You are on page 1of 211

1

HANG MA

Hang ma lại có ma xuất hiện.


Lời đồn thổi nhanh như gió, nhẹ như gió, luồn lách vào từng
hang cùng ngõ hẻm, nơi gốc cây, bụi ruối, nơi xó bếp, góc nhà. Lời đồn
loang đi như lũ. Ầm ầm, ào ào. Mấy bản xung quanh hang ma ngơ ngác.
Bóng ma lởn vởn trong đầu, trong giấc ngủ. Bóng ma ngồi cạnh người,
cùng ăn chung trong bữa cơm. Bóng ma trùm lên làng, lên bản. Nơi đâu
người ta cũng có thể nhìn thấy ma. Nhìn mặt ai cũng thấy ma. Hố mắt,
bánh má ai cũng hốc hác vì lo sợ. Nhìn những chiếc lá phật phờ bay,
nhiều người hồn vía đã bay lên tới chín tầng trời, rơi xuống mười tầng địa
ngục. Mặt xanh nanh vàng vì bóng ma ở hang ma cứ lởn vởn đè trong tâm
trí.
Lão Tảng đứng dạng te he trên bến, ngay trên bờ ngầm Ní Nà
ngoác cái miệng cá ngão ra nói oang oang.
- Con ma trên hang ma lần này kinh tởm lắm. Trông nó to như
trái núi Bái. Miệng nó ngoác ra thè cái lưỡi đỏ đòng đọc, nhểu toàn máu
là máu. Tối tối ma trong hang kéo đàn kéo lũ ra ngoài bay kín trời.
Nghe lão Tảng nói, nhìn cái miệng lão trễ ra, sức nặng về thông
tin hang ma có ma càng làm cho người dân thêm tin vào câu chuyện và
thêm sợ về các điều đang diễn ra. Đánh mắt nhìn mọi người. Như để
khẳng định và tăng sức nặng cho những lời nói của lão vừa đưa ra. Lão
Tảng nhìn sang mụ Đoác.
- Mọi người cứ hỏi mụ Đoác mà xem. Tối qua mụ Đoác còn bị
ma nó vần cho mệt bở hơi tai ra đấy.
Người các bản bên chân núi chả ai lạ gì lão Tảng.
Lão Tảng có tấm thân to như hộ pháp. Người lão to đến mức,
mấy bà bảo lão to hổ ăn cả tuần không hết thịt. Lão hay nói. Cái gì vướng
vào mắt là thế nào lão cũng phải nói ra bằng được. Mọi cái vào mắt lão là
thể nào cũng ra đằng mồm. Cái gì qua tai lão cũng biết chui ra đằng
miệng. Lão mà chưa nói ra được, cái miệng lão ngứa ngáy, khó chịu lắm.
Cái ngứa miệng này của lão không giống lối ăn phải khoai, phải ráy. Cái
ngứa miệng của lão, như có cái gì vương vướng trong mồm, như cái kiểu
người ta ăn dính răng. Cái dính răng này nó không thể lấy que tăm mà xỉa
rồi lấy ra được. Nó bám vào như dán keo da trâu, đào khoét, bới, chọc
cũng không lấy ra được. Nó nằm trong miệng, ngứa ngáy rồi làm tổ cho vi
trùng. Cái đau, cái ngứa quá bằng làm đau răng nhức mắt. Không những
thế, mỗi khi mở miệng, mùi hôi, thối thoát ra. Người nào ngồi, đứng đối

1
diện để nghe thì chả khác nào phải đứng cạnh hố phân mà người ta hay ủ
để đem ra ruộng vãi.
Bên cạnh cái tật ngứa mồm, lão Tảng còn phải cái thích thuốc
phiện. Mỗi khi lão vác súng, xách nỏ đi săn thì khi về, thế nào cũng có
con chồn, con cáo trên tay, con chim đeo bên sườn. Cũng vì mắt lão tinh
nên nhìn thấy con thú nhanh và cái gì lọt vào mắt cũng nhanh. Với lão
Tảng, việc săn bắt con chồn, con cáo, bắn con chim trên rừng chẳng khác
gì người ta thò tay vào lấy đồng xu trong túi áo. Lão nổi tiếng là tay săn
bắt có nghề nhất trong khu Yên Hưng. Ngày trước, cụ Chu, người mà lão
cả đời cúc cung tận tụy phục vụ. Cậu Lềnh người mà lão được cụ Chu
giao cho trách nhiệm bảo vệ. Mỗi khi cụ chủ hay cậu động hớn lên, thích
ăn thịt con gì, chẳng cần đợi lâu, lão xách khẩu súng vào rừng. Khi lão về,
cụ Chu hay cậu Lềnh đã có thịt thú ăn theo ý thích. Từ ngày cụ Chu chết,
cậu Lềnh bỏ nhà đi đâu biệt tăm, lão sống một mình và vẫn đi vào rừng
săn bắt thú về bán lấy tiền mua thuốc cho bản thân lão hút. Lão làm được
bao nhiêu, săn được bao nhiêu, tất tần tật số tiền kiếm được đều chui qua
nõ điếu vào trong ống họng lão hết. Mụ Đoác thỉnh thoảng lại sang ở với
lão. Mỗi lần như thế, trông cái mặt lão tớn lên, ra vẻ sung sướng lắm.
Ngày còn trẻ, lão là kẻ tôi tớ của nhà cụ Chu. Ngày đấy lão chả
khác gì con chó trông nhà cho chủ. Cụ Chu đi đâu tha lão đi theo. Trời
mưa, lão đi trước để tìm đường. Gặp chỗ nước, chỗ vũng, lão cõng cụ
Chu đi qua chỗ lầy, chỗ nhão. Qua suối, cụ Chu chưa mở miệng lão đã
biết ghé vai đưa cụ Chu qua. Vượt dốc, tay lão dắt ngựa cho cụ Chu đi.
Gặp ngày chợ phiên, vui bạn, khi cụ Chu say. Lão bám đuôi ngựa để đi
theo phòng khi cụ Chu trên đường về nhà có trúng gió, trúng độc đã có
lão giúp cho. Sau này khi cách mạng giành được chính quyền, nhà cụ Chu
bị cách mạng đem chia cho dân nghèo thì lão cũng thôi làm con chó cho
nhà cụ Chu.
Lão cả đời làm tôi làm tớ cho nhà cụ Chu mà lão quên cả việc
lấy vợ. Ngày lão còn trẻ, cũng có đôi ba lần cụ Chu cho lão đi theo. Thấy
mắt lão nhìn đàn bà, con gái như hổ đói nhìn thấy con lợn béo, con quạ
nhìn thấy con gà con. Những lúc như thế, cụ Chu cũng bảo sẽ kiếm cho
lão đứa đàn bà để lão được biết cái sung sướng của thằng đàn ông. Nhưng
rồi, cụ Chu chưa kịp kiếm cho lão con đàn bà để lão biết được cái sung
sướng của đời thì cụ đã chết. Cụ để lại lời hứa sống cùng lão. Tất nhiên,
cụ Chu đâu có biết. Cái sung sướng của đời người thì bà Năm của cụ đã
cho lão biết rồi. Riêng cái việc đó đã trói lão làm tôi tớ, làm con chó giữ
nhà cho cụ cả đời rồi mà không một lời kêu ca hay đòi hỏi gì.
Miệng cụ Chu nói với lão thế thôi. Chứ thực lòng cụ Chu thấy
cái cuống họng của lão Tảng, mỗi khi gặp đàn bà, con gái là cụ lo lão
cướp mất mấy con vợ của cụ. Nhìn thấy đàn bà con gái, cuống họng lão
Tảng nhô lên thụt xuống còn hơn cả con ngựa đực dậm móng khi thấy con

2
ngựa cái thả ra cái hơi mùa động đực. Cụ Chu nói thế chẳng qua cụ muốn
để lão còn cúc cung cho mình nên phải nói khéo thế. Chuyện cụ nghĩ thế,
nói thế chả biết lão có hay không. Nhưng thấy cụ nói thế là lão đã thấy
khắp người sướng rân rân. Cũng có đôi ba lần lão nói xa, nói gần việc cụ
tìm cho lão con đàn bà để được biết cái sung sướng của thằng đàn ông.
Rồi không thấy cụ nói gì, lão chép miệng cho qua. Lão đã có bà Năm cho
cái sung sướng làm kiếp đàn ông rồi. Vì thế mà đến bây giờ, khi da mặt
đã nhăn như cái vỏ cây, lão vẫn chưa có vợ. Và hình như lão cũng không
còn thích lấy vợ. Nếu lão lấy vợ thì lấy gì để làm đồ dẫn cưới. Cả đời lão
đi theo nhà cụ Chu. Lão có được cái gì để ra cho riêng mình. Lão chỉ là
con ngựa thôi. Khoẻ thì cho người cưỡi, yếu thì người thịt. Cũng có nhiều
người đàn bà mê lão nhưng lại không muốn bắt lão về làm chồng. Thấy
lão mắc bệnh ngứa mồm, lại hau háu khi nhìn thấy con gái nên ngại. Lấy
về có khi lão lại đi làm con ngựa cho nhà khác. Nếu không có cái tật ngứa
mồm, ngứa miệng như thế thì lão là người đàn ông có khối người đàn bà
mê. Đã có nhiều lần người già nói về lão như thế này.
- Lão Tảng là con ngựa giống tốt. Cái vó nó lúc nào cũng muốn
đi. Cái ngực nó trông như ức con ngựa đực thế kia là khoẻ lắm. Đứa nào
lấy nó thì con nhiều như đàn lợn. Nhung nhúc, nhung nhúc.
Lão Tảng nói chưa dứt miệng, mụ Đoác đứng kế bên cũng trễ
cái miệng ra hùa theo.
- Eo ơi. Mấy tối nay, tối nào tôi cũng thấy ma nó về cứ vần tôi
suốt đêm. Tôi còn nghe rõ tiếng con ma thở hổn hà hổn hển.
Nghe mụ Đoác nói mọi người bưng miệng cười. Người mụ
nhão như bún, thịt nhẽo như con lợn sề. Mụ tắm, cái vú của mụ thỗn thện,
vắt vẻo, lẳng bên nọ, ngọ ngoạy bên kia như quả mướp thối. Trông chả
khác gì miếng thịt trâu chết. Người thì có ai thiết. Có chăng, chỉ ma mới
thích mụ nên nó mới vần. Thằng đàn ông nào mà ngủ với mụ thà về nhà,
chui vào chuồng, ôm con lợn sề mà ngủ còn thấy thích hơn. Vần người
mụ cho mỏi tay và hỏng con giống đi chắc. Mụ Đoác cũng là kẻ tôi tớ của
nhà cụ Chu cùng thời với lão Tảng. Mụ cũng là đồ chơi của cụ Chu một
thời. Khi cụ Chu no xôi chán chè thì mụ bị cụ Chu đẩy ra ngoài chuồng
lợn, chuồng ngựa cùng với lão Tảng.
Có một chuyện mà lão Tảng luôn phải tự nhủ lòng mình sống
để dạ chết mang theo nếu còn muốn sống và muốn khi chết còn có đất
chôn. Cái chuyện ấy thì chẳng phải lão mà ngay bà Năm của cụ Chu cũng
thế. Nhiều khi lão nghĩ. Cứ giả thử trời có mắt đi thì với lão, trời cao đất
dầy ắt cũng biết đường mà giúp lão. Chuyện của lão và bà Năm, vợ cụ
Chu, trời cũng phải xui hai kẻ khốn khó biết im cái miệng, biết giữ cái
mồm.
Theo thói quen, hôm nào đi các bản quanh vùng cúng cho các
nhà dân về là cụ Chu lại ngồi đánh tổ tôm với các cụ tiên chỉ trong làng.

3
Không chơi thì thôi chứ chơi là các cụ chơi thâu đêm tới sáng, trôi ngày
trôi tháng. Không ít lần, các cụ chơi kéo ngày sang đêm tới tám chín ngày
đêm liền. Đêm nào như thế là bọn tôi tớ trong nhà phải phục vụ các cụ
cho đến bao giờ các cụ rã hội mới thôi. Miệng người ăn lắm cũng quen,
hút lắm cũng nghiện, sai lắm cũng thấy khoái. Chập choạng tối, khi màn
sương còn mờ mờ, con gà mới dẫn con lên chuồng là các cụ đã ngồi.
Cả đời cụ Chu có hai cái thú thích nhất là chơi tổ tôm và bắt
gái. Ở cụ, có lẽ là chuyện bắt con gái, những đứa còn đang hơ hớ về làm
vợ là cái máu mà có thay cụ cũng chả đổi được. Nhiều người, lão Tảng
thấy cụ Chu bắt về mà phát thèm. Mỗi khi cụ bắt được đứa con gái nào
về, người mà cụ Chu duy nhất cho phép ra vào phục vụ và canh gác là lão
Tảng. Chỉ nhìn thấy cái bắp chân, cái đùi trắng hơn hớn, cái vú chắc như
mông con ngựa là người lão nổi da gà ngứa ngáy lắm. Nhất là khi lão lại
nghe thấy tiếng rên hư hử thì lão không thể chịu được. Chỗ nào trong
người lão cũng nổi phồng lên ngứa ngáy và thèm muốn. Lúc đầu lão
không dám xem. Lão sợ lắm. Cụ Chu mà thấy được thì lão chỉ có nước bị
chôn sống. Mỗi khi cụ bảo lão: Tối nay mày đứng ngoài gác cửa cho cụ.
Cụ Chu chỉ cần nói thế là lão biết phải tăm tắp làm theo.
Đứng canh cho cụ ngoài cửa, lão không dám cả ngọ ngoạy,
không dám vạt cả con muỗi cứ bu vào cổ, vào tay mà châm, chích. Cụ
Chu có tin lão, có quý lão và có thương lão cụ mới sai bảo thế. Lão nghĩ
sao thì lão làm vậy. Lão nghĩ. Kẻ tôi tớ, người ở nhà cụ thiếu gì mà chỉ có
lão được cụ sai bảo thế. Cụ đã tin lão thì lão cũng phải hết lòng phục vụ
cụ. Cái lý ở đời là người thương ta thì ta thương lại người. Lão cứ nghĩ
thiển cận. Khi lão đói, có ai cho lão bát cơm, có nghĩa là đã cứu sống lão.
Lão sống thì cái mạng của lão đã là của người ấy. Mạng sống đã là của
người ta thì người ta muốn băm, muốn vằm như thế nào là tuỳ thích. Với
cụ Chu cũng thế. Lão được cụ Chu nhặt về cho cơm ăn, cho hầu hạ thì tất
nhiên, cái mạng của lão là của cụ rồi. Cúc cung phục vụ cụ là nghĩa vụ
của lão. Và bản thân lão cũng thấy sướng, sướng lắm khi được cụ Chu tin
cậy giao việc.
Thế rồi, có một đêm. Chiều ấy cụ bắt nợ một nhà ở dưới bản
Lồng Tồng về được đứa con gái. Đêm ấy cụ cũng cho gọi lão lên gác cửa.
Cô gái trước lúc bị cụ bắt nợ đã có lời hẹn với một chàng trai và họ đã thề
nguyện sống với nhau đến trọn kiếp. Khi cụ vào thì bị cô gái chống cự. Bị
cô gái chống trả quyết liệt nên cụ không thể làm được chuyện kia. Cụ cho
gọi lão vào giúp. Khi vào, lão thấy cô gái còn trẻ quá, quần áo bị xé nát,
rách tơi tả. Cô ngồi nép vào trong xó nhà, hai tay giữ chặt lấy ngực. Lão
lao đến, giúp cụ vật cô gái xuống giường để cho cụ hành sự. Được chứng
kiến toàn bộ cuộc truy hoan của cụ. Khi giúp cụ làm được chuyện kia thì
lão thấy toàn thân căng cứng và cơn thèm khát nhục dục của lão lên đến
tột độ. Khi cụ làm xong, đuổi lão ra rồi khoá, nhốt cô gái lại trong phòng.

4
Đợi cụ đi khuất, lão quay lại. Lúc ấy, cái chỗ con giống người lão cũng
còn căng cứng lắm. Lão cũng thèm muốn được như cụ. Nhưng bản tính
của kẻ tôi tớ làm lão không dám. Lão chỉ biết ôm cái cột để cho đỡ cơn
thèm khát.
Khi lão ôm cột để cho đỡ cơn thèm khát. Lão đâu có biết. Mọi
hành động của lão không qua được mắt bà Năm. Khi lão từ trong phòng
bước ra để mặc cụ Chu với cô gái cụ mới bắt về, cơn thèm khát làm lão
không chịu được. Lão cứ ôm lấy cái cột mà nhấn ra nhấn vào nghiến
ngấu. Bà Năm biết. Đợi cho cụ đi khuất, bà Năm cho gọi lên. Những khát
thèm của lão được bà Năm đáp ứng. Và cũng từ đó, mỗi khi bà mong
muốn hay thèm khát cái mùi đàn ông, lão lại được bà cho gọi. Lão trở
thành con giống đực của riêng bà. Còn cụ Chu. Vì còn mải đi làm ăn và
các bà khác đòi, lại ham thú chơi tổ tôm với các cụ tiên chỉ trong làng.
Mỗi khi về được đến nhà, cụ hầu như không biết được chuyện của lão với
bà Năm.
Mặc dù, lão là con giống đực của bà Năm nhưng mỗi lần nhớ
đến cảnh giúp cụ hôm nào là lão lại thấy người nó rạo rực, bứt rứt, rất khó
chịu. Có nhiều lúc lão đã nghĩ. Cả đời lão giá chỉ được ngủ một đêm với
những đứa con gái ấy rồi có ném vào vạc dầu hay vứt cho chó nó gặm lão
cũng thấy mãn nguyện.
Nghe lão Tảng và con mụ Đoác nhểu cái mồm ra nói, mấy
người còn đang thỗn thễn dưới suối vội bước lên bờ quáng quàng quẩy
gánh củi đi về. Họ sợ tối không về đến nhà, gặp phải con ma trên hang ma
thì khốn nạn. Hang ma thì chả ai còn lạ gì. Chuyện hang ma đã được các
già kể đời này qua đời khác, nhiều như cây trên rừng, dài như suối, rậm
như cỏ.
Lời đồn trên hang ma có ma trở lại cứ thế theo gió bay đi. Câu
chuyện về con ma cũng hư hư thực thực. Câu chuyện từ miệng người này
nhảy qua miệng người khác. Mỗi lần như thế thì con ma cũng đã khác đi
rồi. Chỉ có điều, mỗi lần như thế thì chuyện con ma ở hang ma càng nghe
càng kinh hãi hơn. Bóng ma trên hang ma thực sự như hòn đá đè lên cả
vùng núi Bái. Con ma trên hang ma lúc mang mặt người, khi mang mặt
rắn, mặt chó, mặt ngựa. Dẫu mang khuôn mặt gì thì từ miệng con ma
cũng ròng ròng máu tanh nồng, nhểu xuống cánh rừng núi Bái, ngấm vào
đất, thấm vào nước, đem đến cho người dân cái chết, bệnh tật.
Chuyện ma trên hang ma trở lại người ta chưa biết đúng sai đến
đâu. Nhưng chuyện ma hang ma về bắt người các bản bên chân núi Bái đã
xảy ra rồi. Ai cũng đã biết, đã thấy. Cái đận đó, người chết không kịp
chôn, chất đống như đống củi góc rừng.

5
2
BỨC MẬT ĐIỆN LÚC NỬA ĐÊM

Thiếu tá Trịnh Toàn rời bàn làm việc. Ông nhẹ nhàng bước ra
phía cửa sổ. Phía ngoài khơi những cơn gió đẩy hơi nước về lành lạnh.
Ông giơ tay cài lại chiếc cúc áo cổ. Hướng mắt về phía biển. Trên vịnh,
những ngọn đèn của vạn chài hắt vào đêm thứ ánh sáng bàng bạc, mỏng
như tờ giấy. Xen trong tiếng rì rào của sóng biển là tiếng lá ri ri từ rặng
phi lao chắn sóng vọng về.
Đưa tay vuốt lại mái tóc bị gió làm lật nếp, ông khép cửa rồi
bước về bàn làm việc. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu hiu hắt vàng vàng chiếu
xuống bức điện mật của Ban Công an nhân dân vũ trang Trung ương vừa
gửi. Ông đưa tay lấy tờ công điện, ghé sát vào ánh đèn. Ông đọc chậm rãi
như đếm từng con chữ trên trang giấy.
Cách đây có mấy tháng, trong hội nghị quán triệt nghị quyết của
Ban bí thư và họp triển khai kế hoạch công tác những năm tiếp theo.
Trong bản báo cáo tham luận, ngay đồng chí Bộ trưởng cũng đã nhận định
về tình hình hoạt động và các diễn biến sắp tới. Ông biết. Khi trong miền
Nam, tình hình đấu tranh cách mạng lên cao, kẻ địch sớm muộn cũng tìm
cách phá hoại và chúng cũng sẽ đẩy mạnh các hoạt động ra miền Bắc.
Sau khi lê máy chém đến từng nhà, từng ngõ ngách với chính
sách nhổ tận gốc trốc tận rễ mầm mống cộng sản của chính quyền Ngô
Đình Diệm đã vấp phải sự chống đối không chỉ của quần chúng nhân dân
miền Nam mà còn ở ngay quan thầy bên kia đại dương. Rà từng ngõ, gõ
từng nhà để tận diệt cộng sản không thành mà phong trào đấu tranh đòi
thống nhất đất nước lại càng làm cho nội bộ chính quyền gia đình trị của
Ngô Đình Diệm thêm chia rẽ.
Theo thông báo của trên trong buổi nói chuyện thời sự cho cán
bộ cao cấp. Ban chấp hành Trung ương cũng đã nhận định. Để giữ vai trò
của mình ở bán đảo Đông Dương, quan thầy Mỹ đã tính chuyện phải thay
ngựa giữa dòng. Song dù là chính quyền gia đình trị của Ngô Đình Diệm
hay chính quyền do Mỹ dựng nên thì bản chất của chúng cũng không hề
thay đổi. Không những chỉ thay quân đổi chủ mà chính quyền Mỹ cũng đã
đưa quân trực tiếp vào miền Nam. Chính quyền Mỹ đã lộ mặt can thiệp
sâu vào Đông Dương. Năm 1960, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của chính
quyền Mỹ đã trực tiếp tăng cường các hoạt động triển khai lực lượng viễn
chinh vào khu vực Bắc miền Nam và Lào. Động thái trên của Mỹ thực sự
muốn duy trì sự có mặt của mình ở Đông Nam Á.

6
Cũng do tình hình trong chiến trường miền Nam đang có chiều
hướng bất lợi cho chính quyền Mỹ duy trì sự có mặt của mình ở miền
Nam, tất yếu chúng sẽ tìm mọi cách để xâm nhập ra miền Bắc. Bản thân
Tổng thống Ken - nơ - đi cũng đã có ý định sẽ can thiệp vào miền Bắc
trong thời gian tới. Nếu theo tính toán thì chỉ trong vòng hai đến ba năm
nữa là Mỹ sẽ trực tiếp can thiệp ra miền Bắc. Việc cho người xâm nhập ra
miền Bắc là chúng nhằm mục đích nắm được các chủ trương của cách
mạng, các mục tiêu của cuộc đấu tranh ở miền Nam. Con đường để nắm
được những thông tin này là hoạt động gián điệp. Ngay bản thân thực dân
Pháp. Mặc dù phải chấp nhận thua trên chiến trường nhưng khi rút khỏi
miền Bắc, chúng đã cài cắm một lực lượng rất đông các điệp viên ở lại
miền Bắc. Ngay Hải Phòng thực dân Pháp cũng đã cài cắm ở lại hàng
chục tên với mục đích nằm chờ cho đến khi được lệnh hành động mà các
cơ quan an ninh của chúng ta đã khám phá và tiêu diệt.
Đồng chí Bộ trưởng cũng đã chỉ rõ phương thức hoạt động của
địch thời gian tới có thể tập trung vào hoạt động gián điệp, biệt kích kết
hợp với phá hoại từ bên trong và đánh phá từ bên ngoài. Đồng chí Bộ
trưởng cũng chỉ rõ cách thức xâm nhập và đối tượng xâm nhập.
Do khác biệt về văn hoá giữa hai miền Nam Bắc, đối tượng đầu
tiên mà địch có thể tung vào hoạt động có thể chủ yếu là những người đã
ở phía Bắc, chạy theo địch di cư vào Nam năm 1954. Đây là đối tượng
chủ yếu người theo đạo thiên chúa giáo. Ngày đó do bị địch tung tin chúa
đã vào Nam nên nhiều gia đình ở các khu thiên chúa giáo đã theo chúa
vào Nam. Những người chạy theo chúa vào Nam cũng chủ yếu là những
người sùng tín kính chúa nhưng nhận thức còn hạn chế. Trong Kinh thánh
cũng đã từng khẳng định. Chúa ở khắp mọi nơi, chúa trên đầu mọi người,
ở đâu kính chúa thì ở đó có chúa. Nếu cứ theo lời của chúa dạy thì chúa
đâu có di cư vào Nam. Sau khi quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, hòng
có dịp quay trở lại xâm lược nên các thế lực phản động và thù địch đã
tung ra tin chúa chạy vào Nam để lôi kéo số đồng bào theo đạo thiên chúa
vào theo để gây mất ổn định xã hội. Song, xét về mặt chiến lược thì khi
những người này theo chúa vào Nam cũng là lực lượng mà về lâu về dài
chúng có thể lợi dụng để đánh trở lại. Lúc đó, bọn phản động, gián điệp
mà trước khi rút chạy bọn tình báo đã cài cắm lại để phục vụ cho chiến
dịch hậu chiến sẽ kết hợp với lực lượng đánh trả về hoạt động gây rối, xây
dựng địa bàn hoạt động.
Đối tượng thứ hai mà bọn phản động có thể đánh trở lại là
những đối tượng do bất mãn chế độ hay gia đình có người bị phía cách
mạng trừng trị, mang sẵn lòng hận thù. Nhất là những đối tượng trong gia
đình có người thân, do những sai lầm trong quá trình cải tạo xã hội của
chế độ xử lý. Những đối tượng này sẽ được các cơ quan tình báo tuyển
lựa đào tạo rồi đánh trở lại. Đây là những đối tượng nắm rõ tâm lý, đời

7
sống sinh hoạt cũng như các phong tục tập quán ở địa phương. Những đối
tượng này thường có cơ sở sẵn là người nhà, người thân trong dòng tộc.
Khi xâm nhập trở lại thì chúng phải bám vào những người này để hoạt
động và hợp thức hoá nhân thân.
Đối tượng thứ ba mà địch có thể đánh trở lại miền Bắc để hoạt
động sẽ là các đối tượng xuất thân từ bọn du thủ du thực, đầu trộm đuôi
cướp. Bọn này hoạt động thường manh động, liều lĩnh. Nhưng để hoạt
động độc lập ít khi xảy ra.
Trong phiên họp triển khai kế hoạch bảo vệ an ninh nội bộ đồng
chí Bộ trưởng cũng đã chỉ rõ cách thức xâm nhập của các loại đối tượng.
Với phương thức xâm nhập qua con đường ngoại giao là khó có thể xảy ra
và thời gian hoạt động không kéo dài. Trường hợp này chủ yếu vào để
móc nối, dựng lại các cơ sở ngầm hoặc giao nhiệm vụ, cung cấp tài chính
là chủ yếu. Muốn có thời gian để tạo cơ sở thì chỉ có con đường đột nhập
bí mật và đội lốt tên tuổi một người khác. Khả năng này thường xảy ra vì
trong những năm chiến tranh, việc người dân di chuyển nơi cư trú, chạy
loạn từ nơi này đến nơi khác rồi ở lại theo quan niệm, đất lành chim đậu.
Hướng xâm nhập bằng con đường bất hợp pháp khả năng xảy ra
bằng đường biển, đường bộ và đường không. Trong ba hướng có thể xâm
nhập thì hướng đường biển thường được các cơ quan tình báo áp dụng.
Nhất là trong trường hợp Việt Nam lại có bờ biển dài, phức tạp, có nhiều
hang thiên tạo. Khí hậu vùng biển của miền Bắc Việt nam cũng là điều
kiện để cho các hoạt động xâm nhập có điều kiện thực hiện. Về mùa
đông, tuyến biển phía Bắc thường có sương mù, gió mùa. Về mùa hè
thường xuyên có gió Nam, sóng lớn. Hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản của
Việt Nam cũng còn rất nhiều hạn chế. Người dân chủ yếu hoạt động đánh
bắt ven bờ chứ chưa có điều kiện vươn xa. Phía biển lại có hạm đội Thái
Bình Dương khống chế và bao bọc phía ngoài. Ngay trong hội nghị quán
triệt nghị quyết, đồng chí Bộ trưởng cũng đã có ý nhắc nhở các tỉnh có
tuyến biển cần chú trọng và xây dựng kế hoạch phòng chống các hoạt
động xâm nhập gián điệp, biệt kích từ phía biển.
Sau buổi học tập triển khai nghị quyết, trên đường về cơ quan,
đồng chí chính uỷ Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương vỗ vai nhắc
nhở.
- Ban chỉ huy xác định địa bàn Yên Hưng của cậu là địa bàn
trọng điểm, hướng trọng điểm. Tình hình có nhiều diễn biến phức tạp khó
lường. Đồng chí về lại dưới đó, cố gắng quán triệt, tổ chức thực hiện cho
tốt, đạt hiệu quả.
Chính uỷ đưa bàn tay về phía trước, xòe ra.
- Kẻ địch thì lắm mưu ma chước quỷ. Chúng sẽ không từ thủ
đoạn nào để đạt được mục đích đâu. Chúng bất chấp tất cả. Nhưng cậu
đừng lo. Vỏ quýt dầy thì đã có móng tay nhọn.

8
Nói đoạn, ông nắm bàn tay lại như nắm đấm.
- Thế nào. Khó khăn đấy, nhưng làm được chứ?
- Vâng. Chúng tôi sẽ cố gắng. Chính uỷ cứ yên tâm.
Trả lời đồng chí chính uỷ thế nhưng trong lòng Trịnh Toàn bộn
bề lo lắng.
Chính uỷ nhìn Trịnh Toàn vừa như thông cảm mà cũng như vừa
chia sẻ khó khăn. Chính uỷ đùa.
- Sao lại chúng tôi? Tôi sẽ cố gắng chứ? Nhiệm vụ của mình mà
lại lôi cả mọi người vào là sao?
Chính uỷ cười động viên.
- Nói vui vậy thôi. Các đồng chí cứ yên tâm. Có gì Ban chỉ huy
Trung ương sẽ hỗ trợ các đồng chí hết khả năng. Trách nhiệm chung mà.
Tất cả vì sự nghiệp giành thắng lợi của cách mạng. Các đồng chí cứ có
niềm tin là sẽ làm được tất cả. Niềm tin. Nhớ đấy. Chỉ có niềm tin sắt son
thôi thì chúng ta mới giành được thắng lợi. Khó khăn như giành chính
quyền mà chúng ta còn làm được. Những khó khăn này đã ăn thua gì. Hãy
tin vào điều đó.
Thiếu tá Trịnh Toàn lật tờ mật lệnh sấp xuống bàn. Trịnh Toàn
không nghĩ những dự báo ấy lại trở thành sự thật nhanh đến mức như thế
này. Ông với tay cầm chiếc điếu cày, nhồi thuốc định hút rồi lại thôi. Ông
đi lại phía chiếc điện thoại hữu tuyến. Ông nhìn đồng hồ. Lúc này đã là
mười hai giờ đêm. Dừng lại một chút bên chiếc điện thoại, ông đưa tay
phẩy phẩy như ý tự trách mình quá lo lắng và nóng ruột. Đã bao nhiêu lần
ông phải cố gắng điều chỉnh thói quen nóng nảy của mình để cho các hoạt
động trầm đi. Chẳng qua cũng vì công việc. Anh em cán bộ chiến sĩ cũng
hiểu ông vì công việc. Nhưng ông biết. Cán bộ chiến sĩ cũng như ông cả,
cũng là con người, cũng bằng da bằng thịt. Vì nhiệm vụ, vì công việc
được giao, họ không bao giờ và không hề kêu ca một lời mà luôn chấp
hành và làm tốt những nhiệm vụ của ông giao cho. Tuy biết tấm lòng của
cán bộ đối với ông như thế nhưng Trịnh Toàn tự biết bản thân mình
không vì thế mà không nghĩ đến công việc được giao.
Trịnh Toàn lấy tay lật đi lật lại tờ mật điện. Trên đã thông báo
cho biết thời gian tới khả năng địch sẽ tung các toán gián điệp, biệt kích
quay trở lại miền Bắc để hoạt động chống phá. Bức mật điện cũng nhận
định khả năng nhiều chuyến xâm nhập sắp tới sẽ theo đường biển. Cơ sở
từ bên ngoài báo về, xâm nhập lần này lại có rất nhiều khả năng xảy ra
trên địa bàn ở tỉnh Yên Hưng nơi mà ông đang phải chịu trách nhiệm
quản lý, bảo vệ. Toán xâm nhập đợt này cũng rất khác, đối tượng khi xâm
nhập sẽ hoạt động đơn tuyến vì thế mà tính chất hoạt động của đối tượng
sẽ rất khó cho công tác điều tra, truy bắt. Phải chăng cũng vì đối tượng
khi xâm nhập chỉ có một mình mà có mật danh là AZET?

9
AZET là ai? Có quan hệ gì với địa phương? Là người ở vùng
Yên Hưng hay ở tỉnh khác đến? Mục đích nhiệm vụ chính của đối tượng
khi thực hiện chuyến xâm nhập được giao? Ngoài đối tượng xâm nhập ra
có cơ sở của các cơ quan tình báo cài cắm lại hay không? Ông với bút, rút
tờ giấy ghi nhanh nội dung công việc triển khai cho cuộc họp đột xuất
sáng mai. Làm xong các công việc, ông nhìn lại đồng hồ. Từ phía mấy
dãy nhà nép bên chân núi, tiếng gà gáy chuyển canh tư.

10
3
TRÊN ĐỈNH CON CÓC

Cứ theo các câu chuyện truyền miệng, hang ma không chỉ còn
là sự huyễn hoặc mà đã là một sự sợ hãi và là nỗi lo của nhiều người. Câu
chuyện được thêu dệt qua người này sang người khác ngày càng thêm
huyền bí và đáng sợ. Theo miệng lão Tảng và mụ Đoác thì mấy hôm nay
trên hang ma đêm đêm thường xuyên xuất hiện những bóng ma trơi bay
lập lòe, lởn vởn trong khu rừng. Chúng bay rất nhanh. Đằng sau đường
bay chỉ để lại những ánh sáng như vệt sao băng. Những vệt sao băng ấy
cũng chỉ nhỏ như một tàn đóm khi người ta hút thuốc lào, búng que đóm
quá tay làm bật văng ra xa. Những bóng ma trơi này không chỉ có vào
những đêm mưa thâm tối trời mà đêm nào nó cũng xuất hiện.
Vào những đêm tối trời, có mưa lâm râm thì những ánh lửa
trông mờ mờ, nhoè nhoẹt, phất pha phất phơ. Những đốm sáng thi thoảng
lại bùng lên rồi lịm xuống. Lúc sáng, lúc mờ rất quái đản và cũng đầy bí
ẩn. Những lúc như thế, trông bóng sáng không khác gì mặt người, dài
nghêu, vàng vọt của sự chết chóc. Phải ngày nắng ráo, những bóng ma
bay vật vờ, lơ lửng tà tà ngọn cây. Những lúc ấy, bóng ma lại giống hình
mặt con trăn gió, quăng mình rào rào từ cây này sang cây khác. Từ dưới
chân núi Bái nhìn lên, những bóng ma chả khác gì làn khói mấy người đi
nương đốt củi nướng sắn, nướng khoai làm khói bay lên vào các chiều.
Những sợi khói mỏng tang như tờ giấy phất phơ bay, lúc cuộn lên, lúc
xoắn lại lẩn vào trong màu xanh xanh thâm thẫm của cây rừng. Còn vào
những đêm trăng sáng, những bóng ma trơi ấy có màu vàng vàng, đo đỏ.
Màu lửa của ma như màu lưu huỳnh cháy. Nhìn lâu, những vệt màu đỏ
đòng đọc như máu chảy loang lổ rồi lại nhểu từng giọt, từng giọt xuống
đất.
Những con ma xuất hiện trên hang ma lần này không như
những lần người dân nhìn thấy. Mỗi khi có vệt lửa ma xuất hiện, mấy
người cứng bóng vía kéo nhau ra đứng xem. Người nào cũng đều thấy,
phía trước các ánh lửa bay phơ phất ấy là một vệt màu hồng, đỏ ngoe đỏ
ngoét, dài như cái lưỡi con rắn ngo ngoe phía trước. Bọn trẻ con lúc đầu
nghe người lớn kháo nhau cũng túm gấu áo bố, áo mẹ ra xem. Khi nhìn
vệt sáng đỏ như máu, đứa nào đứa nấy sợ vãi cả đái ra quần. Có nhiều bà,
nhiều chị khi nhìn thấy thế cũng sợ, giật mình vội ngồi thụp xuống, theo
cái lối ngồi tránh bị chó đuổi mỗi khi vào nhà ai đó có con chó dữ. Không
kịp tránh con cái đang bám dưới chân, váy của các bà, các chị trùm cả lên
đầu lũ trẻ. Đôi mắt ngơ ngác, sợ sệt, thất hồn.
11
Hang ma trở thành nỗi khiếp sợ cho mọi người trong các bản
xung quanh. Nhiều gia đình đã rậm rịch dạm bán nhà để chuyển đi nơi
khác. Thậm chí có một vài gia đình đã bồng bế con cái, bấu vúi, đìu íu bỏ
bản đi nơi khác, để mặc ruộng nương, vườn tược cho cỏ mọc.
Vào những lúc trên hang ma xuất hiện những đốm sáng như
thế, chó của mấy bản nằm xung quanh hang ma trong khu núi Bái sủa inh
ỏi. Có nhiều con sủa tiếng tru đập vào vách núi âm âm u u vọng ra nghe
dờn dợn như tiếng của bầy chó sói bị săn đuổi tìm bầy đàn. Tiếng tru kéo
dài, dài mãi. Tiếng của chó sủa hay tiếng của ma cũng không biết được.
Một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Chuyện hang ma có ma
trở lại theo gió bay đi, theo mưa rơi xuống rồi theo nước trôi đi tiếp. Vết
dầu loang cứ loang mãi. Vết dầu bắt lửa cháy. Lúc đầu còn cháy âm ỉ sau
rồi cứ thế lan mãi ra, bốc ngùn ngụt thành cả rừng lửa. Đến khi vết dầu
loang cháy lâu, bốc cao như núi. Ngọn núi Bái phủ một màu chết chóc lên
cả một khoảng không gian rộng lớn của miền sơn cước. Ngồi đâu, làm gì,
ngay cả nghĩ gì cũng chỉ xoay quanh chuyện hang ma. Hang ma chập
chờn ngay cả trong giấc ngủ. Chúng thè cái lưỡi đỏ đòng đọc những máu
là máu, liếm lên mặt, lên người. Mỗi khi cái lưỡi đỏ đòng đọc ấy liếm đến
đâu, chỗ đó ròng ròng máu, lở loét, nham nhở, tanh tưởi. Đêm đêm tiếng
hú, tiếng kêu cầu cứu, khiếp đảm từ các giấc mơ phủ lên các làng bên
hang ma.
Chuyện trên hang ma có ma làm những người dân ở bản La
Khê không còn mấy người dám vào rừng. Sợ ma một thì cái chuyện ngày
xưa lại trở về làm người dân sợ mười. Cái nỗi sợ nó ám ảnh và đeo bám
vào trong mỗi người dân ở quanh khu hang ma từ miệng người già kể lại
được dịp bùng phát. Bởi từ những câu chuyện của người già kể lại, từ
người trung niên, đã ăn hết cả mấy chục mùa sắn, nương khoai, đã làm
mất cả bao mùa ngô, mùa lúa qua cái bụng chỉ nhỏ như cái quần, cái lù cở
đến lũ trẻ mới nứt mắt, còn cởi truồng. Lời kể chuyện, truyền từ miệng
người này sang đến miệng kẻ khác nó đã sinh sôi, nảy nở ra biết bao cái
mà người nghe không biết thực, biết hư ở đâu, ở chỗ nào.
Mỗi lần có ma xuất hiện, người ta lại thấy lão Tảng lù lù vác cái
mặt đến. Mũi lão thính hơn cả mũi con chó đi săn. Thấy đâu có người bàn
kháo nhau chuyện ma là lão lại có mặt.
- Hôm qua tôi thấy con ma có khuôn mặt như cô gái đấy.
- Lão nhìn thấy thật không? Mọi người nhao nhao hỏi.
- Không nhìn thấy mà tôi nói được à. Nói dối để trời bắt tội mà
lội xuống sông, xuống suối à.
Lão Tảng thề.
- Tôi mà nói dối thì trời đánh cho chết mất xác. Nếu có chết rồi
thì cũng không có đất chôn. Xác để cho chó, cho dũi, cho dòi bọ nó đục.

