu cuộc đời,
chúng ta xài theo kiểu “xả láng sáng về sớm”, như lời hô hào :
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi,

Cái già sồng sộc nói thì tới ngay.

Chắc hẳn nửa sau cuộc đời, chúng ta sẽ phải trả giá bằng những bệnh tật và đớn đau của mình.

Sự giảm sút về sức khỏe phần xác, thường kéo theo sự giảm sút về tâm lý và sự xơ cứng về tinh thần.
Kinh nghiệm của những bậc tiền bối cho hay :

- Năm mươi tuổi thì ta chán đời, còn sáu mươi tuổi thì đời chán ta.

Tuổi già vốn dĩ là một gánh nặng cho bản thân cũng như cho người khác. Tuổi già giống như phiên chợ
chiều, vắng tanh vắng ngắt. Hay như con sư tử già chỉ là trò cười cho đám chó con.

Từ đó, người già đánh mất sụ hăng say nhiệt tình, để rồi buông xuôi, mặc cho ‘’con tạo xoay vẫn đến
đâu’’ hay phó mặc cho lũ cháu đàn con :

- Già thì mọi sự mọi hèn

Giang sơn phó mặc đàn em sau này.

Khác biệt thứ hai giữa già và trẻ là khác biệt về kinh nghiệm, về vốn sống được tích lũy từ lòng cuộc đời.

Trong phạm vi này, người trẻ chưa có được bao nhiêu, đang khi đó với bề dày của năm tháng, người già
đã gom góp được rất nhiều. Vì thế, người trẻ thường hay bồng bột, xốc nổi và… phổi bò, như tục ngữ
cũng đã bảo :

- Khôn đâu tới trẻ, khẻo đâu tới già.

Và đôi lúc người ta đã gọi :

- Tuổi trẻ là tuổi ăn chưa no, lo chưa tới.

Với những kinh ngiệm được tích lũy suốt dọc dòng thời gian, tuổi già thường khôn ngoan và thâm trầm,
giống như cây càng già thì gỗ càng tốt, giống như gừng và quế, càng già thì lại càng cay, hay như tục
ngữ cũng đã nói :

- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.

Do số vốn sống phong phú ấy, nên đã nảy sinh ra một khác biệt thứ ba giữa già và trẻ, đó là người già
thường thích quay nhìn dĩ vãng và sống bằng những hoài niệm, còn người trẻ thường thích hướng tới
tương lai và sống bằng những ước mơ. Người già thì quay lại phía sau, còn người trẻ thì bước tới phía
trước.

Thực vậy, mấy ông bạn già lâu ngày gặp mặt nhau, khề khà bên chén rượu nồng hay bên tách trà đậm,
chắc chắn các cụ sẽ gợi nhớ và sống lại cái thuở huy hoàng vang bóng của mình :
- Ngày ấy mình thế này… chúng ta thế nọ… chứ không như bây giờ, chẳng ra cái thể thống nào cả.

Trong khi đó, bọn trẻ ngồi đấu láo với nhau thì thao thao bất tuyệt về những dự tính đang được ươm
mơ. Nào là làm cái này, nào là làm cái kia…

Chính do sự khác biệt này, nhiều lúc đã xảy ra những bất đồng, những lục đục, những chống đối trong
gia đình giữa già và trẻ, giữa cha mẹ với con cái.

Hồi xưa, có lần thằng bạn gã đang năn nỉ ỉ ôi, xin mẹ tí tiền còm để mua sách hay làm cái chi đó, thì ông
bố bước vào. Chợt nghe thấy tiền, ông bố bèn mở miệng phang ngay cho cậu ấm một bài ‘’luân lý cơ
bản’’ :

- Ngày xưa tao phải tiết kiệm từng trang giấy, từng giọt mực… ngày xưa tao thế này… ngày xưa tao thế
kia… ngày xưa tao thế nọ…

Điệp khúc ‘’ngày xưa ấy’’ không biết đã được ông bố ca đi ca lại biết bao nhiêu lần. Cứ nhìn cái bản mặt
nhăn nhó của thằng bạn như là sắp bị ‘’Tào tháo’’ rượt, gã thấy nó hậm hực mà nói chẳng nên lời, vì sợ
bị mắng, nên đành phải nhủ thầm trong bụng rằng :

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi, bố ơi.

Cũng từ điểm khác biệt đằng trước và đằng sau, tương lai và dĩ vãng, nên người trẻ thường dám liều,
dám chấp nhận cái mới để rồi khắc phục và làm chủ lấy nó, như chúng ta thường bảo :

- Đâu cần thanh niên có,

Đâu khó có thanh niên.

Phải chăng đây chính là yếu tố quan trọng làm thành ‘’chất trẻ’’ nơi một người…

Trong khi đó, tuổi già thường ngại di chuyển, ngại thay đổi, an phận với những cái đã có. Ấy là gã chưa
nói đến những cụ thích ngủ quên trên chiến thắng và vinh quang một thời của mình.

Vì vậy, thiên hạ vốn thường bảo :

- Một người bị coi là già kể từ lúc người ấy hết dám… liều.

Nếu cứ ngồi kể tội và điểm mặt những khác biệt giữa già và trẻ, thì có lẽ nói mãi, nói hoài cũng chẳng
bao giờ hết, chi bằng bây giờ hay thử đi tìm một dung hòa, một mô hình lý tưởng để cùng chung sống
hòa bình ‘’mí nhau’’.

Theo gã, mỗi tuổi đều có nét duyên ngầm của riêng mình. Buổi bình minh có vẻ đẹp của bình minh và
lúc hoàng hôn có vẻ đẹp của hoàng hôn. Chồi non, có sức quyến rũ của chồi non và trái chín có sức
quyến rũ của trái chín.

Về người già và người trẻ, chúng ta có thể diễn tả như Nguyễn Du :


- Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.

Tuy nhiên cuộc sống vốn thường có những ngịch lý, những ngược đời và những chuyện chéo cẳng ngỗng
của nó, như G. B. Shaw đã viết :

- Có lắm người không khi nào trẻ và vài kẻ không bao giờ già.

Thực vậy, có lắm người không bao giờ trẻ.

Nói cách khác, họ đã đánh mất tuổi trẻ khi mái đầu còn xanh. Họ là những kẻ tuổi đời chưa được bao
nhiêu, thân xác còn phơi phới, thế nhưng tâm hồn họ đã già cỗi và tàn úa. Họ thiếu mất chất trẻ và chất
lửa trong con người.

Có nghĩa là họ không dám liều, không dám chấp nhận cái mới và đối đầu với những đổi thay. Họ bằng
lòng với số phận của mình và lúc nào cũng chỉ xin cho được hai chữ…bình an.

Họ không còn sự hăng say nhiệt thành, trái lại chỉ sống lửng lơ như con cá vàng, mặc dù bề ngoài họ rất
oai phong bệ vệ và sức khỏe tràn trề. Chính vì thế thiên hạ vốn thường gọi họ là những … ông cụ non.

Tiếp đến là có vài kẻ không bao giờ già.

Dĩ nhiên ở đây gã không bàn tới một vài người vì ảnh hưởng của một loại bệnh đặc thù nào đó, khiến
cho họ, dù đã ba mươi mí, những thân xác họ mới chỉ là một đứa trẻ lên sáu, lên bảy như báo chí đã
đăng tải cách đây không lâu.

Gã cũng không bàn tới một vài cụ vì ham vui và thích của lạ mà thiên hạ vốn thường gọi là chơi…..trống
bỏi. Những cụ đầu đã bạc, răng đã long mà vẫn còn đèo bồng vợ nọ con kia, chỉ vì sợ cảnh cô đơn :

- Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

Gã chỉ xin nói đến các cụ tuy đã già mà thực sự vẫn còn trẻ. Vậy các cụ ấy là ai ?

Các cụ ấy được diễn tả là những người “nhân lão tâm bất lão”. Ngoại hình các cụ tuy già, nghĩa là tóc các
cụ đã bạc, răng các cụ đã long, da các cụ đã nhăn nheo và tay chân các cụ đã lỏng lẻo.

Thế nhưng, tâm hồn các cụ vẫn còn trẻ chứ chưa già, nghĩa là các cụ vẵn hăng hái nhiệt thành, dám
chấp nhận cái mới và dám đương đầu với những thay đổi….

Chất trẻ vẫn lưu thông trong máu huyết, trong thân thể già nua của các cụ và lửa vẫn bừng cháy trong
con tim đau ốm của các cụ. Tuy nhiên, số người nhân lão tâm bất lão như thế này, hẳn không nhiều lắm.

Có một thời ở Sàigòn thiên hạ đã gọi nhạc sĩ Phạm Duy là một híppi già. Sở dĩ như vậy, vì tuổi đời đã đè
nặng trên vai ông. Ngay từ hồi gã còn là một thằng bé mặc quần thủng đũng, thì những bài hát của ông
đã được phổ biến sâu rộng.

Thế nhưng, tâm hồn và tư tưởng của ông vẫn còn trẻ. Ông không phải chỉ viết về tuổi trẻ, mà hơn thế
nữa, từng lời ca, từng khuông nhạc của ông đều thoát ra chất trẻ, làm cho người trẻ say mê và thiên hạ
đã không ngần ngại tặng cho ông cái biệt danh là híppi già.

Ngày nay, khắp mọi nơi người ta đều hô hào phải trẻ hóa lãnh vực này, trẻ hóa lãnh vực kia và nhất là
phải trẻ hóa cấp lãnh đạo.

Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật viết :

“Chuyện sẽ không xa lạ một khi nước Nga có thủ tướng 36 tuổi hay là Việt Nam thời gian không xa có
những nhà lãnh đạo, những chính khách lứa tuổi 30-40, nếu như công nghệ trẻ hóa, không chỉ là hạn
mức tuổi tác mà thực sự là cả một quá trình chuẩn bị nhân tài, ươm trồng, vun bón”.

Mẹ chồng nàng dâu, như hai cô ca sĩ có thương nhau bao giờ. Cũng vậy, luôn có một vực thẳm ngăn
cách giữa già và trẻ, giữa trẻ và già.

Trẻ chê già là cổ hủ, lỗi thời và…. khó tính. Gìa chê trẻ là thiếu kinh nghiệm, xốc nổi, ngu đần theo kiểu :
trứng mà đòi khôn hơn rận.

Tuy nhiên, theo gã nghĩ :

- Trẻ phải kính trọng già và học hỏi nơi gìa vốn sống và kinh nghiệm. Còn già thì hãy tìm hiểu, cảm thông
và nâng đỡ cho trẻ.

Có lẽ gã bèn phải mượn lời khuyên sau đây và Alfred de Vigny như một kết luận :

- Bạn ơi, một đời sống vĩ đại là gì ? Nếu không phải là một ý tưởng của tuổi trẻ được tuổi già thực hiện.

Kết luận như thế, chẳng hiểu gã đã lên mặt dạy đời hay chưa ? Và nhất là gã có đáng được phong làm…
hàm cụ non hay chưa ?
ĐẸP VÀ XẤU - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Có những đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm chuyện đời, gã nhận thấy :

- Cục diện thế giới đôi khi chỉ là trò chơi của trẻ nít, cũng kéo bè kéo cánh mà… uỵch nhau. Còn thói đời
nhiều lúc chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi từ thái cực này đến thái cực khác.

Thực vậy, hồi mới giải phóng, nhà nước đa cấp tiệt đua ngựa và xổ số vì cho đó là một thứ cờ bạc trá
hình, cấm tiệt khiêu vũ hay nhảy đầm vì cho đó là đồi trụy, cấm tiệt thi hoa hậu vì cho đó là lạm dụng
thân xác phụ nữ…

Thế nhưng, cùng với thời gian và nhất là cùng với chính sách cởi mở, những cái bị “cấm tiệt” trên kia lại
được phục hồi, và bành trướng một cách mạnh mẽ như nấm mọc sau cơn mưa, đồng thới được khoác
vào một danh nghĩa mới để “chiềng làng”.

Xổ số là để kiến thiết là để xây dựng quốc gia, nên tỉnh nào cũng tranh thủ để mở, rồi xuất hiện thêm
loại vé số “cào” như một thứ mì ăn liền, chỉ cần cào ra là liền biết có trúng hay không. Ấy là chưa kể đến
nạn số đề, số đuôi ăn theo và tràn nan khắp nơi khắp chốn.

Khiêu vũ được gọi là múa đôi, dù có cọ quẹt thì cũng là một hình thức nghệ thuật.

Sau cùng, thi hoa hậu được mệnh danh là một hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao cái “gu” thẩm mỹ của
quảng đại quần chúng. Vì thế, từ hoa hậu của báo Tiền Phong, gã ghi nhận rất nhiều thứ hoa hậu khác
nữa, chẳng hạn như hoa hậu các tỉnh, hoa hậu áo tắm, hoa hậu áo dài, rồi nữ sinh duyên dáng, bà mẹ
thanh lịch…

Vậy thế nào là hoa hậu và người ta đi tìm sự gì qua những cuộc thi hoa hậu ?

Trong một cuộc trình diễn văn nghệ tại viện Đại học Công giáo ở Đàlạt hồi trước năm 1975, có màn chọn
hoa hậu.

Một số nữ sinh viên bước lên sân khấu. Người dẫn chương trình bèn hỏi ý kiến cha viện trưởng :

- Theo ý kiến riêng thì cha bàu ai làm hoa hậu ?

Bị chộp bất ngờ, cha viện trưởng đỏ mặt tía tai, thế nhưng sau cơn bối rối trong giây lát, cha viện trưởng
đã ung dung tuyên bố :

- Tôi chọn cô này.

- Tại sao ?

- Theo tôi nghĩ thì hoa là bông, hậu là sau. Cô này đúng là hoa hậu, vì có một bông hồng được thêu vào
vạt sau áo dài của mình.

Cả hội trưởng đều nhiệt liệt vỗ tay không phải để tán thương câu định nghĩa “chày cối” của cha viện
trưởng, nhưng để khen ngợi sự nhanh trí của cha trong một tình huống tế nhị và rất… khó nói.
Theo sách vở, hoa hậu là người con gái được về nhất trong cuộc thi sắc đẹp, chẳng hạn : hoa hậu thế
giới, hoa hậu Châu Á, hoa hậu Việt Nam…

Trong những cuộc thi này, người ta đi tìm một cái đẹp khách quan. Vì thế, người ta phải công bố số đo
vòng một , vòng hai, vòng ba, chiều cao và trọng lượng. Còn thí sinh thì ít ra cũng phải một lần lên sân
khấu trong bộ áo tắm để cho thiên hạ… chiêm ngưỡng.

Người ta còn treo những giải thưởng khuyết khích cho những “miss” nào có nụ cười duyên, có mái tóc
đẹp, có cặp giò thon và có tấm ảnh bắt mắt.

Để sửa sang và chỉnh đốn cho cái hình dong bên ngoài này, người ta đã tốn không biết bao nhiêu công
sức và tiền bạc. Đây quả là một nghệ thuật xứng đáng với đồng tiền bát gạo.

Trước hết, giới thày thuốc đã nhảy vào vòng chiến. Với lưỡi dao giải phẫu, các vị đã cắt chỗ này xẻ chỗ
kia và bơm chỗ nọ theo nhu cầu thẩm mỹ và theo sự đòi hỏi của khách hàng.

Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc oái ăm, những người muốn làm đẹp chẳng may gặp phải những ông
lang băm, những vị thày thuốc dổm, thì chẳng những tiền mất tật mang, mà hơn thế nữa cái sắc đẹp ít
ỏi của mình lại sớm tàn phai, ấy là chưa kể tới những bệnh tật và đau đớn như hậu quả tất nhiên của sự
trục trặc này.

Chẳng hạn như bị rò rỉ chất silicom, được dùng để độn cho bộ ngực thêm phần gồ ghề và nhức nhối hay
vì tác dụng của kem mà làm cho khuôn mặt bị nám đen…

Người ta thường bảo :

- Nhân sao vật vậy.

Thế nhưng, trong lãnh vực làm đẹp thì lại không phải vậy.

Nơi loài vật, con đực thường hay làm đẹp và làm dỏm để lấy le và lấy điểm với con cái. Vì thế trong tiếng
Pháp, danh từ ‘’Coquetterie’’ có nghĩa là sự làm dáng, bắt nguồn từ chữ ‘’coq’’ có nghĩa là anh gà trống!

Nơi loài người thì khác, đờn bà con gái vốn được coi là phái đẹp, và nghệ thuật làm đẹp vốn là nghề của
quí nường. Thậm chí có kẻ đã tuyên bố một cách hung hăng con bọ xít như sau :

- Là đờn bà con gái, mà nêu không biết làm đỏm mí lại ăn quà vặt thì hỏng còn là đờn bà con gái nữa.

Xét về những nơi những chốn được làm đẹp, gã nhận thấy rằng :

- Hễ hở ra chỗ nào thì quí nường liền vội trang điểm chỗ ấy liền tù tì.

Từ cái răng cái tóc là góc con người, đến cái môi cái miệng để mà mần duyên thậm chí đến cả cái móng
chân móng tay đều được quí nường trau chuốt một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng.

Chỉ có các nhà chế tạo mỹ phẩm là hốt bạc. Nguyên dầu gội đầu mà thôi thi cũng đã có biết bao nhiêu
thứ, đến quỉ thần cũng không nhớ nổi. Nếu có dịp, gã sẽ phệu ra một bài về nghệ thuật làm đẹp của quí
nường.

Chỉ tội nghiệp cho cánh đờn ông con giai như gã có khi phải ngồi chờ cả giờ cho cô em gái bé bỏng trang
điểm, hay anh chàng gà tồ bị người yêu nhõng nhẽo cho trễ hẹn vài tiếng đồng hồ chỉ vì những việc lỉnh
kỉnh ấy, thì cũng chỉ là…chuyện thường ngày ở huyện.

Chớ có dại mồm dại miệng mà thở dài thở vắn, mặt xệ xuống như bánh bao chiều, hay đùng đùng tức tối
như ‘’tặc dăng’’ nổi giận. Hãy tự an ủi lấy mình :

- Đây là một dịp thuận tiện để ta tập đức kiên nhẫn, luyện nội công cho mạnh. Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ
được cứu thoát.

Thế nhưng, cái đẹp khách quan, cái đẹp có cân đo đong điếm này thì lại rất hiếm và kéo dài chẳng được
bao lâu, vì có tuổi trẻ nào mà lại không già, có sắc đẹp nào mà không bị tàn phai.

Hay như dân Đức vốn thường bảo :

- Phàm trên cõi đời này có ba thứ phù du hơn hết : đó là tiếng dội, mống trời và nữ sắc.

Vì thế, khi nói đến cái đẹp, chúng ta thường hiểu là cái đẹp chủ quan, cái đẹp ‘’hợp nhãn’’ với mình.

Đúng vậy, Voltaire đã tự hỏi :

- Thế nào là đẹp ?

Và ông đã mày mò đưa ra một câu trả lời bất hủ và hóm hỉnh. Ông nói :

- Đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực.

Thực vậy, một khi tình yêu đã thâm vào hai bên đã ‘’chịu đèn’’ mí nhau, thì cái nhìn chủ quan sẽ tô hồng
mọi sự :

- Yêu nhau trăm sự chẳng nề,

Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

Thậm chí ngay cả đến những chỗ khuyết điểm, người ta vưỡn cứ thấy tuyệt vời :

- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,

Trái bồ hòn cũng ngọt.

Ngay cả đến những chỗ xấu, người ta vưỡn cứ thấy đẹp tuốt luốt :

- Mũi nàng những tám gánh lông

Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.


- Đêm nằm thì ngáy o o

Chồng thương chồng bảo gáy cho vui nhà.

- Đi chợ mất tám tiền quà

Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Vì thế, có những cô nường xét về ngoại hình, với cái nhìn khách quan, thì sẽ bị xếp vào hàng thị Nở
trong Chí phèo của Nam Cao, hay Chung vô Diện trong kiếm hiệp của Kim Dung, nghĩa là dưới điểm
trung bình xa lắc xa lơ, thế mà vẫn đắt giá, vớ được những ông chồng ngon lành cả về thể xác xác lẫn
tinh thần, cả về tiền bạc lẫn địa vị, khiến cho thiên hạ phát thèm, nằm mơ cũng chẳng được, chỉ vì
những cô nường này có được những nét duyên… thầm.

Còn khi tình yêu đã chắp cánh bay đi, thì cô nường xinh đẹp thưở ban đầu liền trở thành ‘’cái con mụ
nọ”, “cái con mẹ kia”, để rồi anh chồng đi lang thang tìm kiếm của lạ, theo kiểu :

- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.

Hoặc :

- Vợ là địch,

Bồ bịch mới thật là ta.

Khi chiến sự xảy ra,

Ta buộc về với địch,

Nằm trong lòng địch,

Ta vẫn nhớ đến ta.

Khi không còn say men tình yêu nữa, thì cái ngày xưa người ta bảo là “cho vui nhà”, thì bây giờ lại trở
thành nguyên nhân gây nên đổ vỡ. Người ta lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ly dị chỉ vì ông chồng hay bà
vợ có tật…”kéo gỗ” mỗi khi nằm ngủ.

Hay như tục ngữ đã diễn tả :

- Còn duyên anh cưới ba heo,

Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.

Xem như vậy, cái đẹp khách quan cũng như chủ quan đều khó lòng đứng vững với thời gian. Vì thế, đờn
ông con giai và nhất là đờn bà con gái cần phải tìm kiếm cho mình một cái đẹp vượt thời gian, một cái
đẹp tự bên trong, xuất phát bởi những nhân đức, chứ không phải là cái đẹp hời hợt bên ngoài, dù có
mặn mòi đến đâu chăng nữa cũng không thể đi xa hơn…làn da!

Chính những nhân đức mới tạo nên cho chúng ta một cái đẹp vượt thời gian, một nét duyên thầm làm
cho người khác phải cảm phục và say đắm.

Các cụ ta ngày xưa đã sớm nhận ra nét duyên ngầm vượt thời gian này, nên đã bảo :

- Cái nết đánh cái đẹp.

Hay như một câu tục ngữ khác đã nói :

- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.

Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu chuyện như thế này.

Dương Chu sang nước Tống, đến trọ ở một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người đẹp và
một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp
đẹp.

Lấy làm lạ, Dương Chu bèn dò hỏi một đứa nhỏ trong nhà trọ. Nó trả lời :

- Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp nên mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu
tự biết là xấu, nên quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của nàng nữa.

Bấy giờ Dương Chu gọi đám học trò lại và bảo :

- Các con hãy nhớ lấy câu ấy. Kẻ giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đến đâu cũng được
mọi người tôn trọng và yêu mến.

Kể lại câu chuyện này, tác giả sách “Cổ học tinh hoa” đã góp thêm lời bàn của mình như sau :

- Đờn bà đẹp mà tự cao tự đắc, người ngoài chỉ thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét, chứ không còn thấy
vẻ đẹp đáng yêu nữa. Trái lại, đờn bà xấu, tự thẹn mình là xấu, thì người ngoài chỉ thấy cái nét dịu dàng
đáng thương, chứ không còn thấy cái xấu xí đáng ghét của nàng nữa. Người đẹp mà bị khinh, còn kẻ xấu
mà được quí là như thế đó.

Cũng từ câu chuyện trên, gã nhớ lại một câu tục ngữ :

- Người xấu duyên lặn vào trong,

Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.

Phàm cái gì đã bong ra ngoài thì khó mà bền. Còn cái gì đã thấm vào trong thì càng lâu lại càng thắm.

Viết tới đây, thì hình ảnh mẹ Têrêxa thành Calcutta bỗng tỏa sáng trước mặt gã. Mẹ Têrêxa đứng bên
vương phi Diana, quả là hai thái cực trái ngược nhau.

Vương phi Diana là một cô gái cao ráo, đẹp đẽ. Gã chỉ nói đến cái “hình dong bên ngoài”, chứ chả dám
đá động tới những khía cạnh khác, chẳng hạn như : địa vị xã hội, tình cảm cá nhân…

Trong khi đó, mẹ Têrêxa chỉ là một bà lão không hơn không kém. Thân hình thì thấp bé, họa chăng có
cao hơn ông Giakêu được một tí xíu. Còn mặt mũi thì nhăn nheo, mang nặng dấu ấn của thời gian. Áo
quần thì thùng tha thùng thình…

Thế mà lúc còn sống, mẹ đã được biết bao nhiêu người quí mến và khi nằm xuống, mẹ đã được biết bao
nhiêu người thương tiếc. Sở dĩ như vậy cũng chỉ vì cái đức của mẹ.

Phải, cái đức của mẹ chính là nét duyên thầm thu hút mọi người và làm cho cả và thế giới phải khẩu
phục tâm phục mẹ hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Hình như có một câu danh ngôn, đại khái khuyên chúng ta như thế này :

- Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều vui mừng hớn hở, còn con lại cất tiếng khóc. Con
hãy sống thế nào, để khi con nhắm mắt buông tay, mọi người sẽ khóc thương, còn con sẽ vui mừng hớn
hở.

Nét duyên thầm vượt thời gian này ai cũng có thể thực hiện được mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc để chạy
ra cửa tiệm, lôi về đủ thứ mỹ phẩm lỉnh kỉnh. Đúng thế, ai cũng có thể và phải làm được miễn là biết
kiên nhẫn và cố gắng.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện về một người vợ xấu.

Nguyễn Thị là vợ của Hứa doãn, nhan sắc thuộc loại ma chê quỉ hờn.

Khi cưới về, thấy nàng xấu quá, Hứa doãn muốn bỏ đi bèn nói :

- Đờn bà có tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh. Nàng được mấy ?

Nguyễn Thị liền thưa :

- Thiếp chỉ kém có dung mà thôi.

Rồi nàng hỏi lại :

- Kẻ sĩ có bách hạnh, chàng được mấy ?

Hứa doãn đáp :

- Ta có đủ cả.

Nguyễn Thị nói :


- Trong bách hạnh thì đức là đầu. Chàng là kẻ hiếu sắc chứ không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ cả bách
hạnh được ?

Nghe vậy, Hứa Doãn lấy làm xấu hổ và từ đó luôn yêu thương kính trọng vợ mình.

Thái độ của Hứa Doãn có lẽ chưa đủ để đánh thức những kẻ háo sắc hôm nay. Bởi vì rất nhiều người vẫn
cắm đầu cắm cổ chạy theo cái đẹp bên ngoài mà quên cái đẹp bên trong.

Và mỗi lần đọc trên báo thấy những mẫu quảng cáo tìm người :

- Cần tuyển nữ nhân viên có ngoại hình đẹp.

Gã lại ngậm ngùi cho thói đời và xót xa cho những cô “em-gái-trời-bắt-xấu”.

Thế rồi, gã bèn thở dài thườn thượt và mặt lại cứ dài thoòng ra như…mặt ngựa.
THƯƠNG HẠI - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Ngày xửa ngày xưa, có một ông tây chính hiệu “Phú lãng sa”, trong người đặc sệt dòng máu “Gô loa”,
nhãn hiệu con gà trống. Thế nhưng ông tây này lại yêu đến chết mê chết mệt một “cô em Bắc kỳ nho
nhỏ”.

Và khi đã yêu ai như điếu đổ, người ta sẵn sàng yêu cả đường đi cùng với mọi tông chi họ hàng. Vì thế,
ông tây này cũng xơi thịt chó như điên, cũng húp canh cua rau đay chùn chụt, cũng dùng cà ghém quệt
đẫy mắm tôm và bắn thuốc lào kêu ro ro như bắp nổ. Đặc biệt, ông tây này đã hết lời ca ngợi tiếng Việt
của dân ta.

Hình như trong một bài báo, ông tây này đã bạo phổi cả gan gọi tiếng Việt của dân ta là “mère des
langues”, nghĩa là mẹ của các ngôn ngữ.

Và rồi ông tây này đã đưa ra lập luận của mình, gã chỉ còn nhớ mang máng, xin ghi lại nơi đây để trình
làng, đồng thời có thêm mắm thêm muối tí chút cho rộng đường dư luận.

Ngôn ngữ cổ xưa nhất phải là ngôn ngữ độc âm, tượng hình và tình cảm, giống như một đứa bé khi mới
học nói, nó chỉ nói được từng tiếng một và diễn đạt những cái cụ thể, gần gũi với nó nhất.

Dưới góc độ này thì tiếng Việt của dân ta thừa sức qua cầu. Thực vậy, như chúng ta đã thấy tiếng Việt
của dân ta tự bản chất vốn đã là một ngôn ngữ độc âm, từng tiếng một và hơn thế nữa những ngôn từ
thông dụng, cụ thể và gần gũi nhất đều xuất phát từ….tiếng Việt.

Chẳng hạn như người Việt chúng ta gọi “Ba”, thì người Pháp gọi là papa hay père, còn dân Ăng lê thì gọi
là father. Người Việt chúng ta gọi “Má, Mẹ” thì người Pháp gọi là maman, mère, còn dân Ăng lê thì gọi là
mather, người Tàu thì gọi là mẫu…

Riêng cái khoản tượng hình và tình cảm thì tiếng Việt của dân ta hẳn phải ăn đứt thiên hạ.

Chẳng hạn chỉ một màu trắng mà thôi, trong tiếng Việt, đã có biết bao nhiêu mức độ đậm nhạt khác
nhau như : trắng bạc, trắng bệch, trắng bong, trắng bốp, trắng dã, trắng đục, trắng hếu, trắng mét,
trắng mịn, trắng mởn, trắng ngà, trắng ngần, trắng nõn, trắng phau, trắng phếu, trắng tinh, trắng tuốt…

Trong phạm vi tình cảm cũng vậy, chỉ nguyên cái chuyện giận mà thôi cũng đã thấy nhiêu khê và rắc
rối : giận bậy, giận cùn, giận dai, giận dữ, giận giỗi, giận hờn, giận lẫy, giận phừng phừng, giận run cả
người, giận tím cả gan, giận bể cả phổi, giận sôi cả tim….

Có lần gã định dịch một câu hát của Trịnh Công Sơn qua tiếng Pháp :

- Nắng có hờn hằn lên môi em…

Rốt cuộc, gã đành chào thua. Có thể vì khả năng tiếng “phăng xe” của gã còn yếu kém, nhưng cũng có
thể vì cái nắng, cái hờn trong tiếng Việt Nam có những “gam”, những mức độ đậm đặc tuyệt vời khó mà
diễn tả.

Gã không chuyên về ngôn ngữ học, nên chẳng hiểu lý luận trên đây của ông tây này được ban giám
khảo chấm cho được mấy điểm.
Riêng phần gã, gã hoàn toàn “ khẩu phục, tâm phục” cách ghép chữ của ông cha ta ngày trước. Gã chỉ
xin đưa ra một vài thí dụ điển hình mà thôi.

Chẳng hạn : “học hành”, đã học thì phải hành, nghĩa là phải làm, phải thực hiện thì mới ăn tiền. “Đạo
đức” nghĩa là đạo giúp chúng ta trở nên người nhân đức, vì thế đã có đạo thì phải sống tốt lành nếu
không thì chỉ bằng thừa mà thôi. “Nhường nhịn” đã nhường nhau thì cũng phải nhịn nhau, dù người ta có
chửi cha chửi mẹ, đào mồ tổ tiên ông bà hay cho ăn những thức cao lương mỹ vị thì cũng phải cắn răng
chịu vậy, bởi vì đã nhường thì phải nhịn và nhịn như vậy thì lắm lúc cũng…nhục lắm. Thế mới gọi là nhịn
nhục chứ.

Trong mục “tán hiêu tán vượn” hôm nay, gã chỉ xin bàn đến hai chữ “thương hại” mà thôi. Đây quả là hai
chữ tuyệt vời và hết ý.

Thực vậy, tình thương là một cái gì tốt đẹp như khi cha mẹ thương yêu con cái mình. Tình thương là một
lý tưởng cao cả cần phải được cổ võ. Chẳng hạn trước những đồng bào gặp phải thiên tai như bão lụt,
chúng ta nên biểu lộ tình thương một cách cụ thể theo kiểu : thương người như thể thương thân, lá lành
đùm lá rách, còn lá rách thì cũng cố mà đùm lấy lá…te tua.

Thế nhưng trong đời thường lại có biết bao nhiêu kiểu thương vô cùng tai hại, mà hậu quả nhiều khi khó
lường nổi.

Trước hết trong phạm vi gia đình.

Có những bậc cha mẹ vì thương con, sợ con phải cực, phải nhọc, phải đau nên sẵn sàng “bao cấp”, làm
hết mọi việc cho nó, biến nó trở thành một thứ “cô chiêu, cậu ấm”, chỉ biết đòi hỏi, bắt người khác phục
vụ, chẳng biết khuôn mình vào một kỷ luật tối thiểu nào cả, luôn ỉ lại và không bao giờ biết tự chủ lấy
một ly ông cụ.

Bên cạnh nhà gã có một cặp vợ chồng già sinh được một mụn con trai. Hai ông bà hết sức muông chiều
cậu ấm như người ta diễn tả :

- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

Thấy bọn nhóc tập xe đạp, cậu ấm cũng đòi tập, những hai ông bà kiên quyết nhất trí không cho vì sợ
cậu ấm té ngã, trầy da tróc vẩy, toạc đầu xẻ chân…Vì vậy cho tới già, cậu ấm vẫn không biết đi xe đạp
và mang một nỗi mặc cảm với chúng bạn.

Có những bậc cha mẹ vì thương con nên hết sức cưng chiều. Nó đòi gì là lập tức cho ngay, thậm chí còn
thỏa mãn ngoài nhu cầu của nó. Từ chỗ có tiền, nó đâm đua đòi bè bạn học thói xì ke ma túy. Từ chỗ xì
ke ma túy bước sang trộm cắp, khoảng cách rất gần, chả cần đến một cú nhảy vọt.

Gã xin lượm lặt những mẩu tin trong báo Công an để chứng tỏ sự thật bi đát trên.

“…Thành là con út trong gia đình nên rất được ông bố cưng chiều. Cậu quí tử này đã đàn đúm cùng lũ
bạn xấu tập tành hút xách. Thương con cách mù quáng, thay vì đưa con đi cai nghiện, ông bố lại còn
đưa thêm tiền để nó thỏa mãn cơn nghiện. Ngày 6.11.1997, do không chịu nổi cơn ghiền, Thành đã về
nhà dí dao vào cổ ông bố, bắt ông phải đưa tiền cho hắn…

“…Vì cha mẹ cho rằng học nhiều cũng chẳng đi đến đâu, nên đã mười mấy tuổi, Toàn vẫn còn là một
“thằng bé lêu lổng”, ngỗ nghịch. Nhà gần chợ, suốt ngày Toàn lê la quán xá, học đòi ăn chơi và không
biết từ bao giờ nó đã nghiện…ma túy. Nghe tin dữ ấy, cha mẹ Toàn chỉ còn biết mắng vuốt đuôi một trận
te tát, sau đó đâu lại vào đấy. Cuộc mưu sinh cuốn họ vào những lo toan “cơm áo gạo tiền”. Việc Toàn
nghiện hút được gia đình mặc nhiên thừa nhận như thể đó là chuyện phải đến với một thằng bé 15 tuổi.
Thời gian đầu chưa kiếm được tiền, Toàn tự trích lại một phần thuốc bán được 5.000đ để dành cho cữ
ngày hôm sau. Hết tiền thì mua chịu, ký nợ. Cứ như thế, từng ngày từng giờ Toàn lún sâu vào nghiện
ngập, lún sâu vào việc buôn bán ma túy…

Có những bậc cha mẹ vì thương con, nên khi con sai lỗi, đã không sửa dạy mà con dấu diếm và bênh
vực những sai lỗi ấy. Chẳng hạn như trong trường hợp của Toàn trên kia. Tại tòa án, khi được hỏi thì bà
mẹ của Toàn đã thản nhiên trả lời :

- Tôi biết nó hút héroin, nhưng vì nó còn bé, đưa đi cai nghiện thì tội nghiệp…Tôi cũng biết nó bán
héroin, mấy lần nó còn nhờ tôi bán giúp. Thỉnh thoảng nó cho tôi ba, bốn chục ngàn. Tôi nghĩ con cái có
tiền cho thì xài, không cần hỏi lại.

Rất nhiều chuyện cỏn con không đâu của đám con nít, nhưng chỉ vì bênh con nên đã hóa thành chuyện
lớn làm mất đi bàu khí êm ấm và cảm thông trong khu xóm : bênh con, lon xon mắng láng giềng là vậy.

Tiếp đến trong phạm vi xã hội.

Cũng có nhiều kiểu thương mà rất hại. Gã chỉ xin đưa ra một trường hợp cụ thể đó là nạn ăn xin.

Tác giả Nguyễn thị Oanh trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật đã phân tích như sau :

“Không nói đến người già cả, tàn tật, cô thế mà ta có nhiều cách nâng đỡ, chứ không chỉ máy móc cho
tiền, người còn sức lao động sẽ ỷ lại, chai lỳ. Đó là cái hại thứ nhất.

“Việc kiếm tiền dễ dàng khiến cho nhiều người lấy xin ăn thành một nghề. Như vậy cái hại thứ hai của cử
chỉ ban phát là tạo một lớp người ăn bám.

“Hơn thế nữa, ta còn góp phần tạo ra tội phạm là những kẻ giả dạng thày tu, thương binh và nghiêm
trọng hơn nhiều, ta góp tay vào nạn lạm dụng trẻ em để làm công cụ xin ăn. Có em bị gây thương tật, bị
cho uống thuốc ngủ và nội chuyện phơi nắng suốt ngày…. cũng đã đủ nhức nhối.

Để gợi lòng thương, dân ăn xin dám làm những chuyện thật tai hại khác. Ngoài việc lạm dụng trẻ em,
còn một số mánh đã được báo Công an mô tả.

“…Phổ biến nhất là chuyện tạo ra thương tật giả, lấy sự bi đát ghê rợn để diễn cảm hầu kích thích lòng
nhân ái, từ tâm. Những “dan chơi bất cần thân thể” này chẳng sợ hoại thư, chẳng cữ bất cứ vi trùng gì,
cứ “triển lãm sản phẩm” là những vết lở loét rất kinh tởm, mủ máu, ruồi nhặng bu đầy, có thế mới ép
phê, mới tạo sự xót xa để rồi khổ chủ càng lòi nhiều tiền ra.

Trong phút nói thật, có kẻ đã tiết lộ bí quyết như sau : Ban đầu chỉ là một vết cào xước bằng đá xanh tự
làm lấy, tự tạo ra. Rồi một nắm tóc được ngâm lâu trong nước tiểu, rịt vào, băng thật kín lại, vết loét sẽ
lan rộng sau một tuần bị bí hơi và không được rửa ráy, bôi thuốc, mà còn phải ăn hằng ngày xôi đậu
phộng, bánh tét…để vết thương lồ lộ cho ruồi muỗi bu vào đẻ đái, kết quả một tháng thôi đã quá đủ để
bá tánh đi chợ nhăn mặt, sẵn 200, 500 tiền thối đáng gì cho họ làm phước, tội nghiệp.

Để cho mắt sưng lên, chảy cả mủ lẫn ghèn, trông như đui đến nơi, chúng chỉ cần nhỏ vài giọt mủ xương
rồng.

Để tạo cảm giác mạnh với một dúm ruột máu me đỏ hỏn lủng lẳng trước bụng, chúng dùng đoạn ruột
heo rửa sạch bôi thuốc đỏ, đặt ở bụng, rồi dùng bao nylon ém lại, lấy giây buộc quanh bụng. Qua lớp
nylon cáu bẩn thật là khó phân biệt, hơn nữa đã có mấy ai được biết ruột thật ra sao ?

Để vừa bò vừa lết, chúng nằm sấp trên chiếc xe đẩy tự tạo, một chân gập ngược ra sau, buộc cho chặt,
sau đó phủ lên trên bằng lớp quần áo cũ rách…

Qua những mánh được xử dụng trong nghề ăn xin như vậy, có lẽ nên tự hỏi xem mỗi khi bố thí, mình sẽ
làm cho họ vươn lên hay ngược lại, sẽ làm cho họ ỉ lại, đảy họ vào chỗ phụ thuộc, ăn bám và đánh mất
lòng tự trọng. Thương như vậy quả là thương mà hại.

Sau cùng trong phạm vi quốc tế.

Cũng không thiếu những kiểu thương mà hại. Một nước giàu viện trợ cho một nước nghèo, trước mặt
bàn dân thiên hạ, thì đó là một hành động biểu lộ tình thương. Thế nhưng hành động biểu lộ tình thương
này không phải là không có những tác hại của nó.

Nếu viện trợ về súng ống, đạn dược, thì họ đảy chúng ta vào vòng chiến tranh, làm cho quê hương bị
rách nát hầu nuôi sống ngành công nghệ chế tạo vũ khí của họ.

Nếu viện trợ về tiền bạc, thì họ làm cho chúng ta bị lệ thuộc một cách êm ái. Khi muốn gây áp lực, chỉ
cần cúp viện trợ, lập tức chúng ta bị xính vính và xin qui thuận vô điều kiện như một chư hầu ngoan
ngoãn và dễ bảo.

Ngoài ra những đồng tiền bất hạnh này còn tạo ra một thứ phồn vinh giả tạo, ru ngủ chúng ta trong việc
phát triển kinh tế, để rồi không cần thắt lưng buộc bụng, ăn xài theo kiểu bóc ngắn cắn dài, con nhà lính
tính nhà quan, nên đã lệ thuộc thì lại càng lệ thuộc hơn nữa, bằng không chẳng sớm thì muộn cũng sẽ
sụp đổ về chính trị cũng như về kinh tế.

Hôm nay dám xía vô lãnh vực chính chị chính em thì quả là bạo phổi, vì lãnh vực này gã chẳng hề có tí
hiểu biết nào sốt, đúng là múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm…Ví bằng có điều gì sai sót,
thì gã xin…rút.

Trở về với lãnh vực đời thường nhỏ bé, gã xin kể lại một kinh nghiệm bản thân.

Hồi sống trên Đàlạt, gã có một bà dì. Gia đình bà dì này cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Ông chú đi làm
không đủ chi bởi vì họ có những tám đứa con.

Nhiều lúc bà dì đã cầu viện gã giúp đỡ. Hoàn cảnh của gã lúc bấygiờ cũng chẳng khấm khớ gì cho lắm,
bởi còn đang trong kiếp học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Chắt chiu vét hào bao thì cũng chỉ được
mấy chục ngàn. Mà mấy chục ngàn thì có là bao, đánh vèo một cai là đã hết. Đúng là của vào nhà khó
như gió vào nhà trống.

Nằm vắt chân lên trán để tìm kế giúp đỡ sao cho có hiệu quả. Cuối cùng sau nhiều ngày tháng tiết kiệm,
nghĩ tới nghĩ lui, gã bèn mua tặng cho bà dì một chiếc máy may cũ hiệu Sinco.

Thế rồi, cũng từ chiếc máy may này, đời sống kinh tế dần dần được cải thiện. Mấy đứa nhỏ đi học về,
bèn chia phiên nhau may gia công giúp mẹ. Thời gian sau, bà dì gã tậu thêm được một chiếc máy nữa, vì
cũng lắm…con gái. Kinh tế không những được bảo đảm mà còn có mòi phất lên là đàng khác.

Viết đến đây, gã bèn nhớ tới một câu thành ngữ của người Tàu :

- Thụ chi dĩ ngư, cần cung nhất phạn chi nhu, giáo nhân dĩ ngư, tắc chung thân thụ dụng vô cùng. Nghĩa
là trao cho người ta con cá thì chỉ giúp được một bữa ăn, dạy cho người ta biết câu cá thì người ta suốt
đời được hưởng dụng vô cùng.

Chẳng hiểu câu thành ngữ này có thể trở thành một đường lối cho chúng ta trong việc giúp đỡ người
khác và một chính sách trong việc viện trợ cho các nước nghèo hay không ?

Còn gã, khi trích dân câu thành ngữ này của người Tàu, liệu có đáng mặt ….cụ đồ hay “nho chùm” không
đấy chứ ?
TÌNH YÊU THỜI MỞ CỬA - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Khi học về lịch sử Việt Nam, gã còn nhớ một trong những nguyên nhân khiến người Pháp đem quân
chiếm đóng và dày xéo quê hương này, đó là chính sách “bế môn tỏa cảng” của vua chúa triều Nguyễn.

Thời bấy giờ, người Pháp đang cần thị trường để tiêu thụ hàng hóa, mở rộng bờ cõi, phát huy quyền lực
và ảnh hưởng của mình. Thế nhưng, luật “cấm vận” và nghỉ chơi của triều đình Huế đã làm cho người
Pháp đánh rơi bổn tính ga lăng của dân Gô loa, để rồi nổi máu yêng hùng “Tạc dăng”, biểu lộ ý đồ xâm
lăng đen tối của mình.

Và dân tộc Việt Nam khốn khổ đã bị tròng vào cổ cái ách một-trăm-năm-nô-lệ-giặc-Tây.

Thế nhưng, các cụ ta ngày xưa hình như rất khoái món bế môn tỏa cảng và cấm vận này, nên đã bê
nguyên con mà ấp dụng trong lãnh vực tình yêu.

Thực vậy, hồi đó khi con trai và con gái mới lớn lên thì bị cấm tiệt, không được giao du quen biết nhau,
theo khẩu hiệu từ ngàn xưa đã để lại :

- Nam nữ thọ thọ bất thân.

Khi đến tuổi đi lập gia đình, thì phải tuyệt đối vâng lời quí vị phụ huynh :

- Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó.

Và tiêu chuẩn quí vị phụ huynh thường đặt ra để cho con cái mình được ngoi vào, đó là môn đăng hộ đối
: phải cân bằng về tuổi tác, về địa vị, về kinh tế…Vì vậy, nhiều lúc đã xảy ra những chuyện thật chéo
cẳng ngỗng :

- Mẹ em tham thúng xôi rền,

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh hưng.

Em đã bảo mẹ rằng đừng,

Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.

Bây giờ chồng thấp vợ cao,

Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.

Lắm khi hai ông bố ngồi chén thù chén tạc, rồi kết tình xui gia mí nhau, ngay cả lúc hai trẻ chưa mở mắt
chào đời, vì thế mới xảy ra cái cảnh :

- Bồng bồng cõng chồng đi chơi,

Đi đến chỗ lội đánhrơi mất chồng.

Cho tôi mượn chiếc gàu sòng,


Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.

- Lấy anh từ thuở mười ba,

Đến năm mười tám, thiếp đà năm con,

Ra đường thiếp hãy còn son,

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Luật bế môn tỏa cảng này còn được biểu lộ một cách rõ rệt nhất qua chủ trương :

- Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.

Hay :

- Ta về ta tắm ao ta,

Dầu trong dầu đục, ai nhà vẫn hơn.

Hồi đó, hẳn chưa có lý lịch trích ngang để nắm vững đối tượng, nhưng nhờ chủ trương này, các cụ vẫn
biết rõ kẻ mình định chọn.

Hơn nữa, sau khi gả bán, các cụ còn mua đứt đường về và tình nghĩa cho con cái :

- Có con mà gả chồng xa,

Trước là mất nghĩa sau là mất con.

Hay là kiếm chác tí đỉnh lợi lộc để bù lỗ :

- Có con mà gả chồng gần,

Có bát canh cần nó cũng đem cho.

Đến thời Pháp thuộc, hay Mỹ thuộc chăng nữa, lập trường này vẫn còn được tuân giữ nghiêm chỉnh.
Những cuộc hôn nhân “dị chủng” hay “đa quốc gia” năm thì mười họa mới xảy ra và những kẻ trong cuộc
đều bị thiên hạ coi khinh bằng nửa con mắt với tên gọi là “me tây” hay “me mẽo”, cho dù đôi lúc những
cuộc hôn nhân này cũng đã thành công.

Thực vậy, có những anh chàng mẽo phong nhã cũng xơi tiết canh lòng lợn như điên, cũng nhậu thịt chó
riềng mẻ và nhâm nhi ly rượu đế đến say khướt có bợ mà mồm thì vẫn cứ ngân nga :

-Sống trên đời ăn miếng dồi chó,

Xuống âm phủ biết có hay không ?


Cũng ăn cà ghém và khi ăn còn quết mắm tôm thật đậm, đến như gã, dân ghiền mắm tôm hạng nặng
cũng đành phải chào thua.

Có những chàng hoàng tử mắt xanh mũi lõ tỏ ra hào hoa “mí” người tình bé bỏng an nam mít, đến độ
nhớ nhung phát ốm tương tư :

- Dê cờ ri tình thơ uyn lét,

Để cho nàng con nét mông cơ.

Nghĩa là :

- Viết lên một bức thư tình

Để nàng biết rõ lòng mình đắm say.

Có một ông chồng tây chính hiếu con nai vàng, ngày kia dẫn bà vợ an nam mít đi sắm đồ. Thấy vợ kêu :

-Tré sô (tres chaud), nghĩa là quá nóng

Ông chồng dư máu ga lăng liền

vội vàng mua lấy mua để kẻo bà vợ mi nhon bị cái nắng nhiệt đới hành hạ. Thế những khi về đến nhà,
ông chồng tây liền bị bà vợ việt xài xể cho một trận tơi bời hoa lá :

- Ối giời ơi, ngu chi ngu lạ, người ta bảo “ tré sô” thì phải hiểu là “trố se” (trop cher) nghĩa là quá đắt. Nói
lóng đấy… bò ạ.

Và ông chồng tây chỉ còn nước trố mắt ngạc nhiên, tay giơ lên trời và miệng thì không ngừng kêu :

- Ố là là, ố là là.

Nếu lỡ bị nàng cho leo cây hay đá dăng cu lơ thì cũng đắng cay chua xót :

- Từ ngày lủy kít tê dơ

Bon nơ cũng lắm, ma lơ cũng nhiều.

Nghĩa là :

Từ ngày mình bỏ rời nhau,

Mừng vui cũng lắm, khổ đau cũng nhiều.

Sau ngày giải phóng, đất nước mình được hoàn toàn độc lập tự do, nhưng tinh thần cấm vận, nghỉ chơi
vẫn được thi hành một cách triệt để, nhất là đối với dân tư bản.
Cũng dễ hiểu thôi, bởi vì ta phải đề cao cảnh giác, kẻo địch lợi dụng những sơ hở để chống phá cách
mạng. Bởi đó, việc đầu tiên cần phải làm ngay là xin mời quí vị ngoại quốc về quê ngồi chơi xơi nước để
ta ổn định việc nhà, vì có tề gia thì mới trị quốc và bình thiên hạ.

Tiếp đến là phải dè chừng những kẻ có liên hệ với nước ngoài. Gã còn nhớ hồi bấy giờ gã đang cắm dùi
tại một vùng vừa sâu lại vừa xa, thư từ liên hệ với bạn bè thật là khó khăn.

Thư về đến xã thì bị mất tích, phiêu diêu miền cực lạc, hay được những bàn tay tò mò tọc mạch ưu ái
mở ra xem trước. Buồn tình, gã mới nhờ địa chỉ của một người thân trên tỉnh, thế mà cũng được công an
sờ gáy :

- Anh có một hòm thư bí mật trên tỉnh. Anh liên hệ với ngoại quốc. Anh là người được Xịa cài lại hả ?

Hồi bấy giờ vượt biên bị coi là phản quốc, phản dân tộc và những gia đình có thân nhân ra nước ngoài
lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị công an chiếu cố hỏi thăm, vì dù sao mình cũng mang lấy mặc cảm tội
lỗi.

Trong thời gian này, đốt đuốc đi giữa ban ngày cũng chả tìm thấy một cuộc tình đa quốc gia.

Nhưng rồi con tạo xoay vần. Nhà nước đã chơi một cú ngoạn mục, đá “vô lê” quay phắt 180 độ với chủ
trương mở cửa, đổi mới. Việt kiều trở về được coi là yêu nước, được cưng như cưng trứng, hứng như
hứng hoa.

Họ rót đô la cho thân nhân xây nhà xây cửa, góp vốn mần ăn. Người nước ngoài ào ào tới Việt Nam như
tới miền đất hứa. Nào công ty này. Nào xí nghiệp nọ. Đất cát ven đô rơi vào một cơn xốt cấp tính. Bác
nông dân ngày nào còn nghèo rớt mùng tơi, nay chỉ cần bán đi vài công ruộng là khẻo re, đủ phương
tiện làm le “mí” thiên hạ.

Trong bối cảnh đó, tình yêu thời mở cửa mang lấy tính cách toàn cầu hóa. Nhưng cuộc tình đa quốc gia
hay xuyên lục địa, những cuộc hôn nhân dị chủng nở rộ như lúa hè thu nảy mầm sau trận mưa dầm dề.

Thế nhưng, ăn theo vào đó, biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã phát sinh. Gã xin ghi nhanh qua mấy tờ
báo thường đọc như Tuổi trẻ Chủ nhật, Công an thành phố… rồi “cọp dê” để chiềng làng, báo cáo với
bàn dân thiên hạ, hầu mua vui lấy “một vài chống canh”. Thảng hoặc có dư chút thời giờ chả biết làm gì,
thì thử vắt tay lên trán, ngẫm nghĩ sự đời mà cười cho hai chữ nhân tình éo le.

Trước hết là cảnh tỉnh ‘’hờ’’ theo sự tính toán cho cả hai cùng có lợi, nhưng rốt cuộc bị bể mánh, chẳng
‘’nước mẹ’’ gì cả.

Số là vì nuôi mộng ước không bình thường được ra ngoại quốc và trở về làm việt kiều, một cô nường ở
Sài gòn đã ưng thuận kết hôn giả với một cống dân Pháp chính gốc con gà trống ‘’Gô-loa’’ vừa chẵn băm
lăm tuổi.

Theo sự thỏa thuận, hai người là vợ chồng trên giấy tờ pháp lý, nhưng không được sống chung ‘’mí’’
nhau. Khi đã định cư ở nước ngoài rồi, thì lập tức ly dị liền tù tì. Nếu mọi sự êm xuôi tốt đẹp, anh chồng
hờ được hưởng ba ngàn đô, còn chị vợ hờ thì được phe phẩy ở nước ngoài.
Cuộc tình hờ này được trình tòa và được chính quyền thành phố ký nhận. Cứ tưởng mọi sự đã thuận
chèo mát mái, ai dè vào phút chót anh chàng ‘’phú lãng sa’’ này lại nhảy rào, xé hợp đồng, đòi làm chồng
thiệc, chứ không chịu đóng vai chồng hờ, khiến cho cô nường tóa hỏa tam tinh, chạy vội đến ba tòa
quan lớn để xin can thiệp một phen, vì thà chịu vỡ mộng còn hơn là tàn một kiếp …hoa.

Dù sao chuyện tình hờ kể trên, thực chất chỉ là một loại tình dổm, dựa trên sự tình toán cân đo đong
điếm.

Bây giờ, gã xin đi vào những cuộc tình nặng đô hơn và cũng day dứt hơn.

Dân Việt Nam ta vốn bản chất dễ hòa đồng và đón nhận cái mới. Chả thế mà ngày xưa Phật giáo, Nho
giáo và Lão giáo đã sống chung hòa bình với nhau một cách rất đề huề trong xã hội.

Dưới thời Pháp thuộc, chúng ta đã xơi ngay phần tình túy của nền văn minh phương tây và đã mượn đỡ
mẫu tự La tinh mà chế biến thành chữ quốc ngữ.

Vì thế, chuyện những cô gái thích lấy chồng ngoại âu cũng chỉ là một chuyện hết sức bình thường. Ấy là
gã chưa nói tới xu hướng toàn cầu hóa đang xâm lấn vào mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực tình yêu.

Bởi vì như chúng ta thường bảo :

- Biên giới của yêu thương là thương yêu không biên giới.

Một khi đã ‘’chịu đèn’’ và ‘’phê’’ mí nhau rồi , người ta sẵn sàng vượt qua mọi ngăn cách về màu da, về
ngôn ngữ, về thổ địa… để được sống cùng nhau. Ngày xưa cũng như hôm nay, vẫn có những cặp vợ
chồng hai quốc tịch rất hạnh phúc và chuyện tình của họ đẹp như một huyền thoại.

Có một cô hàng bán nước giải khát ở bến Bạch Đằng. Cuộc đời đang phẳng lặng, thì bỗng một anh
chàng si tình xuất hiện. Ngày nào anh chàng mắt xanh da trắng này cũng đến nhấm nháp một con mực
khô, uống hai long bia và ‘’bám trụ’’ tại quán suốt hai tiếng đồng hồ để được ngắm nghía cô hàng nước
xinh đẹp một cách đăm đăm.

Và thế là tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, liên tục phát triển theo số tiền bo hậu hĩnh và số quà cáp mỗi ngày
một tăng. Rồi sự gì phải đến đã đến. Anh chàng gà trống Gõ loa đã tỏ tình thẳng đét ‘’mí’’ chị gà mái an
nam mít:

- Tôi yêu em, tôi muốn cưới em làm vợ. Em trả lời tôi đi.

Riêng cô nàng đã bật mí cho biết :

- Yếu tố hớp hồn và hấp dẫn của con gái Việt Nam là nét thùy mị, dịu dàng, kín đáo và đặc biệt là sự bẽn
lẽn, e thẹn. Rồi tà áo dài chiếc nón lá… đều là những cái thật dễ thương và đáng yêu.

Tuy nhiên, hiện tượng lấy chồng ngoại không thể không xảy ra những bất trắc, những bi kịch hụt hẫng
bởi những mưu tính vụ lợi nhỏ nhen của cả đôi bên, đặc biệt lo ngại là những cô gái lấy chồng Đài Loan.
Bất chấp những trớ trêu từ các cuộc hôn nhân, mai mối chẳng khác chi mua bán nô lệ, đổi chác hàng
hóa. Đó là chưa ai để ý đến số phận của những cô gái phải theo chồng về xứ lạ đang hối hả nộp đơn xin
ly dị, tìm đường về nước, còn nóng vội hơn cả hôm xuất ngoại theo chồng. Những trục trặc đắng cay xảy
ra đều do bởi những cái không biết sau đây.

Cái không biết thứ nhất là về bản thân của đối tượng.

Các cụ ta ngày xưa đã dạy :

- Lấy vợ xem tông,

Lấy chồng xem giống.

Nhiều khi phải thẩm tra ngược dòng thời gian tới ba bốn đời xem có chi bất ổn. Đằng này người ta sờ mó
và chọn mình, chứ mình đâu được quyền chọn người ta.

Phận gái lấy chồng ngoại giống như giọt mưa sa. May thì rơi vào chỗ nước trong. Chẳng may thì rơi vào
vũng bùn hay đống phân trâu thì cũng đành phải chịu vậy.

Có chàng sang Việt Nam với mác kỹ sư, nhưng thực chất chỉ là tay thợ hồ hay bốc vác, không hơn dân
cu li cu leo là mấy. Có chàng vì tai nạn bị phỏng nặng, toàn thân đầy sẹo to sẹo nhỏ nhưng được che
phủ bằng những bộ quần áo đắt giá, nhưng khi về đến nhà thì… hỡi ôi.

Cô nàng kia vớ được anh chồng tướng tá cao ráo, đi đứng lúc nào cũng từ tốn chập chạp. Đến tân hôn,
từ phòng tắm bước ra, cô nàng suýt hét lên bởi vì trước mặt cô là một anh chàng chỉ có ‘’một khúc mà
thôi’’.hai chân giả quá khéo được lấy ra, kể ngay đầu giường. Thế là kể từ đó, anh chàng ‘’thiếu chân
đứng’’ này luôn hành hạ cô nàng, bắt cô nàng phải cõng đi ăn, phải bế đi tắm… chỉ khi ra đường mới
chịu gắn chân giả.

Cái không biết thứ hai là về mục đích.

Các cụ ta ngày xưa đã bảo :

- Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.

Thế nhưng, khi lấy chồng ngoại, người con gái lại mù tịt về chồng cũng như về nhà chồng, thì làm sao
mà gánh vác ? Hơn nữa, phần lớn những cuộc hôn nhân này lại diễn ra theo nhịp điệu của mua bán.
Người con gái không biết mình được mua để làm gì ?

Có những kẻ cưới vợ là để vợ làm những việc đồng áng nặng nhọc như những người làm thuê. Có những
kẻ cưới vợ là để vợ chu toàn những công việc bếp núc trong nhà như một người đầy tớ. Có những kẻ
cưới vợ là để thỏa mãn những đòi hỏi thân xác.

Báo Công an kể lại :

Một cô gái trẻ Việt nam lấy một ông chồng già Đài loan bằng tuổi ông ngoại. Ai ngờ khi về nước, lão viên
ngoại đốn mạt này bắt cô phải phục vụ “chuyện ấy” cho em trai, rồi con trai, rồi cháu trai của lão cho
đáng đồng tiền bát gạo lão đã bỏ ra để mua cô về.