12
- Thế lão thấy nó giống ai? Hay nó giống cái con mụ Đoác của
lão?
- Ôi. Nó giống con mụ Đoác làm sao được. Mụ Đoác nếu có
làm ma thì cũng là ma già rồi. Con ma này còn trẻ lắm. Ma con gái mà.
- Không giống mụ Đoác của lão thì nó giống ai?
- Tôi không biết được. Chỉ thấy con ma này trẻ, xinh ơi là xinh.
Mặt nó trắng như mây trên núi Bái ấy. Môi nó đỏ như hoa thôi. Tóc nó
cũng trắng, dài lắm. Khi nó bay, mái tóc ấy cứ cuồn cuộn đằng sau như
gió cuốn. Đang trắng thế mà nó chuyển ngay thành màu đỏ như máu. Lúc
đó tôi tưởng nó vãi cả máu vào mặt ấy chứ.
- Lão có thấy nó giống mặt cô Lù không?
- Tôi có nhìn rõ được mặt con ma đâu. Nhưng nhìn kỹ. Ờ ờ. Nó
cũng hao hao giống mặt cô Lù thì phải. Nó…
Lão vừa nói thế, chưa hết câu đã thấy phèn phẹt cái mặt mụ
Đoác bên cạnh. Mụ Đoác lườm lão. Cái miệng dẩu ra.
- Này lão. Lão ngứa mồm quá rồi đấy. Lão không sợ đêm về cô
quật lão hộc máu tươi ra hay sao?
Lão Tảng nghe thế nhăn nhở cười.
- Ối giời. Cô mà về vật tôi. Có mà tôi vật cho cô bở hơi tai ra
chứ chả chơi à. Mà vật cô có khi lại còn thích hơn vật mụ ấy chứ.
Mụ Đoác sa sầm nét mặt.
- Lão còn muốn sống hay là lão muốn được làm thức ăn cho
giun, cho dế đấy. Lão không còn nhớ cái gì nữa à?
Nghe mụ Đoác nói thế. Lão Tảng im miệng, mặt nghệt ra. Lão
len lén nhìn mụ.
- Ờ ờ. Thì coi như tôi chưa nói gì.
- Lão vừa nói xong, mép chưa kịp khô mà nói là coi như chưa
nói gì là làm sao. Lão không thiết sống nữa rồi.
- Thôi mà. Thủi thui cái mồm. Thủi thui cái mồm.
Vừa nói, lão vừa lấy tay tự vả vào mặt mình bèn bẹt. Mấy người
đứng quanh nhìn lão ngán ngẩm. Mụ Đoác thấy thế càng được nước lấn
tới.
- Lão cứ ngứa mồm lắm vào. Sao cũng có ngày thần thánh cũng
không cứu nổi cái mạng lão. Đến lúc đó, có chó nó ỉa vào mộ lão chứ
đừng nghĩ có được người cắm cho bát cơm quả trứng.
- Thì tôi nói chỉ có tôi với mụ cùng vài ba người chứ có ai đâu
mà lo. Nếu cậu…
Lão vừa thốt ra tiếng cậu khỏi miệng đã vội lấy tay bịt lại. Lần
này thì lão sợ thật. Cái mặt lão tái mét, thâm sì. Mụ Đoác hậm hụi bỏ đi.
Lão Tảng vội vàng lẹt bẹt chạy theo. Trông lão chạy, dáng cun cút thật tội
nghiệp.

13
Câu chuyện hang ma vốn đã là nỗi lo lắng của bao người thì
bây giờ nó càng là nỗi khiếp sợ của cả vùng, của cả bao tộc người sống
quanh núi Bái. Không một người dân nào sống quanh núi Bái là không
nghe, không biết đến cái chết tức tưởi của cô Lù nơi cửa hang.
Câu chuyện và cái chết của cô Lù ngày nào vì oan khuất vẫn
treo lơ lửng ngay trước mắt của người dân ở bản.
Cách đây mấy chục năm, người già của bản La Khê nằm dưới
chân núi Bái, gần hang ma vẫn còn nhớ và còn mang nặng nỗi sợ hãi và
dấu ấn nặng nề khi chứng kiến cái chết tức tưởi, đày oan khiên của cô Lù,
người phụ nữ đẹp nhất bản vì sự bạc tình của cậu Lềnh. Bà con ở bản
không ai nghĩ cô Lù lại phải chịu nỗi buồn đau như thế. Lúc nào người
dân bản cũng cứ như còn nhìn thấy cô Lù treo cổ lủng lẳng ngay trước
mắt vậy.
Cái ngày cô Lù treo cổ chết trước cửa hang, ma ở hang ma lại
xuất hiện trở lại. Năm đó, cả bản La Khê có tới hàng chục nhà mắc bệnh.
Bệnh gì không ai biết. Chỉ biết người bị mắc bệnh, miệng sùi bọt như chỗ
thác nước đổ, từng tảng bọt đùn ra miệng, chảy ướt hết áo. Khi nào miệng
không còn sủi bọt nữa, ngáp mấy cái là chết. Người chết nhiều quá, không
kịp chôn, chả kịp đóng ván, để chảy nước ra đầy nhà, đành phải cuốn vào
cái chiếu, đêm đem ra rừng vứt hoặc bỏ đấy cho quạ nó rỉa. Có nhiều nhà,
đem người chết vứt ngoài rừng. Mấy hôm sau ra, chả còn thấy người đâu,
chỉ có đống mối to lù lù trước mặt. Cái đận đó, dân làng La Khê cũng bỏ
làng mà đi vãn đến quá nửa. Thiên hạ kháo nhau, cô Lù chết oan chết ức
nên về bắt tội dân làng.
Bây giờ hang ma lại có ma xuất hiện. Biết đâu đấy. Hồn ma cô
Lù lại về bắt tội dân làng thì sao? Mặt ma thì chưa ai biết nhưng cái hạn
dân làng phải gánh thì không một ai không biết. Tránh mưa, tránh nắng
chứ có ai tránh được hạn của đời. Hồn ma cô Lù mà về thật thì có ai gánh
được hạn này. Cô Lù không muốn cho mọi người ở thì mọi người đi. Đất
rừng còn rộng, lo gì không có chỗ dung thân.
Khi bên dưới phía biển, người dân kháo nhau về chuyện ma
trên hang ma. Người các bản xung quanh chân núi Bái rục rịch bán nhà
chuyển đi nơi khác vì núi Bái lại xuất hiện có ma thì Phan Lềnh, ngồi trên
đỉnh núi Bái, chỗ chóp có hình con cóc lầm rầm chửi thề.
Phan Lềnh nép sát người xuống khóm cây tập tàng cạnh mỏm
đá trên đỉnh Con Cóc. Người duy nhất biết vì sao mà tự nhiên lại xảy ra
chuyện các bản bên chân núi Bái nhao nhao chuyển nhà vì cái chuyện
hang ma có ma xuất hiện trở lại là Phan Lềnh. Cả dải đất của nhà Phan
Lềnh một thuở ngày nào mà Phan Lềnh luôn khao khát lấy lại khi công
việc hoàn thành có nguy cơ bị phá sản. Phan Lềnh thấy người nóng bừng
bừng, chả khác gì bị ai đem hơ trên ngọn lửa. Phan Lềnh chỉ muốn làm
cái gì đó cho hả cơn tức giận. Phan Lềnh túm lấy mấy cái thân cây tập

14
tàng, mọc lúp xúp trước mặt bẻ gẫy gập. Khi mấy khóm cây trước mặt bị
Phan Lềnh phá nát. Phan Lềnh giật mình thấy nằm tơ hơ trên đất. Cấp trên
trước khi đưa trở lại đã nói với Phan Lềnh rất nhiều đến việc phải biết
giấu cái tức, cái nóng nảy đi mới có thể làm được nên nghiệp lớn. Không
phải Phan Lềnh không biết mà cái bực tức không thể kìm lại được. Ngày
còn tham gia trong đoàn thể, Phan Lềnh còn nhớ lắm câu chuyện của một
viên quan văn.
Chuyện rằng. Ngày xưa có một ông quan văn đi qua đường. Có
cậu bé đang ngồi trên cành cây thấy vậy vạch quần ra đái. Khi lính bắt cậu
bé từ trên cành cây xuống. Mặc dù bị đứa trẻ đái ướt quần áo nhưng ông
quan văn đó không hề đánh mắng mà còn rút tiền ra cho. Rồi ông quan
văn đó dặn.
- Lần sau, thấy ai đi qua, cháu cứ đái vào đầu người đó. Người
đó sẽ cho tiền.
Rồi lần khác, đứa trẻ ấy cũng thấy có một ông quan đi qua.
Tưởng lại được tiền như lần trước, leo lên cây đái xuống. Khi bị lính bắt
xuống đưa trình trước mặt quan. Vị quan hôm đó không phải quan văn mà
là quan võ. Vị quan đó không nói không rằng, rút kiếm chặt đầu. Phan
Lềnh biết. Cái khác nhau cơ bản của người làm quan văn và quan võ
chính là chỗ đó. Quan văn đã biết kìm nén cái bực tức lại mà dùng tay
người khác để trừng trị.
Phan Lềnh bò thụt lùi, giật lùi chui vào cái hang Con Cóc có
hình tổ sâu trên đỉnh núi Bái.
Tựa lưng vào hốc đá, Phan Lềnh chửi thề. Tay đấm mạnh
xuống đám lá khô mới vơ vội về trải làm chỗ ngủ.
Đêm ập xuống. Cả bóng đêm rồi cả dãy núi Bái, cả đỉnh Con
Cóc như cái nơm, úp chụp lấy Phan Lềnh. Phan Lềnh nghiến hai hàm
rằng vào nhau kèn kẹt.

15
4
KÝ ỨC CỦA LÒNG HẬN THÙ

Khi khoác chiếc tay nải về đến đầu làng, Phan Lềnh thấy phía
sân đình làng người bu đen bu đỏ. Thấy cảnh đó, Phan Lềnh bụng bảo dạ,
chắc làng đang có chuyện lớn. Với tính cách của người làm báo, khi trên
đường về, Phan Lềnh chỉ có mong muốn được nằm ngủ lấy lại sức.
Nhưng về đến đầu làng, thấy chuyện ấy, Phan Lềnh không chịu được,
khoác chiếc tay nải vào xem. Tính cho đến nay, Phan Lềnh đã phải đi bộ
cả tuần trời mới về được đến đây. Ngày đi đêm nghỉ, khát đâu xuống sông
xuống suối, đói đâu tìm vào nhà dân xin ăn. Cái ý chí khắc đi khắc đến
của người cán bộ những ngày đầu cách mạng đã rèn cho Phan Lềnh điều
đó. Chiếc tay nải tòng teng trên vai với bộ quần áo nâu nhiều lúc cũng
làm cho đôi vai của Phan Lềnh mỏi đến rời rã. Bàn chân không muốn
bước nhưng cái mong muốn được gặp gia đình thôi thúc Phan Lềnh. Đã
quá lâu rồi Phan Lềnh chưa về nhà. Những tháng năm làm việc, công tác
trên vùng rừng Việt Bắc, có công có việc thì thôi chứ được một phút
thảnh thơi, Phan Lềnh lại nhớ nhà đến nôn nao. Con chim có tổ, con
người có tông. Dẫu những năm tháng ở nhà Phan Lềnh cũng chẳng có vui
nào nhưng cái tình gia đình thì khi đi xa rồi Phan Lềnh nhận ra nó thật
lớn, thật thiêng liêng.
Không kịp về nhà, Phan Lềnh ghé vào sân đình nơi cả làng, cả
tổng đang tập trung. Tiếng quát, tiếng chửi, tiếng la ó rầm rầm, huyên
náo. Trong đám đông, thỉnh thoảng lại có những cánh tay giơ lên. Trong
cả rừng cánh tay ấy nào là đòn gánh, đòn càn, liềm gặt đưa lên đưa xuống
tua túa. Mỗi khi cả rừng cánh tay, cả rừng đòn gánh, đòn càn, cả rừng
liềm hái giơ lên là một đợt sóng trỗi dậy. Những đợt sóng của lòng người
từ âm thanh hừng hực lòng căm giận, lòng uất ức. Những con sóng lòng
người ấy có thể nhấn chìm tất cả, phá nát tất cả mà không có thể có một
vật gì che chắn, che đỡ được. Đã từng làm cán bộ tuyên giáo, Phan Lềnh
biết. Cách mạng giành thắng lợi cũng chính là nhờ biết phát động những
đợt sóng như thế này. Một lãnh tụ của nước bạn cũng đã từng nói: Quần
chúng chỉ là con số không. Cán bộ là con số một. Nếu các con số không
có dài đến bao nhiêu thì cũng vô giá trị. Nhưng nếu có người cán bộ biết
khơi dậy, xếp hàng các con số đó theo trật tự và người cán bộ đứng đầu,
dẫn dắt dãy con số quần chúng đã xếp hàng theo trật tự thì sẽ là một sức
mạnh. Sức mạnh đầy ý nghĩa. Một sức mạnh như sóng dậy triều dâng.
Trong học thuyết của mình, Mác và Ăng ghen cũng đã nói đến
sức mạnh của quần chúng. Muốn giành được thắng lợi bằng bạo lực cách
16
mạng thì cách mạng không thể không có sức mạnh của quần chúng. Chính
vì thế mà Mác và Ăng ghen cũng đã từng khẳng định: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Chỉ có sức mạnh của quần chúng mới làm nên sự
thắng lợi của cách mạng. Tất nhiên, muốn phát huy và giành được thắng
lợi thì người cán bộ phải biết vận dụng và phát huy sức mạnh ấy đúng lúc,
đúng chỗ, biết tận dụng thời cơ, biết làm cú huých cho cỗ máy ấy vận
hành. Khi cỗ máy ấy đã vận hành, nghĩa là đã chạy rồi thì để chạy trôi
chảy người cán bộ lại phải biết hướng vào một mục tiêu. Mục tiêu ấy
chính là lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân
xét trên một bình diện nào đó nó là những củ khoai tây lăn lóc mỗi nơi
một củ. Khi sự phân tán đó còn xảy ra thì nó không có sức mạnh. Nhưng
khi mỗi củ khoai lăn lóc đó được một ai đó tập trung lại, dồn nó vào một
chiếc bao tải, lấy lợi ích của nó làm phương châm hành động, lấy quyền
lợi làm mục tiêu để chiến đấu thì nó sẽ trở thành một sức mạnh như hòn
đá tảng.
Những lý thuyết của học thuyết Mác, những bài học từ các đợt
tập huấn chỉnh huấn chỉnh quân đã cho Phan Lềnh nhận ra được nhiều
điều. Những vấn đề trên cũng đã được ngay chính bản thân Phan Lềnh lên
lớp, đi giảng giải cho nhiều nơi, cho nhiều người nghe. Trong lịch sử của
loài người để lại, có cuộc chiến tranh nào mà vắng được sức mạnh của
quần chúng, vắng mặt tham gia của quần chúng lao động. Chính họ và chỉ
có họ mới làm được cuộc cách mạng. Và cũng chính họ, khi quyền lợi
kinh tế, quyền lợi vật chất mà các thế hệ cha ông họ, bản thân họ đã đổ
xương máu để giành lấy bị xâm hại thì họ lại đứng lên. Họ đứng lên khi
có một cá nhân hay một tập thể nào đó tìm ra được những yêu cầu mục
đích đáp ứng được mong mỏi của họ. Và thế là một cuộc cách mạng mới
lại nảy sinh. Cứ thế, lịch sử loài người mới trải qua năm hình thái kinh tế
xã hội. Mỗi lần thay đổi là một sự phát triển. Từ chế độ nguyên thuỷ lên
chiếm hữu nô lệ. Từ chiếm hữu nô lệ chuyển lên chế độ phong kiến. Từ
chế độ phong kiến bước lên chủ nghĩa tư bản. Và bây giờ là quá trình từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong mỗi bước chuyển hình thái
kinh tế ấy là một cuộc cách mạng mà quần chúng nhân dân là người đã
tham gia và làm nên.
Lịch sử của mọi cuộc cách mạng là sự hy sinh của tầng tầng lớp
lớp nhân dân lao động. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc giúp Lê
Thái tổ giành lại được đất nước từ tay quân xâm lược nhà Minh cũng đã
từng nói: Lật thuyền là dân. Đẩy thuyền là dân. Lật thuyền mới biết sức
dân như nước. Phan Lềnh cũng còn nhớ, có một nhà thơ cách mạng đã
từng viết: Sóng xô sóng đẩy, sóng dậy thuyền đi. Con sóng là quần chúng
và con thuyền là cách mạng. Con thuyền cách mạng có thể vượt được
trùng khơi là nhờ có lớp lớp các con sóng nhân dân.

17
Những con sóng ấy đang tràn về quê của Phan Lềnh. Tràn vào
làng của Phan Lềnh. Chỉ nhìn những rừng đòn càn, đòn gánh, rừng liềm,
rừng hái với trùng trùng điệp điệp lời hô vang như sấm là Phan Lềnh biết.
Con sóng cách mạng ở làng quê của Phan Lềnh rồi sẽ cuốn đi tất cả.
Những rác rưởi của xã hội cũ sẽ không còn đất sinh sống, không còn nơi
để tồn tại.
Đứng từ xa, lắng nghe những tiếng hô: Đả đảo bọn địa chủ. Đả
đảo bọn tay sai. Đảng lao động Việt Nam muôn năm. Chủ tịch Hồ Chí
Minh muôn năm. Phan Lềnh biết. Một cuộc sống mới đã tràn đến quê
Phan Lềnh. Những tiếng hô như sấm dậy, đập vào núi, vọng vào rừng, lan
toả đi muôn nơi, kéo người từ trong xó nhà góc bếp đi ra, lôi người từ
rừng thẳm thung sâu mà về. Tiếng hô âm âm lặn vào đất gọi sự trỗi dậy.
Tiếng hô bay bổng lên trời xanh, bao trùm niềm vui sướng lên muôn cuộc
đời lầm than tăm tối. Ngọn lửa cách mạng ngày nào mới nhen còn lom
dom cháy thì bây giờ, nó đã thành rừng, bốc cao hơn núi. Ngọn lửa cháy
từ lòng căm giận là ngọn lửa thiêu. Nó sẽ đốt trụi, thiêu cháy hết những gì
nó tràn qua. Phan Lềnh hiểu hơn ai hết điều đó. Ngay từ những lúc đứng
trên mô đất, thân cây, mỏm đá, xếp chân bằng tròn hay ngồi xổm bên bếp
lửa nhà dân để giảng giải về sức mạnh của quần chúng, Phan Lềnh đã
nhận ra và hiểu ra điều đó hơn ai hết.
Chưa cần bước chân vào đến sân đình, chỉ nhìn cả rừng cánh
tay, cả rừng đòn gánh, đòn càn, cả rừng liềm, rừng hái cùng rùng rùng lời
hô vang các khẩu hiệu như sóng dập, như bão nhồi, Phan Lềnh cũng đủ
biết cái gì đang diễn ra, đang xảy ra ngoài sân đình. Bây giờ đang trong
giai đoạn cả nước tập trung đấu tranh trừng trị bọn địa chủ, cường hào
gian ác, hại dân hại nước. Đất nước này, dân tộc này không thể chấp nhận
có những loại người cùng chung máu đỏ da vàng mà có lối sống như thế.
Chúng sống trên mồ hôi nước mắt của người dân. Khi chúng sống phè
phỡn trên lụa là gấm vóc, thóc lúa chứa đầy nhà chật kho thì có tới hơn
hai triệu đồng bào phải chết đói, nằm phơi xác dọc đường. Nạn chết đói
năm cách mạng giành chính quyền là bằng chứng tội ác mà chúng không
thể chối cãi. Phải tiêu diệt bọn phản động, bọn cường hào gian ác, bọn
làm tay sai cho giặc, coi mạng sống của đồng bào, nền độc lập của dân tộc
như cỏ rác, không bằng cuộc sống của chúng. Phải tiêu diệt. Triệt tận gốc,
trốc tận rễ những mầm mống tay sai phản dân hại nước như thế.
Sức mạnh của rừng người cuốn Phan Lềnh đi. Phan Lềnh cũng
buột miệng hô theo tiếng hô của rừng người: Đả đảo, đả đảo! Muôn năm.
Muôn năm! Miệng hô, tay rẽ, chân lách đám đông, Phan Lềnh cố len vào
bên trong.
Ngày Phan Lềnh còn ở nhà, chỉ nhìn thấy Phan Lềnh là mọi
người, người nào người nấy đã tránh ra nhường lối. Nhưng hôm nay khác.
Mọi người không những không nhường lối cho vào mà còn nhìn với ánh

18
mắt đầy căm hận. Phan Lềnh tự nhủ lòng, nghĩ. Phan Lềnh đi xa nhà đã
quá lâu đâu mà người làng không nhận ra. Thời gian còn ngắn, cuộc sống
có vất vả, sinh hoạt có thiếu thốn thì cũng đâu có thể làm cho mọi người
không nhận ra được mình. Nhìn vào khuôn mặt ông bà nông dân, Phan
Lềnh nhận thấy trong ánh mắt của họ, người nào người nấy đều có lửa.
Những ngọn lửa cháy rừng rực. Những ngọn lửa ấy như muốn thiêu,
muốn đốt Phan Lềnh. Năm tháng đã đổi khác và con người cũng đã đổi
khác rồi sao? Cách mạng đã làm thay đổi tất cả người dân quê của Phan
Lềnh rồi sao? Những ông bà nông dân một thời đi làm thuê, cày thuê, đến
xin xỏ bố Phan Lềnh cho công cho việc ngày nào cũng đã thay đổi rồi
sao? Phan Lềnh vừa cố lách vào vòng trong vừa nghĩ về những ánh mắt
mà Phan Lềnh đã nhìn thấy, nhận thấy.
Vào được đến bên vòng trong Phan Lềnh tự nhiên thấy mọi
người im lặng. Phút im lặng của trận bão mới, phút chuyển gió giữa hai
đợt gió của mỗi cơn bão. Mỗi khi có gió bão, bao giờ cơn bão cũng thổi
đủ bốn hướng. Mỗi khi chuyển hướng gió khác, bao giờ cũng có một
khoảng lặng. Khoảng lặng đến kinh ngạc. Những lúc ấy không có một tý
gió gọi là. Cây cối đứng im phăng phắc. Nhưng cũng chỉ một thoáng thôi,
một thoáng rất nhanh gió lại quật về. Và cũng chính những trận gió ấy sẽ
làm đổ cây, nhổ bật gốc, vặn xoắn ngôi nhà, đẩy tất cả cảnh vật và con
người vào trong tâm bão. Tâm bão đi qua rồi thì khó còn có thể có cái gì
đứng vững.
Quỳ dưới sân là bố Phan Lềnh, cụ chủ Chu. Hai tay lão Chu bị
trói giật cánh khuỷu. Cái đầu hói của cụ Chu còn sót vài ba sợi tóc dài phủ
xuống che kín mặt. Ngồi sau cái bàn kê trên bậc sân đình là lão Mai và
lão Dung. Phan Lềnh không lạ gì hai con người này. Vào những khi giáp
hạt, nhà lão Mai và lão Dung thường đến nhà Phan Lềnh để xin cụ Chu
cho việc làm để kiếm sống. Nhà hai người này con nhiều như gà, như lợn
nên lúc nào cũng đói, cũng rách. Dưới con mắt của Phan Lềnh, hai lão
Mai và lão Dung không xứng cả làm tôi tớ trong nhà. Với Phan Lềnh, hai
lão Mai và lão Dung chỉ là con vật tốt giống không hơn không kém.
Không kịp nghĩ gì, Phan Lềnh lao vào giữa sân, nơi đám đông
đang bu đen bu đỏ. Chiếc tay nải vuột khỏi vai.
- Bố. Sao bố lại nên nông nỗi này? Hả. Ai cho các người bắt bố
tôi. Hả?
Phan Lềnh phủ phục xuống chân cụ Chu. Đôi mắt ngầu đỏ, hằn
rõ những tia máu nhỏ chạy vằn vện trong mắt. Ngay lúc đó, tiếng gào thét
lại ầm lên.
- Trói cổ thằng con nó lại. Bố nó là quân địa chủ. Nó cũng là
quân địa chủ. Trói gô cổ nó lại…
Ngồi trong hốc đá trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh bỗng nhớ lại
chuyện cũ. Nhớ đến rừng đòn gánh, đòn càn, rừng liềm rừng hái cùng tua

19
tủa những cánh tay giơ lên giữa rầm rầm lời hô như bão dậy, như muốn
chụp lấy Phan Lềnh mà xé ra từng mảnh.
Phan Lềnh chợt rùng mình. Bất giác, co hai tay ôm lấy ngực,
Phan Lềnh ngồi tựa vào hốc đá. Mồ hôi rịn trên trán.
Phan Lềnh thấy đói. Bụng sôi lục bục như lỗ nước đùn chỗ
ruộng lầy. Phan Lềnh ngửa mặt nhìn trời đoán thời gian. Sao đến bay giờ
mà chưa thấy lão Tảng đến. Dặn đi dặn lại lão bao nhiêu lần rồi mà lão
vẫn chưa chừa cái tội ngứa mồm. Đúng là đồ ngu. Ếch chết tại miệng. Đã
nói rồi mà vẫn chứng nào tật đó. Phan Lềnh còn lạ gì những người cán bộ.
Phan Lềnh có thể thuộc đến trong vỏ ngoài lõi của họ rồi. Chẳng gì thì
Phan Lềnh cũng đã có một thời ăn sắn, ăn khoai, đắp chung chăn cùng họ.
Có tiếng sột soạt trong lùm cây bên cạnh cửa hang. Với tay cầm
khẩu súng, Phan Lềnh nép vào vách, giấu hẳn mình vào khe đá. Một cái
đầu tóc bết vón lại nhô ra. Mắt lấm lét nhìn vào trong hang. Cái đầu cất
tiếng gọi nhỏ.
- Cậu ơi!
Một mũi súng đen ngòm đua ra, tỳ sát vào má.
- Sao bây giờ mới lên. Lão định để tao chết đói ở đây đấy à?
- Dạ. Con đi sớm nhưng tranh thủ thăm mấy cái bẫy nên lên
muộn. Cậu thông cảm, tha cho con.
Đỡ nắm xôi lão Tảng lấy từ trong cái típ ra. Phan Lềnh lừ mắt.
- Lão cần tiền đến thế cơ à? Có cần thêm tao đưa cho?
- Dạ. Không. Tiền cậu chủ cho con vẫn còn chưa dùng hết. Cậu
bỏ quá cho con. Con nhớ rồi.
Vừa ăn, Phan Lềnh vừa gườm gườm nhìn.
- Lão nhớ đấy. Đi đứng cho đúng giờ. Lão mà còn bén mảng,
lởn vởn ở khu này vì mấy con cầy, con cáo. Lão sẽ biết tay tao. Lúc đó
đừng có trách tao không nói trước.
- Dạ. Con nhớ.
- Lần này về, nhớ tranh thủ xem bà và cậu Đô, cậu Đồ thế nào
nhé. Có gì nói lại cho tao đấy. Rõ chưa?
- Dạ. Con nhớ rồi.
- Mà lão cũng bớt tội ngứa mồm đi. Làm kheo khéo vào kẻo lại
đưa bọn công an lên đây thì lão chết.
- Cái đấy cậu chủ yên tâm. Con đi vào rừng thường xuyên nên
có mấy ai để ý. Có chăng chỉ có chó nó mới để ý đến con.
- Dặn phòng xa lão thế. Làm gì cũng phải cẩn thận đấy. Chỉ cần
một sơ xuất nhỏ là không còn đất sống đâu.
- Dạ. Cậu chủ cứ yên tâm.
- Được rồi. Lát nữa về. Nhớ mấy việc tao dặn.
- Dạ.

20
5
VÉN MÀN BÓNG ĐÊM

Mọi thông tin về hang ma có ma ngày càng dồn về Ban chỉ huy
công an nhân dân vũ trang Yên Hưng một nhiều thêm. Kéo tấm màn ri đô
sang bên, Tô Hồng Dân, trưởng ban trinh sát ban công an nhân dân vũ
trang Yên Hưng nhìn như dán mắt vào cái điểm chấm có dấu khoanh tròn
tròn trên bản đồ khu vực có quyết tâm chiến đấu của đơn vị. Trên tấm bản
đồ chỉ có mầu xanh thẫm, cùng các đường nâu nâu vàng vàng nhỏ, mảnh
như sợi chỉ vắt loằng ngoằng tầng tầng lớp lớp. Nhìn vào bản đồ, những
dấu hiệu trên cho người xem nhận ra đây là khu rừng rậm và có độ cao
nhất trong cả khu vực. Nếu từ độ cao này, đứng trên đó có thể quan sát
được toàn bộ khu vực rộng tới hàng chục ki lô mét vuông. Mặc dù chưa
có dịp đặt chân lên điểm cao này, nhưng những gì mà các nhà đo vẽ bản
đồ thể hiện cũng đủ cho Tô Hồng Dân nhận ra sự gian khổ và nguy hiểm
khi lên đây. Hướng có hang ma cũng là hướng trọng điểm, địa bàn trọng
điểm trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị biên giới của đơn
vị.
Nhìn kỹ lại một lần nữa tấm bản đồ trước khi kéo tấm màn ri đô
che đi, Tô Hồng Dân mở tủ hồ sơ tài liệu. Toàn bộ tình hình an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội cho đến bố trí dân cư, đời sống văn hoá, kinh
tế của các bản xung quanh chân núi và trong khu vực cũng vừa được anh
em bổ sung song các con số còn rất sơ sài, gần như còn trống trơn. Ngồi
lại bàn làm việc, Tô Hồng Dân đưa hai tay lên bóp bóp trán. Tô Hồng Dân
cố nhớ lại những điều đã biết rồi xâu chuỗi, lắp ghép nó thành một sự
thống nhất theo trình tự.
Bản La Khê nằm trong khu vực địa bàn nội địa đất liền. Nếu cắt
theo đường chim bay, từ bản La Khê ra đến khu vực biên giới biển
khoảng mười lăm ki lô mét. Nếu cũng từ bản La Khê đi lên hướng biên
giới đất liền khoảng hai, ba mươi cây số. Đường chim bay là thế nhưng
nếu đi bộ từ bản La Khê ra đến biển phải mất ngày đi bộ và đi ra biên giới
đường bộ thì cũng phải mất từ hai đến ba ngày đường.
Các bản nằm xung quanh chân núi Bái chủ yếu là đồng bào dân
tộc. Do nằm xa các khu trung tâm văn hoá xã hội và chính trị nên sự tác
động của các chế tài luật pháp hầu như không có tác dụng. Mọi hoạt động
trong quan hệ đều ứng xử theo phong tục tập quán của mỗi dân tộc và các
dòng tộc trong vùng. Trong những năm thực dân Pháp còn cai trị, chủ yếu
các quan lại cấp phủ, huyện đều dựa vào những người có chức sắc trong

21
bản và dân tộc. Thời kỳ kháng chiến, nơi đây là vùng răng lược, đan xen
giữa vùng tề và vùng theo Việt Minh.
Do sống trong vùng sâu nên trình độ dân trí còn thấp, đời sống
sinh hoạt vật chất chủ yếu dựa vào tự cung tự cấp và tự nhiên. Người dân
ở đây, ra khỏi nhà ngửa mặt là núi, cúi mặt là suối, quanh năm suốt tháng
chỉ biết vào rừng săn bắt con cày, con cáo, lũ gà rừng, con chim, con dũi,
trồng lúa, trồng ngô, trồng khoai. Ngọn núi Bái cao ngất ngưởng lúc nào
cũng có sương phủ trắng bao quanh. Vượt qua dãy núi là sang bên kia, nơi
con người cũng mang dòng máu giống nhau nhưng đã nói thứ tiếng nói
của nước khác, đất khác.
Sáng, khi sương mù còn phủ kín cả bản, cách nhau bước chân
không nhận ra người, tiếng con gà gáy nhòe hơi nước, khản giọng vì lạnh
thì người phụ nữ đã phải lên nương. Lên được đến nương, khi đó sương
đã kéo nhau lên tận đỉnh núi Con Cóc. Buông cái lù cở khỏi vai, đưa tay
gạt mồ hôi mặt, cái tay đã phải cuốc cho đến khi cái lưng thấy mỏi, cái tay
thấy nhức, cái áo thấy ướt mới dừng để lấy nắm cơm gói trong túm lá
dong ra ăn. Ấy là đã trưa. Lúc này ông mặt trời mới vừa ló ra khỏi đám
mây dầy như cái nệm chăn bông gòn, bông gạo. Miếng cơm chưa nuốt
trôi khỏi cổ, hớp nước vừa vào đến miệng đã lại tay cuốc, tay cào cho đến
tối mò tối sà mới quàng cái lù cở lên vai về bản. Về đến bản, chui vào
nhà, nổi vội cái bếp lửa, nấu xong được nồi cơm, bát canh, lùa qua miệng,
chùi hai bàn chân vào nhau, ngả lưng lên cái chõng tre là hai mắt đã dính
chặt vào nhau. Cái ăn, cái uống hằng ngày kéo cuộc sống của người dân
xuống đất, lẫn vào cây ngô, cây khoai. Ngẩng đầu lên đầu ngày khi sương
còn mờ nhọ, ướt mặt người. Làm cho đến cuối ngày, ngẩng mặt lên đã lại
một màu đêm.
Vào một sáng, khi lớp sương mù vừa kịp cho mặt trời he hé
chiếu vài ba tia nắng xuống vạt đồi, cả làng La Khê thất kinh khi nghe tin
cô Lù treo cổ tự tử ở cửa hang ma. Già làng không kịp tắt bếp, rút củi,
người lớn quăng cuốc ngoài nương, lũ trẻ để mặc trâu ngoài rừng, bọn con
trai, con gái đùm úm kéo nhau chạy về hang ma.
Ngay chính giữa cửa hang ma, cô Lù tự cuốn một sợi dây sắn
rừng quanh cổ, đầu dây phía trên buộc vào cái gốc cây si mọc thò ra cửa
hang. Đám rễ cây si chảy xủ xuê xuống che gần hết hang. Đám rễ cây si
mà lũ trẻ trâu thường bám vào đó đu mỗi trưa đi tìm trâu hay xua trâu về
nhà. Chùm rễ cây si phơ phất lắc lư, đẩy qua đẩy lại che khuất người cô
Lù.
Phía trên, chỗ cái thòng lọng dây sắn rừng thít vào cổ cô Lù, cái
đầu của cô Lù ngật sang một bên. Mái tóc mọi ngày cô quấn, giấu trong
chiếc khăn đội đầu nay xổ xuống, bám rối vào chùm rễ si. Mắt cô Lù trợn
tròn, xám ngoét. Miệng cô Lù còn ngậm cái lưỡi bị đùn ra thâm như
miếng thịt trâu. Bám vào cái đầu lưỡi thâm đi đỉ ấy là cả một bầy nhặng

22
bu đen. Phía dưới sợi dây cuốn cổ là cả cái thân cô Lù thả rủ xê, thõng
thượt. Hai cánh tay cô Lù buông xuôi, dọc theo thân người. Bàn tay cô
cong cong như bàn tay khỉ. Hai bàn chân của cô Lù thẳng đuồn đuỗn chúc
xuống dưới. Từ các đầu ngón chân, ngón tay, nước vàng vàng từ người cô
chảy ra nhỏ từng giọt tóc tách rơi xuống. Cạp váy của cô bễ xuống vướng
vào hai bên mông, chiếc áo co tớn lên, làm trật ra cái bụng của cô có
những lỗ thủng mà nước từ trong thỉnh thoảng lại ộc ra, chảy xuống cái
váy rồi rơi xuống nền đất mặt cửa hang.
Phía đất dưới cửa hang, thẳng chỗ cô Lù treo mình, ruồi bu
đen, đặc như bầy ong. Mỗi lúc có ai rẽ đám rễ cây si để đến gần xem xác
cô Lù, lũ ruồi chả khác gì bầy ong bị động tổ nhao nhao bay ra ngoài.
Trên người cô, chỗ cái bụng trật ra trắng hêu hếu như cái da con lợn bị dội
nước làm thịt, từ các lỗ thủng bụng cô Lù, các con bọ vón cục thỉnh
thoảng lại rơi xuống chỗ nước làm bầy ruồi nhao nhao bay lên. Tiếng ao
ao của bầy nhặng vỗ cánh nghe ai oán, thổn thức, nức nở.
Từ trên người cô Lù, các búi dòi rơi xuống chạm mặt vũng
nước lẹt bẹt. Khi rơi xuống đất, đám dòi bọ lại xục mình vào vũng nước,
vón cục. Có nhiều con bò cả ra bốn xung quanh. Chúng bò ra xa một đoạn
rồi lại lần tìm theo các vệt nước quay trở lại vũng nước vàng vàng từ
người cô Lù nhểu xuống. Mùi thối rữa, khăm khắm, từ người cô Lù thoát
ra, mùi từ vũng nước vàng vàng của bầy ruồi hắt lên tanh tanh nồng nặc,
sặc sụa.
Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma đã xảy ra lâu lắm rồi. Cô
Lù chết từ bao giờ không ai biết, Tô Hồng Dân cũng như anh em cán bộ
chiến sĩ trong đồn chỉ nghe người dân trong bản nói lại, kể lại. Rồi cả
chuyện cô Lù chết về bắt dân làng chết theo cũng là chuyện mà mọi
người, chỉ được nghe mà không được thấy. Mọi người chỉ biết rằng, khu
vực núi Bái, cánh rừng bên chân núi Bái, không có mấy người dám ra vào
săn bắn hay trồng cấy cái gì. Nay, không biết từ đâu, người xung quanh
núi Bái lại rộ lên chuyện hang ma có ma. Người dân ở bản La Khê lại rục
rịch đưa cả nhà đi tránh. Bỏ bê ruộng nương cho cỏ mọc.
Sau khi đã lật giở lại hồ sơ trong khu vực, trưởng ban trinh sát
tỉnh Tô Hồng Dân cho gọi A Lò và Tự Kim lên phòng làm việc. Anh cũng
cho gọi đội trưởng đội đội trinh sát địa bàn lên để trực tiếp báo cáo. Đợi
mọi người ngồi xuống ghế, Tô Hồng Dân hỏi ngay.
- Mấy đồng chí có nghe thấy tin tức tình hình gì đang xảy ra
trên địa bàn núi Bái, khu vực bản La Khê không?
A Lò, Tự Kim đưa mắt nhìn đội trưởng trinh sát địa bàn ra ý
chưa hiểu trưởng ban trinh sát tỉnh hỏi cái gì.
- Báo cáo trưởng ban trinh sát. Anh em ở cơ sở báo về vẫn bình
thường ạ. Trưởng ban hỏi về vấn đề gì cơ?

23
Nghe thế, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân đập tay xuống bàn,
cáu.
- Các đồng chí nói bình thường là bình thường như thế nào?
Hãy nói cho tôi biết cái bình thường của các đồng chí đi. Nói tôi nghe
xem nào?
A Lò, Tự Kim và đội trưởng đội trinh sát đỏ bừng mặt. Mọi
người biết, khi trưởng ban trinh sát hỏi thế là thể nào cũng đã có chuyện
gì xảy ra. Nhưng trong lòng chưa biết là ý trưởng ban trinh sát hỏi về vấn
đề gì.
- Các đồng chí nói tôi nghe tình hình địa bàn có xảy ra chuyện
gì không?
Lúc này thì mọi người đã hiểu rõ ý của Tô Hồng Dân. A Lò và
Tự Kim nháy mắt ra hiệu đội trưởng đội trinh sát nói trước.
- Báo cáo trưởng ban trinh sát. Địa bàn báo về là cơ bản không
có gì lớn. Tình hình an ninh cơ bản ổn định.
- Thế đồng chí có biết, dân ở bản La Khê đang rục rịch bồng bế
chồng con gia đình đi không?
- Dạ. Có biết.
- Biết mà địa bàn vẫn cơ bản ổn định là sao? Hả?
- Báo cáo trưởng ban…
Không để cho đội trưởng trinh sát nói hết, Tô Hồng Dân lúc này
thực sự thấy bực mình. Tô Hồng Dân nhìn sang phía A Lò và Tự Kim.
- Thế hai đồng chí có biết chuyện gì không?
Nghe trưởng ban trinh sát hỏi, cả A Lò và Tự Kim lúng búng.
- Chuyện dân bản La Khê rục rịch bỏ đi, theo chúng tôi được
biết là do có tin đồn hang ma có ma. Dân sợ lại xảy ra như trước kia.
- Thế các đồng chí có biết từ đâu, ai là người tung ra tin này
không?
- Dạ. Chúng tôi mới chỉ nghe nhưng chưa xác minh được.
- Thế đến bao giờ thì xác minh được. Mai, ngày kia hay sang
năm hả? Hay là thôi. Cái gì xảy ra cũng chỉ nghe mà không cần làm,
không cần điều tra xác minh?
Đến lúc này thì cả A Lò, Tự Kim và đội trưởng trinh sát địa bàn
đã đoán ra. Việc hang ma có ma, việc người dân La Khê bỏ bản đi không
còn là chuyện nhỏ nữa mà là chuyện lớn.
Sự việc như thế mà khi hỏi, cán bộ chiến sĩ chỉ trả lời chung
chung nên Tô Hồng Dân thực sự khó chịu. Tô Hồng Dân thấy bực bội
trong người. Nỗi bực tức không kìm giữ được, bộc ra ngoài.
Chỉ tay thẳng vào mặt cả ba người, Tô Hồng Dân nói mà như
quát.
- Ngay ngày mai, cả ba đồng chí phải đi xác minh cụ thể và
phải kết luận cho tôi rõ. Ai? Ở đâu tung ra tin hang ma có ma? Dân bản

24
bỏ bản đi có phải vì tin này không? Có bao nhiêu nhà đã đi? Bao nhiêu
nhà sắp đi? Bao nhiêu nhà còn ở lại bản? Đã làm cái thằng công an ấy.
Cái gì chỉ hơi khác bình thường là phải nắm ngay, phải có kết luận ngay.
Nắm thật chắc đến tận gốc rễ ấy. Cứ ậm ờ ậm ờ rồi có ngày, thổ phỉ nó
mang mìn vào tận đây nó đặt, mang súng vào tận đây nó bắn. Lúc đó rồi
mới biết. Đằng này. Tình hình gần như rối tung lên mà còn bình thường
với chả bình thường.
Nói đoạn, Tô Hồng Dân ngồi phịch xuống ghế. Cả ba người còn
chưa hết bàng hoàng, đứng chôn chân bên bàn.
- Các anh không đi làm ngay còn đứng đực ra đấy làm gì? Hả?
- Báo cáo trưởng ban…
- Báo báo cái gì. Báo báo cái con…Lúc nào cũng chỉ báo cáo
với báo mèo. Làm thì như đĩ chơi giăng mà báo cáo cho lắm.
A Lò, Tự Kim và đội trưởng trinh sát vội đi nhanh ra ngoài. Đi
như chạy.
Nhìn theo bóng ba chiến sĩ thuộc quyền, lòng Tô Hồng Dân
buồn rười rượi. Linh tính mách bảo, chuyện hang ma có ma, chuyện dân
bản La Khê bỏ đi không chỉ đơn thuần là tin đồn, không hẳn là sự lo lắng
sợ sệt. Đằng sau nó là vấn đề hệ trọng mà bây giờ, Tô Hồng Dân chưa thể
đọc tên, nói rõ ra bản chất của nó được. Nó là cái gì? Hình thù của nó ra
sao? Tất cả còn nằm trong bóng tối.

25
6
BÓNG MA

Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma vì ai, vì cái gì thì dân làng


La Khê chẳng cần phải ai nói cũng biết. Chuyện cô Lù thích thằng Lềnh,
ngủ với thằng Lềnh có chửa rồi nó bỏ trốn đi đâu biệt tăm biệt tích thì cả
bản đều biết. Tục làng nó thế. Trai gái thích nhau cứ thích, yêu nhau cứ
yêu, cho nhau cứ cho nhưng không được để có con. Con cái là của trời, có
rồi thì phải sinh, phải nuôi. Không sinh được, không nuôi được thì phải
chết. Nếu không muốn chết thì bỏ làng mà đi. Làng bản không có người
như thế. Nếu ở bản nào có kẻ đó thì bản sẽ phải chịu trời phạt làm cho đói
khổ, chết chóc. Nếu không chết cũng ốm quặt ốm quẹo, bệnh tật đeo bám
suốt đời.
Cô Lù vì yêu thằng Lềnh, thích thằng Lềnh, cho thằng Lềnh cái
sinh con của mình nhưng nó lại bỏ bản đi thì cô Lù phải tự tìm đến cái
chết thôi. Bản không thương, bản không tiếc. Những người như thế không
phải là người của bản. Nó là con ma rừng đầu thai vào người mà thành.
Nó chết đi càng không phải bắt tội người bản được.
Bản cũng không lạ gì nhà thằng Lềnh. Ông thằng Lềnh là thày
mo của cả khu rừng bên chân núi Bái. Ông nó đêm đêm ngày ngày đi
cúng cho nhà ai có bệnh, có hạn, có lễ. Khi đi tay không nhưng khi về đã
có gà cắp nách, có dê kéo tay, có lợn nhốt trong rọ, có bạc giắt cạp quần.
Vì ông nó kiếm được nhiều tiền, lấy được nhiều lợn, nhiều gà, nhiều dê
của các nhà người bệnh mà trong nhà ông nó lúc nào cũng có gà đầy sân,
lợn đầy vườn, dê khắp núi. Nhà ông nó là nhà giàu có nhất nhì trong vùng
núi Bái. Đứng từ trên đỉnh Con Cóc, đưa mắt nhìn xa khi nào không thấy
người, không rõ cây mới hết đất của nhà ông nó. Vì ông nó giầu thế nên
khi quân Pháp đưa lính lên đây cũng phải vào xin ông nó đất để dựng trại
cho lính ở. Thằng quan hai ngày nào cũng có mặt ở nhà ông nó uống
rượu, ăn thịt thú rừng và chơi gái bản. Ông nó thích đứa con gái nào là
đứa đó phải về làm vợ, lau chân, rửa mình, ôm ông nó ngủ cho không
lạnh. Đứa con gái của bản nào mà lấy được con cháu nhà ông nó là có
khác gì con chuột tìm được cái hang để ở. Mà cái hang này lại có nhiều
thóc, còn hơn tìm được các đọn lúa treo trên gác bếp. Cũng chính vì thế
mà vợ của ông nó đông hàng đàn, con nhiều hàng đống, còn cháu chắt
dòng họ nhà nó đông như cỏ dại. Cỏ dại nhà nó vương vào đâu là ở đó
nảy mầm, ăn sâu bám rễ, mọc nhanh chả mấy chốc mà đã thành rừng.
Hết đời ông lại đến đời bố nó. Bố thằng Lềnh cũng làm thày
mo. Bố nó có khuôn mặt của dơi, tay của khỉ, chân của loài cáo nhưng cái
26
con giống thì của loài ngựa, loài sơn dương. Người trong bản trên xóm
dưới sợ bố nó hơn sợ cọp. Bố nó còn thuê cả lính về ở, canh gác vòng
trong vòng ngoài. Bố nó làm nghề thày mo, thầy cúng nhưng người trong
bản thấy bố nó chẳng mấy khi ở trong vùng. Bố nó thường xuyên sang
bên kia buôn bán với người bên kia biên giới. Đã có nhiều người theo bố
nó sang bên kia biên giới nhưng người trong bản không thấy trở về bản
bao giờ nữa. Người trong bản kháo nhau, hình như bố nó buôn bán bạch
phiến với người ở bên kia biên giới. Đúng sai ra làm sao không biết
nhưng bố nó chỉ cần nghe phong thanh thôi, rằng người nọ, người kia nói
thế này thế khác thì chỉ một thời gian sau người đó đã không thấy có mặt
ở trong bản nữa. Sống đầy đọa còn khổ gấp trăm nghìn lần chết nhanh.
Nhưng vì cái sống, vì muốn thân xác và người nhà không chịu cảnh đọa
đầy nên ai cũng im lặng chẳng dám nói xa, nói gần. Cái sự mưu sinh nó
trói buộc con người ta vào trong vòng cương toả vô hình của bố thằng
Lềnh đưa ra.
Từ ngày ông nó mất, bố nó lên thay cai quản cơ ngơi tài sản thì
đất nhà nó càng rộng, người ăn người ở nhà nó càng đông, trâu bò nhà nó
đầy rừng, con lợn con gà nhà nó đếm mỏi mồm chưa hết. Đi đến đâu, làm
cái gì, từ hòn đá trên núi, con cá dưới khe đến cái cây mọc bên lối đi, bãi
phân trên vách núi cũng là của nhà thằng Lềnh cả. Của cải nhà nó không
để đâu cho hết.
Sau khi làm cho cô Lù có chửa, cái bụng cứ to đẫy ra, ềnh ễnh,
ọc ạch đi thì thằng Lềnh tìm đường trốn mất tăm mất tích. Cô Lù vì sợ già
làng bắt phạt mà phải ra cửa hang treo cổ. Cô treo cổ, chết thối trên cây,
cái bụng có đứa trẻ bị dòi, bọ ăn nhung nhúc, từng búi rơi lét bét xuống
đất được người già lấy làm câu chuyện răn dạy con cháu. Năm này qua
năm khác, tháng này qua tháng khác, câu chuyện được kể từ xó bếp đến
chân cầu thang, theo mồm người lên nương, vào núi.
Thói đời, câu chuyện qua miệng người nó như cái cây, chỉ từ
một cái hạt nhỏ tin hin bằng móng tay, bắt rễ vào đất, mọc mầm, nảy lá
rồi cứ thế ăn sâu bám rễ vào đất mà lớn lên. Qua gió câu chuyện một sinh
mười, qua đất câu chuyện sinh ra một trăm nhưng qua miệng người thì nó
sinh ra hàng nghìn, hàng vạn câu chuyện khác. Nó như cái cây mọc rễ rồi
từ một cây thành hai cây, hai cây thành bốn cây, bốn cây thành mười sáu
cây. Cứ thế, chả mấy chốc nó đã thành rừng, trùm kín cả núi, trùm kín cả
người. Nếu câu chuyện mà lại qua miệng kẻ ác thì nó nhiều lắm, nhiều vô
kể, chặt không hết, đếm không hết. Nhiều vô thiên rủng. Lúc ấy nó chả
khác gì cơn gió độc luồn lách, chui rúc vào đến tận xó bếp, góc nhà,
chuồng lợn chuồng gà, nó bám vào cả từng chân lông của lũ dê thả trên
núi.
Chuyện cô Lù treo cổ chết ở cửa hang ma cũng thế. Nó qua
miệng người, qua bao nhiêu năm, qua bao nhiêu tháng người nghe không

27
còn biết đâu là thực, đâu là giả, u u minh minh như rừng, như đất, như
người. Lũ trẻ lớn lên thành người lớn, người lớn già đi thành đất, thành
cát. Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma có thật hay không có thật chỉ có
trời biết, đất biết. Bởi cho đến bây giờ, người trong bản, quanh chân núi
Bái có hỏi người già rằng cô Lù người bản nào, cô có xinh hay không
xinh, cha mẹ cô là ai. Chịu. Chỉ tay lên núi. Lên kia mà hỏi thần rừng.
Thần rừng biết đấy. Thần rừng, thần đất nói lại cho mà nghe. Nhưng mọi
người tin. Tin chứ. Cô Lù bị thằng Lềnh nó làm cho cái bụng to lên cũng
vì tham nhà nó giầu, cái tai ham nghe lời nó nói. Tiếng nó nói như con
chim hót thế thì cô Lù chết mê chết mệt là phải thôi.
Bọn con gái bây giờ cũng thế cả. Nó không chịu nhìn bằng mắt,
chúng nó chỉ thích nhìn bằng tai thôi. Con chó sói ngoài rừng, khôn thế,
liều lĩnh là thế mà cũng chết vì bả đấy thôi. Cái bả làm ra có mùi thơm
nên cái mũi chỉ ngửi thấy thơm mà con mắt có nhìn thấy cái cạm người
gài bên dưới đâu.
Tai thính nhưng không biết phân biệt tiếng động độc, mũi thính
chỉ ngửi thấy mùi thơm mà không ngửi thấy mùi thuốc độc, mắt sáng
nhưng không nhìn ra cái ác, cái chết bên trong thì chết thôi, thì bị bắt làm
thịt thôi. Trách ai được, mắng ai được. Có mắng thì hãy mắng mình ngu
ấy. Già làng kể chuyện bao giờ cũng nói thế mà.
Tự Kim và A Lò vừa nghe già bản kể vừa vội vàng ghi chép
vào cuốn sổ tay. Câu chuyện cô Lù chết nếu theo già bản kể cũng khó mà
xác định được thực hư thế nào. Nhưng có thực nhà thằng Lềnh như thế
không? Nhà thằng Lềnh có bao nhiêu người? Tại sao thằng Lềnh lại bỏ
nhà đi? Nó đi đâu? Làm gì? Đi từ bao giờ? Trước kia thằng Lềnh là người
như thế nào? Có nghĩa là phải hỏi cho rõ tất cả. Rồi hang ma nữa. Phải lên
hang ma. Lên tận nơi xem cái hang đó như thế nào? Có đúng là hang ma
có ma không? Nếu không có ma thì cái gì phát ra lửa đêm đêm?
Sau một lúc đắn đó tính toán, Tự Kim và A Lò quyết định phải
lên xác định hang ma trước. Xong việc trên hang ma sẽ đi xác minh thân
phận của Lềnh.

28
7
CHUYỆN CỦA VỊ CHỈ HUY TRƯỞNG

Vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, Thiếu tá Trịnh Toàn đã nghe tiếng
kẻng báo thức. Ông choàng dậy, mặc quần dài rồi đi xuống dưới sân cùng
tập thể dục với anh em cán bộ chiến sĩ. Ông đưa mắt nhìn quanh. Chính
trị viên Song Hoa cũng đã đứng đầu hàng phía bên phải đang cùng anh
em cán bộ chiến sĩ dàn hàng đội hình tập thể dục.
Đợi cho sĩ quan trực ban điều hành tập xong ba bài võ thể dục,
Thiếu tá Trịnh Toàn đi nhanh về phía chính trị viên Song Hoa. Chính trị
viên Song Hoa cũng nhận ra chỉ huy trưởng đang đi về phía mình. Ông
đứng lại có ý chờ. Đến bên chính trị viên Song Hoa, Thiếu tá Trịnh Toàn
nói nhỏ chỉ đủ để hai người nghe.
- Ăn sáng xong, anh đến phòng tôi. Tôi có việc muốn trao đổi
với anh.
Nhìn nét mặt của chỉ huy trưởng, chính trị viên Song Hoa biết
có chuyện quan trọng. Là con người thẳng thắn, bộc trực nên ông biết, chỉ
huy trưởng nếu có việc quan trọng là rất khó giấu. Khi có những việc
quan trọng, Trịnh Toàn thường mất ngủ. Chỉ nhìn vào hai mắt là Song
Hoa có thể đoán được tối qua đã có việc gì xảy ra.
- Đêm qua anh lại không ngủ à?
- Vâng. Tôi không ngủ được. Tôi cũng đã định gọi điện mời anh
sang phòng tôi ngay tối qua.
- Thế sao anh không gọi. Tối qua tôi cũng có ngủ được đâu.
- Thôi. Anh cứ đi ăn cùng với anh em xong rồi đến tôi cũng
được. Tôi cũng phải ăn miếng gì lót bụng chứ tối qua thức khuya, không
có gì đấm bụng bây giờ cũng đang xót ruột.
Nói đoạn, Thiếu tá Trịnh Toàn đi nhanh về phòng. Đứng nhìn
theo dáng đi của chỉ huy trưởng, Song Hoa tự nhiên thấy nhói đau vùng
ngực. Anh vươn tay lên cao, hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra. Anh cứ
làm như thế bốn năm lần nữa rồi thư thả đi về phòng nghỉ của mình.
Trưởng thành từ người lính, tham gia nhiều chiến dịch trong
chiến tranh vệ quốc, lòng nhiệt tình cách mạng có thừa nhưng Trịnh Toàn
lại quá nóng nẩy. Ở ông nhược điểm lớn nhất có lẽ là quá lo lắng công
việc. Trách nhiệm với công việc là cần thiết của người lãnh đạo, chỉ huy
nhưng nếu lúc nào cũng sôi lên sùng sục như nồi nước sôi thì có khi lại
hỏng việc. Ở Trịnh Toàn khi có công có việc là chỉ muốn làm ngay, làm
cho xong. Ông luôn ở hai thái cực của lòng tốt và sự kiên quyết. Chính trị

29
viên Song Hoa biết, để công việc trôi chảy và có đủ độ chín, không ai
khác, ông sẽ phải là người điều chỉnh.
Trước khi về nhận nhiệm vụ ở đơn vị, Chính uỷ Ban công an
nhân dân vũ trang Trung ương cũng đã cho gọi ông lên phòng để trao đổi
riêng. Chính uỷ cũng có nhắc nhở ông về việc phải điều chỉnh và giữ
được mối quan hệ đoàn kết mật thiết giữa chỉ huy và chính trị. Ông thân
mật bảo.
- Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương tin tưởng cậu nên
mới đưa cậu về phụ trách chính trị ở đơn vị Yên Hưng. Trịnh Toàn là
người có tài, năng nổ, nhiệt huyết nhưng tính tình rất nóng nảy. Là người
chỉ huy nóng nảy là cần thiết nhưng nóng quá là hỏng việc đấy.
Ông cười nhỏ nhẹ
- Về làm cùng với Trịnh Toàn, bao giờ hai người cãi nhau nhớ
gọi điện cho mình nhé.
Cũng trưởng thành từ người nông dân khoác áo lính, chính trị
viên Song Hoa biết mình phải làm gì. Muốn anh em cán bộ chiến sĩ làm
việc tốt thì phải yêu thương anh em cán bộ chiến sĩ. Song Hoa vẫn nhớ
đinh ninh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: Cán bộ là cái gốc của công
việc. Công việc thành hay bại cũng đều do cán bộ mà ra. Trước khi chia
tay chính uỷ về nhận nhiệm vụ, Song Hoa cũng đã hứa với chính uỷ sẽ
xứng đáng niềm tin cậy của Ban công an vũ trang Trung ương giao cũng
như niềm tin và tình cảm của chính uỷ gửi gắm.
Thấy Trịnh Toàn sáng ra đã nói với mình như thế, Song Hoa
biết có chuyện quan trọng. Sống với nhau, công tác với nhau, thường
xuyên bàn bạc trao đổi công việc nên với Trịnh Toàn, Song Hoa chỉ cần
nghe giọng nói, chỉ cần quan sát nét mặt, thậm chí chỉ cần qua thái độ
biểu đạt của giọng nói là đã có thể đoán định được mức độ quan trọng của
câu chuyện mà hai người sắp nói với nhau.
Ngày đầu tiên, khi Song Hoa bước chân về đến đơn vị, vừa
trông thấy nhau, Trịnh Toàn đã nói.
- Anh về đúng lúc lắm. Tôi đang đau đầu về chuyện đơn vị ở
trên nhà Tròn đây. Nếu anh không mệt, ta ngồi trao đổi luôn.
Vừa chân ướt chân ráo về đến đơn vị, chưa nắm được tình hình
chung cũng như đặc thù của từng đơn vị. Đơn vị nào yếu cái gì, mạnh cái
gì, con người, công việc, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ ra sao. Ngay chuyện ăn
ở sinh hoạt, tác phong, thái độ nhận thức của anh em cấp dưới như thế nào
ông cũng chưa nắm được. Chuyện riêng tư, tâm tư nguyện vọng của cán
bộ chiến sĩ cũng yêu cầu ông phải nắm chắc. Có nắm chắc thì ông mới có
thể quản lý, giáo dục cho anh em được.
Biết là nếu có ngồi nghe cũng chỉ là ngồi nghe, nhưng nếu vừa
về mà không ngồi lại khi được đề nghị thì cũng bất nhã. Chính trị viên
Song Hoa nhún nhường.

30
- Vâng. Có chuyện gì thế anh?
- Mấy thằng ở đơn vị nhà Tròn suốt ngày lên đòi đi vào Nam
chiến đấu. Tôi nói mãi không được. Anh về rồi, xem có cách nào trị cho
cánh này một trận mới được. Biết là trong chiến trường cần nhưng ai cũng
cứ đòi đi thì ở ngoài này để cho chó nó trông coi à.
Mặc dù chưa có lấy một ngày công tác ở đơn vị nhưng Song
Hoa biết. Tâm tư chung của tất cả anh em trong các đơn vị hiện nay là
như thế. Từ ngày thành lập lực lượng đến nay, tâm tư của anh em cán bộ
chiến sĩ vẫn còn những lăn tăn suy nghĩ. Chuyện lăn tăn này là đáng
mừng chứ có gì quan trọng quá đâu mà lo. Cả nước đang sôi sục khí thế
cách mạng. Các thế hệ thanh niên nô nức lên đường tham gia đi theo cách
mạng. Ngay bản thân ông cũng đâu có muốn ở lại hậu phương như thế
này. Nhưng vì nhiệm vụ của cách mạng giao, vì sự nghiệp chung nên ông
phải chấp hành.
Để giảm hỏa trong người Trịnh Toàn, ông nhẹ nhàng.
- Vâng. Anh cứ để đấy rồi tôi sẽ trao đổi với anh em sau.
Chưa để ông nói hết câu, Trịnh Toàn đã sồn sồn.
- Anh nói thế thì chờ đến bao giờ. Tụi này cứ gọi lên quạt cho
chúng một trận. Suy bì với chả suy bì. Vớ vẩn. Lập trường giai cấp để đâu
không biết.
Đã được Chính uỷ Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương
nói cho biết trước nên Song Hoa không thấy bất ngờ nhưng thực bụng ông
cũng thấy khó chịu. Làm gì thì làm nhưng cũng phải để ông có thời gian
nắm bắt tâm tư nguyện vọng chung rồi mới làm. Biết thế nên Song Hoa
điềm tĩnh nói nhỏ nhẹ để yên lòng Trịnh Toàn.
- Thôi được rồi. Anh để ngày mai tôi sẽ xuống đơn vị gặp gỡ
mấy tay ngang ngạnh cho anh. Anh cứ yên tâm đi. Chuyện đó để tôi lo.
- Được rồi. Anh muốn làm gì thì anh làm nhưng anh mà không
làm cứng là tụi này được thể lại càng làm quá lên là nát bét đơn vị đấy.
Tôi là tôi cứ cho gọi lên, bắt viết kiểm điểm là im hết. Người cách mạng
là phải nhận bất cứ nhiệm vụ gì và hoàn thành xuất sắc. Nghe tin có anh
về nên tôi còn để lại chưa cho gọi lên đấy.
- Thôi được rồi. Anh cứ để chuyện này tôi lo.
Nói đoạn, Song Hoa cười vui vẻ.
- Anh định cho tôi ngủ ở đâu đây? Cho tôi rửa cái mặt đã chứ.
Hôm sau ông xuống, ngồi trao đổi với anh em cán bộ chiến sĩ,
mọi việc lại đâu vào đấy.
Biết tính Trịnh Toàn, xuống bếp ăn vội lưng cơm, Song Hoa đi
lên phòng chỉ huy trưởng.

31
8
BÍ MẬT NÚI BÁI

Sau khi đã xuống bản La Khê nắm lại tình hình và nghe người
dân quanh vùng kể về câu chuyện thời gian gần đây xảy ra trên hang ma.
Gặp gỡ các già làng để nghe các già làng nói cho hay về những gì già làng
biết hang ma. Tự Kim và A Lò quyết định tìm đường lên tận hang ma
xem thực tế.
Đứng từ xa nhìn lại, núi Bái trông như hình con trăn đang trườn
mình săn mồi. Mỏm núi phía Đông trông chính diện không khác gì con
rắn hổ mang chúa đang ngoác miệng, bành cổ cong lên trong tư thế mổ.
Cú mổ quyết định tiêu diệt con mồi. Càng đến gần, núi Bái trông lại giống
con voi nằm phủ phục, bái vọng về phía biển.
Theo truyền thuyết kể lại, vùng núi Bái ngày xưa nguyên là
vùng đầm lầy. Đây là nơi sinh sống chủ yếu của các loài thân giáp. Trong
đầm lầy có rất nhiều rắn và cá sấu. Vào một năm, trời làm hạn hán, cả khu
đầm lầy khô nẻ, cây cối chết khô. Những người dân quanh vùng lúc đó
còn có thể đi ra đầm lấy cây khô về làm củi. Vì đầm lầy khô hạn, không
còn chỗ trú ẩn, các loài cũng theo nhau đi dần về phía biển. Duy lúc đó,
có một ổ rắn chúa vừa mới nở. Vì mới sinh nên đàn rắn con không thể
theo đàn ra đi nên con rắn chúa đành phải ở lại cùng các con chịu cảnh
chết dần chết mòn. Khi sức đã tàn, lực đã kiệt vì nắng, nóng, hạn hán đói
khát thì con rắn hổ mang chúa lại gặp cảnh một đàn quạ đi kiếm ăn trên
các xác thối. Đàn quạ phát hiện thấy tổ rắn, tường là đã chết chúng sà
xuống. Để bảo vệ đàn con, con rắn chúa cố vươn người lên lấy hết sức
bảo vệ đàn con. Thấy con rắn quá to, quá hung dữ và nếu tấn công sẽ gặp
nguy hiểm, bầy quạ bay đi tìm thức ăn trên các thân xác đã chết thối khác.
Chính cái cố gắng cuối cùng bảo vệ đàn con của con rắn chúa đã vắt kiệt
chút sức lực còn lại cuối cùng của nó. Con rắn chúa chết trong thế vươn
cổ, bạnh mang. Năm tháng qua đi chỗ đất hình con rắn chúa gượng sức
cứu đàn con của nó thành dãy núi chúa. Cái hang ma chính là miệng con
rắn hổ mang chúa. Đầu nó vẫn hướng về phía bầy đàn kéo nhau xuôi biển.
Lại có chuyện khác kể rằng, vùng núi Bái ngày xưa là cánh
rừng rậm. Trong rừng có rất nhiều loài thú nói được tiếng người cùng
chung sống. Năm đó các loài muông thú đang sống vui vẻ hạnh phúc,
quây quần bên nhau thì có một bầy khỉ ở đâu kéo đến. Bầy khỉ đi đến đâu
phá phách và trêu ghẹo, trộm cắp của cải tài sản của các loài muông thú
khác chỗ đó. Hoa quả bầy khỉ hái ăn không hết ném đầy rừng. chúng còn
kéo nhau vặt lá bẻ cành chất đầy mặt đất. Cây cối trơ trụi, đất trơ ra mặc
32
cho mưa xối, nắng nung. Cả cánh rừng đang thanh bình bỗng chốc trở
thành tiêu điều xơ xác có nguy cơ trở thành hoang mạc. Vì sự phá phách
của bày khỉ mà đã có nhiều loài bỏ rừng ra đi tìm đến một vùng đất mới.
Để bảo vệ cánh rừng, bảo vệ cho các loài khác đang chung sống, các loài
muông thú trong khu núi Bái mở đại hội để bầu thủ lĩnh đứng lên đánh
dẹp loài khỉ phá hoại. Trong tất cả các loài sinh sống trong vùng thì chỉ có
voi là to hơn cả. Voi được cả bầy đàn các loài muông thú trong khu rừng
bầu làm thủ lĩnh.
Vì voi cả tin vào cơ thể của mình nên không nghĩ bầy khỉ mới
đến là những kẻ mưu mẹo và đầy gian giảo. Biết được các loài thú trong
rừng đang tìm cách đánh đuổi giòng giống nhà khỉ ra khỏi cánh rừng, bầy
khỉ đã đào sẵn một cái hố. Mới sáng sớm, khi sương còn chưa tan thì bầy
khỉ đã đến khiêu khích tuyên chiến. Voi thủ lĩnh lao ra. Lũ khỉ vừa đánh
trả vừa khiêu khích trêu chọc. Voi cứ một mình tả xung hữu đột giữa bầy
khỉ. Vừa đánh, lũ khỉ vừa giả thua rút chạy về hướng cái hố đã đào sẵn.
Chủ quan khinh địch, voi sa hai chân trước xuống hố. Đúng lúc đó, bầy
khỉ kéo cả đàn cả đống đến tấn công. Lúc ấy, voi to lớn và hùng dũng đến
đâu cũng đành bó tay chịu chết. Lũ khỉ thi nhau cắn vào đầu voi. Chiếc
đầu to lớn của voi thủ lĩnh chẳng mấy chốc bị bọn khỉ đột cắt gọn. Khi
nghe tiếng voi bị tấn công gầm lên, muôn loài chạy ra ứng cứu thì con voi
thủ lĩnh của muông thú trong cánh rừng đã bị lũ khỉ tha mất cái đầu. Vì
thương tiếc người thủ lĩnh, các loài thú đã khuôn đá về đắp mộ cho con
voi thủ lĩnh. Núi Bái chính là ngôi mộ của con voi thủ lĩnh khi xưa. Hang
ma chính là thân con voi mà qua năm tháng đã tạo nên. Tên núi Bái cũng
có ý là lòng ngưỡng mộ của muôn loài muông thú nơi đây với voi thủ
lĩnh. Và cũng chính vì thế mà hang ma trông có hình con voi phục. Núi
Bái còn có tên là núi Voi Phục.
Những ngày trước cách mạng, cả khu rừng này thuộc đất nhà
Phan Lềnh. Núi Bái cũng là đất nhà Phan Lềnh. Sau này, khi quân Pháp
lên đây, vì rừng rậm và có nhiều loài thú độc nên bọn lính cũng chỉ dám
đóng quân ở dưới chân núi, quẩn quanh nhà ông, nhà bố Phan Lềnh. Chỉ
đến khi cô Lù treo cổ tự tử ở cửa hang. Cái miệng bành rộng của con hổ
chúa khi xưa có tên hang ma bắt đầu từ đó. Và cho đến lúc đó, người làng
mới dám bước lên khu rừng này. Nghe già làng kể cho nghe câu chuyện
về sự tích hang ma, Tự Kim và A Lò quyết định lên núi Bái để khảo sát
thực tế hang ma.
Men theo bìa rừng, Tự Kim và A Lò đi lên. Đặt từng bước chân
lên lớp lá rụng, ngai ngái mùi ải mục. Thỉnh thoảng lại có tiếng đập cánh
hoảng hốt của con chim bị đánh động bay lên. Tiếng trăn gió quăng mình
trên cây rào rào. Những thân cây mốc rêu bám xanh từ gốc lên ngọn.
Những cành tầm gửi rủ xủ xuê xuống la đà trên mặt đất. Hơi nước, hơi
sương, hơi lá cây mục hoang hoải.

33
Ngồi nghỉ bên hốc đá, Tự Kim đưa ống tay quyệt mồ hôi. Tự
Kim đưa mắt nhìn A Lò. A Lò hai tay ôm khẩu súng CKC trong lòng, mắt
nhìn lên tán lá.
Đan xen giữa các thân cây, những tấm mạng nhện nhằng nhịt,
to như cái nong cái nia. Nằm giữa mỗi tấm mạng nhện đó, những con
nhện to như ngón chân cái, đen trùi trũi. Mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi qua,
những tấm lưới được chúng dệt lại phập phồng, phập phồng.

34
9
MÓC NỐI

Phan Lềnh ngồi trên đỉnh Con Cóc đưa mắt nhìn.
Phan Lềnh tiếc một thời mà cha mẹ và Phan Lềnh đã sống. Cả
khu đất rừng nhìn hết tầm mắt này trước đây là của nhà Phan Lềnh.
Những ngày mà mọi người chỉ cần nghe tên Phan Lềnh đã phải cúc cung
tận tụy phục vụ. Phan Lềnh đã vào lọt được đúng như kế hoạch của cấp
trên. Nhiệm vụ của Phan Lềnh bây giờ là làm sao móc nối, xây dựng được
một hệ thống giúp việc. Nếu cứ theo những gì Phan Lềnh được huấn
luyện và đào tạo thì những người Phan Lềnh nhắm đến đầu tiên phải là
người nhà, bạn bè và có họ hàng thân thích. Nghĩ là thế nhưng Phan Lềnh
vẫn sợ thời gian làm cho con người ta thay lòng đổi dạ. Ở đời Phan Lềnh
cũng đã được chứng kiến qua nhiều chuyện như thế rồi. Người đời vẫn cứ
bảo: Khuyển mã tri tình. Phan Lềnh nghĩ. Ấy là người xưa nói thế thôi,
chứ chỉ cần đổi chủ là một thời gian sau con chó cũng sẽ sẵn sàng cắn xé
chủ cũ nếu chủ mới ra lệnh, con ngựa cũng sẽ không còn nghe lệnh của
chủ cũ. Phan Lềnh biết, xét cho đến cùng thì cũng chỉ vì miếng ăn mà ra
cả. Sự trung thành hay phản bội cũng bắt nguồn từ miếng ăn, cái áo mặc.
Loài thú còn thế thì với Phan Lềnh, con người còn đáng sợ hơn. Muốn
móc nối, sử dụng được Phan Lềnh phải kiểm tra và thử thách. Nhưng
kiểm tra như thế nào, móc nối lại ra sao thì Phan Lềnh còn chưa biết phải
làm từ đâu và bắt đầu từ chỗ nào.
Phan Lềnh tiếc cuộc sống một thời và cũng không thể nào quên
được cái chết của bố. Phan Lềnh quyết đòi lại sự công bằng. Cứ mỗi khi
nghĩ đến bố là lòng Phan Lềnh lại sôi lên. Phan Lềnh đã tự nhủ lòng mình.
Phan Lềnh phải báo thù được cho bố, phải lấy lại được mảnh đất mà cha
ông đã có. Phan Lềnh nhớ đến những chiều lão Tảng đưa Phan Lềnh vào
rừng. Nhớ lão Tảng đưa vào rừng săn thú. Tất cả mọi cái sống trên vùng
đất này là của nhà Phan Lềnh. Kể cả mấy đứa con gái dưới bản. Nếu Phan
Lềnh thích là Phan Lềnh có thể bắt về làm vợ bất cứ lúc nào. Có một lần,
theo bố đi cúng. Trên đường đi, bố Phan Lềnh lấy tay khoát một đường
ngang mặt. Bố bảo với Phan Lềnh rằng, tất cả sẽ là của Phan Lềnh. Sau
này với cơ ngơi tài sản này, Phan Lềnh sẽ được làm vua ở xứ Yên Hưng.
Mảnh đất Yên Hưng sẽ là của dòng họ nhà Phan Lềnh.
Phan Lềnh không thể nghĩ được chuyến trở lại của Phan Lềnh
lại thuận chiều xuôi gió như thế này. Phan Lềnh nhớ lắm. Nhớ không thể
quên được hình ảnh bố Phan Lềnh thắt cổ tự tử ở trên chiếc xà nhà của gia
đình.
35
Không nghĩ đến thì thôi, mỗi khi nghĩ đến lòng Phan Lềnh lại
như có lửa đốt. Phan Lềnh căm thù tất cả. Lúc nào trong lòng Phan Lềnh
cũng chỉ ngùn ngụt ngọn lửa vì đâu mà nhà Phan Lềnh nên nông nỗi này?
Vì đâu mà bố Phan Lềnh phải thắt cổ mà chết? Phan Lềnh muốn tìm lại
mảnh đất này để giết chúng nó trả thù cho bố. Lòng nghĩ thế nhưng có lúc
Phan Lềnh đã tự hỏi xem vì sao lại có chuỵên xảy ra như thế. Có phải vì
bố Phan Lềnh đã làm những chuyện như những gì mà lão Mai và lão
Dung nói không? Lòng Phan Lềnh rối như tơ vò.

* *
*
Đang ngủ, Phan Lềnh nghe có tiếng gọi.
- Cậu ơi! Cậu ơi! Ông cho tìm cậu.
Phan Lềnh nằm nghe như tiếng lão Tảng. Kệ. Phan Lềnh cứ
nằm ườn ra. Tiếng gọi mỗi lúc dồn dập hơn. Tiếng gọi như thúc vào tai.
Đạp cửa cái rầm. Phan Lềnh bước ra cửa thì không ai khác đúng là lão
Tảng thật. Lão đang đứng khép nép bên cửa, hai tay giấu vào đầu gối,
lưng còng còng, cái cổ cúi xuống. Thân xác lão to như con bê che chắn
hết cả một chỗ.
- Có việc gì mà gọi lắm thế.
- Dạ. Ông cho gọi cậu ạ.
- Có việc gì?
- Dạ. Con không biết.
- Nói tao đang ngủ.
- Dạ. Ông bảo phải gọi cậu dậy và bảo cậu phải lên ngay. Ông
chờ.
- Cứ về phòng ông đi rồi tao lên.
- Dạ.
Nói xong Phan Lềnh lại chui vào phòng nằm ngủ. Lão Tảng vẫn
hai tay giấu giữa hai đầu gối, đầu cúi xuống, đứng chờ. Lão Tảng đợi một
lúc lâu vẫn không thấy Lềnh ra, lại cất tiếng gọi.
- Cậu ơi. Cậu dậy đi. Ông cho tìm cậu.
Lần này bước ra, nét mặt Phan Lềnh khó đăm đăm. Rõ ghét.
Trông cái mặt lão Tảng, Phan Lềnh chỉ muốn đấm cho mấy nhát. Bực vì
đang ngủ bị đánh thức dậy nhưng Phan Lềnh biết tính bố. Ông ấy đã cho
gọi mà không đến thì chết đòn.
Lệt sệt theo chân lão Tảng đi lên. Vừa đi Phan Lềnh vừa lủng
bủng nói thầm trong miệng. Nhìn cái dáng của lão Tảng cun cút đi phía
trước, Phan Lềnh thấy ngứa mắt quá. Phan Lềnh đi nhanh lên đuổi kịp lão
Tảng. Như tiện chân, Phan Lềnh giơ chân đá vào đít lão Tảng. Bị đá bất
ngờ, lão Tảng giật mình nhìn cậu chủ.
- Mày đi như thế chả hoá ra mày là người dẫn đường cho tao à.
Tao có mù đâu mà không biết đường.
36
- Dạ. Con mời cậu đi trước. Con xin cậu tha tội.
Bước vượt lên, Phan Lềnh hinh hích cười. Phan Lềnh thấy đá
lão Tảng phí. Phan Lềnh có đánh vậy chứ đánh nữa thì lão Tảng cũng chả
dám hở miệng than trách một câu. Bỗng dưng, Phan Lềnh thấy thương
cho lão Tảng. Sống như lão Tảng cũng chán, cũng buồn và thật nhục. Một
lão to lớn như voi mà phải sợ một người nhỏ bé như Phan Lềnh. Tất nhiên
là Phan Lềnh không thể hiểu được vì sao lão Tảng phải như thế. Phan
Lềnh cũng không cần hiểu làm gì. Phan Lềnh chỉ thấy được người khác
cung phụng là thích.
Vừa thấy Phan Lềnh vào cửa, cụ Chu đã hỏi.
- Sao tao bảo mày lên mà bây giờ mới thấy mặt.
Phan Lềnh không nói gì, đưa mắt nhìn quanh. Cụ Chu đang
ngồi với bốn năm người khác. Những người này Phan Lềnh chả lạ gì. Lão
tóc dài cuốn khăn xếp là ông chánh tổng của làng Bái. Người có đôi mắt
kèm nhèm như gián rấm là lão hương của làng Đục. Còn người nhỏ loắt
quắt có cái tai như tai chuột là ông tuần làng Nòm. Người ngồi xếp bằng,
tay dài như tay vượn là cụ bá của làng Khê. Mấy người này thường tụ tập
ở nhà Phan Lềnh để chơi tổ tôm.
- Bố đang chơi gọi con lên có việc gì?
- Thế tao không có việc, không cho gọi mày lên được à?
Lão Chu nghe con nói thế, nét mặt nổi đỏ rần rật. Ở đời này lão
chưa biết sợ ai. Ngay mấy ông quan tây, súng ống đầy mình, đi đâu cũng
có lính kè kè bên cạnh mà còn phải sợ lão, chịu lão. Hổ không ăn thịt con
chứ nếu không lão đã xé xác thằng ôn dịch này ra cho hả giận.
- Tao cho gọi mày lên để chia bài cho các cụ.
- Tôi không chia bài. Các ông thích chơi thì chia lấy mà chơi.
Vừa nghe con nói thế, lão ném bộ bài xuống chiếu, mắt gườm
gườm nhìn Phan Lềnh. Lão Chu ngoái đầu ra ngoài hỏi lại.
- Mày vừa nói cái gì? Mày có giỏi nói lại cho tao nghe lại xem?
Dứt lời, lão Chu lấy cả cái bát uống nước ném thẳng vào người
Phan Lềnh. Lão Tảng lao đến, hứng trọn cả cái bát vào ngực. Lấy hai tay
ôm ngực, lão Tảng quỳ vội xuống chắp hai tay vái lão Chu. Miệng lão
Tảng rên rỉ.
- Thưa cụ. Cậu con vừa ngủ dậy nên chưa kịp ăn. Cụ bỏ quá
cho để cậu con ăn xong rồi lại hầu các cụ.