Bất hạnh hơn nữa phải kể đến những cô gái lâm vào thế đường cùng nơi đất khách, bị lọt vào những tổ
chức mại dâm quốc tế. Những tổ chức này tại Việt nam có thể được mang những vỏ bọc bên ngoài đẹp
đẽ, như môi giới hôn nhân, lao động ở nước ngoài… những thí sinh được tuyển chọn, khi đi hăm hở bao
nhiêu, thì khi về cũng vội vã bấy nhiêu.

- Khi đi thì dệt mộng vàng,

Đến khi về nước thì ngậm bồ hòn đắng cay.

Cái không biết thứ ba là về ngôn ngữ.

Ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Thượng đế trao ban để chúng ta chuyền đạt những tư tưởng,
những ý nghĩ cho người khác hầu xích lại gần nhau và bắc được một nhịp cầu cảm thông.

Thế nhưng, vì bất đồng ngôn ngữ, không hiểu nhau, không cảm thông cùng nhau, thì cũng khó mà hạnh
phúc với nhau.

Để chứng thực điều trên, gã xin kể lại một câu chuyện cho tất cả cùng… cười.

Thấy thiên hạ có con gái lấy chồng Đài loan, chẳng khác nào đào trúng mở vàng. Nhà cửa vinh vang. Xe
cộ đổi đời liên tục. Ông hai Nhơn nôn nóng. Ngó đi ngó lại chỉ còn mỗi cô gái út tên là Mén. Kể ra Út Mén
cũng hiền lành lại đẹp gái, vì thế ông kiên quyết phải cho con gái mình lấy chồng ngoại, chứ không cho
lấy chồng nội.

Chẳng bao lâu mơ ước của ông đã thành sự thật. Một chàng rể Đài loan to con tốt tướng, tóc húi cao và
tuổi sấp xỉ bằng ông xuất hiện. Lối xóm xì xào bàn tán. Ông bỏ ngoài tai, ông rất hài lòng và hãnh diện vì
Út Mén đã có chồng ngoại. Hôm bà mối dẫn anh chàng Đài loan về ra mắt ông Hai Nhơn và coi mặt Út
Mén, thiên hạ cứ tưởng rằng bạn ông ghé thăm.

Đến khi gia đình làm tiệc chiêu đãi, muốn biết khẩu vị của anh chàng rể tương lai thì được bà mối giải
thích :

- Hễ anh chàng Đài loan kêu “ột ột” là thích ăn thịt heo, kêu “hùm bò” là thích ăn thịt bò, kêu “cạp cạp”
là thích ăn thịt vịt, kêu “ò ó o” là thích ăn thịt gà. Khi ăn no thì ôm bụng xua tay. Và thế là cả nhà đều vui
vẻ.

Một tháng sau, anh chàng rể Đài loan đột xuất về thăm bố vợ và cô vợ sắp cưới. Có lẽ vì đột xuất nên chỉ
đi với bác tài xế mà không có bà mối kèm theo.

Bác tài xế thì tiếng anh mới chỉ lõm lõm, thích nói bằng tay hơn bằng mồm, còn tiếng tàu thì hoàn toàn
mù tịt. Vì thế khi vô nhà, mọi người đều chào nhau, nhìn nhau, cười nhau và chẳng nói với nhau được sự
gì.

Sau khi nhận quà cáp, ông Hai Nhơn bảo vợ và con gái làm tiệc đãi anh chàng rể quí. Những do không
biết món gì hợp khẩu với anh chàng rể, ông bèn nhớ đến mấy ngôn ngữ bà mối đã méc lần trước. Ông
bèn đưa tay khều anh chàng rể một cái và nói :

- Cạp cạp cạp.

Anh chàng rể gật đầu. Ông khều cái thứ hai và nói :

- Ò ó o.

Anh chàng rể cũng gật đầu. Ông tiếp tục khều cái thứ ba và nói :

- Ột ột ột

Anh chàng rể cười cười, rồi gật đầu. Thế là ông Hai Nhơn cùng Út Mén làm thịt một cặp vịt, một con gà
và một con lợn bốn chục ký.

Trong khi ăn, anh chàng rể quẳng một mẩu xương gà xuống đất. Hai con chó chạy lại giành :

- Gừ gừ… Gâu gâu.

Có lẽ vì lạ tai vui mắt, chàng rể bèn buông đũa, bỏ bát, tay chỉ hai con chó, miệng mỉm cười và :

- Gừ gừ… Gâu gâu.

Ông Hai Nhơn tưởng anh chàng rể đòi ăn thịt chó, nên lập tức truyền cho con gái đun nước sôi và đích
thân ông ra tay hạ thủ hai chú chó vô tội.

Nấu thịt cầy xong và dọn lên. Anh chàng rể và bác tài xế ngơ ngác. Vợ chồng ông Hai Nhơn cũng ngơ
ngác. Cô Út Mén lại càng ngơ ngác hơn.

Vì ham chồng ngoại, rể ngoại, không ít người đã liều nhắm mắt đưa chân, phớt tỉnh ăng lê những chuyện
không biết kể trên, để rồi đã phải lãnh đủ những hậu quả dở cười dở khóc.

Mà chắc chắn, khóc phải nhiều hơn cười rồi.


ĐỒNG ĐÔ LA BẤT HẠNH - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Hình như ai trong chúng ta, từ đờn ông đến đờn bà, từ cụ già đến đứa con nít, ai ai cũng đều hiểu được
giá trị của đồng tiền, chả thế mà hiện nay, ở Việt Nam người ta thường hay rêu rao :

- Tiền là tiên là phật,

Là sức bật của tuổi già,

Là cái đà của danh vọng,

Là cái lọng để che thân,

Là cán cân của công lý.

Và khi ra ngõ, dằn ở trong túi tí tiền còm, cũng cảm thấy bảo đảm như có được một lá bùa hộ mệnh.
Đồng tiền, đúng là tiên là phật, có sức màu biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài, cả hình dong lẫn cõi
lòng, như người xưa đã từng phát ngôn :

- Xu hào rủng rỉnh thì…. thằng mán cũng ngồi xe.

- Cô nọ đen thủi đen thui, nhưng tiền nhiều thì cũng vưỡn …lượt là như ai.

Và trong thời buổi hiện nay, đồng tiền, nhất là đồng tiền đô la của Mỹ lại càng được thiên hạ chiếu cố tận
tình. Cũng vì đồng đô la có giá mà nhiều Việt kiều, mỗi khi trở về thăm quê hương, thỏa sức tiêu dùng và
mua sắm, kể cả ăn chơi xả láng…mà vẫn dư khả năng giúp đỡ những người thân và gia đình, cũng như
góp phần vực cái nền kinh tế còn èo uột của đất nước lên.

Tuy nhiên, cái gì thì cũng có mặt phải và mặt trái. Có những đồng đô la nhân nghĩa, như gã đã bàn đến
trong số trước, thì cũng có những đồng đô la bất hạnh, là điều gã xin “phô bày” trong số này.

Thế nhưng, trước khi đi vào những đồng đô la bất hạnh ấy, gã xin kể lai một vài kỷ niệm buồn về những
thùng đồ, vốn dĩ là “tiền thân” của những đồng đô la hôm nay.

Thuở ấy, khi chưa có những đường giây chuyển tiền chính thức của nhà nước, cũng như những đường
giây chuyển tiền chui của tư nhân hay do những người trở về…cầm tay, thì “tuyệt chiêu” được những
người ở ngoài nước vốn thường dùng để giúp đỡ những người thân yêu trong nước, đó là gửi những
thùng hàng hay những thùng đồ. Và mỗi khi đi lãnh hàng, hay nhận đồ thì cả làng đều biết, chẳng dấu
diếm ai được chi.

Một gia đình nghèo rớt mùng tơi, thế mà bỗng vào một buổi sáng đẹp trời, mọi người trong xóm đều
nghe thấy tiếng nhạc xập xình phát ra từ chiếc cassette mới cáo cạnh, thì đó là dấu chỉ chắc chắn nhất
nói lên rằng nhà ấy mới nhận được một thùng đồ của thân nhân.

Cũng vì hàng họ, đồ đạc chẳng dấu diếm được ai mà sinh ra lắm chuyện lủng củng.

Nhà nọ có một bà chị sống bên Úc, còn bà mẹ già và mấy anh em thì ở Việt Nam. Ngày qua tháng lại,
máy móc và những tiện nghi của ông anh cả cứ phình to…phình to thêm mãi, trong khi đó, nhà của mấy
chú em thì vẫn rách nát như cũ.

Được hỏi tai sao lại có sự kiện ấy, thì ông anh cả tỉnh bơ trả lời :

- Cô ấy gửi về…biếu mẹ đấy, chứ nào có phải là của tôi.

Câu trả lời của ông anh cả làm gã nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn về cụ sư tử. Câu chuyện này, gã không
còn nhớ rõ, đại khái như sau.

Hôm ấy, mấy chú cáo vớ được một con mồi, đang lúc tranh giành nhau, thì chẳng may bị cụ sư tử nhìn
thấy. Và thế là “a-lê-hấp” cụ liền nhào vô ăn có.

Cụ phán như đinh đóng cột :

- Con mồi này được chia làm ba phần. Vì ta to lớn hơn các chú mày, nên được phần thứ nhất. Vì ta đứng
ra giàm xếp cho các chú mày, nên được phần thứ hai. Vì ta vất vả phân chia, nên được thêm phần thứ
ba.

Và như vậy, cũ sư tử xơi tái con mồi làm cho mấy chú cáo tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Trở lại sự việc trên : ông anh cả ẵm mọi hàng họ cô em gửi về với lý do mình phải nuôi nấng và phụng
dưỡng mẹ già, khiến cho mấy chú em tức anh ách như bị bò đá, mà chẳng dám mở miệng nói ra.

Thế nhưng, tức nước vỡ bờ, thỉnh thoảng anh em có dịp ngồi lại với nhau như ăn tết, ăn giỗ…lợi dụng
hơi men, thế nào cũng có chú em lên tiếng hạch tội ông anh cả của mình, có lần suýt đi tới chỗ…”uỵch
nhau”. Chỉ vì những thùng đồ mà…huynh đệ tương tàn, hay chí ít cũng chiến tranh lạnh “mí” nhau.

Bình thường thì trong gia đình, người vợ vốn nắm vai trò thủ quĩ. Lợi dụng chức vụ giữ “hào bao” này,
người vợ thường gửi về cho bên mình nhiều hơn là gửi về cho bên….ảnh. Và thế là chiến tranh bùng nổ.

Nhà kia cha mẹ đều qua đời chỉ còn lại hai chị em. Bà chị nuôi cậu em ăn học cho đến khi cậu em thành
đạt và cưới vợ. Sau mấy lần vượt biên, gia đình cậu em được định cư ở Mỹ và làm ăn phất lên trông
thấy.

Kẹt một nỗi tại Việt Nam, hai gia đình kết tình xui gia lại ở đối diện, chỉ cách nhau có một khoảng mặt
đường. Bên đằng trai thấy bên đằng gái liên tục đi lãnh hàng, không tháng nào mà không có. Rồi nhà
cửa được trang bị đủ thứ máy móc, nào ti vi, nào tủ lạnh, nào cassette đời mới, nào honda hai ba chiếc.

Còn bên đằng trai, bà chị cứ vò võ một mình, âm thầm xơi cà ghém mắm tôm…họa hoằn lắm mới được
một thùng quà, mà chỉ rặt vải vóc, kem đánh răng, xà phòng tắm, thuốc cảm cúm và dầu nóng xoa rốn
cho đỡ đau bụng…

Có ai hỏi vì sao mà “bèo thế”, bà chị liền ngán ngẩm trả lời :

- Chắc thằng em tôi nó đã…chết rồi.

Cho tới khi đất nước mở cửa, hai vợ chồng dắt díu nhau về thăm quê nhà. Bên đằng gái lo đón bà vợ,
còn bên đằng trai lo đón ông chồng.

Cuối cùng, qua những thương lượng kiểu con thoi như Kissinger ngày xưa, người ta đã đi tới một bữa
tiệc chung ở đằng trai để thiết đãi và ra mắt quan viên họ hàng làng xóm.

Mọi sự diễn ra một cách tương đối tốt đẹp tựa như “mùa đông Paris”.

Khi tiệc tan và khách khứa đã ra về, thì vào ban tối bà chị chồng và cô em dâu mới mở cửa bảo nhau
một cách tận tình. Bao nhiêu ấm ức chất chứa trong lòng đều được bà chị chồng phun ra cho bằng hết.

Bàu không khí lúc bấy giờ thật nóng và thật oi như “mùa hè Phi châu” nghiệt ngã.

Hai bên “chăm sóc” cho nhau một cách quá kỹ lưỡng, khiến cô em dâu, đêm hôm khuya khoắt, hùng hổ
khăn gói quả mướp băng qua mặt lộ mà về nhà mẹ, nhưng vẫn không quên ngoái cổ lại đằng sau mà
rằng :

- Từ giờ cho đến chết, tôi sẽ không bao giờ thèm bước chân vào căn nhà này nữa.

Chỉ tội nghiệp cho anh chồng : bên chị và bên vợ, biết chọn bên nào. Thôi đành phải để đến sáng hôm
sau khi mặt trời mọc và cơn tam bành của hai người đờn bà nguôi ngoai đi phần nào thì sẽ…hạ hồi phân
giải.

Ôi những thùng hàng bất hạnh làm gẫy đổ cả nghĩa xui gia và giật sập cả tình anh em ruột thịt. Giả như
không có chúng, hẳn người ta đã sống khỏe re trong cảnh thái bình, chan hòa yêu thương và ấm áp tình
người.

Sau chuyện thùng đồ, thì tới chuyện tiền đô.

Có lần gã hỏi một thằng bạn từ Mỹ về chơi :

- Không hiểu ở bên Mỹ cái tên ấy làm nghề ngỗng chi mà khi về Việt Nam, hắn tiêu tiền đô như đốt pháo
ngày tết hồi xưa vậy.

Nghe hỏi thế, thằng bạn bèn bật mí :

- Có làm cái quái gì đâu, thất nghiệp dài dài, thường xuyên ăn lương trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên,
trước khi về, hắn đã phải chạy đôn chạy đáo, vay tiền của ngân hàng, vay tiền của người nọ người kia để
ăn xài theo kiểu đế vương mà làm oai và lấy le với thiên hạ. Cứ cái kiểu ấy thì khi trở lại đất Mỹ sẽ làm
thân trâu ngựa, kéo cày trả nợ cho tới mãn đời cũng chưa chắc đã hết.

Hình như dân Việt Nam ta có máu sính cái “mác ngoại”.

Họ ngoại thì dễ chịu hơn họ nội. Hàng ngoại thì xịn hơn hàng nội và tiền ngoại thì quí hơn tiền nội. Vì thế
việt kiều thì có “thớ” đối với nhưng người trong nước.

Chính vì thế, có kẻ đã lợi dụng cái “mác việt kiều” để làm những chuyện lừa gạt thất đức.
Trước hết là lợi dụng cái mác việt kiều để gạt tình.

Gã xin ghi lại nơi đây những chuyện có thật, đã từng được báo chí đăng tải.

Đầu năm 1999, với danh nghĩa là nhân viên của một công ty Mỹ muốn mở đại lý ở Saigon, LVM về Việt
Nam đề thăm dò thị trường, đồng thời tìm người để lấy làm vợ. Đúng là một công đôi ba chuyện.

M. làm quen với cô TTL ngụ tại Bình Thạnh và hai người bắt đầu tìm hiểu nhau để đi tới hôn nhân. Lấy lý
do tiết kiệm tiền để lo làm ăn, M. ngỏ ý muốn về ở chung với L. cho đỡ tốn tiền khách sạn. Thấy M. thật
thà lại chí thú làm ăn, L. không khỏi cảm động, chăm sóc cho người chồng tương lai thật chu đáo và tin
tưởng trao thân gửi phận cho M.

Kẹt một nỗi trong nhà L. còn có cô em gái tên là H. Và thế là mổi khi L. đi làm, M. hay chở H. dong chơi
và giữa họ có mối quan hệ khắng khít và thân mật trên mức bình thường. M. cũng không dám từ chối
bèn…xơi luôn cô em gái này.

Khi bị phát giác, hai chị em đã họp “đại hội”và đã đi đến chỗ đồng ý và nhất trí đòi buộc M. phải chọn
một trong hai người làm vợ. M. cũng ậm ờ cho qua chuyện và bắt đầu tính bài…chuồn bằng cách viện cớ
lu bu công việc nên không thể ghé nhà sống chung với hai chị em được nữa.

Qua tìm hiều thì ngoài hai chị em kể trên, M. còn lạm dụng mác việt kiều để gạt tình nhiều cô gái khác và
với cô gái nào M. cũng hứa sẽ cưới làm vợ. Sau khi đã gạt được tình, M. liền tìm cách…cao chạy xa bay.

Cũng thế, ông bố kia ở quận Tân bình có ba cô con gái, đang độ mơn mởn đào tơ. Cách đó không xa, lại
có một chàng việt kiều. Với tình nghĩa lối xóm qua lại, chàng việt kiều đã chấm ngay cô út xinh xỉnh là
xinh.

Hai người bèn tốc hành ăn ở với nhau như vợ chồng, chàng việt kiều hứa sẽ cưới cô út làm vợ, còn cô út
cũng muốn vì thế mà cột chân chàng việt kiều, Xem ra hành động như vậy thì cả đôi bên đều có lợi.

Nhưng cô út quên béng mất lời cảnh cáo của người xưa :

- Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.

Mà đúng thế, sau đó không lâu, chàng việt kiều bỗng dưng… mất tích. Thì ra chàng việt kiều đã tếch vể
Mỹ lúc nào không hay, để lại mối hận tình cho cô út xinh xỉnh là xinh và bốn cô gái khác cũng tương tự
như thế.

Bởi vậy, hỡi các cô nường thương mến, nếu lúc này các cô nường đang ươm mơ đi Mỹ bằng cách lấy
chồng việt kiều thì hãy đề cao cảnh giác, mở to đôi mắt viên bi ra mà nhìn.

Ngày xưa mấy chàng việt kiều họ…sở thường dùng mánh vung tiền như nước, làm lóe mắt những kẻ cả
tin lại nhẹ dạ, nhưng xem ra cái mánh này vừa hao địa lại vừa xưa rồi…diễm ơi, nên mấy chàng việt kiều
họ sở này bèn chuyển qua mánh “giả nai”.

Họ giả bộ chí thú làm ăn, tiêu xài tiết kiệm với vẻ bên ngoài thật thà đứng đắn, khiến cho nhiều cô
nường bị sập bẫy. Bên ngoài họ là “con nai vàng ngơ ngác”, nhưng bên trong họ đích thực là một
loại…”dê xồm” đấy, các cô nường yêu dấu ạ.

Không những chỉ những chàng việt kiều mới gạt tình, mà ngay cả những nàng việt kiều cũng thực hiện
bài bổn kể trên để…kiếm chồng.

Báo Công an Thành phố kể lại rằng :

Anh tài xế hai mươi bốn tuổi vừa đẹp trai lại vừa khỏe mạnh được công ty du lịch phân công chở một bà
việt kiều lên tham quan Đalạt.

Bà việt kiều già đã năm mươi mí tuổi rồi mà vẫn ăn mặc diêm dúa, nước hoa nước hoét thơm phưng
phức.

Trên suốt đoạn đường dài ba trăm cây số này, bà việt kiều già cho biết mình đang là giám đốc điều hành
một công ty lớn bên Mỹ, phải đi đây đi đó, rất cần một tài xế thân tín, rồi lại khen anh tài xế lái xe bay
bướm như nghệ sĩ và cuối cùng bà việt kiều già tỏ ý muốn bảo lãnh anh tài xế sang Mỹ.

Anh tài xế mừng rỡ như mở cờ trong bụng vì được quái nhân phò trợ, nên cung phụng bà việt kiều già
này còn hơn cung phụng mẹ ruột của mình.

Tới Đalạt, tại khach sạn bà việt kiều già đòi anh tài xế phải xoa bóp, phải “massage” cho mình, rồi nũng
nịu gọi anh tài xế là “cưng ơi” và xưng “em” ngọt xớt, khiến cho anh tài xế cứ rối tinh trong bụng, vừa lo
lại vừa mừng, vừa mừng lại vừa lo.

Trên đường về bà việt kiều già bảo anh tài xế tạm ứng cho mình 1500 đô để lo thủ tục xuất cảnh, sang
tới bên đó thì sẽ bù lại gấp mười.

Với mộng ước được xuất cảnh sang Hoa kỳ, anh tài xế bèn bàn bạc với người yêu của mình đang làm
nghề thợ may. Tưởng người yêu phản đối, ai dè cô ấy đồng ý liền tù tì, lại còn khích lệ và dự phóng cho
tương lai :

- Anh đi trước rồi bảo lãnh cho em qua sau.

Và thế là hai người vét hào bao, gom góp đủ số tiền nộp cho bà việt kiều già.

Câu chuyện còn dài, nhưng rốt cuộc chỉ vì giấc mơ đi Mỹ mà anh tài xế và cô nhân tình bé bỏng mất toi
số tiền trên, bởi vì bà việt kiều già chỉ là một chuyên gia lừa gạt cả tình lẫn tiền.

Thực chất bà vừa khát tình lại vừa khát tiền và cũng chẳng có một công ty nào bên Mỹ cho bà làm giám
đốc cả.

Với cái mác việt kiều, người ta không những chỉ lừa tình mà còn gạt cả tiền nữa.

Cách đây không lâu, báo chí đã um xùm đăng tải trường hợp của Juan Ming vì nó liên hệ tới một cô diễn
viên điện ảnh nổi tiếng của thành phố tên là Diễm Hương.

Ngày 29.4.1975 hắn và hai người em ruột được bà chị bảo lãnh vào tòa đại sứ để di tản sang Mỹ.
Tại Mỹ, hắn học về thể dục thể thao. Sau khi bị cảnh sát Mỹ lùng bắt khẩn cấp về tội giết người, hắn trốn
sang Đài loan và dạy tennis, rồi từ đó về Việt Nam nuôi ngựa hòng trốn tránh sự truy nã của FBI.

Trong một buổi tiệc mừng sinh nhật, hắn đã mời cả diễn viên Diễm Hương và thuổng luôn hai viên kim
cương của bà Cẩm Huỳnh, người má nuôi của hắn rồi trốn sang Campuchia. Nhưng lưới trời lồng lộng.
Cuối cùng, hắn cũng đã bị tóm cổ và bị dẫn độ về Việt Nam.

Không những lừa tình và gạt tiền, mà nhiều khi thiên hạ còn lạm dụng cái mác việt kiều và những đồng
đô la bất hạnh để có những hành động làm nhơ bẩn quê hương, chẳng hạn như mở động mãi dâm, mở
đường giây xuất khẩu gái qua nước ngoài, hay những hành động làm nghèo đất nước, chẳng hạn như
những hình thức kinh doanh không đúng vơi luật pháp qui định.

Trước hết là những hành động làm nhơ bẩn quê hương.

Gã xin kể ra nơi đây một trường hợp điển hình, đó là trường hợp của Đỗ vinh Sang.

Hắn sinh năm 1969. Vượt biên qua Mỹ năm 1983. Tại đây hắn sống bằng tiền…thất nghiệp. Vì cuộc sống
khó khăn, nên hắn đã làm giả..”người cõi trên”.

Suốt hai năm trời ăn bám dưới hình thức tu tịnh khẩu, không nói một tiếng, mặc xà rông, ở trần, đầu
quấn kín, chỉ chừa mắt, mũi, miệng. Ai hỏi hay nói gì, hắn chỉ lắc hoặc gật đầu.

Vào tháng giêng năm 1997, hắn về nước. Thấy cô em gái làm ăn khấm khớ và giá sinh hoạt tại Việt Nam
lại quá rẻ so với bên Mỹ, nên hắn đã quyết định cắm dùi, nằm lỳ tại thành phố, lên phương án cộng tác
với vợ chồng cô em gái mần ăn…tầm bậy tầm bạ.

Thế là cuối năm 1998, hắn cùng vợ chồng cô em gái bắt đầu tổ chức những điểm chứa gái để kiếm tiền
và thực hiện việc nuôi gái lầu xanh, “đưa người cửa trước, rước người cửa sau” để mau phất lên.

Chúng thuê hoặc mua nhà làm tiệm hớt tóc, lam shop thời trang như bình phong che dấu những hành
động đốn mạt. Đồng thời có lý do chính đáng để tuyển dụng gái. Bị đẩy vào đây còn có những cô gái
nhẹ dạ tin lời hứa của hắn, chẳng hạn như trường hợp của T.

T. là một cô gái quê tại Sa đéc, gặp Sang ở một cửa hàng nơi T. đang giúp việc. Chỉ vài lần lui tới, Sang
đã đặt vấn đề yêu thương tha thiết và muốn cưới T. làm vợ.

Một cô gái nghèo phải bỏ quê lên thành phố tìm việc với ý nguyện đổi đời, choáng ngợp trước tình yêu
của một chàng việt kiều thứ thiệc, nên T. xiêu lòng…để rồi cuối cùng đã phải làm việc tại ổ chứa của
hắn.

Sau cùng là những hành động làm nghèo đất nước, mà điển hình là trường hợp của Trịnh vĩnh Bình.

Trịnh vĩnh Bình là một việt kiều Hà lan, đã mang về nước 2,3 triệu USD và 96 ký vàng để kinh doanh tại
Vũng tàu. Từ tháng 7 năm 1991 đến tháng 7 năm 1995, mượn danh nghĩa của những người thân bên
mình và bên vợ, Bình đã mua gom được 284ha đất, 2 cơ sở sản xuất, 11 căn nhà rải rắc từ thành phố Hồ
chí Minh, chạy dọc quốc lộ 51 cho tới Vũng tàu. Cùng với phương thức trên, Bình còn nhận 542ha đất
trồng rừng…

Rồi sau đó, Bình sang đi bán lại để kiếm lời. Cụ thể là Bình đã bán 2,8ha đất, thu về được 480 lượng
vàng và 1,005 triệu USD, chuyển nhượng 14ha đất trồng rừng, thu về 6,2 tỷ đồng.

Ngoài ra, Bình còn hối lộ để lo giấy tờ nhập khẩu giả cho những người thân ở địa phương khác để dễ
dàng mua bán nhà cửa, thành lập công ty, nhận đất rừng, hợp thức hóa chủ quyền…

Mang đô la và vàng về nước để đầu tư và kinh doanh là điều tốt, thế nhưng thật đáng tiếc là Bình đã đầu
tư và kinh doanh sai trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về việc quản lý, bảo vệ đất đai của nhà nước.

Hành vi sai trái của Bình đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, đó là hàng nghìn mét vuông đất bị sử
dụng sai mục đích, thất thu tiền thuê đất và tiền thuế đất lên tới hàng chục tỷ đồng.

Với sự tiếp tay của một số cán bộ, hành vi của Bình đã vô hiệu hóa sự quản lý của nhà nước về đất đai,
gây ra những tác động xấu và những hậu quả tiêu cực…

Để kết luận, gã xin kêu gọi như sau :

- Hỡi tất cả những ai thích bản nhạc chỉ có hai nốt đô và la, thì hãy coi chừng, đề cao cảnh giác, nhất là
những người đang nuôi nhiều ước vọng và những cô gái đang dệt nhiều mộng mơ, hãy mở to cặp mắt
mà nhìn, kẻo một khi đã sập bẫy, thì sẽ phải ân hận suốt cả một đời.
ĐỒNG ĐÔ LA NHÂN NGHĨA - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Mấy bữa nay ở Việt Nam bàu trời thật là ảm đạm. Hết “áp thấp nhiệt đới” thì liền quay sang bão, thành
thử mưa gió cứ sập xùi triền miên. Mà hễ cứ mưa to và gió lớn, thì y như rằng thế nào cũng cúp điện.
Đây chính là một căn bệnh mãn tính của ông điện lực phe ta.

Giá như ở nước ngoài, có lẽ thiên hạ đã lôi ông ta ra ba tòa quan lớn mà đòi bồi thường thiệt hại, còn ở
đây, thà rằng vạch đầu gối lên mà than vắn thở dài còn hơn. Có vác đơn đi kiện thì cũng chỉ như “con
kiến mà kiện củ khoai” mà thôi.

Ngày xưa khi còn xử dụng chiếc máy chữ cà rịch cà tàng, thì bất kể thời tiết nắng mưa, ngày và đêm, lúc
nào cũng có thể ngồi vào bàn mà gõ lóc cóc.

Còn bây giờ, ti toe bắt chước thiên hạ, đèo bồng chiếc vi tính, thành thử hễ cúp điện là thất ngiệp, ngồi
chơi xơi nước, hay ngáp vặt chờ cơm.

Vì thế, để điền vào những khoảng trống cho hợp nghĩa, gã bèn lôi hết các thứ sách vở, báo chí cũ ra đọc,
để cho chúng khỏi mốc meo…đọc cho đến lúc mờ cả mắt mới thôi. Và đoạn sách hôm nay gã ghiền gẫm
nói về lịch sử dân Do thái, đại khái như thế này :

Vào năm 66, nhóm “Zélotes” đã phát động một cuộc nổi dậy, chống lại sự thống trị tàn bạo của các viên
chức La mã. Vì thế, vào năm 70, tướng Titus đã đem quân chiếm đóng Giêrusalem, thiêu hủy đền thờ,
hàng ngàn người Do thái đã bị giết, còn phần đông đã bị bắt đi làm nô lệ. Đất nước Do thái tan hoang từ
đó.

Trong nhiều thế kỷ, người Do thái lưu vong đã bị dân Âu châu nhìn bằng một cặp mắt khinh bỉ về
phương diện dân sự vì họ chỉ là những kẻ ngoại lai, coi thường về phương diện tinh thần vì họ chẳng có
một nền văn hóa nào cả, cũng như về phương diện tôn giáo vì họ là quân “Giu dêu” đã giết Chúa.

Trong khi đó, giải đất Palestine lần lượt bị những người Ả rập và Thổ nhỉ kỳ thống trị.

Mãi cho đến năm 1879, cuộc cách mạng Pháp mới công nhận quyền tự do của người Do thái. Rồi sau đó,
nhiều chính phủ khác cũng đã chấp nhận lập trường ấy. Và người Do thái đã liên tục phát triển một cách
rất đặc biệt. Họ trở nên những ông chủ của ngành tài chánh và báo chí thế giới.

Sau khi cuộc đại chiến lần thứ hai kết thúc, Liên hiệp quốc, vào năm 1947, đã phân chia giải đất
Palestine thành hai miền riêng biệt , rồi ngày 15 tháng 8 năm 1948, nhà nước Israel được chính thức
thiết lập và những người Do thái từ khắp nơi trên thế giới lục tục kéo nhau về để xây dựng lại quê hương
đất nước.

So sánh sự kiện năm 70 của dân Do thái với sự kiện năm 1975 của người Việt Nam, gã nhận thấy mình
hơn hẳn họ ở nhiều điểm.

Trước hết, nhờ biến cố này mà hôm nay người Việt Nam mình đã có mặt trên toàn cõi địa cầu, không
riêng gì bên châu Âu hay châu Mỹ như dân Do thái, mà còn ở khắp mọi nơi, từ nam chí bắc, từ đông chí
tây.

Nếu ngày xưa cha ông chúng ta đã bảo : đi một ngày đàng, học một sàng khôn, thì không hiểu đồng bào
ta ở nước ngoài đã thâu lượn được biết bao nhiêu “xe tải chất đầy sự khôn ngoan” của cả và thiên hạ.

Hơn thế nữa, khả năng “tiêu hóa” của người Việt Nam mình lại thuộc vào hằng siêu đẳng, bằng chứng là
ngày xưa Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã được cha ông chúng ta “cập nhật hóa” thành cái vốn
riêng của nền văn hóa dân tộc.

Hay như Kitô giáo với nền văn minh phương tây đặt chân tới miền đất khỉ ho cò gáy này, thì cha ông
chúng ta đã mượn tạm bản mẫu tự La tinh mà chế biến thành chữ quốc ngữ ngày hôm nay.

Và như thế, đồng bào chúng ta ở nước ngoài đã, đang và sẽ còn gạn lọc được những tinh hoa, những
cốt lõi của muôn dân, muôn nước trên thế giới. Gã mong rằng họ sẽ là những con tằm sẽ nhả ra được
những sợi tơ vàng óng ánh.

Tiếp đến, trừ một vài nơi có nạn kỳ thị chủng tộc, dân địa phương sợ “nạn da vàng” như sợ một chứng
bệnh dịch nguy hiển. Hay vì ghen tức với những thành công của phe ta mà đem lòng thù oán, còn phần
đông người Việt nam mình đều được vị nể, chứ không bị khinh bỉ như dân Do thái ở Âu châu. Bằng
chứng là trong lịch sử, mỗi khi có những biến loạn, người Âu châu cứ nhè dân Do thái mà…xơi tái.

Và sau cùng, người Việt Nam mình dù sinh sống ở nước ngoài, thì vẫn còn một quê hương, một đất nước
để hướng về, chứ không tan bày xẻ nghé như dân Do thái sau khi Giêrusalem bị hủy diệt.

Cũng vì ý thức đồng bào ở nước ngoài là một phần tử trong đại gia đình dân tộc, nên nhà nước ta mới
thay đổi hẳn lập trường, từ thái độ coi họ là những kẻ phản quốc đến thái độ coi họ là những người yêu
nước. Từ thái độ nghi kỵ thù oán đến thái độ mở rộng vòng tay chờ đón.

Phải chăng chuyển biến và đổi thay đã là một quy luật muôn đời. Vì nếu không chuyển biến, không đổi
thay, lúc nào cũng dậm chân tại chỗ, thì chắc chắn con người sẽ rơi vào chỗ…tụt hậu, lẽo đẽo theo sau
người ta mà vẫn chẳng kịp.

Qua những tin tức về sinh hoạt của các cộng đồng người Việt, gã rất mừng vì những thành công mà
người mình đã gặt hái được nơi đất lạ quê người.

Thứ nhất là những thành công trên con đường học vấn.

Gã rất mừng vì có những bà già trầu, nếu như ở Việt Nam, thì chỉ biết cái xó bếp nhà mình, cả đời chẳng
hiểu có được một lần ra thành phố hay không, thế mà giờ đây cũng ti toe dăm ba câu tiếng Mỹ, tiếng
Ăng lê, nào là con cá này nặng mấy “pao”, nào là chiếc đò này dài mấy “phít”, rồi cũng “hai” giơ tay bắt
khi gặp nhau và “bai” vẫy tay chào khi rời nhau, khiến cho gã vô cùng cảm phục.

Gã rất mừng vì có những thằng bạn, nếu như ở Việt Nam, thì cũng chỉ là dân “cu trâu” suốt ngày chỉ biết
đến thửa ruộng và ca bản “con trâu đi trước cái cày theo sau”, có bửa đầu ra cũng chẳng thấy được một
nửa tiếng OK hay Yes. Nếu ông trời có đãi ngộ và số phận có mỉm cười, chui lên được thành phố, thì
cũng chỉ là dân cu li cu leo. Thế mà bây giờ chúng nghiễm nhiên trở thành kỹ sư điện tử, chuyên viên
máy móc. Thận chí có anh, khi công ti của mình giảm biên chế, rút bớt nhân viên, thì anh không những
chẳng bị loại trừ để ăn lương thất nghiệp, mà còn được tăng lương, tăng cổ phần vì công ti sợ anh đi làm
chỗ khác.
Chỉ phiền một nỗi là khi trở về Việt Nam, anh đã quên béng mất cái thói quen xơi…thịt chó mắm tôm, rồi
lại còn sợ muỗi, sợ ruồi, sợ nước dơ… có đi đâu thì cũng phải kè kè mấy chai nước khoáng bên mình, có
tắm gội thì mấy đứa em phải chịu khó đi xin vài gánh nước mưa từ nhà hàng xóm về cho anh dùng và
nếu đứa nhỏ của anh có đòi uống sữa thì phải dùng sữa thứ thiệc, “made in USA” chính hiệu con nai
vàng, mới bảo đảm chất lượng cho cái bao tử của đứa nhỏ.

Dường như anh cũng đã quên béng mất cái gốc gác của mình, không còn nhớ mình cũng đã xuất thân từ
vùng đồng chua nước…phèn này. Thấy thế, gã cũng cảm thấy một thoáng tủi hờn. Nhưng thôi hãy biết
bằng lòng với số phận của mình.

Gã rất mừng vì có những sinh viên học sinh Việt Nam ở nước ngoài đạt thành tích cao trong những cuộc
thi quốc tế, thậm chí có những sinh viên học sinh được chính tổng thống nước Mỹ khen tặng. Phải chăng
đây cũng là một niềm vinh hạnh cho đất nước.

Biết đâu trong một thời gian gần đây, những sinh viên học sinh này sẽ trở về để phục vụ cho quê hương.
Biết đâu mấy chục năm nữa, những sinh viên học sinh này sẽ trở thành dân biểu, nghị sĩ và cũng biết
đâu chừng là tổng thống của một đất nước hùng mạnh, như Kennedy, tổng thống Hoa kỳ, vốn là dân Mỹ
gốc Ái nhĩ lan, như Fugimoto, tổng thống Ba tây, vốn là dân Brasil gốc Nhật…

Phải, biết đâu cũng sẽ có một tổng thống Hoa kỳ, là dân Mỹ gốc Việt. Nghĩ tới đây, gã cảm thấy vô cùng
hồ hởi và niềm kiêu hãnh của dân tộc nổi lên đùng đùng.

Tuy nhiên cho đến bây giờ gã vẫn còn nhớ lời phát biểu của một ông giáo sư ngoại quốc về những sinh
viên Việt Nam ở Saigon trước ngày giải phóng. Lời phát biểu ấy như thế này :

- Sinh viên Việt Nam rất thông minh. Nếu một sinh viên Việt Nam chọi với một sinh viên ngoại quốc, dù là
nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức hay nước Pháp…thì sinh viên Việt Nam cũng chẳng hề phải kiêng nể.
Những nếu một nhóm sinh viên Việt Nam chọi với một nhóm sinh viên ngoại quốc thì họ sẽ thua xa. Sở
dĩ như vậy vì họ không biết cộng tác, không biết làm việc chung với nhau.

Phải chăng sự chia rẽ là một căn bệnh trầm trọng trong những cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài.

Những chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài. Quả thực đây là một kho tàng “chất sám” vô giá, nếu như
nhà nước ta biết lợi dụng, thì sẽ đem lại cho quê hương một tương lai tươi sáng.

Gã thử làm một phép tính : Gửi một thanh niên du học, từ lúc bước chân ra đi cho đến lúc thành tài, nhà
nước và gia đình phải tốn biết bao nhiêu công sức và tiền của, thế mà cái “kho tàng chất xám” này như
một quà tặng từ trên trời rơi xuống, có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Bỏ qua, không tạo điều kiện cho
họ trở về phục vụ thì quả là một lãng phí to lớn.

Thứ hai là những thành công trong công việc làm ăn.

Gã rất mừng vì đa số người Việt Nam đã ăn nên làm ra ở nước ngoài. Khởi đầu từ một con số không khi
đặt chân tới miền đất lạ, thế mà giờ đây họ đã có được một cơ ngơi bề thế. Nào là con cái được học
hành đến nơi đến chốn, nào là nhà riêng, nào là xe riêng…sở dĩ như vậy vì họ là những người cần cù
siêng năng lại lắm sáng kiến.
Nhiều người sẵn sàng “kéo cày” ngoài giờ lao động để được hưởng tiền lương cao. Cộng thêm vào đó là
tính tiết kiệm trong chi tiêu…nên họ phất lên trông thấy và mỗi ngày một thêm khấm khớ khiến cho thiên
hạ phát thèm rỏ dãi.

Gã cũng rất mừng vì những người ngoài nước đã không quên mà còn nghĩ tới những người trong nước
bằng cách gửi quà hay tiền về để giúp đỡ, như cha ông chúng ta ngày trước đã dạy :

- Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Thực vậy, cho đến bây giờ người ta vẫn không thể làm được một thống kê đầy đủ cho biết mỗi năm đã
có bao nhiêu triệu đồng đô la được các Việt kiều gửi hay đem về giúp đỡ cho thân nhân tại quê nhà, bởi
vì có rất nhiều cách thức gửi : gửi qua ngân hàng như Vietcombank, ngân hàng ngoại thương…gửi qua
những cơ quan chính thức được nhà nước cho phép, như Vina…gửi qua những Việt kiều về nước, gửi
chui qua những tổ chức tư nhân…Những cách thức sau này thì làm sao nhà nước có thể nắm vững được
mà lên bản thống kê.

Thế nhưng, dù gửi bằng cách nào chăng nữa, thì những đồng đô la ấy vẫn có thể được gọi là những
đồng đô la nhân nghĩa, vì chúng đã được rót vào đất nước Việt Nam, giúp đỡ những gia đình Việt Nam
và được chính những người Việt Nam tiêu dùng để cải thiện và nâng cao đời sống.

Đây cũng lại là một thứ quà tặng từ trên trời rơi xuống, chẳng phải lao động mệt mỏi, chẳng phải vật vả
đầu tư mà cũng có được một số vốn bằng ngoại tệ kha khá để làm giàu và làm đẹp cho xứ sở.

Thời gian đầu, thiên hạ thường gửi về những thùng hàng. Mỗi khi đi lãnh hàng hay mỗi khi nhận được
hàng thì cả ấp đều biết, kéo đến chia vui và hỏi thăm. Tuy nhiên việc nhận hàng và lãnh hàng đôi khi
cũng có những vui buồn của nó. Gã xin phô ra những chuyện riêng tư của bản thân mình.

Có lần thằng bạn gã vửi về cho gã một gói hàng nho nhỏ, trong đó gồm một chai rượu tây, một gói Pall
Mall, một mớ trà Lipton và hai cục xà bông. Trong bức thư báo trước hắn viết :

- Gửi về cho mi một chai rượu tây để mi nhâm nhi cho quên chuyện buồn. Gửi về cho mi một bao thuốc
lá để mi ngồi hút rồi thả hồn theo khói mà mơ đến ta. Gửi về cho mi mấy gói trà để mi uống mà sớm làm
ông cụ non. Gửi về cho mi hai cục xà bông để mi tắm gội cho sạch bụi trần…

Thì ra hắn đã nhái một bài hát thịnh hành ở nước ngoài lúc bấy giờ, mà thỉnh thoảng đài VOA vẫn phát
đi, thế nhưng bây giờ gã không còn nhớ lời lẽ như thế nào, hình như có câu :

-Gửi về cho em dăm ba thước vải để em đem may làm chiếc áo cưới…

Thế nhưng, khi đến lãnh, thì nhân viên bưu điện đã phán với gã :

- Chai rượu tây và bao Pall Mall bị tịch thu vì bị liệt vào hàng…quốc cấm.

Thế là mặt mũi gã ỉu xìu như chiếc bánh bao chiều.


Lần khác, gã phải lặn lội lên tới tận thành phố, lãnh được một thùng hàng khá lớn. Trên đường về, gã
những khấp khởi mừng thầm :

- Phen này ắt hẳn vớ ăn to.

Đến khi khui thùng hàng ra thì mới vỡ nhẽ : Trong đó được chia làm hai mươi mốt phần đều nhau. Hai
mươi phần được người gửi nhờ gã chuyển cho xấp bạn của nó. Còn gã thì cũng chỉ được một phần như
mọi người. Nếu cộng tiền chi phí với tiền đóng thuế rồi đem chia đồng đều, bắt mỗi người phải chịu một
ít thì cũng kỳ, còn để một mình gánh lấy tất cả thì cũng…đau.

Thế nhưng gã thầm nghĩ :

- Đau một tí cũng chẳng sao, biết đâu lần này mình thả con săn sắt, lần sau mình bắt con cá rô.

Và thế là đành phải vén môi cười trừ cho vui vẻ cả làng. Mặc dù lúc bấy giờ nụ cười có phần méo mó và
héo hắt.

Lần khác nữa, một thằng bạn mở tiệm thuốc tây ở bên Mỹ gửi cho gã một thùng. Trong thư hắn còn căn
dặn :

- Ngoại trừ một số thuốc cảm cúm thông thường, còn toàn thuốc mới nhất và mắc nhất đấy, mi liệu mà
nhớ cho kỹ.

Sau khi nhận được, gã cũng chỉ giữ lại mấy loại thuốc cảm cúm thông thường, còn những thuốc mới nhất
và mắc nhất kia đành phải đem đi bán vì không biết nó trị bệnh gì và liều lượng xử dụng ra làm sao.
Chẳng lẽ bây giờ mình lại cầu cho mình mắc phải những chứng bệnh ấy để rồi được xử dụng theo sự chỉ
dẫn của bác sĩ…Thậm chí có những thứ thuốc bác sĩ cũng vẫy tay chào thua vì chưa biết mặt mũi chúng
như thế nào.

Cũng vì chúng mới quá nên chẳng tiệm nào dám mua. Thôi thì đành phải bán tống bán tháo, được tí nào
hay tí ấy. Và thế là tiền bán thùng thuốc chẳng được bao nhiêu, lỗ chỏng gọng, lỗ chỏng vó so với giá
tiền mà thằng bạn đã ghi trong thư. Đau ơi là đau.

Gửi hàng về vừa cồng kềnh, lại vừa phức tạp, nên dần dần thiên hạ bắt đầu chuyển hệ, gửi tiền về vừa
gọn nhẹ, vừa kín đáo lại vừa có thể xử dụng được ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, nhiều lần mấy thằng bạn đã viết thư cho gã và bảo :

- Mi cần gì thì cho biết, ta sẽ gửi về cho.

Và gã đã phải mỉm cười, rủa thầm trong bụng chứ không dám viết thành chữ hay nói thành lời thành
tiếng mà rằng :

- Ngu chi ngu lạ, đô la ai mà chẳng cần. Mi cứ thử gửi cho ta mấy chục bạc lẻ xem ta có nỡ lòng nào mà
từ chối hay không ?

Lại nữa, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi trên thế giới, đi tới đâu chúng ta cũng đều nghe
thấy vang vọng một điệp khúc :

- Em chỉ thích bản nhạc có hai nốt đô và la mà thôi.

Bàn về chuyện nhận đô la của những người thân gửi về, gã đã ky cóp tích lũy được những mẩu chuyện
vui vui.

Thỉnh thoảng vào những buổi trưa hè oi ả, đang mơ mơ màng với giấc ngủ nặng nề, mồ hôi mồ kê vãi ra
nhễ nhại, thì bỗng một kẻ lạ hoắc bước chân vào nhà. Kẻ lạ ấy có thề là đờn ông mà cũng có thể là đờn
bà, có thể là thanh niên mà cũng có thể là thiếu nữ. Kẻ lạ ấy mắt trước mắt sau, vội vã hỏi một vài câu
vắn gọn :

- Ông có ai quen ở bên Mỹ hay không ? Tên gì ? Bang nào ? Vui lòng cho mượn chứng minh nhân dân.

Rồi kẻ lạ đưa một mẩu giấy chỉ to bằng hai đầu ngón tay và nói :

- Phiền ông hãy ghi là mình đã nhận đủ số tiền bằng này. Rồi ký tên. Nếu có nhắn gửi gì cho người bên
đó thì cứ việc ghi thêm vào.

Sau đó, kẻ lạ mặt trao tiền, rồi vội vã ra đi như khi đã đến, không dám uống cả một ly nước, hay một ly
cà phê…vì sợ bị bỏ thuốc mê và bị trấn lột.

Có lần gã gặp một nhỏ em, đang tập tễnh bước vào nghề này, nghề chuyển đô la cho thiên hạ. Gã bèn
nói :

- Xin chào cô em, sứ giả đem tin vui đến cho mọi người.

Nghe lời chào này, nhỏ em liền….”chu mỏ chuột” lên mà phát ngôn :

- Ghét anh ghê, chỉ chọc quê người ta hoài. Chỉ có mình anh mới phong cho em làm sứ giả mang tin vui.
Nghe qua thì oách lắm, nhưng nghề này cũng thật lắm cái long đong. Thức lâu mới biết đêm dài, có ở
trong chăn mới biết chăn có rận.

Trước cặp mắt tròn xoe vì ngạc nhiên của gã, nhỏ em thương tình liền cắt nghĩa :

- Này nhé, anh thử nghĩ coi, thân gái dặm trường như em, trong mình ôm một bó tiền, đi đến những nơi
xa lắc xa lơ, gặp những người lạ hoắc lạ huơ. Có những địa chỉ nằm ở tận trong hóc bà tó, đường xe
không có, đường đò cũng không. Đi bộ băng đồng mấy cây số, vừa đi vừa hỏi thăm, tới nơi trao vội trao
vàng, đánh mau rút lẹ, ở lâu chỉ sợ nguy hiểm. Nếu chẳng may bị kẻ gian giở trò thì không khéo mất cả
chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi. Tiền mất đã đành mà không chừng mạng sống của mình cũng đi đoong luôn.
Rất may là chưa gặp phải tình huống nào như thế. Trừ chi phí đi lại, ăn uống rồi cũng chả được bao
nhiêu, chỉ mấy mụ chủ ở thành phố là…xơi được miếng to, mới ra nghề có mấy năm mà đã phất lên hẳn
ra, mua nhà mua đất.

Thuở bấy giờ, ở những nơi khỉ ho cò gáy như nơi gã cắm dùi, thì làm gì được ông bưu điện ghé mắt nhìn
tới. Để liên hệ, gã đành phải mượn địa chỉ của một người ở trên tỉnh. Ngày kia gã được người ấy nhắn
lên để lĩnh tiền. Người ấy bảo :
- Số tiền này từ bên Úc gửi về, mà mình chẳng có ai thân ở bên đó cả, nên chắc là của chú mày đấy.
Thôi, cứ cầm về xài đỡ.

Nhận xấp tiền mà cứ băn khoăn thắc thỏm :

- Sao mấy đứa bên Úc gửi mà chẳng báo. Thôi, kệ bà nó, tới đâu hay tới đó. Tiền đến tay ta, ta cứ việc…
thoải mái.

Và thế là mùa xuân năm ấy, gã đã có được một cái tết tưng bừng khói lửa. Tiền lì xì cho bọn nhóc cũng
được tăng lên gấp đôi, gấp ba…Nhưng rồi ngày vui qua mau, sau tết, người ấy bèn triệu gã lên mà
phán :

- Xin lỗi chú mày nhé, số tiền hôm trước chẳng phải của chú mày đâu mà là của thiên hạ. Bây giờ mình
mới nhận được thư báo. Vậy cảm phiền chú mày hãy mau mau hoàn trả lại số tiền ấy để rồi mình còn
trao cho họ nhé.

Ké nhờ địa chỉ của người khác cũng lắm cái nhiêu khê và phức tạp. Vì thế, khi bàu không khí đã thoáng
đãng, không còn ngột ngạt nữa, gã bèn đăng ký một hộp thư ngoài huyện. Có hộp thư riêng, gã liền
được thiên hạ chiếu cố nhờ vả. Và khi cho mượn địa chỉ đôi lúc cũng xảy ra những chuyện…phiền.

Có lần vào ngày hai mươi chín tết, gã nhận được điện tín với nội dụng :

- Mời ông lên địa chỉ số….để lãnh tiền.

Nhận được bức điện này, gã vội vã khăn gói quả mướp đi ngày đi đêm để lên thành phố vì đã cận tết
lắm rồi. Thế nhưng lúc nhận tiền thì mới vỡ lẽ tiền không phải là của mình, nhưng là của người này người
nọ mà thiên hạ nhờ mình chuyển hộ.

Và như thế, khi đi thì vui mừng hồ hởi vẽ ra trong đầu óc một cái tết huy hoàng, còn khi về thì tiu nghỉu,
ai hỏi cũng chẳng buồn thưa. Tới nhà thì mệt phờ râu cá chốt. Tắm rửa qua quít rồi giao hàng. Chủ nhân
có lẽ vì bận rộn với những công việc dọn dẹp nhà cửa vào chiều ba mươi tết, nên rất vui vẻ cám ơn mà
quên béng mất những sự rất…đời thường còn lại.

Và thế là gã cũng phải tự an ủi :

- Việc đâu còn đó, cứ để cho thiên hạ vui vẻ cái đã. Sau tết mình sẽ tính toán lại cũng chưa muộn cơ mà.

Có khi phải đi vài ba lần mới lĩnh được tiền, nhưng rốt cuộc tiền lại không phải là của mình, chỉ nhờ mình
chuyển mà thôi. Kể cũng hơi đau. Nhưng thôi rán làm việc lành để đức lại cho con cho cháu.

Tuy nhiên, phải thẳng thắn mà công nhận rằng : nhờ những đồng đô la được rót về, nhiều gia đình đã
thoát khỏi cảnh nghèo túng khố rách áo ôm.

Thực vậy, nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, nhà cửa được xây dựng lại cho mới. Nhờ những đồng
đô la nhân nghĩa này, cha mẹ già được chăm sóc hẳn hoi, những người thân yêu được ăn mặc tươm tất
và xấp nhỏ được học hành đến nơi đến chốn. Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cuộc sống được cải
thiện.

Có mấy cán bộ gặp một linh mục và hỏi :

- Tại sao xứ của linh mục không được phát triển như những xứ khác vì con số nhà xây lại còn ít.

Và linh mục này đã thẳng thừng trả lời :

- Hiện nay tại Việt Nam, xứ nào có nhiều việt kiều, thì xứ ấy giàu và liên tục phát triển. Hồi năm 1978, tôi
đã nghe các ông, không ngừng khuyên nhủ giáo dân hãy ở lại để xây dựng quê hương đất nước. Bây giờ
nghĩ lại, tôi thấy mình đã dại. Giá như hồi đó, tôi cứ nhắm mắt làm ngơ cho họ vượt biên, thì bây giờ xứ
tôi đâu có còn những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo.

Gã xin khẩu phục tâm phục vị linh mục đã bạo mồm bạo miệng dám nói thẳng và nói thực.

Gã cũng xin khẩu phục tâm phục khi đọc thấy trên những tờ báo công giáo ở nước ngoài như Mục vụ,
Dân Chúa, Đức Mẹ hằng cứu giúp… có khoản kêu gọi yểm trợ cho những giáo xứ nghèo, hay những tổ
chức từ thiện tại quê nhà.

Và gã càng xin khẩu phục tâm phục hơn nữa khi thấy có những việt kiều lúc về nước, mặc dầu thời gian
ít ỏi, cũng đã cất công lặn lội đến những trại cùi để trao tận tay số tiền của mình hay của một số người
chắt chiu dành dụm mà giúp đỡ. Xin đa tạ và bái phục.

Đồng đô la hiện thời rất có giá, nên khi cầm đô la về nước, những việt kiều không phải chỉ giúp đỡ cho
thân nhân của mình, mà hơn thế nữa, chính bản thân họ cũng được nhiều lợi ích.

Thực vậy, giá cả sinh hoạt ở Việt Nam tương đối rẻ, nên tha hồ tiêu xài rủng rỉnh. Có những việt kiều đã
về nước để sửa lại sắc đẹp, để may sắm áo quần…Có những việt kiều đã về nước để cưới vợ, để hưu
dưỡng và không chừng để chết trên vùng đất thân yêu. Vì tất cả đều rẻ hơn so với bên đó.

Đồng tiền thì có mặt phải mặt trái. Hôm nay gã đã bàn đến những đồng đô la nhân nghĩa. Còn những
đồng đô la bất hạnh thì sao ? Gã xin hẹn gặp lại ở lần sau sẽ phân giải.
SĐB - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Trong tiếng Việt, người ta hay dùng kiểu viết tắt trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như về học vị hay
chức tước :

Ts có nghĩa là Tiến sĩ.


Bs có nghĩa là Bác sĩ.
Gs có nghĩa là Giáo sư.
Lm có nghĩa là Linh mục…

Hiện giờ, người ta cũng hay dùng những chữ cái đầu tiên để đặt cho thương hiệu của mình.

Trong một bài báo mới đây bàn về phong trào xơi tiết canh lòng lợn, để có số đỏ và lấy hên cho công
việc làm ăn, người ta đã nói đến những nhà hàng, những quán ăn tại Saigon nổi tiếng về món “lolotica”.

Cũng có công ti chuyên mua và bán hột vịt lộn đã tự đặt cho mình cái tên là “Hovilo”.

Gã còn nhớ vào khoảng năm 1981, cuộc sống còn chồng chất nhiều khó khăn. Công việc đồng ruộng thì
nhiều vất vả, hơn nữa lại không quen, bởi vì lúc bấy giờ gã chỉ là một thư sinh, dài lưng tốn vải ăn no lại
nằm, có trói gà thì cũng chẳng chặt, vì thế gã đành phải chuyển hệ, tập tễnh bước vào nghề nuôi heo.
Gã làm quen và học hỏi kinh nghiệm nơi những vị…thâm niên trong nghề, từ khâu chọn mua heo giống,
đến khâu chế biến thực phẩm bằng công thức, dựa theo những sản phẩm của địa phương mình, như
gạo, cám, cá, bột xương, bột xò…Từ việc xây dựng chuồng trại, đến việc chữa trị những chứng bệnh
thông thường. Với một “bồ hiểu biết” như vậy, gã bèn lăn xả vào cái nghề bất đắc dĩ này.
Tuy nhiên, chuyện đầu tiên gã nghĩ tới để heo mau lớn, đó là phải xổ giun sán. Vì nếu thực phẩm vừa
mới đưa vào đến ruột, đã bị bọn giun sán, loài ký sinh sống bám, sống nhờ… phỗng tay trên, thi nhau
xơi trước, thì còn gì nữa đâu để con heo phát triển.
Và thế là lại một lần nữa, gã phải thỉnh ý những “chuyên viên chuồng trại” xem loại thuốc nào hiệu
nghiệm hơn cả. Họ bảo :
- Ông cứ ra tiệm thú y, mua và quất cho mỗi con một liều TGS là xong ngay.
Gã ngẫm nghĩ không hiễu TGS là cái thuốc quái quỷ gì mà “linh” quá vậy ? Sau khi cầm những gói thuốc
trong tay, gã mới ngộ ra rằng :
- TGS chính là Trị Giun Sán.
Đơn giản chỉ có vậy mà gã cũng chậm…tiêu.

Cách đây khá lâu, để khử trừ nạn cướp bóc vốn xảy ra hằng ngày, nhất là vào những lúc đêm hôm khuya
khoắt trên những còn đường vắng vẻ, ngành cảnh sát công an đã thành lập một lực lượng đặc biệt,
mang tên gọi là SBC, có nghĩa là Săn Bắt Cướp.

Còn cách đây không lâu, báo Công An Thành Phố có một bài viết mang tựa đề “Theo chân tổ SĐB”. Chỉ
mới liếc qua cái tựa đề này mà thôi, gã đã phải bỏ ra cả phút đồng hồ để động não xem SĐB nghĩa là gì.
Tức anh ách vì đầu óc mình tối tăm không đoán ra nổi. Đến khi đọc bài viết thì mới à lên một phát và rất
lấy làm thú vị :
- SĐB có nghĩa là “Săn Đái Bậy”

Số là thành phố Sàigòn từ năm ngoái cho đến năm nay, thiên hạ vẫn còn đang phát động phong trào “Vì
cuộc sống văn minh đô thị”. Và để cho khuôn mặt Sàigòn được văn minh và dễ thương, đúng với truyền
thống của “Hòn ngọc Viễn Đông”, người dân cần phải giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự giao thông và
nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác nữa…Trong việc giữ gìn vệ sinh công cộng, ngoài việc không được xả rác
bừa bãi, lại còn thêm cái việc không được…đái bậy.

Đúng thế, theo tác giả Hoài Giang – Thanh Thủy của bài viết, thì người ta đã thành lập Đội Quản lý Đô
thị. Nhiệm vụ của những người làm công tác thuộc đội này, ngoài việc xử phạt những trường hợp vi
phạm trật tự an toàn giao thông, trật tự lòng lề đường, còn có chức năng khá đặc biệt là xử lý các
trường hợp vi phạm liên quan đến vệ sinh môi trường, trong đó có việc đái bậy nơi công cộng.

Vì thế, tổ SĐB được hình thành và trực thuộc Đội Quản lý Trật tự Đô thị. Dĩ nhiên SĐB chỉ là kiểu nói vui
của những người trong tổ, để chỉ công việc rất đặc biệt này mà thôi.

Mục đích của SĐB là chuyên môn săn lùng những kẻ “trút bầu tâm sự” ở những gốc cây, những công
viên, những tường vách…nghĩa là trút ở những nơi không được phép trút.
Tình trạng vô tư “giải quyết nỗi buồn” ngay giữa thanh thiên bạch nhật từ lâu đã trở thành một căn bệnh
“mãn tính” và hiện đang có chiều hướng gia tăng và liên tục phát triển, bởi vì ngày càng có nhiều người,
chẳng mắc bệnh “đái đường, thế mà lại thích đứng khơi khơi ngoài đường để “xả”, để “trút”!
Cũng theo tác giả bài viết, thì việc săn lùng và biên phạt những hành vi kể trên cũng nhiêu khê và rắc
rối, chứ chẳng dễ dàng và ngon lành gì, bởi vì phải bắt tại trận, nghĩa là phải “tóm” được đúng nơi và
đúng lúc, nghĩa là ngay khi can phạm đang “hành sự”, rồi lại còn phải thêm bằng chứng với hình ảnh cụ
thể, để can phạm hết đường chối cãi…
Theo chân tổ SĐB của Quận 1, tác giả đã ghi lại một vài trường hợp điển hình :

Trường hợp thứ nhất : Săn hụt.