* *
*
Nhớ lại chuyện cũ, Phan Lềnh nghĩ người mà Phan Lềnh phải
móc nối, xây dựng cơ sở sẽ là lão Tảng. Dẫu sao thì Phan Lềnh và lão
Tảng cũng đã có một thời gắn bó chủ tớ với nhau. Lão Tảng như con ma
xó, chỗ nào ở đây lão cũng biết. Chỉ qua lão Tảng, Phan Lềnh mới có cơ

37
hội tìm lại được những người mà Phan Lềnh có ý định xây dựng. Từ lão
Tảng, Phan Lềnh sẽ móc nối lại qua các mối quan hệ cũ. Con người tâm
tính như lá cây. Cuộc đời đã dậy cho Phan Lềnh biết sự thật về con người
mà cái giá Phan Lềnh phải trả. Phan Lềnh không bao giờ có thể quên
chuyện của mấy thằng chỉ huy ở trung tâm huấn luyện. Nghề nghiệp của
Phan Lềnh chỉ có một niềm tin duy nhất, đó là chính bản thân mình. Và
thậm chí phải có những khi, ngay bản thân mình cũng cần phải nghi ngờ.
Niềm tin sẽ cho người ta đến nhanh cái chết. Chỉ có sự nghi ngờ mới cho
người ta sự tồn tại. Bạn bè, người thân ba ngày gặp lại còn cần phải xem
xét và nghi ngờ. Đằng này, Phan Lềnh đã đi không đặt chân về mảnh đất
này gần sáu năm rồi, từ cái ngày Phan Lềnh chứng kiến cảnh người cha
của Phan Lềnh treo cổ ở gian giữa ngôi nhà. Sự ra đi và quyết chí báo thù
như đám lửa ngày đêm cứ âm ỉ cháy đốt lòng Phan Lềnh. Những ngày
trong trại huấn luyện, những đêm một mình nhớ lại một thời xa xưa của
đời ông cha nhà Phan Lềnh, những lời giáo huấn về sự trả thù của chế độ
luôn thúc dục Phan Lềnh trở về. Và Phan Lềnh đã về.
Đặt chân lên mảnh đất cũ, Phan Lềnh càng nóng lòng được báo
thù. Mặc dù bước đầu một mình phải lo toan và tính toán, phải chui rúc
như con cú con cáo, mấy lần suýt sa vào tay bọn công an nhưng ngọn lửa
báo thù trong lòng Phan Lềnh không nguội lạnh. Phan Lềnh càng thấy nó
lớn lên từng ngày, từng giờ. Dẫu nóng ruột vì công việc tiến triển quá
chậm nhưng Phan Lềnh biết, thời gian chính là lực lượng, là sức mạnh.
Biết chờ đợi, biết chịu đựng, biết chấp nhận cũng là tiền đề cho sự thắng
lợi. Đồng tiền có thể mua được tất cả. Lợi ích cá nhân luôn và mãi sẽ là
thước đo cho sự trung thành. Sự trung thành đó là vì sự tồn tại của mỗi cá
nhân.
Ngồi tính toán các bước sắp tới. Nhớ đến lão Tảng, Phan Lềnh
ngửa mặt lên trời cười. Tiếng cười thoảng đi như gió. Rồi Phan Lềnh lủng
bủng chửi. Tiếng chửi cũng chỉ văng ra đến cuống họng rồi giắt lại đó,
không buột ra khỏi miệng.
- Mẹ cha cái lão Tảng. Không biết lão còn ở làng không? Hay là
lão lại chết dí ở đâu rồi? Lão như con chó đực. Thấy chó cái là cuống lên
rồi bám theo mà mất mặt.
Chửi thế nhưng Phan Lềnh biết. Lúc này chỗ dựa duy nhất của
Phan Lềnh là lão Tảng. Phan Lềnh ngồi lim dim mắt tính cách bắt gặp,
chắp nối lại với lão Tảng.

10
38
CUỘC HỘI Ý CHỚP NHOÁNG

Để đỡ phải đi lại mất thời gian, khi đi xuống bếp ăn sáng, Song
Hoa mang cuốn sổ tay công tác đi theo. Xuống bếp ăn vội ăn vàng mấy củ
khoai luộc tiêu chuẩn bữa sáng, Song Hoa chỉ kịp lấy cái tăm rồi đi thẳng
vào phòng Trịnh Toàn.
Bước chân vào đến phòng Trịnh Toàn. Song Hoa đã thấy Trịnh
Toàn có ý ngồi chờ bên chiếc bàn làm việc. Nhìn chiếc bàn làm việc của
Trịnh Toàn mà lòng Song Hoa ái ngại. Chiếc bàn đã cũ đến mức không
thể cũ hơn. Bốn chân bàn mọt ăn ruỗng, nham nhở, lở loét. Một vài chỗ
đã bung cả ra, lớp vỏ gỗ bên ngoài bị mọt ăn mỏng như tờ giấy, phật phờ,
phật phờ bay mỗi khi có cơn gió vô tình thổi qua.
Trong những năm đầu thành lập lực lượng, khó khăn chồng
chất khó khăn. Nào xây dựng lực lượng, nào củng cố tư tưởng, rồi xây
dựng lập đồn dựng trạm. Không đụng đến thì thôi, hễ đụng đến đâu là cả
núi công việc đến đó. Lực lượng khó khăn nên trang thiết bị phục vụ cho
công tác của người cán bộ cũng còn tạm bợ và thiếu thốn. Cũng may, đội
ngũ cán bộ, chiến sĩ hiểu và tư tưởng tốt nên khó khăn là thế vẫn không
có ai kêu ca, lời ra tiếng vào hay than vãn gì cả. Song Hoa biết, đó cũng
chính là sự cảm thông của đội ngũ cán bộ chiến sĩ đối với các ông, những
người làm chỉ huy mà không có lời nào diễn tả được.
Tay vừa rót nước chè xanh từ chiếc ấm tích cậu công vụ mới
pha ra mời, Trịnh Toàn nêu ý kiến ngay. Vẫn cái giọng ầm ầm như sấm,
như bão.
- Công việc nhiều quá. Thôi anh thông cảm. Vừa uống nước ta
vừa trao đổi luôn.
Ở với nhau, cộng tác cùng nhau đã được ba bốn năm, anh còn lạ
gì. Cũng vì công việc cả mà những người lính mới gặp nhau ở đây. Mỗi
người mỗi nơi, nếu không vì sự nghiệp cách mạng thì ai nấy một nơi, chắc
gì đã biết nhau. Vì công việc chung mà gặp nhau, ở cùng nhau và làm
việc cùng nhau cũng là cái mừng. Hiểu nhau rồi mà còn khách sáo quá.
Song Hoa định nói nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, lại thôi.
- Có việc gì mà cần kíp thế anh?
- Tôi vừa nhận được tối qua điện của Ban Công an Trung ương
gửi xuống. Do tình hình cách mạng có những chuyển biến mới. Khả năng
tới, các lực lượng chống đối sẽ tập trung vào hoạt động phá hoại cách
mạng với các hình thức khác. Có nhiều khả năng địch sẽ tung các toán
hoạt động gián điệp, biệt kích vào miền Bắc để làm nhiệm vụ móc nối,
xây dựng cơ sở để thu thập thông tin tình báo kết hợp với phá hoại các
mục tiêu kinh tế, chính trị để gây thanh thế, làm mất niềm tin trong nhân
dân, từ đó làm mất ổn định chính trị trong xã hội. Ban Công an Trung

39
ương điện xuống nhắc nhở các đơn vị xây dựng kế hoạch tác chiến, sẵn
sàng đánh trả các hoạt động trên.
Việc các đối tượng phản cách mạng lợi dụng vào thời điểm đất
nước vừa mới giành lại được hoà bình để tăng cường các hoạt động chống
phá như gây bạo loạn, cài cắm người chui sâu vào bộ máy nhà nước, nổ
mìn đánh phá các mục tiêu quan trọng như kinh tế, chính trị không còn là
những dự báo mà đã là vấn đề nóng của cách mạng cần tập trung giải
quyết. Những nơi quan trọng như nhà máy, xí nghiệp, công sở làm việc,
cầu cống sẽ là mục tiêu đầu tiên mà các lực lượng chống phá chọn làm
mục tiêu phá hoại. Việc bọn phản động lợi dụng trong lúc cách mạng còn
gặp nhiều khó khăn để đánh phá, gây tiếng vang, gây mất niềm tin, tạo sự
nghi ngờ trong nhân dân là tất yếu. Nhưng chúng là ai, là những người
nào? Danh tính của các đối tượng thì không chỉ có thể cảm nhận bằng
cảm tính mà phải bằng lý trí và sự kiên trì, năng lực nắm bắt tổng hợp tình
hình, sàng lọc đối tượng, gạn đục khơi trong để có kết luận chính xác.
Song Hoa nhớ lắm. Hình ảnh Bác Hồ đến dự hôm làm lễ thành
lập lực lượng công an nhân dân vũ trang. Sau khi nói chuyện với cán bộ
chiến sĩ toàn lực lượng, Bác còn làm thơ tặng có ý nhắc nhở và cũng là
phương châm, nguyên tắc cho hoạt động của toàn lực lượng.
Đoàn kết cảnh giác
Liêm chính kiệm cần
Hoàn thành nhiệm vụ
Khắc phục khó khăn
Dũng cảm trước địch
Vì nước quên thân
Trung thành với Đảng
Tận tuỵ với dân.
Lời thơ của Người mộc mạc nhưng thật chí lý chí tình.
Mới đây, trong hội nghị quán triệt nghị quyết, Đảng uỷ Ban
Công an Trung ương cũng đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác đấu
tranh chống các loại tội phạm, trong đó, đồng chí chính uỷ lực lượng cũng
nhắc nhiều đến việc các đơn vị cơ sở trên các tuyến biên giới cần tập
trung xây dựng kế hoạch chống gián điệp, biệt kích và các loại tội phạm
mới.
Theo phân tích và chủ trương của lực lượng, đối tượng xâm
nhập vào miền Bắc sẽ là các đối tượng phản động, có nợ máu với cách
mạng. Một loại đối tượng nữa mà kẻ địch có thể lợi dụng đó là những
người bỏ vào vào Nam những năm 1954 khi chúng phao tin chúa chạy
vào Nam. Đây là những người dân lương thiện, nhưng bị địch lợi dụng
lòng tin vào chúa mà kích động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Một đối
tượng nữa mà kẻ địch có thể tung vào miền Bắc là những đối tượng theo
con đường ngoại giao. Và đối tượng cuối cùng có thể xảy ra là bọn tề

40
nguỵ, lính tinh nhuệ được chủ thầy đào tạo huấn luyện để xâm nhập vào
miền Bắc.
Trong số các đối trên, Đảng ủy ban Công an Trung ương cũng
nhấn mạnh đến đối tượng có thâm thù với cách mạng. Đối tượng này có
thể trong gia đình có người đi theo giặc đã bị các lực lượng an ninh thời
chín năm trừng trị. Cũng có thể là những người đã có những tham gia
trong hoạt động cách mạng nhưng vì gia đình chịu những thiệt thòi, sai
lầm từ trong cải cách nên đem lòng báo thù. Từ chỗ là người của các
mạng đã quay súng trở thành kẻ phản bội lại lợi ích của dân tộc, của đất
nước, đang tâm làm tay sai cho giặc. Trong tất cả các loại đối tượng thì
đây là đối tượng nguy hiểm nhất. Thực chất đối tượng này có lý luận, đã
nắm vững các chủ trương và nghiệp vụ của ta, biết đặc điểm của các dân
tộc, biết phong tục tập quán, có sẵn cơ sở và có mối quan hệ rất gần gũi
và thân mật với người dân nơi địa bàn chúng trở lại hoạt động. Trong số
những người dân của địa bàn chúng quay lại hoạt động có nhiều người
mang ơn đối tượng. Vì thế, khi đối tượng này trở lại, rất dễ được người
dân bao bọc và tin tưởng nghe theo. Đây chính là những đối tượng như
con rắn nằm trong tay áo. Chúng biết thu mình song cũng sẵn sàng tấn
công để tiêu diệt ta khi có sơ hở chủ quan.
Trong khi quán triệt đồng chí chính uỷ cũng đã nói rõ hướng
xâm nhập. Dù là đối tượng nào thì hướng xâm nhập cũng đều xuất phát từ
đường bộ, đường không và đường biển. Lực lượng công an nhân dân vũ
trang là người lính gác cửa của đất nước, sẽ là lực lượng đầu tiên giáp mặt
với các đối tượng này. Địa bàn các đối tượng này hoạt động sẽ chủ yếu là
rừng núi để dễ lẩn trốn và ẩn nấp khi bị phát hiện. Khi đã vào được sâu
trong nội địa thì các đối tượng xâm nhập sẽ tìm cách móc nối với các đối
tượng do phòng nhì của Pháp còn cài cắm lại hoặc sẽ móc nối với người
thân để củng cố và xây dựng mạng lưới mới. Gia đình, bạn bè, người thân
sẽ là mục tiêu đầu tiên mà các đối tượng này nhắm tới. Đồng chí chính uỷ
cũng nhắc nhở cấp uỷ các đơn vị quan tâm đến xây dựng đơn vị vì đây là
giai đoạn mà lực lượng mới được thành lập. Khó khăn còn nhiều, kinh
nghiệm công tác còn hạn chế, nghiệp vụ chưa được chuyên sâu, đời sống
cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn. Đội ngũ cán bộ chiến sĩ nhiệt tình
cách mạng song cơ bản còn quá trẻ, dễ bốc đồng, thái quá. Chính từ
những tồn tại đó sẽ là nơi cho các đối tượng xâm nhập lợi dụng để thực
hiện hoạt động chống phá cách mạng.
Cầm bức điện mật của Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang
Trung ương gửi cho Ban công an nhân dân vũ trang các tỉnh về việc có
một đối tượng được đánh trở lại có mật danh ARET. Theo nhận định thì
đối tượng có nhiều khả năng xâm nhập vào miền Bắc theo tuyến biển
trong khu vực Đông Bắc. Vậy đối tượng này sẽ xâm nhập bằng phương
tiện gì? Thời điểm xâm nhập? Địa bàn đổ bộ xâm nhập? Âm mưu thủ

41
đoạn xâm nhập? Phương tiện mang theo khi xâm nhập? Có biết bao nhiêu
câu hỏi mà đang chờ phải giải quyết và trả lời. Thời gian không chờ đợi.
Công việc không chờ đợi. Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu như thế nào? Những ai
sẽ trực tiếp tham gia lực lượng trong tổ công tác?
Nhìn chỉ huy trưởng Trịnh Toàn thỉnh thoảng lại lấy hai tay bóp
bóp hai bên thái dương, những nếp nhăn sớm trên trán hằn rõ những
đường nếp. Hai hốc mắt thâm quầng vì mất ngủ. Để trấn tĩnh và cũng là
cách để tìm ra phương pháp xây dựng kế hoạch chính xác, chặt chẽ, kéo
Trịnh Toàn ra khỏi những lo lắng, Song Hoa nhấp chén nước, nói nhẹ
nhàng.
- Có lẽ tôi cho triệu tập họp đảng uỷ bất thường để lấy ý kiến
của nhiều người. Tình hình như thế này là yêu cầu công việc gấp gáp lắm
rồi. Anh thấy sao?
Vẫn hai tay bóp bóp hai bên thái dương, Trịnh Toàn không trả
lời ngay. Dường như Trịnh Toàn muốn kiểm tra lại những suy nghĩ của
mình lần cuối cùng phương án tác chiến. Sau một quãng im lặng, Trịnh
Toàn hạ giọng nói như nói thầm.
- Tôi cũng nghĩ có khi phải làm theo cách của anh thôi.
- Anh cứ nghĩ cho kỹ thêm. Tôi cũng sẽ nghĩ thêm. Có gì tối tôi
và anh ta lại ngồi lại với nhau một chút nữa. Bao giờ tôi và anh thống nhất
thì lúc đó sẽ thông báo cho các đồng chí trong cấp uỷ cũng chưa muộn.
Như tạm thời tìm được lối thoát đối với công việc, Trịnh Toàn
đứng lên đi lại phía tủ cá nhân. Anh lấy ra một nậm đựng rượu. Rót ra hai
chiếc chén mắt trâu men mầu nâu nâu.
- Mấy hôm trước, tôi về qua nhà, mụ vợ có dúi cho nậm rượu.
Rượu nhà nấu. Anh uống với tôi chén nhé. Rượu vợ tôi nấu đấy. Uống
chút cho thông máu.
Cầm chén rượu Trịnh Toàn đưa, Song Hoa chợt nhớ vợ và con
đến nao lòng. Đã lâu quá rồi, hơn năm nay vì công việc cuốn đi mà Song
Hoa chưa có dịp ghé về thăm nhà. Người phụ nữ có chồng đi công tác xa
thật khổ, nhất là với những người lính như các anh, năm tháng biền biệt,
ngay nỗi nhớ cũng chỉ thoáng qua, bất chợt.

11
42
CHIẾC BƠI CHÈO VÔ CHỦ

Sắp xếp được các tập hồ sơ vào tủ, Trịnh Toàn đứng lên vươn
vai định xuống sân chơi mấy séc bóng bàn. Đã lâu rồi ông không có thời
gian để chơi bóng bàn nữa. Hôm qua khi vừa đi kiểm tra các đơn vị triển
khai kế hoạch tác chiến mới từ mấy huyện về qua sân, thấy ông, mấy anh
em cảnh vệ mời vào chơi mấy séc bóng. Đến khi cầm vợt, cắt mấy đường
bóng ông mới thấy cổ tay đã cứng, đường cắt bóng cũng đã không còn
chặt, mắt cũng không còn tinh và khả năng phán đoán đường bóng cũng
đã xuống. Thế mới hay, cái gì không ôn luyện thường xuyên thì sớm hay
muộn cũng kém. Các cụ ngày xưa dạy: Văn ôn võ luyện chẳng sai chút
nào.
Cởi áo mắc lên chiếc móc tự làm bằng thanh gỗ đóng tạm trên
đầu giường. Quay ra đến cửa, chiếc điện thoại lại réo lên. Trịnh Toàn tay
vẫn còn cầm chiếc vợt, quay lại bàn, nhấc máy.
- Tôi Trịnh Toàn nghe đây.
Tiếng nói bên kia đầu dây của trưởng ban trinh sát gấp gáp.
- Báo cáo thủ trưởng. Theo nguồn tin từ cơ sở ở làng Vàng báo
về. Một ngư dân ở làng Vàng vừa nhặt được chiếc bơi chèo lạ trôi trên
biển.
- Các cậu đã cho xác minh nguồn tin chưa?
- Dạ. Chưa. Chúng em tưởng…
- Tại sao lại chưa? Tưởng cái con khỉ. Đưa ngay trinh sát xuống
xác minh. Làm xong báo cáo tôi ngay. Sáng mai phải có báo cáo. Rõ
chưa?
Định dập máy thì Trịnh Toàn nghĩ thế nào đó hạ giọng nói nhỏ
nhẹ.
- Thôi. Cho anh em trinh sát xuống làng Vàng ngay nhé. Thu
thập được gì cứ điện về cho tôi ngay. Bất kể lúc nào. Nửa đêm cũng nhớ
phải báo cáo đấy.
- Rõ. Thưa thủ trưởng.
- Thưa gửi cái gì. Cho trinh sát làm ngay đi nhé. Tôi chờ tin các
cậu đấy.
Cúp máy, Trịnh Toàn đặt chiếc vợt lên mặt bàn rồi ngồi xuống.
Với tay nhấc máy anh định quay gọi trao đổi với chính trị viên Song Hoa.
Thế này là thế nào? Đảng uỷ đã có nghị quyết, chương trình công tác, kế
hoạch công tác đã triển khai học tập quán triệt. Chẳng lẽ việc học tập quán
triệt không thấm, không ngấm vào tư tưởng của anh em. Hay là việc học
tập quán triệt chưa rõ, chưa cụ thể về những vấn đề sắp tới? Tính chủ
quan hay là sự non kém về ý thức nghiệp vụ? Do công việc củng cố xây

43
dựng quá nhiều mà anh em chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn
đề nghị quyết đưa ra.
Với tay nhấc máy điện thoại. Trịnh Toàn định điện trao đổi với
chính trị viên Song Hoa song nghĩ thế nào lại thôi. Đặt máy xuống. Trịnh
Toàn với tay lấy chiếc áo, khoác vào rồi ra đóng cửa. Trịnh Toàn không
muốn có ai quấy rầy mình vào lúc này.
Chuyện trên hang ma lại có ma xuất hiện. Một số gia đình ở
mấy bản xung quanh chân núi đã bỏ nhà chuyển đi nơi khác. Tình hình xã
hội và an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn có nhiều chiều
hướng diễn biến phức tạp. Trịnh Toàn đã điện hỏi ban chỉ huy đồn Yên
Hồng ba bốn ngày nay mà vẫn chưa nhận được thông tin trả lời hay báo
cáo gửi về. Tình hình chưa nắm được nguyên nhân, chưa làm rõ được
mục đích và chưa có giải pháp cụ thể thì khó lòng mà khắc phục được.
Trịnh Toàn có nghe báo cáo là Tự Kim và A Lò đã xuống các bản nắm
tình hình nhưng sao mà lâu thế. Trịnh Toàn định để qua ngày hôm nay mà
chưa có báo cáo của đồn Yên Hồng ông sẽ cho triệu đồn trưởng Trần
Minh Hồng về trực tiếp báo cáo và cũng phải quát cho cậu này một trận.
Làm ăn kiểu dung dăng dung dẻ thế này có mà bốc ruốc. Trịnh Toàn rất
bực nhưng ông cố nén lại để chờ tình hình thực tế như thế nào.
Chuyện hang ma có ma làm người dân bất ổn trong sinh hoạt
chưa giải quyết xong thì lại có báo cáo vào thứ bẩy tuần trước, bộ phận
trinh sát vô tình phát hiện được sóng lạ qua việc dò sóng đài phát thanh
phát hiện ra. Khoảng thời gian diễn ra là rất ngắn, rất nhanh và không có
âm thanh vì phát trùng vào chương trình thời sự của đài tiếng nói. Lúc đầu
anh em chỉ tưởng là sóng phát thanh bị nhiễu nên chưa chú ý. Đến ngày
hôm qua, cũng đúng vào thứ bẩy, cũng thời gian phát sóng chương trình
thời sự của đài tiếng nói anh em lại thấy có tín hiệu sóng nhiễu. Việc có
tín hiệu sóng lạ ấy là do thời tiết, do chất lượng của đài thu thanh hay là
do cái gì? Chuyện này cũng đã làm Trịnh Toàn rất bực mình. Chuyện như
thế mà anh em chỉ nghĩ đơn giản nên đã không báo cáo với ông. Chỉ đến
khi thấy anh em xì xào bàn tán, biết chuyện Trịnh Toàn hỏi anh em mới
báo cáo.
Các chuyện chưa xong thì bây giờ lại có chuyện ngư dân làng
Vàng nhặt được chiếc bơi chèo lạ trôi trên biển. Chiếc bơi chèo loại gì,
chất lượng gỗ làm bơi chèo, dài ngắn ra làm sao? Có dấu vết gì để lại trên
bơi chèo không? Việc hang ma có ma trở lại. Việc phát hiện có tín hiệu
sóng lạ chèn vào sóng phát thanh. Chuyện nhặt được chiếc bơi chèo trôi
trên biển. Tất cả là như thế nào? Có liên quan đến điện mật báo kẻ mang
mật danh AZET hay không? Nếu từ núi Bái, bản La Khê gần khu vực
hang ma xuống đến biển, nơi ngư dân làng Vàng nhặt được chiếc bơi chèo
đi bộ cũng phải mất trọn ngày đường?

44
Trịnh Toàn nhấc máy điện cho cơ quan văn thư, quản lý hồ sơ
mang lên cho anh tập danh sách các đối tượng trong diện quản lý sưu tra
trên địa bàn. Trịnh Toàn hy vọng mong manh tìm ra được chút dây liên
lạc hay thông tin nào đó từ chuyện này. Biết đâu, thời gian đã qua vẫn
chưa đủ để cho mỗi con người tu tỉnh, tìm ra cho mình một lẽ sống mới.

12
NGƯỜI BẠN CŨ
45
Chiều muộn, một vài ba chiếc thuyền câu đã rời bến. Phía cuối
trời, những đám mây vàng ệch như nghệ.
Theo dân gian truyền lại, những ngày nào mà phía chân trời có
nhưng áng mây vàng như nghệ, tối đến trời mù sương là những ngày của
cá đi ăn đàn. Nếu ai tốt số, gặp đàn cá như thế, nếu có gọi cả làng chài đến
đánh bắt cũng không hết. Cũng vì thế mà các thuyền đã rời bến đi ra khơi.
Mấy hôm nay trời mù sương. Theo kinh nghiệm của ngư dân, những ngày
mù trời thế này là biển rất nhiều cá. Trời mù đến mức, sáng ra, Trịnh
Toàn phải đóng cửa sổ phía quay ra biển. Mấy chiếc thuyền còn nằm trên
bến dập dềnh dập dềnh theo sóng. Theo Trịnh Toàn, kiếp ngư dân có lẽ là
kiếp khổ nhất. Trịnh Toàn không thể hiểu được từ bao giờ con người đã
xuống biển để tìm kế sinh nhai. Trong lịch sử của loài người chưa có nhà
khoa học nào nghiên cứu hay viết sách về quá trình hình thành của làng
chài ven biển. Nếu con người có quá trình hình thành, tiến hoá từ loài khỉ
thì cuộc sống bước đầu không thể là nơi biển cả. Ở với biển cả, nắng,
nóng, sóng, gió, bão mà con người luôn phải đối mặt. Muốn tồn tại ở biển,
con người cũng không thể sống đơn lẻ. Sống ở biển cả là phải sống theo
tập thể, lối sống bầy đàn. Sự sống và cái chết luôn rình rập bên mình.
Trịnh Toàn nghĩ, có lẽ đã từ lâu lắm rồi, khi loài người còn sinh
sống bằng cách bám theo dọc các con sông để sống. Thời gian qua đi, con
người nhiều lên, sự phân chia lãnh thổ cát cứ và tranh giành quyền lực
cùng sự sống đã làm cho con người cứ lân theo dòng chảy của các con
suối con sông mà lần ra biển cả. Lúc đầu có khi chỉ là những sợi dây đan
vào nhau làm tấm lưới, hoặc cái cành cây vót nhọn đầu làm cái lao xiên
cá, cái tay tre buộc vào đầu sợi dây buộc túm chút mồi làm chiếc cần câu.
Cứ thế con người trải qua năm tháng làm quen dần với biển.
Thả mình thư thả đi trên bãi cát. Những con sóng xô vào bờ rồi
lại theo nhau đẩy ra xa. Những hạt cát mịn màng lười biếng nằm thườn
thượt nô đùa cùng sóng nước. Sát bên bờ cát, mấy chiếc thuyền câu xô ra
rồi lại trồi vào. Chiếc dây neo cũng khi chùng khi căng. Bất giác Trịnh
Toàn mỉm cười một mình.
Nhìn dây neo khi chùng khi căng Trịnh Toàn cười một mình vì
ông chợt nhớ đến cái triết lý sống ở đời. Cái dây buộc mà vấn chặt quá rồi
cũng đứt, buộc lỏng quá rồi cũng hỏng. Chùng quá cũng khó mà tồn tại.
Căng quá có khi lại đứt. Biết khi nào chùng khi nào căng đây? Cái thuyền
câu dập dềnh kia không thể theo sóng mà ra xa song cũng không thể thoát
được cảnh bám mé bờ có lẽ cũng vì cái dây khi chùng khi căng kia chăng?
Trịnh Toàn đứng nhìn mấy chiếc thuyền câu nghĩ ngợi.
Chọn một chiếc thuyền câu ven bờ Trịnh Toàn bước lên. Ngồi
trong lòng thuyền đang hì hụi xâu lại tay lưới là người đàn ông để trần, da
đen sạm, mái tóc cắt cua. Bộ râu quai nón chưa cạo mờ mờ xanh. Các cơ
46
bắp nổi u nổi cục như dây thừng dây chão. Chỉ ngẩng lên nhìn Trịnh Toàn
một thoáng rất nhanh, người đàn ông lại cúi xuống với công việc.
- Chào thủ trưởng.
- Tôi có làm thủ trưởng đâu mà chào tôi thế.
Người đàn ông vẫn không ngẩng lên, miệng trả lời.
- Làng chài này ai mà không biết ông là Trịnh Toàn. Chỉ huy
trưởng của ban công an nhân dân vũ trang. Chắc chiều nay thủ trưởng lại
có việc nên mới xuống làng chài thăm thú thế này?
Vì không nhìn trực diện được khuôn mặt người nói chuyện,
Trịnh Toàn không thể nào đoán tuổi. Người sông nước thường già trước
tuổi. Nếu chỉ nhìn bên ngoài mà phán đoán tuổi tác của người đối diện với
mình khi nói chuyện thì thường rất dễ bị sai. Một thoáng khó chịu vì thái
độ của người chủ thuyền nhưng rồi cũng rất nhanh Trịnh Toàn nhận ra
suy nghĩ ấy là không phải. Người đàn ông này đang chuẩn bị gấp để đi
biển nên việc Trịnh Toàn đến lúc này cũng đã là một sự phiền toái cho
người tiếp chuyện. Như để kiểm tra lại một chút khả năng trí nhớ của
mình, Trịnh Toàn không trả lời ngay. Trịnh Toàn có cảm giác đã nghe
giọng người này ở đâu đó. Giọng nói rất nặng, khi nói có tiếng gió rít bên
trong cuống họng. Cái lối nói chuỵên không nhìn trực diện vào người
mình đang giao tiếp thường là những con người có rất nhiều tính toán và
thường khôn ngoan. Trông mặt bắt hình dong nhưng không để cho nhìn
mặt có nghĩa là con người này muốn giấu điều gì đó hoặc giả là người
không muốn giao tiếp, một con người kín đáo. Với những người như thế
này, lượng thông tin thường rất ít nhưng độ xác thực của thông tin thu
được lại rất cao.
Nhìn kỹ lại người đàn ông đang tiếp chuyện, Trịnh Toàn quyết
định gợi thêm vài ba câu chuyện khác để củng cố thông tin vừa chợt loé
lên theo trí nhớ và sự phán đoán. Trịnh Toàn đưa ra câu hỏi mà như
không hỏi.
- Anh làm có một mình thôi à. Vợ đâu? Anh đang định đi câu
hay đi lưới đấy?
Vẫn giữ nguyên thế ngồi, người đàn ông trả lời mà cũng không
ra trả lời. Sự trả lời đã ở ngay trong câu hỏi.
- Thủ trưởng biết rồi còn hỏi.
Để chủ động trong giao tiếp, Trịnh Toàn vịn hai tay vào be
thuyền rồi nhún chân nhẩy vào trong lòng thuyền. Trịnh Toàn ngồi xuống
khung ngang phía trước, đối diện với đối tượng. Đưa tay cầm tấm lưới lên
tay, Trịnh Toàn rỡ các đám lưới bị rối. Anh nhặt các que củi nhỏ hay rều
rác còn vướng trên tay lưới. Thấy đôi ba chỗ lưới bị rách, như tiện tay,
Trịnh Toàn với tay cầm chiếc ghim đang đặt cạnh người đàn ông ngồi
phía trước. Trịnh Toàn thắt mối rồi vá lại các chỗ lưới bị rách. Bàn tay
Trịnh Toàn luồn ghim, thắt mối thoăn thoắt. Nhìn bàn tay Trịnh Toàn vá

47
lưới. Tất cả các hành động của Trịnh Toàn, người đàn ông không bỏ sót
một chi tiết nào. Ngay từ bước chân khi Trịnh Toàn bước lên thuyền và
chủ động gỡ lưới. Để cho Trịnh Toàn vá xong mấy mắt lưới rách. Người
đàn ông lên tiếng.
- Thủ trưởng vẫn còn nhớ công việc của làng chài nhỉ. Tôi
tưởng thủ trưởng đi làm cán bộ, làm cách mạng, làm to rồi thì thủ trưởng
đã quên hết rồi chứ?
Nói xong, người đàn ông trễ chiếc nón che gần kín cả khuân
mặt ra khỏi đầu. Ngồi trước mặt Trịnh Toàn không ai khác mà chính là
người bạn thuở nhỏ thường ăn chung củ khoai nướng, củ sắn luộc ngày
Trịnh Toàn còn ở quê.
Dường như để cho Trịnh Toàn có đủ thời gian nhớ lại những ký
ức một thời. Người đàn ông bỏ tay lưới xuống sàn, nhìn Trịnh Toàn cười.
- Thủ trưởng đã nhận ra ai chưa?
Gần như nhao người về phía trước, Trịnh Toàn xô lại ôm chặt
người đàn ông trong tay.
- Trần Kiên.
Trịnh Toàn ôm riết, ghì chặt lấy Trần Kiên trong vòng tay. Trần
Kiên cũng vui ra mặt, lấy tay đập đập lên lưng Trịnh Toàn.
- Tôi tưởng ông bây giờ đang làm trong Nam hay ở đâu chứ.
Sao lại sống ở đây thế này?
Nhìn sâu vào mắt bạn, Trần Kiên nói giọng chỉ đủ hai người
nghe.
- Ngày đó cả gia đình phải bỏ làng quê mà đi. Những tưởng
cuộc sống sẽ khấm khá hơn. Ai ngờ. Kiếp khổ vẫn hoàn khổ.
Nói đoạn, Trần Kiên dừng lại như cố nén những cảm xúc của
một thời lam lũ đang ùa đến. Thu gọn lưới lại, Trần Kiên nắm tay Trịnh
Toàn kéo xuống ngồi cùng trên thanh ngang con thuyền. Cả hai nhìn về
phía xa. Nơi một thời mà họ đã sống.
Bỗng Trịnh Toàn buông tay vá lưới. Cuối chiếc thuyền, dắt sát
bên be cạnh mạn phải con thuyền là chiếc bơi chèo rất khác. Những chiếc
bơi chèo của người dân địa phương thường được làm bằng gỗ cây xoan.
Phía mũi chiếc bơi chèo người ta hay cắt thẳng. Chỗ tay cầm, khúc gỗ
nắm thường dài. Trên thân bơi chèo, người ta thường tạo sống vì thế trông
bơi chèo giống sống lưng con trâu, hơi gồ lên để tạo độ cứng khi quạt
nước. Còn chiếc bơi chèo dắt bên mạn của be thuyền mũi bơi chèo lại hơi
vuốt nhọn. Tay nắm bơi chèo không có gióng ngang để nắm. Thân bơi
chèo không có sống chạy gồ lên. Màu gỗ của chiếc bơi chèo không phải
màu của loại gỗ xoan.
Trịnh Toàn đã định buông tay lưới đứng lên nhưng rồi thôi. Nếu
Trịnh Toàn hỏi ngay hay lại xem ngay sẽ là điều không hay, một sự bất

48
nhã. Coi như không có chuyện gì. Trịnh Toàn vẫn vừa vá lưới vừa hỏi
chuyện.
- Anh dạo này làm ăn có được không?
- Vẫn thế thôi. Người ta thế nào thì tôi thế ấy. Trần Kiên thủng
thẳng đáp.
- Anh có hay đi đánh bắt xa không?
- Có một thân một mình, đi xa không được. Muốn đi xa phải có
bạn. Mà dạo này sóng gió nhiều lắm.
Rồi như nhận ra có điều gì trong câu hỏi của Trịnh Toàn. Trần
Kiên hỏi lại.
- Có chuyện gì sao?
Nghe Trần Kiên hỏi lại. Trịnh Toàn giật mình, nghĩ. Thằng cha
này vẫn khôn quá. Ngày xưa, lúc mấy đứa chơi đánh trận giả, phe nào có
Trần Kiên là cầm chắc thắng. Trần Kiên ngày đó luôn là đứa nghĩ ra
những mưu mẹo mà phe đối phương thường bị bất ngờ. Có nhiều khi,
Trịnh Toàn có cảm giác Trần Kiên đọc được cả suy nghĩ của người khác.
Không những chỉ là người mưu trí, thông minh mà Trần Kiên cũng là
người rất dũng cảm và liều lĩnh.
- Không có chuyện gì đâu. Chẳng qua là thấy anh có cái bơi
chèo kiểu mới quá. Nghĩ là anh đi làm xa nên học được được cách làm ăn
mới của người thiên hạ thôi.

13
KẺ BỎ QUÊ

49
Trần Kiên và Trịnh Toàn cùng sinh ra ở làng. Ngày mẹ Trịnh
Toàn đẻ rơi ông ở ngoài đồng thì bà mẹ Trần Kiên cũng đẻ rơi ông ở bến
sông của làng. Mặc dù gia đình Trần Kiên làm nghề sông nước nhưng
cuộc sống của gia đình cũng gần như là người của làng. Quanh năm suốt
tháng, gia đình nhà Trần Kiên chỉ chài lưới trên khúc sông Sứ chạy qua
làng của Trịnh Toàn. Người trong làng đã quen với tiếng gõ mạn thả lưới
lanh canh của nhà Trần Kiên mỗi đêm. Nhiều khi, đêm hôm khuya khoắt,
vào mùa cá đẻ, người làng vẫn nghe rõ cả tiếng lanh canh của chiếc
thuyền nan đi đánh cá của nhà Trần Kiên. Cuộc sống của gia đình nhà
Trần Kiên trở thành một phần của làng Trịnh Toàn từ bao giờ ông cũng
không biết nữa.
Tuy hai gia đình, kẻ trên bờ người dưới sông nhưng mọi trò
chơi của bọn trẻ trong làng luôn có mặt của Trần Kiên. Vào mỗi chiều,
khi cưỡi nhong nhong trên lưng con trâu mộng, Trịnh Toàn thường có ý
đưa Trần Kiên lên ngồi cùng trên lưng trâu. Khi cả lũ lùa trâu xuống sông
tắm, cả lũ í ới chơi trò đánh trận giả hay thả vịt ra bắt phe nào cũng muốn
có Trần Kiên. Hôm nào Trần Kiên phải theo gia đình đi đánh cá ở khúc
sông xa, đứa nào cũng nhớ và hôm đó, cả lũ chỉ thả trâu xong là lùa về
chuồng ngay. Trong các trò chơi sông nước, không có Trần Kiên bọn trẻ
thấy mất vui.
Rồi năm đó, nắng lắm, nắng nóng như có người mang lửa mà
đổ xuống đồng. Cả cánh Cựa Gà, Quai Xanh cây lúa đang lên mơn mởn
mà cháy khô. Nếu có ai cầm vào cây lúa, thân cây đã nát vụn ra thành tro.
Cái đói rình rập tận cửa mỗi nhà. Nhà Trịnh Toàn cũng chịu chung cái
cảnh của làng của nước. Mẹ Trịnh Toàn cứ vào các ngày chợ phiên mồng
một, mồng ba, mồng năm, mồng bẩy, cứ năm giờ sáng đã lại đòn gánh
trên vai le te đi lên mãi chợ Tây để mua gánh khoai về. Bà phải đi chợ
sớm để mua chứ đi muộn, chợ vãn thì có tiền cũng không thể nào mua
được. Mua tranh bán cướp để giành cái sống. Không những thế, nhà Trịnh
Toàn chỉ làm độc một nghề nông, đồng tiền có được là nhờ bán khóm tre,
bụi mây, quả chuối mà có. Đồng tiền không dư dật nên bà càng phải đi
sớm để tranh thủ mua được hàng.
Khoai mua về, cả nhà cặm cụi cạo vỏ rồi thái vát như đồng xu
đợi nắng đem ra phơi. Gặp nắng, những miếng khoai cong lên trông như
những chiếc bánh đa vừa nướng. Những chiếc bánh đa mẩu khoai nướng
này sau khi đã phơi đủ nắng được mẹ cho vào trong chiếc chum có ủ lá
chuối khô. Đến bữa, bà lại lấy ra đem nấu lên cho cả nhà. Mặc dù chỉ là
bữa cơm khoai nhưng mỗi người cũng chỉ được lưng lưng bát thì nồi cũng
đã vét sạch. Những ngày đó là những ngày Trịnh Toàn lúc nào cũng thấy
đói cồn cào gan ruột. Ăn khoai nhiều nên nóng bụng. Để cho đỡ nóng
bụng, bốn mặt bờ ao cũng được mẹ đem thả rau muống nước. Ăn độn rau
muống nước với khoai cho bụng đỡ cồn cào.
50
Dẫu bữa cơm chỉ có khoai khô cũng vẫn không thể lo cho sáu
bẩy miệng ăn. Ngay ba sào vườn của nhà Trịnh Toàn cũng chỉ trồng duy
nhất giống cây dong riềng. Những cây dong riềng có lẽ là loài dễ sống
nhất. Đất cằn đến đâu cây cũng lên. Đất nghèo đến đâu cây cũng cho củ.
Cây thương người nên cây cũng tự biết làm cho không còn sâu, bị hỏng.
Chỉ từ ngày cấy mầm cây xuống đất. Đất gì thì cũng ba tháng là có thể
khai thác để lấy làm thức ăn.
Trong khi cả làng, cả nước cái đói làm cho đến rã thân, rã tay,
cả ngày đi đâu làm gì người làng cũng chỉ nghĩ đến cái ăn. Có mấy cụ đồ
nho, Trịnh Toàn vẫn thấy ra đường miệng ngậm tăm. Nhìn bước chân của
các cụ thư thả, nhẩn nha, chậm chạp như đếm từng bước một. Trịnh Toàn
nghĩ trong bụng, chắc nhà các cụ không phải chịu cái cảnh đói đến mờ
con mắt như nhà mình. Không nghĩ, không nhớ đến thì thôi. Mỗi khi gặp
cảnh các cụ ngậm tăm đi trên đường, Trịnh Toàn lại thấy đói, bụng sôi lục
bục, cái đói réo ong óc trong ruột. Những lúc đó, chỉ nhớ đến củ khoai, củ
ráy, củ dong riềng mẹ luộc, vùi đống tro bếp, giấu kỹ mà chỉ có mẹ mới
biết để sáng sáng, trưa trưa, tối tối phát cho mỗi người một củ. Ngọn
khoai, ngọn sắn cũng vãn. Mấy rãnh khoai trồng trong vườn nhà hầu như
nhánh nào cũng bị cấu ngọn. Anh em Trịnh Toàn đi hái rau khoai đến
mức ngọn rau còn không kịp nẩy mầm.
Cũng trong khi cả làng chỉ lo chạy đói thì người làng cũng
không còn thấy tiếng lanh canh, lanh canh sáng sáng của nhà chài bên bến
sông. Khi no đủ, khi vui vẻ, khi cái đói không là nỗi lo canh cánh trong
đầu thì mọi âm thanh của cuộc sống, mọi vui buồn của con người cũng dễ
trở nên thân thuộc và là một điểm nhấn, điểm để cho người ta thấy vui,
thấy hạnh phúc. Còn khi đói, tất cả, dù đó là khúc hát trong đêm hội, thậm
chí giải yếm lưng xanh của mấy nhà trò trong gánh hát làng Đông vẫn
thường là nơi hò hẹn, nơi tụ tập của đàn ông đàn bà, phụ nữ trẻ em, là cái
nằm trong giấc mơ của mấy anh thanh niên thì cũng trở nên vô vị và vô
nghĩa. Nó trở thành thứ kệch cỡm nhất của cuộc đời.
Nhà Trần Kiên bỏ đi đâu không ai biết. Thi thoảng cũng có
người nhắc đến khi tối tối mấy ông mấy bà sang nhà Trịnh Toàn uống
nước thì cũng có rắng đến. Nhất là mấy bác cao niên, mấy cụ cao tuổi.
Sau tuần nước chè xanh mà mẹ hãm trong chiếc dành tích, chiếc điếu bát
sôi lên lọc ọc, mấy bác ngồi chép miệng rắng đến.
- Không biết cái nhà chài đi đâu lâu nay mà không thấy về
bến.
- Đói kém thế này. Người ta cũng phải đi tìm nơi sống chứ.
Mảnh đất làng mình cứ bám đây mãi làm sao mà sống.
- Nghe đâu nhà nó ra biển rồi theo con nước chạy vào Nam
rồi.