Vào một buổi chiều đẹp trời, sau chầu nhậu sương sương, một người đàn ông bèn tấp vào gốc cây…rồi
vô tư kéo khóa quần “trút bầu tâm sự”.
Vừa lúc đó, tổ chuyên xử phạt những người đái bậy thuộc Đội Quản lý Trật tự Đô thị quận 1 xuất hiện.
Vừa nhác thấy, người đàn ông đã ngay lập tức vội vã lủi nhanh vào khuôn viên Cung văn hóa Lao Động,
khóa quần còn chưa kịp kéo lên.
Vì không kịp ghi lại chứng cứ bằng hình ảnh, nên những người làm công tác đặc biệt này đành chịu thua,
không thể phạt được gì.
Khi được hỏi vì sao lại tè bậy, mà không vào nhà vệ sinh công cộng, các phạm nhân thường đưa ra
những lý lẽ như sau :
- Nhà vệ sinh công cộng quá đông, quá xa và lại quá bẩn.
- Vào nhà vệ sinh công cộng thì tốn tiền. Mỗi lần 2.000 đồng.
- Người khác cũng tè bậy chứ đâu phải chỉ có mình tôi.
- Đang gấp, nên đứng ngoài đường cho…lẹ.

Trường hợp thứ hai : Phụ nữ.


Có những phụ nữ bán hàng rong, khi “bí” cũng không chịu vào nhà vệ sinh công cộng, mà…quây mấy cái
thúng đựng hàng hóa lại, rồi ngồi ở giữa mà…tè.
Gặp trường hợp này, thì tổ SĐB đành chào chua.
Cũng như trường hợp người tè bậy đưa giấy bác sĩ chứng nhận mắc bệnh về thận. Và tổ SĐB cũng đành
phải bó tay.
Kết thúc bài viết, tác giả đã cho biết : Chỉ riêng quận 1, quận trung tâm của thành phố mà thôi, trong
năm 2007 đã lập được một thành tích đáng nể :
Mức phạt cho mỗi lần đái bậy ngoài đường là 80.000 đồng. Nếu tái phạm sẽ bị phạt 100.000 đồng.
Trong năm 2007, Đội Quản lý Đô thị quận 1 đã xử lý 2.045 trường hợp liên quan đến vệ sinh môi trường,
trong đó hành vi đái bậy nơi công cộng cũng không phải là ít.
Đọc xong bài báo và ghi lại một vài nét đại cương như ở trên, bỗng dưng gã cảm thấy buồn hơi bị nhiều.
Gã tự hỏi :
- Chẳng biết có nước nào trên thế giới thành lập được một lực lượng đặc biệt như tổ SĐB của Việt Nam
không nhỉ ?
Còn đâu nữa bài hát của Y Vân (?) :
- Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi!
Còn đâu nữa hình ảnh của “hòn ngọc Viễn đông” với những con đường có lá me bay, đi dưới những vòm
cây đan chéo vào nhau, như đi trong lòng một ngôi thánh đường cổ kính.
Nhưng có lẽ điều đáng buồn hơn cả, đó là cái tinh thần chung, cũng như cái ý thức cộng đồng và trách
nhiệm của người Việt mình hơi bị kém, thành thử mới ra…nông nỗi này.

Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam gã thấy xuất hiện hai chữ, vốn được báo chí và nhiều người sử
dụng, đó là hai chữ “của chùa”.
Chữ chùa ở đây chẳng liên quan đền miếu hay thánh thất chi cả, mà đơn giản chỉ có nghĩa là…chung.
Của chùa là của chung và nhất là của nhà nước.
Mà đã là của chung, thì ta mặc sức xài, mặc sức dùng, chẳng cần phải tiếc xót, chẳng cần phải so đo tính
toán. Tiền bạc đã có người thanh toán. Hư hỏng đã có người sửa chữa. Cái “não trạng” cha chung không
ai khóc”, dường như đã bén rễ sâu vào tim óc của người Việt chúng ta.
Chẳng hạn như tại công sở, thì điện do xí nghiệp của nhà nước cung cấp, nên được liệt vào hàng của
chùa. Bởi đó, ta cứ vô tư mở quạt, mở máy lạnh ở nơi làm việc và khi về cũng chẳng cần tắt. Của chùa
mà.

Điện thoại trong công ty cũng là của chùa, nên ta cứ vô tư gọi để tán dóc với nhau, phe đờn ông con giai
thì rủ nhau đi nhậu, còn phe đờn bà con gái thì tâm sự vụn đủ các thứ chuyện, từ chuyện trong nhà đến
chuyện ngoài ngõ, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện vợ chồng đến chuyện bồ nhí…Lắm
lúc như muốn nấu cháo nhừ cả chiếc điện thoại mà vẫn chưa chịu gác máy. Của chùa mà.
Cái não trạng này xuất phát từ một quan niệm sống, đó là đặt cái riêng lên trên cái chung, làm gì thì làm
miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi. Quan niệm này được áp dụng vào nhiều lãnh vực
khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, gã chỉ đề cập tới phạm vi đường phố mà thôi.
Trở lại vấn đề SĐB, một hướng dẫn viên du lịch đã tâm sự trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 32, ra ngày 21
tháng 8 năm 2005, như sau :
Một hôm, đoàn khách nước ngoài đang chụp hình lưu niệm tại nhà thờ Đưc Bà, bỗng có một chiếc xe @
chở hai thanh niên tấp vào bên hông nhà thờ, trước con mắt ngạc nhiên của những du khách, hai thanh
niên kia vẫn cứ vô tư “trút bầu tâm sự” vào tường, rồi lên xe bỏ đi. Sự ngạc nhiên của những du khách
đã được chuyển thành câu hỏi dành cho tôi :
- Bộ đó là thói quen của người thành phố bạn hả ?
Tôi chẳng biết giải thích ra sao, chỉ biết chống chế :
- Chắc hai người đó say rượu.

Sau đó, tôi mau chóng chuyển qua đề tài khác và tôi biết họ không hài lòng với cách trả lời của tôi.
Khi đoàn qua đường Đồng Khởi – Nguyễn Du, bỗng hai du khách lại gần tôi với dáng vẻ bối rối, họ nói ra
chuyện họ đang cần :
- Xin lỗi! Bạn có thể cho tôi biết nhà vệ sinh ở đâu ?
Chẳng biết chỉ cho họ nhà vệ sinh nào, vì quanh đấy không có lấy một nhà vệ sinh công cộng, tôi đành
dẫn hai du khách vào một quán ăn gần nhất, giải thích với họ để họ hiểu, rồi kêu một chai nước uống
ngồi chờ. Xong việc trở ra, họ nói nhỏ với nhau :
- Thật kinh khủng.

Thiết tưởng hai chữ “kinh khủng” trên đã quá đủ để diễn tả tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu tinh thần
chung của những người sử dụng nhà vệ sinh nơi đó.
Sàigòn là một thành phố xinh đẹp và hiện nay những tòa nhà nhiều tầng và hiện đại mọc lên như nấm,
như để cạnh tranh với những thành phố lớn trên thế giới, vậy mà gã vẫn bắt gặp đâu đó trên các bức
tường hai chữ “Cấm đái” một cách thô thiển.
Và hình như chỗ nào có hai chữ đó, thì lại càng được chọn làm điểm hẹn để mà…tè. Thành thử đi qua
những nơi ấy, thì phải bước cho thật nhanh, hay chịu khó bịt mũi và nín thở, vì xú khí bốc lên nồng nặc.
Ai khó chịu mặc ai, miễn là ta xả được cái tâm sự buồn trong bụng thì thôi.
Cũng từ quan niệm “làm gì thì làm miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi”, một cái tật khác
góp phần làm nhếch nhác thành phố, đó là cái tật khạc nhổ và xả rác một cách bừa bãi.

Mấy ông bạn nhậu, thì ngồi đâu nhổ đấy. Hình như họ phải nhổ bớt nước bọt đi cho đỡ nhạt miệng, thì
nhậu mới ngon và mới được lâu, bất chấp những cái nhăn mật và khó chịu của những người chung
quanh. Bởi vì đối với những người này, thì đó là một thói quen, khó có thể sửa đổi.
Còn việc xả rác nơi công cộng, cũng chỉ là chuyện nhỏ. Quan sát một tiệm phở, gã thấy khách ngồi ăn vô
tư cho giấy lau bát lau đũa, cũng như những thứ thừa thãi như cọng rau, chiếc tăm xuống đất…Và chỉ
trong một thời gian rất ngắn, tiệm phở bỗng trở nên một bãi chiến trường, ngổn ngang những thứ phế
thải.
Có lần bước vào một chung cư ở bến Phạm Thế Hiển gã đã phải một phen kinh hồn khiếp vía. Gầm cầu
thang là nơi cắm dùi của những kẻ vô gia cư. Ban ngày đi kiếm ăn chỗ này chỗ khác. Ban tối kéo về địa
chỉ trên làm chốn tựa đầu cho giấc ngủ qua đêm.

Dọc theo hành lang là những gói rác. To cũng có mà nhỏ cũng có. Ấy là chưa kể những rác rưởi rơi vãi
chỗ nào cũng có. Hành lang hay lối đi là phần đất chùa, mặc sức oanh kích, miễn sao phòng mình sạch
sẽ và thơm tho là được rồi. Thậm chí có những người ở lầu trên vô tư ném rác xuống dưới. Chẳng cần
biết những thứ rác ấy phiêu bạt nơi nao.
Lòng lề đường cũng vậy, là phần đất chùa, nên ta cứ việc xả vì sẽ có người đến quét và thu hồi lại.

Chẳng hạn khi ngồi trên xe hơi, nhất là với mấy cô bạn gái, họ xơi đủ thứ : Nào trái cây, nào bánh kẹo,
hầm bà lằng xáng cấu. Khi xơi xong, họ cứ thản nhiên ném xuống đường các thứ rác rưởi từ vỏ nhãn, vỏ
chôm chôm, lõi bắp…đến các thứ giấy gói bánh, gói kẹo.
Thậm chí có kẻ còn ném nguyên cả một bịch ni lông chứa đầy những thứ họ nôn ra vì bị say xe. Vô phúc
cho ai đi qua, bị cái bịch ấy rơi vào đầu, thì cũng gắng mà chịu, chạy vội về nhà tắm gội và thay quần áo,
chứ biết kiện ai bây giờ.
Chính quan niệm “làm gì thì làm miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi”, đã góp phần cho
nạn kẹt xe tại thành phố. Thực vậy, sau khi tan sở, ai cũng muốn mau chóng trở về nhà. Vì vậy, vào giờ
cao điểm, xe cộ ùn tắc là lẽ dĩ nhiên. Thế nhưng, nếu người người đều tuân thủ luật giao thông, thì sự
ùn tắc đó sẽ từ từ được giải quyết, không đến nỗi bị kẹt cả tiếng đồng hồ.

Đàng này, người ta chỉ sợ ông cảnh sát đứng bên lề đường và lăm le biên phạt, còn hệ thống đèn xanh
đèn đỏ chỉ là chuyện nhỏ, người ta coi như pha, để rồi mặc sức luồn lách mà ngoi lên phía trước, được tí
nào hay tí đó. Nếu không luồn lách được, thì tranh thủ leo lên vệ đường và dọt cho lẹ. Vì thế, đã kẹt lại
càng kẹt hơn. Đã ùn tắc lại càng ùn tắc hơn.

Tóm lại, yếu tố quyết định cho mọi công việc, chính là yếu tố con người. Bởi đó, các cụ ta ngày xưa đã
có lý khi khuyên nhủ con cháu :
- Phải tu thân trước đã, sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ.
Muốn đổi mới gia đình và xã hội, thì phải đổi mới tự bản thân. Muốn cho Sàigòn nói riêng và các thành
phố khác trên đất nước này nói chung, có được một nếp sống văn minh, không hổ thẹn với bè bạn bốn
phương, thì cần phải giáo dục con người Việt Nam có được cái tinh thần chung, cũng như cái ý thức cộng
đồng và trách nhiệm.
Không biết có phải do giáo dục, hay do “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, mà những người Việt sống
ở nước ngoài, khi về quê hương, đã cư xử một phần nào giống với những người phương Tây, đó là trên
môi miệng của họ có những chữ như :
- Xin lỗi, cám ơn…

Khi mọi người đã có được cái tinh thần chung và ý thức trách nhiệm, thì chẳng cần phải sử dụng tới tổ
SĐB, mà Sàigòn vẫn xứng đáng với tên gọi là hòn ngọc Viễn Đông :
- Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi!
CỌP VÀ NGƯỜI - Chuyen phiem cua ga sieu
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì hổ, cọp hay hùm là loài thú ăn thịt, họ mèo. Thân dài, cổ ngắn và
to. Đầu gọn, có răng khoẻ. Bàn chân trước rộng, có vuốt sắc. Lông vàng đỏ, có nhiều vằn đen. Vai cao
95-110 cm. Nặng 250-280 kg. Hổ đực lớn hơn hổ cái. Sống trong các loại rừng, kể cả rừng đầm lầy có
lau sậy. Ăn hươu nai, lợn rừng; có khi bắt cả trâm, bò, thỏ. Có thể ăn tới 30-50 kg thịt một bữa, sau đó
nhịn nhiều ngày.

Con cái ba năm sinh một lần. Động đực 4-8 ngày. Chửa 93-114 ngày. Đẻ 1-5 con. Sau 5-6 tháng cai sữa.
Hổ con thành thục khi 3-5 tuổi. Sống khoảng 20-30 năm.

Ngày xưa ở Việt Nam, hổ có mặt từ Bắc chí Nam. Da hổ đẹp, có giá trị trang trí cao, nên bị săn bắt
mạnh. Trên thế giới, dự đoán chỉ còn 6000-7000 con. Riêng tại Việt Nam, chỉ còn vài trăm con.

Hổ bị săn bắn nhiều để lấy xương, nấu thành “cao hổ cốt”. Trung bình mỗi bộ xương hổ nặng từ 10-12
kg. Cứ khoảng 100 kg xương hổ, thì nấu được 30 kg cao. Bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm
thuốc.

Hổ là động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, nên cần được bảo vệ.

Từ bài nghiên cứu trên, gã xin bàn tới loài hổ, bằng cách lươm lặt đó đây những mẩu truyện, để bàn dân
thiên hạ cùng đọc cho vui, nhân dịp đầu xuân năm mới.

Trước hết là tài nói dóc của bác Ba Phi được đăng trên trang “Đất Mũi”. Truyện rằng: Hai đứa con thằng
Tư Mít, cha mẹ đi làm bỏ chúng trên sàn gác, gặp cọp vô nhà chơi hoài. Chúng nó vắt cơm cháy, thảy
xuống cho cọp ăn. Ăn quen. Lần đó thằng Tư Mít núp trên sàn gác, đốt đỏ cái ống ngoáy trầu của bà, rồi
thảy xuống, cọp hả họng ra hứng liền. Lần ấy, nó chạy, la vang rừng suốt mấy bữa.

Lại có truyện rằng: Bà Tám ở xóm trên, đêm ngủ ngoài bụi ráng, vì bữa chiều hôm trước, bà uống rượu ở
đám giỗ xóm dưới, say quá không về tới nhà. Sáng ra, bà thấy cái đầu mình trọc lóc như trái bưởi, thì ra
đêm hôm đó, bà bị một con cọp đến liếm đầu!

Như tất cả chúng ta đều biết hổ là một loại thú dữ, vừa khoẻ lại vừa mạnh, nên hổ trở thành một mối
nguy hiểm cho những người đi rừng, một nỗi sợ hãi cho những người dân sống ở miền núi, mỗi khi hổ về
làng.

Truyện rằng: Làng Bung Koong, thuộc xã Đăk Blô là một trong những làng có số lượng trâu bò nhiều
nhất xã. Tập quán chăn nuôi của đồng bào từ xưa tới nay vẫn theo kiểu “nhờ trời”, trâu bò thả ngoài
rừng, cách làng khoảng 5 cây số. Lâu lâu người ta mới lên thăm đàn trâu bò của mình, cho ăn ít muối để
chúng nhớ hơi người, khỏi trở thành vật hoang.

Một ngày đầu tháng năm, gia đình A Ná lên thăm bò. Như thường lệ, ngửi thấy hơi muối, đàn bò lại chúi
mõm vào bàn tay chủ. A Ná đếm thử thấy thiếu hai con bò, anh nhờ người làng tìm kiếm mãi nhưng
không thấy. Liền đó, các nhà Y Vác, A Đảng, A Sáng, A Pel… cũng kêu mất trâu bò.

Thấy sự bất thường, già làng huy động mọi người cùng tìm kiếm. Trong đầu ai cũng cho là có kẻ trộm.
Sau nửa ngày truy lùng, đến gần trưa thì phát hiện xác một con bò đã bị ăn mất phần sau. Cái mõ đeo ở
cổ đã giúp A Ná nhận ra bò nhà mình. Dấu răng gặm nham nhở cho thấy thủ phạm đích thị là “ông cọp”.
Nhà A Ná vẫn may vì bò còn “khúc giữa”. Nhiều nhà chỉ tìm thấy vài mẩu xương bò sắp mủn.

Chị Y Nghiếp nói giọng thảng thốt:


- May mà Yang (Trời) thương nên giúp con trâu mình chạy kịp. Đêm vẫn nghe tiếng cọp gầm ở cánh
rừng phía trước. Sợ nó lại mò về làng bắt trâu. Nhiều đêm nay mình không dám ngủ.

Không riêng làng Bung Koong, mà các làng khác trong xã cũng vậy. Đi tới đâu chúng tôi cũng nghe bà
con than thở chuyện trâu bò bị cọp ăn thịt. Người dân các làng cùng hợp sức chống cọp. Họ đã tìm ra
“căn cứ địa” của cọp. Anh A Dem ở làng Bung Tôn kể:

- Khi chúng tôi vào chân núi Piêng Ôi, nhiều nơi dấu chân cọp vẫn còn mới; có những dấu chân to gần
bàn tay người lớn xòe ra, đường kính khoảng 20cm. Ngày hôm qua, vào rừng mang theo sáu con chó
săn, nhưng khi ngửi thấy mùi cọp, cả đàn sợ rúm quẩn quanh chân mình, tru lên thống thiết.

Bà con còn cho biết, qua dấu chân để lại thì đây là một con cọp ba chân. Khả năng con cọp này bị mắc
bẫy, đã tự cắn đứt chân mình để thoát thân. Đó có thể là một con cọp rất lớn và khá tinh khôn, bởi khi
bắt trâu bò, nó nhấc bổng để tha vào rừng chứ không kéo lê dưới đất. Có con trâu nặng vài tạ nhưng nó
“xơi” chỉ còn mấy khúc xương to và cái đầu.

Người dân hoang mang: đàn cọp có mười con. Nhưng theo kinh nghiệm của những người thợ săn, cọp
không bao giờ sống thành bầy đàn. Hiện tại ngoài con cọp ba chân này, bà con chỉ xác nhận thêm được
con nhỏ hơn, thường quẩn quanh con cọp lớn có lẽ để “hưởng sái” thức ăn thừa.

Cũng theo sự phản đoán thì đôi cọp này là “công dân” của vùng núi Ngók Linh, lần lượt “ghé thăm” các
làng theo chu kỳ nhất định. Cách đây hơn mười năm, Đăk Blô cũng đã xảy ra họa trâu bò bị cọp vồ. Theo
thống kê, lần này cọp đã về tha mất 15 con trâu bò của xã Đăk Blô. Tính chung cả Đăk Man thì toàn
huyện Đăk Glei đã có 23 con trâu, bò bị cọp về bắt đi, ăn thịt (trang Dân Trí).

Tuy nhiên, dầu khoẻ đến đâu, con cọp con hổ cuối cùng cũng vẫn thua con người, vì thế nên mới tiến
dần tới chỗ tuyệt chủng.

Truyện rằng: Vào một buổi trưa hè oi bức, bác nông phu cùng với con trâu đang cố gắng cày nốt thửa
ruộng ven rừng. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại và chảy xuống đầy mặt ròng ròng.

Sau khi công việc xong xuôi, bác nông phu ngồi nghỉ dưới bóng một cây đa và bắn một điếu thuốc lào
kêu ro ro. Còn trâu thì được đằm mình trong một vũng nước gần đấy.

Một chú hổ từ trong rừng bước ra. Chú đến bên trâu và nói:
- Trâu ơi, sao mày ngu thế. Mày vừa to lại vừa khỏe, thế mà lại để cho cái thằng người vừa nhỏ lại vừa
yếu bắt phải làm những công việc nặng nhọc, nào cày sâu, nào bừa nát…mày không biết xấu hổ hay
sao?

Trâu lắc đầu và bảo:

- Chú nói khe khẽ thôi, đừng để cho bác nông phu nghe thấy.
Rồi với dáng điệu bí mật, trâu bật mí cho chú hổ hay:

- Chú biết không, bác nông phu mà chú gọi là cái thằng người ấy có cái này thật là tuyệt vời.

Chú hổ bèn tò mò hỏi tiếp:

- Thế thì đó là cái gì vậy?

- Cái trí khôn đó mà.

- Thế thì cái trí khôn ấy nó ra làm sao?

Trâu trả lời:

- Tôi đành phải chịu thua, không thể diễn tả được.

Chú hổ tỏ ra bực bội và tức tối:


- Rõ đồ ngu như trâu!
Sau đó, chú hổ mon men đến bên cạnh và gợi chuyện với bác nông phu:

- Này bác, tôi nghe người ta nói bác có cái trí khôn thật là cực kỳ. Vậy bác làm ơn cho tôi xem tí nhé.

Bác nông phu trả lời:


- Rất tiếc. Hôm nay ta lại để nó ở nhà mất rồi.

Chú hổ năn nỉ ỉ ôi:


- Thế thì bác chịu khó chạy về lấy mang ra đây, tôi sẽ xin hậu tạ.

Bác nông dân lắc đầu quầy quậy:


- Đâu có được. Vì nếu ta chạy về lấy, thì ở đây ngươi sẽ xơi tái con trâu của ta mất thôi.

Suy nghĩ một lúc, bác nông phu nói tiếp:


- Nếu ngươi bằng lòng, tạm thời ta sẽ trói ngươi lại, trong lúc ta chạy về nhà. Được không?

Chú hổ miễn cưỡng trả lời:


- Thế thì cứ tạm là như vậy.

Bác nông phu bèn mượn đỡ sợi dây thừng cột trâu trói nghiến chú hổ lại. Vừa trói xong, thì nhanh như
chớp, bác lấy chiếc đòn càn đập túi bụi vào chú hổ. Vừa đập vừa la hét:

- Cái trí khôn của ta đây này, cái trí khôn của ta đây này.

Chính nhờ trí khôn, con người không phải chỉ tập cho cọp làm được những động tác kỳ lạ, như ngồi trên
ghế, nhảy qua vòng lửa…mà chúng ta vốn thường thấy qua việc trình diễn của các gánh xiếc, hơn thế
nữa con người còn lợi dụng sức mạnh của cọp để làm những công việc hữu ích cho mình, như xay lúa giã
gạo…

Bác Ba Phi kể lại rằng: Có một đêm, tui cũng ngủ trên sàn gác, khoảng gà gáy hiệp ba, bỗng nghe con
heo khoảng một tạ ngoài chuồng kêu éc éc. Biết là “ông ba mươi” đến viếng rồi, tui liền xách cây mác
thong phóng xuống, đuổi theo. Rượt đến sáng mới giật lại được xác con heo, tôi vác về.

Để con heo đó, lum khum nhóm lửa nấu nước, tui bỗng nghe tiếng động rột rẹt trong lùm ráng. Liếc mắt
nhìn qua, tui thấy rõ ràng là “anh ta”. Vì hụt mất miếng mồi nên con cọp tức, trở lại rình mò. Đó là một
con cọp cái bụng đang có chửa. Tui thấy nó ngồi nhìn xác con heo, mà thèm đến nhểu nước miếng.
Không được ăn thịt heo, con cọp đâm ra thù tui.

Trưa bữa sau, hai vợ chồng tui khiêng cối ra xay lúa. Cái giằng xay tui làm bằng cây tràm suồi, thịt gỗ
thật dẻo. Đang xay lúa ì xèo, tui lại nghe sau bụi ráng có tiếng động rột rẹt.

- Giống con cọp cái này thù vặt quá!


Tui nói trong bụng:

- Bữa nay, bắt mày xay lúa một trận cho biết tay.
Tui kêu vợ tui xúc sẵn hai chục giạ lúa để gần bên cối xay đó. Vừa xay, tui vừa liếc chừng vô bụi ráng,
giả bộ như không hay biết gì. Chờ lúc cọp nhảy ra phủ đầu, tui hụp xuống, trịch ngang. Hai bàn tay cọp
bấu tám móng cứng ngắc vào cán giằng xay. Sẵn trớn cái cối đang quay, con cọp kéo lui hết vòng thì bị
cái cối theo quán tính quay tới, mà hễ cái cối quay tới hết vòng thì bị con cọp ghị lui. Cứ như vậy mà cọp
ta theo đà cối quay đẩy tới kéo lui hoài. Tui đứng một bên, cứ xúc lúa châm vô cối liên tục.

Đến lúc con cọp xay hết hai chục giạ lúa, tui kêu vợ tui vô bồ xúc thêm lúa nữa. Thấy con cọp có chửa
nên cũng động lòng thương, vợ tui bảo thôi, tha cho nó. Tui nắm tay cối xay ghìm mạnh lại cho dừng
trớn quay. Con cọp bị hụt đà, vuột tám móng ra khỏi cán giằng xay, chúi đầu về phía trước. Nó lồm cồm
ngồi dậy, mệt thở muốn hết ra hơi, lệt bệt bỏ đi vô rừng. Không tin thì hỏi bả coi. (Trang Đất Mũi)

Ngoài sức mạnh của chúa sơn lâm, người ta còn sử dụng tất cả mọi sự của loài thú quí hiếm này, từ răng
nanh đến móng vuốt, từ bộ da đến bộ xương, không bỏ đi một chút nào cả.

Trước hết là thịt cọp, thịt hổ. Đã lâu lắm rồi, kể từ hồi gã còn bé tí ti, có một người bà con đi làm ăn và
lập nghiệp mãi tận Buôn Ma Thuột, về thăm dân làng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Người ấy đã
biếu ông ngoại gã một gói…khô hùm để nhắm rượu. Gã cũng được ông ngoại chia cho vài miếng, nhưng
thú thực là cho đến bây giờ, gã không còn nhớ khô hùm mùi vị như thế nào? Ngon hay dở?

Cũng vì hổ cọp là loài động vật quí hiếm, nên các nhà hàng, quán nhậu không ghi tên món thịt hùm vào
thực đơn những món đặc sản của mình. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu của Từ Điển Bách Khoa Việt
Nam, thì bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm thuốc. Chắc hẳn đây là một thứ độc chiêu giúp
cho mấy anh đờn ông chu toàn bổn phận làm chồng của mình.

Tiếp đến là móng cọp và nanh cọp. Hình như thiên hạ thích dùng những thứ hàng độc này để chuyên trị
tà mà, bùa phép…cho bản thân mình được bình an may mắn, không bị mấy thứ hắc ám của những kẻ
mang ý đồ đen tối làm hại. Còn da cọp, người ta thường dùng để trang trí nội thất, cho thêm phần oai
phong và hùng dũng. Nhưng đặc biệt hơn cả thì phải kể đến xương cọp.
Thực vậy, từ lâu xương hổ, xương cọp hay xương hùm đã được dùng để chế tạo cao hổ cốt. Và cũng
theo một bài viết trong Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì Cao hổ cốt là một vị thuốc rất thông dụng trong
dân gian. Để chế tạo loại cao này, người ta lấy xương hổ, nấu lên, cô đặc, rồi đóng thành bánh, mỗi
bánh khoảng 70-100 gr. Cao có độ rắn cứng, màu đen, vị tanh, chứa axit amin cần thiết cho cơ thể. Tỷ lệ
đạm thành phần khá cao.

Về cách dùng: người ta thái nhỏ ăn với cháo, ngâm với mật ong hay ngâm với rượu để làm thành rượu
hổ cốt. Theo y học dân tộc, cao hổ cốt chữa được nhiều chứng bệnh như tê thấp, đau khớp…Thành phần
hoá học và thành phần tác dụng của nó chưa được xác định rõ. Người ta thường nấu thêm với với xương
khỉ, sơn dương. Vì thế, hiếm có loại cao hổ cốt thuần nhất xương hổ.

Để kết thúc mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin ghi lại bài viết của Lương Lệ Huyền Chiêu trên trang Văn
Tuyển với tựa đề là “Cọp Ninh Hoà” như sau:

Thuở nhỏ tôi thường nài nỉ bà tôi kể chuyện cọp Ninh Hòa. Những câu chuyện ấy hầu như tôi đã thuộc
lòng nhưng tôi vẫn thích được nghe bà kể lại để tôi vừa có cảm giác run sợ vừa thấy lòng hãnh diện vì
quê hương mình từng có…nhiều cọp.

- Hồi bà còn nhỏ, quê mình cọp nhiều lắm. Thời đó nhà cửa, dân cư thưa thớt, không biết chừng Cọp
nhiều hơn người. Cọp dạn lắm. Mấy "ổng" nghênh ngang muốn đi đâu thì đi, muốn ở đâu thì ở, coi người
như rác. Trời tối, cọp bắt đầu túa về làng. Cháu thấy đó, quê mình như cái lòng chảo, bốn bề núi non.
Cọp từ Suối Ré tuôn ra, cọp từ Hòn Hèo lần tới, cọp từ dốc Đá Trắng, Dục Mỹ, núi Vọng Phu cũng kéo
nhau xuống.

- Mấy ổng về làng làm gì hả bà?

- Thì mấy ổng buồn buồn đi rong chơi, gặp heo thì bắt heo, gặp chó bắt chó, có khi rinh cả bò, ngựa.
Cọp ở Ninh Hòa mình chắc lúc đó có cả ngàn con.

Tôi bắt đầu thấy run run:

- Vậy mình trốn đi đâu hả bà?

- Thì chiều xuống mình lo nấu cơm ăn rồi đóng cửa đi ngủ sớm. Nói vậy chứ có ngủ được đâu, ở trong
nhà nghe tiếng “À nôm“ của mấy ổng mà phát run, lại còn tiếng mấy con chó đi chơi về muộn chui rèn
rẹt qua lỗ chó chui nữa chớ. Ban ngày thì đỡ hơn, mấy ổng về nằm ngủ trong mấy bụi tre rừng – Không
hiểu sao cọp thích ở rừng tre - Vậy nên mới có câu chuyện này:

Một bữa, mấy người trong xóm rủ nhau lên rừng bẻ măng. Mấy bà già sợ cọp nên hay ở quanh quẩn bên
mấy mấy đứa trai tráng. Hôm đó thằng Lực, đứa khỏe nhất trong bọn, đang thò cây sào, một đầu có gắn
câu liêm, vào một bụi tre rừng, bỗng nó đứng bật dậy thét lên một tiếng “A. Cọp“, rồi nó trợn mắt chết
trân. Té ra là nó chọt trúng một ông cọp đang nằm ngủ. Ông cọp bị đánh thức, vươn vai chui ra khỏi bụi
tre rừng, đứng nheo mắt nhìn thằng Lực. Nghe tiếng thét, bà lão Mịch, hàng xóm của thằng Lực, xăm
xăm bước tới. Thấy tình cảnh thằng Lực, bà nóng ruột xỉa cây gậy về phía ông cọp và quát:

- Tổ cha mày, mày không thấy nó sợ chết điếng rồi sao mà còn đứng đó. Tìm chổ khác chơi đi .

Vậy mà ông cọp lại bỏ đi mới ngộ chớ. Cọp đi rồi, bà Mịch bước đến bên cạnh thằng Lực, tay vuốt ngực
miệng hô “ba hồn chín vía mầy tỉnh dậy Lực ơi !” Phải một hồi lâu hồn thằng Lực mới nhập về xác của
nó. Từ đó thằng Lực coi bà Mịch như là người đẻ nó lần thứ hai.

- Cọp cũng sợ bị chửi hả bà ?

- Không phải đâu, cọp nó thấy bà Mịch không sợ nó, nên nó nghi ngờ đây là kẻ mạnh.

Để bà kể tiếp chuyện mày nghe:

- Hồi đó đâu có máy xay gạo như bây giờ. Tối tối, trời có trăng, người ta xúm lại một sân nhà để xay lúa,
giã gạo. Xóm đó có thằng đui chuyên giữ một tay chày. Bữa đó đang kẻ xay người giã, bỗng tất cả đều
nhìn thấy một ông cọp đang ngồi rình sau bụi chuối. Mấy người sáng mắt bỏ chạy không kịp kêu một
tiếng. Tội nghiệp thằng đui, nó đứng dang chân, chày giơ lên trời, chờ một tiếng “thịch“ để hạ chày mà
chờ hoài không thấy. Ông cọp biết có người không thèm bỏ chạy, lại còn giơ chày định phang nó, nên nó
lặng lẽ bỏ đi mất.

Những câu chuyện của bà tôi có thể là chuyện hoang đường, nhưng có một điều thực, đó là Ninh Hòa
quê tôi ngày xưa là giang sơn của hàng ngàn con cọp. Mẹ tôi thường than thở “Chiến tranh! Cọp sợ súng
đạn đi hết!“ Tôi không tin rằng cọp đã bỏ đi. Tôi nghĩ rằng cọp đã đến thời kỳ diệt chủng. Những con vật
to lớn, mạnh mẽ nhất như khủng long, voi ma mút, cá voi, sư tử, cọp, beo ...và cả loài người nữa sẻ lần
lượt biến mất trên trái đất này do một quy luật huyền bí của thiên nhiên.

Văn minh của loài người nếu thiếu tình yêu thương, tính nhân bản chắc chắn sẽ đưa loài người gần đến
sự hủy diệt hơn là sự trường tồn. Có lẻ một ngày nào đó, trái đất này chỉ còn lại cây cỏ và những côn
trùng bé nhỏ nhất. Cầu trời cho ít nhất cũng còn sót một Adam và một Eva.
cọp - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Năm Canh Dần cầm tinh con cọp, vì thế trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin bàn về một vài đặc
tính của cọp.

Theo gã được biết, thì hổ, cọp hay hùm…là một loài thú vừa lớn lại vừa dữ, thuộc nhà mèo. Thân dài, cổ
ngắn, đầu tròn, râu cứng, răng nhọn. Lông màu vàng đỏ và có nhiều vằn đen. Sống trong các khu rừng,
kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Chúng thường ăn thịt hươu nai, lợn rừng, thậm chí có khi bắt cả trâu bò
mà ăn. Mỗi bữa dùng tới 30, hay 50 ký lô thịt. Sau đó, có thể nhịn trong nhiều ngày…(Từ điển Bách khoa
Việt Nam).

Như vậy, xét theo chính tông dòng họ “miêu” thì có đủ các loại mèo, từ mèo to đến mèo nhỏ, từ mèo
mun đến mèo mướp, từ mèo nhà đến mèo rừng…Đây là những loài mèo con nhà “mão”. Bên cạnh đó
còn có những con tương cận, tuỳ theo vóc dáng, và nhất là bộ lông, người ta có thể chia thành:

1- Hổ, cọp, hay hùm.


2- Báo hay beo.
3- Sư tử.

Tóm lại, cọp beo và sư tử đều có liên hệ dây mơ rễ má với nhau, vì cùng chung một gốc gác là mèo.
Chẳng thế mà dân bợm nhậu hiện nay vốn gọi mèo là tiểu hổ. Ngoài ra, trong dân gian người ta thường
gọi hổ, cọp, hùm là…ông ba mươi. Số là ngày xưa, hễ ai giết được một con cọp, thì sẽ được nhà nước
thưởng cho ba mươi quan tiền!

Nói tới hổ, cọp hay hùm là người ta nghĩ ngay tới cái dáng dấp hào hùng mạnh mẽ, cái khí thế oai phong
lẫm liệt. Vì vậy, hình ảnh của loài thú này vốn được dùng làm biểu tượng cho các vị tướng lãnh và các
bậc anh hùng. Chẳng hạn người ta dùng danh từ “hổ tướng” để nói về một viên võ tướng có dáng điệu
uy nghi, oai vệ, trông rất hùng dũng:

- Ra oai hổ tướng đoạt thành,


Ngói tan, trúc chẻ, tan tành thịt xương.

Còn hai chữ “hổ trướng” có ý nói tới nơi đóng quân của viên chủ tướng. Nơi đây thường có vẽ hình con
hổ. Tục truyền rằng vua nước Lương là Từ Tri Ngạc, trong những cuộc chinh phạt, thường dùng da hổ
vây quanh trướng để họp với các thuộc hạ, luận bàn về quân sự. Vì thế nơi này được gọi là hổ trướng:

- Họp trong hổ trướng luận bàn quân cơ.


Cũng vì thế, mà người dân Việt Nam đã gọi ông Hoàng Hoa Thám, hay Đề Thám, người anh hùng đất
Yên Thế là Hùm thiêng Yên Thế.
Theo sử sách ghi lại, ông là người thôn Lang Trung, thuộc tỉnh Bắc Giang. Tên thật là Trương Văn Thám.
Cha là Trương Văn Vinh, còn mẹ là người làng Ngọc Cục, gần thôn Lang Trung. Năm 20 tuổi, Thám tình
nguyện xung vào đoàn nghĩa binh của Trần Quang Soạn để chống Pháp. Năm 23 tuổi, theo cha nuôi là
Ba Phúc đi Vân Nam vận động nghĩa binh, rồi về giúp việc cho Cai Kinh, được phong làm Đề đốc và từ đó
được gọi là Đề Thám.

Ngày 06.7.1888, Cai Kinh bị giết ở Lạng Sơn, Đề Thám tụ tập nghĩa quân chống Pháp suốt vùng Võ
Giang, Hiệp Hoà, Việt Yên…Tháng 4 năm 1889, binh lính được khoảng 500 tay súng, tụ tập ở làng Đình
Tảo, làm lễ tế cờ, cùng nhau uống máu ăn thề, rồi lập đồn ải khắp vùng Phủ Lạng Thương, Vĩnh Phúc
Yên, Thái Nguyên, Bắc Giang và đặt tổng hành dinh tại Yên Thế. Lúc mạnh thì đánh. Lúc yếu thì trá
hàng, làm cho Pháp rất cực nhọc, dẹp không được, mà cầm cũng không yên.

Chính trong lần trá hàng chót vào năm 1905, Đề Thám cho tổ chức đảng Nghĩa Hưng để hoạt động trong
hàng ngũ của địch, rồi ngày 17.11.1907 làm một vụ nội công ngoại kích tại cửa Nam, Hà nội và ngày
27.6.1908 đầu độc công binh Pháp. Năm 1909, Pháp phải huy động hết lực lượng đánh vào Yên Thế, làm
cho Đề Thám phải chiến đấu rất cam go. Nghĩa quân, lớp tử trận, lớp ra hàng, số còn lại cũng dần dần
mất hết tin tưởng nơi chủ tướng. Các con lớn đều chết, chỉ còn người con gái nhỏ tên Hoàng Thị Thế, là
con bà vợ ba, cũng cùng mẹ bị bắt vào tháng 11 năm 1909.

Mặc dù đã ở vào đường cùng, ông vẫn còn cố gắng hoạt động ở Thượng Yên. Ngày 21.11.1911, Pháp
đem quân đến bao vây ngọn đồi gần Yên Lê, làm bị thương 7 người và giết chết 5 người khác. Riêng ông
thì thoát khỏi vòng vây. Từ đó, hay tin ông ở đâu là Pháp liền đem quân truy nã, nhưng không thể nào
bắt được ông. Cuối cùng, Pháp phải nhờ đến Lương Tam Kỳ là một tên giặc khách cho người trá hàng,
lừa thế giết ông trong đêm ngày 9.2.1913, để lãnh tiền thưởng.

Cuộc kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và đảng Nghĩa Hưng bị chấm dứt. Tuy nhiên, người anh
hùng đất Yên Thế hay con hùm thiêng Yên Thế vẫn sống mãi trong tâm khảm của người dân Việt Nam.

Thực đúng như người xưa đã từng nói:


- Hổ tử hùng tâm tại. Có nghĩa là cọp tuy chết, nhưng cái khí thế hùng mạnh của nó vẫn còn đó. Người
anh hùng tuy chết, nhưng danh tiếng vẫn lưu truyền muôn đời.
Hay như:

- Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh, có nghĩa là hổ chết để da, người ta chết để tiếng.

Cũng giống như cọp, người anh hùng đôi lúc cũng gặp phải hoạn nạn theo kiểu: hùm thiêng mắc bẫy
mọi, có nghĩa là người tài ba mà sa cơ vì mưu kế của một kẻ vô danh.
Đời Tam Quốc bên Tàu, Quan Vân Trường đứng đầu ngũ hổ tướng của Hán Trung Vương. Khi thủ Kinh
Châu, đã từng bắt Vu Cấm, giết Bằng Đức là tướng tài của Tào Tháo. Nhưng rồi lại bị Lữ Mông, một viên
tướng tầm thường của Ngô Quyền triệt hạ các phong hoả đài, đoạt Kinh Châu trong lúc Quan Công đi
đánh Phàn thành, rồi phục binh bắt Quan Công nơi Quyết Thạch.

Và một khi dậu đổ thì bìm leo. Hổ lạc bình dương, khuyển khi. Có nghĩa là cọp xuống đất bằng thì bị chó
khinh. Người anh hùng một khi đã hết thời, thì ngay cả những kẻ chẳng ra gì cũng dám mở miệng chê
bai.

Còn đâu nữa cái thời oanh liệt, bọn tiểu nhân kéo đến núp bóng, lợi dụng danh nghĩa mà ra oai theo kiểu
“cáo mượn oai cọp”. Truyện rằng:
Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một kẻ bầy tôi. Thế mà người phương bắc, hễ
nghe thấy nói về Chiêu Hề Tuất cũng đều phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thân là vì cớ
làm sao? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:

- Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con cáo. Cáo bảo: Liệu đó! Chớ có động
chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta
là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin, cứ để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem
có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn cho mau hay không!

Hổ cho cáo là nói thật, bèn theo cáo đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không
biết rằng bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua
giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như
bách thú sợ cáo vậy.

Những kẻ tầm thường mượn quyền thế người trên để hống hách, doạ nạt người ta. Nếu không biết, thì
người ta còn sợ, chứ khi “hổ mà thêm cỏ, lừa mà thò tai”, thì chẳng những người ta đem lòng khinh, mà
còn làm đê nhục cho bõ ghét. (trích trong Cổ Học Tinh Hoa).

Còn đâu nữa cái thời oanh liệt làm bá chủ cả sơn lâm, như Thế Lữ đã từng diễn tả qua bài “Nhớ rừng”:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
(……..)

Tiếp đến, gã xin trình bày về cái tình của loài cọp. Cọp tuy dữ, thế nhung nhiều lúc cái tình của nó cũng
thật đậm đà và dễ thương, nó chẳng bao giờ ăn thịt con của mình.

Đối với con người, cọp thường là một mối đe doạ và để lại những hậu quả thảm khốc. Thế nhưng đôi lúc
cọp cũng tỏ ra quí mến và biết ơn người đã từng giúp đỡ nó, như câu truyện « Người nuôi cọp » dưới
đây:

Ngày xưa, ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa có một ông lão tiều phu tên Nguyễn Quốc Oai, tính khí
ngông nghênh. Ông lão không có con, chỉ có hai vợ chồng trơ trọi. Nhà làm ở trong núi, hàng ngày kiếm
củi bán để sống.

Một hôm, ông lão đi vào rừng trông thấy ở dưới đèo có một con cọp con lông vuốt chưa mọc mà mình
mẩy thì đầm đìa máu. Đoán chừng là cọp mẹ cõng con đánh rơi xuống không lấy lên được, bèn trèo
xuống bắt lên đem về nuôi, lấy thuốc bôi cho khỏi chỗ đau. Bà vợ thấy thế, can chồng rằng:

- Cọp là giống hung tợn, nuôi thế nào được, hãy thả nó ra, kẻo lại mắc họa về sau.

Ông lão không nghe, nói rằng:


- Giống vật cũng có linh tính, biết đền ơn trả nghĩa. Như trước kia có người đàn ông kiếm củi ở làng
Thuận Lộc chữa cho cọp khỏi hóc, người đàn bà bán rượu ở làng Trung Hà giúp cọp sinh đẻ, đến bây giờ
những người ấy vào rừng không lo gì cọp nữa. Những người ấy làm ơn trong một lúc mà con cháu còn
được đền ơn đến bây giờ. Huống chi là ta nuôi từ lúc yếu đến lúc mạnh, coi nó như là con.

Từ đó, ông nuôi cọp như con. Lúc ăn uống, cho ngồi ở bên, lấy thức mình ăn thừa cho cọp ăn. Dần dần,
lông cọp mỗi ngày một dài, nanh vuốt đầy đủ, mà cọp lại hiểu ý người ta, lúc thì múa, lúc thì nhảy làm
trò cho vui.

Thấy thế, ông lão càng yêu nó lắm. Đi đâu, ông cũng bảo nó đi theo hầu mang đồ nhắm và đeo bầu
rượu. Lúc uống rượu xong thì ông lại cưỡi cọp mà đi lăng nhăng ở trong rừng núi, ai trông thấy cũng lấy
làm lạ, sợ hãi.

Buổi tối ông thường đơm đó ở dưới khe suối lấy cá, thỉnh thoảng bị kẻ khác lấy đi mất. Vì thế đêm đêm
ông dặn cọp cứ ra đấy mà giữ. Khi nào ông đến thì ho lên mấy tiếng cho nó biết. Hễ cọp nghe thấy tiếng
thì ra đón rước. Ông xuống khe, đổ đó lấy cá đem đổi lấy thịt để nuôi cọp.

Cứ như thế được nửa năm. Một đêm, ông say rượu, ra chỗ đơm đó quên không lên tiếng, con cọp ngờ là
người khác liền cắn ngay một miếng. Đến lúc trông mặt, biết là cha nuôi mình thì đã muộn. Cọp liền
cõng xác cha nuôi lên bờ rồi về nhà, đến trước vợ ông lão, cọp phục xuống mà chảy nước mắt ra, như là
kẻ đến thú tội. Người vợ thấy thế lấy làm ngạc nhiên, đốt đuốc đi theo cọp.

Khi đến nơi, thấy chồng nằm trên bờ suối, áo quần đầm đìa những máu, bà liền kêu lên rồi trỏ vào mặt
con cọp mà mắng:
- Mày đã quên cái ơn nuôi nấng mà đã vội cắn trả lại chủ mày thế ư? Tao không muốn trông thấy mặt
mày nữa, đi đâu thì đi.

Cọp cúi đầu xuống mà ra đi. Sáng hôm sau, người vợ khiêng xác chồng đi chôn.

Đến ngày thành phục thì con cọp đem một con lợn về để ngoài sân, đến ngày cất đám, cọp lại đem về
một con bò để cúng chủ. Lại đến ngày tiểu tường, các cọp rủ nhau đến quấy, bắt những súc vật trong
làng. Dân chúng sợ hãi xem bói bảo rằng:

- Ấy là cọp muốn báo ơn ông ấy đấy. Các ông nên làm đền mờ thờ Hổ ông. Hễ ông ấy được cúng tế thì
yên.

Bấy giờ làng mới đem thờ ông Nguyễn Quốc Oai ở bên tả đình, tôn làm hậu thần, đèn hương ngày đêm
cúng tế, gọi là đền Hổ ông.
Quả nhiên từ đấy trong làng được bình yên. (trang Quê Hương)

Cũng vậy, trâu đi, cọp về, mong rằng đất nước sẽ được an bình và dân tộc sẽ được ấm no hạnh phúc.
KHI ĐỜN BÀ NẮM QUYỀN - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Vừa mới nhận được một chuyện vui nho nhỏ, viết về đờn bà con gái, gã xin kể lại đây để bàn dân thiên
hạ cùng suy gẫm và nhận định xem thực hư như thế nào.

Số là ông vua xe hơi, Henry Ford, sau khi chết được đưa lên thiên đàng. Tại cổng thiên đàng đã có thánh
Phêrô đứng chờ sẵn để đón chào. Vừa gặp ông ta, thánh Phêrô đã mỉm cười và cho biết :
- Hồi còn sống, ngươi đã làm nhiều điều lợi ích cho xã hội, chẳng hạn như đã sáng chế ra phương pháp
dây chuyền, làm cho kỹ nghệ xe hơi thay đổi cả và thế giới. Với thành quả này, ngươi sẽ được một ân
huệ, đó là có thể chuyện trò với bất cứ ai ở trên thiên đàng.

Suy nghĩ một lát, ông ta xin được gặp Thượng Đế. Và thế là thánh Phêrô bèn lập tức dẫn ông ta ra mắt
Thượng Đế. Vừa gặp Ngài, ông ta liền hỏi ngay :
- Thưa Ngài, lúc chế tạo ra đờn bà con gái, Ngài đã suy nghĩ như thế nào ?
Thượng Đế nghe xong, bèn vặn lại :
- Ngươi nói như vậy là có ý nghĩa gì ?
Ông ta bèn trả lời :
- Sản phẩm của Ngài còn có quá nhiều sơ sót. Phía trước thì bị phồng lên, còn phía sau thì lại bị nhô ra.
Máy thường kêu to mỗi khi chạy nhanh. Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao. Thường xuyên đòi hỏi nước
sơn mới. Cứ đi hai mươi tám ngày, thì lại bị chảy nhớt và không làm việc được. Chỗ bơm xăng và ống xả
lại quá gần nhau. Đèn trước hơi bị nhỏ. Tiêu thụ nhiên liệu thì nhiều khủng khiếp.
Thượng Đế nghe qua liền bảo :
- Ngươi hãy đợi ta một chốc để ta xem lại bản thiết kế.
Thượng Đế bèn cho triệu tập toàn bộ các kỹ sư thiết kế và cơ khí trên thiên đàng lại để xem xét quá
trình thi công. Sau một thời gian…“ngâm kíu”, họ trình lên Thượng Đế một bản báo cáo.
Xem xong bản báo cáo này, Thượng Đế bèn phán rằng :
- Mọi điều ngươi vừa nói, đều hoàn toàn đúng. Bằng sáng chế của ta thật có nhiều sai sót. Thế nhưng,
nếu tính về phương diện kinh tế, thì hiệu quả lại rất cao : Có gần 98% đờn ông con giai trên thế gian xài
sản phẩm do Ta chế tạo, trong khi đó chưa đầy 10% đờn ông con giai xài sản phẩm của ngươi.

Từ câu chuyện trên, gã nghiệm ra rằng thì là : nhân vô thập toàn. Ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm
của mình, chẳng riêng gì đờn bà con gái, mà ngay cả đờn ông con giai cũng thế mà thôi. Phải chăng điều
đó cũng đã được Thượng Đế tính toán, cũng như đã được nằm sẵn trong chương trình và ý định tuyệt
vời của Ngài.

Thực vậy, nếu Ngài dựng nên con người trong tình trạng hoàn hảo và thánh thiện, thì có lẽ lúc bấy giờ
thế gian này sẽ chán phèo và buồn tênh, bởi vì nó phẳng lặng như mặt nước hồ thu và con người sẽ
chẳng còn tạo được cho mình một chút công trạng nào cả. Với những khuyết điểm mang trong thân
phận, con người phải cố gắng, phải phấn đấu từng giây từng phút. Chính những cố gắng và phấn đấu
này đã góp phần làm nên vẻ đẹp của con người.

Từ ngàn xưa, các cụ ta vốn thường quan niệm :


- Gái trong khung cửi, giai ngoài chân mây.
Có nghĩa là đờn bà con gái thì lo quán xuyến những công việc trong nhà, như bếp núc và nuôi dạy con
cái. Còn đờn ông con giai thì lo gánh vác những công việc ngoài ngõ, tức là những công việc mang tính
cách xã hội.
Tuy nhiên, trong những tháng năm gần đây, nhất là kể từ khi phong trào giải phóng phụ nữ, hay nói
cách khác kể từ khi phong trào đờn bà con gái vùng lên đòi bình đẳng với đờn ông con giai, thì phe ta
dần dần thoát ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, để dấn thân vào xã hội và cũng đã gặt hái được những
thành công rạng rỡ, chẳng thua gì cánh mày râu.

Chẳng hạn như bà Golda Meir, một khuôn mặt chính trị sáng giá của Do Thái. Bà đã từng giữ chức bộ
trưởng ngoại giao từ năm 1956 đến năm 1966, rồi nắm giữ chức thủ tướng từ năm 1969 đến năm 1974.
Tuy mang tiếng thuộc về phe liễu yếu đào tơ, nhưng bà đã thực sự dùng những biện pháp mạnh trong
đường lối lãnh đạo của mình.

Chẳng hạn như bà Margaret Thatcher, cũng là một khuôn mặt chính trị sáng giá của dân Ăng Lê. Bà là
lãnh tụ của đảng Bảo Thủ vào năm 1975, giữ chức thủ tướng suốt ba nhiệm kỳ, từ năm 1979 đến năm
1990, và cũng đã dùng những biện pháp mạnh để giải quyết các vấn đề bang giao quốc tế, thí dụ việc sử
dụng quân đội chống lại Argentina về hòn đảo Falkland.

Và theo sự đánh giá của bàn dân thiên hạ, thì hiện nay có hai phụ nữ quyền lực nhất thế giới, đó là bà
Angela Merkel, thủ tướng nước Đức và bà Condoleezza Rice, bộ trưởng ngoại giao của Mỹ…Và còn rất
nhiều khuôn mặt đờn bà con gái khác đang từng làm mưa làm gió tại nhiều lãnh vực khác nhau.

Tuy nhiên, dù ở trong nhà hay ở ngoài ngõ, thì một nét duyên ngầm, nhưng lại rất hấp dẫn của đờn bà
con gái, đó là sự dịu hiền và tế nhị được biểu lộ qua từng ánh mắt, từng lời nói, từng cử chỉ, khiến cho
phe đờn ông con giai phải chết mê chết mệt, chết đứ chết đừ.
Thế nhưng trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những người đờn bà rất hung dữ, chẳng còn
tí tẹo nào là dịu hiền và tế nhị. Sự hung dữ này rất có thể do di truyền và nằm sẵn trong máu huyết,
trong lục phủ ngũ tạng của họ. Bản chất của họ là hung dữ, theo kiểu phát biểu của Nho giáo :
- Nhân chi sơ, tính vốn…dữ.
Gã xin đưa ra hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất tiêu biểu cho trường phái phương tây, đó là bà vợ của Socrate.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã biết Socrate là một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ xưa, lý
thuyết của ông còn ảnh hưởng cho tới ngày nay, thế nhưng tai hại thay, ông lại là nạn nhân của một bà
vợ hung dữ. Bà đã khinh thường ông, coi ông chỉ là hạng “dài lưng tốn vải”, cũng như “trói gà không
chặt”.
Có lần sau một trận xỉ vả thậm tệ, tức quá bà liền đổ cả một chậu nước dơ lên người ông, nhưng ông
vẫn thản nhiên nói với mọi người :
- Trời có sấm sét, ắt hẳn sẽ đổ mưa.
Lần khác, bà đã hất tung hất té mâm cỗ ra ngoài sân. Mâm cỗ mà ông đã cẩn thận làm để đãi bạn bè.
Và thế là ông bèn ngồi yên lặng nhặt lên cho bằng hết. Món nào còn ăn được thì ăn, bằng không thì bỏ
đi, mà chẳng than van một lời.
Trường hợp thứ hai tiêu biểu cho trường phái phương đông, đó là bà vợ của Trần Qúi Thường.
Theo điển tích người xưa, thì chúng ta được biết : Trần Quí Thường, quê tại tỉnh Hà Đông bên Tàu, có
một người vợ nổi tiếng hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến chơi, thì đều được nghe bà vợ này la hét, chửi
bới thật ồn ào và quá đáng.
Thấy vậy, thi sĩ dòng họ Tô mới làm một bài thơ châm biếm, trong đó có câu :
- Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ tượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là :
- Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Tay run, gậy rớt, lòng kinh hãi.

Từ điển tích này, người ta mới dùng cụm từ “sư tử Hà Đông” để ám chỉ người vợ hung dữ. Tuy nhiên,
ngoài cụm từ này, bàn dân thiên hạ còn dùng một vài danh xưng khác nữa.
Chẳng hạn danh xưng “bà chằn”. Theo truyện thần thoại, thì chằn là một con yêu tinh dữ tợn và hay ăn
thịt người, đã bị Thạch Sanh giết chết. Vì thế hai chữ bà chằn được dùng để chỉ người đờn bà hung dữ.
Chẳng hạn danh xưng “bà la sát”. Theo tiếng Phạn (Ấn Độ), thì bà la sát là một con quỷ ăn thịt người.
Dựa vào đó, người bình dân dùng ba chữ bà la sát để chỉ người đờn bà hung dữ, mặc dù chữ bà trong
tiếng Phạn và trong tiếng Việt chỉ đồng âm mà thôi, chứ không đồng nghĩa một tí ti nào cả.

Nếu nhái theo tựa đề tập thơ “Em là gái trời bắt xấu”, thì có những người, đờn bà cũng như đờn ông,
vốn hung dữ tự bản tính : Thoạt sinh ra thì đã hung dữ. Nhưng có nhưng người, đờn ông cũng như đờn
bà, do hoàn cảnh bên ngoài tác động mà trở nên hung dữ.
Thực vậy, có những bà và những chị, tự bản chất vốn hiền như ma…sơ, thế nhưng, một khi đã nắm
được tí quyền trong tay, hay một khi đã kiếm được nhiều tiền, không cần phải cậy dựa vào người chồng
nữa, thì bỗng nhiên trở thành hung dữ.
Sự hung dữ ở đây cần phải được hiểu về cả ba phương diện : tư tưởng, lời nói, cũng như việc làm. Về tư
tưởng thì luôn áp đặt những ý nghĩ của mình lên chồng con theo kiểu cả vú lấp miệng em. Về lời nói thì
sẵn sàng tuôn ra những ngôn từ đao to búa lớn và không ngần ngại chửi bới, tung hê và văng đủ thứ ra
cho chồng con xơi. Về việc làm thì luôn dùng biện pháp mạnh, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mặc dù
mình chỉ là phái…yếu.

Gã xin đưa ra một thí dụ cụ thể. Thí dụ này được trích từ một bài viết mang tên “Khi vợ gia trưởng” của
Văn Nhuệ, được đăng trên tuần báo Gia đình số 38, năm 2006.
Chị là một người năng động, giỏi giang và rất có năng lực quản lý. Chẳng thế mà con đường thăng tiến
của chị được bạn bè ví lên “như diều gặp gió”. Chị được đề bạt làm phó giám đốc một công ty lớn và
luôn được “uy” với cấp dưới. Ở cơ quan, chị quyết định chuyện gì, thì cấp dưới phải nhất nhất thi hành.
Khi về nhà, chị cũng thể hiện “năng lực quản lý” ấy đối với chồng con. Phải thừa nhận chị là một người
đảm đang. Dù bận bịu với công việc ở cơ quan, nhưng chị vẫn quán xuyến mọi chuyện trong nhà. Sau
giờ làm việc, về đến nhà chị xắn tay áo lao vào chuyện bếp núc, chuyện học hành của con cái, cũng như
công việc của chồng.
Trong nhà ai có việc riêng tư gì, thì chị cũng tham gia giải quyết và yêu cầu người đó thực hiện những gì
mình đã chỉ bảo. Con trai đi dự sinh nhật bạn gái, chị dắt đi mua quà tặng vì cho rằng :
- Phải tặng quà làm sao để người nhận không đánh giá thấp người nhà mình. Chồng chị có chuyện xích
mích với đồng nghiệp, chị yêu cầu anh giải quyết theo phương án của chị, mặc cho anh phân tích những
cái sai trong phương án ấy. Nhiều khi chị còn tự ý đi gặp đồng nghiệp của chồng để dàn xếp, khiến anh
bị một phen mất mặt. Chị không yên tâm khi chồng con quyết định bất cứ sự gì. Chị tin rằng cách giải
quyết của chị mới đạt hiệu quả nhất. Chị không cho ai bàn bạc. Chị không cần ai góp ý. Chị thường nhắc
đi nhắc lại điệp khúc :
- Tôi đã quyết định thì mọi người phải nghe theo…
Khi chồng con phản đối, thì chị lý sự :
- Tôi làm thế chỉ vì muốn mang lại điều tốt cho mọi người.
Chị yêu cầu chồng sau giờ làm việc không được đi uống bia hay la cà với bạn bè, vì chị khẳng định : tại
những nơi ấy đều có những tệ nạn xã hội. Chị mua sắm vi tính, nhưng nhất định không chịu cài đặt
internet vì sợ chồng con truy cập các trang Web “đen”.