51
- Không phải. Nhà nó nghèo quá. Thằng bố nó đưa cả nhà đi
miền ngược rồi.
Thôi thì mỗi người một ý, mỗi người một câu, song tựu trung
không ai biết là nhà Trần Kiên bỏ con sông làng, bến sông quê đi đâu
không ai biết.

14
ĐÊM TRẮNG
52
Sau khi chia tay Trần Kiên ở bến về, Trịnh Toàn không sao ngủ
được. Trịnh Toàn ra ngoài bàn, với tay lấy gói chè Thanh Hương mới
được cậu công vụ sáng nay mang đến theo tiêu chuẩn. Bao nhiêu năm rồi
Trịnh Toàn đã không gặp lại Trần Kiên. Người Hán có câu: Một ngày
không gặp còn bạn. Ba ngày không gặp phải xem lại bạn. Tất nhiên người
Trung Quốc nói có lý của họ. Trong cuộc sống mưu sinh, vì miếng cơm
manh áo, không phải không có những chuyện đau lòng xảy ra. Trịnh Toàn
biết. Một số đối tượng nguyên trước đây cũng là người tốt nhưng có lẽ do
một lý do nào đấy, vì cuộc sống khó khăn, vì có sự bất hòa trong cuộc
sống, thậm chí có khi chỉ là sự kích động, xúi dục của ai đó mà trở thành
kẻ làm tay sai cho người khác. Khi tay đã nhúng chàm thì nếu có nhận ra
sai sót, có muốn sửa chữa, thay đổi cũng rất khó. Họ bị ràng buộc, bị
khống chế. Trần Kiên dù là bạn với Trịnh Toàn từ nhỏ nhưng những
tháng năm qua, Trần Kiên đi đâu, làm gì Trịnh Toàn không biết. Trịnh
Toàn cũng không thể ngờ lại gặp lại Trần Kiên trong hoàn cảnh như thế
này.
Có tiếng gõ cửa dè dặt bên ngoài. Trịnh Toàn không đưa mắt
nhìn ra. Cầm chén nước trên tay, ông xoay xoay trước mặt, vẫn ngồi tại
chỗ nói vọng ra.
- Vào đi.
Cánh cửa hé mở. Cậu công vụ thập thò ngoài cửa.
- Báo cáo thủ trưởng. Có hai đồng chí A Lò và Tự Kim muốn
gặp thủ trưởng.
- Hai đồng chí đó về từ bao giờ? Tại sao bây giờ mới báo?
- Hai đồng chí đó về chiều nay. Lúc đó thủ trưởng đi vắng. Em
đã đưa hai đồng chí đó ra nhà khách nghỉ để chờ ý kiến của thủ trưởng.
Đặt chén nước xuống bàn, Trịnh Toàn nhìn cậu chiến sĩ công
vụ.
- Ra gọi hai đồng chí đó vào đây cho tôi gặp.
- Báo cáo rõ.
Cậu công vụ vội vàng quay gót. Trịnh Toàn xúc ấm rồi trở lại
ghế. Trịnh Toàn không làm sao thoát ra được chuyện chiều nay. Trịnh
Toàn không biết được đây là sự trùng lặp ngẫu nhiên hay là sự vô tình
trong đời mà ông gặp lại. Phải chăng đây cũng là cái duyên ở đời mà để
cho ông gặp lại Trần Kiên.
Thực ra, không phải Trịnh Toàn không biết về gia cảnh của nhà
Trần Kiên ngày đó. Có điều, khi câu chuyện xảy ra thì Trịnh Toàn không
đủ khả năng để đánh giá nhận xét những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Nhận thức là cả quá trình. Quá trình nhận thức lại phụ thuộc vào khả năng
của mỗi người. Người thông minh thì khả năng nhận thức nhanh. Người
53
khả năng nhận thức chậm thì quá trình nhận thức được bản chất của vấn
đề sẽ chậm. Cái ngày đó, đứng thậm thò bậu cửa nghe các cụ nói chuyện
về gia đình nhà Trần Kiên, Trịnh Toàn đâu dám có ý kiến. Mặc dù ngày
đó Trịnh Toàn nghe các cụ nói chỉ thấy nó không đúng với những gì mà
Trịnh Toàn nhìn thấy, nghe thấy mà thôi.
Cái hôm Trịnh Toàn nấp nghe chuyện các cụ thì thào về gia
đình Trần Kiên. Nghe các cụ nói, Trịnh Toàn thấy rất lạ. Trước ngày mà
cả gia đình Trần Kiên đưa cả nhà rời khúc sông chảy qua làng đi đâu thì
chính cái chiều hôm đó Trịnh Toàn đi chăn trâu về qua bến sông đã được
chứng kiến cảnh người làng quây trên bờ dưới sông la mắng chửi rủa nhà
Trần Kiên. Sau khi đưa trâu về chuồng, Trịnh Toàn chạy trở lại bến sông,
nơi mọi người bu đen bu đỏ đang xỉa xói vào ngôi nhà thuyền của gia
đình Trần Kiên. Trịnh Toàn không nhìn thấy Trần Kiên đâu mà chỉ nhìn
thấy bố Trần Kiên, cởi trần ngồi ở trong khoang nhà thuyền, đầu gục
xuống như người mắc lỗi bị đòn chịu trận. Khi mà người làng chửi cổ đã
khàn, giọng đã lạc, có đôi ba người ngồi bệt bên bậc lên xuống bến thở
hổn hển, khi đó Trịnh Toàn mới thấy bố Trần Kiên đi ra. Ông đứng trên
mui thuyền, nhìn mọi người một thoáng rồi nhìn xuống giọng nói lí nhí,
đầy hờn tủi và xấu hổ.
- Tôi biết tôi là kẻ ăn cắp, đáng phải tội chết. Tôi không dám đổ
lỗi vì sao nhưng tôi cũng xin làng rộng lòng tha thứ. Vì sự sống của đứa
con tôi mà tôi đã làm như thế. Từ nay tôi xin không bao giờ như thế và sẽ
không để mọi người trong làng nhìn thấy tôi ở đây nữa. Tôi chỉ xin làng
thứ lỗi cho tôi những gì tôi đã làm.
Khi bố Trần Kiên nói xong, ông không chui vào căn nhà thuyền mà
cứ đứng trên mui nghe người làng rỉa rói. Chiếc áo nâu bạc ông mặc bị
rách phía đường cạp gấu phơ phất bay. Người ông còng xuống, mấy
miếng vải rách che qua đầu gối. Ông cứ đứng lòng khòng, mặt cúi gằm
lặng im nghe người làng mắng chửi. Cả nhà ông núp trong căn nhà thuyền
không một động cựa. Con chó vàng vẫn thường theo Trần Kiên cùng
nhóm trẻ trong làng đi ra đồng đào hang săn bắt chuột ngó đầu lên trên
sạp, thỉnh thoảng lại sủa lên đôi ba tiếng. Tiếng sủa của nó cũng ngắt
quãng, hụt hơi chứ không kéo dài ra dáng cậy gần nhà. Tiếng sủa ư ử như
của kẻ có lỗi cố thanh minh, nói cho mọi người hay vì sao mắc lỗi.
Sau khi người làng đã mắng nhiếc chán chê, kéo nhau ra về. Ngay
đêm hôm đó bố Trần Kiên đưa cả nhà đi đâu không rõ. Mặc dù lúc đó tuổi
Trịnh Toàn còn nhỏ, cái tuổi mà bố Trịnh Toàn thường bảo vắt mũi chưa
sạch. Câu chuyện của gia đình nhà Trần Kiên tuy Trịnh Toàn không rõ
như các bậc cao niên trong làng nhưng trong lòng cũng thấy áy náy. Trịnh
Toàn cảm thấy phía sau chuyện này chắc có điều gì rất khó nói mà bố
Trần Kiên không muốn nói ra. Ông lặng lẽ chấp nhận, lặng lẽ chịu đựng
và lặng lẽ đưa nhà từ bỏ khúc sông mà đời ông và gia đình ông gắn bó.

54
Nỗi đau của đời người có lẽ là phải rứt bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, phải từ
bỏ những ký ức cuộc đời. Chấp nhận làm kẻ tha hương, chấp nhận làm kẻ
vô gia cư là nỗi đau mà không cuộc đời nào, không một ai mong muốn.
Câu chuyện gia đình Trần Kiên bỏ khúc sông làng ra đi rộn rạo một
vài ba ngày rồi cũng lắng xuống. Cười ba năm chứ ai cười được ba đời.
Cuộc sống mưu sinh, lo miếng ăn cửa miệng cũng làm cho người làng dần
quên đi câu chuyện xưa. Có khi nào chợt nhớ, người ta lại nhắc đến như là
một ký ức buồn. Nhất là khi nhà ai có việc, khách khứa tiệc tùng muốn có
mớ cá tươi người ta lại nhắc đến. Con cá thì tươi mà lòng người lại héo.
Có một vài ba người vì tình thâm giao cũng có ý tìm hiểu câu chuyện. Họ
muốn biết sự thật, một sự thật như sự kiểm định về nhận xét và đánh giá
con người. Cuộc đời có ai nắm tay đến tối, gối đầu đến sáng. Dẫu biết vậy
nhưng cái xấu xa không thể nơi nào cũng bén rễ mọc cây. Cỏ dại thì vẫn
là cỏ dại. Cỏ dại chẳng cần đất chúng vẫn có thể mọc lên, thậm chí chúng
vẫn có thể đông đàn dài lũ. Có khi, lũ cỏ dại còn lấn át cả cây cao bóng
cả. Nhưng họ tin, tin vào những việc mà gia đình Trần Kiên làm.
Một đêm, theo thói quen, cứ bao giờ tuần trăng đầy là bố Trịnh
Toàn lại mang chiếu ra trải trên hè. Mẹ Trịnh Toàn lại hãm ấm nước chè
tươi, ủ vào trong cái dành tích rồi luộc lấy nồi khoai để các cụ trong xóm
sang ngồi chơi xơi nước và cũng là để câu trò câu chuyện cho đỡ nhạt
miệng. Bao giờ cũng thế, bên ấm chè, cái điếu bát, rổ khoai luộc, các cụ
lại thường ôn cố tri tân, lấy câu chuyện mà đời đã trải làm câu chuyện để
kể cho con cháu nghe, biết mà học hành, tu tỉnh.
Hết chuyện làng trên xóm dưới rồi đến chuyện cây lúa củ khoai.
Trên bậc hè nhà Trịnh Toàn là cả một xã hội thu nhỏ. Đặt bát nước chè
xanh từ tay mẹ, cụ Bá, người cao tuổi nhất trong thôn ước ao.
- Lâu quá rồi không được bát canh cá mương nấu dưa chua.
Nghe cụ Bá nhắc thế, bố Trịnh Toàn biết ý cụ Bá lại nhắc đến
chuyện nhà Trần Kiên. Cũng phải nói thực lòng, bố Trịnh Toàn cũng
không sao biết được vì cái gì, vì đâu mà gia đình Trần Kiên phải đến nông
nỗi bỏ bến mà đi. Người trên bờ có cái nhà, mảnh đất để ở. Như con chim
có tổ. Đi hôm về sớm, đi sáng về tối, thậm chí có lưu lạc đến đâu rồi cũng
tìm về. Bởi trong con người, trong tâm thức của kẻ đó, có nơi chôn nhau
cắt rốn, có cái bát hương thờ gia tiên, ông bà cha mẹ mà biết lối về. Con
người kể nghĩ cũng lạ. Khi đã sinh ra ở đâu rồi là sống chết cũng không
rứt bỏ được. Cóc chết ba năm quay đầu về núi.
Người đời sống trên cạn là thế. Mảnh đất chết luôn níu kéo con
người ta về. Có tấc đất căm dùi, có mảnh đất để chôn khi nhắm mắt là con
người đã bằng lòng với cuộc sống. Còn người làng chài, ông không hiểu
được. Ông chỉ biết rằng, với họ, nay đây mai đó. Thích thì ở, không thích
thì chỉ cần cầm cái sào lên, đẩy đi là coi như xong. Người làng chài, cái
ăn từ sông, cái uống từ sông và ngay khi chết cũng lại về sông. Sống

55
ngâm xương, chết ngâm da nhưng xem ra, với họ, họ chấp nhận tất cả.
Hình như với họ, vui ở, dở đi, buồn tránh. Nhưng mà, ở đời đâu chỉ có
đơn giản, thích tránh là tránh được. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai.
Phúc đến rồi đi không quay trở lại, còn họa, không chỉ một lần mà đến mà
còn đến nữa. Cái chuyện ở đời, giậu đổ bìm leo. Phù thịnh chứ có ai phù
suy.
Ấy thế mà, sau ba bốn chục năm, tự nhiên Trịnh Toàn lại gặp lại
Trần Kiên. Trời xui đất khiến hay cái duyên của đời mà Trịnh Toàn và
Trần Kiên có được. Trịnh Toàn không biết đây là điều hay hay là điều
không hay. Lòng Trịnh Toàn bề bộn bao nỗi nghĩ suy. Cái bơi chèo lạ mà
Trịnh Toàn nhìn thấy trong lòng thuyền của Trần Kiên là như thế nào?
Liệu nó có liên quan đến những gì mà ông đang phải đau đầu vì nó
không? Con người Trần Kiên có còn là Trần Kiên của những năm tháng
xa xưa? Và ông, những suy nghĩ của mình, những phán đoán có là sự phũ
phàng của những người bạn xưa với nhau?
Trịnh Toàn thấy nóng bừng bên tai. Ông tự thấy hổ thẹn với chính
những suy nghĩ của mình về bạn. Với ông, sự xấu xa và hèn hạ không
phải cứ làm điều ác cho người mà chỉ có suy nghĩ, gieo rắc thậm chí đổ
tiếng ác cho người thì đã là một tội lỗi và là điều đáng xấu hổ. Liêm sỉ của
con người không cho phép làm những điều đó. Một ai, không biết liêm sỉ
trong suy nghĩ thì cũng là kẻ không biết liêm sỉ trong hành động. Không
biết liêm sỉ trong hành động đã là điều tối kỵ. Vô liêm sỉ trong tâm tưởng
thì là điều xấu xa, không thể chấp nhận được. Ở đời, Trịnh Toàn sợ nhất
đó chính là sự khuyết tật của tâm hồn.
Nghĩ là thế nhưng bản thân Trịnh Toàn cũng không thể dám chắc
rằng những năm tháng qua, những điều ngang trái đã xảy ra với gia đình
Trần Kiên không có tác động hay ảnh hưởng gì đến tâm tư, tình cảm của
Trần Kiên. Người Trung Hoa có câu: Bạn xa một ngày còn tin, bạn xa hai
ngày phải hỏi, bạn xa ba ngày phải xem xét lại. Con người trong cuộc
sống xã hội là một chuỗi phức tạp. Tình người có khi một chuyến đò nên
ngãi nhưng cũng có khi, sống cả đời bên nhau đâu có nhận ra thù. Trong
mỗi con người, cái thiện, cái ác luôn tồn tại. Cái thiện không biết làm điều
ác. Nhưng ngược lại, cái ác lại luôn tìm cách để thực hiện. Thậm chí, cái
ác còn tạo điều kiện, hoàn cảnh để cho cái ác thực hiện được nhanh hơn.
Chính vì thế mà cái ác luôn đạt được mục đích, còn cái thiện để đạt được
mục đích, lúc nào cũng phải có thời gian dài hơn, lâu hơn và vất vả hơn.
Các cụ xưa còn dậy, nhân chi sơ tính bản thiện. Khi sinh ra, mọi người
đều như nhau, có ai mặc quần, mặc áo chui ra khỏi lòng mẹ đâu. Ấy thế
mà, năm tháng làm đổi thay, cuộc sống mưu sinh làm đổi thay, cái ác cứ
lặng lẽ thấm vào mỗi con người để rồi sâu gốc bền rễ trong tâm tưởng.
Khi cỏ độc đã có đất mọc, có mấy người nhổ được nó ra khỏi đầu. Và thế
là cái ác có cơ hội mà phát triển.

56
Càng nghĩ Trịnh Toàn càng thấy rối. Ông thấy trong người bí
bách khó chịu. Trịnh Toàn cảm thấy như có cái gì đang nặng trĩu đè lên
ông. Ông nằm vật lên giường.
Ngước mặt nhìn lên trần. Những tia nắng sáng yếu ớt lọt qua
hàng ngói rọi xuống. Trong tia sáng những hạt bụi nhỏ li ti bay bay.
Những hạt bụi rất nhỏ, nếu không có chút ánh sáng nhỏ nhoi ấy thì làm
sao mắt thường ông có thể nhìn ra được. Những điều đang lẩn khuất trong
bóng đêm, nếu không có ánh sáng chúng cũng được màn đêm đồng lõa.
Chính bóng đêm và chỉ có bóng đêm mới có thể làm mảnh đất dung thân
của cái ác. Bóng đêm là đồng minh, là kẻ cùng hội cùng thuyền của cái
ác. Muốn đưa được cái ác ra trước mặt, chỉ có ánh sáng. Kẻ mang mật
danh AZET kia cũng thế. Nó là ai, nó là người thế nào? Trong bóng đêm,
khuôn mặt nó bị chìm lấp nhưng Trịnh Toàn tin, sớm muộn ông cũng sẽ
tìm ra. Ông tin điều đó như ông tin vào chính ông vậy.
Bật người dậy khỏi giường, Trịnh Toàn đi nhanh ra cửa. Nhìn
sang cửa nhà chính trị viên Song Hoa. Cửa phòng chính trị viên Song Hoa
vẫn mở.
Phải có nghị quyết chuyên đề. Phải bàn bạc kỹ với chính trị
viên để xây dựng quyết tâm. Phải tập trung cao độ lực lượng làm rõ tất cả.
Trịnh Toàn biết. Cuộc chiến đã thực sự bắt đầu chứ không còn là sự đón
bắt hay phỏng đoán nữa. Cuộc chiến đã rõ trước mắt nhưng Trịnh Toàn
chỉ chưa nhìn thấy mặt nó như thế nào, chưa hình dung được nó ra làm
sao. Nhưng Trịnh Toàn tin. Rất tin. Cuộc chiến đã thực sự lôi Trịnh Toàn
vào cuộc. Trịnh Toàn chỉ chưa biết nói với chính trị viên Song Hoa ra làm
sao để Song Hoa hiểu được sự việc. Trịnh Toàn rất hiểu tâm tư cũng như
phong cách làm việc của Song Hoa. Ở Song Hoa, chu đáo, tận tình, cụ
thể, tỷ mỷ nhưng lại rất cầu toàn. Trịnh Toàn bây giờ cần biết bao sự ủng
hộ và sự hỗ trợ từ Song Hoa. Chỉ có sự ủng hộ và hỗ trợ cao độ từ Song
Hoa thì công việc mới có thể thành công. Chỉ cần Trịnh Toàn và Song
Hoa vênh nhau là chắc chắn mọi sự sẽ đổ bể.
Không cần cả gõ cửa, cũng chẳng cần chào, Trịnh Toàn đi vào
phòng chính trị viên Song Hoa, tự kéo ghế ngồi. Vừa ngồi, Trịnh Toàn
vừa nói.
- Tôi có việc quan trọng cần bàn với anh. Và tôi rất mong được
sự ủng hộ và hỗ trợ từ anh.
Vốn không lạ gì tính cách Trịnh Toàn. Chính trị viên Song Hoa
với tay lấy ấm trà. Chính trị viên Song Hoa biết. Khi nào mà Trịnh Toàn
có thái độ ứng xử như thế này là thế nào cũng có chuyện. Chính trị viên
Song Hoa nhìn Trịnh Toàn cười, nhỏ nhẹ.
- Chuyện gì thì chuyện. Anh em mình cũng làm ấm nước đã.
Trà Thái Nguyên mẹ thằng cò mới gửi ra cho. Ngon lắm.

57
15
ĐỊNH MỆNH

58
Phan Lềnh cố quên đi những gì đã trải qua. Những cái Phan
Lềnh đã trải qua không thể là vất vả và khổ sở. Chuyến rời nhà ra đi phải
nói là nỗi nhục. Bây giờ, sau khi đã thực hiện chuyến xâm nhập, đổ bộ
thành công, một mình trên hang ma, Phan Lềnh cũng không thể hiểu được
Phan Lềnh đã vượt qua được những năm tháng như thế.
Phan Lềnh cũng không nghĩ chuyến đi của Phan Lềnh trở thành
định mệnh của số phận. Những điều Phan Lềnh được nghe, được học,
được quán triệt cứ mờ nhạt dần. Ngay cả những điều mà Phan Lềnh ngày
nào ra rả nói trước mọi người cũng nhạt dần. Ngay bây giờ, trong Phan
Lềnh chỉ có sự căm thù. Hình ảnh bố Phan Lềnh quỳ dưới sân van lạy,
thưa gửi với những kẻ ăn người ở bằng ông, bằng bà là Phan Lềnh lại thấy
máu trong người như sôi lên.
Cái hang ma này với Phan Lềnh không có gì là xa lạ. Nó gắn bó
với Phan Lềnh như xương thịt. Cái hôm dân làng kéo nhau ra hang ma để
nhìn cái xác cô Lù chảy nước bong bóc xuống đất. Phan Lềnh hôm đó
không dám đến gần, chỉ ngồi nấp trên ngọn cây để nghe ngóng. Phan
Lềnh nghe được hết, nhìn được hết, biết hết. Những điều dân bản nói đó,
với Phan Lềnh không là cái gì. Có muốn kết tội Phan Lềnh cũng không
được. Không có bằng chứng, không có dấu vết. Tất cả chỉ là phán đoán,
lời đồn thổi. Phan Lềnh ngồi ôm lấy ngọn cây. Bất giác, Phan Lềnh nhìn
xuống chân rồi nhìn tay. Phan Lềnh như thấy da Phan Lềnh cũng mang
màu da của cây.
Phan Lềnh không thể tin được có lúc cuộc đời Phan Lềnh lại
chuyển qua những bước thăng trầm như thế này. Phan Lềnh không thể
nào quên được những năm tháng còn nhỏ được bố cưng chiều nhất là
được lão Tảng bảo cho cách săn bắn cái nỏ, mũi tên. Ngày đó Phan Lềnh
là nhất nhà. Có đôi lúc bố Phan Lềnh đi làng trên, bản dưới về có thế này
thế khác với Phan Lềnh. Thậm chí có hôm lôi Phan Lềnh ra quất cho vài
ba roi nhưng ông vẫn là người cưng chiều Phan Lềnh nhất. Ai mà dám ho
he, cọ cựa với Phan Lềnh thì chết với ông.
Rồi Phan Lềnh đi tham gia thanh niên cứu quốc. Phan Lềnh
nghĩ. Những ngày đó quả là điên cuồng và rồ dại. Mặc áo nhà, đi dầy cỏ,
súng gỗ đeo vai, cả ngày lăn lộn, lang thang trong các bản, các xóm trong
núi, trong rừng chui lủi để tuyên truyền lôi kéo mọi người tham gia. Phan
Lềnh nhớ. Hôm Phan Lềnh đi gặp ông Thi. Ông Thi họ gì Phan Lềnh
không biết, chỉ nghe nói ông là người của mặt trận. Ông Thi nói sao dân
tin thế. Ông như một vị chủ soái có cả một đội quân trùng trùng dưới
quyền. Ông Thi nói sao là mọi người làm theo răm rắp. Phan Lềnh thấy
ông Thi oai quá. Phan Lềnh cũng chỉ muốn được như ông Thi, có kẻ hầu
người hạ, mọi việc có người làm theo mà không kêu ca phàn nàn hay có ý
kiến gì khác. Phan Lềnh muốn cầm đầu thiên hạ. Phan Lềnh không muốn
chỉ như bố. Cả đời có tiền, có bạc, có kẻ ăn người ở, có người phục dịch

59
nhưng cũng chỉ là đám người ăn mày ở đợ, chứ không có lấy người tử tế
theo như ông Thi. Phan Lềnh nghĩ. Bố Lềnh có sướng thật đấy nhưng
không có oai. Ông Thi nói là tham gia vào đây là để đánh đuổi quân xâm
lược Pháp.
Quân xâm lược là gì, tại sao nó lại là quân xâm lược và nó có
làm hại gì đến mảnh đất, cỏ cây này không thì Lềnh cũng không hiểu hết.
Lềnh chỉ biết rằng, đất này là của người Việt Nam, không phải của người
Pháp. Vì đất nước Việt Nam có rừng vàng, biển bạc, có nhiều tài nguyên
lắm, như vùng Yên Hưng của Lềnh đó. Chúng đưa quân sang chiếm, bắt
dân ta lao động là để lấy than, để chở bán đi lấy tiền hoặc đưa tàu chở về
bên nước nó. Đương nhiên như thế thì không được rồi. Nhưng mà tại sao
lại phải cần đông người đi theo mặt trận như thế. Ông Thi đưa hai tay lên
vỗ bồm bộp rồi nói.
- Đấy cậu có thấy gì không?
Ôi giời. Tưởng gì. Ông Thi vỗ hai tay vào nhau làm gì mà Lềnh
không biết.
- Ông đang vỗ tay.
Nghe Lềnh nói thế, ông Thi nhìn Lềnh rồi nhẹ nhàng.
- Đúng rồi. Tôi vừa vỗ hai tay vào nhau. Nhưng cậu có thấy
không? Để có tiếng kêu bồm bộp mà cậu nghe thấy đó cần phải có hai tay
và có mười ngón tay. Vỗ tay cần nhiều ngón, làm việc lớn thì phải nhiều
người.
Ông Thi nói đúng rồi. Khi sướng, Lềnh vẫn lấy hai tay vỗ vào
nhau. Chuyện nhỏ, Lềnh làm suốt. Lềnh không thể nghĩ và biết được rằng
chỉ có cái vỗ tay mà nó lại có nhiều ý nghĩa đến thế. Nhiều cách nói đến
thế. Khi nhà có việc nặng, bố Lềnh vẫn phải bắt nhiều người khênh, vác,
lôi, kéo, lăn, bẩy, kẻ hô người ứng thì mới thành. Nhưng Lềnh chưa bao
giờ lại nghĩ được như thế này.
Thấy Lềnh có vẻ ngạc nhiên về cách lý giải của mình, ông Thi
lại lấy tay, cầm tay Lềnh kéo vào sát tay mình. Ông đẩy ngược ống tay áo
của hai người lên đến tận nách. Ông Thi hỏi Lềnh.
- Cậu có thấy tay tôi với tay cậu có cái gì giống và khác nhau
không?
Lềnh nhìn kỹ lên cả hai tay của mình và của ông Thi. Lềnh chả
thấy gì, chỉ thấy tay của ông Thi và của Lềnh khà khẳng, khà kheo, trông
như que củi khô trên cây hay bên chân rào, gốc cây trong vườn. Lềnh
mạnh dạn.
- Tôi chả thấy gì. Tay ông cũng như tay tôi.
Nghe Lềnh nói thế, ông Thi ngửa mặt lên trời cười ầm ầm. Ông
vỗ vỗ tay lên vai Lềnh giải thích.

60
- Tay tôi và tay cậu đúng là như nhau. Gầy nhẳng như que củi.
Chỉ có khác nhau là da tay cậu trắng hơn da tay tôi. Đấy là cậu nhìn được
thế thôi. Còn nhiều điểm giống nhau lắm.
Lềnh nghe ông Thi nói mà giật mình. Lềnh chỉ nghĩ trong đầu
là tay của ông Thi và tay mình khà khẳng khà kheo chứ không nói ra thế
mà ông Thi nói trúng phóc. Ông Thi quả là giỏi quá. Lát nữa, Lềnh sẽ hỏi
ông Thi xem làm sao ông có thể đọc được điều Lềnh nghĩ trong đầu. Ông
Thi có lẽ phải giỏi hơn cả mấy ông thầy cúng bắt ma, mấy thầy địa lý,
kính đen tròn như cái đít chén, lúc nào cũng trễ xuống đến gần miệng, tay
lúc nào cũng nhăm nhăm cái bàn xoay trên tay. Càng nghe Lềnh càng
thấy ông Thi giỏi. Giỏi quá. Không để đâu hết giỏi. Lềnh nghe ông Thi
giải thích cái tay mà cứng hết họng. Ông Thi nói rằng. Tay ông Thi và tay
Lềnh giống nhau bởi có cùng gốc gác người Việt Nam. Có cùng màu da,
có cùng máu đỏ. Dài như nhau, ngón tay cũng dài như nhau. Nhất là lòng
bàn tay, người nào cũng rộp dày da. Ông Thi nói, lớp da rộp dầy đó gọi là
chai tay. Do người mình phải làm lụng vất vả quá nên cái da tay nó sù ra
để cho đỡ đau.
Ông Thi giải thích cái tay thì đúng quá đi rồi. Nhưng sau đó ông
còn nói với Lềnh là cái thằng tây, nó sang xâm lược đất nước mình, nó
sang vơ vét của cải tài nguyên về đất nước nó, nó bắt đàn bà con gái Việt
Nam phải lấy nó làm chồng. Vì nó không phải là người cùng dòng tộc,
cùng máu đỏ da vàng như ông Thi và Lềnh. Tay nó dài như vượn, lông lá
đầy tay. Da tay nó trắng chứ không nâu nâu vàng vàng hay đen đen như
người Việt Nam ta. Phàm những kẻ tay dài, lông lá dầy trên tay, quyết
không phải là người thương dân ta. Kẻ đó là quân xâm lược, kẻ ăn cướp
bằng sức mạnh. Để giành lại đất nước, để cho người dân thoát khỏi lầm
than, nhất định phải nhất thể đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập.
Nghe ông Thi nói, Lềnh thấy hởi lòng hởi dạ.
Nghe ông Thi nói, Lềnh thích rồi nhưng trong lòng Lềnh cứ áy
náy. Thằng Tây súng ống đầy người, còn mình, toàn tay không thì biết
đánh làm sao. Lềnh lấy hết can đảm hỏi ông Thi.
- Nếu tôi đi tham gia cùng ông thì súng ống đâu mà đánh nó?
Ông Thi lại nhìn Lềnh ngửa mặt lên trời cười ầm ầm. Ông chỉ
tay vào người Lềnh.
- Quần áo thì cậu đang mặc đó thôi. Có không quần không áo
đâu mà lo. Nếu không có, vào dân xin. Dân chưa có thì lấy vỏ cây, lá cây
mà che mà đậy. Ngày xưa cha ông ta cũng có vải đâu, có quần áo đâu mà
vẫn dựng được nước đấy thôi. Súng thì…
Lềnh nhìn theo tay ông Thi chỉ. Nơi ấy chính là đồn giặc đang
đóng . Nơi mà thằng quan hai vẫn thỉnh thoảng vào nhà Lềnh xin bố Lềnh
thuốc phiện để hút. Lũ lính mỗi lần vào là khi ra khỏi cổng lại xách theo
dăm ba đôi gà.

61
- Súng ở đấy chứ đâu. Vào đấy ta cướp lấy súng về mà dùng.
Chúng nó có mươi mười lăm thằng. Còn ta, có cả hàng trăm, hàng nghìn
người. Mỗi người nếu đồng lòng, chỉ cần cầm viên đá ném vào chúng đã
chết không sót một mống.
Và chính những điều này, sau này Lềnh cũng nói với rất nhiều
người như thế. Và thế là người người đi theo, nhà nhà đi theo. Từ một hai
người rồi đến khi số người đi theo dòng dòng như nước lũ.

16
NHỮNG KẺ ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG

62
Lão Tảng thập thững bước thấp bước cao đi, tay xách con chồn
vừa bắn được. Con chồn này nếu lão đưa cho mụ Đoác mang đi bán kiếm
cũng được ối tiền. Ờ, mà mấy bữa nay con mụ Đoác đi đâu lão không gặp.
Trông mụ chả khác gì con lợn sề, vú chảy nhễu ra, da nhăn như tàu lá gấp
nếp. Nhưng mà. Lão nghĩ. Mụ Đoác tuy thế nhưng mỗi lần được nằm ấp
bên mụ lão thấy còn ngọt nước đáo để. Mà mụ khỏe quá. Chả lần nào mà
mụ không làm lão mệt đến bở hơi tai. Bố tổ nhà nó. Lão lẩm bẩm. Mụ
thấy hơi đàn ông quá bằng con hổ thấy mùi thịt lợn non. Mụ cào cấu, cắn
xé, ghì lão đến ngạt thở. Tổ sư nhà nó. Đi chết mất mặt ở đâu mà không
nói với lão một câu. Lần này mà gặp, lão phải xé xác mụ ra cho hả, cho
bõ giận. Lão bỗng dưng thấy nhớ mùi của mụ Đoác. Cái mùi từ da mụ
Đoác toát ra. Nó có vị ngai ngái của cỏ mục. Nó lại có chút hôi hôi của vỏ
cây mốc. Nó cũng có chút ẩm ướt của đất ếm nắng. Mềm mềm và quyến
rũ. Lão còn thấy từ cơ thể của mụ có cả mùi tanh tanh của xác thịt lũ cầy,
lũ cáo mà mỗi khi lão bắn được. Nghĩ đến mụ Đoác, lão Tảng đã thấy rạo
rực khắp người. Lão cảm thấy rõ những đường máu chảy trong cơ thể.
Lão thấy cồm cộm dưới quần. Lão đưa tay, búng nhẹ vào chỗ quần nhô
cao. Lão chửi với giọng đầy âu yếm.
- Tiên sư nhà đồ chó. Có nằm yên đấy không để bố mày còn đi.
Lão rẽ đám cỏ lau cao lúp xúp đầu người. Cả cánh rừng dãy núi
Bái lão có thể đọc được từng hang, từng hốc. Thỉnh thoảng lão lấy tay, gạt
cành cây sim chắn trên lối đi. Hang ma lâu không có người vào chắc chồn
cáo rắn rết tìm về đây trú ngụ. Lão phải lên để xem. Bị mấy cành dây leo
ngáng mặt, lão lẩm bẩm chửi. Lão chửi không rõ tiếng, không rõ người.
Tiếng lão chửi nghe lục bục như giọt nước rơi trên lá. Bước phăm phăm
về phía trước. Cái đầu lão nghĩ. Hôm nay lão về mà gặp được con mụ
Đoác, lão phải xé xác thịt mụ ra. Lão phải cho mụ Đoác biết lão thế nào.
Mụ gần đây cứ nói kháy nói khỉa lão rằng lão làm mụ không bõ công cởi
quần. Lần này lão quyết cho mụ biết thế nào là thằng Tảng, cho mụ hết
nói kháy nói khỉa rằng bõ với chả không bõ. Lão như cảm thấy tiếng thở
của mụ Đoác hổn hà hổn hển bên tai. Lão cũng cảm thấy cả hơi thở khăm
khăm từ cái miệng ngoác ra như con cá ngão của mụ bên má. Lão sẽ cho
mụ chết trong cánh tay lão mới được.
Lão ngước mắt nhìn lên hang ma. Lão nghĩ. Cái hang này từ
ngày cô Lù chết không biết cái hang ấy ra sao? Chỉ nghĩ đến hang ma là
mọi người đã chết mất vía. Lão mà sợ à. Lão đã biết sợ ai. Từ ngày lão
theo cụ Chu cho đến nay chỉ có thiên hạ sợ lão. Chỉ từ ngày cụ Chu thắt
cổ chết thì mọi người mới coi lão chả ra cái gì. Trước mà xem. Chỉ nghe
tiếng cụ Chu là đã mất vía. Lũ con gái mà nghe tin cụ xuống bản có mà,
rủ nhau chạy vào rừng mất mặt. Đời rõ là khốn nạn. Đúng là vắng chủ nhà
chó cũng lên mặt. Lão thấy cụ Chu cũng chẳng ra cái chó gì. Chúng nó có

63
đấu vậy đấu nữa thì đã làm sao. Mới bị lôi ra đấu, kể tội mà đã tự thắt cổ
mà chết. Rõ là chả ra cái gì. Cụ chết làm lão khổ lây.
Tự nhiên lão lại nghĩ. Chả lẽ lũ chồn cáo cũng ngửi được mùi
sát khí từ lão. Lũ xúc sinh ấy cũng biết dựa vào hồn ma của cô Lù để
tránh cái chết sao? Đời lão mà khốn nạn thì lão cũng còn lâu mới cho lũ
xúc sinh được sống yên ổn. Có chạy đằng trời. Lũ chồn cáo gặp lão chạy
trốn cái chết tìm về đây mà thoát được tay lão sao? Gần đây, lão như cảm
thấy trên người có cái mùi yếm khí thoát ra từ sự chết chóc mà làm cho đi
săn không còn được như trước. Cái mùi ấy đã làm cho lũ chồn cáo, rắn rết
biết lão đến thì phải.
- Mả mẹ chúng nó - Lão buột miệng chửi - Có chạy đằng trời.
Bố mày không thích thì thôi chứ bố mày mà thích thì chúng mày còn lâu
mới thoát được.
Miệng chửi chân bước, lão nhằm hướng hang ma đi tới. Đúng
lúc lão vừa bước rẽ về hướng hang ma, có một cái gì đó bật đánh víu một
cái. Lão chỉ kịp nghe thấy tiếng víu rất mảnh, rất nhanh thì lão đã ngã đổ
vật xuống đất hai tay ôm lấy háng. Lão cảm thấy cái chỗ con giống của
lão như vừa có ai xẻo. Lão cứ ôm chặt lấy háng quằn quại. Con chồn lão
vừa săn được cũng bị bắn văng đi đâu mất.
Lão ôm háng rồi cứ để cái thân lão lăn lóc trườn dài xuống dốc.
Lăn được một đoạn, lão chợt giật mình. Cứ lăn thế này có khi lão rơi
xuống vực chết mất xác. Lăn xuống dưới kia, lão chết đi còn không được
như cô Lù để cho mọi người nhìn thấy những bọc giòi rơi lịch bịch xuống
vũng nước vàng vàng từ cơ thể cô rơi xuống. Chết ở đó, lão chỉ làm mồi
cho lũ chuột rừng. Cái lũ chuột mà khi nào thích, lão chỉ cần đưa cây nỏ
trên vai. Tạch. Thế là con chuột xong đời. Lúc ấy, lão chỉ cần đi đến, cầm
lấy cái mũi tên xách lên là xong. Lão giết nó nhưng quyết không để nó ăn
thịt lão. Thịt lão có hôi thối đến đâu thì cũng quyết không làm mồi cho lũ
xúc vật mà lão đã từng làm thịt.
Lão sợ quá, vội dạng te hai chân ra như cái chạng cây lũ trẻ hay
chặt làm cái chạc bắn súng cao su. Lão trượt được một đoạn thì gốc khóm
cây sim giữ lại. Ối giời ơi. Lão kêu lên. Cái chỗ con giống của lão vừa
như bị ai đó cầm viên đá hay cành cây choảng thẳng vào chưa kịp hết đau
thì cái gốc khóm sim lại dằn cho nó một lần nữa. Lần này thì lão không
thể chịu được. Lão thấy hai con mắt nảy hoa cà hoa cải, mọi thứ quay
cuồng đảo lộn tất cả. Lão chỉ kịp nghĩ, có phải cô Lù trên hang ma biết lão
báng bổ định leo lên đó hay không mà trừng trị. Hay linh hồn của lũ chồn
lũ cáo mà đã bị giết bao nhiêu năm nay hiện hồn trở lại bắt lão phải đền
tội. Lão chỉ kịp nghĩ được vậy rồi lịm đi. Hai tay lão cũng không còn ôm
khư khư lấy háng. Cái cành cây của gốc cây sim bị lão lao vào mạnh quá,
chọc thẳng vào đũng quần. Cành sim bêu đũng quần lão lên.