Mỗi buổi sáng, trước khi đến sở, chị căn dặn chồng con phải làm việc này việc kia. Và ban tối, chị kiểm
điểm chồng con xem đã thực hiện như thế nào. Việc gì không làm được, thì chị lên mặt “dạy chồng”,
“chửi con”. Chị có quá nhiều yêu cầu đối với chồng con, song bản thân lại tự cho mình quyền được làm
“mọi chuyện mình thích”. Với chị mọi người làm cái gì cũng sai, còn cái đúng luôn thuộc về chị.
Hậu quả là con cái vì sợ chị nên không dám cãi lời. Còn chồng chị thì mỗi ngày một “chán vợ” hơn.
Theo những nhà… ”ngâm kíu” thì hiện nay nhiều anh chồng đang có xu hướng “thuần” và qui phục chị
vợ hơn. Rất có thể đây là kết quả của công trình “nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan” của chị vợ. Trong
gia đình, vì nhiều nguyên nhân có khi vì quá thành công trên đường đời, có khi vì những thất bại chua
cay, anh chồng đang âm thầm nhường lại quyền làm chủ cho chị vợ. Chính vì thế, chị vợ thừa thắng
xông lên, dễ dàng lấn át vị trí của anh chồng, dường như chị ta đứng ở một vị trí cao hơn để chỉ huy mọi
người trong nhà.
Để diễn tả tình trạng này người xưa đã dùng câu tục ngữ :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.

Thực vậy, lệnh là cái chiêng đồng nhỏ, tiếng thanh, thường được dùng làm hiệu xuất quân. Còn cồng là
cái chiêng đồng lớn, tiếng trầm, thường được dùng làm hiệu thu quân. Mặc dù ông phát lệnh xuất quân,
nhưng nếu bà đánh cồng để thu quân, thì tiếng cồng chắc chắn sẽ át tiếng lệnh, khiến mọi người cứ phải
theo đó mà rút lui.

Tại nhiều gia đình, gã thấy quyền hành của chị vợ…to lớn hơn quyền hành của anh chồng gấp bội. Và
cũng từ đó, người ta sử dụng câu nói đùa này để chế diễu các ông chồng…sợ vợ!
Tuy nhiên, các chị vợ cũng cần phải lưu ý : sự chịu đựng cũng như nhường nhịn nào cũng có giới hạn
của nó, bởi vì tức nước vỡ bờ, tới lúc người chồng không thể nào chịu đựng, nhường nhịn, và nể nang
được nữa, thì buộc lòng phải phản ứng lại. Và những phản ứng lúc bấy giờ thường là những phản ứng
gắt gao và thảm khốc, gây nên những đổ vỡ.
Không thiếu gì những người chồng vốn nổi tiếng hiền lành, nhưng một khi đã tức giận, thì lại thường cộc
cằn, phản ứng một cách quyết liệt và mạnh mẽ.
Được hỏi về chuyện sợ vợ của mình, phần lớn các anh chồng đều đồng ý với câu trả lời như sau :
- Chúng tôi chẳng hề sợ vợ, vì nếu sợ thì còn đâu là cái bản lãnh của một đấng tu mi nam tử. Chẳng qua
chỉ vì chúng tôi nể vợ mà thôi, không muốn làm to chuyện, khiến cửa nhà bị tan hoang. Nếu có đôi co và
cãi vã, hàng xóm biết được, thì chỉ tổ “xấu thiếp hổ chàng”. Thôi thì cứ nhịn đi cho xong chuyện.
Vì vậy, đừng thấy chồng cả nể mà đã vội được đàng chân lân đàng đầu, mặc sức o ép chồng con. Sự
hiền lành và tế nhị bao giờ cũng là nét duyên thầm của người phụ nữ. Chẳng thế mà nền luân lý Khổng
Mạnh ngày xưa đã đòi hỏi người con gái phải có tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh.

Để kết luận, gã xin kể lại một thí dụ cụ thể khác nữa :


Trong những lúc ngồi hàn huyên tâm sự với bè bạn, chị thường khoe chồng mình là một người hiền lành
như…cục đất. Chẳng bao giờ dám nổi nóng đánh đập hay chửi bới vợ con. Tuy nhiên, đối lập với sự điềm
đạm và ít nói của anh là tính cách nóng “như Trương Phi” của chị. Không ít lần giận chồng và bực con,
chị đã đập phá chén bát, quẳng vứt đồ đạc, thét lên những lời quá quắt khó nghe, khiến bố con anh tròn
mắt hãi hùng.
Vẫn bằng cái giọng tự tin thái quá, chị luôn thanh minh thanh nga :
- Tính mình hễ tức giận là sôi máu lên, không thể kiềm chế được, phải đá thùng đụng nia, hoặc xả hết
những dồn nén trong lòng ra ngay lập tức. Cũng may mà ông xã nhường nhịn, không cố chấp, chứ nếu
chẳng ai chịu nhường ai, thì có lẽ đã lôi nhau ra tòa từ lâu rồi.
Chị cười cười, thừa nhận sự nóng nảy cộc cằn đã thấm sâu vào bản chất của chị, nên dù biết là sai mà
vẫn cứ chứng nào tật nấy…Thế nhưng, trong thâm tâm chị vẫn tự hào về khả năng điều khiển chồng và
vị trí làm gia trưởng của mình.
Anh là người hiền lành, thương vợ thương con và sống có trách nhiệm với những người thân yêu. Chẳng
bao giờ anh quát mắng, chỉ trích hay dằn vặt cả khi chị và hai đứa con lỗi lầm và sai phạm. Anh luôn nỗ
lực xây dựng bầu không khí đầm ấm, yên vui, tràn ngập thường xuyên trong gia đình.
Trái ngược với anh, chị là một phụ nữ luôn thích ăn to nói lớn, có gì chướng tai gai mắt là không để bụng
được, phải nói hụych toẹt ra cho bõ tức. Chính vì tính cách này mà từ thời con gái cho đến bây giờ, chị
đã gây hiểu lầm và làm mất lòng không ít người.
Những lúc vợ chồng gần gũi và tâm tình, anh thường nhẹ nhàng khuyên bảo chị nên sửa bỏ thói tật ấy,
bởi vì sự nóng vội chẳng giải quyết được việc gì, mà còn làm cho mọi chuyện thêm rắc rối, phức tạp,
thậm chí còn hạ thấp giá trị của chính mình. Hơn thế nữa, thói tật này càng không nên có ở người phụ
nữ, vì nó làm mất đi vẻ dịu dàng, thùy mị, vốn là những đặc tính gắn liền với phái đẹp. Chị ậm ừ cho qua
chuyện, chứ không để tâm tiếp thu ý kiến xây dựng của anh.
Chị cứ đinh ninh rằng anh quá hiền lành, nên mình có thiếu nữ tính một chút cũng chẳng gây nên hậu
quả gì nghiêm trọng. Chính vì những suy nghĩ nông cạn ấy, nên chị chẳng những không làm cho mình
đẹp hơn trong mắt anh, mà còn vô tình đẩy anh vào trạng thái hụt hẫng và thất vọng. Chị đâu ngờ rằng
điều đó đã ảnh hưởng nặng nế tới cuộc hôn nhân của anh chị.
Lần ấy, mấy người bạn học cũ đang công tác ở miền quê, mới có dịp lên tỉnh, nên đã đến thăm vợ chồng
chị, rồi họ rủ nhau ra quán bia ở đầu phố “liên hoan đánh dấu buổi gặp gỡ khó quên này”. Không muốn
chồng sa đà vào nhậu nhẹt, chị định ngăn cản, nhưng thấy anh tíu tít, hớn hở cùng bạn ôn lại những kỷ
niệm thời học trò, nên chị đành miễn cưỡng để họ kéo anh đi.
Suốt từ bốn giờ chiều cho tới mười giờ tối, lòng chị nóng như lửa đốt, đứng ngồi không yên. Từ ngày lấy
nhau, chưa bào giờ anh chè chén về muộn khiến chị phải lo lắng như lúc này. Chuông đồng hồ điểm
mười một tiếng. Chị đùng đùng nổi giận đi về phía quán bia, bụng bảo dạ :
- Phải cho cả bọn một bài học.
Xuất hiện giữa đám bạn đang cười nói rôm rả của anh, chị xối xả mắng chửi anh là phường mê rượu chè,
chẳng đếm xỉa gì đến vợ con ở nhà phải trông chờ và lo lắng. Chị gạt phăng lời giải thích của anh :
- Bạn bè xa cách lâu ngày mới gặp lại đông đủ, nên vui quá không để ý tới thời gian.
Chị lôi tay chồng và nói như ra lệnh :
- Anh về nhà ngay, phải biết chọn bạn mà chơi. Những người này lần sau đừng có hòng đặt chân tới nhà
của tôi.
Ông chủ quán khuyên chị có gì thì cũng nhẹ nhàng mà nói, vì trời đã khuya, chớ quấy rầy hàng xóm. Thế
nhưng, chị bèn quay sang rủa ông là kẻ hám lợi, lại còn bênh vực và chứa chấp những thằng say rượu.
Tới nước này thì anh không còn im lặng như những lần trước, mà bất ngờ giật mạnh tay ra khỏi sự co
kéo của chị và giơ thẳng cánh tát chị một cái nổ đom đóm mắt :
- Cô im ngay. Tôi cấm cô không được phép xúc phạm tới những người bạn thân của tôi.
Chị không chịu thua, mà còn lu loa, gào thét to hơn, khiến cuộc gặp mặt của anh và các bạn đang vui
bỗng trở thành…bi kịch. Anh hổ thẹn với bạn bè vì có một người vợ thô lỗ, không biết cách đối nhân xử
thế.
Sự kiện này là như giọt nước tràn ly, bởi vì sau đó anh đã quyết định ly hôn trước sự ngỡ ngàng của
chị… (Phụ nữ Chủ nhật, số 41, ngày 15.10.2006).
Cùng một thể thức ấy, gã nghĩ rằng :
- Một cọng rơm, cũng có thể làm gãy lưng con lạc đà!!!
TÌNH TẶC - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Ai cũng phải công nhận rằng : xã hội ảnh hưởng đến con người và ngược lại con người cũng ảnh hưởng
đến xã hội. Chẳng hạn sống trong một xã hội khép kín, nghèo túng và nhất là sống trong một xã hội
được cai trị bằng công an và sức mạnh, con người vì nhu cầu sống còn, cần phải luồn lách và lươn lẹo.
Miết rồi sự luồn lách và lươn lẹo được coi như chuẩn mực để đánh giá. Càng giỏi lươn lẹo và luồn lách thì
càng được coi là khôn ngoan. Còn dốt luơn lẹo và luồn lách thì bị coi là dại khờ. Người ta phe lờ những
giá trị đạo đức, người ta sẵn sàng chà đạp lên những nguyên tắc công bằng miễn sao vơ vét về cho đầy
túi tham mà không bị nhà nước sờ vào gáy.

Nhìn vào xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người đã phải than vắn thở dài rằng luân thường đạo lý đang
xuống dốc không phanh. Xó góc nào cũng chỉ thấy gian tham và lường gạt, tham nhũng và hối lộ.

Mấy bữa nay thiên hạ đang bàn tán xôn xao về việc một tiểu bang bên Mỹ đã trục xuất hai tấm bia ghi
khắc mười điều răn Đức Chúa Trời ra khỏi tòa nhà tối cao pháp viện, để đi tới chỗ khác mà ngồi chơi xơi
nước. Cũng vậy nhiều người Việt Nam hôm nay cũng chẳng còn lưu giữ được một ý niệm nào về giới răn
thứ bảy : chớ lấy của người, bởi vì người ta chủ trương rằng xơi được bao nhiêu hay bấy nhiêu, xơi càng
nhiều thì lại càng tốt, nhất là xơi của chùa, tức là của nhà nước.

Để tôn trọng đức công bằng, một trong những điều giới răn thứ bảy đã cấm chỉ, đó là chớ lấy của người.
Về việc lấy của người, thì gã xin tóm gọn lại thành mấy thứ “ăn” mang tính cách bất hợp pháp và có
nhiều cơ may được nằm tù, chẳng hạn như : ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn lời, ăn hối lộ…Gã thử
phân tích những thứ ăn này xem chúng ra làm sao.

Trước hết ăn trộm và ăn cắp là lấy của người ta một cách kín đáo bằng tài khéo của mình. Tuy nhiên ăn
trộm thường nhấn mạnh đến khía cạnh chủ đi vắng hay là ngủ mê mà không biết, chẳng hạn như ban
đêm lẻn vào nhà người ta chôm chỉa đồ đạc và tiền bạc, con gà và con heo…Còn ăn cắp thì thường được
thực hiện ngay trước mắt chủ mà chủ cũng không hay, chẳng hạn như lợi dụng lúc chen lấn trên xe mà
lấy cắp chiếc ví hay rạch túi xách mà lấy tiền bạc và quần áo của người ta.
Tiếp đến ăn cướp là dùng vũ lực, dùng sức mạnh để uy hiếp hầu cưỡng đoạt và chiếm lấy của người ta
một cách công khai. Chẳng hạn như ban tối trên một đoạn đường vắng, bọn đạo tặc dùng dao chặn
đường và lấy mất của gã chiếc đồng hồ, hay ban đêm chúng xông vào nhà lấy đi tiền bạc và những đồ
dùng quí giá.

Sau cùng, ăn gian là dùng mưu mô tính toán để lường gạt hầu lấy đi của người ta. Chẳng hạn như buôn
bán mà cân đo không sòng phẳng. Cân thì cân thiếu, đo thì thước hụt để ăn bớt, ăn chặn của khách
hàng, hay đánh tráo đồ xấu, đồ giả, đồ dổm để bán cho mắc, hay như đày tớ bớt xén tiền chợ, con cái
dối gạt cha mẹ để lấy tiền xài chơi…

Bàn về những hành động sai lỗi đức công bằng, gã thấy người Tàu cũng đưa ra một quan niệm tương tự
như thế, họ có hai chữ để diễn tả hành động này đó là đạo tặc, trộm cướp.
Đạo là ăn trộm ăn cắp, lấy của người ta một cách lén lút, chẳng hạn như đạo văn là “thuổng” câu văn
của người khác làm của mình, hay “bê nguyên xi” câu văn của họ vào tác phẩm của mình mà không ghi
rõ tác giả và xuất xứ của nó, theo kiểu đánh lận con đen.

Viết tới đây, gã cảm thấy hơi bực bội và tức tối, bởi vì mỗi năm vào dịp khai giảng năm học mới, mấy
ông cán bộ ngành giáo dục thường cả tiếng lại dài hơi, oang oang trên loa phóng thanh lời bác Hồ dạy :

- Kế trăm năm không gì bằng trồng người.


Thế nhưng, câu nói trên đâu có phải chính hiệu con nai vàng là của bác Hồ, mà bác Hồ cũng chỉ mượn
tạm ý tưởng của người xưa, bởi vì chính người xưa đã từng nói :

- Nhất niên chi kế, thụ cốc.


Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kết, thụ nhân.

Có nghĩa là :
- Kế một năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.

Chẳng thế mà ngày xưa Viện Đại Học Công Giáo tại Đalat đã lấy cho mình cái nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi
là : Thụ nhân, trồng người.
Còn tặc là ăn cướp, tức là dùng sức mạnh, dùng bạo lực để lấy của người ta. Hôm nay, gã xin bàn rộng
và tán dài thêm một tí về cái chữ “tặc” này.

Thứ nhất là lâm tặc.


Lâm tặc có nghĩa là bọn cướp rừng. Đây không phải là hạng “lục lâm thảo khấu”, tức là bọn cướp ẩn náu
ở trong rừng, chờ cơ hội xuất phát để cướp bóc những người qua lại hay những thôn làng mà chúng
nhắm tới.
Hoạt động chính yếu của bọn lâm tặc là đốn cây, phá rừng để lấy gỗ, bất chấp phép tắc của nhà nước.
Họ thường tổ chức thành băng đảng, được trang bị bằng xe cộ để chở gỗ, cũng như bằng vũ khí để
chống lại những nhân viên kiểm lâm, những người có trách nhiệm kiểm soát rừng. Họ tung tiền mua đứt
những nhân viên này và sẵn sàng liều mạng khi phải vượt qua trạm kiểm soát, miễn sao đưa gỗ về thành
phố an toàn để bán cho những tiệm mộc hay những nhà máy cưa.

Hoạt động của bọn lâm tặc đã để lại những hậu quả trầm trọng và dấu ấn tàn phá của họ đã in đậm trên
khắp các vùng đồi núi. Thực vậy, rất nhiều lần có dịp đi ngang dọc những nẻo đường đất nước, tới đâu
gã cũng thấy những khoảng đồi trọc với cây cối xác xơ, thậm chí đến cả những gốc cây cũng được chiếu
cố tận tình, bị đào bới tới tận rễ con và rễ cái.
Bọn lâm tặc càng lộng hành hơn nữa, vì những sếp lớn, một khi đã xơi tiền hối lộ, thì cũng phải ra sức
bao che. Thành thử những cố gắng trồng rừng trong những năm qua đã không thể theo kịp với mức độ
phá rừng của bọn lâm tặc.

Và qui luật của muôn đời đã được áp dụng : nếu con người tàn phá thiên nhiên, thì thiên nhiên cũng sẽ
quay lại mà tàn phá con người. Kết quả là môi trường sinh thái bị hủy diệt, khí hậu thay đổi thất thường
và nhất là khi mưa bão xảy đến, không còn cây cối cản bớt dòng nước đổ xuống, đã liên tục tạo thành
những cơn lũ khủng khiếp cuốn trôi nhà cửa, tài sản của nhiều người, ngay cả tính mạng cũng không
được bảo đảm an toàn.

Ăn theo với nạn phá rừng là nạn săn bắn trái phép. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng thiên hạ vẫn vô rừng
đặt bẫy và vô tư vây bắt những con thú quí hiếm. Chẳng thế mà thành phố nào cũng không thiếu những
quầy bán thịt rừng, những quán ăn và những nhà hàng đặc sản, từ hươu nai đến trăn rắn…không thứ gì
mà không có, miễn là trong túi rủng rỉnh những đồng tiền.

Thiên hạ đã lên tiếng báo động rằng có những loài thú sẽ bị tuyệt chủng, nếu không được bảo vệ và duy
trì…Thế nhưng, báo động thì cứ báo động, bởi vì đó là bổn phận của giới hữu trách. Còn ta, có tiền thì ta
vẫn cứ chịu khó lùng sục, ngon miệng thì ta vẫn cứ quẳng tiền ra mà xơi. Chết chóc mặc ai, tiền thày bỏ
túi. Suy cho cùng thì mọi sự đều phục vụ cho cái bao tử của con người mà chớ.

Thứ hai là hải tặc.


Hải tặc còn được gọi là hải khấu, hải phỉ, có nghĩa là bọn cướp biển. Chúng cũng kết thành băng đảng,
sống trên đất liền hay ẩn náu tại những hoang đảo, được trang bị bằng tàu thuyền và vũ khí để cướp bóc
những tàu thuyền đi lại ngoài biển, hay những xóm nhà gần bờ biển.

Là người Việt Nam, hẳn ai cũng đã từng hơn một lần được nghe nói về những hoạt động của bọn hải tặc,
nhất là vào thời điểm nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do, đã tạo thành một phong trào khiến cho cả thế
giới phải chú ý đến và trợ giúp, đó là phong trào vượt biên.

Làm sao mô tả cho hết những hiểm nguy và cay đắng mà những người Việt Nam đã phải chịu đựng trên
những con thuyền nhỏ bé, tròng trành như chiếc vỏ trứng. Giông bão đã nhận chìm và chôn vùi biết bao
nhiêu người dưới lòng đại dương. Nhưng tàn ác hơn cả có lẽ phải kể đến nạn hải tặc.

Những bọn hải tặc này gồm nhiều quốc tịch khác nhau, có thể là người Thái, người Miên, người Mã, hay
người Indô…Chúng tấn công ghe thuyền của đồng bào tị nạn, sẵn sàng giết chết những ai chống đối để
lấy tiền của cũng như vàng bạc. Có những bọn đã nổ súng vào cánh đàn ông con trai, còn phe đàn bà
con gái thì bị chúng hãm hiếp và mang đi bán cho những nhà chứa. Thậm chí có những bọn sau khi cướp
của và thực hiện những hành động dã man nhất, đã bắn chìm ghe thuyền để không một ai được sống
sót. Thế giới cũng đã bức xúc trước nạn hải tặc, nên đã tổ chức những toán tuần tiễu trên biển bằng tàu
thủy cũng như trên không bằng tàu bay để phát hiện và ngăn chặn phần nào những hành động của bọn
hải tặc.
Mới đây một người mẹ đã tâm sự với gã : con gái bà vượt biên đã mười mấy năm rồi mà chẳng có tin tức
gì cả. Chuyến đi định mệnh này chẳng may gặp phải hải tặc. Phe đàn ông thì bị giết. Còn phe đàn bà thì
bị chúng bắt đi. Chỉ duy nhất một người còn sống sót, đó là người đàn bà đang mang bầu. Bọn cướp
chắc sợ xui nên đã để bà lại trên con thuyền vượt biên. Sau mấy ngày đơn độc một mình vật lộn với
sóng biển trong con thuyền rách nát, cuối cùng bà đã được một tàu Mỹ cứu thoát.

Chính người đàn bà này đã cho người mẹ hay con bà đã bị bọn hải tặc bắt đi. Người mẹ đã cầu nguyện
cũng như đã…coi bói. Và cho đến bây giờ, người mẹ đau khổ ấy vẫn tin tưởng chắc chắn rằng con gái
mình vẫn còn sống. Rất có thể bọn hải tặc đã ném cô và những người cùng cảnh ngộ vào một hoang đảo
nào đó, nên không liên lạc được với gia đình. Và người mẹ vẫn cứ tiếp tục hy vọng.

Thứ ba là không tặc.


Không tặc có nghĩa là bọn cướp trên không trung, hay nói một cách cụ thể hơn là bọn cướp máy bay.
Điểm đặc biệt của bọn không tặc là gọn nhẹ, bởi vì có gọn nhẹ thì mới qua mắt được công an hải quan
và các nhân viên phi trường. Chúng thường gồm một, hai, hay ba người là cùng. Vũ khí trang bị chỉ là
một khẩu súng hay một trái lựu đạn.

Hành động của chúng thường nhằm tới hai mục đích. Trước hết là mục đích tài chánh bạc tiền : chúng
uy hiếp hành khách, lấy đi tiền bạc, nữ trang và những đồ quí giá của họ. Nhất là chúng đòi hãng máy
bay hay chính phủ liên hệ phải trả cho chúng một số tiền chuộc khá lớn, nếu muốn cho tính mạng của
những hành khách mà chúng bắt giữ làm con tin được an toàn.

Tiếp đến là mục đích chính chị chính em : chúng cầm giữ con tin và yêu cầu chính phủ liên hệ phải thả
một số người cùng đảng phái, cùng phe cánh với chúng đang bị bắt làm tù binh, bằng không thì họ sẽ
giết chết các con tin, tức là những hành khách trên máy bay.

Qua truyền hình, gã thấy có những vụ không tặc trong đó con tin được giải thoát một cách nhanh gọn
bởi những toán biệt khích, thế nhưng cũng có những vụ không tặc đã kết thúc một cách thương đau :
con tin thì bị giết, còn máy bay thì bị nổ tung. Thành thử những người yếu bóng vía cũng ngại đi máy
bay phần nào!!!

Như trên gã đã xác quyết : tặc có nghĩa là cướp. Mà đã cướp thì thường phải dùng đến sức mạnh, đến
bạo lực. Đó là luật chung, nhưng luật chung nào mà chẳng có luật trừ. Vì thế, gã xin trình bày hai loại tặc
mà trong đó người ta ít dùng tới sức mạnh và bạo lực.

Trước hết, đó là tin tặc.


Từ khi máy vi tính được phổ biến khắp nơi, thì lập tức qua báo chí cũng như qua truyền thanh và truyền
hình, gã thấy xuất hiện những bọn tin tặc. Vì không chuyên môn, nên gã khó có thể đưa ra một định
nghĩa thế nào là tin tặc. Tuy nhiên, sau khi đã tham khảo ý kiến của một vài vị lão luyện trong nghề, gã
xin kể ra một vài hoạt động mà bọn tin tặc đã thực hiện đó đây trên khắp cả và thế giới.
Trước hết, bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp số tài khoản để rồi rút tiền thiên hạ gửi
tại ngân hàng mà xài chơi. Thực vậy, tại các nước văn minh hiện nay, người ta lai rai đặt những máy rút
tiền ở chỗ này chỗ nọ. Khi cần tiền, khách hàng không phải tới ngân hàng, mà chỉ phải tới bên chiếc
máy, bấm số tài khoản và thế là tiền cứ từ từ…chui ra. Với hành động này, bọn tin tặc khỏe re, chẳng
phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mà tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh.

Tiếp đến, cũng bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp mật khẩu để rồi truy nhập internet
“chùa” mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào cả. Cách đây không lâu, bản thân gã đã bị bọn này xơi tái như
vậy.
Số là vào một buổi sáng đẹp trời gã đang ngồi làm việc thì có điện thoại báo cho biết :

- Trong tháng vừa qua có những số điện thoại lạ, dùng mật khẩu của ông để truy nhập. Vậy ông hãy rà
soát lại xem những số điện thoại ấy có phải là của ông hay không ?

Sau đó, gã cũng nhận được một cái “meo” với cùng một nội dung như thế. Truy tìm thủ phạm, thì gặp
được năm số điện thoại xuất phát từ Hà Nội, hằng đêm mượn đỡ mật khẩu của gã mà chui vào
“internet”. Tổng đài chỉ dẫn cho gã một số việc cần phải làm ngay như sau :

- Một là phải quét “virus”, hai là phải thay đổi mật khẩu, ba là giới hạn số điện thoại truy nhập nếu không
phải là dân áp phe, áp chảo, luôn đi đây đi đó. Bốn là có thể làm đơn khiếu nại.

Tháng đó gã tốn thêm gần một trăm đô la, trả cho những lần truy nhập chui của bọn tin tặc “ác ôn côn
đồ” này. Làm đơn khiếu nại, thì được bưu điện nhận đơn và trả lời :
- Hãy đợi đấy, chừng nào ngoài Hà Nội thu hồi được số tiền trên thì sẽ hoàn trả lại cho ông.

Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay đã gần hai năm rồi mà bưu điện vẫn cứ êm ru bà rù. Nếu hỏi tới thì
lần nào cũng nhận được một câu trả lời như nhau :
- Chưa thấy ngoài ấy nói gì. Hãy đợi đấy thêm một thời gian nữa.
Đúng là :

- Con kiến mà kiện củ khoai,


Nhọc nhằn chẳng được một ai đoái hoài.
Thôi thì mặc cho bọn chúng được đời này. Một trăm đô có là bao. Chỉ là chuyện nhỏ thôi mà.

Hơn thế nữa, bọn tin tặc còn “ngâm kíu” và tìm cách tung “virus” vào để phá những mạng lưới của
những đại gia như Microsoft…để làm giảm uy tín của những đại gia này. Thế nhưng, chẳng hiểu những
đại gia này có hề hấn sứt mẻ gì không, chứ riêng người tiêu dùng, nếu chẳng may bị sao quả tạ chiếu
tướng, máng vào những thứ “virus” ấy là lãnh thẹo, lại phải thêm một phen sất bất xang bang, tìm thày
chạy chữa cho máy được hoạt động bình thường và cho những tài liệu mình chắt chiu viết ra hay tốn
công thâu lượm không bị bay hơi theo mây khói.

Ngoài ra, chúng còn thả “virus” vào để làm tê liệt các máy vi tính, sau đó tung ra thị trường những phần
mềm để diệt “virus” ấy. Và thế là chúng cứ việc ung dung ngồi nhà mà hốt bạc của thiên hạ. Tuy nhiên,
chúng khó mà lấy được đồng tiền của dân Việt Nam, bởi vì nạn sao chép lung tung rất thịnh hành ở đất
nước này. Coi tác quyền như pha. Chẳng thế mà khi đại gia Microsoft chưa chính thức tung ra thị trường
chương trình XP, thì tại Việt Nam đã thấy xuất hiện ê hề, thiên hạ mặc sức sử dụng, mà chẳng tốn kém
bao nhiêu.

Cũng vì những con “virus” có thể làm tê liệt các máy vi tính, nên trong vụ mất điện vừa qua ở một số
tiểu bang vùng đông bắc nước Mỹ, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng bọn khủng bố tấn công vào các
máy tính điều hành, khiến cho lưới điện không còn hoạt động được nữa. Nếu như một ngày nào đó, bọn
tin tặc làm tê liệt toàn bộ các máy tính trên thế giới, thì nhân loại chắc chắn sẽ điên cái đầu mất thôi.
Khởi đầu thì máy móc lệ thuộc vào con người, nhưng rồi sẽ tới lúc người lệ thuộc vào máy móc!!!

Hơn thế nữa bọn tin tặc, giống như những tình báo, những điệp viên kiểu 007, đột nhập vào những
mạng lưới quan trọng, chẳng hạn bộ Quốc phòng, bộ Kinh tế, dinh Tổng thống, phòng thí nghiệm hay
các xí nghiệp để ăn cắp những thông tin về quân sự và kinh tế…Sau đó, chúng bán những thông tin quí
giá và tối mật này để kiếm lời, nhưng lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho nền an ninh và phát
triển của quốc gia.

Sau cùng là tình tặc.


Tình tặc là ăn cướp tình yêu. Tình tặc thường chỉ có một người và không mấy khi dùng tới sức mạnh và
bạo lực.

Thực vậy, ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại văn minh vi tính, đâu còn cái cảnh chặn
đường bắt cóc cô dâu đem về nhà mình, bất kể cô dâu ấy có yêu thương mình hay không miễn sao mình
thương yêu cô ấy là đủ rồi.

Ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại “tự do luyến ái”, chuyện ăn cơm trước kẻng chỉ là
chuyện thường ngày ở huyện, lắm lúc chưa lấy nhau mà “con ong đã tỏ đường đi lối về”, đâu còn cái
cảnh tới ngày cưới mà chú rể vẫn chưa biết mặt cô dâu, vì đạo nghĩa các cụ đã dạy “nam nữ thọ thọ bất
tương thân”, để rồi nhà gái đánh tráo cô chị làm cô em mà anh dũng tiến lên làm vợ cho chú rể.

Không dùng bạo lực và sức mạnh đã đành, mà hơn thế nữa, những đòn phép của tên tình tặc nhiều lúc
lại còn ngọt ngào và quyến rũ.

Chẳng hạn chàng và nàng ngồi “chat” với nhau trên mạng. Lúc đầu chỉ là trò chuyện bâng quơ, nhưng
rồi dần dần chàng vẽ nên những hình ảnh tuyệt vời về mình nào là đẹp giai, học giỏi, con nhà giàu, kèm
theo một tương lai tươi sáng đang chờ đón…khiến cho nàng mê tít thò lò. Và thế là cá đã cắn câu, họ
hẹn gặp nhau, rồi yêu nhau và tiến tới hôn nhân, vì mục đích của chàng là phải làm thế nào chớp được
cái tình của nàng. Khi đã lấy nhau, thì bộ mặt thật của chàng mới tỏ lộ. Rõ ràng là một tên lừa đảo. Bản
thân của chàng chỉ là hạng khố rách áo ôm. Lúc bấy giờ nàng mới mở mắt ra, hối hận thì cũng đã quá
muộn mất rồi.

Chẳng hạn trước những lời hứa hẹn đầy hấp dẫn, nhiều cô gái Việt Nam đã ôm mộng lấy chồng nước
ngoài, theo kiểu “tấp tểnh người đi tớ cũng đi”. Người chồng nước ngoài ấy có thể là một ông Đài Loan,
một ông Đại Hàn, hay một ông Việt kiều nào đó…Nhưng rồi đời không như là mơ, nên đời thường giết
chết mộng mơ. Đối mặt với sự thật phũ phàng, nhiều cô đã phải cay đắng chấp nhận thực tế bẽ bàng,
bởi vì trót đâm lao thì phải theo lao mà thôi. Những cô gái mộng vỡ đáng thương ấy đâu có ngờ mình đã
bị ăn trộm tình yêu lúc nào cũng chẳng hay.

Để kết thúc, gã xin ghi lại nơi đây mẩu tin đã được đăng trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, số
1149, ra ngày thứ ba 10.6.2003, về một tên đã thực hiện 14 vụ “trộm tình” như sau :

Hắn tên là Trương Minh Hoàng, sinh năm 1983, ở Hợp Tác Xã kinh 7A, xã Thạnh Đông A, huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang, đã thực hiện 14 vụ trộm tình đối với các phụ nữ địa phương.

Thủ đoạn của tên Hoàng là lợi dụng lúc đêm khuya, nhà nào có phụ nữ, nhưng ngủ không đóng cửa là y
lẻn vào. Khi vào nhà, tên Hoàng xem người phụ nữ đó đang nằm ngủ với ai, rồi đến tắt hết đèn trong
nhà. Sau đó tên trộm chui vào mùng của người phụ nữ, rón rén đến nằm gần họ và làm những việc mà
người chồng thường làm với bà vợ trong lúc chăn gối.

Chính vì vậy, tên trộm chỉ thực hiện “trộm tình” đối với các phụ nữ đã có chồng. Một số trường hợp
người vợ trong lúc ngủ say nghĩ kẻ trộm là chồng mình nên cứ để hắn ta mặc tình.

Đến lần “trộm” thứ 14 đối với chị P.T.L. thì tên Hoàng mới bị phát hiện và bị bắt giữ. Hôm đó, hắn vào
nhà chị L. lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Chị L cùng ngủ với hai con, chồng chị ngủ riêng trong buồng. Tên
Hoàng đã giở trò “yêu” chị L. và trong lúc hắn đang ngây ngất thì bất ngờ bị chị L. phát hiện ra là không
phải chồng mình, liền nắm tóc hắn và kêu cứu với chồng con. Tên Hoàng nhanh chân bỏ chạy, nhưng
những người hàng xóm nghe tiếng kêu cứu của gia đình chị L. đã vây bắt được hắn.

Ngày 29.5 Tòa Án Nhân Dân tỉnh đã truyền phạt bị cáo Trương Minh Hoàng 10 năm tù giam về tội trạng
này.
Hẳn là trên cõi đời này còn nhiều thứ tặc khác nữa, rất mong được quí vị chỉ giáo.
TÌNH TẶC - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Ai cũng phải công nhận rằng : xã hội ảnh hưởng đến con người và ngược lại con người cũng ảnh hưởng
đến xã hội. Chẳng hạn sống trong một xã hội khép kín, nghèo túng và nhất là sống trong một xã hội
được cai trị bằng công an và sức mạnh, con người vì nhu cầu sống còn, cần phải luồn lách và lươn lẹo.
Miết rồi sự luồn lách và lươn lẹo được coi như chuẩn mực để đánh giá. Càng giỏi lươn lẹo và luồn lách thì
càng được coi là khôn ngoan. Còn dốt luơn lẹo và luồn lách thì bị coi là dại khờ. Người ta phe lờ những
giá trị đạo đức, người ta sẵn sàng chà đạp lên những nguyên tắc công bằng miễn sao vơ vét về cho đầy
túi tham mà không bị nhà nước sờ vào gáy.

Nhìn vào xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người đã phải than vắn thở dài rằng luân thường đạo lý đang
xuống dốc không phanh. Xó góc nào cũng chỉ thấy gian tham và lường gạt, tham nhũng và hối lộ.

Mấy bữa nay thiên hạ đang bàn tán xôn xao về việc một tiểu bang bên Mỹ đã trục xuất hai tấm bia ghi
khắc mười điều răn Đức Chúa Trời ra khỏi tòa nhà tối cao pháp viện, để đi tới chỗ khác mà ngồi chơi xơi
nước. Cũng vậy nhiều người Việt Nam hôm nay cũng chẳng còn lưu giữ được một ý niệm nào về giới răn
thứ bảy : chớ lấy của người, bởi vì người ta chủ trương rằng xơi được bao nhiêu hay bấy nhiêu, xơi càng
nhiều thì lại càng tốt, nhất là xơi của chùa, tức là của nhà nước.

Để tôn trọng đức công bằng, một trong những điều giới răn thứ bảy đã cấm chỉ, đó là chớ lấy của người.
Về việc lấy của người, thì gã xin tóm gọn lại thành mấy thứ “ăn” mang tính cách bất hợp pháp và có
nhiều cơ may được nằm tù, chẳng hạn như : ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn lời, ăn hối lộ…Gã thử
phân tích những thứ ăn này xem chúng ra làm sao.

Trước hết ăn trộm và ăn cắp là lấy của người ta một cách kín đáo bằng tài khéo của mình. Tuy nhiên ăn
trộm thường nhấn mạnh đến khía cạnh chủ đi vắng hay là ngủ mê mà không biết, chẳng hạn như ban
đêm lẻn vào nhà người ta chôm chỉa đồ đạc và tiền bạc, con gà và con heo…Còn ăn cắp thì thường được
thực hiện ngay trước mắt chủ mà chủ cũng không hay, chẳng hạn như lợi dụng lúc chen lấn trên xe mà
lấy cắp chiếc ví hay rạch túi xách mà lấy tiền bạc và quần áo của người ta.
Tiếp đến ăn cướp là dùng vũ lực, dùng sức mạnh để uy hiếp hầu cưỡng đoạt và chiếm lấy của người ta
một cách công khai. Chẳng hạn như ban tối trên một đoạn đường vắng, bọn đạo tặc dùng dao chặn
đường và lấy mất của gã chiếc đồng hồ, hay ban đêm chúng xông vào nhà lấy đi tiền bạc và những đồ
dùng quí giá.

Sau cùng, ăn gian là dùng mưu mô tính toán để lường gạt hầu lấy đi của người ta. Chẳng hạn như buôn
bán mà cân đo không sòng phẳng. Cân thì cân thiếu, đo thì thước hụt để ăn bớt, ăn chặn của khách
hàng, hay đánh tráo đồ xấu, đồ giả, đồ dổm để bán cho mắc, hay như đày tớ bớt xén tiền chợ, con cái
dối gạt cha mẹ để lấy tiền xài chơi…

Bàn về những hành động sai lỗi đức công bằng, gã thấy người Tàu cũng đưa ra một quan niệm tương tự
như thế, họ có hai chữ để diễn tả hành động này đó là đạo tặc, trộm cướp.
Đạo là ăn trộm ăn cắp, lấy của người ta một cách lén lút, chẳng hạn như đạo văn là “thuổng” câu văn
của người khác làm của mình, hay “bê nguyên xi” câu văn của họ vào tác phẩm của mình mà không ghi
rõ tác giả và xuất xứ của nó, theo kiểu đánh lận con đen.

Viết tới đây, gã cảm thấy hơi bực bội và tức tối, bởi vì mỗi năm vào dịp khai giảng năm học mới, mấy
ông cán bộ ngành giáo dục thường cả tiếng lại dài hơi, oang oang trên loa phóng thanh lời bác Hồ dạy :

- Kế trăm năm không gì bằng trồng người.


Thế nhưng, câu nói trên đâu có phải chính hiệu con nai vàng là của bác Hồ, mà bác Hồ cũng chỉ mượn
tạm ý tưởng của người xưa, bởi vì chính người xưa đã từng nói :

- Nhất niên chi kế, thụ cốc.


Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kết, thụ nhân.

Có nghĩa là :
- Kế một năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.

Chẳng thế mà ngày xưa Viện Đại Học Công Giáo tại Đalat đã lấy cho mình cái nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi
là : Thụ nhân, trồng người.
Còn tặc là ăn cướp, tức là dùng sức mạnh, dùng bạo lực để lấy của người ta. Hôm nay, gã xin bàn rộng
và tán dài thêm một tí về cái chữ “tặc” này.

Thứ nhất là lâm tặc.


Lâm tặc có nghĩa là bọn cướp rừng. Đây không phải là hạng “lục lâm thảo khấu”, tức là bọn cướp ẩn náu
ở trong rừng, chờ cơ hội xuất phát để cướp bóc những người qua lại hay những thôn làng mà chúng
nhắm tới.
Hoạt động chính yếu của bọn lâm tặc là đốn cây, phá rừng để lấy gỗ, bất chấp phép tắc của nhà nước.
Họ thường tổ chức thành băng đảng, được trang bị bằng xe cộ để chở gỗ, cũng như bằng vũ khí để
chống lại những nhân viên kiểm lâm, những người có trách nhiệm kiểm soát rừng. Họ tung tiền mua đứt
những nhân viên này và sẵn sàng liều mạng khi phải vượt qua trạm kiểm soát, miễn sao đưa gỗ về thành
phố an toàn để bán cho những tiệm mộc hay những nhà máy cưa.

Hoạt động của bọn lâm tặc đã để lại những hậu quả trầm trọng và dấu ấn tàn phá của họ đã in đậm trên
khắp các vùng đồi núi. Thực vậy, rất nhiều lần có dịp đi ngang dọc những nẻo đường đất nước, tới đâu
gã cũng thấy những khoảng đồi trọc với cây cối xác xơ, thậm chí đến cả những gốc cây cũng được chiếu
cố tận tình, bị đào bới tới tận rễ con và rễ cái.
Bọn lâm tặc càng lộng hành hơn nữa, vì những sếp lớn, một khi đã xơi tiền hối lộ, thì cũng phải ra sức
bao che. Thành thử những cố gắng trồng rừng trong những năm qua đã không thể theo kịp với mức độ
phá rừng của bọn lâm tặc.

Và qui luật của muôn đời đã được áp dụng : nếu con người tàn phá thiên nhiên, thì thiên nhiên cũng sẽ
quay lại mà tàn phá con người. Kết quả là môi trường sinh thái bị hủy diệt, khí hậu thay đổi thất thường
và nhất là khi mưa bão xảy đến, không còn cây cối cản bớt dòng nước đổ xuống, đã liên tục tạo thành
những cơn lũ khủng khiếp cuốn trôi nhà cửa, tài sản của nhiều người, ngay cả tính mạng cũng không
được bảo đảm an toàn.

Ăn theo với nạn phá rừng là nạn săn bắn trái phép. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng thiên hạ vẫn vô rừng
đặt bẫy và vô tư vây bắt những con thú quí hiếm. Chẳng thế mà thành phố nào cũng không thiếu những
quầy bán thịt rừng, những quán ăn và những nhà hàng đặc sản, từ hươu nai đến trăn rắn…không thứ gì
mà không có, miễn là trong túi rủng rỉnh những đồng tiền.

Thiên hạ đã lên tiếng báo động rằng có những loài thú sẽ bị tuyệt chủng, nếu không được bảo vệ và duy
trì…Thế nhưng, báo động thì cứ báo động, bởi vì đó là bổn phận của giới hữu trách. Còn ta, có tiền thì ta
vẫn cứ chịu khó lùng sục, ngon miệng thì ta vẫn cứ quẳng tiền ra mà xơi. Chết chóc mặc ai, tiền thày bỏ
túi. Suy cho cùng thì mọi sự đều phục vụ cho cái bao tử của con người mà chớ.

Thứ hai là hải tặc.


Hải tặc còn được gọi là hải khấu, hải phỉ, có nghĩa là bọn cướp biển. Chúng cũng kết thành băng đảng,
sống trên đất liền hay ẩn náu tại những hoang đảo, được trang bị bằng tàu thuyền và vũ khí để cướp bóc
những tàu thuyền đi lại ngoài biển, hay những xóm nhà gần bờ biển.

Là người Việt Nam, hẳn ai cũng đã từng hơn một lần được nghe nói về những hoạt động của bọn hải tặc,
nhất là vào thời điểm nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do, đã tạo thành một phong trào khiến cho cả thế
giới phải chú ý đến và trợ giúp, đó là phong trào vượt biên.

Làm sao mô tả cho hết những hiểm nguy và cay đắng mà những người Việt Nam đã phải chịu đựng trên
những con thuyền nhỏ bé, tròng trành như chiếc vỏ trứng. Giông bão đã nhận chìm và chôn vùi biết bao
nhiêu người dưới lòng đại dương. Nhưng tàn ác hơn cả có lẽ phải kể đến nạn hải tặc.

Những bọn hải tặc này gồm nhiều quốc tịch khác nhau, có thể là người Thái, người Miên, người Mã, hay
người Indô…Chúng tấn công ghe thuyền của đồng bào tị nạn, sẵn sàng giết chết những ai chống đối để
lấy tiền của cũng như vàng bạc. Có những bọn đã nổ súng vào cánh đàn ông con trai, còn phe đàn bà
con gái thì bị chúng hãm hiếp và mang đi bán cho những nhà chứa. Thậm chí có những bọn sau khi cướp
của và thực hiện những hành động dã man nhất, đã bắn chìm ghe thuyền để không một ai được sống
sót. Thế giới cũng đã bức xúc trước nạn hải tặc, nên đã tổ chức những toán tuần tiễu trên biển bằng tàu
thủy cũng như trên không bằng tàu bay để phát hiện và ngăn chặn phần nào những hành động của bọn
hải tặc.
Mới đây một người mẹ đã tâm sự với gã : con gái bà vượt biên đã mười mấy năm rồi mà chẳng có tin tức
gì cả. Chuyến đi định mệnh này chẳng may gặp phải hải tặc. Phe đàn ông thì bị giết. Còn phe đàn bà thì
bị chúng bắt đi. Chỉ duy nhất một người còn sống sót, đó là người đàn bà đang mang bầu. Bọn cướp
chắc sợ xui nên đã để bà lại trên con thuyền vượt biên. Sau mấy ngày đơn độc một mình vật lộn với
sóng biển trong con thuyền rách nát, cuối cùng bà đã được một tàu Mỹ cứu thoát.

Chính người đàn bà này đã cho người mẹ hay con bà đã bị bọn hải tặc bắt đi. Người mẹ đã cầu nguyện
cũng như đã…coi bói. Và cho đến bây giờ, người mẹ đau khổ ấy vẫn tin tưởng chắc chắn rằng con gái
mình vẫn còn sống. Rất có thể bọn hải tặc đã ném cô và những người cùng cảnh ngộ vào một hoang đảo
nào đó, nên không liên lạc được với gia đình. Và người mẹ vẫn cứ tiếp tục hy vọng.

Thứ ba là không tặc.


Không tặc có nghĩa là bọn cướp trên không trung, hay nói một cách cụ thể hơn là bọn cướp máy bay.
Điểm đặc biệt của bọn không tặc là gọn nhẹ, bởi vì có gọn nhẹ thì mới qua mắt được công an hải quan
và các nhân viên phi trường. Chúng thường gồm một, hai, hay ba người là cùng. Vũ khí trang bị chỉ là
một khẩu súng hay một trái lựu đạn.

Hành động của chúng thường nhằm tới hai mục đích. Trước hết là mục đích tài chánh bạc tiền : chúng
uy hiếp hành khách, lấy đi tiền bạc, nữ trang và những đồ quí giá của họ. Nhất là chúng đòi hãng máy
bay hay chính phủ liên hệ phải trả cho chúng một số tiền chuộc khá lớn, nếu muốn cho tính mạng của
những hành khách mà chúng bắt giữ làm con tin được an toàn.

Tiếp đến là mục đích chính chị chính em : chúng cầm giữ con tin và yêu cầu chính phủ liên hệ phải thả
một số người cùng đảng phái, cùng phe cánh với chúng đang bị bắt làm tù binh, bằng không thì họ sẽ
giết chết các con tin, tức là những hành khách trên máy bay.

Qua truyền hình, gã thấy có những vụ không tặc trong đó con tin được giải thoát một cách nhanh gọn
bởi những toán biệt khích, thế nhưng cũng có những vụ không tặc đã kết thúc một cách thương đau :
con tin thì bị giết, còn máy bay thì bị nổ tung. Thành thử những người yếu bóng vía cũng ngại đi máy
bay phần nào!!!

Như trên gã đã xác quyết : tặc có nghĩa là cướp. Mà đã cướp thì thường phải dùng đến sức mạnh, đến
bạo lực. Đó là luật chung, nhưng luật chung nào mà chẳng có luật trừ. Vì thế, gã xin trình bày hai loại tặc
mà trong đó người ta ít dùng tới sức mạnh và bạo lực.

Trước hết, đó là tin tặc.


Từ khi máy vi tính được phổ biến khắp nơi, thì lập tức qua báo chí cũng như qua truyền thanh và truyền
hình, gã thấy xuất hiện những bọn tin tặc. Vì không chuyên môn, nên gã khó có thể đưa ra một định
nghĩa thế nào là tin tặc. Tuy nhiên, sau khi đã tham khảo ý kiến của một vài vị lão luyện trong nghề, gã
xin kể ra một vài hoạt động mà bọn tin tặc đã thực hiện đó đây trên khắp cả và thế giới.
Trước hết, bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp số tài khoản để rồi rút tiền thiên hạ gửi
tại ngân hàng mà xài chơi. Thực vậy, tại các nước văn minh hiện nay, người ta lai rai đặt những máy rút
tiền ở chỗ này chỗ nọ. Khi cần tiền, khách hàng không phải tới ngân hàng, mà chỉ phải tới bên chiếc
máy, bấm số tài khoản và thế là tiền cứ từ từ…chui ra. Với hành động này, bọn tin tặc khỏe re, chẳng
phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mà tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh.

Tiếp đến, cũng bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp mật khẩu để rồi truy nhập internet
“chùa” mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào cả. Cách đây không lâu, bản thân gã đã bị bọn này xơi tái như
vậy.
Số là vào một buổi sáng đẹp trời gã đang ngồi làm việc thì có điện thoại báo cho biết :

- Trong tháng vừa qua có những số điện thoại lạ, dùng mật khẩu của ông để truy nhập. Vậy ông hãy rà
soát lại xem những số điện thoại ấy có phải là của ông hay không ?

Sau đó, gã cũng nhận được một cái “meo” với cùng một nội dung như thế. Truy tìm thủ phạm, thì gặp
được năm số điện thoại xuất phát từ Hà Nội, hằng đêm mượn đỡ mật khẩu của gã mà chui vào
“internet”. Tổng đài chỉ dẫn cho gã một số việc cần phải làm ngay như sau :

- Một là phải quét “virus”, hai là phải thay đổi mật khẩu, ba là giới hạn số điện thoại truy nhập nếu không
phải là dân áp phe, áp chảo, luôn đi đây đi đó. Bốn là có thể làm đơn khiếu nại.

Tháng đó gã tốn thêm gần một trăm đô la, trả cho những lần truy nhập chui của bọn tin tặc “ác ôn côn
đồ” này. Làm đơn khiếu nại, thì được bưu điện nhận đơn và trả lời :
- Hãy đợi đấy, chừng nào ngoài Hà Nội thu hồi được số tiền trên thì sẽ hoàn trả lại cho ông.

Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay đã gần hai năm rồi mà bưu điện vẫn cứ êm ru bà rù. Nếu hỏi tới thì
lần nào cũng nhận được một câu trả lời như nhau :
- Chưa thấy ngoài ấy nói gì. Hãy đợi đấy thêm một thời gian nữa.
Đúng là :

- Con kiến mà kiện củ khoai,


Nhọc nhằn chẳng được một ai đoái hoài.
Thôi thì mặc cho bọn chúng được đời này. Một trăm đô có là bao. Chỉ là chuyện nhỏ thôi mà.

Hơn thế nữa, bọn tin tặc còn “ngâm kíu” và tìm cách tung “virus” vào để phá những mạng lưới của
những đại gia như Microsoft…để làm giảm uy tín của những đại gia này. Thế nhưng, chẳng hiểu những
đại gia này có hề hấn sứt mẻ gì không, chứ riêng người tiêu dùng, nếu chẳng may bị sao quả tạ chiếu
tướng, máng vào những thứ “virus” ấy là lãnh thẹo, lại phải thêm một phen sất bất xang bang, tìm thày
chạy chữa cho máy được hoạt động bình thường và cho những tài liệu mình chắt chiu viết ra hay tốn
công thâu lượm không bị bay hơi theo mây khói.

Ngoài ra, chúng còn thả “virus” vào để làm tê liệt các máy vi tính, sau đó tung ra thị trường những phần
mềm để diệt “virus” ấy. Và thế là chúng cứ việc ung dung ngồi nhà mà hốt bạc của thiên hạ. Tuy nhiên,
chúng khó mà lấy được đồng tiền của dân Việt Nam, bởi vì nạn sao chép lung tung rất thịnh hành ở đất
nước này. Coi tác quyền như pha. Chẳng thế mà khi đại gia Microsoft chưa chính thức tung ra thị trường
chương trình XP, thì tại Việt Nam đã thấy xuất hiện ê hề, thiên hạ mặc sức sử dụng, mà chẳng tốn kém
bao nhiêu.

Cũng vì những con “virus” có thể làm tê liệt các máy vi tính, nên trong vụ mất điện vừa qua ở một số
tiểu bang vùng đông bắc nước Mỹ, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng bọn khủng bố tấn công vào các
máy tính điều hành, khiến cho lưới điện không còn hoạt động được nữa. Nếu như một ngày nào đó, bọn
tin tặc làm tê liệt toàn bộ các máy tính trên thế giới, thì nhân loại chắc chắn sẽ điên cái đầu mất thôi.
Khởi đầu thì máy móc lệ thuộc vào con người, nhưng rồi sẽ tới lúc người lệ thuộc vào máy móc!!!

Hơn thế nữa bọn tin tặc, giống như những tình báo, những điệp viên kiểu 007, đột nhập vào những
mạng lưới quan trọng, chẳng hạn bộ Quốc phòng, bộ Kinh tế, dinh Tổng thống, phòng thí nghiệm hay
các xí nghiệp để ăn cắp những thông tin về quân sự và kinh tế…Sau đó, chúng bán những thông tin quí
giá và tối mật này để kiếm lời, nhưng lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho nền an ninh và phát
triển của quốc gia.

Sau cùng là tình tặc.


Tình tặc là ăn cướp tình yêu. Tình tặc thường chỉ có một người và không mấy khi dùng tới sức mạnh và
bạo lực.

Thực vậy, ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại văn minh vi tính, đâu còn cái cảnh chặn
đường bắt cóc cô dâu đem về nhà mình, bất kể cô dâu ấy có yêu thương mình hay không miễn sao mình
thương yêu cô ấy là đủ rồi.

Ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại “tự do luyến ái”, chuyện ăn cơm trước kẻng chỉ là
chuyện thường ngày ở huyện, lắm lúc chưa lấy nhau mà “con ong đã tỏ đường đi lối về”, đâu còn cái
cảnh tới ngày cưới mà chú rể vẫn chưa biết mặt cô dâu, vì đạo nghĩa các cụ đã dạy “nam nữ thọ thọ bất
tương thân”, để rồi nhà gái đánh tráo cô chị làm cô em mà anh dũng tiến lên làm vợ cho chú rể.

Không dùng bạo lực và sức mạnh đã đành, mà hơn thế nữa, những đòn phép của tên tình tặc nhiều lúc
lại còn ngọt ngào và quyến rũ.

Chẳng hạn chàng và nàng ngồi “chat” với nhau trên mạng. Lúc đầu chỉ là trò chuyện bâng quơ, nhưng
rồi dần dần chàng vẽ nên những hình ảnh tuyệt vời về mình nào là đẹp giai, học giỏi, con nhà giàu, kèm
theo một tương lai tươi sáng đang chờ đón…khiến cho nàng mê tít thò lò. Và thế là cá đã cắn câu, họ
hẹn gặp nhau, rồi yêu nhau và tiến tới hôn nhân, vì mục đích của chàng là phải làm thế nào chớp được
cái tình của nàng. Khi đã lấy nhau, thì bộ mặt thật của chàng mới tỏ lộ. Rõ ràng là một tên lừa đảo. Bản
thân của chàng chỉ là hạng khố rách áo ôm. Lúc bấy giờ nàng mới mở mắt ra, hối hận thì cũng đã quá
muộn mất rồi.

Chẳng hạn trước những lời hứa hẹn đầy hấp dẫn, nhiều cô gái Việt Nam đã ôm mộng lấy chồng nước
ngoài, theo kiểu “tấp tểnh người đi tớ cũng đi”. Người chồng nước ngoài ấy có thể là một ông Đài Loan,
một ông Đại Hàn, hay một ông Việt kiều nào đó…Nhưng rồi đời không như là mơ, nên đời thường giết
chết mộng mơ. Đối mặt với sự thật phũ phàng, nhiều cô đã phải cay đắng chấp nhận thực tế bẽ bàng,
bởi vì trót đâm lao thì phải theo lao mà thôi. Những cô gái mộng vỡ đáng thương ấy đâu có ngờ mình đã
bị ăn trộm tình yêu lúc nào cũng chẳng hay.

Để kết thúc, gã xin ghi lại nơi đây mẩu tin đã được đăng trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, số
1149, ra ngày thứ ba 10.6.2003, về một tên đã thực hiện 14 vụ “trộm tình” như sau :

Hắn tên là Trương Minh Hoàng, sinh năm 1983, ở Hợp Tác Xã kinh 7A, xã Thạnh Đông A, huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang, đã thực hiện 14 vụ trộm tình đối với các phụ nữ địa phương.

Thủ đoạn của tên Hoàng là lợi dụng lúc đêm khuya, nhà nào có phụ nữ, nhưng ngủ không đóng cửa là y
lẻn vào. Khi vào nhà, tên Hoàng xem người phụ nữ đó đang nằm ngủ với ai, rồi đến tắt hết đèn trong
nhà. Sau đó tên trộm chui vào mùng của người phụ nữ, rón rén đến nằm gần họ và làm những việc mà
người chồng thường làm với bà vợ trong lúc chăn gối.

Chính vì vậy, tên trộm chỉ thực hiện “trộm tình” đối với các phụ nữ đã có chồng. Một số trường hợp
người vợ trong lúc ngủ say nghĩ kẻ trộm là chồng mình nên cứ để hắn ta mặc tình.

Đến lần “trộm” thứ 14 đối với chị P.T.L. thì tên Hoàng mới bị phát hiện và bị bắt giữ. Hôm đó, hắn vào
nhà chị L. lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Chị L cùng ngủ với hai con, chồng chị ngủ riêng trong buồng. Tên
Hoàng đã giở trò “yêu” chị L. và trong lúc hắn đang ngây ngất thì bất ngờ bị chị L. phát hiện ra là không
phải chồng mình, liền nắm tóc hắn và kêu cứu với chồng con. Tên Hoàng nhanh chân bỏ chạy, nhưng
những người hàng xóm nghe tiếng kêu cứu của gia đình chị L. đã vây bắt được hắn.

Ngày 29.5 Tòa Án Nhân Dân tỉnh đã truyền phạt bị cáo Trương Minh Hoàng 10 năm tù giam về tội trạng
này.
Hẳn là trên cõi đời này còn nhiều thứ tặc khác nữa, rất mong được quí vị chỉ giáo.
BÀN VỀ CHỮ DANH - Chuyện phiếm của Gã Siêu.
Trong số trước, gã đã bàn đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin nói tới công
danh, như một hậu quả tất nhiên của việc mình đã hùng hục kéo cày, mình đã bươm chải ngược xuôi,
mình đã vất vả kiếm sống.

Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ nhất, đó
là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm. Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này.

Trước hết, danh có nghĩa là tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta được cha mẹ
đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên hạ có thể phân biệt chúng ta với người này người nọ.
Phép đặt tên của người Việt Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những điểm chính đã
được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con người Việt Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà
hơn một tí.

Theo tác giả, ngày xưa nước ta không có hộ tịch hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt chào đời không phải
làm giấy khai sinh, người ta có thói quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo nó là con
giai hay con gái.
Riêng với những gia đình hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như thằng Tèo, cái
Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông “ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ
thế, cứ thế cho đến lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức
đặt tên cho.

Còn ngày nay thì khác, vợ vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay vừa mới siêu
âm về, biết được con mình là giai hay là gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con.
Và khi đặt tên cho con, cha mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú bác, ông cụ bà kỵ
của mình cũng như của lối xóm, bằng không thì rắc rối to.

Gã đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm giấy khai
sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà, liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp :
- Bộ hết tên rồi sao mà đặt tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh ra ông ngoại
của thím tao.
Và thế là trong giấy tờ đứa bé có một tên, còn trong đời thường thì nó lại được gọi bằng một tên khác.

Tuy nhiên, nhiều người khi oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của mình và coi đó
như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!
Hầu như dân tộc nào cũng thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi ít ra cũng phải nói
lên ước vọng của cha mẹ đối với con cái.