64
Lão cứ nằm như thế chả biết đến khi nào. Cái đầu lão vẫn nghĩ.
Chắc phen này thì linh hồn của bầy thú mà bao năm nay đã bị lão bắn
chết, làm thịt sẽ tha lão về chầu ông bà ông vải. Thế là lão toi đời. Thế là
trên thế gian không còn lão Tảng nghiện rượu, nghiện thuốc phiện và
thích đàn bà nữa. Lão thấy tiếc cho chính lão không được hưởng hết cái
sung sướng của đời. Mặc dù, đời lão đã được nếm, được ngửi rất nhiều
mùi đàn bà. Tổ sư nó. Mùi đàn bà lão cứ tưởng ai cũng như ai. Hóa ra, lão
thấy không giống nhau. Cái mùi chết tiệt ấy nó như mùi thuốc phiện cứ
cuốn lấy lão. Nhiều lúc lão cũng thấy sức khỏe yếu đi nhiều nhưng rồi cái
mùi đầy quyến rũ và hấp dẫn ấy lại dẫn dụ lão đi. Lão như kẻ mụ mị vì
mùi đàn bà.
Có một lần, cái ngày cụ chủ Chu còn sống. Cụ thấy lão nhìn
thấy gái mắt cứ hau háu quá bằng quạ nhìn bầy gà nhiếp, con sói thấy bầy
thỏ, con hổ thấy con lợn. Cụ chỉ tay vào mặt lão.
- Làm cái thằng đàn ông. Thấy con đàn bà mà cứ hau háu như
ăn sống nuốt tươi thế rồi cũng sớm về chầu ông bà ông vải đấy. Nó sướng
vậy thôi nhưng nó là cái cưa, cắt đời thằng đàn ông. Cứ hám ăn lắm vào
rồi mà chết bất đắc kỳ tử.
Kệ. Cụ nói là phận cụ. Nghe hay không là chuyện của lão. Mà
lão cũng thấy cụ có chê con đàn bà nào đâu. Cụ gặp con đàn bà nào, từ trẻ
đến già, từ nhũ hoa cho đến đã rữa. Cụ đã thích là cụ bắt về nuôi trong
nhà đấy thôi. Thế mà cụ vẫn khỏe, da dẻ vẫn hồng hào. Ngay bà Năm của
cụ mà lão được hưởng chút xái như xái thuốc phiện cũng là nhờ ơn cụ có
mấy con trẻ hơn. Chứ nếu không. Đời lão cũng chả sờ được cái gấu váy,
cạp quần của bà chứ nói gì đến được bà gọi vào, vuốt ve, âu yếm rồi cho
ngủ cùng. Có mà cụ sợ lão khỏe hơn cụ rồi ra tước hết những con đàn bà
của cụ thì có. Hì hì. Thằng đàn ông nào mà chả thế. Lão cứ suy từ bụng
lão ra thôi.
Lão tỉnh lại đã thấy nằm ở trên giường của mụ Đoác. Quân
khốn nạn. Cái con giống của lão đã bị cái chó chết nào quật cho một nhát
làm đau điếng muốn chết cho được. Rồi lại bị cả cái gốc cây sim nó
choảng thẳng vào làm lão chết giấc thế mà mụ còn sờ mó nó được. Vừa
nhìn thấy lão mở mắt. Mụ Đoác đã suýt xoa.
- Đau lắm không? Lại lủi đi chơi con nào chứ gì. Bỏ mụ, chê
mụ già cho giời quả báo.
Rõ dơ. Ấy là lão nghĩ thế thôi chứ lão còn thấy đau lắm. Lão
cảm thấy cái đau nó dồn lên đến cổ, tắc ở cuống họng. Thảo nào. Các cụ
vẫn thường bảo, tức như bị bóp giái thọt lên cổ.
Lim dim mắt, lão mặc kệ mụ. Bây giờ mụ có làm gì thì lão cũng
phải chịu. Tay mụ Đoác vừa sờ soạng miệng mụ vừa nói lẩm nhẩm.
- Phí của giời quá. Đang nần nẫn thế mà bây giờ chỉ nhũn như
con chi chi. Thế này còn làm ăn được cái nỗi gì.

65
Nhắm mắt giả ngủ mà lão nghe mụ nói thấy lộn ruột. Phí làm
sao được. Giời đã cho lão thì còn lâu mới phí. Lão đang nghĩ thế thì mụ
Đoác đang lấy tay vuốt ve bên bắp đùi của lão. Bất ngờ mụ bẹo cho bắp
non của lão một nhát.
- Ối giời ơi.
Lão đau quá không chịu được. Mụ Đoác lấy tay xoa xoa chỗ
vừa bẹo. Mụ toét cái mồm ra cười.
- Đồ phải gió. Thấy người ta làm cho lại giả ngủ. Sướng lắm
đấy.
Giả đâu mà giả. Đau đến tưởng chết đi được lại còn nói giả. Lão
vừa định mở mồm ra cãi thì đã bị mụ Đoác lấy tay bịt lấy miệng.
- Nằm im. Ai cho lão đi lên hang ma hả?
Lão cố gắng gượng người ngồi dậy. Nhìn xoáy vào mặt mụ
Đoác, lão nói nhỏ.
- Ai nói mụ ta lên hang ma?
- Thôi. Đừng có giỡn mụ đây. Lão đi săn về rồi định lên hang
ma đúng không? Nếu không thì làm sao lão bị cái bẫy nó bật cho đúng cái
con giống hả?
Đúng là con mụ Đoác, mũi thính hơn mũi chó. Nhưng mà mụ ở
đâu, làm gì trên đó mà biết được lão như thế.
- Thì nghĩ lên đó làm mấy con chồn, con cáo nữa rồi về nhân
thể đưa mụ đi chợ. Cái hang ấy lâu nay không có người lên, rừng lại bị
động nên chắc chúng trốn hết vào đó.
Mụ Đoác lấy tay vỗ như tát nhẹ vào mặt lão. Lão nheo nheo
mắt tránh nhưng không được. Mụ Đoác đặt lão nằm lọt thỏm vào cái chỗ
vũm sâu của cái đệm bông gòn mà mụ đã ngủ trên đó và lão cũng đã bao
lần ngủ trên đó với mụ có từ đời tám hoánh nào rồi.
- Ta nói cho lão biết. Lão đừng có léng phéng. Lão mà léng
phéng là lão chết mất mạng đó. Không đùa được đâu?
- Thế ai nói mà mụ biết ta lên đó?
- Thì cậu cho người báo chứ ai?
- Thế ai mang ta về đây?
- Nếu ta không mang xác lão về đây thì chó nó tha lão về chắc.
Người gì mà nặng như cối lỗ. Làm người ta phải vất vả mãi mới đưa được
lên lưng con bò để đưa về. Đúng là đồ to xác mà nhỏ dé.
Lão ngước mắt nhìn mụ. Ôi sao bây giờ lão thấy mụ đáng yêu
đến thế. Lão quàng tay định kéo mụ nằm xuống. Mụ gạt tay lão ra, đôi
mắt nhìn lão sao mà đắm đuối.
- Đồ nỡm. Còn đang sưng to như cái bát tô mà đã…
Mụ nhoẻn cười. Trong đôi mắt của mụ long lanh như sương.
Kệ. Lão cười khùng khục rồi vít cổ mụ xuống, vật mụ nằm bên cạnh. Mụ
Đoác lấy tay, xoa nhẹ lên má lão âu yếm. Như vô tình, bàn tay mụ trượt

66
xuống phía dưới. Lão Tảng đưa tay đặt lên hai mông mụ Đoác. Bàn tay
lão giật giật theo mỗi lần nẩy của mông. Mụ Đoác nhắm nghiền hai mắt.
Hơi thở của mụ nóng rừng rực.

17
LỆNH TRIỆU HỒI

67
Sau khi bàn bạc xong với chính trị viên Song Hoa, Trịnh Toàn
quyết định triệu tập cuộc họp gấp ngay vào chiều ngày hôm sau. Trịnh
Toàn cho triệu tập thành phần gồm, đồn trưởng các đồn, trưởng ban trinh
sát, trưởng ban hậu cần, trưởng ban chính trị, nhân viên kỹ thuật điện tín.
Nhận được lệnh, đang ở bản La Khê, ngay từ sáng sớm, trưởng
ban trinh sát Tô Hồng Dân đã vội vã gọi chiến sĩ giám mã chuẩn bị ngựa
để lên được. Trưởng ban trinh sát yêu cầu A Lò và Tự Kim cũng chuẩn bị
lên đường ngay. Trước khi đi, đồng chí anh nuôi gói cho mỗi người một
nắm cơm, nhét vào trong ba lô cùng ít muối vừng. Thấy cậu anh nuôi
xách bình tông nước đi ra treo vào bên dây ba lô, Tô Hồng Dân ngoắc tay
lại bảo.
- Cậu chuẩn bị cơm nắm và muối thôi. Nước thiếu gì. Khát
xuống suối. Uống có mà no căng bụng. Tỉnh gọi về gấp. Càng gọn nhẹ
càng tốt.
Nhìn chiến sĩ anh nuôi có vẻ chưa yên tâm, Tô Hồng Dân nói
vui.
- Người chỉ cần thế thôi. Đồng chí nếu lo được thì phải lo luôn
ba suất cỏ nữa mới đủ. Cậu chỉ lo cho người mà không lo cho ngựa thì để
chúng tôi chạy bộ về chắc.
Nói đoạn, trưởng ban trinh sát giơ tay lên chào, giọng tếu táo.
- Báo cáo đồng chí anh nuôi. Cắt cho ba suất ăn. Báo lại chế độ
ăn vào ngày mai cùng ba suất cỏ.
Nói xong, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân vỗ vỗ vào mông
chú ngựa tía, quàng dây cương sang bên kia, rồi đặt chân lên bàn đạp,
nắm lấy cọc yên, nhún người nhảy lên. Tô Hồng Dân thúc nhẹ hai gót
chân vào bên thân chú ngựa. Nhận được tín hiệu xuất phát, chú ngựa hơi
nhún mình xuống rồi lao đi. Theo sau là bước chân gõ móng lọc cọc, lọc
cọc của bốn nhịp móng từ đôi ngựa của A Lò và Tự Kim.
Ba người ba ngựa cứ theo hướng biển lao về. Những chú ngựa
cũng đã quen với con đường nên chúng chạy rất nhanh. Cứ cắt rừng mà
đi. Gặp được khu đất trống, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân cùng A Lò
và Tự Kim thỉnh thoảng lại sóng hàng ngang bên nhau. Mỗi khi ba chú
ngựa sánh hàng ngang nhau là chúng lại khục khặc đầu lắc lư sang hai
bên.
- Này. Hôm trước thủ trưởng Trịnh Toàn cho gọi hai cậu về báo
cáo hang ma. Hai cậu báo cáo thủ trưởng đến đâu rồi?
Trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân quay qua bên A Lò và Tự
Kim hỏi.
- Thì chúng tôi báo cáo đầy đủ với thủ trưởng đúng như những
gì chúng tôi đã thấy, đã biết và đã nghe.
- Thế thủ trưởng có chỉ đạo ý kiến gì không?

68
- Thủ trưởng nghe chúng tôi báo cáo. Vừa nghe vừa ghi chép gì
đấy. Nghe xong, thủ trưởng chỉ dặn là tiếp tục bám vấn đề hang ma. Thủ
trưởng nói là có vấn đề đấy. Khi nào cần thì thủ trưởng sẽ gọi.
Nghe hai chiến sĩ báo cáo, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân
thấy mình thật có lỗi. Từ ngày về nhận nhiệm vụ ở đây nhưng anh chưa
có thời gian để đi hết địa bàn. Anh không dám đổ lỗi cho công việc nhưng
rõ ràng là anh chưa biết sắp xếp như thế nào để có thể lăn lóc xuống các
bản, các xóm nắm tình hình. Mọi thông tin có được chủ yếu anh đều
thông qua báo cáo. Anh vẫn biết. Trong công việc cần phải có niềm tin
vào cấp dưới nhưng chỉ có niềm tin không thì chưa đủ. Trong công tác
lãnh đạo của Đảng cũng đã nói rất rõ. Không có kiểm tra là không có lãnh
đạo. Trong lần xuống thăm và làm việc với ban công an nhân dân vũ trang
của tỉnh, đồng chí Tư lệnh kiêm Chính ủy cũng có ý nhắc nhở việc triển
khai kế hoạch hoạt động của các đơn vị. Đồng chí nói rõ rằng, nếu kế
hoạch chỉ viết ra trên giấy thì nó mãi mãi chỉ là tờ giấy lộn. Phải triển khai
cụ thể thậm chí đến từng người. Chỉ có như thế thì kế hoạch mới thực sự
có kết quả và chất lượng.
Tô Hồng Dân nhớ mãi câu nói khi tư lệnh kết luận buổi nói
chuyện. Tư lệnh kiêm chính ủy dặn tất cả cán bộ chỉ cần làm tốt tám từ:
quán, giáo, xây, chống, thái, tác, cụ, tỷ. Theo tư lệnh kiêm chính ủy, chỉ
cần làm tốt tám từ này thì đã là người cán bộ tốt, đơn vị đã thành một khối
thống nhất, vững vàng hơn núi, không có thế lực hay trở ngại nào ngăn
nổi. Rồi tư lệnh kiêm chính ủy phân tích. Quán ở đây là quán triệt. Khi
nào được quán triệt đầy đủ và sâu sắc thì khi đó mới có được nhận thức
đầy đủ. Nhận thức có đầy đủ thì mới có thể có tư tưởng thông suốt và
hành động chính xác. Còn giáo ở đây là giáo dục. Quán triệt sâu sắc rồi,
nhận thức sâu sắc rồi thì phải giáo dục cho chiến sĩ cũng có nhận thức như
mình. Nhận thức được như thế thì sẽ có sự đồng tâm hiệp lực trong công
việc. Đồng tâm trong nhận thức, trong công việc chính là cái để tạo nên
sức mạnh tổng hợp để có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách.
Quán triệt xong, giáo dục tốt thì phải biết xây dựng. Xây dựng một ý chí,
một quyết tâm. Xây dựng cho lòng mình thành chính trụ vững để làm cho
mọi người nhìn vào đó, trông vào đó mà làm theo. Còn chống chính là để
biết loại bỏ những vấn đề không cần thiết, trái chiều trong suy nghĩ và
trong tư tưởng. làm cho tư tưởng trong sạch, thông suốt, có niềm tin vững
chắc.
Nói rồi, tư lệnh kiêm chính ủy ngừng ngắn. Ông đưa mắt nhìn
khắp lượt hội trường. Ánh mắt bao dung và chia sẻ song cũng nghiêm
khắc và quyết đoán. Ông như muốn để mọi cán bộ chiến sĩ dưới quyền có
thời gian đủ hiểu và thông tỏ được những điều ông vừa nói. Trong cuộc
đời binh ngũ của mình, Tô Hồng Dân không ngờ được rằng, một vị tướng,
một vị tư lệnh, một cán bộ cấp cao của Đảng, của cả ngành mà dân dã và

69
gần gũi, thông hiểu người lính đến thế. Tô Hồng Dân đưa mắt nhìn nhanh
xung quanh. Anh cảm nhận thấy mọi người quanh anh ai ai cũng hướng
ánh mắt lên phía đồng chí tư lệnh kiêm chính ủy để sẵn sàng chờ mệnh
lệnh. Và có lẽ, chỉ cần một mệnh lệnh từ đồng chí tư lệnh kiêm chính ủy
đưa ra, tất cả sẽ xung trận. Mười người như một, trăm người như một,
nghìn người như một. Sức mạnh của lòng đồng tâm nhất trí.
Nhắc cốc nước đun sôi để nguội lên nhấp nhấp, tư lệnh kiêm
chính ủy nói tiếp. Giọng ông vẫn hào sảng và đầy sức quyến rũ.
- Những ý trên là tôi muốn nói đến cách làm, bước đi của một
công việc. Nếu các đồng chí thực hiện tốt được như thế, làm suôn sẻ
những điều đó thì mới chỉ đạt được năm mươi phần trăm kết quả. Và nếu
chỉ đạt được như thế, tôi dám chắc là khó lòng mà giành được thắng lợi.
Mà thất bại đang chực chờ phía trước.
Dưới hội trường rộ lên tiếng xì xào. Ngay Tô Hồng Dân lúc đầu
cũng nghĩ, nếu một ai đó, làm tốt các nội dung trên thì đã là trên cả tuyệt
vời. Và anh cũng nghĩ, khó có ai có thể làm được, hiểu được, thực hiện
được một cách cặn cẽ, thấu đáo những điều tư lệnh kiêm chỉnh ủy gửi
gắm, trao đổi qua cách ông nói chuyện.
Như đoán được lòng mọi người, như thông tỏ được nỗi niềm
vướng mắc đang cộn lên trong lòng mọi người. Ông cười.
- Nếu làm được như thế mới chỉ là người lính tuân lệnh chứ
chưa phải là người chỉ huy sắc sảo và toàn diện. Và như thế cũng mới chỉ
đạt được lý thuyết mà chưa có thực hành.
Tư lệnh kiêm chính ủy lại dừng ngắn. Ông nói giọng rất vui
nhưng lại rất rành rõ và kiên quyết. Ông nhắc từng tiếng một.
- Làm như thế người ta gọi là lý thuyết suông. Như ăn cháo
không hành, ăn cơm không muối. Ấy là nói theo cách nói nhẹ. Còn nói
theo cách nói của dân gian là: Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm
như mèo mửa.
Ông hướng về phía dưới hội trường hỏi.
- Có đúng thế không các đồng chí?
Cả hội trường cười ồ lên khi tư lệnh kiêm chính ủy vui giọng và
trêu đùa với mọi người. Đoạn ông đợi cho cả hội trường im lặng trở lại.
Ông nói.
- Lúc trước tôi mới nói năm mươi phần trăm tiêu chuẩn của
người cán bộ. Bây giờ tôi sẽ nói năm mươi phần trăm phẩm chất còn lại.
Nếu một ai hợp đủ bốn từ này nữa thì mới có thể …
Nói đến đây, tư lệnh kiêm chính ủy dừng lại. Ông nhấn mạnh.
- Tôi nhấn mạnh thêm này. Nếu ai hợp đủ bốn từ này nữa thì
mới có thể. Mới chỉ có thể thôi đó nhé, đạt được tương đối đầy đủ năng
lực, phẩm chất của người chỉ huy. Bốn từ đó là: Thái, tác, cụ, tỷ.

70
Như để cho mọi người đủ thời gian nhớ được bốn từ trên, tư
lệnh kiêm chính ủy phân tích. Thái ở đây được hiểu là thái độ. Làm người
cán bộ luôn đòi hỏi có một thái độ chân thành, trung thực, thẳng thắn và
dám chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Tác ở đây là tác phong.
Tác phong của người cán bộ phải sâu sát. Nếu không sâu sát sẽ quan liêu,
làm việc sẽ như chuồn chuồn đạp nước. Và chỉ có sâu sát mới đưa ra được
những quyết định đúng đắn, chính xác nhất. Cụ ở đây phải được hiểu là
cụ thể. Cái gì cũng phải cụ thể. Cụ thể đến từng chi tiết một, từng tình
huống một. Khi lựa chọn tình huống để xử lý, người cán bộ phải lựa chọn
tình huống xấu nhất. Khi anh đã chọn tình huống xấu nhất để xử lý rồi thì
khi các tình huống khác kém xấu hơn xảy ra, anh sẽ đủ bình tĩnh để giải
quyết. Nếu ngay cả khi tình huống xấu nhất xảy ra thì bản thân anh cũng
đã biết trước, đón trước, không bị bất ngờ. Còn tỷ ở đây là tỷ mỉ. Khi ra
quyết định nào đó, bản thân người cán bộ phải cảm nhận được như mình
có thể nắm được, sờ được, ngửi được trong lòng tay. Và như thế, các
quyết định khi anh đưa ra, có khác gì anh thò tay vào túi của mình lấy ra
vật mà anh đã để.
Sau khi phân tích và làm rõ từng từ ngữ, tư lệnh kiêm chính ủy
cười. Ông hỏi mọi người.
- Lấy vật trong túi của mình có khó không các đồng chí?
- Không khó tư lệnh ạ.
Tiếng cười, tiếng đáp lời lao xao cả hội trường.
Lại đợi cho tiếng cười, lời bàn tán, câu trả lời lặng xuống tư
lệnh kiêm chính ủy đưa hai tay lên xua xua, dập dập có ý nhắc mọi người
im lặng để ông nói tiếp.
- Có ai nhớ được tám từ tôi vừa nói không?
Cả hội trường lại xôn xao.
- Có thủ trưởng ạ.
- Nhớ hết và thuộc rồi thủ trưởng ạ.
Có tiếng ai nói rất to ở phía sau.
- Quán, giáo, xây, chống. Thái, tác, cụ, tỷ ạ.
Tiếng vỗ tay rầm rầm.
Tư lệnh kiêm chính ủy lại đưa tay lên dập dập phía trước mặt
trên bục nói chuyện. Ông tươi cười, nói vui.
- Thế là tôi đã đưa các đồng chí tất cả túi gấm rồi đấy nhé. Khi
nào khó khăn hay vướng mắc gì, các đồng chí cứ giở túi gấm ra xem, làm
cho đúng những điều ghi trong đó. Chắc chắn thắng lợi một trăm phần
trăm.
Dứt lời, tư lệnh kiêm chính ủy đưa tay lên vẫy vẫy chào mọi
người.
- Chúc các đồng chí thắng lợi!

71
Ông đi ra cửa. Bị bất ngờ, mọi người đang vỗ tay vội đứng cả
dậy nhất loạt đồng thanh hô khẩu hiệu.
- Chúc tư lệnh khỏe! Chúc tư lệnh khỏe!
Tư lệnh kiêm chính ủy vừa đi vừa đưa tay vẫy. Chiếc xe con đã
chờ sẵn bên lối cửa ra vào. Ông bước lên xe, tiếp tục đưa tay vẫy. Chiếc
xe nhẹ nhàng lăn bánh.
Mỗi khi nhớ lại cái hôm được nghe tư lệnh kiêm chính ủy trò
chuyện, Tô Hồng Dân luôn cố gắng. Dù anh cố gắng đã rất nhiều nhưng
anh vẫn luôn thấy mình chưa xứng đáng với những gì tư lệnh kiêm chính
ủy gửi gắm trao đổi. Thì đó thôi. Từ ngày anh về nhận cương vị trưởng
ban trinh sát, anh mới chỉ tập trung xây dựng đơn vị huấn luyện nghiệp
vụ, kỹ chiến thuật mà anh vẫn chưa nắm được tình hình địa bàn. Anh
chưa thật cụ thể trong quản lý địa bàn, chưa thật tỷ mỷ trong điều hành,
nắm bắt công việc. Trong đầu Tô Hồng Dân nghĩ. Chắc lần này chỉ huy
trưởng cho gọi anh và A Lò, Tự Kim về là để nhắc nhở, kiểm điểm những
chuyện trên. Quay qua bên A Lò, Tự Kim, trưởng ban trinh sát Tô Hồng
Dân thân mật hỏi.
- Này. Hai cậu cho tớ hỏi thật nhé.
- Dạ.
- Hai cậu thấy tớ thế nào?
- Tốt ạ.
- Không. Ý tớ là hỏi các cậu thấy tớ có làm được không cơ?
- Thì cũng rất tốt ạ.
- Thế thì tốt là tốt như thế nào?
- Thì tốt…là tốt thôi ạ.
- Ôi giời. Nói như hai cậu tớ đấm thèm vào hỏi cho mất việc.
Hai cậu phải nói cho rõ ra nữa cơ. Tỷ dụ như: Tác phong thế nào? Thái độ
ra làm sao? Có thực sự sâu sát công việc không? Điều hành, quản lý, chỉ
huy đơn vị có được không? Anh em có kêu ca, phàn nàn gì không? Có
nghĩa là tất cả ấy.
Thấy trưởng ban trinh sát hỏi chuyện đánh giá mà cứ như truy
xét, A Lò và Tự Kim đưa mắt nhìn nhau. A Lò và Tự Kim không biết nói
thế nào. Thực tình mà nói, cả hai đều thấy trưởng ban trinh sát là người
rất tốt. Với anh em thì gần gũi, chân thành, chu đáo. Với công việc thì
hăng say và nhiệt tình, quyết đoán. Nếu soi vào theo tiêu chuẩn sáu điều
Bác Hồ dặn cán bộ chiến sĩ toàn ngành công an thì trưởng ban không có
khiếm khuyết gì. Nhìn nhau, A Lò và Tự Kim nháy mắt, lắc đầu ra hiệu
không nói gì. Mà trưởng ban cũng chẳng có cái gì sai sót lớn đáng phải
nói. A Lò và Tự Kim biết tính trưởng ban. Cái gì cũng lo xa, cái gì cũng
muốn chu toàn.
Để phá vỡ sự im lặng, A Lò lên tiếng.

72
- Trưởng ban hỏi nhiều quá, em chả nhớ được phải nói cái gì
trước cái gì sau. Em chỉ biết mỗi việc. Trưởng ban rất tốt. Thế thôi.
Trưởng ban có quát em, mắng em, chửi em thì em vẫn cứ nói thế. Thật
đấy.
Biết có vặn vẹo hỏi thêm cũng không được, Tô Hồng Dân thúc
hai bàn đạp vào bên sườn, chú ngựa lao lên. Thấy Tô Hồng Dân phóng đi,
A Lò và Tự Kim cũng vội thúc ngựa lao theo. A Lò đưa mắt nháy Tự
Kim. Cả hai cũng cười mỉm.
Ép mình trên thân con ngựa có bộ lông màu tía, Tô Hồng Dân
trong lòng vừa vui mà cũng vừa lo. Anh em nói là rất thực bụng mình. Sự
đánh giá của anh em cán bộ dưới quyền làm anh vui. Làm người cán bộ
quản lý, không gì vui hơn được anh em cấp dưới tin tưởng. Dẫu A Lò và
Tự Kim không nói gì cụ thể và luôn có ý tránh trả lời thẳng vào câu anh
hỏi, nhưng Tô Hồng Dân biết. A Lò và Tự Kim cũng như anh em cán bộ
trong đơn vị đều là những cán bộ trung thành, một lòng một dạ vì sự
nghiệp cách mạng chung của Đảng. Họ đều là những người xuất thân từ
mảnh ruộng, dòng sông, làm thuê làm mướn, cuộc đời gắn với cây lúa củ
khoai. Vì sự nghiệp cách mạng, họ có thể xả thân bất cứ lúc nào mà
không hề có sự so đo tính toán. Ở những người lính này, Tổ quốc là trên
hết, cách mạng là trên hết, không có gì sánh bằng. Và anh cũng tin rằng,
trong đội ngũ của Đảng, với những người trung kiên như thế này, không
có khó khăn nào của cách mạng mà không thể vượt qua.
Vui là vui thế song trong lòng Tô Hồng Dân vẫn lo lắng. Cái lo
của trách nhiệm. Cái lo của người chỉ huy. Anh biết trong thời gian qua,
vì công việc những ngày đầu xây dựng đơn vị còn gặp quá nhiều khó
khăn, vất vả, có quá nhiều vấn đề cần giải quyết nên anh chưa có thời gian
để xuống cơ sở, nắm bắt thực tế cơ sở địa bàn. Anh vẫn nhớ đinh ninh lời
Bác dậy. Muốn làm cách mạng thành công, phải lấy dân làm gốc. Gốc có
vững thì cây mới bền. Bác cũng dạy: Các chú chỉ có hai tay hai mắt, còn
nhân dân có nghìn tay, nghìn mắt. Nếu các chú làm tốt công tác dân vận,
thì mọi hoạt động của kẻ địch, các chú sẽ được nhân dân báo cho biết.
Vẫn biết vạn sự khởi đầu nan, song anh thấy trách nhiệm của cương vị mà
anh được Đảng, nhà nước, lực lượng giao phó trao trọng trách vẫn chưa
thực sự toàn tâm toàn ý. Sai đâu sửa đấy. Lần này trực tiếp ban chỉ huy
tỉnh gọi về, anh sẽ thẳng thắn mạnh dạn nhận khuyết điểm, nhận trách
nhiệm. Ban chỉ huy đánh giá hay nhận xét sử dụng thế nào anh cũng chấp
nhận. Thấy sai mà nhận mà sửa với anh không có gì là xấu hổ. Chỉ sợ
thấy sai mà không dám nhận, không kiên quyết sửa chữa mới là điều hổ
thẹn và đáng xấu hổ. Làm việc thì thế nào cũng phải có sai. Có sai và biết
sai để sửa chữa thì mới có thể trưởng thành được. Mỗi lần vấp ngã là một
lần cho ta sự trưởng thành. Có sự thành công nào không trả giá bằng mồ

73
hôi và nước mắt, thậm chí bằng cả máu. Có con đường nào ta đi mà chỉ có
thảm hồng nếu không nói có rất nhiều chông gai và bão táp.
Chỉ nghĩ thế, lòng Tô Hồng Dân thấy thanh thản. Thúc hai gót
vào bên sườn chú ngựa tía, ghì chặt dây cương, ép sát mình xuống thân
ngựa. Tô Hồng Dân cảm thấy cả tiếng gió quét nhẹ bên tai, bên má. Anh
không nghe thấy cả tiếng ngựa gõ móng xuống mặt đất. Chỉ còn tiếng gió
mơn man. Tô Hồng Dân thấy lòng mình nhẹ nhõm. Anh như thấy mình
bay trên cánh rừng, bay trong màu xanh của lá, bay trong niềm tin, bay
trong lòng trung nghĩa.
Phía trên đầu, trên những màu xanh ấy, líu ríu tiếng chim.

18
CON ĐƯỜNG XÂM NHẬP

74
Cả đêm qua, Thiếu tá Trịnh Toàn không tài nào ngủ được. Ông
gần như thức cả đêm để tính toán các phương án và bố trí lực lượng.
Nhưng điều làm ông vui nhất là có được sự nhất trí nhanh chóng của
chính trị viên Song Hoa.
Thiếu tá Trịnh Toàn không nghĩ việc ông quyết định tập trung
toàn lực lượng để mở chuyên án lại được sự nhất trí cao độ của chính trị
viên Song Hoa nhanh như thế. Đến khi bước chân vào phòng chính trị
viên rồi, Trịnh Toàn lúc đó cũng không biết sẽ nói như thế nào về việc
nhận định đánh giá của mình. Thật may là chính trị viên Song Hoa lại pha
ấm trà. Chính nhờ có chút thời gian ngắn đợi chính trị viên xúc ấm, pha
trà mà Trịnh Toàn đã tìm ra được cách trao đổi ngắn gọn nhất về những
suy nghĩ của mình. Ngay bản thân Trịnh Toàn, ông cũng không nghĩ rằng
ông lại có thể nói với chính trị viên một vấn đề rất quan trọng, nó có tác
động rất lớn đến sự thành bại của cả đơn vị chỉ trong một vài trao đổi
ngắn gọn và cụ thể đến vậy. Chính nhờ có sự nhất trí cao, nhất trí đến
tuyệt đối của chính trị viên Song Hoa làm Trịnh Toàn càng tin vào sự
phán đoán và quyết định của mình là chính xác, càng làm ông tin tưởng
vào khả năng thắng lợi.
Mặc dù trong lòng Trịnh Toàn chưa thực sự tin vào khả năng
trên địa bàn của tỉnh có sự xâm nhập của địch. Ông tin vào khả năng quản
lý và nắm bắt địa bàn của các đơn vị thuộc quyền. Nếu dựa trên tính toán
và thực tế của địa bàn tỉnh, khả năng kẻ địch xâm nhập vào theo đường bộ
là vô cùng khó khăn và gặp rất nhiều phức tạp. Thất bại sẽ nhiều mà thành
công sẽ rất ít. Bởi, muốn hay không, khi xâm nhập đường bộ vào địa bàn
tỉnh thì đối tượng sẽ phải đi qua rất nhiều địa bàn và các tỉnh khác. Mà
mỗi lần đi qua được các địa bàn đó, đối tượng sẽ khó mà thoát được tai
mắt của các lực lượng quản lý cũng như người dân. Trong khi đó, địa bàn
tỉnh Trịnh Toàn quản lý lại là nơi cánh cung vùng Đông Bắc. Việc ra vào
cũng không thuận lợi như các tỉnh miền Trung, nơi giáp ranh giữa hai lực
lượng đối nghịch. Còn khả năng xâm nhập qua nước thứ ba để vào địa
bàn của lực lượng tỉnh ông quản lý lại càng khó khăn hơn. Mặc dù, nơi
đây có địa bàn hiểm trở song việc qua lại là vô cũng phức tạp và cực kỳ
nguy hiểm.
Cũng theo tính toán của Trịnh Toàn, việc đối tượng xâm nhập
vào địa bàn bằng đường không là cũng khó lòng có thể xảy ra. Hiện tại,
tuy các lực lượng phòng không của địa bàn trong tỉnh còn mỏng, ấy là
chưa nói là gần như bằng không thì khả năng này cũng ít xảy ra. Nếu xâm
nhập vào đường không, máy bay khi bay vào nhất định sẽ có nhiều người
biết. Không những thế, khu vực địa bàn của tỉnh lại chủ yếu là rừng già
nguyên sinh nên việc đỗ hay đáp xuống sẽ không thể xảy ra được. Nếu
nhảy dù, cũng là xác suất rất thấp vì dễ gây nguy hiểm cho chính kẻ xâm
nhập.

75
Nếu đối tượng xâm nhập lại đi theo con đường ngoại giao thì
khả năng này càng ít xảy ra. Tất cả các đoàn đi theo con đường ngoại giao
đã được quản lý và giám sát chặt chẽ. Nếu đối tượng đi cùng đoàn, tách
đoàn ra để hoạt động thì chả khác nào “lậy ông tôi ở bụi này”. Sẽ bị phát
hiện và ngăn chặn ngay. Không những thế, nó còn ảnh hưởng và để lại sự
mất niềm tin trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Dẫu gì thì gì, dù
Việt Nam mới giành được độc lập, chưa được nhiều nước trên thế giới
công nhận nhưng vẫn là quốc gia có chủ quyền. Hoạt động theo con
đường này thì chỉ là nhất thời và thời gian ngắn, không hiệu quả và mức
độ không cao.
Con đường xâm nhập có thể thực hiện để vào địa bàn của tỉnh
có chăng chỉ có thể là theo đường biển. Mặc dù các lực lượng trên tuyến
biển đã được bố trí nhưng còn mỏng. Chỉ riêng việc trên địa bàn biển của
tỉnh quản lý đã có tới hàng nghìn điểm đảo khác nhau. Phạm vi rộng, địa
bàn cũng phức tạp, lực lượng quản lý mỏng là cơ hội để cho đối tượng
xâm nhập có thể thành công. Mặc dù trên biển ngoài các điểm đảo ra, chủ
yếu là sóng nước. Song hạn chế lớn nhất này lại chính là điểm yếu cốt tử
của người quản lý và là lợi thế rất thuận cho kẻ xâm nhập. Tuy khả năng
quan sát được rộng hơn nhưng lượng tàu thuyền hoạt động lại khó quản
lý. Tàu thuyền hoạt động trong khu vực không chỉ có người trên địa bàn,
địa phương mà còn có rất nhiều tàu thuyền của địa phương khác cũng làm
ăn mưu sinh trên đó. Trong khi đó, khả năng vươn xa để kiểm tra kiểm
soát của ta lại còn nhỏ và chưa đủ sức. Ban ngày còn khó quản lý chứ nói
gì đến về đêm. Đêm chính là kẻ thù của người quản lý nhưng lại là bạn, là
đồng minh cho kẻ xâm nhập.
Trịnh Toàn cũng nhận định, số lượng đối tượng xâm nhập, kẻ
xâm nhập sẽ không nhiều. Nếu xâm nhập nhiều thì sẽ bất lợi. Chúng ta
vừa giành được thắng lợi nên khí thế trong quần chúng còn rất cao. Đi
xâm nhập đông là sẽ để lại dấu vết, khó lòng mà xóa cho được. Và đi
đông như thế thì cũng sẽ khó mà giấu được tung tích. Rất dễ bị phát hiện.
Muốn giấu được kín thì chỉ có thể đi đơn lẻ hoặc cùng lắm là một toán từ
hai đến ba tên là cùng.
Từ những phân tích trên của mình, Trịnh Toàn cũng tin rằng,
nếu đối tượng xâm nhập cũng khó lòng có thể là người ngoài địa bàn tỉnh.
Nếu xâm nhập được phải là người thông thạo địa hình, thông thạo phong
tục tập quán, thông thạo ngôn ngữ địa phương. Thông thạo được những
yếu tố trên thì chỉ có thể là người nội tỉnh. Người này phải là người gốc ở
địa bàn. Nếu không, đối tượng này cũng phải là người lớn lên ở đây, ăn
gạo ở đây, uống nước ở đây và làm việc sinh hoạt ở trên địa bàn thời gian
đủ dài mới có thể có được.
Nghĩ là thế, tính toán là thế nhưng Trịnh Toàn vẫn chưa lý giải
và trả lời được việc cái mái chèo mà Trịnh Toàn nhìn thấy và thu được từ

76
thuyền nhà Trần Kiên với hiện tượng xuất hiện có ma ở hang ma. Chúng
có mối quan hệ như thế nào? Giữa chúng có vấn đề gì có liên quan? Một
cái xảy ra ở biển. Còn sự xuất hiện của ma ở hang ma lại trên rừng, khe
núi. Khoảng cách của hai vấn đề xảy ra là rất xa. Có phải chăng đây là sự
trùng lặp ngẫu nhiên hay chỉ là một. Nếu quả đúng là ngẫu nhiên thì
không chỉ có một toán, một đối tượng đã xâm nhập mà sẽ phải là hai toán.
Nếu là một thì đối tượng này phải là người như thế nào mới có khả năng
di chuyển địa điểm nhanh chóng đến như vậy. Nghĩ đến đau đầu nhưng
Trịnh Toàn vẫn chưa tìm ra được lời lý giải cho thỏa đáng hai sự việc xảy
ra trên địa bàn.
Việc gì đang xảy ra? Xảy ra ở đâu và như thế nào? Bởi tại làm
sao lại thế? Mục đích của nó? Thời gian xảy ra ra làm sao? Một đối tượng
hay nhiều đối tượng. Một toán hay hai toán đã xâm nhập? Chúng đã thật
sự xâm nhập chưa hay mới chỉ là trò rung cây dọa khỉ, tung hỏa mù, đánh
lạc hướng, tạo dư luận? Rất nhiều câu hỏi cứ xoáy trong đầu Trịnh Toàn
bắt ông có câu trả lời.
Đi đi lại lại trong phòng một mình để tìm câu trả lời. Càng nghĩ
Trịnh Toàn càng thấy mù mịt và lo lắng. Mặc dù đã được chính trị viên
nhất trí nhưng nếu nhận định sai, phán đoán chệch hướng, không đúng
khả năng thì uy tín và trách nhiệm sẽ không còn gì. Nhưng nếu không
triển khai, cứ chờ đợi thì khi sự việc xảy ra rồi mới triển khai thì quá
chậm, và uy tín cũng bằng không. Đảng đã cho chủ trương. Đây là cái
thuận lợi. Song người chỉ huy lại là người quyết định. Cái đúng và cái sai,
cái được và cái mất chỉ chông chênh cách nhau không được bằng sợi tóc.
Bất giác, Trịnh Toàn đưa chân đá mạnh về phía trước. Uỳnh.
Chiếc cánh cửa đã cũ, mấy cái bản lề đã hoen gỉ, lung lay như răng ông
lão được cơ bung ra. Cánh cửa đổ vật xuống bậc thềm.
Trịnh Toàn thấy bóng người nhoáng qua. Ông chạy vội ra cửa.
Đứng ngay bên cạnh chiếc cánh cửa vừa đổ xuống là chính trị viên Song
Hoa. Cánh cửa đổ sập xuống làm bụi đất tung lên. Chính trị viên Song
Hoa đang lấy tay che ngang mặt tránh bụi.
- Ôi. Anh Song Hoa. Anh có bị làm sao không?
Đợi cho bụi tan, chính trị viên Song Hoa buông tay xuống, rũ rũ
tay áo rồi phẩy phẩy bụi trên người.
- Tôi không sao? Mà cánh cửa anh làm sao lại đổ sập xuống
thế?
Đi đến bên, cầm tay chính trị viên, Trịnh Toàn kéo Song Hoa
vào phòng.
- Chắc bí cái gì, nghĩ chưa ra lại đá vào cánh cửa chứ gì?
Chính trị viên Song Hoa nhìn Trịnh Toàn. Nói rồi ông mỉm
cười.