Chẳng hạn trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là Adong và
Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa là con người. Sau đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã
chớp chớp đôi mắt khi gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng là Eva, có nghĩa là mẹ của
chúng sinh. Đức Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn Đức
Kitô đã cải tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng.
Người Việt Nam cũng thế, cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình vào tên gọi của
con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi
vì đời nhà Chu bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và
Thúc Quý, Quý Quỳ và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã
muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên những bậc hiền sĩ.

Một tên đầy đủ thường gồm có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên.
Trước hết là họ. Họ từ tổ tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con lấy họ của bố, nhưng
cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một trong những
người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con ra mà không có bố…

Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường dùng mấy chữ
như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích
chữ Thị, vì xem ra có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm phần mộng mơ, lãng mạn và âm
vang leng keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy…
Viết tới đây, gã rất lấy làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn cảnh lúc bấy giờ
chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái
mình, chẳng hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy và trên cả tuyệt vời
nữa!
Sau cùng là tên. Đây là phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên được chọn để nói lên
sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó.
Đối với con gái, người ta ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên…hay tên bốn
mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với con giai, người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh, nói
lên bổn tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi giản tiện, người ta lấy ngay năm
sinh để đặt cho con, như Tý, Sửu, Dần, Mão…
Cũng giống như dân Do Thái, người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì người ta dùng
tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo. Người ta
gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo gái.
Chính vì sự kiêng tên, mà nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi thành
Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành Luông…
Khi có tí chức, tí quyền hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng hạn như Nguyễn
tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi người ta dùng chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông Huyện
Đặng, cụ Cử Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam
nguyên Yên Đổ.
Bình thường, chỉ những kẻ bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế tại các làng
xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm để mua cho mình tí chức như chân nhiêu, chân xã hầu được bàn
dân thiên hạ gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của mình.
Đặc biệt khi vác lều chõng đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí sinh không được
dùng những chữ dính dáng đến tên của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm húy, thì
dù bài văn có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn mang lấy vạ vào thân.
Tuy nhiên, đã có danh thì cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được nhiều người biết
đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa lá
cành. Trần xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít,
như ông giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho
người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với đời.

Vì thế, chữ danh, ngoài cái ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng tăm.
Đứng trước cái danh này, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe : tiêu cực và tích cực.
Phe thứ nhất mang tính cách tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một thứ phân
bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như tục ngữ đã bảo :

- Công danh bánh vẽ, giàu sang chiêm bao.


Hay như Tản Đà cũng đã viết :
- Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Bởi đó, người ta rất e dè và ngần ngại :
- Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.
- Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

Điều quan trọng là phải chí thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới, mà lỡ nó
không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm
niệm” đã khuyên giới trẻ :
- Cần sự nghiệp, chứ không cần công danh.
Hay như ca dao cũng đã nhắc nhở :
- Công danh đeo đuổi mà chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.
Thậm chí có người còn phớt lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa cuộc đời
mình :
- Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.

Phe thứ hai mang tính cách tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại diện cho
phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông luôn hô
hào :
- Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ lần.
Đường đường là một kẻ trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh thì thà chết
quách đi cho rồi :
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt cũng
như cho đời biết tên :
- Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.

Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói chung
là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với nhau. Người ta thường hay lợi dụng cái danh của mình
để vơ vét về cho thật nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm cho người ta phấn khởi và
hồ hởi leo lên cao, lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách, hay phải cúi gập người xuống.

Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con nít
cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều thấu triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca
dao hôm nay đã sánh ví :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.

Tự bổn chất, có danh có tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại rất thích hợp
với bản tính con người. Bởi vì ông chính trị gia nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi của
mình. Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một
vài dòng ngăn ngắn.
Tuy nhiên, vấn đề trở nên nhiêu khê và rắc rối ở chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng cách nào ? Phải
làm sao để mà “có danh gì với núi sông” ?

Trước hết, gã thấy có những kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo lên :
Chẳng hạn như một anh chàng sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ ngay được
cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta nghiễm
nhiên ngồi vào chiếc ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên như diều gặp gió. Đường công
danh mở toang, anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô tô con phom phom đi vào.
Đúng là :
- Có người nhờ vợ nên ông,
Lắm người vì vợ mất không cơ đồ.
Tiếp đến, gã thấy có những kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo kiểu “phe ta
thổi phồng phe mình”.
Chẳng hạn như một anh thợ hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn nghề ký
giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải ngẩn
tò te, lò mò muốn biết.

Sau cùng, gã thấy có những kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây lại được rẽ
vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu…nhà dòng.

Đúng thế, có những kẻ ra công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh.

Chẳng hạn mấy cô cậu học trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài và cử
nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi. Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam,
không ít thì nhiều, cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra lò”, không hiểu họ sẽ
dẫn đất nước này đi về đâu ?

Quay cóp mà thôi chưa đủ, mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn nữa. Số là
nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ,
văn bằng kia. Bởi đó, thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình, mấy ông quan này chỉ
việc ngồi ở nhà rung đùi, rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được cái ghế mình đang ngồi.

Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải kêu trời, như
ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về những ông tiến sĩ giấy :
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Gã biết một tên nọ, học mãi học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là vẫn chưa
vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về
phương diện mánh khóe và xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả.

Lúc nào trong chiếc “cạc táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và chức vụ khác
nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để hạ gục
nhanh con mồi.

Chẳng khi hạn đến với mấy ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm danh
thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự
yên lặng của hắn, bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự thật. Và thế là, dù
tức như bị bò đá, ông quan kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho hắn.

Tuy nhiên, trong cái xã hội đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã đứng lên bằng
chính đôi chân của mình, đã tạo dựng sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh vọng
đính kèm, thì danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của bản thân.

Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật có kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau :
Ở Cần Thơ, có ba chị em gái sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã theo mẹ đẩy
xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là
“chị em xe hốt rác”, nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai của mình trên giảng
đường đại học…
Cô chị tích cóp tiền thu gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học phí bảng A Anh
văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000 đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội nghiệp bà
mẹ quá lo lắng không biết còn bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không ?
Nêu sự kiện trên, tác giả đã chua thêm vào đó chút suy tư vụn vặt của mình như sau :

Thiết nghĩ, các bằng cấp mà ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua danh
phận của mình một cách danh dự và chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở
để đạt được bằng thực học.

Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác sĩ chính,
giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái “đạo học” ngày nay.
Có danh một cách đường đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái danh ấy khỏi
hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu
công sức mới có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều đi đoong, đều tiêu tan
thành mây khói, thân thì bại, danh thì liệt, như người xưa đã bảo :

- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.


- Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.
Đêm nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến người ta
thường bị thân bại danh liệt, đó là tình và tiền.

Có kẻ vì tình, hay nói toạc móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà con gái mà
đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá nhiều bằng chứng về vần đề này :
Ngày xưa vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị vua Thành
Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến cho
sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở thôn Trữ La do Việt Câu
Tiễn hiến cống, đã phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội
ấy, Câu Tiễn liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi
đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị rơi
vào tay Việt Vương Câu Tiễn.

Còn ngày nay cũng không thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập niên sáu mươi,
ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên là Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller, khiến
cho toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở
dĩ như vậy vì cô gái điếm này là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức tối mật.

Và mới đây, tổng thống Bill Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã nhăng nhít
với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky.
Ngoài ra, cũng có kẻ vì tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham, chẳng thích, chẳng
mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì
chẳng nói làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn bán, tham nhũng hối lộ trong khi
thi hành chức vụ, bỏ nhầm công quĩ vào túi để xài riêng…Thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng
không lường nổi. Đây cũng chính là một con đường ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù tội,
còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh vụn.

Có người đã leo lên tới tột đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại Hàn, quê
hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng vì cái túi tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những
khoản tiền “bồi dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy.

Quả là chua xót và đắng cay như lời Kinh Thánh :


- Phù hoa trên mọi phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa.
Để kết luận, gã xin mượn lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại trên báo Tuổi
Trẻ Chủ Nhật.

Dân Trung quốc có câu :


- Người biết đạo, tất không khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất không thích tiếng
tăm lừng lẫy.
Hay như :
- Người đi không cầu cho có bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng dội mà
tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử chỉ cần làm nên công rồi danh ắt sẽ đến.
CẶP KÍNH MÀU - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Trong một bài chia sẻ về những mâu thuẫn trong cuộc đời Linh mục, một vị giảng thuyết kia đã thao
thao bất tuyệt như sau :

Ngày xưa, ngài chỉ được học qua quít về…nghệ thuật giảng thuyết, thế mà bây giờ, giảng thuyết lại trở
nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu, giáo dân sẽ
ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích. Vậy phải làm thế nào để đáp
ứng nhu cầu trên ?

Ngày xưa, ngài đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công
trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng
heo, chuồng gà, bằng không thì sẽ bị chê là cù lần, chỉ biết cất mà không xây. Và còn rất nhiều lãnh vực
khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ
phải dấn thân. Thôi thì ông cha đi trước, làng nước theo sau.

Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử. Ngài phải làm sao để dung hòa được những
hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá
thì bất cập.

Nếu vui vẻ thì bị hiểu là quá thân mật, còn nếu nghiêm nghị thì bị mang tiếng là khó tính.

Nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, còn nếu áo quần tề chỉnh
thì bị khép vào hạng người quan liêu và cách biệt.

Nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham mê của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách
là con nhà trưởng giả…

Từ đó, gã nghiệm ra lời cha ông chúng ta ngày xưa quả là chí lý lắm vậy thay :

- Ở sao cho vừa lòng người,


Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra.

Cùng một sự việc, nhưng người thì nói thế này, kẻ thì lại nói thế khác, người thì đánh giá một đàng, kẻ
thì lại đánh giá một nẻo…Thành thử, những sự phát biểu cứ thiên biến vạn hóa, cứ loạn cào cào, đến
quỷ thần cũng không lường nổi.
Tuy nhiên, sự đánh giá của chúng ta thường dựa vào những yếu tố chủ quan hơn là khách quan. Vậy
những yếu tố chủ quan ấy là như thế nào ?
Yếu tố thứ nhất, đó là tình cảm.

Tục ngữ thường bảo :


- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Và ca dao cũng đã quảng diễn ý tưởng trên bằng nhiều hình ảnh rất cụ thể :
- Yêu nhau, trầu vỏ cũng say,
Ghét nhau, cau đậu đầy khay chẳng màng.
- Yêu nhau, xé lụa may quần,
Ghét nhau, kể nợ kể nần nhau ra.
- Yêu nhau, bốc bải dần sàng,
Ghét nhau đũa ngọc, mâm vàng chẳng ăn.
- Yêu nhau, yêu cả đường đi,
Ghét nhau, ghét cả tông chi họ hàng.

Tình cảm là như một cặp kính đeo trên mắt. Khi yêu thì nó là màu hồng, còn khi ghét thì nó là màu xám,
và sự đánh giá của chúng ta cũng theo đó mà thay đổi.

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có một mẩu chuyện kể lại rằng :
Trước kia, vua nước Vệ rất yêu thương Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội
chặt chân. Mẹ của Di Tử Hà ốm nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe của vua mà
ra đi. Vua nghe thấy khen rằng :

- Có hiếu thật ! Vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân.


Lại một hôm, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào, thấy ngọt, còn một nửa bèn đưa
cho vua ăn. Vua khen :

- Yêu ta thật ! Của đang ngon miệng mà cũng biết để nhường cho ta.
Về sau, vua không còn yêu thương Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm

Di Tử Hà phạm lỗi, vua giận nói rằng :

- Di Tử Hà trước dám liều lấy xe củ ta mà đi. Lại một lần dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với
ta đã lâu ngày.

Nói xong bèn đem Di Tử Hà ra trị tội.


Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã ghi thêm lời bàn của mình như sau :
Sự yêu ghét thường làm cho người ta mờ đi, không rõ được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra
thế nào. Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, còn
lúc ghét cho ra thế kia. Cái thói thường yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê
hồng thì hồng chua. Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì
đến lúc ghét lại bạc gấy nhiêu.

- Yêu nhau, cau bảy bổ ba,


Ghét nhau, cau bảy bổ ra làm mười.

Lại chẳng những yêu ghét riêng một người, mà thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có
can thiệp đến người ấy :

- Yêu nhau, yêu cả tông chi,


Ghét nhau, ghét cả đường đi lối về.

Kinh nghiệm trên lại càng trúng phóc hơn nữa đối với những người đang yêu, bởi vì lúc bấy giờ :

- Yêu nhau muôn sự chẳng nề,


Một trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng.

Đã đeo cặp kính tình yêu vào rồi, thì ở mọi nơi và trong mọi lúc đều thấy cuộc đời toàn màu hồng. Ngay
cả những sai lỗi, khuyết điểm của “người ấy” cũng trở nên duyên dáng và dễ thương :

- Lỗ mũi em mười tám gánh lông,


Chồng yêu, chồng bảo : “Râu rồng trời cho”.
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu, chồng bảo : “Ngáy cho vui nhà”.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo : “Về nhà đỡ cơm”.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo : “Hoa thơm rắc đầu”.

Yếu tố thứ hai, đó là thành kiến.


Thành kiến là những ý nghĩ đã có sẵn, khó mà thay đổi. Nó chính là một cục sạn nằm trong đầu óc của
chúng ta. Khi đã có cục sạn ấy, thì khó mà lay chuyển.

Cũng như tình cảm, thành kiến giống như một cặp kính đeo trên mắt, khi có những ý nghĩ tốt thì nó màu
hồng, còn khi có những ý nghĩ xấu thì nó trở thành màu xám.
Chẳng hạn một ông bố luôn nghĩ rằng :

- Con nít thì biết cái quái gì.


Rồi từ đó ông kết luận

- Phàm những gì con nít làm, đều là đồ bỏ, chẳng đáng một đồng xu cắc bạc nào cả.

Chuyện rằng :
Tagore là một thi sĩ Ấn Độ, nổi tiếng cả và thế giới. Hồi còn nhỏ, ngày kia cậu nhóc làm được một bài thơ
và đưa cho ông bố coi thử. Chẳng biết ông bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo :
- Dở ẹc.
Ngày hôm sau, cậu nhóc lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho ông bố coi thử. Lần này ông bố
liền kê tủ đứng vào mũi cậu nhóc :
- Đúng là bài thơ …con cóc.
Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm
xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.
Lần này thì ông bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán :
- Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa.

Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai
bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng
thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu.

Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra : bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố bèn giận sôi lên sùng sục, nhưng
cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình.

Khi đã có cục sạn trong đầu, chúng ta khó mà nghĩ tốt và đánh giá cao những lời nói và việc làm của
người khác.

Cách đây đã lâu, gã được đọc một bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình trên tờ Paris
Match.

Người ta hỏi Đức Tổng :


- Ngài có sợ Cộng sản hay không ?
Đức Tổng vô tư trả lời :
- Có chứ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn sợ Cộng sản.
Thì ra cũng như bao nhiêu người Công giáo Việt Nam, trong đầu óc Đức Tổng đã có một cục sạn nhỏ cho
rằng :
- Công giáo không thể đi đôi với Cộng Sản, như vô thần không thể đứng chung liên danh với hữu thần.
Nghĩ tới Cộng sản là nghĩ tới đấu tố, bắt bớ và cấm cách…

Trong khi đó, người Cộng sản Việt Nam cũng mang một cục sạn khá to trong đầu óc khi nhìn những
người Công giáo như những kẻ chạy theo thực dân và làm tay sai tư bản, cản bước tiến của cách mạng,
cho nên cần phải kìm kẹp, cần phải giới hạn và cần phải “sì tốp” bớt những sinh hoạt, ít nữa là bằng cách
bắt chui đầu vào cái rọ của cơ chế “xin-cho”.

Trái lại, một khi đã có những thành kiến tốt, những ý nghĩ đẹp về người khác, chúng ta sẽ dễ dàng đánh
giá cao những lời nói và những việc làm của họ, và xem đó như khuôn vàng thước ngọc để noi theo. Cho
dù những lời nói và những việc làm ấy có ngớ ngẩn đến đâu chăng nữa thì cũng vẫn được coi như thần,
như thánh.

Một cô đào nổi tiếng vừa mới lên xe hoa về nhà chồng. Mấy chàng nhà báo lẽo đẽo chạy cheo với đủ cả
máy chụp hình, máy quay phim cùng mọi thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa, khiến mồ hôi mồ kê vãi ra
như tắm.

Câu hỏi duy nhất được đặt ra, đó là :


- Tại sao cô lại lấy anh ta làm chồng ?

Và cô đào nổi tiếng này đã trả lời một cách hết sức bất ngờ :
- Sở dĩ tôi lấy anh ta làm chồng chỉ vì anh ta là….đờn ông.

Nếu suy nghĩ một chút thì câu trả lời này nào có điều chi hay ho và lạ lẫm. Nó cũ như trái đất. Nó giống
như một câu danh ngôn đã xác quyết :
- Chẳng có gì mới dưới ánh nắng mặt trời.
Đã lấy chồng, thì đương nhiên anh chồng phải là đờn ông con giai, chẳng lẽ anh chồng ấy lại là đờn bà
con gái hay sao ? Ngoại trừ trường hợp cô đào nổi tiếng này dân “pê-đê”, chuyên xài “săng pha nhớt”.

Thế nhưng, mấy anh nhà báo này lại mừng quýnh và cho rằng câu trả lời ấy thật nảy lửa, thật tuyệt
chiêu, còn hơn là cả một sáng kiến mới.
Cũng giống như ông thày bói, một khi đã tạo được cái uy tín nơi mấy bà mấy cô và bắt đầu hốt ra bạc,
lúc bấy giờ dù có tán hươu tán vượn, thì mấy bà mấy cô hâm mộ vẫn cứ quì gối nhắm mắt mà tin theo,
coi như thần bảo và thánh phán :

- Số cô chẳng giàu, thì nghèo,


Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ, có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

Chuyện rằng :
Ngày kia người ta dọn lên cho thánh Don Boscô một chiếc bánh “ga tô” thật ngon. Trong lúc đó có hai bà
cùng ngồi nói chuyện với ngài.
Hai bà đưa mắt quan sát xem ngài sẽ ăn chiếc bánh “ga tô” này như thế nào.

Bà này ghé vào tai bà kia và nói :


- Cha Don Bosco là một vị thánh sống, tôi tin chắc ngài chỉ ăn một chút xíu mà thôi.
Nghe thấy vậy, ngài bèn cầm lấy một con dao, cắt một miếng bánh ngọt thật to, rồi ăn ngồm ăn ngoàm,
ăn lấy ăn để, thậm chí còn phùng cả má và trợn cả mắt, suýt nừa thì mắc nghẹn. Rồi sau đó, uống một
ly cối nước trà nóng và tỏ ra khoái trá, cứ y như dân phàm ăn tục uống vậy.
Trước sự việc bất ngờ này, bà kia bèn ghé vào tai bà này và cũng khẽ nói :

- Thánh nhân là thế đó, ngài ăn uống như vậy trước mặt chúng ta là cố ý tỏ ra rằng ngài không phải là
thánh như mọi người vốn thường nghĩ tưởng. Ôi sự khiêm nhường của ngài quả là cao vòi vọi…

Sống trên đời, ai trong chúng ta cũng đều mong muốn được người khác yêu thương.
Tuy nhiên để được người khác yêu thương, chúng ta cần phải trở nên một người khả dĩ yêu thương
được. Chứ lúc nào cũng kiêu căng hợm hĩnh, lúc nào cũng vênh vang tự đắc…thì ai mà yêu thương cho
nổi.

Chuyện rằng :
Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người đẹp và
một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp
đẹp, lấy làm lạ bèn hỏi dò thằng trẻ con trong nhà trọ, thì nó trả lời rằng :
- Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp mà mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự
biết là xấu mà quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu gọi học trò lại mà bảo :
- Các con nhớ lấy câu ấy. Người ta giỏi mà bỏ được cái nết “tự cho mình là giỏi”, thì đi đến đâu ai mà
chẳng tôn trọng, chẳng yêu quí.
Sống trên đời, ai mà chẳng mong muốn được người khác nghĩ tốt về mình và đánh giá cao những việc
mình làm.
Tuy nhiên, để được nghĩ tốt và được đánh giá cao như thế, chúng ta cần phải tạo ra những ý nghĩ tốt,
những thành kiến đẹp và những tình cảm nồng hậu nơi những người chung quanh.

Chuyện rằng :
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc
sắp đi, Phùng Huyên hỏi :
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?
Mạnh Thường Quân trả lời :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiều thứ gì, thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại và bảo :
- Các ngươi công nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều tha cho cả.
Nói đoạn, bèn đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân :
- Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó má đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì
nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.
Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy
đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng :
- Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.
Nếu gã nhớ không lầm thì ông thánh Augustinô có lần đã nói :
- Hãy yêu, rồi muốn làm gì thì làm.
Cùng một thể thức ấy, gã xin được nhái theo :
- Hãy tạo cho mình những hình ảnh đẹp, những ý nghĩ tốt nơi người khác, rồi muốn làm gì mà chẳng
được.
Hay như trên gã cũng đã phát biểu :
- Để được yêu thương, thì điều cần thiết là phải trở nên một người khả dĩ…yêu thương được.
MƯỚN - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Kinh nghiệm đời thường cho thấy : chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển
khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại chúng ta sống là sống với người khác.
Hồi còn bé, gã đã được một câu chuyện ngụ ngôn, đại khái như thế này :
Ngày kia, anh chàng thi sĩ nọ thấy người giúp việc đến và nói :
- Từ nay anh hãy thổi nấu lấy mà ăn, giặt giũ lấy mà mặc. Tôi nghỉ để về quê ở với bố mẹ.
Lát sau, anh ta thấy bác nông phu đến và nói :
- Tôi chán cái nghề này lắm rồi. Từ nay anh hãy trồng lúa, tự sản xuất ra lương thực mà nuôi thân.
Lát sau, bà bán thịt cũng đến và nói :
- Thịt thà kỳ này lúc lên lúc xuống, hễ cứ nghe thấy lở mồm long móng hay H5N1 là heo gà tụt giá cho
cá mú lên ngôi, chẳng biết đàng nào mà mò. Tôi xin bỏ nghề, anh liệu mà xoay xở lấy thịt lấy cá mà
nhậu.
Sau cùng, cô thợ may cũng đến và nói :
- Ngồi may mờ cả mắt thật chán. Thôi anh hãy kiếm lấy mớ quần áo ở đâu đó mà mặc, tôi không thèm
may cho anh nữa đâu.
Câu chuyện còn dài, nhưng bằng đó mà thôi cũng đủ cho anh chàng thi sĩ nọ lo toát cả mồ hôi hột. Như
một cầu thủ nhà nghề, anh ta giơ chân và…sút. Cả chân lẫn cẳng đập mạnh cái rầm xuống giường, kéo
anh ta ra khỏi giấc ngủ nặng nề và anh ta bèn lẩm bẩm :
- À thì ra đó là một cơn mơ!
Thế nhưng, cũng từ cơn mơ ấy, anh ta cảm thấy mình mắc nợ mọi người nhiều lắm.
Đúng thế, ngay từ khi lọt lòng mẹ và cho tới ngày hôm nay, con người và cuộc đời chúng ta đã mang
dấu ấn của biết bao nhiêu người trợ giúp. Mà nếu không có những sự trợ giúp ấy, chắc chắn chúng ta sẽ
không thể nào tồn tại được. Này nhé :
Gã không trồng cà phê, những sáng nào gã cũng nhâm nhi một ly cà phê đen như thằng quỉ, nóng như
hỏa ngục và lịm như tình yêu. Cà phê ấy là do người khác cung cấp cho gã.
Gã không nuôi chó, nhưng thỉnh thoảng vẫn cùng với mấy tên bạn kéo nhau tới quán cờ tây để thưởng
thức cái món “sống trên đời” cho khoái khẩu, bởi vì mai mốt xuống âm phủ biết có hay không ? Cái món
dồi chó ấy là do người khác cung cấp cho gã.
Và còn nhiều, rất nhiều những nhu cầu khác nữa mà bàn dân thiên hạ mang đến cho gã, thậm chí có khi
còn cho không và biếu không. Vậy thì bây giờ tới lượt gã, gã cũng phải vui lòng chấp nhận đổ mồ hôi sôi
nước mắt trên ruộng đồng để đem lại hạt gạo nuôi sống người khác. Chẳng biết khi bưng bát cơm đầy
thơm phức, có ai đã nghĩ tới “đắng cay muôn phần” hay không ?
Và như vậy, cái triết lý “bánh ú đi bánh qui lại” hay “ông có chân giò, bà thò chai rượu” vẫn là cái triết lý
thực tiễn nhất trên đời. Điều đó có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, hễ có hai người sống với nhau là
có sự trao đổi.
Ngày xửa ngày xưa, khi còn ăn hang ở lỗ, cha ông chúng ta đã trao đổi với nhau bằng hiện vật, chẳng
hạn năm con gà đổi lấy một con chó, hay ba trái sầu riêng đổi lấy một thúng gạo. Thế nhưng, hiện vật
do lao công con người làm ra, nhiều khi nặng nề, cồng kềnh và khó mang, nên người ta đã dùng quí kim
như vàng bạc đổi lấy hiện vật.
Rồi ông nhà nước đã nhúng tay vào, bởi vì ai nắm được tài chánh là nắm được quyền lực. Trong giòng
thời gian, ông nhà nước đã cho phát hành tiền kim loại, được đúc bằng vàng, bạc hay đồng. Sau dó, cho
phát hành tiền giấy. Và ngày nay cùng với việc giao thương được mở rộng, một loại tiền dựa trên sự tin
cậy vào nhau, như thẻ tín dụng, chi phiếu, ngân phiếu, trái phiếu…do các ngân hàng lưu hành đang được
sử dụng khắp nơi.
Hiện nay, từ đứa con nít mới chập chững biết đi, cho tới ông cụ già tóc bạc răng long, gần đất xa trời…ai
ai cũng đều biết được giá trị vạn năng của đồng tiền, như giới trẻ bây giờ thường rỉ tai :
- Tiền,
Là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Chính vì thế, người ta ra sức bươm chải, tất tưởi chạy ngược chạy xuôi…cũng chỉ để tìm tiền kiếm bạc
mà thôi.
Trong mối liên hệ với người khác, nhất là trong những cuộc trao đổi mang nặng tính cách thương mại,
thì tùy theo túi tiền, gã có thể phân chia thành ba loại chính, đó là mượn, mua và mướn.

TRƯỚC HẾT LÀ MƯỢN


Khi ta không có tiền mà lại muốn xài sang, thì ta đành phải đi mượn của thiên hạ, bởi vì mượn là nhờ
tạm của người khác vật gì trong một thời hạn nào đó, rồi sau sẽ trả lại với sự thỏa thuận của chủ mà
không phải trả tiền :
- Tới đây mượn chén ăn cơm,
Mượn ly uống rượu, mượn đàn kéo chơi.
Đó là một sự việc rất bình thường trong cuộc sống bởi vì nào có ai hoàn toàn đầy đủ mà không phải cậy
nhờ người khác. Lúc thì thiếu cái nọ, lúc thì thiếu cái kia. Trên nguyên tắc, đã mượn thì phải trả. Thế
nhưng, đôi khi vì lòng tham người ta lại muốn mượn luôn, hoặc vì quên sót hoặc vì cố ý lờ tít mà không
trả nữa.
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường mượn của nhau những thứ sau đây :

Thứ nhất là mượn vật dụng hay đồ dùng để xài đỡ.


Đây là thứ mà người ta hay mượn của nhau nhiều nhất. Chẳng hạn bỗng dưng bị cúp điện, mà diêm quẹt
thì lại không có. Thế là phải vội chạy qua chị hàng xóm mượn tạm chiếc bật lửa mang về đốt vào cái đèn
hay cây nến cho căn nhà được chiếu sáng.

Thứ hai là mượn tiền để làm ăn.


Gia đình lâm vào cảnh túng quẫn vì vợ yếu, con đau mà lại chẳng có phương tiện để sinh sống, bèn phải
gõ cửa anh bạn thân, mượn đỡ ít tiền để làm ăn và người ta gọi cái mượn này là mượn vốn.
Trong việc mượn vốn, thường hay xảy ra cái cảnh “mượn đầu heo nấu cháo”. Có nghĩa là mượn vốn của
thiên hạ để mua bán lấy lời, rồi dùng tiền ấy mà kinh doanh chuyện nọ chuyện kia. Rất lâu sau mới hoàn
trả số vốn ban đầu cho khổ chủ. Giống như mượn cái đầu heo của thiên hạ nấu cháo cho ra nước ngọt,
mà cái đầu heo thì vẫn còn nguyên để trả lại cho chủ của nó.
Tiền bạc vốn là chuyện rất tế nhị và khó nói. Khi vay thì dễ nhưng khi trả thì lại khó, ấy là chưa nói tới
những kẻ mang ý đồ đen tối muốn quịt luôn. Vì vậy, cần phải khôn ngoan, bằng không thì sẽ mất cả chì
lẫn chài, sẽ mất cả tình lẫn tiền.
Chuyện rằng :
Scrible cho bạn vay năm trăm đồng quan. Đến kỳ hạn, bạn không thể trả được, nên cố ý tránh mặt. Rồi
một hôm tình cờ hai người gặp nhau trên phố, thấy bạn ngượng ngùng định chạy trốn, Scrible vui vẻ tiến
đến, vỗ vai bạn và nói :
- Hãy bỏ qua số tiền ấy đi. Nếu vì nó mà tôi mất một người bạn quí, thì tôi chẳng đặng.
Thứ ba là mượn tên của người khác để làm ẩu.
Có nghĩa là mình mượn tạm cái danh nghĩa, cái uy tín của thiên hạ để ra oai trong những mối liên hệ xã
hội theo kiểu “cáo mượn oai hùm”. Cáo là loại chồn lớn, rất độc ác và khôn ranh, vì thế người ta cũng
thường dùng hai chữ cáo già để chỉ những kẻ gian xảo.
Chuyện rằng :
Vua nước Sở trong một buổi đại triều đã hỏi quần thần :
- Phương Bắc sợ Chiêu Hồ Tuất như thế nào ?
Giang Ất tâu :
- Con hùm bắt được con cáo. Thế nhưng, con cáo liền bảo con hùm rằng : Chớ ăn thịt ta, bởi vì Trời đã
sai ta xuống để làm chúa tể các loài thú, không tin thì ngươi cứ đi trước để ta theo sau, thì sẽ rõ. Cả hai
con cùng đi. Các thú vật thấy con hùm đều bỏ chạy trốn cả. Con hùm không biết là chúng sợ oai mình,
tưởng lầm là chúng sợ oai con cáo thật….Phương Bắc ngày nay thần phục nước Sở là vì sợ quân của nhà
vua, chứ đâu phải vì sợ Chiêu Hồ Tuất.
Câu chuyện trên có ý nói tới những kẻ lợi dụng danh nghĩa cũng như uy tín của người khác để dọa nạt
mà lấy oai. Thế nhưng, lấy oai mà thôi chưa đủ, nhiều khi còn lợi dụng để lường gạt mà kiếm lời.
Có những kẻ mượn danh nghĩa viện mồ côi này, trường khuyết tật nọ để xin giúp đỡ, nhưng rốt cục tiền
bạc chui tọt vào túi của họ mà chẳng hề biết tới những em bé mồ côi hay tật nguyền.
Có những kẻ mượn uy tín của Đức Giám Mục giáo phận cũng như linh mục chính xứ với đủ mọi thứ giấy
tờ lỉnh kỉnh như bùa hộ mạng, để đi quyên góp xây nhà thờ. Nhưng khi đã nắm được tiền trong tay thì
bèn lặn mất tăm mất tích.

TIẾP ĐẾN LÀ MUA


Trái với trường hợp trên, đó là khi có nhiều tiền rủng rỉnh trong túi, ta không thèm mượn nữa, mà sẽ
mua cho mình, bởi vì mua chính là dùng tiền bạc để đổi lấy đồ vật với sự ưng thuận của người bán.
Trong lãnh vực mua, gã nhận thấy một vài hiện tượng đáng cho chúng ta phải lưu ý và suy nghĩ.

Thứ nhất, đó là có những cái không cần thiết thế mà chúng ta vẫn cứ mua.
Thực vậy, hiện nay chúng ta đang sống trong một nền văn minh tiêu dùng. Hàng hóa được sản xuất ra
một cách ào ạt với những mẫu mã biến đổi đến quỷ thần cũng không lường nổi. Hàng hóa ấy lại được
các phương tiện truyền thông quảng cáo một cách hấp dẫn, nên nhiều người cảm thấy ngứa ngáy, cần
phải mua, cần phải sắm ngay mới được.
Thế nhưng, những cái chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai đã trở nên lỗi thời, bị xếp vào xó mà có khi
chưa một lần sử dụng. Và để cho hợp thời, chúng ta lại cắm đầu cắm cổ mua sắm những mẫu mã khác.
Một số người trong chúng ta dường như đã mắc phải cái “hội chức shopping”, ngày nào không đi siêu
thị, không đi mua sắm thì liền cảm thấy bức rức khó chịu. Đôi khi khuân về cả một đống những thứ lỉnh
kỉnh. Có cái thì mới vì nghe theo quảng cáo. Có cái thì cũ vì nghe theo khuyến mãi, hay bán…đại hạ giá.
Mua về rồi bỏ đó, chẳng hề đụng tới. Thật là phí của trời, mười đời chẳng có mà ăn.

Thứ hai, đó là có những cái không được mua thế mà chúng ta vẫn cứ mua.
Hẳn chúng ta đã rõ, tình trạng đạo đức hiện nay đang xuống cấp một cách trầm trọng với những tệ nạn
xã hội ngày càng gia tăng.
Ai trong chúng ta cũng biết xì ke ma túy làm băng hoại cả thể xác lẫn tinh thần của người nghiện, với
những căn bệnh hiểm nghèo nhất. Mặc dù quốc gia nào cũng ngăn cấm một cách triệt để, thế mà nhiều
người vẫn cứ vui vẻ bỏ tiền ra mua cho mình cái chết trắng ấy.
Ai trong chúng ta cũng biết mãi dâm là một tệ nạn đem lại những hậu quả khắc nghiệt cho người bán
cũng như kẻ mua. Người bán thì sau một thời gian sẽ trở nên thân tàn ma dại, nếu chẳng may mắc phải
chứng bệnh thế kỷ HIV. Còn những người mua thì cũng vậy. Ấy là chưa nói tới những hậu quả mà việc
mua thứ hàng độc này mang lại cho vợ con, cho gia đình của mình. Thế mà nhiều người vẫn cứ vui vẻ
vung tiền mà đi mua…dâm.

Thứ ba, đó là có những cái cần phải mua, thế mà chúng ta lại không mua.
Sống trên đời, thì danh thơm tiếng tốt cũng như tình nghĩa là những thứ thật cần thiết. Thế nhưng, rất ít
người chịu khó đầu tư vào đó, rất ít người chịu khó noi theo mẫu gương Mạnh Thường Quân ngày xưa
mà mua sắm cho mình.
Chuyện rằng :
Mạnh Thường Quân là tướng quốc nước Tề, ngày kia sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ và căn dặn :
- Ngươi xem trong nhà còn thiếu món chi, thì cứ lấy tiền đòi được mà mua sắm đem về dùng.
Huyên tới nơi, tập họp dân chúng lại và nói :
- Tướng quốc thương dân nghèo, nên đã hủy hết công nợ.
Nói đọan, ông đem giấy nợ ra đốt. Khi về nhà, ông đã thưa với Mạnh Thường Quân như sau:
- Nhà ta châu báu đầy kho, trâu ngựa đầy chuồng, gái đẹp không thiếu, chỉ thiếu có một món nghĩa đối
với dân nước, nên tôi trộm lệnh tướng công bỏ tiền ra mua nghĩa.
Mạnh Thường Quân cười rồi bỏ qua. Một thời gian sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan về ở đất Tiết,
được dân chúng đón rước linh đình…

SAU CÙNG LÀ MƯỚN


Đứng giữa hai trường hợp kể trên là mướn. Khi có tiền, nhưng không được dồi dào cho lắm, ta bèn phải
đi thuê, đi mướn, nghĩa là ta phải trả một số tiền để đồ vật ấy thuộc về ta trong một khoảng thời gian
tùy theo sự thỏa thuận. Như vậy, nếu so sánh gã thấy : mượn thi không phải mất tiền, còn mướn thì
phải mất tiền. Mua thì đồ vật thuộc về chúng ta mãi mãi, còn mướn thì chỉ thuộc về chúng ta trong một
thời hạn nào đó.
Về chuyện thuê mướn này, gã tạm chia ra làm hai lãnh vực :

Lãnh vực thứ nhất, đó là thuê mướn đồ vật.


Hiện nay, tại Việt Nam các cửa hàng cho thuê cho mướn dường như đang ăn nên làm ra, do đó không
ngừng gia tăng và liên tục phát triển. Đầu đường cuối phố, chỗ nào cũng thấy.
Nhớ lại ngày xưa mỗi khi đâu phải xếp hàng mua vé, thì hôm nay, chỉ cần một cú điện thoại là sẽ có
ngay một chiếc xe đời mới tới tận cửa nhà. Tùy theo nhu cầu, có thể mướn xe bốn chỗ, bảy chỗ, mười
lăm chỗ hay nhiều hơn thế nữa…
Tại các cửa hàng dịch vụ loại này, chúng ta có thể thuê mướn đủ thứ lỉnh kỉnh, từ chiếc đồng hồ Rolex
đến chiếc điện thoại di động Nokia đời mới, từ cái áo thung Bebe đến chiếc quần jeans C.K, từ đồ trang
sức bằng đá quí đến đôi giày Gucci hàng hiệu. Tiền nào của nấy. Càng xịn thì càng mắc.
Sau đây là ghi nhận tại một cửa hàng cho thuê điện thoại di động :
Ở đây có đủ mọi loại “dế” (điện thoại di động) được cho thuê với giá thật rẻ. Tôi hỏi mướn một chiếc
Nokia 8800 rồi bấm tắt nguồn máy của mình để lấy sim ra gắn vào máy mới, lập tức tín hiệu hiện lên
ngon lành…Quá bất ngờ với kiểu làm ăn đầy rủi ro này, tôi quay sang hỏi một tay chơi đi cùng :
- Cho mướn như thế không sợ người thuê quịt máy hay thay đổi phụ kiện à ?
Anh ta trả lời :
- Khó mà qua mặt được ông chủ. Ai đến đây cũng có “thành tích” cả. Với lại khi cậu giao máy, thì ông ta
có cách kiểm tra rất nhà nghề của mình. Nhận thấy dấu hiệu lạ, thì bắt bồi thường ngay lập tức…(Báo
CATPHCM số 1426, ngày 16.3.2006).
Thế nhưng, mặt hàng thông dụng hơn cả chính là áo quần. Ở đây gã không bàn đến những tiệm cho
thuê đồ cưới, bởi vì đa số các cô dâu chú rể, nhất là tại vùng nông thôn, đều đi thuê áo quần để mặc
trong ngày cưới. Đồ cưới chỉ mặc một lần trong đời, mà may sắm thì lại quá mắc, thật uổng phí tiền
bạc..nên thuê mướn là thượng sách.
Sau đây là kinh nghiệm của một người trong nghề :
Trang phục thuê phần lớn là đồ có thiết kế riêng. Trước đây giới văn nghệ sĩ thường đi thuê trang phục
để diện trong những buổi chiêu đãi, tiệc tùng quan trọng. Một bộ đồ lộng lẫy, quá ấn tượng nhưng chỉ
mặc một lần rồi thôi, phải bỏ ra số tiền lớn để mua thì cũng tiếc. Hiện nay khách thuê thuộc nhiều đối
tượng nghề nghiệp khác nhau. Giá cho thuê trang phục khá cao và cũng tùy theo sự nổi tiếng của nhà
thiết kế, khoảng từ 20% đến 30% giá trị bộ đồ cho một lần thuê với thời hạn hai ngày. Do trang phục
không thể tái sinh, nên người cho thuê có những qui định rất khắt khe : không được làm xước mặt vải,
phải giữ trang phục sạh sẽ và phải trả đúng hẹn…Cách thuê mướn này cũng rất có lợi cho những người
thích chưng diện mà không muốn tốn nhiều tiền. (PNCN số 44, ngày 13.11.2005).
Vì thế, khi ra đường nhìn thấy một cô nàng mặc toàn hàng hiệu, dùng toàn đồ xịn, thì cũng nên đề cao
cảnh giác, biết đâu cô nàng đã đi thuê đi mướn từ A đến Z.

Lãnh vực thứ hai, đó là con người.


Mướn người làm việc cho mình rồi trả lương, vốn là chuyện bình thường. Ở đây gã muốn bàn tới hai loại
thuê mướn rất đặc biệt.
Thứ nhất đó là nghề cho thuê…tử cung, hay nói trắng ra là nghề đẻ mướn. Tại Ấn Độ, nghề này đang
được lan rộng. Có một bài báo đã mô tả như sau :
Chỉ với sức khỏe bình thường, một phụ nữ Ấn Độ có thể kiếm được 5000 đô Mỹ sau chín tháng cưu
mang. Một viên chức y tế đã phát biểu : Nó hoàn toàn mang tính kinh doanh, chẳng có gì là phi đạo đức.
Tuy nhiên nhiều người khác lại tỏ ra lo ngại về sự lợi dụng phụ nữ cũng như nhiều hiểm họa xảy ra do
việc sinh đẻ. Trong khi đó, “du lịch sinh sản” của người nước ngoài tại Ấn Độ tiếp tục bùng nổ và có thể
trở thành một công nghiệp đem lại gần sáu tỷ đô mỗi năm…(PNCN số 18, ngày 7.5.2006).
Tại Việt Nam, luật pháp chưa chấp nhận chuyện thuê người đẻ mướn, nhưng trong thực tế cũng đã có
nhưng người dùng cách thức này để giải quyết những hoàn cảnh riêng tư của mình. Một là những cặp vợ
chồng son sẻ. Hai là những cặp vợ chồng chỉ sinh toàn con gái, bây giờ muốn kiếm thêm một mụn con
giai để nối dõi tông đường. Ba là những cô không muốn lấy chồng, mà lại khao khát có con và đứa con
ấy không phải là con nuôi, nhưng là con của mình…bèn phải nhờ người khác mang thai giùm bằng chính
cái trứng của mình…(PNCN số 20, ngày 21.5.2006).
Thứ hai đó là dịch vụ thuê mướn “cây cảnh”. Cây cảnh ở đây không phải là một loại hoa kiểng, mà là
những cô gái đẹp để làm cảnh cho những công ty hay những buổi chiêu đãi. Dịch vụ này được mô tả như
sau :
Tôi không ngờ cậu bạn của tôi là giám đốc một công ty, lại có một cô thư ký đẹp tuyệt vời, khiến tôi và
đám bạn phải lướt khướt trong bữa tiệc hôm đó. Vừa gặp lại cậu ta, tôi đã vồ vập hỏi:
- Anh kiếm đâu ra cô thư ký xinh đến thế ?
Cậu bạn tôi trả lời tỉnh bơ :
- Ôi chao, quan tâm làm gì bọn “cây cảnh” văn phòng ấy.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, cậu bạn bèn thương tình cắt nghĩa :
- Chẳng cần phải nhọc công tốn sức tìm kiếm cho mình một cô thư ký, chỉ cần có tiền là có thể sở hữu
bên mình một người đẹp. Tùy theo hợp đồng và nhu cầu, có thể một tháng, hai tháng…hay đơn giản chỉ
cần mấy tiếng đồng hồø, xong việc là “a-lê-hấp”, anh đi đường anh, em đi đường em, chẳng vướng bận
gì cả. Các em làm nghề này nhan nhản ra ấy mà. “Cây cảnh” văn phong nôm na là như vậy. Hiểu chưa ?
Họ là những cô gái trẻ đẹp, được liệt vào hàng “top ten”. Dáng người cao ráo, ăn nói có duyên, đặc biệt
nhất là đôi mắt, cô nào cô nấy đều lúng la lúng liếng, khiến đám đàn ông khi mới giao tiếp phải chết đứ
đừ.
Do nhu cầu làm ăn, các công ty tư nhân đã thuê những “cô gái chân dài” này về làm cây cảnh, trang
điểm cho bộ mặt của mình. Công việc chủ yếu của những cây cảnh văn phòng là diện những bộ áo quần
thật mốt, khi đóng vai thư ký phải giả nai, mắt liếc đưa tìnnh, làm sao hút hồn các sếp, để các sếp ưu ái
đặt bút ký những hợp đồng làm ăn. Xong việc, nếu sếp thích, các “thư ký” sẽ sẵn sàng được điều động
tới để chiều chuộng…(Gia Đình, số 12 năm 2006).
Tóm lại, các cụ ta ngày xưa đã bảo có tiền mua tiên cũng được. Nếu vậy việc thuê tiên, hay mướn tiên,
thì chỉ là chuyện nhỏ mà thôi !!!
ÔNG KHỦNG BỐ - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, không phải chỉ là một biến cố làm rụng rời tay chân trên toàn nước
Mỹ, mà còn là một biến cố làm cho kinh hồn khiếp vía cho cả và nhân loại đang sống trên mặt đất này.

Nhìn những chiếc máy bay dân sự chở đầy hành khách đâm sầm vào Trung tâm Thương mại quốc tế tại
Nữu Ước, bổ nhào xuống Lầu Năm góc của bộ quốc phòng, hay rơi trên sa mạc bang Pensylvania, ai mà
chẳng cảm thấy khiếp đảm.

Nhìn những đống đổ nát của tòa tháp đôi, quả thật là không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, ai
mà chẳng thở dài ngao ngán :
- Ngày tận thế cũng đến vậy là cùng.

Nhìn những nạn nhân bị thiệt mạng trong ngày kinh hoàng ấy, ai mà chẳng xót xa và muốn chia sẻ bằng
những giọt nước mắt bồi hồi xúc động của mình.

Sáng hôm ấy, khi nhìn và nghe tin tức trên truyền hình, gã cũng đã bàng hoàng sửng sốt. Trước một cú
đánh bất ngờ, chẳng ai lường trước được, gã đã phải băn khoăn tự hỏi :
- Tại sao người ta lại có thể hành động một cách dã man đến như thế.
Thời gian vẫn cứ tiến tới bằng những bước chân âm thầm. Một năm đã trôi qua. Một năm nhiều xáo trộn.
Một năm nhiều bạo lực. Nào những căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan. Nào là bầu khí ngột ngạt tại
Trung Đông giữa Do Thái và Palestine, với những “trái bom sống”, hay nói cách khác với những “người
bom”, nghĩa là những người ôm bom sẵn sàng để chết hầu mong giết được nhiều kẻ thù của mình.

Chính trong bối cảnh ấy mà hai chữ “khủng bố” được bàn dân thiên hạ nói đến nhiều nhất. Vậy khủng bố
là như thế nào ?

Để đưa ra một định nghĩa chuẩn xác gã bèn phải bật tự điển, để mà nói có sách mách có chứng, thế
nhưng vẫn không thoát khỏi những kẻ xấu bụng cho rằng :

- Ôi dào, gã ấy chỉ thông thái nhờ sách vở mà thôi. Cái hạng “doctus cum libro” thì ăn cái giải gì cơ chứ.
Thôi thì cũng đành phải cắn răng chịu vậy bởi vì mình thì có giỏi giang chi với ai. Theo tự điển thì :
- Khủng là làm cho người ta sợ hãi.
- Bố là kinh hoàng sợ hãi, ngoài ra còn có nghĩa là tra xét, bắt bớ, đánh đập, cướp bóc…chẳng hạn như
nói : đi bố ráp.
Và như vậy :
- Khủng bố là dùng những hành động tàn bạo làm cho người ta sợ hãi. Một đôi khi khủng bố cũng còn có
nghĩa là chửi mắng để làm cho người ta lo sợ.

Trên lý thuyết, hễ dùng bạo lực để làm cho người ta sợ hãi, thì được phong làm khủng bố, nhưng trong
thực tế, sự việc lại không đơn giản như vậy.

Hồi đệ nhị thế chiến, nếu gã nhớ không lầm, thì những anh chàng phi công gan dạ của Nhật Bản, lái máy
bay đâm thẳng xuống những chiến hạm Mỹ và đã tạo được một chiến thắng lừng lẫy tại Trân Châu Cảng,
khiến Mỹ phải kinh hoàng…nhưng chẳng ai dám gọi họ là quân khủng bố cả.

Hiện thời, khó mà phân định về những hành động khủng bố, bởi vì nó còn tùy thuộc vào cái nhìn chủ
quan, vào cái lập trường chính chị chính em của mình.
Chẳng hạn việc đâm máy bay dân sự vào tòa tháp đôi, hầu như mọi người đều coi đó là hành động
khủng bố, nhưng dưới mắt ông Bin Laden, thì đó lại là một hành động tử đạo, chắc chắn sẽ được đấng
Allah ân thưởng bội hậu.

Chẳng hạn việc ôm bom tự sát để giết cho được nhiều người Do Thái, chúng ta cho đó là hành động
khủng bố, nhưng dưới mắt dân Palestine, thì đó lại là hành động can đảm và anh hùng, một hành động
yêu nước và cứu dân. Thật đúng như mấy ông tây đã bảo :
- Ố là là, chân lý thì ở bên kia dãy núi Pyrénées!!!

Nhưng dù sao chăng nữa thì hầu như mọi người đều phải công nhận rằng thế giới hôm nay đã bị in đậm
dấu ấn của bạo lực. Thực vậy, bạo lực xuất hiện trên báo chí với những câu chuyện về vụ án cướp của
giết người. Bạo lực xuất hiện trên phim ảnh, người ta giết nhau dễ dàng như trở bàn tay với những lý do
chẳng đâu vào đâu. Bạo lực xuất hiện trong những trò chơi điện tử làm cho những em nhỏ còn hoi mùi
sữa đã làm quen và rành rẽ việc bắn giết nhau.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn đó là bạo lực đã có mặt khắp nơi trong cuộc sống thường ngày dưới
nhiều hình thức khác nhau. Và nếu cần phải dán nhãn hiệu trình tòa cho thế giới hôm nay, có lẽ gã sẽ
phải ghi một chữ “bạo” thật to, bởi vì người ta đã tỏ ra táo tợn và hung dữ trong nhiều lãnh vực. Vì thế,
chữ bạo này cũng được thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi. Gã chỉ xin kê đơn hoàn
tán một số kiểu “bạo” vốn hay gặp thấy mà thôi.

Thứ nhất là bạo nghĩ. Con người thời nay nghĩ rất táo tợn, nhất là nghĩ xấu cho người khác. Thấy một
hành động bất ổn là vội vàng phê bình, chỉ trích và kết án, rồi lại còn thêm mắm thêm muối, vẽ râu vẽ
ria cho thêm phần lâm ly bi đát.

Thứ hai là bạo ăn. Con người thời nay rất phàm ăn. Ăn tuốt luốt từ con tép cho đến con voi. Hầu như tất
cả mọi thứ trên đời này đều phục vụ cho cái lỗ miệng của con người. Người ta ăn cho khoái khẩu, nhằm
thỏa mãn mọi vui thú cho sướng cái thân mình. Thậm chí ngay cả những thứ không ăn được, thế mà
thiên hạ vẫn cứ thích xơi, thích đớp như thường, chẳng hạn như ăn tiền, ăn cướp, ăn hối lộ…Họa may chỉ
có ăn đòn là “em chả dám đâu”.
Thứ ba là bạo nói. Con người thời nay hay nói vung thiên địa, thích những ngôn từ đao to búa lớn của
nghề quảng cáo, cứ nói và nhất là nói hành nói xấu, sẵn sàng chụp mũ và đổ lên đầu người khác đủ mọi
giống tội, mà chẳng thèm để ý tới những hậu quả gây nên cho nạn nhân.

Thứ bốn là bạo làm. Con người thời nay thực hiện rất nhiều hành động hung dữ dựa trên sức mạnh, nên
rất khoái những hình thức bạo động. Hiền lành và khiêm nhường là hèn nhát. Đấu tranh bất bạo động
quả là “xưa rồi Diễm ơi”. Họ đánh mình một, thì lập tức mình phải đánh trả mười. Cũng vì vậy, mặc dù tự
do và nhân quyền được nói đến hoài hoài mỏi cả miệng, thế mà xã hội vẫn đẻ ra những tên bạo chúa và
những chế độ bạo quyền.

Sau cùng, thứ năm là bạo tàn. Con người thời nay thích tàn phá danh dự và hạnh phúc của kẻ khác. Đã
vùi dập ai thì phải vùi dập cho tới tận bùn đen khiến họ không thể ngóc đầu lên nổi, khiến họ phải thân
bại danh liệt và khiến cuộc đời họ kể như đi đoong luôn…Như thế mới hả lòng hả dạ.

Bây giờ, gã xin trở lại với chuyện khủng bố. Khi nói tới khủng bố là gã nghĩ ngay tới những phần tử đối
lập quá khích, dùng bạo lực làm cho người ta khiếp sợ, để rồi từ đó đưa ra những đòi hỏi, những yêu
sách của mình. Khi nói tới khủng bố là gã hình dung ra những tên không tặc, mặt đằng đằng sát khí,
súng kè kè bên hông, tay cầm trái lựu đạn đã mở chốt nhằm uy hiếp hành khách cũng như phi hành
đoàn…

Đây là thứ khủng bố có bài bổn và mang tầm mức quốc tế, hay ít nữa cũng mang tầm mức quốc gia. Tuy
nhiên, trong một phạm vi nhỏ hẹp hơn, gã cũng thấy khủng bố có mặt trong mối liên hệ giữa những cá
nhân với nhau. Thực vậy, nếu hiểu khủng bố là làm cho người khác khiếp sợ, tinh thần trở thành bạc
nhược để rồi cuối cùng phải cúi đầu tuân theo những yêu cầu, những đòi hỏi được đưa ra, thì gã thấy rất
nhiều lần chúng ta cũng đã khủng bố lẫn nhau.

Phương tiện dùng để khủng bố, có thể bằng lời nói và cũng có thể bằng việc làm. Trước hết là bằng lời
nói. Gã thấy có những ông bố mở miệng ra là chửi bới và cấm đoán, khiến cho con cái khiếp sợ. Hình
như họ muốn dùng phương thế khủng bố để giáo dục con cái mình, nghĩa là làm cho con cái phải sợ mà
vâng lời. Thế nhưng, biện pháp khủng bố này thường không đem lại những kết quả mong muốn.

Có hai ông bố thường răn đe con cái của mình như sau :
- Kỳ thi này, mày phải đỗ, bằng không thì đừng vác mặt về nhà.
Con cái của họ học lấy học để, học ngày không đủ tranh thủ học đêm, nhưng bị sao quả tạ chiếu tướng,
học tài thi phận, cuối cùng đều rớt. Vì không dám vác mặt về nhà, anh con giai thì bỏ đi bụi đời, còn chị
con gái thì nhảy xuống cầu Bình Lợi mà tự tử.

Gã quen một vị gia trưởng. Vị này rất là oai phong lẫm liệt, nhưng chỉ vì cái thói độc tài và độc đoán, bất
cứ lời nào phán ra, đều chắc như đinh đóng cột, vợ con phải răm rắp tuân theo, bằng không thì e rằng
khó sống với vị ấy…Mặc dù chưa dùng tới bạo lực và bạo hành, nguyên cái chuyện bạo ngôn mà thôi
cũng đủ khiến vợ con căng thẳng, bạc nhược để rồi đứa thì đi với mẹ, đứa thì kiếm cớ công việc làm ăn
giã từ vị gia trưởng đáng kính ấy, tìm nơi khác sinh sống. Bây giờ, tuổi đời đã xế chiều, vị gia trưởng ấy
chỉ sống cu ki một mình trong căn nhà rộng. Vợ con vẫn chưa hết sợ để tìm đường đoàn tụ, “tung cánh
chim tìm về tổ ấm”.

Khi mới quen và yêu nhau, anh tỏ ra là một chàng trai ga lăng, mềm mỏng. Nhưng khi cá đã mắc câu
rồi, thì anh không còn giữ gìn ý tứ với chị nữa. Anh luôn quát nạt, chửi mắng và dùng lời lẽ thô tục với
chị, khiến chị phải cắn răng chịu đựng…(PNCN số 25).

Tiếp đến là bằng việc làm, tức là dùng bạo lực với những hành động vũ phu, tàn ác theo kiểu bạo hành,
bạo động…để trấn áp khiến đối phương phải hồn xiêu phách lạc. Chẳng hạn cha mẹ thì đánh đập con
cái, chồng thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ.

Gã xin ghi lại một số những sự kiện được đăng tải trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, để thấy rằng tình trạng
khủng bố về tinh thần cũng như về thể xác đã, đang và sẽ còn liên tục phát triển dù rằng mọi người đều
công nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ.
Theo thống kê trên toàn thế giới, cứ mười lăm giây lại có một phụ nữ bị bạo hành trong giai đoạn yêu
đương. Riêng tại Việt Nam, đến 70% phụ nữ bị bạo hành trong gia đình và 85% trường hợp ly hôn là do
bạo hành. (PNCN số 25).
Có một bà vợ trót dại yêu thương một người bạn đồng nghiệp. Thấy nguy cơ gia đình tan vỡ, bà bèn
dừng lại và thú nhận, mong được chồng tha thứ. Ông chồng chỉ yêu cầu bà vợ viết tờ kiểm điểm. Rồi
hàng ngày trước giờ ăn, ông bắt bà đọc tờ kiểm điểm trước mặt chồng con. Từ khi thằng cu Bi năm tuổi
bây giờ nó đã thi đại học, bà vẫn phải đọc. Xấu hổ với con, bà xin ông được chấm dứt hình phạt đó,
nhưng ông bảo ông vẫn còn nhục lắm. Chuyên viên tư vấn kiên nhẫn giải thích, ông vẫn phớt lờ. Chuyện
gia đình ông không muốn người ngoài chen vào. Vậy là lúc vợ ngoại tình gia đình không tan vỡ, nhưng
đến khi ròng rã năm này qua năm nọ phải đọc kiểm điểm, bà hết chịu nổi, nên đòi được ly hôn…Phải
chăng đó chính là một sự khủng bố về tinh thần. (PNCN số 26).
Ngắm nhìn bà xã trong chiếc áo thung bó sát người, chiếc váy mềm mại, một ông chồng khác đã ngẩn
người say đắm, nhưng cũng chính vì thế mà ông không chịu nổi ánh mắt của những gã khác nhìn vợ
mình. Và thế là…bao nhiêu cái áo, váy đẹp của vợ, ông cắt, xé cho bằng hết. Có thể vợ ông không tơ
tưởng đến ai, cũng có thể chẳng gã nào cố tình tán tỉnh, nhưng nếu vợ ông cứ “khoe hàng” trước mặt
bọn đàn ông, thì sẽ dễ nảy sinh tội lỗi. (PNCN số 26).
Bạo hành và khủng bố không phải chỉ có mặt trong gia đình, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ với con cái,
nhưng còn có mặt ở nhiều lãnh vực khác nữa.
Chẳng hạn giữa chủ và thợ : báo chí đã đăng tải nhiều tin tức liên quan tới các công nhân Việt Nam làm
việc trong các công ty hay xí nghiệp của Đại Hàn. Họ đã bị những ông chủ “Sâm Cao Ly” đánh đập một
cách tàn nhẫn.
Chẳng hạn giữa thày cô và học trò. Báo Công An Thành Phố mới đăng một mẩu tin như sau : Sau khi ra
chơi tập thể dục giữa giờ, em Bằng và em Phúc, con cô giáo, chạy xô vào nhau và cùng ngã. Bằng đã xin
lỗi Phúc. Cùng lúc ấy, một em khác nói với Bằng : xin lỗi không được đâu, tí nữa cô giáo đánh bạn đấy.
Câu nói ấy đã là lời cảnh báo. Khi trống vào lớp được 5-10 phút, Bằng từ khu văn phòng nhà trường về,
xin vào lớp, cô giáo đang giảng bài, sa sầm nét mặt, tay cầm thước tiến đến gần Bằng vụt mạnh vào tay
phải em và giật giọng nói : Vào lớp đi. Bằng bị đứng ở cuối lớp, sau đó cô giáo nói : Cái thằng kia không
biết đau đâu, cả lớp xuống đấm cho nó thối phổi, cho nó chết đi. Ngay sau lời nói của cô, những đứa trẻ
chưa đầy 10 tuổi đã biến thành công cụ trả thù của cô giáo. Bị đau và lo sợ trước lời dọa nạt, Bằng về
không dám nói với gia đình. Hôm ấy Bằng không ăn cơm tối, không học bài, đêm đến lại sốt cao. Mẹ
gặng hỏi mãi, Bằng mới ghé sát tai mẹ và nói : Con nói với mẹ nhưng mẹ đừng nói với ai, cô giáo xui các
bạn đánh vào bụng con. Mẹ vạch áo con thấy nhiều chỗ thâm tím đã òa khóc. Bắt đầu từ hôm ấy, Bằng
luôn sống trong tình trạng hoảng loạn : cơm không ăn, bài không học, đêm chạy loạn xạ khắp nhà, đặt
lưng xuống là nói sảng và giật mình thon thót. (CATPHCM số 1065).
Bình thường thì những người có chức có quyền, hay nói cách khác, những kẻ được coi là bề trên mới
khủng bố những người bề dưới, chẳng hạn : chồng đối với vợ, chủ đối với thợ, cha mẹ đối với con cái,
thày cô đối với học trò…Thế nhưng, sự việc đâu có thẳng ruột ngựa như vậy, mà luôn có những chuyện
tréo chẳng ngỗng và ngược đời.
Chẳng hạn con cái khủng bố cha mẹ. Một cậu quí tử đã nói với cha mẹ rằng : nếu không cho tiền sắm
chiếc xe đời mới thì sẽ đi chích choác mang cái bệnh Sida về nhà. Một cô gái rượu đã nói với n đấng sinh
thành của mình như sau : nếu không cho đi chơi, thì sẽ tìm cách mang một bầu để nằm ở nhà chờ…đẻ.
Những lời phát ngôn trên khiến cho cha mẹ phải phát kinh phát khiếp.
Chẳng hạn học trò khủng bố thày cô. Từ lâu rồi không hiếm những chuyện học trò hành hung thày cô,
khiến cho thiên hạ phải than rằng : bọn trẻ bây giờ không còn tiên học lễ hậu học văn nữa, nhưng là tiên
học…võ hậu học văn, để bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng chơi cái ngón bạo lực.
Và nhất là đờn bà khủng bố đờn ông. Chẳng hạn vợ khủng bố chồng. Ai trong chúng ta cũng biết
Socrates. Ông là một triết gia lừng danh thời cổ xưa của Hy lạp. Triết lý của ông ngày nay vẫn còn giá trị.
Nhưng ác hại thay, đang khi ông là một bậc thày đáng kính của đông đảo môn đệ và sau này muôn thế
hệ vẫn coi ông như một bậc tôn sư, thì ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà đã chanh chua, khinh rẻ
ông là hạng trói gà không chặt. Lần kia sau khi đã chửi bới ông một trận kịch liệt, bà đã tặng cho ông
nguyên cả một chậu nước dơ lên người, nhưng ông vẫn thản nhiên và nói : Tôi biết mà, sau khi đã có
sấm chớp thì tất nhiên trời sẽ đổ mưa.
Chẳng hạn bạn gái khủng bố bạn trai. Nàng đặt ra một cái lệ bắt chàng nhất nhất phải tuân theo : mỗi
lần hẹn cứ đến trễ năm phút là bị một cái nhéo đau điếng vào bụng. Chàng là một người tham công tiếc
việc nên cũng thường xài giờ dây thung với bạn mình, thế là suốt một tuần, chàng không dám ở trần
trong nhà vì sợ mẹ nhìn thấy những vết bầm. Nhéo bụng chán, nàng chuyển sang ngắt vào cánh tay, có
lần vết ngắt nung mủ làm chàng phải đi sát trùng rồi băng lại. Mấy bữa chàng bụng bầm, tay nhức
nhưng nàng không hề nao núng, thực hiện tiếp chiêu cắn lên bả vai. Đi làm cả ngày mình mẩy ê ẩm,
tưởng gặp người yêu thì được chăm sóc, thư giãn, nào dè lại còn bị hành hạ thêm, đó là chưa kể những
màn đay nghiến xỉ vả…(PNCN số 27).
Một trường hợp khác cũng không kém phần quái đản. Anh là một người hiền lành ít nói, còn chị lúc nào
cũng ào ào và thẳng thắn, chính vì vậy mà chị luôn lấn lướt anh. Vào dịp sinh nhật một nhỏ bạn trong
nhóm. Nhỏ bạn mời cả nhóm đến quán ăn, ai có bạn trai cũng được mời theo. Hôm ấy có anh và một vài
người nam khác. Đang ăn uống vui vẻ thì một bạn nam đề nghị : bốn người nam uống một chai chúc
mừng sinh nhật chủ nhân, còn các bạn nữ thì uống nước ngọt. Anh tán thành : Ừ được đó. Chị trừng mắt
nhìn : Anh đừng uống, tối còn đưa em về nữa. Cả nhóm đồng thanh : Không sao đâu, uống một chai cho
vui. Rồi như sợ mất mặt bạn bè, anh gọi lớn : Cho một chai bia Saigon. Không còn êm dịu nữa, chị chồm
dậy túm lấy cổ áo của anh : tôi đã bảo anh thôi mà, sao anh lì quá vậy. Mọi người sửng sốt . Ai cũng can
: Thôi, không uống thì thôi, làm gì mà nóng vậy. Chẳng nói chẳng rằng, anh đứng lên và bỏ đi…Lần
khác, chị dặn anh đón chị đi sinh nhật một người bạn. Anh đến trễ, rồi trên đường đi anh quẹt xe trúng
người ta, may mà không có chuyện gì. Chị tức giận với anh và vung tay tát anh một cái vì tội đi ẩu. Sau
hai năm quen nhau với những giận hờn, cuối cùng họ đã chia tay nhau thật sự. Bây giờ thì chị sống ở
ngoại quốc. Trong một bức thư đã khuyên bạn mình như sau : Mày phải nhẹ nhàng với ông xã của mày!
Đàn ông ai cũng thích ngọt, ai cũng thích phụ nữ tụi mình dịu dàng. Mỗi lần nghĩ đến chuyện ngày xưa,
tao lại thấy mình có lỗi và nông nổi quá chừng….(PNCN số 29).
Để kết thúc, gã xin kể lại một câu chuyện vui nhưng có thật “chăm phần chăm”, của một bậc đáng kính
mà gã xin gọi là “Ông Khủng Bố”. Thế nhưng, tại sao lại gọi bậc đáng kính ấy là ông khủng bố, thì xin quí
vị kiên nhẫn xem tiếp phần sau ắt sẽ rõ.
Ông khủng bố của gã là một vị chức sắc trong Giáo hội, vừa là cha sở lại vừa là đấng bề trên của một hội
dòng, có cơ sở ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Vì thế mà xuân thu nhị kỳ, một năm ít là hai lần
ông khủng bố được đi chu du nước Mỹ, gọi là để thanh tra các kẻ bề dưới. Thấy ông khủng bố đi Mỹ như
đi chợ, gã thèm giỏ dãi nên có lần đã than ngắn thở dài :
- Một là làm bề trên, hai là làm bề dưới, chứ đừng làm bề ngang. Bởi vì bề trên thì được ưu đãi, còn bề
dưới thì được dễ dãi chẳng ai thèm ngó tới. Chứ bề ngang ấy hả…gian nan lắm, khó khăn lắm.
Sau ngày 11 tháng 9 mấy tháng, ông khủng bố bay từ Thụy Sĩ qua Mỹ. Ai cũng tưởng chuyến đi sẽ gặp
nhiều sự nhiêu khê phức tạp, nhất là cái khâu khám xét để đề phòng khủng bố. Thế nhưng, sau chuyến
đi, ông khủng bố đã hăng tiết vịt cho biết như sau :
- Nhìn cái “mác” linh mục cũng như cái bản mặt hiền khô của mình, chẳng ma nào nó khám xét cả. Máy
bay vắng khách, rộng thênh thang, tha hồ mà ngủ. Mình đã làm một giấc dài trong suốt chuyến đi, khỏe
re, chẳng giống con bò kéo xe chút nào, bù lại những đêm thức trắng vì bận rộn công việc.
Đó là chuyến đi êm ru bà rù hồi năm ngoái. Còn năm nay, ông khủng bố cũng làm một chuyến công du
qua Mỹ. Nhưng năm nay khác năm ngoái và ông khủng bố của gã đã gặp rắc rối to.
Số là ông khủng bố mua vé máy bay theo lộ trình Thụy Sĩ – Dallas – New-Orleans, nhưng khi tới Dallas,
ông khủng bố ghé thăm một người cháu. Thiên hạ thường bảo :
- Một người cháu bằng sáu thằng kẻ cướp.
Thế nhưng, người cháu của ông khủng bố lại chẳng giống thế chút nào. Trái lại, rất thương ông cậu, nên
đã lặng lẽ mua vé máy bay của một hãng khác, nhiều tiện nghi hơn để ông cậu đỡ đau lưng, mà chẳng
hề báo cho hãng máy bay cũ. Cũng do cái sự không thông báo, không đi máy bay hãng cũ mà lại đi máy
bay hãng khác, nên khi trở về Thụy sĩ, bậc đáng kính đã gặp phải nhiều phiền toái ngoài ý muốn, bởi vì
bọn “xịa”, bọn an ninh cho rằng bậc đáng kính có vấn đề, nên phải đổi máy bay trong cùng một ngày với
hai hãng khác nhau. Nói trắng ra là họ nghi ngờ bậc đáng kính có ý đồ đen tối, nên đã thông báo đi khắp
nơi phải canh chừng, bởi vì rất có thể hắn ta là quân khủng bố.
Sau khi thanh tra các “kẻ bề dưới”, bậc đáng kính cảm thấy hài lòng vì đã làm sáng danh cha, sáng danh
con và sáng danh dòng ta mọi bề, liền vui vẻ khăn gói quả mướp lên đường trở về.
Chuyến bay vì phải vòng qua Luân Đôn trước khi đáp xuống Thụy Sĩ, nên phải đổi nhiều lần. Tại bất cứ
phi trường nào, bậc đáng kính đều được chiếu cố khám xét kỹ lưỡng, rồi lên máy bay xong xuôi, thì cô
tiếp viên mới “phôn” xuống khu vực hành lý và báo cho biết :
- Kẻ tình nghi đã…an tọa, có thể chuyển hành lý của hắn ta lên.
Sở dĩ thiên hạ hành động như vậy là để ăn chắc và bảo đảm an toàn, vì nghĩ rằng một khi ông khủng bố
có mặt trên máy bay thì chẳng khác gì đã chui đầu vào…rọ. Chứ còn người không lên mà hành lý cứ lên,
nhỡ xảy ra bom nổ thì biết túm tóc ai bây giờ.
Hơn thế nữa, mấy cô tiếp viên hàng không, khuôn mặt thì đẹp, nhưng cái nhìn lại chẳng đẹp tí nào bởi vì
cái nhìn ấy chất chứa những nghi ngờ, như thầm nói :
- Cần phải dè chừng.
Bực cả và mình, bậc đáng kính bèn nói toáng lên với một cô tiếp viên như sau :
- Cái bản mặt tôi hiền như cục đất thế này mà lại là dân khủng bố, ác ôn côn đồ hay sao ?
Thế nhưng, cô tiếp viên hàng không vẫn cười mím chi và trả lời tỉnh bơ :
- Ngài không bị tình nghi, nhưng vé máy bay của ngài bị tình nghi. Ngài không có vấn đề, nhưng vé máy
bay của ngài có vấn đề. Ngài không phải là dân khủng bố, nhưng biết đâu hành lý của ngài lại là thứ
dùng để khủng bố.
Cáu sườn, bậc đáng kính bèn phán :
- Thì cứ việc khám xét : mấy cuốn sách, vài bộ quần áo và dăm ba hộp kẹo để nhai cho đỡ buồn, họa
chăng có giết được ruồi chứ nào giết được ai ?
Cô tiếp viên vẫn lịch sự nói :
- Ấy là để đề phòng thôi mờ!!!
Rồi cúi đầu đáp lễ bậc đáng kính bằng một nụ cười tủm tỉm.
Máy bay ghé Luân Đôn và phải chờ bốn tiếng đồng hồ. Đầu óc căng thẳng và mệt mỏi, bậc đáng kính
bèn phớt tỉnh như dân ăng lê, xem thường thiên hạ và coi mọi người như cỏ rác, nên đã nằm lăn ra trên
băng ghế công cộng, khò một giấc cho đỡ khổ cuộc đời. Thiên hạ kẻ qua người lại, nhòm nhòm ngó ngó
và thì thầm :
- Coi bộ chân cẳng cũng cao ráo, chẳng đến nỗi tệ lậu, thế mà lại là dân du thử du thực, đầu đường xó
chợ, cầu ba cầu bất, nên mới lăn quay ra đây há miệng mà ngủ.
Trong lúc lơ tơ lơ mơ như thế, bậc đáng kính hình như loáng thoáng nghe thấy tiếng chân một vài người
Việt Nam đi qua và nói lèo xèo những chi không rõ. Ôi quả thực xác thịt thì nặng nề lắm lắm.
Rồi cũng về tới Thụy Sĩ, kết thúc một chuyến đi đầy bão táp. Và cũng vì thế, gã đã vô phép gọi bậc đáng
kính ấy bằng danh xưng “Ông Khủng Bố”.

Bây giờ hẳn quí vị đã biết Ông Khủng Bố của gã là ai. Nếu biết, xin vui lòng thông báo gấp rút cho tòa
soạn, để tòa soạn kịp thời đề phòng bởi vì thời buổi nhiễu nhương, chẳng tin giai gái nào cả. Bảo đảm
chắc chắn quí vị sẽ nhận được phần thưởng lớn lắm đấy ?
THẾ GIỚI KHÔNG ĐỜN BÀ - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Trước khi đi vào bài viết hôm nay, gã xin ghi lại một so sánh khập khiễng mà gã đã sưu tầm được. Nhà
địa lý nhìn người đờn bà bằng cặp mắt méo mó nghề nghiệp của mình và đã diễn tả như sau :
Ở độ tuổi từ mười lăm đến hai mươi, người phụ nữ được ví như nước Công gô, một nửa đã được khám
phá, và một nửa vẫn còn hoang dại.
Ở độ tuổi từ hai mươi đến ba mươi, người phụ nữ được ví như nước Mỹ, đã được khám phá trọn vẹn và
hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật.
Ở độ tuổi ba mươi đến ba mươi nhăm, người phụ nữ được ví như nước Ấn độ, rất nóng bỏng, rất xinh
đẹp và đầy hiểu biết.
Ở độ tuổi ba mươi nhăm đến bốn mươi, người phụ nữ được ví như nước Pháp, một nửa đã bị tàn phá
sau chiến tranh, nhưng vẫn rất hấp dẫn.
Ở độ tuổi bốn mươi đến năm mươi, người phụ nữ được ví như nuớc Đức, không còn đấu tranh nhưng
vẫn cứ hy vọng.
Ở độ tuổi năm mươi đến sáu mươi, người phụ nữ được ví như nước Nga, rất rộng, rất yên tĩnh, nhưng
không còn thu hút nữa.
Ở độ tuổi sáu mươi đến bảy mươi, người phụ nữ được ví như nước Anh, với một quá khứ vẻ vang, nhưng
tương lai thì chẳng có gì.
Còn sau lứa tuổi bảy mươi ấy hả ? Người phụ nữ được ví như Sibêria, tất tật đều biết nơi này, nhưng
chẳng ai thèm tới.
Từ những so sánh khập khiễng và có tính cách méo mó nghề nghiệp trên, gã xin đi vào điểm cốt lõi của
vấn đề.
Ngày xửa ngày xưa, lúc còn bé, gã rất khoái đọc cuốn truyện “Gulliver phiêu lưu ký”. Chuyện ấy kể lại
rằng :
Ngày nọ, Gulliver đi lạc vào lãnh địa của những người tí hon. Người người này đã coi Gulliver đích thực là
một anh chàng khổng lồ, đem tai họa đến cho quê hương đất nước của họ. Và thế là họ bàn mưu tính kế
quyết định giết Gulliver. Nhưng phải làm sao bây giờ ?
Chả lẽ lại như hội đồng chuột trong câu chuyện ngụ ngôn. Toàn thể đại hội của họ hàng nhà chuột đều
nhất trí cao là phải đeo một cái chuông vào cổ mèo, để hễ mèo đi đến đâu, thì liền phát ra những âm
thanh kính keng, báo động cho họ hàng nhà chuột biết đường tẩu thoát. Ý kiến ý cò thì rất tuyệt vời,
nhưng rồi chẳng một con chuột nào dám thực hiện cả.
Ở đây thì khác, nhưng người tí hon không giống như họ hàng nhà chuột, họ nói và làm liền tức khắc. Họ
huy động cả nước, đợi cho Gulliver ngủ say, và thế là a-lê-hấp, tất cả đều nhất tề đóng những chiếc cọc
đâm sâu xuống đất, rồi dùng những sợi dây nhỏ cột chặt Gulliver lại.
Khi tỉnh giấc, Gulliver đã không thể nào dứt đứt những sợi dây nhỏ ấy. Và thế là anh chàng Gulliver tội
nghiệp của chúng ta bỗng chốc trở thành tù bình cho những người tí hon.
Đó là trong chuyện cổ tích ngày xưa. Còn hôm nay trong đời thường, gã có một anh bạn thân. Anh bạn
này, thời còn giai trẻ đã khổ đau với những mối tình còm của mình. Khi thì bị cô này cho leo cây, lúc lại
bị chị kia cho tuột dù. Mãi tới “bốn mươi mí” hắn ta mới kiếm được một cô vợ.
Cứ tưởng rằng có vợ rồi ắt hẳn sẽ yên bề gia thất và cuộc đời sẽ mỉm cười với hắn ta, ai dè đâu hắn ta
vớ phải cô vợ thuộc týp bà chằng, chỉ kém sư tử Hà Đông có một tẹo, thành ra chó đen vẫn giữ mực,
mèo vẫn hoàn mèo. Khổ đau thì vẫn cứ khổ đau, nhưng xem ra còn có mòi dai dẳng và cay đắng hơn
trước. Chính những khổ đau ấy đã kết tủa thành một cục sạn to tổ bố trong óc não của anh ta.
Vì thế, hễ mở mồm mở miệng đá động tới đờn bà con gái là hắn ta phun ra toàn những lời độc địa, chua
hơn chanh và cay hơn cả ớt. Thậm chí, hắn ta còn ra sức sưu tầm và “ngâm kíu” những tư liệu nói xấu
đờn bà con gái.
Hễ tờ báo nào có bài thơ hay mẩu viết hợp gu với hắn ta, là hắn ta bèn cắt béng ngay đi, cất kỹ vào
ngăn tủ, khóa chặt lại, để mỗi khi bà xã đi vắng, thì bèn lôi ra mà tủm tỉm tụng niệm.
Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ hắn đã lâm râm đọc một bài thơ mà hắn đã thuổng của một tác giả nào đó
trong báo “Phụ nữ Chủ nhật” :
- Ước chi không có đờn bà,
Một mình thanh thản, cửa nhà êm ru.
Đầu óc chẳng phải lu bù,
Sợ lời léo nhéo, gật gù làm theo.
Chẳng lo va vấp, chẳng mèo mỡ chi.
Ăn, ngủ, chơi thích là đi.
Chẳng lo tra hỏi : làm gì ? Ở đâu ?
Thật vui khi chẳng muộn sầu,
Chẳng người yêu bước lên tàu sang ngang.
Một mình cuộc sống an nhàn,
Ung dung, thư thái, đàng hoàng. Cần chi ?
Tươi vui cuộc sống có khi,
Kéo dài tuổi thọ, ít thì gấp...ba.
Ước chi không có đàn bà,
Đờn ông một lũ, thế là khỏe...ru!
Lâm râm đọc xong bài thơ ấy, hắn ta thiếp ngủ lúc nào cũng không hay, trên miệng vẫn còn nở một nụ
cười...ruồi, rất ư là mãn nguyện
Trong lúc ngủ mê mệt như vậy, hắn ta mơ thấy mình đang đi dưới ánh trăng vàng, thì gặp một ông già,
râu tóc bạc phơ. Hắn ta nhớ mang máng hình như đã gặp ông già này ở đâu thì phải. Hắn ta ngẫm nghĩ,
rồi vỗ trán đánh đét một cái và mừng rỡ kêu lên :
- Đúng rồi, ngài chính là “nguyệt lão” đã cột cẳng chân ta bằng một sợi dây đỏ vào với cẳng chân của cô
ấy, để rồi ta với cô ấy nên duyên vợ chồng.
Thế là lập tức ba chân bốn cẳng, hắn ta chạy vắt giò lên cổ tới ra mắt nguyệt lão. Nguyệt lão nhìn hắn ta
rồi lên tiếng nói :
- Nhà ngươi hãy báo cáo cho ta tình hình bà xã ngươi như thế nào ?
Mặt hắn ta liền xụ xuống, ủ rũ như cờ tang. Rồi hắn thành thực khai báo với nguyệt lão :
Cô nàng mà ngài đã cột vào cẳng con chẳng còn ra thể thống nào cả. Này nhé, con chỉ xin kể ra một vài
tội “điển hình tiên tiến” mà thôi.
Tội thứ nhất đó là cô ấy mắc phải cái chứng bệnh than một cách trầm trọng. Nước Mỹ sau ngày 11 tháng
9 năm 2001, mới chỉ có mấy người chết vì cái chứng bệnh này, ấy thế mà họ đã lo sốt vó, lo cuống cà kê
cả lên. Còn cô ấy hả ? Mắc chứng bệnh than mãn tính. Này nhé “sáng ra, cô ấy than hết tiền hết gạo.
Chiều về, cô ấy than hết xăng hết dầu. Đầu tháng cô ấy than giá cả tăng cao. Cuối tháng cô ấy than tiền
lương hạ thấp. Ngày, cô ấy than nhiều việc làm không xuể. Đêm, cô ấy than mệt mỏi đau lưng. Đến cơ
quan, cô ấy than chồng không bằng người. Về nhà mình, cô ấy than đồng nghiệp xấu tính xấu miệng.
Hết than người rồi lại đến than mình. Nhiều lúc cô ấy đấm ngực thùm thụp mà than : bè bạn bằng tuổi
có nhà có cửa, có chồng làm ông nọ ông kia, có con thi cấp này cấp khác. Thật khốn thân tôi vớ phải ông
chồng…...cả tũm. Uổng bao công sức học hành, nai lưng ra làm việc mà cũng chẳng nên cơm cháo gì.
Hơi mệt trong người một tí, cô ấy than như mắc phải chứng nan y...Suốt ngày, hở lúc nào lại ra rả như
vậy thì làm sao con chịu nổi”.
Ngoài ra, cô ấy còn mắc phải cái “hội chứng trí thức” nữa mới chết con. Ngày xưa, như ngài đã biết,
hành trình của bất cứ bà vợ nào cũng là từ nhà ra đến chợ và rồi lại từ chợ về đến nhà. Đơn giản chỉ có
vậy mà thôi.
Còn bây giờ ấy hả. Với mảnh bằng đại học trong tay, cô ấy đã nhảy bổ ra ngoài xã hội. Rất may là việc
nhà cô ấy không nỡ phó mặc cho bố nó, nhưng vẫn còn kiêm nhiệm, nên cũng đỡ khổ cho cái thằng con.
Bình thường thì cô ấy cũng hiền cũng dịu, nhưng chỉ phiền một nỗi, đó là mỗi khi không vừa ý, hay tức
giận điều chi, thì cô ấy la toáng lên, khiến mấy thằng bạn xấu bụng xấu dạ đã “bình luận” với con rằng :
- Bà xã mày, mặt thì mặt đờn bà, nhưng cốt lại là cốt đờn ông.
Nếu hứng chí bày trò làm thơ ca tụng cô ấy thì đừng có mà nói tới “công dung ngôn hạnh”. Xưa rồi Diễm
ơi. Bài thơ có phệu ra được, thì chí ít cũng phải như một tác giả mang tên Đỗ :
- Em vất vả nơi văn phòng máy lạnh,
Hồ sơ đầu tư đè nặng vai gầy.
Em tất tả giữa ngân hàng sóng gió.
Chân rã rời cao ốc chạm vào mây.
Đôi khi cũng muốn có tí ý kiến ý cò với cô về chuyện này chuyện nọ, thì liền bị kê tủ đứng vào miệng :
- Rõ đồ hai lúa, quê một cục, biết gì mà nói.
Vừa báo cáo tới đây, nguyệt lão bèn xua tay và bảo :
- Đủ rồi, đủ rồi. Ta rất hiểu hoàn cảnh não nùng và bi đát của ngươi. Này đây ta sẽ cho ngươi được phỉ
chí toại lòng.
Nói xong, nguyệt lão bèn giơ cao chiếc gậy trúc, rồi hô :
- Một, hai, ba, đờn bà...biến.
Lập tức tất tật đờn bà con gái liền lặn khỏi mặt đất, hay do phép thần thông biến hóa của nguyệt lão, mà
bỗng trở nên “tàng hình” hay ẩn nấp ở cái xó xỉnh nào không ai nhìn thấy.
Hắn ta đủng đỉnh bước ra khỏi nhà, hít thở một bàu không khí trong lành và nhẹ nhõm như vừa thoái
khỏi cái ách gông cùm, bởi vì trai có vợ như rợ buộc chân.
Ngoài đường phố hắn ta chỉ thấy rặt có phe mình, toàn những đấng mày râu không hà. Anh nào anh nấy
nét mặt tươi rói, cười cười nói nói, ồm ồm như sấm vàng, rất ư là vô tư. Gặp nhau tay bắt mặt mừng và
hô lớn bằng đủ thứ ngôn ngữ :
- Chào... Hai... Rua...
Ôi, cái ngày vắng bóng đờn bà con gái mới khoái làm sao. Báo chí, truyền thanh và truyền hình đã có
những phóng sự, những hình ảnh thật tuyệt vời về ngày trọng đại này. Phóng viên Hùng Khâm của một
tờ báo nào đó, trong tiểu phẩm của mình đã mô tả như sau :
Đó là buổi sáng khi bạn thức dậy mà chẳng cần ai đánh thức, có nghĩa là bạn được ngủ rất ư thoải mái
và lố vào giờ làm việc đến hơn một tiếng đồng hồ. Chẳng sao cả, không có ai càu nhàu về chuyện bạn đi
làm muộn. Không ai bắt bạn phải thay quần áo và bạn cứ tự do đeo lên người bộ đồ đã nhăn nhúm từ
hôm qua.
Bạn ra đường không sợ xui vì “gặp đờn bà” và cũng không phải liếc ngang liếc dọc tìm ngắm một bóng
hồng nào...Và bạn còn có thể ra quán cà phê ngồi gác chân lên ghế, thậm chí gếch cả hai chân lên bàn
mà không phải ngượng vì một cô gái nào đó đi qua, nhìn và đánh giá tư cách của bạn. Tất nhiên cô chủ
quán cũng sẽ chẳng có mặt để đòi cái số nợ mà bạn còn ghi sổ từ tháng trước.
Ban chiều, bạn sẽ không phải nghe điện thoại với cái câu chán ngắt :
- Anh thích ăn gì để em còn đi chợ.
Và bạn sẽ chẳng cần phải nghĩ cách nói dối rằng tối nay bận họp hành gì gì đó để rồi trốn đi nhậu với
bạn bè. Nghĩa là bạn được tư do hoàn toàn. Thật tuyệt vời ! Bạn cứ việc nhậu cho thoải mái, cho mát
mái luôn và chẳng cần nghĩ đến chuyện về, cứ uống mút chỉ tới sáng cũng được mà.
Hai giờ sáng bạn mới ngất ngưởng về đến nhà. Sẽ chẳng có ai đứng ở cửa với khuôn mặt...hình sự. Bạn
sẽ chẳng phải nghe những lời than vãn vì sự thiếu trách nhiệm, vì sự bê tha và vì đủ thứ tội trên đời.
Thậm chí ác liệt hơn thì còn có thể là :
- Trời đất ơi ! ngày xưa có tới mười bốn anh toàn đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu đeo đuổi tôi, vậy mà
sao tôi lại đâm đầu vào lấy anh.
Hay những bài đít cua, đít cáy đại loại là như vậy.
Không hề có những rắc rối và bạn được tự do mở ti vi đúng chương trình đá banh mà bạn thích, rồi cứ tự
nhiên để nguyên cả quần áo, giày dép mà phi lên giường, làm một giấc tới lúc nào thích thì dậy. Một giấc
ngủ tuyệt vời không hề có ác mộng hay phải mơ tới một cô gái nào. Và rồi bạn lại bắt đầu một ngày thần
tiên mới...
- Ôi , cuộc đời vẫn đẹp xinh. La vie est en rose. Cuộc đời quả là tươi hồng.
Hắn ta cũng vậy. Để kỷ niệm ngày xổ chuồng, tối hôm ấy hắn cùng với mấy tên bạn chí cốt ra ngồi thiền
ở quán lẩu dê bên lề đường, làm một chầu tới ngoắc cần câu. May mà còn đủ tỉnh để lê từng bước chân
âm thầm, thậm chí đôi lúc còn phải bò trong bóng đêm mà lết về tới nhà. Rồi sau đó là một giấc ngủ vật
vã.
Thế nhưng, như một đồng tiền, cuộc đời có mặt phải, thì cũng có mặt trái của nó nữa. Và lúc này, hắn ta
đang mon men tiến gần tới mặt trái của công cuộc giải phóng đờn ông.
Ban sáng thức giấc, đầu nhức như búa bổ, bụng đói cồn đói cạo, nhào vô bếp kiếm chút cháo dằn vào
bao tử mà chẳng có đí gì sốt. Mở tủ kiếm áo quần tươm tất để đi làm, thì lại chẳng còn bộ nào cả. Mọi sự
đều nằm gọn trong chiếc thau, bốc mùi chua ngoét.
Riêng bộ vía hắn ta đang đeo trên mình thì lại nồng nặc toàn mùi rượu. Sở dĩ như vậy vì “mồ hôi rượu”
của hắn chảy ra ròng ròng, rồi thấm vào chiếc áo. Nếu đem ngâm chiếc áo hắn ta đang mặc với một chút
nước, rồi vắt cho cạn kiệt thì chí ít cũng được khoảng một bát. Cái dung dịch ấy phải chứa tới mấy chục
phần trăm cồn, lúc thèm rượu đem ra uống cũng đủ giải bớt cơn sầu, nếu không muốn nói là cũng có thể
ngồi đâu khóc đó.
Bạn bè thường sánh ví hắn ta với một chiếc bình “ắc qui” :
- Mày đúng là một chiếc bình gin, cầm hơi hết xảy.
Bước chân ra đường, vắng đờn bà con gái thì cũng vắng luôn những sắc màu của cuộc sống. Ôi thời
oanh liệt nay còn đâu ?
Phải, còn đâu nữa màu xanh, màu đỏ, màu tím, màu vàng và cả màu cứt ngựa...của những chiếc áo dài
thướt tha, của những thứ váy dài váy ngắn, khoe rốn, khoe đùi, kheo cẳng...
Còn đâu nữa những cặp môi đỏ choét như tiết gà mái, những cặp môi xám ngắt như thịt trâu ôi theo mốt
tài tử Hàn quốc.
Còn đâu nữa những mái tóc dài ngắn đủ màu đủ kiểu.
Báo chí, phim ảnh,tuồng kịch...tóm lại tất cả các bộ môn nghệ thuật đều tắt ngấm, bởi vì không còn đờn
bà con gái thì các tác giả cũng hết chất, chẳng còn đề tài để mà lia máy, múa bút hay vung cọ.
Ta với ta, đối mặt nhau, toàn dân đực rựa, nói cười oang oang, nhưng lại cộc cằn như dùi đục chấm
mắm tôm. Chẳng mấy chốc, bầu khí trở nên căng thẳng và oi bức như nắng hè đổ lửa.
Còn đâu những lời nói dịu êm, như ru hồn lạc vào chốn thiên thai.
Và thế là cái đức tính “ga lăng”, hào hoa phong đòn gánh của những bậc công tử cứ mỗi ngày một thui
chột rồi mất tăm mất tích. Chỉ còn là chữ nghĩa đọng trong tự điển mà thôi. Mai mốt phải mỏi mồm mỏi
miệng cắt nghĩa thì con cháu mới hiểu được thế nào là ”ga lăng” và thế nào là hào hoa phong đòn gánh.
Về tới nhà, lũ con nheo nhóc, đói bụng đòi ăn thế là hắn ta lại phải đâm đầu vào bếp. Rất may vì đã
được bà xã dạy vỡ lòng cho cái môn “nam công gia chánh”, nên nồi cơm hắn ta nấu không đến nỗi trên
sống dưới khê, tứ bề nhão nhoét.
Ngó vào xó góc nào cũng bụi bậm bẩn thỉu, thế là hắn lại phải cặm cụi quét dọn, rửa ráy. Chăn mùng
mền toát ra một mùi xú khí nồng nặc đến không chịu nổi, thế là hắn lại phải lầm lũi giặt dũ...toát cả mồ
hôi hột lúc nào cũng chẳng hay.
Biết bao nhiêu công việc không tên trút lên đầu, lên cổ hắn ta, mà lúc trước, khi còn bóng dáng bà xã,
hắn ta chẳng hề động ngón tay lay thử, thậm chí cũng chẳng bao giờ thèm nghĩ tới. Đi làm về, hắn ung
dung ngồi đọc báo hay xem truyền hình chờ cơm. Trong khi đó, bà xã hắn cũng đi làm về, nhưng lại phải
lăn xả vào bếp và lo giùm cho hắn những việc lỉnh kỉnh ấy. Nếu có giúp thì hắn ta cũng chỉ giúp qua quít
cho phải phép mà thôi. Không chừng lại còn làm vướng chân thiên hạ vì cái bản năng đoảng và cả quỷnh
của hắn ta.
Lúc này, hắn ta mới cảm thấy thèm được ăn một tô canh chua cá lóc, thèm được có người đứng đợi khi
hắn ta tan sở về nhà, thèm một cử chỉ chăm sóc, thèm một lời an ủi nhẹ nhàng.
Và lỡ có quá chén mà say xỉn, thì hắn ta lại thèm một ly nước chanh tọng vào bao tử hay một chiếc khăn
lạnh đắp lên mặt cho giã rượu.
Khi cảm cúm, thì hắn lại thèm được một bàn tay mềm dịu cạo gió, hay một nồi nước xông cho toát cả mồ
hôi.
Và hắn ta còn thèm. Thèm rất nhiều thứ khác nữa.
Hắn hốt hoảng khi phải sống trong một thế giới không còn đờn bà con gái nữa. Sự hốt hoảng làm hắn ta
đập mạnh chân xuống giường đánh rầm một cái.
Hắn ta tỉnh giấc và thầm nói :
- May quá, đó chỉ là một giấc mơ.
Và kể từ giấc mơ ấy, hắn ta đã đổi mới tư duy và lập trường của hắn ta như chiếc bản lề, quay phắt một
trăm tám mươi độ. Hắn ta không còn coi cô ấy như đối thủ, hay như địch thủ của mình nữa, mà lại coi cô
ấy như bà xã thứ thiệt, như người vợ chính hiệu con nai vàng của mình.
Mặc cho bè bạn chê bai, hắn vẫn cứ vững như kiềng ba chân và còn rất lấy làm tự hào về tác phong của
mình :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Và cũng kể từ giấc mơ ấy, hắn ta bắt đầu sưu tầm và “ngâm kíu” những tư liệu ca tụng đờn bà con gái.
Và những lúc hứng chí trước mặt bà xã hắn đã tuôn ra rông rổng những bài thơ bài thẩn, chẳng hạn như
mẩu sau đây của ông thợ thơ Trần Thiện Ngân :
- Nếu đời không có đờn bà,
Bầu trời u ám như là đêm đông.
Còn đâu bóng dáng hoa hồng,
Mấy chàng thi sĩ cũng không viết bài.
Viết rồi biết tặng cho ai ?
Khi đời còn có con trai không hà.
Trăng kia chênh chếch xa xa,
Chế súng cao xạ, bắn cho tan tành.

Nếu đời chỉ có các anh,


Lấy ai hầu hạ, cơm canh đêm ngày.
Áo dơ anh chẳng thèm thay,
Quần anh sứt chỉ ai may cho mình.
Suốt ngày im ắng lặng thinh,
Anh thèm nghe tiếng của mình thân yêu.
Chẳng lo vợ mãi nói nhiều,
Lời hay ý đẹp, vì yêu thôi mà.