77
- Tội cái anh cánh cửa này lớn lắm. Nhất là mấy cậu bên hậu
cần. Biết tính thủ trưởng mà làm mộng mẹo không chắc chắn. Thật là
chán mớ đời cho mấy cậu này quá.
Nghe chính trị viên nói vui, Trịnh Toàn cười theo.
- Có mấy cái mà tôi tính chưa ra. Thói quen cứ tiện chân tiện
tay. Thôi. Anh vào đây đã tôi cũng đang muốn bàn thêm với anh.
Vừa với tay lấy ấm nước, cậu chiến sĩ thập thò ngoài cửa. Vừa
rót nước mời chính trị viên, Trịnh Toàn vừa nói vọng ra.
- Vào đi. Có việc gì đấy.
Cậu chiến sĩ rụt rè đi vào. Đứng nép vào bên khung cửa vừa bị
bung ra. Cậu chiến sĩ giơ tay chào.
- Dưới đồn Mũi Ngọc vừa điện báo về thu được chiếc thuyền
thúng trôi dạt. Thuyền kiểu của ngư dân miền Nam.
Không kịp cả lấy chén nước đưa cho chính trị viên, Trịnh Toàn
gần như nhoai người qua bàn để nhận lấy tờ giấy điện từ tay cậu chiến sĩ.
Rồi cứ thế, vừa đứng vừa đọc. Đọc xong bức điện, Trịnh Toàn đấm mạnh
hai tay xuống bàn. Chiếc bàn rung lên. Mấy cái chén bật lên khỏi chiếc
khay lạch cạch. Chiếc ấm tích ủ nước chè xanh cũng nảy lên rồi đổ tràn
xuống bàn. Chính trị viên nhìn Trịnh Toàn mỉm cười.
- Có thế chứ.
Trịnh Toàn đưa bức điện cho chính trị viên xem. Ông ngồi
xuống ghế. Nét mặt tươi roi rói. Mấy nếp nhăn trên trán giãn ra. Trên đôi
mắt của Trịnh Toàn sáng lấp lánh. Cậu chiến sĩ chạy vội lại đặt chiếc ấm
tích cho ngay ngắn. Cậu ngơ ngác nhìn Trịnh Toàn rồi chính trị viên Song
Hoa. Cậu không biết chuyện gì đang xảy ra.
Xong việc, cậu lặng lẽ rời phòng Trịnh Toàn. Trước khi rời, cậu
nhẹ nhàng kéo chiếc cửa đổ dựng sang bên. Gió từ cửa ùa vào. Hơi nước
biển cũng mang vào theo sự mát mẻ của biển.
Đợi cho cậu chiến sĩ đi khuất, Trịnh Toàn đứng lên, đi đến bên
cạnh ghế của chính trị viên Song Hoa. Buông tờ giấy điện trên tay, chính
trị viên Song Hoa đặt trên mặt bàn, xoay người nhìn Trịnh Toàn.
- Lúc nãy có việc gì mà bức xúc thế?
- Cũng là cái chuyện này đây anh.
Đưa tay chỉ vào tờ giấy, Trịnh Toàn trả lời chính trị viên Song
Hoa mà mắt vẫn như dán vào bức mật điện của đồn Mũi Ngọc báo cáo.
- Có chuyện gì đâu? Đúng như anh đánh giá nhận định thôi mà.
Trịnh Toàn nhìn chính trị viên Song Hoa cười cười. Giọng thật
thà.
- Chiều qua, khi tôi trao đổi với anh về chuyện có rất nhiều khả
năng kẻ mang mật danh AZET đã xâm nhập vào địa bàn của chúng ta
quản lý. Anh có biết lúc đó trong đầu tôi không có lấy nổi một bằng
chứng nào để chứng minh rằng chuyện đó đã xảy ra chưa? Bức mật điện

78
của Ban công an Trung ương gửi cũng mới chỉ là ý nhắc nhở, phòng xa
khả năng địch xâm nhập thôi. Chứ nào đã lấy cái gì làm cơ sở kết luận
đâu.
Nhìn lên khuôn mặt đồng đội, chính trị viên Song Hoa vẫn còn
nhận ra nét vui, thoải mái của Trịnh Toàn. Ông nhỏ nhẹ.
- Biết chứ. Tôi biết rất rõ nữa là khác.
- Biết sao anh lại nhất trí nhanh với tôi như vậy?
- Thì tôi tin vào khả năng nhận định của anh. Tin vào con mắt
nghề nghiệp của anh.
Chính trị viên Song Hoa định nói rõ thêm nhưng rồi nghĩ đi
nghĩ lại, thôi. Bản thân Trịnh Toàn chắc cũng quá thấu hiểu hoàn cảnh của
đất nước hiện tại. Tình hình địa bàn còn nhiều khó khăn. Các lực lượng
triển khai bảo vệ chế độ xã hội của mình cũng còn manh nha, chưa hoàn
thiện. Trong khi đó, phía miền Nam, Mĩ cũng đã đưa cả chục ngàn quân
đổ vào trong này. Đây cũng chính là cơ sở hoàn cảnh thuận lợi cho kẻ
địch đưa lực lượng xâm nhập. Với lại, vì chính quyền của miền Bắc cũng
chưa thật vững chắc. Tuy công tác tư tưởng đã được các cấp các ngành
tập trung nhưng nếu nhìn thực lực vào đời sống thì quả là đất nước còn
gặp biết bao khó khăn. Chính sự khó khăn đó cũng là cơ hội để các loại
tội phạm khác có điều kiện hoạt động, chống phá. Điều đáng mừng nhất
và có lẽ sức mạnh duy nhất mà đất nước có lúc này chính là niềm tin. Một
niềm tin sắt son vô bờ bến vào cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng và
của Bác Hồ. Chính niềm tin và chỉ có niềm tin đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp mà không có thế lực thù địch nào ngăn nổi.
Chính trị viên Song Hoa cũng biết rằng. Với cương vị và trọng
trách được giao, Trịnh Toàn hiểu hơn ai hết thực lực của đất nước, của lực
lượng và của ngành. Nếu chỉ nghe thấy Thái Bình đã đưa năng suất lúa
lên được năm tấn trên héc ta mà mừng thì đâu đã biết được những khó
khăn còn rình rập trước mắt. Nếu cứ tính, tất cả các tỉnh đồng bằng Bắc
bộ, ở đâu, nơi nào cũng đạt được năng suất lúa như Thái Bình thì với một
đòi hỏi của phía chiến trường, liệu có đủ cung cấp cho các lực lượng cán
bộ chiến sĩ trong miền Nam. Một đất nước nông nghiệp, sản xuất chủ yếu
là phương thức canh tác tiểu nông nhỏ lẻ, nay vào hợp tác xã, sản xuất lớn
đâu đã có thể một sớm một chiều mọi việc được suôn sẻ. Phục vụ cho
chiến trường, đâu chỉ có lương thực. Còn biết bao nhu cầu khác. Từ vũ
khí đến đạn dược, thuốc men, quần áo, trang thiết bị khác. Tất cả chỉ trông
vào hạt lúa củ khoai, tất cả chỉ trông vào giọt mồ hôi của người dân một
nắng hai sương với cái cuốc cái cày mà làm nên thắng lợi.
Chính trị viên Song Hoa còn nhớ dấu ấn lần ông cùng một đoàn
cán bộ về tham quan Thái Bình. Ông không thể ngờ. Mọi người trong
đoàn cũng không thể ngờ. Chính những người trên mảnh đất làm nên năm

79
tấn thóc ấy cũng còn đói, rách. Hạt lúa làm ra chia hai chia ba. Củ khoai
làm ra chia năm chia bẩy.
Trưa hôm ấy, ông cùng mấy người trong đoàn ghé thăm một gia
đình làm nông. Đúng lúc gia đình ăn cơm. Trên mâm cơm, ngoài đĩa rau
muống luộc, bát canh rau muống luộc không còn món gì khác. Bát cơm
nói là độn dong, độn khoai nhưng thực ra là gạo độn dong, độn khoai. Cả
bát cơm chỉ thấy toàn củ dong riềng và khoai. Bám hờ trên những miếng
dong, miếng khoai đó là dăm ba hạt cơm. Có một chị trong đoàn thấy nồi
cơm gia đình quá đạm bạc như thế mới hỏi.
- Cháu nghe tỉnh ta năng suất lúa năm tấn một héc ta mà bữa
cơm của gia đình ta vẫn thế này sao.
Bác chủ nhà buông bát, tay cầm đôi đũa vừa gắp mấy ngọn rau
muống luộc vừa trả lời.
- Làm năng suất cao cũng phải để tập trung cho miền Nam chứ.
Bác Hồ đã nói rồi. Dù có phải đốt cả dãy…
Bác nông dân quay qua người con còn nhỏ, khoảng bẩy, tám
tuổi đang gặm tước xơ từ miếng dong riềng trong bát.
- Dãy gì cu Tý có nhớ không nhỉ.
- Dãy Trường Sơn. Nhắc bố mãi mà bố chả nhớ gì sất.
- Ờ ờ. Dãy Trường Sơn. Bố nhớ rồi. Bố nhớ dãy Trường Sơn
rồi. Gớm. Anh nhắc cho bố anh tý mà ra dáng vênh quá.
- Chả thế à. Nhắc mãi mà bố chả nhớ. Ai cũng như bố thì đất
nước này nghèo lắm, khổ lắm. Bác còn nói. Chúng ta hiện nay phải tiết
kiệm, còn ăn chưa no, mặc chưa đủ ấm. Chúng ta đang phải dồn sức cho
sự nghiệp thống nhất đất nước. Cô giáo con cũng vẫn thường nói thế đấy.
Cu con của bác nông dân vục vặc lại bố. Miệng nó vẫn cố tước
những xơ của bìa củ dong riềng ra. Chắc khi làm ai đó đã không gọt kỹ
còn để vướng xơ lại.
Đặt bát xuống bên cạnh mâm cơm, bác nông dân đọc tiếp.
Giọng đọc nghe sang sảng và đầy khí thế. Cứ hừng hực hừng hực như
người sắp xung ra trận.
- Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì chúng ta cũng phải
giành cho được độc lập. Chúng tôi hiểu lắm. Lời của cụ Hồ Chủ tịch dặn
chúng tôi là ai cũng hiểu cả. Nước mà không độc lập thì làm sao dân có tự
do, làm sao có ấm no hạnh phúc. Nếu có phải đánh đổi tất cả chúng tôi
cũng xin sẵn sàng.
Nói rồi bác nông dân hướng mắt sang phía mấy người trong
đoàn vẻ mặt rất phấn khởi. Lúc đó, ông nghĩ, chắc bác nông dân phấn
khởi lắm khi có đoàn thăm quan để bộc bạch lòng mình.
Một tỉnh giàu có về năng suất như thế mà cuộc sống của người
dân còn vất vả như vậy. Điều đáng mừng nhất là tất cả, từ nam phụ lão ấu,
tư tưởng rất thông suốt. Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước cộng hòa nhân

80
dân Trung Hoa cũng thường nhắc nhở và đánh giá công tác tư tưởng. Chủ
tịch Mao Trạch Đông luôn khẳng định rằng, tư tưởng là thống soái. Tư
tưởng mà thông thì không chỉ đào sông mà nếu cần, lấp cả biển Đông
cũng được.
Chính trị viên Song Hoa không muốn nhắc hay muốn nói điều
đó với Trịnh Toàn. Bởi anh hiểu Trịnh Toàn.
Như để tin chắc vào điều chính trị viên Song Hoa nói. Trịnh
Toàn hỏi lại.
- Lúc đó chắc chắn anh tin vào điều tôi nói là thật chứ.
Chính trị viên Song Hoa đưa tay nắm lấy tay Trịnh Toàn thân
mật.
- Đúng là cái bố này. Tôi với anh mà không còn tin nhau thì tin
ai. Thế anh nghi ngờ lòng tin của tôi sao?
Nghe chính trị viên hỏi lại như thế, Trịnh Toàn vội xua tay.
- Ấy chết. Ấy chết. Không đâu. Tôi đâu dám nghĩ là anh không
tin tôi. Thực lòng nhé. Lúc đó tôi không đủ tin vào chính tôi sẽ thuyết
phục được anh và nhận định đánh giá của tôi đâu.
Thấy thái độ Trịnh Toàn như thế, chính trị viên Song Hoa cười,
xua xua tay.
- Thôi. Không nói chuyện này nữa. Tôi biết rồi.
Nói là thế thôi chứ thực ra, khi nghe Trịnh Toàn trao đổi về
những nhận xét đánh giá khả năng đối tượng xâm nhập vào địa bàn thì
ông cũng chưa tin. Mặc dù chưa tin những nhận định đó song trong kế
hoạch và chỉ thị nghị quyết của trên đều đã dự báo khả năng địch sẽ tung
lực lượng xâm nhập vào miền Bắc để thu thập thông tin, tin tức tình báo.
Dù mới chỉ là những dự báo song tính dự báo khả năng ở đây là rất cao.
Lực lượng còn non trẻ, cán bộ chiến sĩ tuy có tinh thần song
cũng chưa trải qua nhiều thực tiễn công tác, kinh nghiệm chiến đấu và
kinh nghiệm công tác còn rất ít. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội mà
đối phương có thể tính đến và tận dụng.
Chính vì thế, khi nghe chỉ huy trưởng trao đổi về những nhận
định đánh giá khả năng thời gian tới cũng như khả năng địch xâm nhập,
chính trị viên Song Hoa đã nhanh chóng đồng ý. Ông muốn tạo ra ý thức
cảnh giác, muốn tạo sự nhất trí trong toàn đơn vị. Ông sợ nhất là, cách
mạng mới giành thắng lợi. Sự lạc quan tếu sẽ dẫn đến mất cảnh giác trong
tư tưởng và tâm lý của cán bộ chiến sĩ. Ngay chuyện, mỗi khi đi đâu, làm
gì ông cũng nghe thấy cán bộ, chiến sĩ có vẻ rất tự hào về sự thành công
của cách mạng. Tự hào là đúng, song chỉ biết tự hào mà không đề cao
cảnh giác là dễ dẫn đến chủ quan khinh địch. Bất cứ một sự sơ xuất, chủ
quan nào cũng đều phải trả giá đắt. Nhất là trong hoạt động bảo vệ chính
quyền, giữ chính quyền, chủ quan, mất cảnh giác sẽ phải trả giá bằng máu
và nước mắt. Lê - nin cũng đã từng dạy rằng: Giành chính quyền đã khó

81
song bảo vệ được chính quyền, giữ cho được chính quyền còn khó hơn.
Đất nước để có ngày hôm nay, đã có biết bao xương máu của các chiến sĩ
cách mạng phải đổ xuống.
Chính trị viên Song Hoa đợi cho sự hưng phấn của Trịnh Toàn
lắng xuống. Ông nhìn Trịnh Toàn thẳng thắn.
- Thế anh có nghĩ lúc đó tôi cũng chưa thật tin không?
- Thật thế sao?
Nhìn thẳng vào đôi mắt Trịnh Toàn, chính trị viên Song Hoa
cười cười.
- Nói thật nhé. Khi nghe anh trao đổi tôi cũng lăn tăn lắm đấy.
Lúc đó tôi chưa thật sự nhất trí lắm đâu. Chưa có căn cứ, chưa thấy đủ cơ
sở. Tôi cũng lo. Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên tuy có nhận định
thế. Nhưng nếu cơ sở mà cứ theo đó tất tần tật thì chưa chắc đã tốt. Mất
hẳn tính sáng tạo, tính làm chủ. Sự trung thành đấy là ngu trung.
Nói đến đây, chính trị viên Song Hoa ngừng lại.Ông muốn xem
thái độ phản ứng của Trịnh Toàn như thế nào. Ông ngại nhất là tính tình
Trịnh Toàn nóng nẩy. Không nên không phải là nói đến mất mặn mất
nhạt, cứ tồ tồ nói ra mà không kìm hãm được. Nóng nảy cũng có mặt tốt
song thường là bất lợi.
- Thế sao lúc đó tôi thấy anh đồng ý nhanh thế?
Chính trị viên Song Hoa cười cười.
- Dĩ bất biến, ứng vạn biến mà.

19
BẮT MỐI

82
Trở mình thức giấc, lão Tảng thấy lão còn đang nằm trên chiếc
sạp nứa của mụ Đoác. Lão lắng tai nghe. Vắng lặng. Chỉ có tiếng ri ri của
lũ dế rủ nhau đi kiếm ăn, thỉnh thoảng có tiếng con chim bắt cô trói cột
vọng lại. Rừng đối với lão là nguồn sống. Với ai lão không biết nhưng với
lão, còn rừng là còn cái ăn và như thế, còn rừng với lão là đồng nghĩa với
còn cái sống. Những tiếng chim kêu, những tiếng vượn hót đã trở thành
thứ máu thịt của đời lão. Lão dám đánh đổi cả cuộc đời này của lão với
rừng. Cũng có đôi ba lần, cái đầu lão cũng đã nghĩ. Nếu không có rừng
không biết đời lão sẽ ra sao? Nhưng cái ý nghĩ ấy của lão cũng chỉ thoáng
qua mà thôi. Thoáng qua như cơn gió rừng làm vậy. Mỗi khi cái đầu lão
vừa nảy nòi ra điều đó, lão đã tự nhủ. Cuộc đời lão chả là cái chó gì, thậm
chí còn chả bằng con chó. Sống ngày nào hay ngày đấy. Nghĩ lắm cho vạ
đau đầu nhức óc. Và thế là lão quên béng ngay. Cũng vì cái thói chả cần
nghĩ nó gắn với thói chả cần nhớ nên lão sống đúng như loài cỏ dại. Thì
đấy. Cỏ dại vứt vào đâu cũng có thể mọc được. Nắng cũng sống, mà mưa
cũng vẫn cứ sống. Hạt cỏ lăn lóc, rơi vãi vào bất cứ chỗ nào cũng có thể
mọc lên được. Ngay cái lỗ nứt của khe đá, nhỏ tí tì ty như cái sợi chỉ, ấy
vậy mà hạt cỏ vẫn bám vào, rồi nảy mầm và vẫn sống khỏe. Lão nghiệm
ra rằng. Phàm những cái gì như cỏ dại, đều sống dai và dễ sống. Thậm chí
sống còn hơn cả các loài khác.
Thức dậy, nghe tiếng con chim bắt cô trói cột vọng lại, chả biết
sao, lão tự nhiên thấy bực, thấy cáu, thấy tức bởi tiếng con chim bắt cô
trói cột mà có lẽ, lão đã nghe đến đầy tai từ cái ngày mở mắt nhìn đời.
Lão lẩm bẩm chửi.
- Có mỗi cái mà bắt mãi còn đéo được. Thế mà cả đời cứ đòi
bắt mãi. Kêu lắm, bố mày xách nỏ, cho cái tách là tiêu. Hết kêu. Sốt ruột.
Lão đưa mắt nhìn quanh. Không thấy bóng dáng mụ Đoác đâu.
Lão thấy bụng cồn cào. Từ hôm qua thì phải, lão chưa có cái gì đút vào
bụng. Chắc đói bụng nên lão thấy thế. Lão lồm cồm bò dậy. Lão thấy
người ngợm đau ê ẩm. Lão nghĩ. Chắc do lão nằm lâu quá. Mà mả mẹ nó.
Cái con mụ Đoác cũng lười như hủi, làm như chó ỉa. Có mấy cái thân tre,
chẻ ra, đập bẹp, róc cho nhẵn mấy cái vấu, đặt lên cái gạc tre để nằm mà
cũng không làm. Mụ cứ để thế cho chỗ mụ nằm. Mụ ngu cho mụ chết.
Nhưng mà lão cũng thấy lão chả kém gì mụ. Trên cái phản tre toàn vấu là
vấu này, lão đã đè mụ bao lần mà đến nay mới biết. Bỗng nhiên lão cười.
Cười ngất. Lão cười đến nỗi, dãi từ miệng lão chảy tràn ra cả hai bên mép.
Bố tổ cha nó. Những lúc ấy lão chả biết nó nhẵn hay sần sùi. Cứ gặp mụ
là cái của nợ của lão rối tinh rối mù lên. Nó căng cứng làm lão khó chịu.
Lão vừa cười về cái ý nghĩ chợt thoáng qua trong đầu, lão vừa
lấy tay sờ sờ trên mặt giát tre. Cái mặt giát tre cứ sù sà sù sì, quá bằng
nằm trên gốc cây lau cây sậy. Có chỗ lão thấy chả khác gì cái búp cỏ
83
gianh mới mọc. Lão đã có lần chết khú chết khiếp khi đi qua chỗ cỏ gianh
bị ai đó đốt, gặp phải ngày mưa phùn, chúng đua nhau đâm lên. Cái bàn
chân lão, lớp da dưới gan bàn chân dày như cái vỏ cây mà còn bị mấy
ngọn cỏ gianh đâm cho vãi máu. Cái sạp của mụ thế này làm gì mà chả
đau.
À. Lão nghĩ ra rồi. Mụ chỉ được thấy hơi đàn ông là giỏi. Thấy
hơi đàn ông, mụ đúng là quá bằng chuột thấy mèo, cứ cuống quýt cả lên
rồi nhũn ra như con giun bị đổ nước quả găng, quả bồ kết. Chắc mụ cố ý
làm không hết vấu để những khi cái cơn động đực của mụ nó phát, nó
ngứa ngáy, mụ có chỗ mà cọ, mà kỳ. Đúng là đồ chó cái động đực.
Lão đi ra cái bếp. Lão đưa tay sờ sờ trên đám tro. Bếp lạnh
ngắt.
- Tiên sư nhà con chó. Không để gì cho bố mày ăn mà lại bỏ đi
đâu thế này.
Lão vừa sờ soạng mặt bếp vừa chửi. Lão ngoái cổ nhìn lên phía
gác. Lão thấy mấy cái bắp ngô treo lủng lẳng bị khói ám đen sì sì. Lão với
tay, giật luôn xuống. Cả chùm bắp ngô bị đứt dây, rơi xuống theo, lớp
muội bếp phủ lên mặt. Lão buông túm ngô, đưa vội tay lên che mặt. Lão
giơ tay định túm cái nắm bắp ngô lẳng ra ngoài nhưng không biết nghĩ thế
nào, lão thôi.
Lão lấy củi chất vào bếp rồi hì hụi thổi lửa. Lão tống luôn cả
túm bắp ngô vào bếp. Lúc này tự nhiên lão thấy đói kinh khủng. Cái bụng
chết tiệt của lão cứ réo lên ùng ục chả khác gì con suối sau cơn mưa.
Lão thu hai chân vào sát người. Lão giấu cái đầu lởm chởm như
bộ lông nhím vào giữa hai đầu gối. Mắt lão cứ đăm đắm nhìn vào ngọn
lửa trong bếp. Lão đợi cho túm ngô vừa ném vào trong bếp chín. Nghe
những ngọn lửa nổ tí tách, nhìn ngọn lửa thỉnh thoảng lại nhảy cơn lên,
võng vẹo trên bếp mà lão thấy lộn ruột. Ngày trước, lão dù có phải làm
thân con trâu con ngựa, làm thằng đầy tớ, kẻ giữ chân cho cụ chủ chơi gái
lão cũng thấy sướng hơn bây giờ bao nhiêu lần. Những lúc cụ Chu bắt lão
giữ chân, lột quần, xé áo của mấy đứa con gái cụ bắt được để cho cụ được
sung sướng lão thấy lão không bằng con chó. Những lúc như thế, lão thấy
khổ ơi là khổ. Cái của nợ của lão nó làm lão khổ. Nhưng bây giờ, lão
thấy, dù những lúc như thế, lão có thèm, có nhục thật đấy lão vẫn còn
thấy sung sướng chán. Lão không được làm nhưng lão được nhìn. Lão
nghe tiếng của mấy đứa con gái ấy kêu thét, quằn quại mà sướng. Lão
cũng chả biết vì sao khi nghe những tiếng kêu như con thú bị trúng bẫy ấy
lão sướng. Chắc lão thích nghe vì mỗi khi đi thăm bẫy, thấy con thú bị
trúng bẫy, giẫy giụa kêu là mắt lão sáng lên. Có lẽ vì những lúc mấy đứa
con gái bị cụ Chu làm nhục cũng giống như con thú bị trúng bẫy của lão
nên lão thích, lão sướng.

84
Đang nghĩ đến chuyện ngày đi hầu cụ Chu, chả biết làm sao, cái
đầu lão lại nhớ đến cậu chủ.
Ờ. Cậu chủ tự nhiên bỏ đi đâu mất tăm mất tích. Lão đã tưởng
cậu chủ chết ở đẩu ở đâu, có khi mục xương rồi thì tự nhiên lại thấy cậu lù
lù trở về. Hôm lão vào rừng, đang nhắm nhắm con dũi thập thò cửa lỗ thì
lão tự dưng nhìn thấy bóng cậu chủ đứng lù lù trước mặt. Lão sợ quá, há
hốc mồm, cứng lưỡi lại, không kêu lên được một tiếng. Thế là lão chết
rồi. Lão nghĩ thế. Bóng ma cậu chủ trở về, bắt lão đi theo hầu. Lão chả
dám nhìn cho kỹ, chỉ kịp phủ phục xuống, hai tay chắp trên đầu vái lấy
vái để. Vừa vái lão vừa cầu khấn xin cậu chủ đừng bắt lão chết để theo
hầu. Lão vái đến vã cả mồ hôi. Vái chán vái chê, lão cứ nằm phủ phục,
cắm đầu xuống đất, chổng mông chổng tỹ lên trời, he hé mắt nhìn. Trước
mắt lão, cái bóng cậu chủ cứ chập chờn, chập chờn, lúc đứng nghiêng, lúc
lại cúi rạp xuống. Hình như bóng ma cậu chủ ngó nghiêng nhìn cho rõ
mặt lão thì phải. Lão nghĩ. Chắc cậu chủ đi lâu ngày, không còn nhận ra
bản mặt lão nữa. Cậu sợ nhầm người nên bóng ma của cậu phải thế. Cậu
quen được lão chiều rồi mà. Cậu không thích người khác hầu chăng?
Lão lấy tay bẹo má. Má lão vẫn thấy đau. Lão đưa răng cắn vào
bắp tay. Tay lão cũng thấy đau. Lão sợ quá, không dám he hé mắt nhìn
nữa. Lão đưa mắt nhìn qua kẽ háng của lão. Lão nhìn xem phía sau mông
lão có vướng víu gì không? Nếu đúng cậu chủ mà về bắt lão thật lão sẽ
chạy. Lão đã là con cú con cáo ở rừng rồi, cậu chủ đã là con lợn, con chim
nhốt trong lồng làm cảnh bao năm. Lão mà chạy, còn lâu cậu chủ mới có
thế bắt lão được. Ơ. Có cơn gió tự nhiên luồn qua hai bắp chân, lùa lên
mũi lão. Lão thấy khai khai. Hai ống quần bên bắp đùi của lão như bị ướt.
Lão thấy hai bắp đùi âm ấm. Lão sợ quá. Sợ đến nỗi đái cả ra quần mà
không biết. Sợ thì sợ. Lão cứ phải chạy. Chạy cho thoát hồn ma cậu chủ
về bắt lão đã.
- Không chạy được đâu. Nếu muốn chết thì cứ chạy. Sau lưng
lão là vực đấy. Có giỏi thì cứ chạy đi.
Ối giời ơi. Bóng ma cậu chủ mà biết nói thành tiếng người. Lão
quỵ hai chân xuống, nằm co như con cuốn chiếu bị lũ trẻ lấy que chọc
chọc làm vậy.
- Ngồi dậy đi. Lão tưởng ta chết rồi chứ gì. Ta đây. Cậu chủ của
lão đây.
Vẫn ở thế nằm co, lão ti hí mắt cáo nhìn. Không phải bóng ma.
Cậu chủ thật. Cậu chủ bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt lão. Lão
cảm nhận được cả cái mũi bàn chân của cậu ở ngay bên má lão.
- Lão tưởng ta chết rồi chứ gì?
Vừa hỏi, cậu chủ vừa từ từ ngồi xuống ngay trước mặt. Cậu chủ
lấy tay lật mặt lão cho nhìn thẳng vào mình.
- Lão nghĩ bóng ma ta về bắt lão đi phải không?

85
Giọng cậu nhỏ nhưng lão nghe thấy như có mùi tử khí. Tiếng
cậu rít qua hai kẽ răng.
- Mở mắt to ra. Có phải bóng ma hay là ta hả?
Cái tay cậu chủ bóp hai bên má. Ngón tay cái và ngón tray trỏ
của cậu chủ lọt vào giữa hai hàm răng. Cậu chủ ấn sâu hai ngón tay vào
hòm má lão. Hai ngón tay cậu chủ làm cho cái mồm lão ngoác ra, méo
xệch. Lão he hé rồi mở to mắt ra. Đúng là cậu chủ rồi. Cậu chủ thật chứ
không phải bóng ma về bắt lão đi theo hầu.
Cậu chủ buông hai ngón tay ra khỏi hai hõm má lão. Cậu chủ
lấy tay túm lấy cổ áo, kéo lão ngồi dậy. Cậu lấy hai tay nâng cằm lão lên.
Mắt cậu vằn những tia máu. Cậu chỉ tay vào mặt lão.
- Cấm kêu. Nhìn đi. Cậu chủ hay bóng ma?
Giọng cậu chủ sắc như mũi dao. Lão cảm thấy như lúc lão chọc
con dao vào yết hầu con thú rồi cứ thế, lách lách mũi dao đi xuống ngực,
bụng mà móc từng đoạn ruột, quả tim của con thú ra khỏi cơ thể nó. Lão
nghe cậu chủ nói mà gai ốc nổi lên khắp người như người ta gặp lạnh.
Cậu chủ nhẹ nhàng kéo lão vào gần lòng. Giọng cậu chùng
xuống, nhẹ nhàng, đầy thương cảm và chia sẻ. Cậu đưa tay chỉnh lại cái
cổ áo của lão khi nãy bị túm lấy kéo ngồi dậy làm cho xộc xệch.
- Chắc dạo này lão thường xuyên bị đói lắm phải không?
Nghe cậu chủ hỏi thế, lão không biết trả lời thế nào. Lão chỉ
thấy cậu chủ giỏi thật. Đã lâu lắm rồi lão không biết cậu chủ sống chết ra
sao mà cậu chủ cũng không gặp lão. Thế mà, cậu nói đúng nỗi đói khổ
của lão.
- Nào. Đứng dậy. Đi theo tao.
Lão lặng lẽ đứng dậy đi theo. Tay cậu chủ nắm lấy tay lão nhẹ
nhàng dắt đi. Bàn tay cậu nắm tay lão rất chặt. Lão cũng chả biết là cái
nắm tay của cậu chủ đối với lão lúc này là sự chia sẻ, thương yêu hay là
sự quản lý, sợ lão bỏ chạy khỏi cậu.
- Tôi về đây rồi. Lão cứ yên trí. Từ nay trở đi, lão sẽ lại được ăn
no như ngày xưa. Lão sẽ không còn bị đói nữa. Lão sẽ lại có rượu uống
mỗi ngày.
Lão cứ để yên tay lão trong tay cậu chủ kéo đi. Bây giờ thì lão
đã lấy lại được bình tĩnh rồi. Lão biết đích xác là cậu chủ chứ không còn
là bóng ma về bắt lão nữa. Lão đưa mắt nhìn quanh. Cánh rừng này với
lão thuộc như lòng bàn tay. Lão chỉ nhìn thoáng qua là biết đang ở đâu, ở
chỗ nào trong cả cánh rừng âm u, chằng chịt những cây là cây này. Lão
còn có thể kể ra từng hốc đá, lỗ đất mối đùn ngay cả khi lão có nhắm mắt
lại. Lão nhận ra. Cậu chủ đang kéo lão đi về hướng hang ma. Nơi cô Lù
treo cổ chết đến giòi bọ rơi từ bụng xuống đất bèn bẹt từng búi.
Bỗng dưng lão lại nghĩ. Hay là cậu chủ đưa lão vào hang ma để
giết cho cô Lù có bầu có bạn. Cho ma cô Lù không còn hiu quạnh một

86
mình. Lão đưa mắt nhìn bốn xung quanh để tính chuyện rứt tay lão khỏi
tay cậu chủ chạy trốn…
- Ngủ dậy được rồi à? Tưởng còn chết chương chết rực.
Mụ Đoác chân chưa bước vào khỏi cửa miệng đã toang toác,
toang toác. Lão giật bắn mình, thu vội hai chân kẹp chặt lấy đầu.
- Mụ để tao chết đói hay sao mà đi đâu bây giờ mới vác mặt về.
Mụ Đoác không thèm nghe, không thèm nói gì. Mụ như không
nghe thấy câu gì từ cửa miệng của lão Tảng. Mụ cứ lừ lữ đi lại bên bếp.
cái mũi của mụ hích hích hít như đánh hơi của con chó săn khi ngửi thấy
mùi lạ. Mụ Đoác sấn đến bên bếp. Mụ chộp lấy từng thanh củi dẹp sang
hai bên bếp rồi cầm que cời hẩy từng bắp ngô ra khỏi đám than.
- Mũi thính như mũi chó thế mà không ngửi thấy ngô cháy à?
Mấy bắp ngô lăn long lóc ra nền nhà. Lão Tảng nhặt vội lên.
Ngô vừa được mụ Đoác gạt từ bếp ra, còn nóng, lão buông vội xuống đất,
chộp cả hai tay lên tai.
Nhìn lão Tảng làm thế, mụ lừ mắt, môi bễ ra. Cái má nhàu nhĩ
của mụ lại càng chảy xuống dưới. Chả biết vô tình hay cố ý, mụ với tay
nhặt mấy bắp ngô lăn trên nền nhà, nằm ở phía trước mặt lão Tảng cho
gọn lại làm cho cái vú của mụ quệt vào ngay tầm mũi của lão. Lão Tảng
cũng giả vờ như đưa tay lên chắn mặt. Cái tay lão chộp vào đúng vú của
mụ.
- Nỡm ạ. Cứ làm như lạ lắm ấy.
Lão Tảng nhăn mặt cười. Những vết than bụi từ hai bàn tay lúc
trước nhặt ngô bị nóng, lão áp lên hai bên tai nhăn nhúm như vết sẹo do
gấu cào hổ tạt. Mụ Đoác ngồi lại ngay ngắn trên cái cục gỗ chặt khúc thay
ghế. Mụ hỏi nhỏ.
- Lão còn thấy đau không?
Nghe mụ Đoác hỏi, lão ngơ ngác, không hiểu mụ Đoác vừa nói
cái gì. Ngẫm nghĩ một lát, lão nhăn mặt cười. Tiếng lão cười không thành
tiếng, chỉ khùng khục, khùng khục như cái điệu con trâu đực ngửi ngửi
con trâu cái lúc động tình.
- Hết đau rồi.
Lão đưa tay xuống, kéo cái giây rút quần. Lão kéo cạp cho lỏng
ra khỏi bụng. Lão đưa tay xuống dưới sờ sờ nắn nắn.
- Lại như cũ rồi.
Lão quay sang mụ Đoác cười cười.
- Mụ có thích xem tý không?
Mụ Đoác hẩy vai vào người lão. Lão Tảng như được thể, đưa
tay định quàng qua người mụ Đoác. Mụ trừng mắt.
- Ai cho lão vào cánh rừng chân núi Bái mà săn hả? Lão không
nhớ cậu chủ đã dặn như thế nào sao? Chỉ ngày thứ bẩy hàng tuần mới
được lên. Còn các ngày khác chỉ được đến bìa rừng thôi sao?

87
Lão quên làm sao được. Có chết lão cũng không dám quên.
Mạng lão ở đấy thì ai dám bảo lão quên. Chỉ có điều, lão thấy thèm thịt
thú quá nên đánh liều.
- Cậu chủ vừa nhắn. Lão mà còn dám bén mảng đến khu rừng
chân núi Bái nữa thì đừng có trách. Đã dám vào đó săn lại còn định lên
hang ma nữa. Muốn ăn thịt, có thèm thịt thì lấy tiền mà mua. Thịt thú
người ta săn bán đầy trong xóm. Thiếu gì?
Mụ Đoác đánh mắt sang nhìn lão Tảng. Sao mụ thấy cái bản
mặt lão cứ lì lì đáng ghét đến thế.
- Cậu nói đấy. Nếu lần nữa mà còn lảng vảng ở bên núi Bái,
hang ma thì không phải chỉ bị bắn dập dái mà cậu sẽ còn cho mất đấy.
Chết mất xác.
Nghe mụ Đoác nói, lão giật mình. Lão cứ tưởng lão vô tình
dính phải bẫy cần của ai giăng. Ai ngờ. Cậu chủ giăng sẵn để lão bị dính
bẫy. Bất giác, lão lại thò tay xuống dưới. Lão thấy bây giờ cái con giống
của lão sao mà ngắn thế, nhũn thế. Chả bù cho lúc trước.
Mụ Đoác thấy lão làm thế, tủm tỉm cười. Mụ Đoác đưa tay ra
sau, lấy típ xôi đưa cho lão. Trên cái típ xôi, có mấy miếng thịt nai luộc
đặt chồng lên nhau, phủ dầy tới mặt típ. Lão Tảng cầm lấy. Lão đưa lên
mũi hít hít, ngửi ngửi như để tận hưởng cái mùi thơm từ mấy miếng thịt
nai luộc. Lão thọc tay vào trong cái típ xôi, bốc ra một miếng thịt, nhét
vào mồm, nhai nhồm nhoàm. Nhìn lão Tảng ăn, lòng mụ Đoác thấy cứ
rưng rưng, sao mà thương lão thế.
Mụ với tay, đặt cái ấm nước lên bếp. Mụ Đoác xếp mấy thanh
củi khi trước mụ dẹp ra hai bên vào lại trong lòng bếp. Mụ nhặt ống thổi
đưa lên miệng. Mụ phùng má lấy hơi rồi từ từ nhả hơi vào lòng ống. Đám
than trong bếp, bắt hơi, đỏ lên, bén vào mấy thanh củi rom rem cháy. Ánh
lửa bắt lên má mụ. Mụ Đoác thấy âm ấm, nong nóng trên má. Phía ngoài
rừng, tiếng con chim bắt cô trói cột vọng tới. Chen trong tiếng bầy chim
bắt cô trói cột, thỉnh thoảng lại có tiếng tác gọi bạn tình của lũ hươu đực.
Ừ, phải rồi. Bây giờ đang là mùa sinh sản của lũ hươu.
Chỉ nghĩ thế thôi, mụ Đoác đã thấy thân thể mình rạo rực như
có lửa.