Nếu đời chỉ có các...cha,


Nhậu hoài cũng chán chẳng ra con người.
Mong rằng trái đất vẫn tròn,
Vạn ngàn năm nữa vẫn còn các...em !!!
Từ cõi trên nhìn xuống, nguyệt lão cảm thấy mãn nguyện. Và cũng trong đêm trăng sáng ấy, nguyệt lão
đưa tay vuốt chòm râu bạc, đắc chí mỉm cười :
- Có thế chứ.
KHÔN MÀ KHÔNG NGOAN - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Mục “Sổ tay Văn hóa” trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” số ra ngày 06.12.1998, có một bài viết ngăn ngắn của
Nguyễn ngọc Bích, với tựa đề : “Món hàng từ siêu thị Cora”.
Gã xin phép tác giả được trích dẫn nguyên con, kẻo bị mang tiếng là “thuổng văn” thiên hạ. Rồi bị lôi ra
ba tòa quan lớn với tội danh được thành lập là xâm phạm tác quyền thì thật nguy to.
Cora ở Đồng Nai là một siêu thị lớn nhất và hiện đại nhất nước, do doanh nhân Pháp đầu tư. Ở đó người
ta không phải đối phó với chuyện buôn bán ế ẩm, nhưng với việc hàng hóa bị mất cắp. Sự kiện mất cắp
hàng hóa tại đây đặt ra cho chúng ta vấn đề đạo đức và phát triển.
Đối với mỗi cá nhân, đạo đức dễ làm cho người ta cảm thấy thiệt thòi và có những khi muốn vứt bỏ nó.
Tuy nhiên đối với xã hội, đạo đức của mỗi cá nhân lại cần thiết cho sự phát triển.
Sự việc mất cắp ở siêu thị Cora cho chúng ta thấy ít ra năm điều :
. Không chỉ là chuyện ăn cắp vặt mà là ăn cắp có tổ chức.
. Một cụ già 60 tuổi ăn cắp bị bắt còn chửi người bảo vệ rằng : “lấy đồ của Tây chứ đâu có ăn cắp của
Nhà nước“.
. Điều mà chủ nhân siêu thị lo ngại không phải là ở chỗ mất cắp mà là không có người nào muốn bắt
cắp, và là sẽ phải đóng cửa vào ngày chủ nhật vì số tiền bỏ ra cho chi phí bảo vệ sẽ cao hơn số tiền kiếm
được.
. Đối phó, siêu thị đã phải thêm người bảo vệ, thêm quầy tính tiền.
. Giới chức có trách nhiệm tại trung ương và địa phương khi được hỏi đã cho biết đại ý là cần làm nhanh,
nếu có báo cáo và được chỉ đạo sẽ họp với các ngành để làm rốt ráo.
Đó là một hiện tượng xã hội. Và chúng ta rút ra được gì khi nhìn vụ Cora trong bối cảnh của đạo đức ?
. Nếu siêu thị đóng cửa một ngày, hay đóng cửa luôn thì có nghĩa là khi thiếu đạo đức bên trong, chúng
ta sẽ không được hưởng những tiện nghi bên ngoài.
Như thế, để cho xã hội phát triển về kinh tế thì không chỉ trong giao tiếp giữa con người, chúng ta mới
phải xứng đáng với nhau; mà ngay cả với vật chất, nó cũng đòi hỏi như thế. Người sử dụng nó phải xứng
đáng với nó về mặt đạo đức. Thấy Cora nó to, hàng nhiều, nhưng chớ táy máy.
. Nếu hưởng được, thì giá trả sẽ đắt hơn so với những nước khác. Tiền thuê thêm bảo vệ hay phải mở
nhiều quầy thu tiền thì cũng sẽ được tính vào giá hàng.
Ấy là tại sao giá thành ở chúng ta cao, và sức cạnh tranh của chúng ta thấp. Ấy là tại sao vào siêu thị,
phải gửi túi, bỏ cặp…Chúng ta có thể được nhìn, được kể nhiều về văn minh thế giới, nhưng chẳng bao
giờ những thứ đó đến tay ta.
. Trong tâm lý của chủ nhân và của những nhân viên siêu thị, trước kia họ vui vẻ đón chờ thì nay sẽ là
cảnh giác đề phòng. Khách hàng vào đó sẽ ít tìm thấy ở họ những nụ cười của vui tươi.
Một môi trường của sự lương thiện không thể tồn tại khi nó không được một nền tảng đạo đức hỗ trợ.
. Chính quyền sẽ không còn nhiều thì giờ để nghĩ và làm những việc tốt cho dân, mà sẽ bị bận rộn vì giải
quyết cái xấu của kẻ cắp.
. Tình trạng có thể kéo dài mãi nếu như “ không người nào muốn bắt cắp”, hay còn nghĩ “ ăn cắp của
Tây”! Sao mà hội nhập kinh tế ?
Cha mẹ thương con, mua tủ sắm giường. Vậy là khi chúng ta làm cho người khác thì xã hội có thêm của
cải.
Cora cho thấy khi lấy của người khác thì cái hiện có trong xã hội cũng sẽ mất đi. Cora là một minh chứng
về vai trò của đạo đức đối với phát triển. Ý nghĩa về nó là thước đo cho thấy khả năng hội nhập kinh tế
của chúng ta. Siêu thị cho chúng ta một món hàng, một bài học cụ thể cho một đề tài trừu tượng.
Tác giả đã nhìn sự kiện Cora trong phạm vi kinh tế và đã đi tới một kết luận :
- Đạo đức rất cần thiết và là nền tảng cho phát triển.
Còn gã, mỗi khi nhớ hay đọc lại sự kiện trên, gã liền cảm nhận một nỗi buồn tê tái, vừa xót lại vừa
thương.
Phải, gã cảm thấy xót xa như chính mình bị bôi tro trát trấu, hay như chính mình bị một ai đó tát vào
mặt. Tự ái dân tộc nơi gã nổi lên đùng đùng, nhưng đành phải “ngậm đắng nuốt cay” thế nào. Gã băn
khoăn tự hỏi :
- Không hiểu mấy ông tây bà đầm ấy sẽ nghĩ gì về người Việt Nam. Rồi khi về nước, chắc hẳn họ sẽ xì
xầm bàn tán với bà con lối xóm rằng : người Việt Nam thế này, người Việt Nam thế nọ…Và cuối cùng họ
sẽ đi tới một thái độ cụ thể, đó là hãy đề cao cảnh giác, tránh cho xa cái bản mặt người Việt Nam.
Có kẻ đã kể cho gã nghe rằng : ở một vài vùng bên Mỹ, tại những nơi công cộng hay trên xe buýt, người
da trắng mang nặng đầu óc kỳ thị, đã bạo phổi viết những hàng chữ bậy bạ như sau :
- Coi chừng người Việt Nam ăn cắp.
Gã không tin rằng câu chuyện này là có thực, bởi vì người Mỹ vốn đã vỗ ngực khoe khoang mình là dân
tộc văn minh, hiện đại và tự do nhất hành tinh này. Thế nhưng khi nghe qua, Gã đã tức suýt nữa thì bể
phổi và hộc máu ra mà chết.
Buồn ơi là buồn và đau ơi là đau. Nhưng nghĩ đi thì cũng phải nghĩ lại. Và khi nghĩ lại, Gã cảm thấy
thương cho những người Việt anh dũng ấy, đã có can đảm đi ăn cắp và đã có can đảm phát ngôn thật
hách xì xằng :
- Lấy đồ của Tây, chứ đâu có ăn cắp của nhà nước.
Bình thường, những người Việt anh dũng này đang lâm vào một hoàn cảnh kinh tế không mấy sáng sủa,
nếu không muốn nói là còn đen hơn cả mõm chó, bởi vì như cha ông chúng ta thưở trước đã dạy :
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm liều.
- Bụng đói thì đầu gối phải bò.
Thế nhưng, bò đâu không bò, lại bò ngay vào cái siêu thị của mấy ông chủ Tây mà chôm chỉa, nên mới
rách việc.
Gã còn nhớ hồi trước giải phóng, gã có một bà bác cắm dùi tại giáo xứ Bắc hà, quận Củ chi. Giáo xứ này
nằm sát một căn cứ của quân đội Mỹ.
Và thế là đang từ một giáo xứ nghèo rớt mùng tơi, dân chúng lục đục bỏ đi nơi khác để tìm đường sống,
bỗng dưng hồi sinh cái một. Đờn ông cũng như đờn bà, già cũng như trẻ, người người đều đi làm sở Mỹ,
nhà nhà đều đi làm sở Mỹ. Bọn nhóc con thì lang thang bán kẹo cao su và thuốc lá. Ấy là chưa kể đến
đội quân “gà móng đỏ” kéo về, khiến những quán “bar” mọc lên như nấm sau cơn mưa.
Bà bác tôi, lúc bấy giờ dù đã có tí tuổi, nhưng cũng vẫn hăng hái hưởng ứng phong trào đi làm…sở Mỹ.
Kể từ đó, trong nhà rủng rỉnh những cam và táo. Mỗi buổi chiều, khi tan sở về, thế nào bà cũng moi
trong cạp quần ra được một hay hai trái.
Bà kể lể sự thật như sau :
- Bọn Mỹ chúng nó rất thương các bà già, chúng gọi các bà già là “má mì san” và thường cho các bà già
trái cây. Thế nhưng các bà già không ăn, để dành đem về cho con cho cháu. Lỡ hôm nào chúng không
cho, thì nhanh tay lẹ con mắt, chớp vội vài trái mà dắt đại vào cạp quần chứ sao.
- Bộ khi ra cổng, MP tức là quân cảnh chúng không khám không xét ư ?
- Đối với các “má mì san”, chúng đều cho ra mà chẳng khám xét chi cả.
Chuyện rằng có một cô gái được làm ở khâu nhà bếp, thấy đứa con ở nhà mỗi ngày một ròm và còm cõi
vì suy dinh dưỡng, nên chiều hôm ấy cô quyết tâm khi về sẽ lấy một ký thịt bò đông lạnh, rồi quấn kỹ
quanh bụng.
Thế nhưng, khi ra đến cổng, do sức nóng của cơ thể, miếng thịt bò đông lạnh bắt đầu chảy nước và nhỏ
xuống đất những giọt đo đỏ. Bọn quân cảnh Mỹ thấy vậy tưởng cô gái đã tới…tháng hay mắc phải chứng
bệnh đờn bà con gái gì đó, nên vội kêu xe cứu thương, chở gấp tới bệnh xá.
Tại đây, người ta mới khám phá ra và cười ồ lên :
- À, té ra là thế.
Cái khó ló cái khôn. Hôm nay, cái khó thì vẫn còn đó, nhưng liệu sẽ ló ra được bao nhiêu cái khôn siêu
đẳng thuộc loại này ? Vậy đâu là nguyên nhân phát sinh ra tệ trạng trên?
Các cụ đồ nho, học trò Đức Khổng Tử, thì cho rằng :
- Nhân chi sơ tính bản thiện.
Bổn tính con người khi sinh ra vốn dĩ tốt lành. Nhưng rồi do hoàn cảnh xã hội, cái tính bản thiện ấy mỗi
ngày một tuột dốc và xấu dần, xấu dần thêm mãi.
Còn các nhà thần thọc thì phán rằng :
- Xuất phát từ lòng bàn tay Thiên Chúa, con người tốt lành như các thiên thần, thế nhưng do ảnh hưởng
của tội nguyên tổ, con người bắt đầu xuống cấp. Trí khôn trở nên mờ tối. Ý muốn bị dục vọng khống
chế. Và lòng tham thì như một vực thẳm không đáy.
Chính vì lòng tham không đáy này, người ta luôn hướng chiều tới “việc vơ vét về”. Và người ta đã nghĩ ra
trăm phương ngàn kế để thực hiện ý đồ đen tối ấy.
Riêng với người Việt Nam, theo gã nghĩ, còn có một nguyên nhân lịch sử khác nữa.
Số là như chúng ta đã biết cha ông chúng ta đã từng sống một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, rồi một trăm
năm nô lệ giặc Tây và hai mươi năm nội chiến từng ngày. Trong kiếp nô lệ đằng đẵng này, muốn được
sống phây phây và phè phỡn, người ta cần phải khéo luồn và khéo lách…Tất cả nghệ thuật luồn và lách
này được kết tinh thành những cái khôn, như :
- Khôn quỉ hay khôn xảo, nghĩa là hiểu biết và thu lợi nhiều cho mình một cách quỉ quyệt và xảo trá.
- Khôn ranh, khôn lỏi hay khôn vặt, nghĩa là hơn người trong những việc vặt vãnh, nhỏ mọn chẳng
đáng.
Những cái khôn này, tự bản chất : rằng khôn thì thật là khôn nhưng lại chẳng ngoan tí nào, bởi vì chẳng
biết phân biệt phải trái. Cứ thấy tiền của, lợi lộc và chức tước là húc đầu vào như con thiêu thân lao mình
vào lửa hay như con bò rừng nhào tới tấm vải màu đỏ trong đấu trường Tây ban nha.
Những cái khôn này đều có hai điểm chung.
Điểm chung thứ nhất đó là luôn đặt cái lợi của mình lên trên hết và sẵn sàng dùng mọi phương tiện để
đạt cho được mục đích, dù đó chỉ là những phương tiện xấu xa và hèn hạ.
Điểm chung thứ hai đó là những cái khôn này luôn mang tính cách lươn lẹo, gian dối và thiếu thành thật.
Nhiều khi miệng thì nam mô, nhưng trong bụng lại chất đầy một bồ dao găm. Hay như tục ngữ cũng đã
diễn tả :
- Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Với một bề dày lịch sử nổi cộm như thế, những cái khôn ranh và khôn vặt này đã bén rễ sâu trong tâm
hồn và luôn lưu thông trong máu huyết của người Việt Nam, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng vẫn chưa
thể đánh bật được nó ra ngoài.
Chính vì thế mà cho đến hôm nay, nó vẫn còn để lại những hệ lụy, những hậu quả giây chuyền thật thê
lương và thảm thiết.
Thực vậy, vì thiếu thành thật, nên người Việt Nam chúng ta rất khó cộng tác với nhau. Người ngoại quốc
đã nhận xét về các sinh viên Việt Nam như sau :
- Sinh viên Việt Nam rất giỏi, chỉ số thông minh của họ rất cao. Nếu một chọi một, nghĩa là một sinh viên
Việt Nam địch với một sinh viên ngoại quốc, họ dễ dàng nắm phần thắng. Thế nhưng một nhóm sinh
viên Việt Nam đấu trí với một nhóm sinh viên ngoại quốc, thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy là vì họ không
biết hay không thể cộng tác với nhau.
Đây cũng là kinh nghiệm gã đã từng trải qua. Thưở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, cứ mỗi lần
thảo luận theo nhóm là thấy khỏe re con bò kéo xe, bởi vì chỉ cần bàu lên một tên trưởng nhóm, rồi sau
đó ngồi tán gẫu, cà kê dê ngỗng cho đến hết giờ, phó mặc tên trưởng nhóm tha hồ ba hoa chích chòe,
vẽ rồng vẽ rắn, thêm râu thêm ria khi lêân trình bày hay báo cáo cùng bàn dân thiên hạ.
Cũng chính vì sự thiếu cộng tác này mà cho đến ngày hôm nay dân tộc mình không để lại được cho đời
một công trình nghệ thuật tầm cỡ nào.
Chẳng hạn về kiến trúc, các lăng tẩm ở Huế còn quá nhỏ nhoi so với khu đền Ăng ko của người anh em
Campuchia. Về văn học, hiện giờ chúng ta chưa có được một bộ bách khoa tự điển đầy đủ…Mạnh ai,
người ấy viết. Mạnh ai người ấy làm. Mà sức làm, sức viết của mỗi cá nhân thì thật hạn hẹp. Một cái đầu
làm sao bằng hai cái đầu.
Một bộ tự điển “Larousse” của Pháp mà thôi cũng đã có biết bao nhiêu người cộng tác, rồi từ năm này
qua năm khác, họ vẫn luôn duy trì sự cộng tác chặt chẽ ấy, để có những bổ túc cập nhật hóa, khỏi bị lỗi
thời. Thấy mà thèm.
Rồi vì lòng tham, thấy cái lợi liền bị tối tăm mặt mũi như kẻ phải gió, nên mới nảy sinh ra những hành
động làm nghèo cho đất nước.
Thực vậy, có người đã quan niệm : của nhà nước là của chùa, cứ mặc sức mà vơ vét, tuy nhiên phải
khôn ranh một tí để khỏi bị tóm cổ. Nếu lỡ bị tóm cổ, thì hãy liệu mà chạy thuốc, lo lót càng sớm càng
tốt, vì :
- Đồng tiền đi trước, đồng tiền khôn.
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Có một độ, nhà nước thu thuế bằng hiện vật. Chẳng hạn anh nông dân thì phải đóng thuế bằng lúa. Và
thế là anh ta không ngần ngại trộn cát hay dội nước vào lúa cho nặng ký, khiến cho cả núi lúa thuế bị hư
hỏng hay không thể xài được. Đây rõ ràng là tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.
Cũng vì tham cái lợi mà biết bao xí nghiệp, công ti đã lỗ chổng vó, đã thua sặc gạch hay đã biến thành
một thứ “công ti năng tan” chỉ vì ngài giám đốc hay cô thư ký biển thủ.
Biết bao đường giây hụi bị bể vì người cầm trịch ẵêm tiền bỏ trốn đi mất. Ấy là gã chưa nói đến những
thứ “giả” được sản xuất để trục lợi.
Chẳng hạn làm hàng giả để kiếm lời. Hôn nhân giả để được xuất cảnh. Ly hôn giả để được cấp đất, cấp
nhà. Bằng cấp giả để lòe thiên hạ hay để được ngồi vào chiếc ghế này, chiếc ghế kia. Mang thai giả để
tống tiền. Đạo đức giả để lấy điểm hay để được thương…chỉ còn thiếu mỗi cái hàm răng giả để cho khỏi
móm mà thôi. Hy vọng khi có dịp, gã sẽ mổ xẻ về những thứ giả này.
Càng viết, gã lại càng thương và càng xót, càng tủi và càng hận. Rốt cuộc, yếu tố quan trọng nhất vẫn là
yếu tố con người. Chẳng thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã bảo :
- Phải tu thân, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ.
Ngày nay, muốn phát triển và nâng cấp nền kinh tế, thì tiên vàn, phải phát triển và nâng cấp chính con
người trước mình đã.
TỨ…SẮC - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Trong số trước, gã đã trình bày hình ảnh về đờn bà con gái xưa và nay, bằng cách mượn kiểu diễn tả của
Linh mục Thiện Cẩm, đó là sự tiến hóa từ tam tòng nhảy vọt sang tam…vòng. Cùng một thể thức ấy,
hôm nay gã xin đề cập đến sự chuyển biến từ tứ đức bỗng chốc trở thành tứ…sắc nơi đờn bà con gái
thời xưa và thời nay.
Khi được hỏi thế nào là cái đẹp, có người đã đưa ra một câu định nghĩa xanh dờn như thế này :
- Đẹp, đó chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực.
Câu định nghĩa méo mó này muốn nói lên rằng : ở thế gian, chẳng bao giờ có được một cái đẹp khách
quan, mà chỉ toàn là những cái đẹp chủ quan mà thôi. Chủ quan của từng người, cũng như chủ quan của
từng thời.
Tại sao anh chàng “bô…giai” nọ lại vớ ngay phải cô vợ xấu ơi là xấu ? Thế nhưng, xấu là xấu dưới mắt
bàn dân thiên hạ, chứ còn dưới mắt anh chàng “bô giai” nọ, nhất là khi đã chịu đèn và say tình, thì cô
nàng vẫn là người đẹp nhất trên đời :
- Mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo : râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo : ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo : về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo : hoa thơm rắc đầu.
Cũng thế, tại sao cô nàng thuộc vào hàng “lá ngọc cành vàng” lại quơ ngay phải một anh chàng thuộc
hàng “nông nãi, vũ phi chi cục mịch” ? Thế nhưng, nông nãi và vũ phu chi cục mịch là đối với người
ngoài, chứ còn đối với cô nàng, thì anh chàng vẫn mãi mãi là…hoàng tử của lòng em :
- Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
Không phải chỉ mỗi người, mà hơn thế nữa, mỗi thời cũng đều có những tiêu chuẩn riêng để xác định cái
đẹp. Ca dao đã diễn tả về người con gái đẹp ngày xưa như sau :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan.
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt có tình với ai.
Từ bài ca dao trên, gã thấy phảng phất và bàng bạc tinh thần của Nho giáo. Thực vậy, xã hội Việt Nam
thời xưa đã mang nặng dấu ấn của Nho giáo. Người ta lấy những lời giảng dạy của Khổng Tử làm khuôn
vàng thước ngọc cho cách cư xử, cũng như làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình.
Đối với cánh đờn ông con giai, ngoài việc tuân giữ “tam cương”, ba rường cột quan trọng trong đạo làm
người, ba mối dây liên hệ chính yếu trong xã hội, đó là quân thần, phụ tử và phu phụ, đạo vua tôi, đạo
cha con và đạo vợ chồng, lại còn phải thực thi “ngũ thường”, năm nhân đức quen thuộc của con người,
đó là nhân nghĩa lễ trí tín.
Riêng đối với phe đờn bà con gái, ngoài việc tuân giữ “tam tòng”, ba sự tùng phục chính yếu, đó là tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, khi còn ở nhà thì theo cha, khi đi lấy chồng thì theo
chồng và khi chồng chết thì theo con, lại còn phải thực thi tứ đức, bốn nhân đức đặc thù của người phụ
nữ, đó là công, dung, ngôn, hạnh.
- Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công dung ngôn hạnh giữ gìn chớ sai.
Đức thứ nhất là công. Vậy công là gì ?
Xin thưa rằng :
- Công là đủ mùi xôi thức bánh, giỏi giang từ đường chỉ mũi kim, nói chung việc nhà phải khéo léo.
Dường như Thượng đế đã ngấm ngầm thỏa thuận và phân chia : đờn bà thì quán xuyến việc nhà, còn
đờn ông thì lo toan việc làng việc nước. Hai chữ “việc nhà”, mới nghe qua, thấy nó thật nhẹ nhõm và đơn
giản, nhưng bước vào rồi, mới thấy nó thật nhiêu khê và rắc rối, cũng vất vả toát cả mồ hôi hột, chứ
chẳng nhẹ nhõm và đơn giản tí nào.
Trước hết, việc nhà chính là việc sắp đặt và tổ chức trong gia đình.
Đúng thế, phải làm sao cho căn nhà được sạch sẽ và đẹp đẽ, được thứ tự và ngăn nắp, biến nó trở thành
một tổ ấm dễ thương và dễ mến, để rồi sau những giờ phút lao động mệt mỏi, sau những bươn chải
kiếm tìm chén cơm manh áo, thì ai cũng thầm mong sớm trở về, hầu được nghỉ ngơi và thư giãn.
Thử tưởng tượng xem một anh chồng suốt ngày quần quật trên ruộng đồng, đổ mồi hôi xôi nước mắt,
hay một ông xã ngồi nơi công sở, bị cấp trên chèn ép, bị cấp ngang cạnh tranh và bị cấp dưới chống
đối…mang cái đầu óc căng thẳng về nhà, chỉ mong sao được khuây khỏa. Thế mà khi bước chân vào
nhà, thì ôi thôi, cả một bãi chiến trường ngổn ngang và bầy hầy trước mặt. Áo quần vứt bừa vứt bãi, hay
giăng mắc lung tung. Thậm chí, có những thứ “nội y” cần cất dấu, mà vẫn cứ được vô tư phơi bày ra
trước mắt bàn dân thiên hạ. Ly tách bẩn thỉu, bàn ghế mỗi cái một nơi. Thẹn đỏ cả mặt, mỗi khi có bè
bạn hay khách khứa ghé thăm.
Chính vì thế, thiên hạ thường gọi người vợ là người nội trợ, tức là người trợ giúp những việc trong nhà :
- Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên.
Nói là trợ giúp, chứ thực chất là quản lý và điều hành tấr ráo cả mọi sự, như Tú Xương đã từng xác
quyết :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Cái uy quyền “nội thất” này, không oai phong lẫm liệt, không hét ra lửa khiến cho nhiều đầu gối phải run
lập cập, để rồi chỉ còn nước cúi gập mình xuống, hay uốn cong người lên mà luồn lách lươn lẹo…nhưng
âm thầm và kín đáo, dầu vậy cũng vẫn có được một tác dụng ghê gớm.
Chính vì tác dụng ghê gớm này, mà thiên hạ đã không ngần ngại phong cho các bà xã cái hàm…nội
tướng. Và khi vị nội tướng đã phán, thì tất cả đều phải thi hành, hay khi vị nội tướng đã ra tay, thì mọi
người đều phải răm rắp vâng theo, từ ông bố cho chí đến đứa con. Chả thế mà người xưa đã bảo :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
Phân tích câu tục ngữ này, gã nhận thấy : lệnh là thứ chiêng đồng loại nhỏ dùng để đánh làm hiệu mà
xuất quân, đồng thời cũng có nghĩa là lời sai khiến. Còn cồng là thứ chiêng đồng loại lớn dùng để đánh
làm hiệu mà lui quân. Như vậy khi cái lệnh của ông được đánh thì mọi người sẽ vâng nghe mà ra đi.
Nhưng nếu cái cồng của bà cũng vang lên, hẳn sẽ át được tiếng lệnh của ông, khiến mọi người phải nghe
theo mà rút về.
Thậm chí nhiều lúc còn :
- Lệnh vua thua lệnh bà.
Và như thế, trong phạm vi gia đình, quyền bà thường lớn hơn quyền ông. Chả thế mà dân mánh mung,
cũng như dân áp phe áp chảo đã triệt để khai thác đặc điểm trên.
Thực vậy, muốn cho công việc được thuận buồm xuôi gió, nói với “tướng ông” xem ra có vẻ bị khó, thế là
họ bèn đi cửa sau, giãi bày tâm sự với “tướng bà”. Một khi tướng bà đã gật đầu ô kê, thì mọi việc đều
xong tuốt luốt. Bởi vì, tướng ông nỡ lòng nào mà từ chối những lời thỏ thẻ ngọt như đường cát, mát như
đường phèn của tướng bà, dù có phải tra chân vào cùm và bị thân bại danh liệt… cũng vẫn một lòng chịu
vậy !!!
Tiếp đến, việc nhà là việc bếp núc và nấu nướng.
Cánh đàn ông con giai, xem ra anh nào cũng thích ăn ngon. Đối với họ, bao tử đi trước, rồi việc làng việc
nước mới theo sau. Thậm chí những kẻ phàm ăn tục uống còn phát biểu :
- Tình yêu đến qua ngả đường của bao tử.
Ngay cả trong phạm vi tôn giáo, đằng sau những việc đạo đức thiêng liêng cao cả, thì dường như người
ta đều thấy bóng dáng của mâm cỗ, của dạ dày phảng phất :
- Trước là kính thánh, sau là…đánh chén.
- Có thực mới vực được đạo.
Chẳng thế mà họ đã từng giải quyết chuyện quốc gia đại sự, hay những phi vụ làm ăn trị giá bạc tỷ bên
bàn tiệc đó sao. Còn nói theo kiểu thánh Phaolô, thì đôi lúc họ đã trót lấy …cái bụng của mình làm chúa.
Vì thế, người vợ “ngon lành” cũng phải là người vợ thành thạo việc bếp núc và nấu nướng :
- Vắng đờn ông quạnh nhà,
Vắng đờn bà quạnh bếp.
- Xem trong bếp, biết nết đờn bà.
Nhiều bà mẹ đã khéo lo cho con gái, bằng cách gửi con gái theo học một lớp cắt may và một khóa nữ
công gia chánh, là như một mớ hành trang cần thiết cho chuyến đi về nhà…chồng.
Sau cùng, việc nhà còn là việc giáo dục con cái.
Thực vậy, ông bố thường bận bịu với chuyện cơm áo gạo tiền, lắm lúc bất đắc dĩ phải lấy “ngoài đường”
làm nơi thường trú, còn “trong nhà” chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Vì thế, người mẹ là người sống gần gũi
con cái hơn, hiểu biết con cái hơn và cũng được con cái yêu thương hơn, nên cũng thường để lại nhiều
dấu ấn sâu đậm trên con cái. Chẳng vậy mà người xưa đã bảo :
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Việc giáo dục này cần phải được bắt đầu ngay khi con cái còn là một bào thai và nhất là khi chúng bắt
đầu hiểu biết , bởi vì :
- Bé không vin, cả gẫy cành.
- Uốn cây thừ thưở còn non,
Dạy con từ thưở con còn đương thơ.
Một tên tướng cướp ngày kia trở về nhà thăm mẹ già. Bà mẹ dẫn con ra một góc vườn, rồi hai mẹ con
cùng ngồi thủ thỉ và tâm sự với nhau. Bà mẹ ra sức khuyên nhủ người con từ bỏ con đường lầm lạc và
làm lại đời mình. Nghe nói thế, người con bèn chỉ vào một cây to và nói :
- Liệu mẹ có còn uốn được cây này nữa không ? Chắc chắn là không. Vậy tại sao mẹ không dạy con từ
lúc con còn nhỏ, bây giờ con đã là một cây to, thì không thể uốn được nữa.
Nói xong, tên tướng cướp lặng lẽ bỏ đi.
Đức thứ hai là dung. Vậy dung là gì ?
Xin thưa rằng :
- Dung hay dong là hình dáng, tướng mạo bên ngoài, như người đời thường bảo :
- Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Dung ám chỉ sắc đẹp của người phụ nữ. Sắc đẹp này, trước hết được chú trọng vào khuôn mặt, vì thế
người ta mới gọi nhan sắc là vẻ đẹp của khuôn mặt nói riêng và vẻ đẹp của toàn thân nói chung :
- Chồng em vừa xấu vừa đen,
Đã kém nhan sắc, lại hèn chân đi.
Người con gái đẹp là người con gái có nét mặt tự nhiên, không tha thướt lả lơi. :
- Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Sắc đẹp ấy không phải chỉ được thể hiện trên khuôn mặt, mà còn được thể hiện nơi thân hình :
- Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
Thế nhưng, ngoài sắc đẹp trời ban cho, người con gái còn phải biết kết hợp với việc ăn mặc, sử dụng
trang phục sao cho hài hòa, thích hợp với từng người, theo từng tuổi, ở từng nơi và trong từng lúc :
- Áo đen ai nhuộm cho mình,
Cho duyên mình đậm, cho tình anh thương.
Đức thứ ba là ngôn. Vậy ngôn là gì ?
Xin thưa rằng :
- Ngôn là biết trình thưa vâng dạ.
Lời nói vừa tế nhị lại vừa ôn tồn, vừa lễ độ lại vừa khôn ngoan, biểu hiện được nhân cách của người phụ
nữ, đồng thời còn chứng tỏ mình là một con người có giáo dục, có văn hóa :
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Sau cùng, đức thứ tư là hạnh. Vậy hạnh là gì ?
Xin thưa rằng :
- Hạnh là đường ngay thảo kính, nết na đằm thắm.
Nói cách khác, hạnh chính là sự đạo đức, nết na của người phụ nữ. Muốn được bàn dân thiên hạ coi là
đẹp, thì bản thân họ phải là con ngoan, vợ hiền và dâu hiền, phải biết trung thực và nhân hậu, kính trên
và nhường dưới. Đây chính là yếu tố căn bản nhất tạo thành nét duyên ngầm của người phụ nữ. Nét
duyên ngầm này sẽ không bị tàn phai với thời gian, trái lại ngày càng thêm đậm đà, khiến cho mọi người
phải cúi đầu tâm phục khẩu phục :
- Cái nết đánh chết cái đẹp.
Nếu phải chọn lựa giữa nhan sắc và đức hạnh, người xưa không ngần ngại chọn ngay đức hạnh, bởi vì
như vừa trình bày, đức hạnh chính là nét duyên ngầm của đờn bà con gái, không bị thời gian là cho nhạt
nhòe :
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu chuyện như sau :
Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp : một người đẹp, còn
một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp
đẹp, lấy làm lạ bèn dò hỏi một thằng nhỏ giúp việc, thì nó trả lời rằng :
- Người thiếp đẹp tự coi là đẹp, nên mất đẹp. Còn người thiếp xấu, tự biết là xấu, nên không còn xấu
nữa.
Nghe vậy, Dương Chu bèn gọi học trò lại và bảo :
- Các con hãy nhớ lấy câu này : người giỏi mà bỏ được cái thói ”tự cho mình là giỏi”, thì đi đến đâu ai mà
chẳng trọng kính, ai mà chẳng yêu mến.
Sau khi đã tìm hiểu về tứ đức của đờn bà con gái thời xưa, bây giờ chúng ta hãy nhìn vào xã hội hôm
nay, để xem tứ đức ấy còn tồn tại, hay chỉ là một kỷ niệm buồn của dĩ vãng, một chuyện đã xưa rồi Diễm
ơi mà thôi.
Theo sự diễn tả của linh mục Thiện Cẩm, thì ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác. Vậy thế gian ra
khác như thế nào, nhất là trong lãnh vực đờn bà con gái ?
Theo các nhà tâm lý, hoàn cảnh bên ngoài nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm tính bên trong. Đờn
bà con gái ngày nay, không còn bị nhốt trong căn nhà bếp, suốt ngày bầu bạn với nồi niêu xoong chảo,
mà đã nhảy phóc ra ngoài xã hội. Cũng lao động và sản xuất, cũng quản lý và điều hành, cũng bươn chải
và đôn đáo chạy ngược chạy xuôi chẳng kém gì đờn ông con trai. Nhiều bà nhiều cô đã gặt hái được
những thành quả sáng chói, làm tới giám đốc, bộ trưởng, thủ tướng…chẳng kém gì, mà có khi còn vượt
trội hơn cả cánh đờn ông con giai với mức lương thu nhập khá cao.
Gã không phải là chuyên viên kinh tế, nhưng kinh nghiệm đời thường cho gã thấy : trong bất cứ tổ chức
nào, từ gia đình cho đến xã hội, ai nắm được tài chánh, thì người ấy cũng nắm quyền chỉ huy, nghĩa là
được quyền ra lệnh, đồng thời chi phối mọi hoạt động của người khác.
Vì cũng phải góp mặt với đời và hơn thế nữa, không còn bị lệ thuộc vào đờn ông con giai trong lãnh vực
tiền bạc, nên đờn bà con gái ngày nay bỗng trở thành một thứ bề trên, nên đâu còn thời giờ lo toan
chuyện tẹp nhẹp bếp núc, thành thử lắm khi “việc nhà phó mặc cho bố nó”. Như vậy, chữ “công” được
tạm cất vào ngăn kéo của dĩ vãng.
Thật tội nghiệp cho những đức ông chồng, mặc dù đang sống phây phây giữa đời, thế mà cứ như ông
thầy dòng sống trong tu viện. Mặc dù chẳng khấn chẳng hứa, thế mà vẫn cứ phải tuân giữ ba nhân đức
khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Thứ nhất không được giữ tiền riêng, vì đồng lương phải nộp cả cho
vợ Thứ hai đừng có dại mà tơ tưởng lung tung, hay mèo chuột linh tinh vì phải tuyệt đối trung thành với
vợ. Bà mà biết được thì chết với bà. Thứ ba phải luôn chiều ý vợ, thậm chí nếu phải tham nhũng hối lộ vì
vợ thì cũng hồ hởi thưa lên hai tiếng “xin vâng”.
Ai nắm tiền bạc trong gia đình, thì người ấy có quyền phán bảo. Và một khi đã quen với cung cách phán
bảo, thì cứ việc ăn to nói lớn, chả cần phải để ý tới ai, vì lẽ phải và công lý luôn nằm trong lòng bàn tay
của mình. Nương theo cái đà ấy, mấy cô em gái nho nhỏ dễ thương mà tụ lại với nhau, thì cũng phát
ngôn theo kiểu đao to búa lớn, đủ mùi chanh chua. Họ sẵn sàng gọi người yêu của mình là cái lão ấy,
cũng như gọi cha mẹ của mình là cái ông ấy, cái bà ấy. Hơn nữa, những đề tài được trao đổi, người
ngoài mà nghe thấy cũng phải toát cả mồ hôi lạnh và quỉ thần cũng phải phát kinh, phát khiếp lên ấy
chứ. Như vậy, chữ “ngôn” cũng được mời đi chỗ khác chơi.
Nếu ngày xưa người ta chủ trương : Cái nết đánh chết cái đẹp, thì đờn bà con gái thời nay nhiều người
lại cho rằng :
- Cái đẹp đè bẹp cái nết.
Rất nhiều cô đã biết tận dụng cái vốn trời cho này mà hốt bạc tỉ, hay leo lên đài danh vọng, mà chẳng
phải tốn đồng xu cắc bạc nào cả, khiến cho phe đờn ông con giai phát thèm, phát khát, có nằm mơ cũng
chẳng thấy. Thành thử chữ “hạnh” bị xếp vào hàng thứ yếu. Thậm chí, người đạo đức nết na lắm khi còn
bị liệt vào hàng “ngớ ngẩn ngây ngô khù khờ ngu ngơ” nữa là khác.
Điều mà đờn bà con gái thời nay chú trọng hơn hết, có lẽ là chữ “dung”, tức là nhan sắc, tức là vẻ đẹp.
Và thế là tứ đức của Nho giáo nghiễm nhiên trở thành tứ…sắc. Sắc đẹp của khuôn mặt, sắc đẹp của bộ
ngực, sắc đẹp của cặp giò và sắc đẹp của áo quần.
Để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp này, các thẩm mỹ viện mọc lên như nấm, ăn nên làm ra, phất lên như
diều gặp gió. Mấy ông bác sĩ giải phẫu, cắt chỗ nọ vá chỗ kia, hút chỗ này bơm chỗ khác, cứ ung dung
ngồi hốt bạc vì phen này ắt hẳn trúng mánh lớn. Thậm chí nhiều bà nhiều cô lặn lội từ bên Mỹ về Việt
Nam cốt chỉ để xẻ cái cằm, xâm bờ môi hay cấy hàng lông mi…vì tiền công ở Việt Nam rất rẻ.
Rồi trên thị trường, từ các siêu thị hiện đại cho đến các tiệm tạp hóa nơi hang cùng ngõ hẻm, cũng đã
bày bán biết bao nhiêu thứ mỹ phẩm. Nguyên dầu gội đầu, phục vụ cho mái tóc thì cũng đã có biết bao
nhiêu loại, đến quỉ thần cũng không thể nào nhớ cho hết. Nguyên kem phục vụ cho làn da, thì cũng đã
có biết bao nhiêu thứ : kem dưỡng da, kem tẩy da, kem trắng da, kem chống nắng, kem chống nhờn,
kem chống khô…vì nhất dáng nhì da cơ mà. Và rồi còn biết bao nhiêu mặt hàng, biết bao nhiêu đồ phụ
tùng lỉnh kỉnh khác nữa, từ bên ngoài cho đến bên trong, nhằm tăng thêm vẻ đẹp cho quí bà quí cô. Gã
đành phải bó tay, xin chào thua.
Thế nhưng, qui luật của muôn đời cho thấy :
- Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc nào mà không bị tàn phai với thời gian.
Và khi nhan sắc đã tàn phai, thì hỡi ôi :
- Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
- Còn duyên kén những giai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Vì thế, trong khi điểm tô và làm đẹp cho cái nhan sắc bên ngoài, cũng đừng quên điểm tô và làm đẹp
cho cái nhan sắc bên trong :
- Người xấu, duyên lặn vào trong.
Bao nhiêu người đẹp, duyên bong ra ngoài.
Để tạo được vẻ đẹp hài hòa như thế, không bì bằng trở về với truyền thống dân tộc, bởi vì bốn chữ
“công dung ngôn hạnh” vừa tạo được cái đẹp bên ngoài, mà cũng không sao lãng cái đẹp của phẩm chất
bên trong.
Với chủ trương như vậy, chắc chắn gã sẽ bị mấy cô gái choai choai bây giờ bĩu môi, trề miệng ra mà
phán :
- Rõ thật đồ cù lần cù lèo!!!
TAM VÒNG - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Buổi tối, mấy đứa con nít ngồi cãi nhau chí chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một đứa lên tiếng hỏi :
- Đờn bà bởi đâu mà có ?
- Thì bởi đờn ông chứ còn bởi ai ?
- Thế đờn ông bởi đâu mà có ?
- Thì bởi đờn bà chứ còn bởi ai ? Nếu không có đờn bà, thì lấy ai sinh ra đờn ông, không khéo đờn ông
đã tiêu tùng từ lâu.
Và thế là bọn con nít rơi vào một chiếc vòng luẩn quẩn giữa đờn ông và đờn bà, giữa đờn bà và đờn ông.
Cuối cùng một đứa xem ra có vẻ thông thái đã cất tiếng nói :
- Đức Chúa Trời đã dựng nên người đờn ông thứ nhất, rồi từ đó sinh ra người đờn bà thứ nhất và cứ thế,
cứ thế….liên tục phát triển cho đến ngày hôm nay.
Thực vậy, theo sách Sáng Thế Ký thì thưở ban đầu, Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn, rồi thổi hơi vào lỗ
mũi mà làm thành người đàn ông đầu tiên, mang tên gọi là Adong. Sau đó, Ngài thấy Adong sống cô độc
lẻ loi và cu ky một mình thì động lòng thương, bèn chờ lúc Adong ngủ say, lấy một chiếc xương sườn của
chàng mà dựng nên người đờn bà đầu tiên. Ngài dẫn người đờn bà này tới giới thiệu với Adong. Vừa nhìn
thấy, cặp mắt Adong đã sáng lên long lanh, còn đôi môi thì hớn hở mừng rỡ mà kêu lên hai tiếng :
- Mình ơi !
Rồi Adong đã đặt tên cho người đờn bà này là Eva, bởi lẽ nàng là mẹ của chúng sinh. Theo quan niệm
của sách Sáng Thế Ký, thì đờn ông và đờn bà đều được Đức Chúa Trời dựng nên, bình đẳng với nhau về
trách nhiệm cũng như bổn phận, mặc dù mỗi người đều có một lãnh vực riêng của mình. Vì thế, một vị
thánh nào đó đã diễn tả :
- Đức Chúa Trời đã không lấy xương sọ mà dựng nên Eva, vì thế bà không được chỉ huy ông. Ngài cũng
không lấy xương gót chân mà dựng nên Eva, vì thế ông không được đày đọa bà. Nhưng Ngài đã lấy
chiếc xương sườn ở cạnh lái tim mà dựng nên Eva, vì thế ông phải yêu thương bà và bà phải yêu thương
ông.
Ngoài ra, còn rất nhiều truyền thuyết khác nữa nói về nguồn gốc của người đờn bà. Gã xin kể ra đây hai
truyền thuyết mà thôi.
Truyền thuyết thứ nhất kể lại rằng :
Thưở ban đầu, người đờn ông sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền. Thượng đế lấy
làm tội nghiệp. Ngài bèn dùng một chút dịu dàng của hoa lan, một chút xinh đẹp của hoa hồng và một
chút tinh khiết của hoa huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, nhưng chưa đủ. Ngài còn hòa vào đó một
chút tinh ranh của con khỉ già, một chút độc ác của con rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư
tử. Tất cả được quyện lẫn với nhau mà làm nên người đờn bà. Thượng đế trao người đờn bà ấy cho
người đờn ông. Kể từ đó, người đờn ông không còn trơ trụi một mình nữa.
Nhưng rồi vào một buổi sáng u ám, người đờn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự tinh ranh,
độc ác và hung dữ của người đờn bà, nên đã trả nàng lại cho Thượng đế. Thế nhưng, cuộc ly hôn đầu
tiên này diễn ra chưa được một tuần trăng, thì người đờn ông bỗng cảm thấy nhớ day nhớ dứt vẻ dịu
dàng, xinh đẹp và tinh khiết của người đờn bà, nên đã xin Thượng đế cho mình được lấy lại. Và từ đó, họ
sống hạnh phúc với nhau.
Truyền thuyết thứ hai kể lại rằng :
Sau khi dựng nên núi đồi và biển cả, cây cối và muông thú, cuối cùng Thượng đế mới hoàn tất tác phẩm
tuyệt vời của mình, đó là là người đờn ông với tên gọi là Adong. Bấy giờ, Adong đi lang thang hết chỗ
này đến chỗ kia, nhưng luôn cảm thấy trống vắng. Một buổi sáng, Adong dừng chân bên hồ, chàng
mừng rỡ khi nhận ra bóng mình in trên mặt nước. Và thế là chàng bèn nhảy xuống để ôm lấy chiếc bóng
mình trong vòng tay, nhưng không thể được. Chàng buồn bã ngồi thinh lặng dưới gốc cây và than thở
cùng Thượng đế về sự trống vắng. Thượng đế liền trả lời :
- Thôi được, hãy dẫn Ta tới hồ nước.
Thượng đế nắm lấy chiếc bóng của Adong trong lòng bàn tay, thổi vào đó một luồng sinh khí. Và thế là
một người đàn bà đẹp hết ý mang tên gọi là Eva bỗng xuất hiện. Nàng chớp chớp đôi mắt và khẽ nói :
- Tôi hiện hữu hay không hiện hữu ?
Thượng đế mỉm cười và bảo :
- Đây là quy luật của muôn đời : khi con ở cạnh người đờn ông, thì con hiện hữu. Trái lại, khi vắng bóng
chàng, con sẽ không còn hiện hữu nữa.
Từ những truyền thuyết trên, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ cũng đã dành cho người đờn bà một sự
trân trọng đáng kính nào đó và nàng trở thành một con người không thể thiếu vắng cho phe đờn ông
con giai. Thế nhưng, trải qua dòng thời gian, phe đờn ông con giai đã lờ tít và cố tình quên đi sự trân
trọng đáng kính ấy, để rồi ỷ vào sức mạnh trời cho, mà đày đọa cánh đờn bà con gái. Từ đông sang tây,
cũng như từ cổ chí kim, họ đã nhìn cánh đờn bà con gái bằng nửa con mắt.
Thực vậy, ở phương tây có những kẻ muốn trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu cánh đờn bà con gái. Theo họ :
khi cánh đờn bà con gái chưa xuất hiện trên mặt đất này, thì phe đờn ông con trai sống rất ư là thoải
mái, vui vẻ và đầm ấm. Thế nhưng, khi cánh đờn bà con gái vừa xuất hiện, thì lập tức có ghen ghét và
vu cáo, bạo loạn và chiến tranh. Và cũng theo họ : lòng dạ đờn bà con gái thì vô cùng hiểm độc và nhan
sắc của họ dễ làm cho phe mày râu chìm đắm.
Các triết gia như Anaxilas thì khẳng định : hùm beo, rắn độc, quái vật, sư tử…bao nhiêu thứ ấy là cái
quái gì chứ ? Chẳng là cái thá gì cả trước đờn bà con gái. Phutarque thì nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng đầy
khinh bỉ : Khi các ngọn nến được thổi tắt, thì tất cả đờn bà con gái đều xinh đẹp cả.
Các nhà văn, chẳng hạn như Somerset Maugham đã lập luận như sau :
- Vì cớ làm sao những người đờn bà xinh đẹp đều lấy những người đàn ông tầm thường ? Xin thưa rằng
những người đàn ông thông minh sẽ chẳng bao giờ chịu lấy những người đờn bà xinh đẹp cả.
Georges Courteline thì than thở :
- Những gì mình làm cho đờn bà con gái thì họ quên rất mau, còn những gì mình không làm cho họ thì
họ lại nhớ mãi nhớ hoài. (Kiến thức ngày nay số 43).
Ý thức được sự bất công và địa vị yếu kém của mình, cánh đờn bà con gái đã đoàn kết lại để đấu tranh,
thiết lập những phong trào, nào là phụ nữ đòi bình đẳng, nào là phụ nữ đòi quyền sống và ngay cả phụ
nữ đòi quyền…sướng nữa. Thế nhưng, xem ra tình trạng mới chỉ sáng hơn được một chút xíu mà thôi.
Ông Nguyễn Thanh Long, trong một bài viết trên báo “Công giáo và Dân tộc” đã cho biết những nét đại
cương như sau :
Hiện nay, đờn bà con gái chiếm ít nhất 50% dân số nhân loại. Theo một cuộc điều tra của Liên Hiệp
Quốc được công bố năm 1999, thì chẳng có quốc gia nào đối xử với nữ giới bình đẳng với nam giới. Trên
trái đất, có 1,3 tỷ người sống trong tình trạng cực kỳ nghèo đói, thì đờn bà con gái chiếm tới 70%. Tổng
trị giá của những công việc đờn bà con gái phải làm mà không có lương được ước tính khoảng 11.000 tỷ
đô la Mỹ mỗi năm. Số lượng đờn bà con gái đi làm có lương chỉ là 1/3 so với đờn ông con giai. Số tiền
lương họ được lãnh chỉ bằng 10% tổng quỹ lương. 50% nhân loại ấy chỉ đứng tên sở hữu 1% tài sản
trên thế giời!
Trong lãnh vực chính trị, sự hiện diện của đờn bà con gái lại còn quá thấp. Tại Pháp, quốc hội hiện nay
chỉ có khoảng 60 nữ trên tổng số 577 đại biểu, tỷ lệ 10,2%. Mỗi khi một nhân vật nữ được bàu vào một
chức vụ cao, thì đó là một “sự lạ cả thể” và được bàn dân thiên hạ nhìn bằng một cặp mắt nghi ngờ.
Trong phạm vi tôn giáo, một vị thánh nổi tiếng là Âu Cơ Tinh cũng đã khẳng định đờn bà con gái thấp
kém hơn đờn ông con trai. Vì thế, họ không được tham gia vào những hoạt động về xét xử hay giảng
dạy trong Giáo hội. Thậm chí theo truyền thuyết còn có cả một công đồng, trong đó các nghị phụ đã
tranh cãi về vấn đề đờn bà con gái có linh hồn hay không ?
Còn tại nước Đức, phe đờn ông con giai đã gọi cánh đờn bà con gái là người của 3K : Kinden tức là con
nít, Kuchen tức là bếp núc và Kirch tức là nhà thờ. (Công giáo và Dân tộc số 1447).
Trong kinh Coran, Đức Mahomet đã truyền dạy các tín đồ đực rựa như sau : Đờn bà con gái là một mảnh
đất đã được cày sẵn, các con cứ việc đến đấy, tha hồ mà trồng cấy.
Còn ở phương đông như tại Việt Nam, do ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, trải qua nhiều thế kỷ chủ
trương trọng nam khinh nữ tha hồ mà tung hoành trong xã hội. Người ta cho rằng :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Sinh được một cậu con giai thì đã kể là có, trong khi đó sinh được
mười cô con gái, thì vẫn kể là không.
- Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Chỉ người đờn ông mới là chủ gia đình và được trọng kính. Thực vậy, trong nhà khi các bà muốn đưa cho
chồng cái gì thì cũng phải để trên bàn chứ không đưa tận tay. Nam nữ thọ thọ bất thân. Không thể có
chuyện nắm tay hay bá vai bá cổ. Lại càng không thể có chuyện vuốt ve hôn hít nhau chùn chụt trước
mặt bàn dân thiên hạ. Đặc biệt trong xã hội ngày xưa, đờn bà con gái còn phải giữ tam tòng tứ đức.
Tam tòng, tức là ba chữ tòng : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng
cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con. Còn tứ đức, tức là bốn nhân đức :
công dung ngôn hạnh. Khéo tay làm lụng, nét mặt đoan trang, ăn nói lịch sự và tính tình nết na.
Theo linh mục Thiện Cẩm : Ngày nay, thế gian bỗng tự nhiên ra khác, ngay ở nước ta, nam nữ cũng trở
nên thọ thọ…rất thân, nắm tay, ôm eo, tựa vai, bá cổ. Có người bảo phụ nữ ngày nay chỉ nghĩ đến “tam
vòng tứ sắc”. Tam vòng là vòng ngực, vòng eo và vòng mông. Tứ sắc là nét đẹp của khuôn mặt, của bộ
ngực, của áo quần và của cặp giò. Còn chuyện tam tòng tứ đức là chuyện đã quá “đát” từ lâu.
Hôm nay, gã xin mượn những gợi ý trên để bàn rộng và tán dài về chuyện tam tòng cũng như tam…
vòng!
Trước hết là chuyện tam tòng mà ngày xưa, cánh đờn bà con gái phải tuyệt đối tuân giữ.
Thứ nhất, tại gia tòng phụ, có nghĩa là khi còn sống ở nhà thì phải phục tùng và vâng lời người cha, bởi
vì người cha là cột trụ của gia đình. Đây là điều dễ hiểu và dễ chấp nhận, bởi vì cha mẹ có bổn phải phải
giáo dục con cái và con cái có bổn phận phải vâng lời cha mẹ :
- Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn.
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
Thứ hai, xuất giá tòng phu, đi lấy chồng thì phải phục tùng và vâng lời chồng. Đây là một quan niệm cần
phải xét lại, bởi vì nó đã làm nảy sinh ra những lạm dụng khó mà chấp nhận. Thực vậy, người chồng
trong xã hội phong kiến thường được coi như là một ông chủ. Vì thế, hễ ông ta mở miệng phán ra điều
gì, thì vợ con trong nhà đều phải cúi đầu răm rắp nghe theo, chẳng được phép ý kiến ý cò gì sốt.
Phu xướng phụ tùy. Từ đó, ông ta sẽ thừa thắng xông lên mà đi tới chỗ độc tài, độc đoán và cả…độc ác
nữa. Ông ta sẽ mang lấy đầu óc “gia trưởng” và đối xử theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Lời nói của ông ta
cộc lốc như dùi đục chấm mắm tôm : Tiên sư cái con mẹ mày. Hành động của ông ta mang nặng tính
cách vũ phu và bạo lực. Ông ta không ngần ngại “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Như cầu thủ ghi bàn
thắng, ông ta hăng tiết vịt sút một phát cho bà vợ lọt thỏm vào tủ áo mỗi khi cần ưu ái dạy bảo điều gì,
như trái banh lọt thỏm vào khung thành, hay cầu môn chi đó.
Gã đã từng thấy có những ông chồng đòi hỏi bà vợ phải phục dịch cơm bưng nước rót cho mình. Thậm
chí đến bữa ăn, mình ông ngồi chễm chệ một mâm. Tội nghiệp cho bà vợ suốt ngày phải tần tảo buôn
thúng bán mẹt, nhặt từng cọng rau muống đem ra chợ với hy vọng kiếm được tí tiền còn, mua lấy một xị
rượu và một chút thịt lợn mà cung phụng cho đức ông chồng của mình được thập phần béo tốt.
Thứ ba, phu tử tòng tử, khi chồng chết thì theo con. Đây cũng là điều tương đối dễ hiểu và dễ chấp
nhận, bởi vì người đờn bà lúc bấy giờ nghiễm nhiên đã trở thành một người mẹ, và không chừng cũng đã
mang nặng tí tuổi đời. Một khi chồng chết thì biết theo ai nếu không phải là theo những người con mình
đã mang nặng đẻ đau, đã chắt chiu nuôi dưỡng. Hơn thế nữa, chính những người con này cũng có bổn
phận phải thảo hiếu đối với người mẹ của mình.
Cái sự phu tử tòng tử ở đây xem ra còn có vẻ nhẹ nhàng và nhân đạo hơn tập tục tại nhiều nơi trên thế
giới. Chẳng hạn, nếu gã nhớ không lầm, trong cuốn “Vòng quanh thế giới 80 ngày”, Jules Verne cho hay
tại một vài nơi bên Ấn Độ, khi người chồng qua đời thì các bà vợ sẽ bị thiêu sống để được theo hầu đức
phu quân của mình nơi chín suối!!!
Tuy nhiên, theo lời của linh mục Thiện Cẩm thì : Ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác, chuyện tam
tòng là chuyện quá “đát” từ lâu, xưa rồi Diễm ơi!
Thực vậy, trong tương quan với cha mẹ : con cái bây giờ thuộc vào thế hệ vi tính, nên cha mẹ khó mà
dạy bảo. Nếu có răn đe điều gì, thì liền bị chúng kê tủ đứng :
- Mấy ông mấy bà…già rồi, rõ thật lẩm cẩm, thời bây giờ mà còn như vậy ư ?
Và cha mẹ cũng đành phải bó tay. Chẳng hạn như việc hôn nhân : Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy, còn bây giờ thì con cái đặt đâu thì cha mẹ xin vui lòng…ngồi đấy. Chẳng hạn việc giao tiếp : Ngày
xưa thì nam nữ thọ thọ bất thân, còn bây giờ thì nam nữ thọ thọ…rất thân, để rồi đi tới chỗ nam nữ cọ
cọ rất ư là….giật gân.
Trong tương quan vợ chồng : đờn bà con gái bây giờ đang lăm le nhảy vào lãnh vực xã hội, thành thử gã
phải đổi lại câu thơ của Tú Xương. Thay vì :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó.
Thì bây giờ sẽ phải là :
- Việc nhà phó mặc cho bố nó.
Và theo định luật về thị trường, anh nào có tiền, thì anh ấy sẽ nắm quyền. Chữ tiền liền với chữ quyền
một vần. Khi chị vợ đã làm ra tiền, nắm hào bao và quyết định ngân sách, thì sẽ chi phối mọi sinh hoạt
trong gia đình. Lúc bấy giờ, sẽ có một cuộc thay ngôi đổi chủ. Anh chồng chỉ còn nước âm thầm vào bếp,
như chó cụp đưôi, làm bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách mà thôi.
Một khi tam tòng của Nho giáo đã bị xếp vào ngăn kéo dĩ vãng vì quá “đát’ và xưa rồi Diễm ơi, thì cũng
theo như lời diễn tả trên, đờn bà con gái bây giờ lại chăm chăm chú chú mà lo cho cái khoản “tam vòng”,
tức là ba cái vòng trên cơ thể mình.
Viết đến đây, gã bỗng nảy ra một “théc méc”, đó là không biết từ bao giờ cái ông khỉ gió nào đó đã có
sáng kiến công bố cho bàn dân thiên hạ được biết số đo ba vòng của những thí sinh trong các cuộc thi
hoa hậu. Coi đó như một trong những chuẩn mực để phán xét về sắc đẹp, khiến cho cánh đờn bà con
gái phải lao đao vất vả, xấc bấc xang bang, tốn phí không biết biết bao nhiêu tiền bạc và công sức, để
cái thì được phình ra, còn cái thì được tóp lại, theo đúng tiêu chuẩn quốc tế ISO, cũng chỉ vì muốn làm
người đẹp mà thôi.
Vòng số một, tức là vòng ngực. Thực vậy, Thượng đế trao ban cho cánh đờn bà con gái bộ ngực là để
cung cấp sữa mà nuôi con, như các cụ ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú, lấy gì nuôi con.
Bộ râu làm nên nét oai phong của người đờn ông thế nào, thì bộ ngực cũng làm nên vẻ quyến rủ của
người đờn bà như vậy. Vì thế, ngày nay nhiều bà nhiều cô đã phe lờ cái nhiệm vụ cung cấp sữa để nuôi
con, mà chỉ chuyên trị làm đẹp cho bộ ngực của mình.
Thực vậy, mặc dù các bác sĩ và các nhà chuyên môn luôn quảng bá sữa mẹ là một thức ăn không thể
thiếu cho con trẻ, nào là đề kháng được nhiều chứng bệnh, nào là có đủ chất dinh dưỡng…Thế nhưng,
chỉ vì không muốn cho bộ ngực của mình bị xệ xuống, nên không thiếu những bà mẹ chả chịu cho con
bú, cứ việc ra ngoài chợ, lôi về đủ mọi thứ sữa, từ sữa tươi cho đến sữa đặc có đường, từ sữa bột cho
đến sữa hộp, từ sữa cô gái Hà Lan đến sữa ông già, từ sữa có nhãn hiệu trình tòa đến những loại sữa
chui và trôi nổi…thôi thì thiên hình vạn trạng, đến quỷ thần cũng chẳng đếm nổi trên thị trường hiện nay
có bao nhiêu thứ sữa. Có những người đã bị đi tàu suốt về chầu Diêm Vương, chỉ vì ham rẻ mà dùng
những loại sữa chui và trôi nổi ấy.
Vì vòng số một là nơi cần phải làm phình ra, nên khoa giải phẫu thẩm mỹ đã nhảy vào vòng chiến, cứu
một bàn thua trông thấy cho những bà những cô chẳng may có bộ ngực lép xẹp. Người ta mổ ngang, xẻ
dọc rồi đặt vào trong đó chất “silicone”, làm cho bộ ngực phình to ra bao nhiêu cũng được. Miễn là đạt
mục đích, sau này lỡ có bị ung thư, thì cũng…hạ hồi phân giải.
Nếu ngại giải phẫu, người ta có thể nhờ trang phục trợ giúp, nào là những chiếc yếm hững hờ, nào là
những chiếc nịt ngực, những chiếc “cọc xê” được độn được lót cách này hay cách khác để che lấp cái
kích thước bé tẻo bé teo của bộ ngực mình.
Tiếp đến, vòng số ba tức là vòng mông. Đây cũng là nơi cần phải làm cho phình ra như vòng số một, nên
gã xin miễn bàn tới để được tiếp nối ngay bằng vòng số hai tức là vòng eo.
Với cơn bệnh béo phì ngày càng liên tục phát triển, thì vòng eo đã trở nên một nỗi ám ảnh cho nhiều
người. Báo Le Monde số 2884 cho hay : Trung tâm dự phòng bệnh tật Mỹ cảnh báo bệnh béo phí sắp
dành ngôi vị giết người hàng đầu, vượt qua thuốc lá. Mỹ ước tính có 130 triệu có thể trọng vượt mức,
trong đó có 59 triệu béo phì. Trung Quốc hiện có 300 triệu người quá mập, trong đó có 30 triệu bép phì.
Khi vòng eo tăng trưởng vượt vòng ngực và vòng mông, thì nguy cơ bị tiểu đường và tim mạch cũng gia
tăng. Vòng eo nam giới vượt quá 1,00m và nữ giới vượt quá 0,80m là dấu hiệu béo phì, cũng như là dấu
chỉ phát tướng vòng eo. (CGVDT số 1449).
Trái với vòng số một và vòng số ba là những nơi cần phải làm cho phình ra, thì vòng số hai lại là địa
điểm cần phải làm cho tóp lại. Lý tưởng của vòng số hai chính là cái eo của con ong. Thế nhưng, đối với
nhiều bà nhiều cô, nó lại cứ phình ra mới chết không cơ chứ. Lý do phình ra như thế, có thể do chứng
béo phì và cũng có thể do…trục trặc kỹ thuật ngoài ý muốn.
Trước hết, để thực hiện cái lý tưởng “eo con ong”, cũng như để chống lại tình trạng phát tướng do sự
béo phì gây nên, người ta đã phải dùng tới nhiều biện pháp. Nào là tập thể dục như đi bộ, đi xe đạp, hay
bơi lội mỗi ngày, nghĩa là thân thể phải vận động. Nào là kiêng ăn kiêng uống, áp dụng một chế độ ẩm
thực vô cùng nghiêm khắc. Những biện pháp này đòi hỏi phải kiên nhẫn nhiều lắm, bằng không thì chỗ
cần phình thì lại tóp, còn chỗ cần tóp thì lại phình. Thật là tréo cẳng ngỗng.
Ngoài ra, người ta cũng có thể nhờ trang phục trợ giúp phần nào. Nếu gã không lầm thì “mô đen” áo dài
Việt Nam vào thập niên sáu mươi : cổ phải cao có khi hơn một tấc, eo phải thắt ngẫng như eo con ong.
Vì thế, người ta đã khéo léo luồn vào phía trong áo một sợi dây nhỏ cùng màu và sau khi mặc, người ta
sẽ thắt chặt sợi dây ấy để tạo nên một cái eo rất là….ấn tượng, trên cả tuyệt vời.
Tiếp đến, có những trường hợp vòng số hai bỗng dưng phình ra, một cách bất đắc dĩ và ngoài ý muốn,
hoàn toàn không phải do chứng béo phì, nhưng do một trục trặc kỹ thuật nào đó. Chẳng hạn như cái tật
ăn cơm trước kẻng, anh chị vụng trộm với nhau hay thử cho biết vị ngọt đắng của tình yêu, để rồi một
buổi sáng bỗng thấy vòng eo phình ra và những ngày sau đó lại liên tục phình ra một cách vô tổ chức,
vượt ngoài chỉ tiêu. Lúc ấy chỉ còn biết mếu máo và khóc lên, như người ta hay phịa ra mà hát :
- Anh ơi, nếu bụng em…phình thì sao ?
Nhưng đừng dại đột :
- Đi mua thuốc chuột uống cho rồi đời!!!
Bởi đó, đừng “khôn ba năm dại một giờ”, vì vui sướng của tình yêu có thể chỉ kéo dài trong thoáng chốc,
nhưng khổ đau của nó sẽ kéo dài bằng cả cuộc đời :
- Đờn ông bụng…bự thì sang,
Đờn bà bụng…bự tan hoang cuộc đời.
Chỉ có ba cái vòng, mà sao lại nhiêu khê rắc rối quá vậy. Gã cũng đành bó tay chào thua.
Cụ xứ bên ta - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Nếu gã nhớ không lầm, thì trước ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại Chủng Viện Thánh
Giuse Saigon các thầy phó tế, hay nói nôm na là các cụ sáu, được lãnh nhận chức vụ linh mục vào cuối
tháng tư, trước khi ra trường; còn tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đàlạt, thì vào tháng mười hai,
trước lễ Giáng Sinh. Thành thử trong năm có những đợt truyền chức, được gọi là những mùa hồng ân,
Vào những mùa và những đợt này, bàn dân thiên hạ lại được nghe trình bày về linh mục. Các vị giảng
thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng vẻ cao đẹp tuyệt vời của thiên chức ấy. Chẳng hạn linh mục là trung
gian giữa trời và đất, là gạch nối giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nghe cứ như rót vào tai.

Có vị trích dẫn mẩu đối thoại hình, hình như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để biện minh cho
những lời ca tụng của mình. Thánh nhân phát biểu như sau :

- Nếu một ngày nào đó, tôi gặp một thiên thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi sẽ cúi đầu chào linh
mục trước, bởi vì linh mục đã đem Chúa đến cho tôi, còn thiên thần thì…không.

Có vị còn xác quyết mạnh mẽ hơn thế nữa, khi nói :


- Mẹ Maria chỉ sinh Chúa có một lần, còn linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi ngày!

Chỉ sợ rằng các cha mới cứ được nghe miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim dim ngủ trên những
hào quang của mình. Cứ ngỡ mình là ông Bụt cao sang, mà quên mất thân phận hòn đất thấp kém, bởi
vì từ hòn đất, các ngài đã được cất nên ông Bụt.

Có một anh bạn là linh mục, ngày kia đã tâm sự với gã như thế này :
- Hồi còn bé, mình thích đi tu lắm, ông có biết tại sao không ? Này nhé, đi tu làm cha thì được ở nhà tây,
được mang giày tây, được ăn bánh tây. Ra ngoài đường, bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu đều
khoanh tay cúi đầu chào : Con xin phép lạy cha ạ. Lạy cha mà còn cần phải xin phép nữa, thì quả là hết
ý. Hồi ấy, mình cũng giống như anh em ông Giacôbê và Gioan, mang nặng đầu óc xôi thịt, theo Chúa với
mục đích vinh thân phì gia, mong được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, có nghĩa là tìm lấy cho mình ghế
nọ ghế kia, chức này chức khác. Tóm lại là được làm lớn trong vương quốc của Ngài. Thế rồi những
tháng năm dài ở chủng viện đã dần dần thanh luyện cái ý hướng của mình, nhờ đó mình không còn
mang ảo tưởng nữa. Chức linh mục là để phục vụ Chúa và người khác, chứ không phải là để phục vụ cho
bản thân. Và đời linh mục chẳng phải là một xa lộ an toàn, nhưng cũng chất đầy những chông gai và sỏi
đá…

Cũng vị linh mục này, trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền mẫu góp ý…nhẹ
nhàng như sau :

- Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm cha ơi.
Có bà còn mạnh miệng phán một cách rất quyết liệt và quá khích :

- Khi gặp gỡ và trao đổi với những đôi hôn nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy nhau nữa, khổ lắm cha
ơi.

Nghe vậy, gã bèn hỏi :


- Vậy cha đã giải tỏa cho họ như thế nào ?
Ngài trả lời :

- Mình cũng chỉ biết nhún vai, nhếch mép…mần duyên mà nói với họ rằng : Có ở trong chăn mới biết
chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom
đóm mắt và toát mồ hôi hột ra không ?

Đúng thế, bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Định luật
này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục
và tu sĩ.

Vì thế, hôm nay gã xin hầu chuyện về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các linh mục, đặc
biệt các cụ xứ, các cha sở bên ta, tức là bên Việt Nam. Hy vọng có người nào đó sẽ viết tiếp về nỗi đoạn
trường và những cay đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha sở bên tây.
Nhìn thoáng qua con người và cuộc đời, gã thấy linh mục được phủ đầy hào quang, thậm chí có kẻ xấu
bụng còn liệt các ngài vào hàng :
- Ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng.

- Muốn nói ngoa, thì làm cha mà nói.

Hằng ngày chẳng phải bon chen, bươn chải hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo tiền. Rồi lại còn được
bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy vậy ai mà chẳng ham.

Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn một chút, thì con người và cuộc đời linh mục cũng không thiếu những gian
nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên tấm bi kịch của thân phận linh mục, theo gã nghĩ, đó chính là
những mâu thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng
có những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh do bản chất, do căn tính của linh mục.

Trước hết là những mâu thuẫn từ bên ngoài.

Ngày xưa việc huấn luyện và đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở tiểu chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những sinh hoạt đạo
đức, các chú còn được học một chương trình giống như các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc mãn
tràng, hết lớp đệ nhất hay lớp mười hai.

Giai đoạn thứ hai ở đại chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài những sinh hoạt
đạo đức, các thầy còn được trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao
siêu trên trời.

Sau khi lãnh nhận chức linh mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm và bổn phận
của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với
những việc cụ thể dưới đất.

Dĩ nhiên, cái chất đạo đức được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít, cũng đã thấm
được phần nào vào con người linh mục. Nhưng rồi những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm
cho cái chất đạo đức ấy bị phai nhạt dần.

Ngày xưa, cụ xứ chỉ được học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng dạy lại trở nên
một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu trên trời, giáo dân
sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích, nghĩa là phải xuất phát từ
đời thường, để rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra
cái chất sống ấy ?

Là người luôn đứng trên bục mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại trở thành
kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là
không còn được dạy bảo, như lời một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa mới được thụ phong linh
mục như sau :

- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với chức linh mục,
con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ xứ không còn
được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ không còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.

Đồng thời, với những thành công gặt hái được và những trọng kính người ta dành cho mình, cụ xứ dễ
mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt
bỏ thẳng thừng những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi
vào thái độ cực đoan, độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho
mình dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được, hay nói một
cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà việc nào xem ra cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ,
bởi vì ngài là…thầy cả cơ mà.

Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công
trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng
heo, chuồng gà. Thế nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình :
- Cha xây, rồi cha lại cất. Xây nhiều thì cất cũng nhiều.

Trái lại, nếu không xây, thiên hạ bảo cha cù lần :


- Bao nhiêu năm cha ở với chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha chẳng lo xây,
nhưng chỉ lo cất mà thôi.

Rất lơ mơ về nghề xây dựng, nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu hứng thò
tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến độ
quỷ thần cũng không lường nổi.

Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay đào ao thả cá…
thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào những ngành nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang
nặng tính cách khoa học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao đời sống.

Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao
nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì cha sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách khác
:
- Đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày mà thôi.

Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao để dung hòa
được những nghĩa vụ, những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không
ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập.

Trong một bài báo với tựa đề : “Làm cụ xứ thời nay dễ hay khó ?”, một tác giả đã đưa ra những nhận xét
của mình như sau :

“Nếu cha giảng lâu quá mười phút – Cha lại nói thao thao bất tuyệt !

Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về Thiên Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây trên gió !
Nếu cha đề cập hơi nhiều đến các vấn đề xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả rồi !

Nếu cha chỉ cư ngụ trong khuôn viên Giáo Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với thế gian !

Nếu cha cứ cả ngày ở trong Nhà Chung – Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai cả !

Nếu cha thường xuyên đi thăm người này người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà Xứ !

Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và chứng Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là cha đã bán tống
bán tháo các Bí Tích !

Nếu cha đòi hỏi cao hơn và nhiều hơn – Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những người trọn hảo !

Nếu cha thành công với thiếu nhi – Đạo của cha là đạo ấu trĩ !

Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân – Cha chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề của thời
đại !

Nếu cha sửa sang Nhà Thờ – Cha lại ném tiền qua cửa sổ mất rồi !

Nếu cha không tu bổ gì – Cha đã bỏ bê mọi sự !

Nếu cha cộng tác chặt chẽ với Hội Đồng Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ mũi cha rồi !

Nếu cha không lập Hội Đồng Giáo Xứ – Cha độc tài quá đi mất !

Nếu cha hay mỉm cười – Cha quá dễ dãi !

Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một chuyện gì đó nên cha không nhìn thấy một người nào đó – Cha
khinh người vừa vừa chứ !

Nếu cha hay bực bội vì một sai sót nào đó của người khác – Cha thiếu sự độ lượng nhân từ rồi đấy !
Nếu cha hiền hòa nhẫn nhục – Cha thiếu nghị lực quả quyết !

Nếu cha còn trẻ – Đúng là cha còn thiếu kinh nghiệm trường đời !

Nếu cha đã có tuổi – Xin mời cha nghỉ hưu đi là vừa !

Vậy thì, kính thưa cha sở, xin cha cứ can đảm lên nhé !”

Qua những cuộc tiếp xúc, gã cũng nhận thấy tương tự như vậy : một cha sở, nếu vui tính thì bị hiểu là
quá dễ dãi và thân mật, còn nếu nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói
như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh và ít đi lại thì bị khép
vào hạng người kiêu kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham của cải vật
chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả…

Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói :


- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ xứ phải là người
khôn ngoan như Salomon, bằng không thì sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salomon chăng
nữa, biết đâu lại chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải
khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu
như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và rắc rối quá đi thôi!

Sau khi đã rảo qua một vài mâu thuẫn từ bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những mâu thuẫn từ bên
trong, phát sinh bởi bản chất hay căn tính của linh mục.

Thứ nhất, con người linh mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ trung gian
giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá.
Thế nhưng, kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục.
Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh
mục.
Ngày xưa, gã có quen một anh bạn bổn đạo mới, tên là Minh. Trong chỗ bạn bè thân mật với nhau,
chúng tôi thường gọi anh là…”Minh Tốc”. Chắc hẳn anh đã được nghe thuyết giảng nhiều về sự cao cả
của thiên chức linh mục, nên luôn xác tín rằng : Linh mục là người không thể nào sa ngã bởi vì luôn được
Chúa yêu thương, nâng đỡ và chở che. Chúng tôi có cắt nghĩa thế nào chăng nữa, anh cũng không chấp
nhận. Chúng tôi có đưa ra những bằng chứng cụ thể, chẳng hạn linh mục này đã sa ngã, linh mục kia cởi
bỏ chiếc áo chùng thâm để trở về làm…phó giáo dân ngoài đời, anh cũng chẳng chịu nghe. Lập trường
của anh trước sau như một :

- Linh mục là người thánh, không thể nào phạm tội!!!

Là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với Thiên Chúa, nhưng đồng
thời cũng phải gắn bó với con người. Vừa nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải
nắm chặt lấy bàn tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của
con người. Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ dàng chút nào.

Vì thế, trong khi thi hành bổn phận, cụ xứ càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng phải siêu thoát
đối với đời bấy nhiêu, chứ không được quyến luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc đời chỉ là quán trọ trong
hành trình tiến về Nước Trời vì chỉ Nước Trời mới là quê hương đích thực mà thôi. Hay như người ta
thường bảo :

- Thân xác là bụi tro, danh vọng là mây khói và tiền bạc là phân bón.

Ý thức mình chỉ là một con người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện chính trị, những
nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự, thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song,
sức mạnh của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính Thiên Chúa, như thánh
Phaolô đã viết :

- Chính lúc tôi yếu lại là lúc tôi mạnh.


Những kẻ muốn tẩy trừ Giáo hội ra khỏi thế giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với biết bao nhiêu quyền lực và
sức mạnh, họ cũng vẫn không thể nào đè bẹp nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị sụp đổ.

Linh mục không phải chỉ là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con người vừa được
yêu lại vừa bị ghét.

Như trên, chúng ta đã thấy người giáo dân Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu thương và trọng
kính. Trong khi đó, linh mục cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức Kitô, cụ
xứ trở nên bia cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý khi thốt lên :
- Phải bị ghét bỏ mới chính là linh mục đích thực của Đức Kitô.

Linh mục bị những kẻ thù của Giáo hội hạ nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là chuyện…thường ngày
ở huyện. Thế nhưng, linh mục còn bị chính con cái mình, những kẻ được ngài dẫn dắt, quay lưng chống
lại và phản bội.

Bằng chứng là những đơn kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại Việt Nam hình
như mỗi ngày một gia tăng và nổi cộm. Thậm chí, có linh mục đã phải ngậm đắng nuốt cay mà than thở
cả tiếng, khi đời mình đã ngả bóng về chiều :

- Bạc như dân, bất nhân như lính.

Sau cùng, trong khi thi hành chức vụ, linh mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một loại mâu thuẫn
khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi.

Đúng thế, đôi khi cụ xứ cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn giản, vẫn cứ đạm
bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là của riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những
công việc đem lại lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách : có cũng như không.

Đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, cụ xứ cũng như linh mục phải có một trái tim rộng mở để chia sẻ và
cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt
khố đổ vách đến những người nghèo túng khố rách áo ôm.

Tình yêu của ngài phải là một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách. Tình yêu ấy
phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng lại không được phép đóng lại trên ai cả. Ngài chẳng
phải là của riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại
chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn trong
trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.

Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình : buổi chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui làm sao. Tiếp nối là giờ
sinh hoạt của giới thiếu nhi : những tiếng hát hồn nhiên và những nụ cười ngây thơ của lứa tuổi thiên
thần mới rộn rã làm sao…Nhưng rồi sau đó, mọi người ra về và cánh cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi
và âm thầm bước vào căn phòng nhỏ hẹp của mình. Có nói thì cũng chỉ nói với chính mình. Có nhìn thì
cũng chỉ nhìn hình bóng mình in trên tường vách. May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã cứu ngài một bàn
thua trông thấy, bằng không thì chỉ còn nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!!!

Để kết luận, gã xin ghi lại ý kiến sau đây của cha Chevrier. Ngài nói :
- Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.

Người ta ngạc nhiên bèn hỏi :


- Ngôi thánh đường nào vậy ?

Ngài nói tiếp :


- Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các
cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng
là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện. Chỉ có ngôi thánh đường
này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Sở dĩ như vậy vì đời sống đạo đức của người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh thiện của các linh
mục và các…cụ xứ!!!
Chụp mũ - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Ngày xửa ngày xưa, hồi còn bé tẹo bé teo, gã đã được thày giáo trường làng dạy cho biết :

- Thân thể con người ta được chia làm ba phần : đầu, mình và tay chân.
Tất cả ba phần này đều được bảo vệ kỹ càng để chống lại với những khắc nghiệt của thời tiết. Chẳng
hạn để bảo vệ cái đầu, người ta đã sáng chế ra biết bao nhiêu thứ ô dù, mũ mão. Chẳng hạn để bảo vệ
cái mình, người ta đã tung ra thị trường biết bao nhiêu thứ áo quần. Chẳng hạn để bảo vệ tay chân,
người ta đã bày bán biết bao nhiêu thứ giày dép, găng vớ…

Thế nhưng, người là một con vật có trí khôn, là một cây sậy biết suy tư. Chính nhờ những suy tư của trí
khôn mà con người không ngừng cải tiến và phát triển trên mọi lãnh vực, chẳng hạn từ chỗ ăn cho no
đến chỗ ăn cho ngon, từ chỗ mặc cho ấm đến chỗ mặc cho đẹp…Chính vì lẽ ấy mà các thứ mẫu mã thời
trang thi nhau chào đời như nấm mọc ào ào sau cơn mưa.

Hơn thế nữa, trên mỗi phần của thân thể lại có những bộ phận khác nhau và mỗi bộ phận cũng đều có
nhu cầu cần được bảo vệ và làm đẹp. Chẳng hạn trên cái đầu thì có tóc, tai, mắt, mũi, môi…
Về cái tóc, chúng ta thấy các thứ kiểu cọ từ đầu trọc, đầu húi cua ba phân đều đến đầu bù xù và các thứ
đầu quái đản khác. Nhất là đối với quí bà quí cô, thì các kiểu tóc, các màu tóc lại còn thiên biến vạn hóa
đến quỉ thần cũng không lường nổi.

Về cái tai, chúng tha thấy lủng lẳng các thứ vòng to vòng nhỏ, hình nọ hình kia, thậm chí đến cả cây
thập giá cũng đã được treo toòng teng lúc lắc trên những đôi tai mỹ miều và dễ thương. Đúng thực “cái
tai cái tóc là góc người”.

Ngày nay, đối với dân chơi, không phải chỉ đờn bà con gái mới xỏ, mà đờn ông con giai cũng xỏ. Không
phải chỉ xỏ lỗ tai, mà còn xỏ cả lỗ mũi, lỗ rốn cũng như xỏ cả cái lưỡi của mình nữa, mà đôi khi gã được
rùng mình chiêm ngưỡng trên phim ảnh.
Về cái mắt, chúng ta thấy nào là cạo hàng lông mày có từ lúc cha sinh mẹ đẻ để tô vẽ lên đó theo đúng
ý của mình, “lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”. Hay xâm lên đó để có hàng “lông mày vĩnh cửu”, từ
nay khỏi mất công mất giờ điểm trang, vì “thời giờ vốn dĩ là vàng bạc”. Còn lông mi ấy hả, nào là cấy
thêm cho nó dày đặc. Còn ví như không có tiền đi mỹ viện để cấy thêm, thì sẽ phải chịu khó đeo lông mi
giả, để mỗi khi đôi mắt chơm chớp, sẽ tăng thêm phần đơn sơ “con nai vàng ngơ ngác”.

Về cái môi, cái miệng, cái cằm…người ta cũng rất chịu khó thẻo bớt chỗ này, vá thêm chỗ kia để được
hoàn toàn như ý. Nguyên son tô môi mà thôi cũng có biết bao nhiêu thứ với biết bao nhiêu “tông” màu
khác nhau, từ tái nhợt như miếng thịt trâu ươn cho đến đỏ chói như máu gà trống…

Bàn về những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh ấy, chả biết đến bao giờ mới hết. Hôm nay gã chỉ xin nói về những
thứ được dùng để bảo vệ cho cái đầu mà thôi.
Tất cả những thứ được đội để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu đều được gọi là mũ hay nón. Tuy nhiên,
đâu là điểm phân biệt giữa mũ và nón, thì gã xin chịu, chưa thể đưa ra lời giải đáp thỏa đáng. Rất có thể
vì thói quen, người ta gọi cái này là mũ, còn cái kia là nón. Hay do thiết kế mẫu mã của nó, chẳng hạn
nón thì thường to hơn mũ.

Người Việt Nam chúng ta có một loại nón đặc biệt, đó là chiếc nón lá. Chiếc nón lá được trang điểm thêm
thành chiếc nón bài thơ cho các cô gái Huế và chiếc nón quai thao cho các cô gái Bắc Ninh hát hò quan
họ. Chiếc nón lá được các cô gái Việt Nam đội trên đầu, đi theo với chiếc áo dài hay áo bà ba thì quả là
tuyệt vời. Những lúc cần tỏ ra e ấp thẹn thùng thì chỉ cần lấy chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt là…
ăn tiền.

- Trời mưa thì mặc trời mưa,


Tôi không có nón, trời chừa tôi ra.
Tuy nhiên, có một loại nón gã rất thích, đó là chiếc nón sắt của mấy anh lính. Chiếc nón này thật đa
dụng. Có thể dùng làm ghế để ngồi, có thể dùng làm thùng để múc nước, có thể dùng làm nồi để nấu
cơm và nhất là có thể dùng làm cối để giã cua, vừa nhẹ lại vừa gọn. Đứa con nít bị mẹ bảo giã cua, giã
xong lại còn phải mang cối đi cọ rửa. Sức con nít làm sao có thể bưng nổi cái cối đá, không khéo nó rớt
vào chân thì thật…rách việc.

Trở lại với chủ đề chiếc mũ. Trải qua dòng thời gian chiếc mũ cũng được biến đổi tùy theo vật liệu, tùy
theo hình dáng và tùy theo chức vụ…
Chẳng hạn về vật liệu, chúng ta thấy mũ dạ là loại mũ làm bằng len để đội cho ấm khi mùa đông trở về,
mũ rơm là cái vòng bện bằng rơm có quấn vải trắng để con trai và cháu nội người chết đội mà chịu tang,
như ca dao đã diễn tả :

- Một mai bóng xế cội tùng,


Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
Chẳng hạn về hình dáng, chúng ta thấy mũ nồi hay mũ bê rê là loại mũ tròn giống như cái nồi úp lên
đầu, mũ trái bí là loại mũ có khía giống như trái bí, mũ lưỡi trai là loại mũ có vành giống như con sò, con
hến, con trai để che mắt cho bớt nắng, mũ chào mào là loại mũ giống như đầu con chim chào mào…

Chẳng hạn về chức vụ, chúng ta thấy mũ cử nhân hay mũ tiến sĩ là loại mũ hình vuông, có tua phủ
xuống, mà những người thi đỗ thường đội khi lãnh nhận văn bằng. Trong ngày tốt nghiệp, những cô cậu
hay ông bà cử nhân và tiến sĩ đều đi thuê áo mão để chụp cho mình những bức hình làm kỷ niệm lúc ra
trường với bè bạn và những người thân yêu. Đây quả thực là một dịp tốt để các bác phó nhòm…hốt bạc.

Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta thấy bên Phật giáo có mũ ni là loại mũ dành cho các vị sư sãi :
- Nào mũ ni, nào áo thâm,
Đi đâu chẳng đội, để ong châm.
Bên Công giáo có mũ gàu hay mũ cà cuống là loại mũ dành cho các giám mục khi cử hành thánh lễ “đại
trào”. Ngoài ra, ngày xưa còn có thêm mũ ba khía là loại mũ vuông, phía trên có ba cái khía, chẳng biết
có phải là để kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi hay không ? Mũ này vốn được các linh mục đội khi cử hành
thánh lễ.

Trong những năm gần đây tại Việt Nam, nhà nước đã qui định đòi buộc tất cả những người cưỡi xe máy,
phóng phom phom trên đường, phải đội mũ an toàn. Đây cũng là một dịp hốt bạc cho những tay chế tạo
mũ giả cũng như cho các tay lái buôn. Có những lúc chiếc mũ an toàn lên cơn sốt vì giá cả tăng vùn vụt.
Nhưng rồi ba bảy hai mươi mốt ngày, qui định trên lại chìm vào quên lãng, như hòn đá chìm xuống đáy
hồ. Ai đội thì cứ đội, ai không đội thì vẫn không đội. Công an cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ, mặc dù
dọc theo bên đường, không thiếu những tấm bảng ghi :

- Đoạn đường buộc phải đội mũ an toàn.


Vô phúc cho những ai không đội mũ an toàn vào những ngày nhà nước phát động chiến dịch, hay vào
những ngày anh công an cảnh sát buồn tình và ngứa tay muốn biên phạt mà chớ.
Trong ngôn ngữ hằng ngày, người ta cũng thường dùng chữ mão và chữ miện để chỉ về mũ.

Chẳng hạn mão bình thiên là loại mũ phía trên thẳng được nhà vua đội khi cúng tế, mão cánh chuồn là
loại mũ có hai tai dài như cánh con chuồn chuồn được các quan văn đội, mão tì lư là loại mũ dành cho
các vị hòa thượng.
Còn miện được dùng để chỉ chung các loại mũ được đội trong những lúc hành lễ, như gia miện, quan
miện, triều miện…Riêng hai chữ vương miện, gã không biết có phải là loại mũ của nhà vua hay không,
nhưng ngày nay nó là một món đồ trang sức được cài lên đầu cô hoa hậu trong những cuộc thi sắc đẹp.

Thực vậy, để đoạt được cái vương miện, các cô gái đã phải trải qua nhiều phen sất bất xang bang, lo
đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trong những cuộc thi sắc đẹp ngày nay trên cả và thế giới, người ta không
phải chỉ chú trọng đến ngoại hình, mà còn chú trọng cả đến kiến thức và cách ứng xử nữa. Thành thử,
mặc dù có điểm cao với trang phục áo tắm, hay có những vòng số một, số hai và số ba thật lý tưởng, thì
cũng chưa ăn chắc cho lắm, bởi vì còn phải trả lời những câu hỏi ấm ớ hội tề của ban giam khảo, để trắc
nghiệm về kiến thức và cách ứng xử.

Cũng trong phần thi trắc nghiệm này mà nhiều chuyện vừa buồn lại vừa cười khiến vãi cả nước mắt đã
xảy ra trong các cuộc thi sắc đẹp tại Việt Nam, bởi vì có những câu trả lời thật ngây ngô ngốc nghếc
không thể chấp nhận được của những người vốn đã đẹp.
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Trưng Trắc, Trưng Nhị là ai ?
Thí sinh đã trả lời :
- Đó là hai tài tử ăn khách của Hồng Kông !!!
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Nếu đạt danh hiệu hoa hậu, em sẽ làm gì ?

Đây là một câu hỏi mà hầu như các “lò luyện thi hoa hậu” nào cũng đều cài đặt sẵn cho những con gà
của mình. Vì thế, khi được hỏi, thì hầu như các thí sinh đều có một câu trả lời giống hệt nhau :
- Em sẽ dành một số tiền để giúp đỡ những nạn nhân chất độc màu da cam. Rồi sau đó, em sẽ hiến đời
mình để phục vụ những con người bất hạnh…

Và thực tế đã cho thấy nói vậy mà không phải vậy đâu, hay nói để mà nói, còn làm lại là chuyện khác. Ta
cứ nói vung nói vít để ăn điểm của ban giám khảo cái đã, rồi mọi sự sau đó sẽ…hạ hồi phân giải. Bởi vì
trong đời thường không thiếu gì những cô hoa hậu, những cô người mẫu lợi dụng sắc đẹp và tên tuổi của
mình để làm những việc não lòng như đi buôn lậu, hay đi làm…gái gọi !!!
Xét về lợi ích, như đã trình bày ở trên, chiếc mũ được dùng để bảo vệ cho cái đầu, nó giúp chúng ta che
nắng che mưa…Đồng thời còn được dùng để làm đẹp nữa, vì thế đã có biết bao nhiêu kiểu cọ và mẫu
mã xuất hiện, nhất là những thứ mũ được dành cho đờn bà con gái. Có chiếc mũ được hình thành như
một một bông hoa, có chiếc mũ được hình thành như một tổ quạ, có chiếc mũ được hình thành như một
cái đuôi con công…Thôi thì thiên hình vạn trạng làm sao kể ra cho xiết !!!

Ngoài ra, chúng ta còn có thể ghi nhận được những lợi ích khác nữa của chiếc mũ, tùy theo quan niệm
của từng dân tộc.
Chẳng hạn người Việt Nam chúng ta thường bảo :
- Mũ ni che tai.
Chiếc mũ ni dành cho các vị sư sãi, thường được đan bằng len, nếu kéo xuống có thể phủ kín cả đôi tai,
để rồi chẳng còn nghe thấy gì nữa. Cử chỉ này muốn nói lên thái độ “phớt tỉnh ăng lê”, an phận thủ thừa
trước những đổi thay và thăng trầm của cuộc sống. Ta chui vào cái vỏ ốc của ta. Ta ngủ yên trong tháp
ngà của ta :
- Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời lên xuống anh hỏi làm chi cho mệt.
Chảng hạn đối với người Pháp, trong một cuốn tự điển thành ngữ, gã đọc được hai câu xin ghi lại đây để
cùng suy nghĩ xem đúng hay sai.
Câu thứ nhất :
- Ngồi trên ngai và đội mũ, người ta sẽ tỏ lộ được nhiều tác phong của mình.

Theo ngu ý của gã thì câu này ý muốn nói lên rằng hoàn cảnh bên ngoài cũng giúp chúng ta thể hiện
được phần nào con người của mình.
Câu thứ hai :
- Người ta sẽ đi xa với chiếc mũ cầm trên tay hơn là với chiếc mũ đội trên đầu.
Cũng theo ngu ý của gã, thì với phép lịch sự, người ta sẽ chiếm được nhiều cảm tình của những người
chung quanh.
Chả hiểu có đúng như vậy không ?

Sau khi đã xét về lợi ích của chiếc mũ, bây giờ gã xin nói đến việc người ta đã dùng chiếc mũ như thế
nào ?
Vì chiếc mũ là một đồ dùng để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu, nên mỗi khi ra đường người ta vốn
thường đội mũ. Đây là một hành động tự ý. Do đó, người ta cũng có nhiều cách đội mũ.
Có người thích đội mũ thật ngay thật thẳng. Có người thích đội mũ lệch sang một bên. Và thậm chí có
người thích đội mũ ngược, đằng trước lộn ra đằng sau. Chẳng hạn như chiếc mũ lưỡi trai, bình thường
cái lưỡi trai ở phía trước để che bớt cho cặp mắt, nhưng bây giờ người ta lại thích đội ngược, nghĩa là cho
cái lưỡi trai về phía đằng sau để bảo vệ cái ót, cái gáy của mình. Đội ngược như vậy đôi khi cũng lợi,
nhất là khi cần phải cầm máy để chụp hình…
Vì chiếc mũ có liên quan tới địa vị và chức tước, nên người ta rất lấy làm vinh dự khi lãnh nhận nó cùng
với những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa. Chẳng hạn khi được bổ nhiệm làm quan, hẳn đương sự sẽ vô
cùng hãnh diện khi lãnh nhận “áo mão” vua ban. Chẳng hạn khi được tấn phong làm “vít vồ” tức là làm
giám mục, bậc đáng kính nom cũng oai phong lẫm liệt ra phết khi tiến lên lãnh nhận…”mũ gậy”.

Tuy nhiên có một hành động xem ra chẳng mấy ai ưa thích, đó là bị thiên hạ…chụp mũ. Vậy chụp mũ là
gì ?
Theo gã nghĩ, bị chụp mũ là bị bó buộc đội phải một chiếc mũ trên đầu, từ đó suy ra là bị gán cho một
nhãn hiệu, một tội trạng nào đó trước mặt bàn dân thiên hạ. Còn theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn
Đức, thì chụp mũ là tròng mũ lên đầu người ta, từ đó suy ra là vu khống, gán ghép cho người ta một
việc làm phi pháp tưởng tượng, với dụng ý làm hại người ta, khiến người ta, nếu không thân bại danh
liệt, thì cũng mất toi cái danh dự và uy tín vốn dĩ là những thí quí hiếm trên đời.
Nếu chịu khó “ngâm kíu” một tí, chúng ta sẽ thấy thói chụp mũ đã được thịnh hành từ một thời rất xa
xưa.
Chẳng hạn như tổ phụ Giuse của dân Do Thái, sau khi bị bán sang Ai Cập, đã phải đi ở đợ cho nhà quan
Putiphar. Nhân lúc quan ông đi vắng, quan bà bèn dụ dỗ tổ phụ ăn ở với mình, nhưng tổ phụ đã thẳng
thừng từ chối. Bực bội và tức tối, quan bà bèn chụp cho tổ phụ chiếc mũ cưỡng bức và tổ phụ liền bị
tống ngục.

Chẳng hạn như bà Suzana bị hai lão già giở trò hãm hiếp, nhưng bà một mực cự tuyệt. Thấy ý đồ đen tối
của mình không thành, hai lão già bèn chụp cho bà chiếc mũ ngoại tình để rồi kết án ném đá bà cho
chết. Nhưng may thay, bà đã được cậu bé Daniel cứu thoát.
Và nhất là Đức Kitô, có lẽ Ngài là người đã bị chụp mũ nhiều nhất. Nào là chiếc mũ lộng ngôn phạm
thượng dám xưng mình bằng Thiên Chúa. Nào là chiếc mũ phá hoại lề thói tổ tiên vì không tuân giữ ngày
nghỉ lễ. Nào là chiếc mũ phản loạn vì tự xưng là vua và xúi dân đừng nộp thuế…Cuối cùng Ngài đã bị
đóng đinh vào thập giá như một tử tội.

Chụp mũ cho cá nhân đã đành, nhiều khi người ta còn chụp mũ cho cả một tập thể, cả một tổ chức. Và
Giáo hội Công giáo đã trở thành nạn nhân số một trong lãnh vực này.
Thực vậy, suốt ba thế kỷ đầu, Giáo hội đã bị chụp cho chiếc mũ là nguyên nhân gây ra những tai ương
hoạn nạn để rồi các vua chúa giáng xuống những chiếu chỉ bắt bớ và cấm cách. Bạo vương Nêrôn, chẳng
hiểu vì muốn chỉnh trang lại thành phố Rôma hay vì muốn lấy hứng làm thơ, bèn ngầm sai người phóng
hỏa đốt cháy kinh thành, rồi chụp cho người công giáo chiếc mũ là thủ phạm rồi ra tay tàn sát đẫm máu.

Tại Việt Nam cũng thế, các ông vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã chụp cho
người công giáo chiếc mũ theo tây, chiếc mũ phản quốc, chiếc mũ phá hoại truyền thống…rồi ra lệnh
truy nã.
Trong phạm vi cá nhân, hằng ngày chúng ta cũng đã được nghe biết hay chứng kiến bao nhiêu trường
hợp đau buồn đã xảy ra. Cách đây không lâu, một nữ sinh trẻ đẹp đã nhảy xuống sông tự tử, làm xôn
xao dư luận trong nước. Lý do thật đơn giản. Số là có một chàng thanh niên hàng xóm thầm yêu trộm
nhớ cô ta, nhưng đã bị cô ta lờ tít và chối từ. Giận cá chém thớt. Không được ăn thì đạp đổ. Anh chàng
này đã tung tin, phao đồn rằng cô ta là đã từng ăn cơm trước kẻng, đã từng quan hệ trên mức tình cảm
cho phép với anh ta. Và thế là cô nữ sinh trẻ đẹp liền bị mọi người nhìn bằng cặp mắt khinh bỉ. Chịu
không nổi sự khinh bỉ ấy, cô ta đã mượn dòng nước để minh chứng cho cõi lòng trong trắng của mình.

Xem ra nạn chụp mũ ngày càng gia tăng với cấp số nhân. Gã còn nhớ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
hình như nhà nước Việt Nam rất khoái dùng biện pháp chụp mũ để thực hiện những mưu toan của mình.
Thực vậy, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của chế độ cũ đều bị chụp cho một trong hai chiếc mũ, nếu
không đồi trụy thì cũng phản động, để rồi cấm tiệt việc lưu hành các tác phẩm cũng như cấm tiệt mọi
hoạt động của giới này.

Muốn tịch thu một cơ sở nào đó, thì chỉ cần nhờ kẻ lạ dấu vào đó một vài khẩu súng, rồi ra lệnh lục soát
và thế là cơ sở ấy lập tức bị đi đoong. Muốt bắt một người nào đó, thì chỉ cần ném vào nhà người ấy một
vài tờ truyền đơn rồi chụp cho chiếc mũ phản động, thế là người ấy bèn tiêu tùng, đi đời nhà ma.
Có một hồi, người ta bảo Giáo Hoàng Học Viện tại Đalat do các cha dòng Tên điều khiển là cơ sở đào tạo
nhân viên CIA, còn cất giấu nhiều vũ khí, làm cho những người sống trong đó cứ phập phồng lo âu.
Bản thân gã cũng vậy. Vì cắm dùi tại một vùng sâu vùng xa, thư từ thường bị thất lạc, nên gã đã phải
mượn địa chỉ của một người bạn trên tỉnh. Chẳng hiểu sao mấy ông công an biết được, bèn mời gã tới
làm việc. Họ nói :

- Chúng tôi biết anh là xịa được gài lại để quấy phá.
- Thưa cán bộ, tôi chẳng hiểu xịa là gì thì sao làm xịa được.
- Nếu anh không phải là xịa thì tại sao anh lại có một hòm thư bí mật trên tỉnh để liên hệ với những
người nước ngoài.
- Thưa cán bộ, nếu tôi là xịa, thì ngu gì tôi liên hệ với người nước ngoài bằng thư từ qua bưu điện, vì
chắc chắn thế nào cũng bị kiểm soát. Như vậy chẳng khác chi thưa ông tôi ở bụi này. Hơn nữa, bọn xịa
chẳng nhẽ lại không trang bị cho nhân viên của mình những phương tiện hiện đại để liên hệ một cách
mau chóng, chứ ngồi đó mà chờ bưu điện chuyển theo vận tốc rùa bò thì tới bao giờ mới nhận được và
còn đâu tính cách nóng sốt của nó nữa.
Thế là tịt ngòi.

Và hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin qua việc nối mạng “internet”, người ta lại càng chịu khó chụp
mũ cho nhau một cách ồn ào. Thực vậy, nếu nói theo ngôn ngữ của Phúc Âm, thì bây giờ không còn là
thời buổi người ta lấm lét xì xầm với nhau dưới gậm giường nữa, mà là thời buổi người ta công bố trên
mái nhà. Không những chỉ công bố trên mái nhà mà còn người ta loan truyền cho cả và thiên hạ cùng
biết.
Chỉ cần ngồi nhà, bấm“con-néc” một phát, tức khắc người ta có thể xem mọi hình ảnh và đọc mọi thứ, từ
tin tức đến những chuyện giải buồn…Nhiều khi lượng thông tin ào ạt đổ xuống, đến tối tăm mắt mũi,
không kịp thở để mà coi nữa.

Đôi lúc, gã cũng lang thang trên mạng, hay nhận được những cái “meo”, trong đó người ta chửi nhau
búa xua và chụp cho nhau đủ các thứ mũ. Qua những tài liệu ê hề ấy, gã ghi nhận một vài điều như
sau :
Điều thứ nhất, những kẻ thích chửi bới thường thường tự phong cho mình là thông minh uyên bác vào
bậc nhất trong thiên hạ. Thế nhưng, sự thông minh uyên bác của họ cũng chỉ là sự thông minh uyên bác
của một con ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung mà thôi.

Điều thứ hai, một khi tự cảm thấy mình thông minh uyên bác, họ liền cho rằng mọi ý nghĩ của mình đều
là “sáng kiến” còn những ý nghĩ của người khác chỉ là “tối kiến”. Mình luôn luôn đúng, còn người khác
luôn luôn sai. Vì thế, mặc sức mà chửi bới vung vít, như vung gươm giữa cảnh nhà hoang vườn trống.

Điều thứ ba, đối với những kẻ cùng một lập trường, họ không ngần ngại bốc thơm và nâng lên tới tận
trời xanh, còn đối với những người không cùng một đường lối, họ sẵn sàng bốc thối và dìm xuống tận
đất đen, bằng cách chụp mũ, nào là thân cộng, nào là phản bội quê hương, vân vân và vân vân…

Điều thứ bốn, người ta thường dùng đao to búa lớn mà phang nhau. Ngày xưa, gã thường rất dị ứng khi
nghe đài Hà Nội gọi thằng Ngụy, thằng Mỹ, thằng Thiệu, thằng Nixon, thằng nọ và thằng kia…Bây giờ,
họ cũng dùng thứ ngôn ngữ hàng cá hàng thịt, lái trâu lái bò mà chửi nhau như vậy. Theo gã nghĩ, dù
chửi nhau thì cũng phải chửi cho có…văn hóa, bởi vì người Việt Nam mình vốn thường tự hào là có
những bốn ngàn văn hiến kia mờ.

Sau cùng điều thứ năm, một khi đã không ưa nhau, họ sẵn sàng vạch áo cho người xem lưng, bới móc
nhau từ chuyện chính chị chính em đến chuyện đời tư, chẳng kiêng nể gì sốt. Mà chuyện đời tư với
những mảnh tình lem nhem mới câu khách và hấp dẫn người đọc. Nếu không có, người ta cũng dư sức
tưởng tượng mà phệu ra…cho thêm phần giật gân và lâm ly bi đát.

Thậm chí, gã có anh bạn tính làm sui với người kia, nhưng chuyện không thành. Thế là anh bạn ấy bèn
nhảy vào trang “web” mà hạch sách, mắng mỏ cho người kia một trận te tua.
Cái gì, chứ bắn lên mạng, tung lên “net”…bây giờ quả là việc dễ dàng như trở bàn tay, mà hậu quả lại to
lớn khôn lường vì bàn dân thiên hạ đều biết đến.

Viết tới đây bỗng gã thở dài thườn thượt. Nếu là kẻ bi quan, gã liền sắm cho mình một chiếc mũ ni che
khuất hai lỗ tai và hai con mắt, để trở thành người không không thấy và không không nghe, như điệp
viên không không bảy vậy.

Còn nếu là người yêu đời, gã sẽ tặc lưỡi mà lẩm bẩm :


- Kệ bà nó. Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chửi ta mà chửi phải ấy là thày ta. Chiếc mũ đâu
có làm nên ông cử hay ông tú.
tự ái - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Ngày nay, mỗi khi nói tới hai chữ “thất tình”, gã liền nghĩ ngay đến khuôn mặt buồn so của một anh
chàng đã đánh mất tình yêu, không còn được thương nữa, hay nói một cách khác anh chàng ấy đang
“đứng ngẩn trông vời” tình yêu chấp cánh bay đi mất tiêu…Thành thử cứ phải kéo lê những bước chân
âm thầm và thinh lặng gậm nhấm nỗi cô đơn héo hắt của mình.

Thế nhưng, ngày xưa hai chữ “thất tình” còn có một ý nghĩa khác nữa, đó là bảy giai điệu tình cảm luôn
rung lên phừng phực trong “lái tim” con người, hay bảy thứ tình cảm luôn chiếm ngự cõi lòng chúng ta.
Bảy giai điệu ấy là : hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Có nghĩa là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét và muốn.
Bảy thứ tình cảm này luôn tả đột hữu xung và làm cho chúng ta nhiều cơn xính vính, Vì thế Nguyễn Gia
Thiều trong “Cung Oán Ngâm Khúc” đã muốn tẩy trừ tận gốc rễ :

- Mối thất tình quyết dứt cho xong.


Trong bảy thứ tình cảm này, theo thiển ý của gã, thì yêu là hoạt động quan trọng nhất, chi phối toàn bộ
cuộc sống của chúng ta. Chả thế mà các cụ ta đã từng nói :
- Cái tình là cái chi chi,
Dù chi chi, cũng chi chi với tình.
- Tương tư không biết nói làm sao,
Muốn vẽ mà chơi, vẽ thế nào,
Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh lúc chiêm bao…

Như vậy, cái tình lúc nào nó cũng canh cánh bên lòng và chữ yêu lúc nào cũng bàng bạc ở mọi nơi và
trong mọi lúc, có khác nhau là khác ở nồng độ đậm nhạt mà thôi.

Vậy phải yêu những gì ?


Gã xin thưa đối tượng của tình yêu quả thực là hầm bà lằng, thôi thì thượng vàng hạ cám, đủ mọi thứ,
chẳng thiếu thứ chi. Trước hết là yêu mình, tiếp đến là yêu người, rồi tới yêu đời và những thứ lỉnh kỉnh
khác nữa, như yêu tiền, yêu quyền, vân vân và vân vân.

Hôm nay, gã chỉ xin bàn đến cái phạm trù thứ nhất, đó là yêu mình. Nếu diễn tả hành động yêu mình
bằng chữ nho, thì phải dùng hai chữ…“tự ái”.

Theo “Hán Việt Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc Hùng, thì tự ái có nghĩa là lòng yêu chính mình, cho mình
là hay là tốt. Còn theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì tự ái có nghĩa là thương mình, quá nghĩ
về mình rồi sanh hờn mát mỗi khi bị đụng chạm đến. Trong thực tế, người bình dân thường hiểu tự ái là
đùng đùng nổi giận khi bị…chạm nọc, chứ không phải chỉ là hờn mát mà thôi đâu.
Nếu phân tích kỹ lưỡng hơn, gã thấy yêu mình chính là một bản năng thông thường mà Thượng đế đã
phú ban cho con người ta. Ai mà lại chẳng yêu mình. Nào có ai nỡ ghét mình bao giờ đâu. Họa chăng chỉ
có những vị thánh sống, đường nhân đức cao vòi vọi, thì mới cảm thấy mình thật vô duyên tệ, để rồi…
ghét mình mà thôi. Còn hầu như tất tật bàn dân thiên hạ đều…yêu mình tuốt luốt hết.
Một khi đã yêu mình, thì đều muốn vơ vét về cho mình những cái hay, những cái tốt, những cái lợi…Và
hễ kẻ nào đụng chạm đến, thì lập tức lòng tự ái hay thói yêu mình nổi lên đùng đùng, cùng với cơn giận
phừng phừng, kèm theo những phản ứng khó mà lường nổi, cốt ý dạy cho những kẻ “hỗn láo” kia một
bài học. Vì tự ái, vì yêu mình, nên chúng ta không thể bỏ qua một sự khinh bỉ nào của kẻ khác. Và hơn
thế nữa, khi lòng tự ái đã bị sỉ nhục, thì người ta khó có thể tha thứ.
Lòng tự ái và thói yêu mình theo chúng ta như hình với bóng và cùng đi với chúng ta trong suốt cả cuộc
đời, như danh ngôn đông tây đã xác quyết :

“Càng thêm tuổi, các đam mê càng lụi tàn, nhưng lòng tự ái thì khác, nó sẽ chẳng bao giờ chết.”
“Người ta chỉ có thể làm tổn thương lòng tự ái, chứ không giết chết được nó.”
“Lòng tự ái là một con thú kỳ dị, nó có thể ngủ yên trong cơ thể của những kẻ tàn bạo nhất, nhưng một
khi đã thức tỉnh dậy, nó sẽ đả thương cho đến chết chỉ vì một trầy trụa nho nhỏ.”

Tuy nhiên, ở một mức độ trung bình và vừa phải thì tự ái chính là ổ khóa của trái tim, đóng lại và không
cho phép mình làm những điều xằng bậy, bởi vì chính mình cũng phải tự trọng, nghĩa là phải biết tôn
trọng chính mình, cũng như phải biết bảo vệ danh dự của mình. Trong khi đó, sự nịnh bợ là như một
chiếc chìa để mở tung ổ khóa này và sự tâng bốc là như một thứ thuốc nổ phá tan rào cản này.

Thực vậy, nếu không còn tự ái, người ta sẽ trở nên một thứ mặt mo, mặt thớt hay một thứ mặt dày mày
dạn, trơ trơ như đá, không còn nhạy cảm trước những lời phê bình hay góp ý, để rồi mặc sức lặn ngụp
trong bùn nhơ tội lỗi, sẵn sàng làm những hành động tồi tệ nhất, mà chẳng cảm thấy một chút hổ thẹn
hay áy náy gì sốt.

Thế nhưng, để được gọi là một nhân đức, bao giờ cũng phải ở vào cái thế trung dung, bởi vì thái quá thì
bất cập, phàm cái gì quá đà, đều gây nên những bất ổn.
Biết tự trọng và bảo vệ danh dự của mình, đó là điều tốt. Tuy nhiên, vì “tự ái hão” mà bảo vệ cái “danh
dự ảo”, cái danh dự mình tưởng là có, nhưng thực sự lại chẳng có, hay vì “tự ái vặt”, bởi những lý do nhỏ
mọn không đâu, cũng đùng đùng nổi giận, la hét, quát tháo, đánh đập người ta, thì rất rất cần phải xét
lại.

Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn mặc
quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm, tự dưng vào tận nhà mắng mỏ, rồi nhổ vào
mặt.
Chàng ta giật mình sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, nhưng chàng ta vẫn tức, rồi suốt đêm lấy
làm bực dọc khó chịu lắm.

Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng :
- Bác ơi ! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người thích dùng sức mạnh, tới nay đã sáu mươi tuổi, chưa hề bị
đứa nào làm cho mất mặt bao giờ. Thế mà đêm hôm qua phải một đứa nó làm nhục. Tôi định tìm kỳ
được đứa ấy để báo thù mới thỏa. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, còn nếu không tìm thấy thì tôi chết mất.

Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba
ngày mà không thấy đâu, chàng ta về nhà uất lên mà chết.

Bình luận về câu chuyện trên, tác giả viết như sau :
“Xem chuyện này không cho là phải được, vì tức ai, chứ tức một người gặp trong lúc chiêm bao mơ ngủ,
là tức hão huyền, tức cái không đáng tức. Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một điều thật rất đáng
khâm phục là chính thâm ý câu chuyện muốn nâng cao cái lòng biết nhục, biết lấy liêm sỉ làm trọng. Ôi !
trong giấc ngủ mơ màng, bị người làm nhục, còn không chịu được, thì trong khi thật tỉnh táo rõ ràng mà
bị làm nhục, thì đáng như thế nào ? Thế mà lạ thay, ở đời có lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi, hoặc quen
thói tôi đòi, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết mọi nỗi nhục nhằn đè nén, không bút nào tả cho xiết được mà
vẫn hớn hở như không. Đối với những hạng không biết nhục, Tân Ti Tụ thực đáng là một cái gương soi
sáng sâu vào đến tâm não họ vậy.”

Đúng như một kinh nghiệm sống…sượng mà người đời thường diễn tả :
- Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt,
Len lỏi, lợi lộc, lại lên lương.
Hay :
- Lươn lẹo, luồn lách, lắm lợi lộc.
Nhưng hơn thế nữa, vì tự ái, cho dù là chính đáng, để rồi từ đó có những hành động, có những phản
ứng quá mạnh, làm tổn thương và gây thiệt hại cho kẻ “lỡ” xúc phạm đến chúng ta, thì e rằng chúng ta
cần phải “xì tốp” lại, kẻo mà :
- Chửa đánh được người, mặt đỏ như vang,
Đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.
- Chửa đánh được người, mày xanh, mắt tía,
Đánh được người rồi, hồn vía lên mây.
Qua những hành vi bạo động kiểu này, ắt hẳn thiên hạ sẽ tôn phong chúng ta lên hạng anh hùng, nhưng
lại là một thứ anh hùng…dổm, anh hùng…rơm :
- Anh hùng gì ? Anh hùng rơm,
Tôi cho nắm lửa, hết cơn anh hùng.
Chúng ta đã xác quyết :
- Phàm đã là người thì ai cũng có tự ái và lòng tự ái ấy luôn theo chúng ta trong suốt cả cuộc đời.
Hơn thế nữa, hình như càng làm lớn, tự ái lại càng to. Nếu không biết kiềm chế, thì với quyền lực trong
tay, họ sẽ có những hành động tàn bạo đến quỷ thần cũng không lường nổi.

Hán Vũ Đế ngày kia sai đại tướng Lý Lăng đem quân đi đánh Hung Nô. Trong thời gian đầu, Lý Lăng
thắng lớn, tin chiến thắng báo về triều đình, Hán Vũ Đế rất hài lòng. Các quan đại thần đua nhau ca tụng
Vũ Đế là minh quân, biết chọn tướng tài, khen Lý Lăng là anh hùng.
Thế rồi Lý Lăng tiến quá sâu vào nội địa Hung Nô, bị quân Hung Nô bao vây. Vũ Đế sai cận thần Lý
Quảng Lợi đem binh vào đất Hung Nô tiếp viện cho Lý Lăng. Nhưng Lý Quảng Lợi bất tài, khiếp nhược, bị
quân Hung Nô đánh tan tành, đành phải rút về. Lý Lăng bị bao vây cho đến lúc lương tận, hết cả tên
bắn, phải đầu hàng Hung Nô.
Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô về tới triều đình. Vũ Đế nổi giận. Các quan đại thần chê Lý Lăng bất
trung, kết Lý Lăng vào tội phản quốc. Riêng có quan thái sử Tư Mã Thiên, trước mặt Hán Vũ Đế, đã lên
tiêng bênh vực Lý Lăng. Tư Mã Thiên nói :
- Đại tướng Lý Lăng không bất tài, không bất trung và cũng không có tội. Lý Lăng sở dĩ phải đầu hàng vì
lương hết, võ khí thiếu và quân tiếp viện đáng lý phải đến đã không đến. Lý Lăng chỉ còn có năm ngàn
quân, nhưng đã anh dũng đánh trận cuối cùng giết cả năm mươi ngàn quân Hung Nô. Như vậy, xét ra Lý
Lăng vẫn có công chứ không có tội…

Lời biện hộ cho Lý Lăng của tư Mã Thiên thật khẳng khái và công bình, nhưng Hán Vũ Đế cho rằng Tư
Mã Thiên có ý chê trách mình sai lầm trong việc dùng Lý Quảng Lời cầm quân đi tiếp viện. Bị chạm tự ái,
Vũ Đế bèn nổi giận, ghép Tư Mã Thiên vào tội khi quân,ra lệnh tống ngục và sau đó bắt Tư Mã thiên chịu
cái tội tàn tệ nhất thời đó đối với những người trí thức, đó là tội “hủ hình”, tức là tội bị…thiến.
Năm ấy Tư Mã Thiên mới khoảng bốn mươi tuổi. Bị hoạn, ông quyết định tự tử, nhưng sau đó đã nghĩ lại
:
- Mình có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc, mình chẳng là cái thớ gì hết trong xã hội này, mạng sống
của mình có mất đi cũng chỉ như “chín con trâu bị mất một sợi lông” mà thôi.
Rồi ông nhủ thầm :
- Mình chết thực là vô ích, chi bằng cố sống những năm cuối cùng của cuộc đời mà làm một công trình
để lại cho hậu thế.
Nghĩ như thế, Tư Mã thiên bỏ ý định tự vận, ông phấn phát tinh thần và dẹp hết buồn rầu, tủi hận sang
một bên để chuyên tâm vào việc biên soạn bộ Sử Ký. Ông hoàn thành bộ Sử vĩ đại này trước khi chết. Bộ
Sử của ông hiện nay được gọi là Sử Ký Tư Mã Thiên, bộ Sử vĩ đại nhất, giá trị nhất của Trung Hoa mà
cho tới nay vẫn chưa có bộ Sử mới nào hơn được.

Không phải chỉ những vị tai to mặt lớn, mà nhiều khi cả một dân tộc cũng dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng
xoáy của lòng tự ái.
Thực vậy, trong những năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến những cuộc biểu tình của Trung Quốc, của
Hàn Quốc nhằm phản đối con cháu đất Phù Tang vì những lệch lạc về lịch sử được ghi lại trong sách giáo
khoa, cũng như vì những hành động bạo tàn mà những người lính Nhật Bản đã làm trong cuộc thế chiến
lần thứ hai. Với niềm tự ái dân tộc, họ đã đòi Nhật Bản phải chính thức xin lỗi và bồi thường.

Và gần đây hơn, vì một câu nói hớ hênh của một ca sĩ nào đó, đại khái cho rằng khu đền Angkor-Vat là
do người Thái Lan xây và thuộc về người Thái Lan. Thế là dân “Cam bốt” nổi giận đùng đùng, đã xuống
đường, nổi lửa đốt tòa đại sứ Thái Lan tại Nam Vang và cách đây không lâu, lại còn định đóng cửa biên
giới nữa, khiến cho mối bang giao giữa hai quốc gia trở nên căng thẳng và ngột ngạt.

Nhưng những va chạm tự ái thường xảy ra hơn hết là trong mối liên hệ hằng ngày, chẳng hạn như giữa
bè bạn với nhau. Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình :
Mấy tên bợm nhậu ngồi lai rai với nhau trong một bàn tiệc. Khi rượu đã thấm, thì sự phấn khởi bèn nở rộ
trên từng khuôn mặt đỏ gay. Họ gặp ai cũng kết làm bạn để chén thù chén tạc và nhìn bất cứ cái gì cũng
thấy là đẹp. Rồi người này nâng cốc mời người kia một ly.
Rủi thay, người kia hôm ấy “long thể bất an”, nên đã từ chối. Và thế là bị chạm nọc, người này cho rằng
nó khinh mình, nó coi mình chẳng có tí “gờ ram” nào cả, bèn hất cả ly rượu vào cái tên dám hỗn láo, đã
coi thường mình. Không chừng người này còn lật đổ cả bàn ghế, hất tung cả chén bát và nện cho người
kia một trận rách cằm, xẻ tai và phun máu đầu, với dụng ý dạy cho người kia một bài học để biết được
rằng thế nào là…lễ độ.

Nhất là trong phạm vi đời sống gia đình, những va chạm ấy thường xảy ra như cơm bữa giữa vợ chồng
với nhau. Đúng vậy, đối đấu với thực tế, người ta thấy “đời không như là mơ”. Và hơn nữa, “có ở trong
chăn mới biết chăn có rận”, sống gần nhau, người ta mới khám phá ra những khuyết điểm của nhau.
Chính những khuyết điểm này đã châm ngòi cho những bất đồng bùng nổ.

Gã xin mượn tạm những lượm lặt của tác giả Ánh Ngọc trong một bài viết mang tựa đề “Thách thức”,
được đăng trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật”, đại khái như sau :
Anh dẫn xe ra khỏi cửa rồi mà chị vẫn còn chạy theo níu áo : Nè, có “ngon” thì đánh tui đi ! Đánh đi !
Chớ đừng có nói rồi không dám làm ! Và thế là “bốp ! Bốp !...Chị bị hai bạt tai in dấu trên gò má một
cách…ngon ơ ! Trong khi anh đã cố nhịn bằng cách lấy xe đi khỏi nhà để dằn cơn nóng giận trong một
trận cãi vã. Trước khi đi anh nói thòng một câu cho đỡ quê : “Cô mà nói nữa là coi chừng ăn đòn !”. Bị
chạm tự ái vì câu hăm dọa ấy, chị đã chạy theo và thách thức, đẩy anh vào cái thế phải “thượng cẳng
chân hạ cẳng tay” với vợ mình.

Sự thực thì nhiều ông chồng đánh vợ chỉ vì bất đắc dĩ mà thôi, chứ họ cũng ý thức : “Mình là đàn ông, có
sức khỏe, giỏi thì đánh với mấy tay ngang cơ ! Chứ còn đánh đàn bà chân yếu tay mềm thì hèn lắm…Vợ
chồng nào mà chẳng có chuyện cãi nhau. Tức quá thì mình dọa cho mấy bả ngán. Ai dè mấy bả thách lại
mình và còn nhấn mạnh “nói mà không làm là kẻ…tiểu nhân !”. Thế là vì tự ái đầy mình, nên chồng mới
quyết giữ thể diện bằng cách chứng tỏ “quân tử nhất ngôn”. Vậy là nhiều bà bị ăn đòn lãng xẹt !

Có khi vừa bị nện cho một trận tơi bời khói lửa, lại còn bị “tiền mất tật mang” như câu chuyện này : Anh
là người hay uống rượu và mỗi lần say lại có tật chửi đổng. Mỗi lần anh chửi, thì chị lại bảo : Ổng hổng
chửi tui thì chửi ai. Hai người cứ lời qua tiếng lại, nên chuyện nhỏ hóa chuyện to. Anh đòi chị đưa tiền đi
uống rượu tiếp nên dọa : Không đưa thì chết với tao. Nghe vậy chị bèn hét lên : Dám làm gì thì làm đi.
Anh xô mạnh chị ngã và bị trặc tay, phải bó thuốc cả tháng. Tức quá, chị thảy hết số tiền vừa bán bắp
hơn ba triệu cho anh và nói : có ngon thì đi mà nhậu hết. Anh nghe vợ thách, bèn ôm tiền đi tuốt. Hai
ngày sau mới về, trong túi không còn một đồng.

Không phải chỉ có những ông chồng, mà ngay cả những bà vợ, khi bị chạm tự ái, thì cơn giận cũng nổi
lên đùng đùng.
Liên tiếp hai tuần rồi, ngày nào anh cũng phải ghé quán đầu ngõ để ăn cơm bụi, bởi vì chị đang hạ quyết
tâm thực hiện đúng lời “thách lẫy” của anh, khi anh chị cãi nhau tuần trước, chỉ vì chị lỡ nấu cháy món
bao tử phá lấu, là món ruột của anh : Làm đàn bà có bi nhiêu chuyện đó mà làm hổng xong nữa thì còn
làm cái giống gì ? Dẹp luôn cái bếp này, đi ăn cơm tiệm luôn. Chị kể : Hở ra là biểu dẹp bà đi ! Vứt hết đi
! Còn không thì bà đi đâu cho khuất mắt tui, hỏi ai mà không tự ái ? Bị ổng nói nhiều lần rồi, nay tôi mới
làm theo cho…biết thân. Biết thân ai không thấy, chỉ thấy tháng đó cả nhà bị thâm thủng ngân sách trầm
trọng vì toàn đi…ăn cơm tiệm.

Nhưng “lớn gan” hơn phải là câu chuyện sau : giận chồng không cho đi coi cải lương, cãi nhau một hồi
anh bèn thách : Có đi thì coi thằng kép hát nào mà theo nó luôn…Chị đi luôn thiệt, nhưng không phải
theo kép hát, mà là đến ở nhà thằng em, mua vé cải lương coi liền nửa tháng cho bõ ghét ! Đáng lẽ chị
cũng chưa chịu “hồi cung”, nhưng vì thằng con trai lớn qua kiếm chị và “mật báo” : Ở nhà, ba đem xe
đạp, tivi đi bán rồi. Chị mới hốt hoảng trở về.

Nếu cứ kể ra như thế, thì không biết đến thuở nào mới hết. Để kết thúc, gã xin đưa ra mấy việc cần làm
ngay để chữa trị cái chứng tự ái hão, tự ái vặt, như đã trình bày ở trên.
Việc thứ nhất đó là hãy tự biết mình.
Người Tây thì khuyên :
- Connais-toi, toi-même. Này bạn, bạn hãy biết chính mình bạn.
Còn người Tàu thì nói :
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.

Tại một thung lũng hoang vu, có chú chim cú. Cú ta ngày thì ru rú trong hang, đêm đến mới có thể bay
đi kiếm ăn. Sở dĩ cú làm thế vì mắt cú quáng gà, chỉ có thể nhìn thấy ban đêm. Ngày kia, cú thầm nghĩ :
- Quái lạ, tại sao ta cũng là loại chim quí hiếm, diện mạo ta oai hùng, mỗi lần ta xuất hiện, muông thú
đều chạy trốn, tiếng ta kêu rùng rợn trong đêm. Thế mà ta thua loài phượng hoàng, cái anh chàng trông
dễ ghét nhưng lại có thể bay cao tận mây xanh, hiên ngang lượn cánh dưới ánh mặt trời, làm như thể
hắn là vua loài chim vậy.

Rồi cú tự nhủ :
- Được rồi, ngày mai khi hừng đông, ta sẽ bay khỏi hang sâu, tung mình vút tận mây xanh, cho phượng
hoàng khiếp vía, muông chim nể vì.
Hôm sau, khi mặt trời lên cao, cú ta vận sức bay ra, bay lên cao, cao mãi…Nhưng bỗng cú chạm phải vật
gì cứng. Cú lóa mắt, không còn nhìn thấy gì. Rồi rầm một tiếng, cú lao vào thành núi và rớt xuống tan
xương.
Việc thứ hai, đó là khi bị chạm tự ái và cơn giận bốc lên, thì hãy án binh bất động, hoãn binh chi kế,
đừng vội có bất cứ hành động nào sốt, vì giận quá thì mất khôn.

Nhà hiền triết Atenodoro đã khuyên vua Augustô, vốn là người có tính dễ nóng mỗi khi bị xúc phạm, như
sau :
- Khi vua cảm thấy mình tức giận, hãy nhẩm đọc hai mươi bốn chữ cái.
Nhà vua áp dụng lời khuyên này và tránh đi được những hành động đáng tiếc.
Một cha xứ già đã nhắc nhở các đôi tân hôn như sau :
- Khi các con sắp sửa cãi vã hoặc gây gổ với nhau, các con hãy nhủ thầm : để sáng mai rồi hãy tính. Và
sáng hôm sau, các con sẽ thấy việc hôm qua thật nhỏ nhoi, chẳng đáng gì.

Có một cặp vợ chồng già, thường xuyên cãi vã với nhau. Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý :
- Vị ẩn sĩ sống trên núi chế biến được một thứ thuốc rất linh, giúp cho nhiều gia đình được êm ấm.
Bà vợ nghe lời người hàng xóm, lên núi tìm vị ẩn sĩ. Sau khi nghe trình bày, vị ẩn sĩ bèn trao cho bà một
chai thuốc khá to và nói :
- Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần uống một ngụm,
ngậm trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi
mọi chuyện sẽ được ổn thỏa.

Bà vừa về tới nhà, thì ông liền quát tháo. Nghe vậy, bà liền hớp một ngụm thuốc, giữ trong miệng, đúng
như lời căn dặn của vị ẩn sĩ. Thấy vợ không đáp lời, một lúc sau ông cũng thinh lặng. Bà vợ hết sức vui
mừng :
- Đúng là một loại thuốc gia truyền. Linh thật…
Và cứ thế, cứ thế…Từ đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của thời còn trẻ.
Thứ thuốc gia truyền ấy, chẳng có gì khác hơn là nước lã mà thôi.

Đừng tự ái hão và cũng đừng nóng giận, nhất là đừng vội có những hành động trả đũa rước những lời
bình phẩm có tính cách xúc phạm, bởi vì ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê
phải, ấy là thày ta vậy.
nghề nghiệp - Chuyện phiếm của Gã Siêu
Ngày xưa còn bé, trong thời gian tiểu học, mài đũng quần trên ghế nhà trường, thế nào cũng có lần thày
cô bắt làm một bài luận với đề tài :
- Lớn lên em sẽ làm gì ?

Thế là bọn nhóc chúng tôi cắm cúi viết. Đứa thì mơ làm bác sĩ, đứa thì mơ làm kỹ sư, đứa thì mơ làm
thương gia…Và thậm chí, có đứa cả gan dám mơ làm ông tổng thống nữa. Ôi ! những giấc mơ chưa bị ô
nhiễm mới đẹp làm sao !

Còn bây giờ, gặp nhau sau bao nhiêu năm dài xa cách và nhìn lại quãng đường mình đã đi qua với những
vật lộn và bươn chải , nhất là sau những bầm giập của cuộc sống, hay nói cách khác, sau những lần bị
đời đá lên đá xuống như một trái bóng, đứa thì cười ha hả với những thành công rực rỡ, đứa thì ngậm
ngùi với những thất bại đắng cay.
Có nhiều yếu tố tạo nên thành công hay thất bại trên đường đời.

Thứ nhất là cơ may, gặp thời gặp vận. Có những đứa chỉ với chút tiền còm, đầu tư vào lãnh vực nhà đất,
thậm chí có đứa chẳng bỏ ra đồng bạc nào, chỉ cần làm cò, làm môi giới mua đi bán lại, nhưng trúng
phóc vào lúc nhà đất đang lên cơn sốt. Và thế là chỉ trong một thời gian ngắn, phất lên trông thấy. Đúng
là :
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Làm bởi ngươi, nhưng ban bởi Ta.

Thứ hai là cố gắng và chắt bóp, vừa chí thú làm ăn lại vừa tiết kiệm trong chi tiêu, theo kiểu “kiến tha lâu
cũng đầy tổ”, để rồi cuối cùng cũng khấm khớ, như thiên hạ đã diễn tả :
- Trông lên thì chẳng bằng ai,
Trông xuống thì cũng chẳng ai bằng mình.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải có một nghề trong tay. Thực vậy, sống trong bối cảnh của nền kinh
tế thị trường, người ta lại càng cần phải có một nghề chuyên môn, bằng không thì chắc chắn sẽ rơi vào
tình trạng thất nghiệp. Mà đã thất nghiệp, thì chỉ còn cách nằm ở nhà, ăn lương vợ và làm….báo đời.

Chính vì thế, người xưa đã bảo :


- Không có tiền bạc chưa phải là nghèo, nhưng không có nghề nghiệp mới thực sự là nghèo.

Tiền bạc như núi, nhưng tiêu mãi tiêu hoài, có ngày cũng sẽ hết. Và khi hết tiền, hết bạc, chắc chắn
chúng ta sẽ lâm cảnh túng thiếu. Chàng trai phung phá ôm cả một gia tài đi ăn chơi vung vít, phá gia chi
tử. Miết rồi cũng rơi vào tình trạng đói khổ, phải đi chăn heo. Trong cảnh cơ cực ấy, chàng muốn tọng
cám heo cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho.
Trong khi đó, nghề nghiệp sẽ đẻ ra tiền, thì còn lo gì túng thiếu. Bởi đó, tục ngữ Việt Nam đã bảo :
- Trâu ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay.
Còn người Tàu cũng đã nói :
- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Hay như một câu danh ngôn đã xác quyết :
- Ruộng đất thẳng băng, chẳng bằng một nghề trong tay.
Vì thế, điều quan trọng là phải chọn cho mình một nghề, rồi ra sức trau dồi, học hỏi nghề mình đã chọn
để có được một chất lượng cao, cũng như để có được một tay nghề vững.
Vì thế, người ta cũng thường diễn tả :
- Toàn bộ cuộc đời chúng ta tùy thuộc vào một vài quyết định trong tuổi thanh xuân.
Đúng thế, vào lúc đầu còn xanh và sức sống còn đang phơi phới, có những quyết định làm xoay chuyển
hẳn hướng đi và ảnh hưởng mãi cho đến khi về già.

Quyết định thứ nhất, đó là chọn cho mình một bậc sống : Lập gia đình hay ở độc thân. Nếu lập gia đình
thì chọn cho mình một người bạn trăm năm khả dĩ cùng đi với mình cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày. Còn ở
độc thân, thì độc thân giữa đời hay vào nấp bóng trong một dòng tu…

Quyết định thứ hai, đó là chọn cho mình một nghề, để rồi đầu tư công sức vào đó. Nghề đã chọn sẽ theo
mình trong suốt cả cuộc đời. Nếu có đổi thay chăng nữa thì cũng thật long đong, vất cả mà nhiều lúc
cũng chẳng nên cơm cháo gì.

Chuyện rằng :
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời hạn hán, không ai dùng
đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm
gầu, thì trời mưa mãi không ai dùng đến gầu.
Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều
người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc bình khí thì đã già
quách mất rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng :
- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời rồi ư ! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy đã cố
nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời hay không gặp dịp, cũng chẳng nên đổ cả cho trời,
tất có mình ở trong.

Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều thất vì lụt cả. Có người bảo anh
ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà
nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại, chẳng những hòa mấy năm mất
mùa trước, mà còn trở nên giàu có. Cho nên thiên hạ mới bảo rằng :
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền. Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông.
Đó là một câu thiên hạ nói rất phải.

Tuy nhiên, có một nghề trong tay không quan trọng cho bằng cách chúng ta hành nghề. Bởi vì có những
cách hành nghề nhằm bóc lột người khác, làm nghèo quê hương và phá hoại đất nước. Nhưng cũng có
những cách hành nghề giúp ích cho người khác, làm giàu cho quê hương và góp phần xây dựng đất
nước, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Giá trị của một nghề không bằng giá trị của cách hành nghề.
Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể để minh chứng cho điều vừa mới trình bày.
Chẳng hạn những người sản xuất thuốc, giúp cho bàn dân thiên hạ trị bệnh, thế nhưng vì lòng tham đã
chế biến những thứ thuốc dổm, làm cho người đau yếu tiền mất tật mang, bệnh vẫn hoàn bệnh và không
chừng vì để lâu, còn mỗi ngày một trở nên trầm trọng hơn.
Chẳng hạn những người bán hàng, giúp cho bàn dân thiên hạ giải quyết được những nhu cầu cần thiết
cho bản thân và gia đình, thế nhưng vì lòng tham, đã chế tạo ra những chiếc thước thiếu, những chiếc
cân non, để móc túi người mua mà người mua chẳng hề hay biết.

Mới đây tại Việt Nam, có một anh chàng đi mua lúa tại tỉnh Kiên Giang, đã mày mò chế tạo ra một chiếc
cân với bộ phận điều khiển từ xa. Anh ta chỉ cần đứng ở đâu đó và nhấn nút một phát là chiếc cân tăng
giảm theo ý muốn của mình. Quả là quỉ khóc thần sầu.
Chẳng hạn những người thầu khoán, giúp cho bàn dân thiên hạ xây dựng nhà cửa để có một nơi cư trú
vừa ấm cúng lại vừa khang trang đẹp mắt, thế nhưng cũng vì lòng tham, nên đã bớt cừ trong lúc đóng
móng, đã bớt sắt trong lúc đổ đà…khiến cho ngôi nhà chưa hoàn tất đã bị nghiêng đổ, hay mới sử dụng
được ít ngày, đã bị sụp lún và nứt nẻ tùm lum khiến cho khổ chủ mặt mũi buồn xo !
Hầu như trong bất cứ ngành nghề nào, người ta cũng đều có thể lươn lẹo và luồn lách, gian dối và xảo
trá để vơ vét về cho đầy lòng tham của mình. Nhưng khốn nỗi, lòng tham của người ta lại thường vô
đáy, nên biết thế nào mà lấp cho đầy.

Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc, lại vừa bán giáo. Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe :
- Mộc này thật chắc, không gì đâm thủng.
Còn ai hỏi mua giáo, thì anh ta to miệng quảng cáo :
- Giáo này thật sắc, đâm cái gì cũng thủng.
Nghe vậy, người ta bèn hỏi :
- Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của bác thì sao ?
Và thế là anh ta tịt ngòi.

Tác giả sách Cổ Học Tinh Hoa bèn góp lời bàn như sau :
“Chẳng qua vì mối lợi mà thành ra nói dối. Thế nhưng khi bị người ta hỏi đến lẽ, thì liền không đối đáp
được nữa.
Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán và khoe rằng :
- Ai mua tượng về nhà thì được giàu sang.
Đến lúc có người bắt bẻ :
- Sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, mà lại mang ra chợ bán làm gì ?
Lập tức tắt khẩu, mà đành vác tượng ra về”.
Vắt tay lên trán mà suy gẫm chuyện đời, lắm người đã phải dài hơi than thở cả tiếng :
- Có những nghề thấp đã nuôi dưỡng những nhân cách lớn và ngược lại nhiều nhân cách tồi lại ngự trị
trong những nghề cao.
Nghe xong lời phát biểu trên, gã bèn vỗ đùi đánh đét một cái và nói :
- Thật là tuyệt vời, tuyệt vời !

Rất nhiều lần khi đọc những bài phóng sự về những phu hốt rác, những phu quét đường, hay những
người thông ống cống thành phố…gã đã phải khẩu phục tâm phục những người phu, những người thợ
này. Nghề của họ thật khiêm tốn, nhưng nhân cách của họ lại thật cao. Họ chẳng gian tham, chẳng
mánh mung, nhưng âm thầm làm việc khi mọi người đang ngủ yên, hay chui rúc dưới những đường cống
tăm tối và hôi thối, cốt để phục vụ dân phố và đem lại những thoải mái cho mọi người.

Trái lại, thực là vô phúc và đại họa khi những kẻ có nhân cách tồi lại chễm chệ ngự trị trong những nghề
cao.
Chẳng hạn như những ông tổng thống, những ông bộ trưởng, những ông giám đốc…Nhãn hiệu trình tòa
của họ thật là đẹp, nhưng nhân cách của họ lại tồi vì bị lòng tham lôi kéo và thúc đẩy, khiến họ đã nuốt
trửng hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng mà vẫn cứ phây phây, làm cho đất nước đã nghèo lại càng nghèo
hơn.

Vì thế, yếu tố con người bao giờ cũng vẫn là yếu tố căn bản và đi hàng đầu. Nếu con người mà đã hỏng,
thì mọi lãnh vực khác cũng sẽ bị sụm bà chè.
Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy :
- Chẳng có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn.

Ở Hàng Châu có người bán các thứ trái cây, khéo để dành cam, lâu mà không ủng, vỏ vẫn đỏ hồng,
trông đẹp như vàng, như ngọc đem ra chợ bán giá đắt, mà người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một
quả. Đem về bóc ra, hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi người bán cam :
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để
đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm.
Người bán cam cười và nói :
- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân, Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông
kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi…Này thử
xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ thực không biết có giỏi
được như Tôn Tẩn, Ngô Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan
văn lắm, nhưng kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi không biết dẹp,
dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi,
ngồi không ăn lương, không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn
của quí, oai vệ, hách dịch vô cùng ! Đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc, mà bề trong chẳng như
bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả cam của tôi !

Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng
người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?
Qua truyện trên, tác giả muốn lấy quả cam đẹp vỏ, thối ruột mà châm chích cái hách dịch, cái oai vệ bề
ngoài của những bậc quan lớn một đời suy đốn, để phơi bày cái thực chất bất tài, bất trí, bất dũng ở bên
trong.
Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói : Cái thùng
không, bông lúa lép, hay những câu ca dao :
- Trông em, anh ngỡ sao mai,
Biết rằng trong có như ngoài hay không ?
- Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,
Nhìn ra mới biết chẩu chàng ngày mưa.
Không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn. Chính kẻ hèn đã bôi tro trát trấu vào nghề nghiệp và làm cho
nghề nghiệp cũng trở nên hèn, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề
nghiệp.

Viết tới đây, gã xin mượn lại một lần nữa mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy
mang tựa đề là “Người bán thịt dê” :
Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo
vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo
mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người bán thịt dê từ chối và nói :
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê.
Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng :
- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước, không
phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo :
- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói :
- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét
mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước,
tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ
phép nước đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng :
- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời
được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :
- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt
dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực
không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê.
Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.

Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời bàn như sau :
“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là
người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng
nhận, vì không có công cán gì.
Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham
mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắm ru ! Thực đáng làm gương cho
những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm
hàm chức vụ để lòe đời vậy.”
Theo thiển ý của gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ nạn
tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ lâu.

Như vậy, chính lòng liêm khiết và tự trọng của người chủ quán đã mang lại vinh quang cho nghề bán thịt
dê, một nghề xem ra rất tầm thường trong bất cứ xã hội nào. Phải chăng câu chuyện này đã củng cố
phần nào cho ý tưởng gã đã trình bày ở trên, đó là không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn.
Một câu chuyện khác cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là câu chuyện về Alfred Nobel.

Vào một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát mình ra chất nổ và đang hái ra tiền như nước, đã
thức giấc trong sự bàng hoàng và sửng sốt : tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của ông vua
chất nổ.
Thực ra, đây chỉ là sự lầm lẫn của một ký giả nào đó, bởi vì không phải Alfred Nobel qua đời, mà là người
anh của ông. Thế nhưng, dù sao đây cũng là dịp để ông đọc được cảm nghĩ của người khác đang có đối
với ông.
Trên môi miệng mọi người, ông chỉ là ông vua chất nổ, là người làm giàu trên cái chết của không biết
bao nhiêu sinh mạng. Người ta không hề nhắc tới những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào
ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không một ai đã nhắc đến những kiến tạo hòa bình của
ông cả.
Alfred Nobel buồn vô cùng vì hình ảnh của một nhà kinh doanh trên sự chết chóc mà thiên hạ đang nghĩ
về mình. Ông quyết định làm cho cả thế giới biết lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi
xuống bàn làm việc và viết tờ chúc thư, trong đó ông đã dành tất cả tài sản của mình để thiết lập nên
một trong những giải thưởng có giá trị nhất thế giới, đó là giải Nobel hòa bình, nhằm tưởng thưởng cho
tất cả những ai có công góp phần vào việc xây dựng hòa bình trên thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua chất nổ nữa, mà là vua hòa bình.

Và như vậy, không phải nghề nghiệp đã làm danh giá cho con người, mà chính con người đã làm danh
giá cho nghề nghiệp.
Vì thế, chúng ta cần phải trao cho con cái một nghề để nó có thể tự mình kiếm sống, bởi vì :
- Tay làm hàm nhai,
Tay quai miệng trễ.
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.

Tuy nhiên, việc quan trọng hơn vẫn là phải đào luyện chính con người của chúng, vì yếu tố con người là
yếu tố quyết định trong mọi lãnh vực. Chẳng thế mà người xưa đã từng xác quyết :
- Nhất niên chi kế, thụ cốc.
Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kế, thụ nhân.

Có nghĩa là :
- Kế trăm năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.

Bởi vì :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.

Vậy thử hỏi chúng ta đã đầu tư thế nào cho sứ mạng trồng người này ?
Trong phạm vi xã hội, ngân sách nhà nước dành bao nhiêu phần trăm cho chi phí quốc phòng và bao
nhiêu phần trăm cho công việc giáo dục ?
Khi con người đã rệu rạo thì chắc chắn xã hội sẽ tuột dốc, bất ổn sẽ xảy ra và người ta sẽ lại đổ tiền
nhiều hơn nữa để ổn định trật tự, cũng như tái lập hòa bình. Quả là một cái vòng luẩn quẩn chết người,
vì đã không chịu “chữa tận căn”.
Con người là gốc rễ. Gốc rễ đã thối, thì dù có bón bao nhiêu phân, xịt bao nhiêu thuốc dưỡng, cũng chỉ là
vô ích mà thôi.
Trong phạm vi gia đình, chúng ta đã thực sự quan tâm và bắt tay vào việc giáo dục con cái chưa ? Hay là
chúng ta lại chủ trương trao phó cho ông trời, như tục ngữ đã nói :

- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.


- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.

Và cứ để mặc con cái lớn lên như một loài cỏ dại.


Để kết thúc, gã xin chia sẻ như thế này :
- Đối với con cái,
Để lại tiền của không bằng để lại kiến thức.
Để lại kiến thức không bằng để lại nghề nghiệp.
Để lại nghề nghiệp không bằng để lại đức độ.

You might also like