20
NỖI NIỀM CỦA VIÊN ĐỒN TRƯỞNG

88
Tô Hồng Dân cứ thúc ngựa đi. Trong lòng anh đan xen cả niềm
vui và nỗi buồn, sự lo lắng. Anh vui vì anh tự nhận ra những tồn tại
khuyết điểm của mình để khắc phục sửa chữa. Anh buồn vì chính bản
thân mình chưa làm được những gì mà cấp trên tin tưởng giao phó. Anh
lo lắng là bởi không biết có việc gì mà chỉ huy trưởng lại cho triệu hồi gấp
như thế. Tranh thủ khi đi qua khu rừng me, anh cho mọi người nghỉ ăn
trưa và cũng để cho ngựa nghỉ lấy sức. Ăn xong anh đã vội dục mọi người
lên đường. Trên đường, A Lò và Tự Kim vẫn vô tư cười đùa.
Về đến ban chỉ huy trời đã chiều. Tô Hồng Dân rất ngạc nhiên
thấy không chỉ có mình anh mà đồn trưởng các đồn khác cũng đã tập
trung về cả. Sau khi chào hỏi nhau xong, ai cũng tìm hiểu xem có chuyện
gì mà chịu. Hỏi ai cũng chỉ lắc đầu, chỉ chỉ tay về phía nhà của ban chỉ
huy.
Mọi người đang tụ bạ quanh sân thì cậu chiến sĩ công vụ đi đến.
Khuôn mặt cậu có vẻ rất nghiêm nghị. Trên khuôn mặt còn búng ra sữa,
vẫn phảng phất vài ba sợi lông tơ của tuổi dậy thì nên chút cố gắng tỏ ra
nghiêm nghị xem ra không đủ mạnh, đủ uy với những bậc đàn anh cự
phách đã trải qua năm tháng tham gia cách mạng. Thấy cậu công cụ càng
cố ra vẻ nghiêm nghị, mấy người càng thích đùa.
- Dạo này trông chú em trơn da đỏ lông lắm rồi. Đủ nhớn để
yêu rồi đấy.
- Trông thằng em cũng ngon giai đáo để. Chỉ có mỗi tội, ở ban
chỉ huy lại toàn các chị. Có bí lắm không chú em?
- Thôi. Xin thủ trưởng đi về đồn với bọn anh đi. Lính tráng mà
cứ ro ró ở cơ quan không khôn được đâu. Quân tử, hảo hán, đại trượng
phu phải lên nơi đầu sóng ngọn gió. Cứ núp gấu áo các bà chị ở đây làm
sao thành đại trượng phu được. Hả?
- Này. Làm trai cho xứng nên trai. Còng lưng mà gánh lấy hai
hạt vừng. Đừng nghe các anh ấy chú em ạ.
- Ở đây chả sướng hơn ở đồn sao. Tối chỉ việc gối cao mà ngủ.
Có gì anh em ở đồn đã gác cho cả rồi.
- Không lên nơi tiền tuyến, nơi tiền tiêu là phí cả một đời giai
đấy em ơi!
Như không nghe thấy ai nói gì, cậu chiến sĩ công vụ vẫn đứng
nghiêm trang. Nét mặt nghiêm nghị.
- Chỉ huy trưởng có ý kiến. Tối nay, tất cả các đồng chí về
phòng khách nghỉ ngơi. Sáng mai, đúng bẩy giờ ba mươi tập trung tại
phòng họp để nhận mệnh lệnh.
Sau khi truyền đạt ý kiến của chỉ huy trưởng, cậu chiến sĩ vừa
dợm bước định đi thì có ba bốn người xúm tới. Nét mặt ai cũng tỏ vẻ thân
thiện và gần gũi có ý cầu thân.
89
- Này. Đồng chí công vụ. Cho bọn anh hỏi chút. Đồng chí có
biết chỉ huy trưởng triệu tập bọn anh về có việc gì đấy.
- Tôi không được biết.
Cậu công vụ xoay người bước đi thì mấy người đó lại bước lên
chặn phía trước. Có người cầm tay giữ lại, vừa cười vừa hỏi, giọng thân
mật.
- Thôi mà. Đồng chí giận chúng tôi lúc nãy chứ gì. Thôi mà.
Lính tráng bỏ qua cho nhau đi. Đồng chí ở gần thủ trưởng làm gì mà
không biết?
- Tôi không biết thật mà. Các đồng chí không tin lên hỏi thủ
trưởng ấy.
Nói rồi cậu công vụ bước nhanh về phía nhà ban chỉ huy. Mấy
người chưng hửng, nhìn nhau, lắc đầu. Ai nấy đi về hướng nhà nghỉ. Nét
mặt người nào người nấy căng thẳng. Ai cũng tin rằng, công việc sắp tới
chắc sẽ rất hệ trọng nên chỉ huy trưởng mới phải triệu tập toàn bộ đồn
trưởng về thế này. Từ trước đến nay có làm thế này đâu. Tất cả công việc,
kế hoạch chủ yếu là qua điện thoại, cùng lắm cũng chỉ một hai đơn vị
được triệu tập trực tiếp là cùng. Lần này thì…
Vừa quay người bước đi, Trần Minh Hồng nhìn thoáng thấy
chính trị viên đang đi vào cửa phòng làm việc. Lặng lẽ, Trần Minh Hồng
vội tách khỏi đám mọi người đang đi về phía nhà khách để vào gặp chính
trị viên. Vừa trông thấy Trần Minh Hồng bước vào cửa, chính trị viên đã
niềm nở.
- Chào đồng chí đồn trưởng đồn Yên Hồng. Thế nào, khỏe
không? Anh em ở địa bàn khỏe cả chứ? Ngồi tạm xuống ghế uống chén
nước.
Lấy tay kéo chiếc ghế, anh xoay sao cho không cản lối đi lại
của người khác. Nhìn chiếc ghế đã cũ, Trần Minh Hồng nhẹ nhàng ngồi
xuống.
- Cám ơn thủ trưởng.
Trần Minh Hồng chạnh lòng, phòng làm việc của thủ trưởng
cao nhất về công tác đảng, công tác cán bộ, công tác chính trị của mình lại
đơn sơ đến thế. Trần Minh Hồng đưa mắt nhìn nhanh một lượt quanh căn
phòng. Căn phòng của chính trị viên Song Hoa là gian đầu phòng của một
dãy nhà cấp 4 trát vách. Trong căn phòng rộng chừng hơn chục mét
vuông, phía trong cùng được kê bởi chiếc giường một. Chiếc giường đã
cũ, màu sơn gỗ bên ngoài đã bạc, đôi ba chỗ lớp sơn không còn, lộ rõ cả
lớp gỗ bàng bạc đùng đục. Thân giường có đôi ba chỗ bị mọt ăn, lớp vỏ
ngoài của gỗ còn dính bên thanh giường. Ở giữa gian phòng là chiếc bàn
cũng đã cũ. Một chiếc chân bàn bị mọt ăn hỏng. Để giữ cho chiếc bàn có
thể đứng được, ai đó đã ốp táp vào đó một miếng gỗ mỏng trông như
chiếc thanh giát giường. Màu sơn trên lớp gỗ cũng đã bạc, chiếc bàn trông

90
lỗ chỗ như da người mắc bệnh bạch tạng, chỗ nâu chỗ trắng đan xen vào
nhau. Trên mặt bàn chồng báo Nhân dân xếp thẳng thớm, vuông thành sắc
cạnh ở phía góc trái của bàn, bên phía tay phải của người ngồi. Góc trong
tay trái chiếc bàn, tập cặp tài liệu ba giây, làm bằng giấy ép, được buộc
dây đặt chồng lên nhau. Đặt giữa chiếc giường cá nhân với chiếc bàn là
cái tủ cá nhân cao ngang bụng người. Phía ngoài cùng là ống đựng hộp
bút được làm bằng ống nứa cắt ngang thân. Chiếc bàn nhỏ chỗ anh đang
ngồi uống nước đặt ở góc phòng phía ngoài cùng giáp lối cửa ra vào.
Chắc vì tường đã cũ, lớp vôi quét đã rụng xuống dưới chân vách. Để che
kín, căn phòng được dán giấy báo kín cả bốn mặt.
Thấy Trần Minh Hồng cứ loay hoay quay người có ý quan sát
căn phòng. Chính trị viên cười cười.
- Đơn sơ quá phải không? Thôi nào. Uống nước đi. Anh em
mình còn khó khăn cả mà.
Nhìn Trần Minh Hồng có vẻ ngài ngại điều gì đó. Để mở đầu
câu chuyện cho suôn sẻ, chính trị viên vui vẻ.
- Ở địa bàn đồn thời gian qua chắc cũng vất vả phải không? Lần
này chỉ huy trưởng triệu tập về đến thăm hay có chuyện gì muốn tâm sự,
trao đổi đây.
Đỡ chén nước từ tay chính trị viên đưa, Trần Minh Hồng đặt
vào trong lòng bàn tay. Anh cong mấy ngón tay lên ôm chặt lấy thân
chén nước. Biết là chính trị viên hỏi chuyện có ý gợi mở cho anh nói ra
được dễ dàng nhưng Trần Minh Hồng lại không biết bắt đầu từ đâu.
Thấy Trần Minh Hồng vẫn còn e ngại, chính trị viên chủ động.
Anh nhìn thẳng về phía Trần Minh Hồng. Giọng nhẹ nhàng, vui vẻ.
- Thế nào. Tình hình dân xung quanh khu vực ở hang ma, địa
bàn xung qunah núi Bái đã ổn định chưa? Đã tìm ra được nguyên nhân từ
đâu chưa? Hướng giải quyết vấn đề như thế nào? Nói cho tôi nghe đi.
Được lời như cởi tấm lòng, Trần Minh Hồng đặt chén nước
xuống mặt bàn. Anh đưa tay sửa lại cổ áo.
- Báo cáo chính trị viên …
Trần Minh Hồng báo cáo chi tiết và cụ thể lại những nội dung
chính trị viên vừa gợi ý. Thực ra, cho đến bây giờ, anh cũng như mọi cán
bộ chiến sĩ trong đồn chưa biết thực chất của hiện tượng phát sáng trong
hang ma là do đâu. Sau khi có tin đồn, thấy tình hình nhân dân mấy bản
quanh chân núi Bái, khu vực hang ma cứ lục tục kéo nhau, bỏ nhà đi, anh
đã cho anh em xuống xác minh, làm rõ. Khi tiếp xúc với nhân dân, người
già làng ở bản thì đều nói như nhau. Cán bộ mày cứ lên đấy mà hỏi. Đi
tìm hiểu thông tin hang ma có ma phát ra từ đâu hiện tại cũng chưa biết.
Gió độc thì lan nhanh, gió mát thì đi chậm. Cái xấu xa thì dễ đến tai, cái
hay cái đẹp thường được giấu đi cất giữ. Anh cũng đã cho chiến sĩ lên tận
nơi nắm tình hình nhưng không phát hiện thấy hiện tượng gì khả nghi cả.

91
Còn việc dân bỏ bản ra đi vì trình độ dân trí còn thấp. Các hiện tượng lạ
xảy ra thường tin vào thần linh. Tính cố kết dòng họ lại rất khăng khít.
Một nhà bỏ đi là các nhà khác cũng sẽ làm theo. Nơi đèo heo hút gió, nơi
sơn cùng thủy tận, nơi sơn thâm cùng cốc, trước rất nhiều những nguy
hiểm đến tính mạng con người thì sự cố kết dòng tộc là chỗ duy nhất để
bảo vệ, tạo ra được sức mạnh. Người này đưa gia đình đi, rỉ tai nhà bên
cạnh. Cứ thế, tạo ra phản ứng dây chuyền mà khó có thể lường được.
Thậm chí, nếu bố trí cán bộ chiến sĩ ngủ ngay tại nàh dân thì việc ngăn
chặn được hiện tưởng bỏ làng, bỏ bản đi là cũng rất khó. Khi thấy người
này có nhiều dấu hiệu bỏ bản, hỏi thì sẽ được trả lời, đi nương, vào rừng
kiếm con cày con cáo. Thực ra đời sống của người dân còn quá nhiều khó
khăn, còn rừng là còn cái ăn, rừng chính là nguồn sống chủ yếu cung cấp
mọi nhu cầu cho cuộc sống thường ngày.
Nghe Trần Minh Hồng trình bày, chính trị viên Song Hoa thấy
thật xác đáng. Ngay bản thân anh cũng đã có một thời gian hoạt động phải
ăn nhờ ở nhờ trong nhà dân nên anh hiểu. Đồng bào đã tin cái gì là tin
tuyệt đối. Tất cả các sự vật hiện tượng xảy ra, khi không lý giải được đều
dựa vào thần linh, cho đó là do ma tà tạo nên.
- Vậy thì hang ma có thật là có ma không? Đã có ai nhìn thấy
chưa?
- Báo cáo thủ trưởng. Nhìn thấy thì chưa? Chỉ nghe nói thôi ạ.
Thấy nếp nhăn trên trán của chính trị viên hằn những đường
sâu, Trần Minh Hồng trong lòng chợt phân vân. Không biết chính trị viên
nghĩ gì mà khi nghe nói về chuyện tin đồn có ma trên hang ma lại nhăn
trán nghĩ ngợi thế? Liệu chính trị viên có tin anh hay không? Đằng sau
chuyện trên hang ma có ma còn có chuyện gì khác nữa? Trần Minh Hồng
chợt giật mình. Có khi không nói ra lại hay vì các thủ trưởng không biết.
Nói ra, tâm sự, kể những tâm tư lại bị đánh giá là chưa sâu sát, không
hoàn thành nhiệm vụ. Và anh cũng không biết, chuyện tin đồn trên hang
ma có ma thì có chuyện gì mà anh thấy có nhiều người quan tâm đến thế.
Trần Minh Hồng phỏng đoán. Chắc chắn có chuyện gì xảy ra phía sau câu
chuyện mà anh chưa được biết. Không lẽ mấy cậu nằm địa bàn lại giấu
anh?
Đưa chén nước lên uống. Cái dáng nhẩn nha uống nước như
nếm từng giọt của chính trị viên càng làm cho Trần Minh Hồng thêm lo
lắng. Trần Minh Hồng lặng lẽ quan sát chính trị viên mà lòng bộn bề
những cảm giác đan xen.
Đặt chén nước xuống bàn, chính trị viên xoay người, quay hẳn
sang phía Trần Minh Hồng. Giọng ông vẫn nhẹ nhàng.
- Tớ hỏi thật cậu nhé. Cậu có thấy có vấn đề gì trong tin đồn
hang ma có ma không? Cậu có tin có ma thật không?

92
Nói rằng tin thì thật lòng Trần Minh Hồng cũng không tin.
Nhưng nếu nói rằng không thì bản thân anh cũng chưa đủ căn cứ lý lẽ để
tự tin rằng không có ma. Ngày trước, khi còn bé, bản thân anh đã trực tiếp
được nghe kể rất nhiều chuyện về ma. Mà câu chuyện nào nghe cũng có
vẻ rất thực.
Trần Minh Hồng còn nhớ. Nhà anh khi trước ở gần cái quán
chợ. Năm Ất Dậu 1945, người chết đói nằm rải rác dọc bên đường. Mặc
dù người chết đều từ tứ xứ ở đâu lai vãng đến làng anh ăn xin bị chết chứ
người làng anh thì không mấy. Người chết đường chết chợ như thế thì
ngay khi không đói kém, nếu có chết, người nhà cũng không dám đưa vào
nhà mà thường phải tìm nơi nào đất công, đất vô chủ mà đưa về đấy để
chờ đem đi chôn. Nạn đói năm đó người chết dọc đường được thu gom về
chôn, chất thành đống trong chợ.
Sau khi chôn xong, đêm đêm người khu xóm chợ vẫn còn nghe
thấy tiếng kêu khóc cứ như từ trên trời vọng lại, từ dưới đất chui lên.
Tiếng kêu khóc thảm thiết đến mức người khu xóm chợ không thể ngủ
được. Vào những đêm mưa thâm tối trời, người khu xóm chợ ngồi trong
nhà, nghe thấy tiếng khóc, hé cửa nhìn ra, còn thấy cả bóng người phủ áo
trắng toát, bay lơ lửng trên trời. Thậm chí có ông Tác, người ở xóm trại,
hôm đó do có công việc ở bên nhà ông thông gia làng bên về muộn. Khi
đi qua chợ, ông còn gặp cảnh bóng người từ trên ngọn tre nhảy phịch
xuống trước mặt xin ăn. Từ sau đêm hôm đó, ông về nhà ốm lăn ốm lóc.
Đang là lực điền mà ông ốm đến nỗi nằm rụng nhẵn cả tóc phía gáy. Ông
ốm như thế được hơn năm thì chết. Cũng từ đó, không mấy người còn
dám qua khu chợ lúc nửa đêm hay hôm có mưa thâm tối trời. Người trong
khu xóm chợ sợ quá phải xây cái miếu bên cạnh để cúng vái thắp hương
ngày rằm mồng một. Từ khi miếu xây xong, mọi người trong khu thấy
không còn tiếng kêu khóc xin ăn nữa.
Sau này, khi đã lớn, mặc dù Trần Minh Hồng không tin vào
chuyện có ma nhưng những câu chuyện về ma vẫn cứ ám ảnh anh. Ở quê
Trần Minh Hồng có một cách bắt tôm bằng vó vải màn. Để có những
chiếc vó bắt tôm bằng vải màn, ngày đó người ta thường lấy những tấm
vải màn, gấp lại thành từng vuông. Sau khi đã cắt ra từng tấm vuông theo
khổ vải, người ta vê các cạnh lại rồi đem kim chỉ khâu bốn cạnh cho
miếng vải màn đó không bị rút sợi. Khi đã khâu xong, người ta lại lấy sợi
dây gai dùng để đan vó buộc ở bốn góc thành hình cái quai. Người ta
dùng cây tre, chẻ ra làm thành các thanh vừa phải như cái ve làm lối để
đánh dấu đường bừa ruộng. Buộc hai thanh tre đó bắt chéo lại như chiếc
gọng vó. Mắc bốn đầu giây ở bốn góc đó vào bốn đầu của hai thanh tre.
Lúc này, mảnh vải màn được cắt theo từng vuông trông không khác gì cái
vó. Chỉ có điều cái vó này nông, trẽn hơn cái vó đan bằng gai lưới. Người
quê anh gọi mấy cái đó là vó tép.

93
Khi dùng những chiếc vó tép đó đi bắt tôm, người ta thường tìm
những chỗ bãi thoai thoải gần bờ, dùng những chiếc vó đó đem thả xuống
đó. Khi thả xong, người ta phải thả mồi để nhử. Mồi nhử tôm, tép thường
được làm bằng cám đem rang lên. Khi cám rang vàng, có mùi thơm,
người ta bắt ra khỏi bếp, đổ vào cái cóng bơ hay cái bát, đổ nước đánh
chỗ cám đã rang đó lên, làm sao chỗ nước đó chỉ đủ ướt để cám đã rang
vón lại, khi đem ném vào giữa chiếc vó làm bằng vải màn đó không bị gió
làm bay đi là được. Cất vó tôm thường cất vào lúc chập choạng tối. Tôm
chạng vang, cá rạng đông. Nghĩa là, muốn bắt tôm thì người ta đi tìm bãi
thả lúc trời ngả chiều. Sau đó đem những chiếc vó làm bằng vải màn đó
thả xuống bãi sông. Bãi sông để thả vó tôm là bãi thả làm sao cứ cách một
quãng khoảng vài ba mét thì thả một chiếc khác.
Việc cất vó tôm cũng đơn giản. Sau khi thả vó tôm làm bằng
vải màn đó xong, ném mồi. Xong, tìm chỗ nào đó ngồi chờ cho con tôm
vào ăn. Giống tôm ăn ven bờ, thấy mùi cám thơm là kéo nhau đến ăn. Đợi
cho sau khi thả, bãi thả không còn động nước, tôm vào ăn. Khi cảm thấy
đã đủ thời gian cho con tôm say mồi trong vó thì lúc đó, lấy chiếc cần to
bằng ngón tay hay ngón chân cái, có cái vấu ở phía đầu ngoài cùng, đưa
xuống nhẹ nhàng cất vó màn lên. Những chiếc cần đó bao giờ phía đầu
ngoài cùng, tiếp giáp với chỗ bắt chéo cắt giao nhau của hai chiếc gọng để
khi cất, vó không tuột ra, rơi trở lại nước. Đi cất vó tôm từ lúc chạng vạng
như thế cho đến khi trăng lên là thu vó về là vừa.
Hôm đó, Trần Minh Hồng cũng đi cất vó tôm bên bờ con sông
chạy bao quanh làng. Bãi hôm đó Trần Minh Hồng thả là bãi vắng, ít bị
động nước. Giống tôm khi bị động bờ hay bị động nước là búng bơi đi nơi
khác kiếm ăn. Do bãi xa, ít người đến thả vó, tôm ở đấy lại lạ mồi nên
tôm đến ăn rất nhiều, nhất là loại tôm càng. Mỗi chiếc vó màn Trần Minh
Hồng thả, khi cất lên, trong vó có tới ba bốn con. Hôm đó Trần Minh
Hồng cất vó đến khi hết mồi mới thu vó về.
Phía sau bãi cất là cả cánh đồng rộng. Ban ngày, cánh đồng
nhìn ngút cả tầm mắt. Nơi này, ban ngày Trần Minh Hồng và người làng
vẫn đi làm thường xuyên. Tôm nhiều, hết mồi, thu vó về còn sớm nhưng
khi treo những chiếc vó đó lên vai, Trần Minh Hồng cứ thấy nặng trĩu trên
vai. Thấy lạ, nghĩ vó vướng cái gì, anh đặt vó xuống kiểm tra. Cả quãng
đê tịnh không có lấy một bóng cây hay lùm cây nào cả.
Đặt gánh vó lại vai, bỗng anh nghe thấy như có tiếng chân
người lội bì bõm trong ruộng, phía bên kia bờ đê. Vượt lên mặt đê, nhìn
xuống, Trần Minh Hồng cũng không thấy rõ người, chỉ thấy có bóng vật
vờ đi trên ruộng và tiếng lội ruộng lọm ọp, lọm ọp. Sợ quá, cứ thế Trần
Minh Hồng gánh đám vó màn đó chạy một mạch về nhà. Khi đem nhấc
đám lá bòng bong phủ trên cái rổ đựng tôm cất được ra. Cả rổ tôm không
còn một con.

94
Sau khi nghe anh kể lại, bố anh bảo. Chỗ ruộng phía bên kia bờ
đê, nơi anh cất vó tôm trước đây, người ta đem người chết đói ra đó vứt.
Bóng người trên mặt ruộng là bóng của người chết xưa. Tiếng lội ruộng
đó là tiếng bước chân của người chết đi ăn xin. Vào những đêm có mưa
phùn, trên mặt ruộng nơi đó người làng vẫn còn nhìn thấy cả những đám
lửa nhỏ bằng bàn tay, bay là là trên mặt ruộng. Vì thế, quãng sông chỗ
anh thả vó tôm, không mấy người dám đến. Tôm nhiều cũng vì thế. Từ
đó, anh cũng không dám ra đó cất vó tôm nữa. Ngay bây giờ, mặc dù anh
đã đi tham gia trong quân đội, được học lý luận, nhiều vấn đề đã được giải
thích một cách khoa học, biết được các hiện tượng của tự nhiên, nhưng
trong lòng, chưa hẳn anh đã giải thích được lần đó. Ngay bây giờ, mỗi khi
nhớ lại chuyện đó, Trần Minh Hồng vẫn còn thấy da sởn gai ốc. Trong
đầu vẫn như thấy cái gì đó chạy run run bên trong.
Trong lòng Trần Minh Hồng còn lăn tăn về chuyện có ma hay
không có ma nhưng khi thấy chính trị viên hỏi anh không biết nói thế nào
cho đúng. Nếu nói không thì anh nói dối, không thành thật với chỉ huy.
Nói có thì lại vướng vào khuyết điểm mê tín dị đoan. Mấy năm vừa rồi,
gần như cả miền Bắc, nơi nào cũng tự phá bỏ đình đền miếu mạo, phá bỏ
chùa chiền, nơi mà mê tín dị đoan dựa vào đó làm mảnh đất sống, tồn tại,
làm cho con người ta ngu muội.
- Em nói điều này, thủ trưởng không được đánh giá tư tưởng lập
trường của em cơ. Nếu thủ trưởng mà đánh giá lập trường tư tưởng là em
sẽ không nói.
- Ơ cái cậu này. Cậu lại định ra cả điều kiện với tôi nữa à. Lê
nin đã dạy rằng: Nhận thức là cả quá trình. Nhận thức chưa đúng thì nhận
thức lại cho đúng. Mà có nói ra mới biết được nhận thức đúng hay sai
chứ. Nhận thức sai, cứ để nằm trong đầu, không thông rồi ra thành tư
tưởng lúc nào cũng không biết ấy chứ. Nhưng thôi. Tôi nhất trí. Nếu có
sai tôi cũng không đánh giá gì cả.
Trần Minh Hồng vừa nghe chính trị viên nói vừa cười cười.
- Thì thấy thủ trưởng là người được anh em cấp dưới đánh giá
là có tấm lòng thơm thảo, gần gũi và luôn sẵn sàng chia sẻ với mọi người
nên em mới dám thưa như thế.
- Thôi. Cậu dạo này nghe ra cũng bẻm mép nhỉ. Ban chính trị
đang thiếu người. Có lẽ phải đưa cậu về làm tuyên huấn mới phải. Để cậu
làm cán bộ quân sự, phí mất một người có năng lực làm công tác chính trị,
công tác tuyên huấn thì phải.
Nghe chính trị viên vừa nói thế, Trần Minh Hồng đã vội cuống
quýt.
- Thôi, thôi. Em không nói gì nữa. Chẳng qua là em nói lại ý
kiến của anh em trong các đơn vị mà thôi. Em mà làm cán bộ chính trị
giúp việc cho thủ trưởng thì còn gì bằng. Nhưng em cũng nói thật. Em

95
thích được đánh đấm hơn là người bàn giấy. Chân tay em bí bích lắm.
Làm thằng lính, không được đánh đấm nó tù túng thế nào ấy thủ trưởng ạ.
- A. Cậu này giỏi. Ý cậu là chúng tôi chỉ là quan văn, thích
quần chùng áo dài, đều là những kẻ vô tích sự chứ gì? Còn các cậu, quan
võ mới thực đáng mặt là đấng nam nhi, anh hùng hảo hán chứ gì? Cái
kiểu. Làm trai cho xứng nên trai. Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài
yên chứ gì?
Thấy chính trị viên vặn lại, Trần Minh Hồng nghĩ ông nói thật.
Hoảng quá. Hai tay Trần Minh Hồng cứ xua xua trước mặt rối rít.
- Ấy ấy. Em đâu dám nghĩ thế. Chính trị viên mà đánh giá em
thế thì em chết.
- Chết làm sao được. Mà cậu cũng vừa nói xong đó thôi. Sao
mà chối tội nhanh thế. Chả ra dáng đáng mặt kẻ trượng phu chút nào. Đã
là kẻ trượng phu, quân tử, dám làm phải dám chịu chứ?
- Em nói thật mà. Chính trị viên bỏ quá cho em. Em thề…
Chính trị viên Song Hoa thấy Trần Minh Hồng cứ cuống quýt,
lo lắng. Nhìn điệu bộ của Trần Minh Hồng chả khác gì đứa trẻ bị ăn vụng
bị bắt quả tang. Trông cứ tồi tội thế nào ấy. Chính trị viên đưa tay, nắm
lấy bàn tay của Trần Minh Hồng kéo về phía mình. Ông lấy tay kia vỗ vỗ
lên trên mu bàn tay của Trần Minh Hồng. Giọng ông vui vẻ.
- Đùa cậu chút xem bản lĩnh chỉ huy của cậu đến đâu thôi. Xem
ra chí làm trai mà cũng nhát như thỏ nhỉ?
Trần Minh Hồng cứ để yên bàn tay mình trong lòng tay của
chính trị viên. Nét mặt anh dãn ra.
- Ối giời ơi. Thủ trưởng làm em lo thắt gan thắt ruột.
- Đúng là cái cậu. Chỉ được cái nói quá. Cậu cứ làm như tôi
giống các cậu chắc. Miệng vừa nói thủ trưởng thế này, thủ trưởng thế kia.
Thế mà mới có đùa giả vờ tý mà đã nói khác được.
Chính trị viên nói xong, ông buông tay Trần Minh Hồng ra khỏi
tay mình. Giọng nghiêm nghị.
- Thế bây giờ thì có chuyện gì đây. Nói đi xem nào?
- Nhưng mà em vẫn phải nói lại. Em nói ra, thủ trưởng không
được đánh giá tư tưởng chính trị của em cơ.
- Ờ. Cái thằng này. Vừa nói rồi. Mới đấy mà đã quên.
- Lúc nãy, thủ trưởng hỏi em có ma không ấy mà. Em nói thật
là em vẫn còn tin.
- Thế cậu đã nhìn thấy ma chưa?
Giọng chính trị viên Song Hoa vẫn nhẹ nhàng, tình cảm và gần
gũi.
- Nói thật với thủ trưởng. Em không biết thủ trưởng đã nhìn
thấy chưa. Chứ còn em. Em nhìn thấy rồi.
- Thế ma nó làm sao? Hình thù nó như thế nào?

96
- Nó như người nhưng chỉ tồn tại dưới dạng bóng thôi ạ.
- Vậy ma đã nát cậu chưa?
- Nó chưa nát thì em đã chạy bán sống bán chết rồi chứ cần gì
nó nát.
- Sao cậu phải chạy. Nó đã làm gì cậu đâu?
- Thì nó chưa làm gì em thật. Nhưng sợ. Gặp nó là người cứ nổi
gai gai thế nào ấy ạ.
- Có nghĩa là, cậu tin là trên hang ma có ma thật chứ gì?
- Dạ. Không hẳn thế nhưng em chưa thể giải thích được.
Nghe tâm sự từ Trần Minh Hồng, chính trị viên Song Hoa nghĩ.
Nếu có hỏi thêm nữa thì cũng khó mà làm cho chuyện tin hay không tin
có ma trong con người Trần Minh Hồng có cái nhìn chân chính ngay
được. Nó đòi hỏi phải có cả quá trình. Quá trình đó phải làm từng bước
một. Chậm chắc. Thậm chí có khi còn phải cho thực chứng để chứng
minh thì may ra mới có thể điều chỉnh được. Tư tưởng con người là một
cái gì đó tưởng chừng như không nhìn thấy, nó trìu tượng, không nhìn
thấy, không ngửi thấy, không nắm bắt được nhưng kỳ thực là nó đều được
biểu hiện ra ngoài bằng hành động cụ thể. Tư tưởng là cội rễ của niềm tin.
Một khi có niềm tin rồi thì khó lòng mà có thể thay đổi. Nó cũng như một
thói quen. Thói quen tốt cần rèn luyện hàng giờ, hàng ngày, liên tục năm
này qua năm khác mới có thể có được. Thói xấu cũng là thói quen chưa
tốt, lúc đầu chỉ nhỏ, do không kịp uốn nắn, không kịp thời nhắc nhở, chấn
chỉnh mà nó cứ lớn dần lên. Và khi đó, thói quen xấu trở thành thói xấu,
nếp xấu không dễ xóa bỏ. Đất nước phải trải qua bao năm chịu ảnh hưởng
của tư tưởng nếp sống phong kiến, chịu bao nhiêu sự đè nén, áp bức của
thực dân. Vì đời sống, vì mưu sinh nên người dân đa số là thất học. Chính
sự thất học, không tự lý giải được các hiện tượng trong tự nhiên nên cuối
cùng đều quay về thần linh. Thần thánh lúc này trở thành chỗ dựa tinh
thần duy nhất của mọi nỗi đau, sự thất vọng. Nhưng nó cũng là liều thuốc
phiện để an ủi cho con người, cho nỗi đau mà họ phải chịu. Và đó cũng là
điều mà đối phương, kẻ thù có thể tận dụng lợi dụng lôi kéo, móc nối, tạo
sự hoang mang trong tư tưởng mới manh nha về cách mạng của những
người vừa tham gia, chưa từng trải nghiệm kinh nghiệm sống dạn dầy.
Qua câu chuyện cởi mở của ông với Trần Minh Hồng. Ông biết,
thời gian tới ông và cơ quan chính trị sẽ còn phải rất nhiều. Nhiều lắm.
Những việc từ nhỏ đến lớn nếu không muốn nói là phải tẩy não cho
những người trẻ. Theo ông, nguyên nhân này một phần do khách quan,
cách mạng mới giành được thắng lợi, còn non trẻ, nhiều công việc phải
làm, phải triển khai. Giặc đói chưa hẳn đã bị loại bỏ. Giặc dốt còn đang
hoành hành. Lo ổn định tổ chức, lo xây dựng cơ sở cách mạng, lo xây
dựng con người. Những vấn đề lớn đã cuốn hết mọi sức lực và thời gian

97
của ông. Nhưng trong đó cũng có phần do tính chưa thật sự chủ động, tích
cực của những người làm công tác chính trị, tư tưởng.
Biết thế, chính trị viên Song Hoa nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa rất
nhiều sự trách móc lẫn sự chia sẻ. Ông không muốn cán bộ dưới quyền
đoán định và biết được những suy nghĩ, lo lắng từ ông.
- Chưa giải thích được mà cũng vẫn cứ tin. Các cậu hay thật. Lý
luận của Mác và Lê nin chỉ rõ rằng. Học chủ nghĩa Mác Lê nin là để
chúng ta nhận thức về thế giới và từ đó để cải tạo thế giới. Cải tạo thế giới
vì con người, cho con người.
Tuy nói thế nhưng ông thấy lòng mình trĩu nặng, thật buồn.
Ông cố nén tiếng thở dài. Ông gìm giữ trong lòng không cho thoát ra
ngoài. Hơi thở không được thoát ra, nó tạo cho ông cảm giác nặng nề đến
ngột ngạt, khó thở. Ông tin vào bản lĩnh, vào lập trường chính trị của cán
bộ thuộc quyền. Song ông biết, bản lĩnh ấy, lập trường tư tưởng ấy chưa
thật sự được xây dựng vững chắc. Nó rất cần và cần biết bao nhiêu sự bổ
sung, củng cố và bồi đắp tiếp. Nó có khác gì trụ cầu mới bắc. Nếu không
kịp gia cố khi phát hiện thấy đã giảm sức chịu đựng thì cây cầu ấy có thể
sập. Lúc đó, khó khăn sẽ còn chồng chất biết bao.
Thấy chính trị viên đang vui vẻ bỗng trầm hẳn xuống, Trần
Minh Hồng không dám hỏi. Anh lặng lẽ rót nước thêm vào chén cho
chính trị viên. Gian phòng vốn đã chật chội bỗng trở nên căng cứng và
ngột ngạt. Ngồi trong phòng, Trần Minh Hồng nghe rõ cả tiếng lá chuối
cọ vào nhau loạt soạt ngoài miếng đất đầu hồi. Anh nghe rõ cả tiếng con
ong bay vo ve ngoài hiên cửa. Trần Minh Hồng đánh mắt ra hướng cửa
nhìn. Chú ong vàng đơn độc đi kiếm mồi lạc lõng đảo qua rồi vù bay đi.
Như để làm dịu đi khoảng không gian chật chội và trĩu nặng,
chính trị viên Song Hoa đặt chén nước xuống mặt bàn. Ông nhẹ nhàng hỏi
Trần Minh Hồng về gia cảnh. Nhìn khuôn mặt người cán bộ thuộc quyền
tuổi còn trẻ mà đã hằn những nếp nhăn suy tư, lo lắng. Đợi cho Trần
Minh Hồng nói xong, ông nói như lời nhắn nhủ, gửi gắm.
- Bây giờ, cách mạng đã giành được một phần thắng lợi. Con
người khi vất vả thường dễ bỏ qua và rất rộng lòng bao dung, đùm bọc lẫn
nhau. Nhưng khi thành công, rất sinh tính kiêu căng, tự phụ, chủ quan.
Chỉ thấy mình là nhất. Chỉ có mình mà không thấy người khác. Phải cố
gắng, cố gắng liên tục, dành trọn tâm huyết cho công việc, cho sự nghiệp
cách mạng thì cách mạng mới có thể thành công trọn vẹn.
Ngừng đoạn, ông tiếp.
- Lòng kiên trì và ý chí phấn đấu không ngừng nghỉ sẽ là quyết
định cho mọi thành công. Phải tự ràng buộc mình vào công việc từng giờ
từng phút. Nếu không ràng buộc mình, sẽ không làm được việc gì. Nghe
có vẻ lý thuyết đấy nhưng mà rất thật và rất đúng. Chân lý thường cụ thể
và đơn giản. Và đã là chân lý, nói lúc nào cũng đúng. Có những công

98
việc, nay nói, mai nói, ngày kia và ngày sau đó nữa nói. Nó cũng luôn
luôn đúng.
Rồi ông nhìn Trần Minh Hồng với cái nhìn chan chứa sự gửi
gắm niềm tin. Cái nhìn như của người anh đi trước trao đổi tâm tình trò
chuyện với các em.
- Những điều mình nói với cậu đều là sự rút ruột của mình ra
đấy.
Trần Minh Hồng biết. Những điều ông nói đều từ chính cuộc
sống, từ chính những tháng năm lam lũ, lăn lộn, sống chết chỉ có một mục
tiêu duy nhất là vì cách mạng, cho cách mạng, cho nhân dân. Trần Minh
Hồng cũng hiểu. Những điều đó cũng là nỗi lòng canh cánh của thế hệ đi
trước lo lắng về mai sau. Những điều ông nói từ tấm lòng, không hề lên
gân lên cốt, không hề đao to búa lớn mà rất chính trị và thấm biết bao.
Trần Minh Hồng chợt thấy mình bé nhỏ. Những điều anh định
trình bày với chính trị viên về gia đình, mong muốn được về gần nhà bỗng
thấy thật không đáng gì so với sự hy sinh của lớp người đi trước như ông.
Anh cũng cảm thấy trách nhiệm với công việc anh được trên giáo phó tin
tưởng thời gian qua còn quá nhiều sai sót và khiếm khuyết. Trần Minh
Hồng quyết định không nói ra những mong muốn của mình. Anh tự nhủ
sẽ cố gắng, cố gắng hơn nữa để không phụ sự tin cậy của cấp trên.

21
GÓC KHUẤT ĐỜI NGƯỜI

Chợp mắt được thì thôi chứ lúc nào trong đầu Thiếu tá Trịnh
Toàn cũng lởn vởn bức điện mật của trên gửi xuống và cái kẻ giấu mặt có
mật danh AZET. Trịnh Toàn mất ngủ không phải ông lo lắng những vấn
99
đề đặt ra trong cuộc họp vào sáng ngày hôm nay. Ông mất ngủ có lẽ vì
ông thấy linh tính của người lính đã mách bảo ông có dự báo chính xác.
Ông vui thì đúng hơn. Khi ông được sự nhất trí cao, đến mức tuyệt đối
của chính trị viên về việc đánh giá đã có kẻ xâm nhập vào địa bàn. Mặc
dù, cho đến bây giờ, kẻ xâm nhập là ai, là kẻ như thế nào ông cũng chưa
thể xác định được đối tượng và tính chất hoạt động. Kẻ địch trong bóng
tối. Còn ông, đứng ở nơi sáng. Để phát hiện được kẻ xâm nhập chắc sẽ là
cuộc đấu trí quyết liệt. Ông biết. Phía trước ông còn rất nhiều khó khăn.
Song ông tin, như tin vào chính những gì ông đã đi qua và trải nghiệm.
Bên cạnh niềm vui ông vẫn cứ băn khoăn, lo lắng. Trần Kiên,
người bạn thuở nhỏ cùng đánh găng, chơi bi, cùng chung chia nhau lúc củ
khoai lang nướng, khi bắp ngô luộc ấy có liên quan gì đến kẻ mang biệt
danh AZET kia không? Nếu năm tháng qua đi, Trần Kiên đã thay đổi, thì
ông, sẽ phải ứng xử như thế nào đây? Luật pháp bất vị thân. Đúng là, đã
là luật pháp thì không vì kẻ thân hay người sơ mà có sự nhẹ hay nặng ở
đây được. Có tội, cứ theo luật pháp mà trừng phạt. Cái thời quản lý nhà
nước bằng đạo đức đã lỗi thời rồi. Trong thời đại văn minh, quản lý nhà
nước phải bằng pháp luật. Đó không những là quy luật tất yếu của xã hội
văn minh mà nó còn là quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người.
Nhưng, những năm tháng qua, Trần Kiên làm gì, ở đâu luôn là
câu hỏi đè nặng lên trong suy nghĩ của ông. Nỗi đau của sự buồn tủi về
thân phận liệu có làm thay đổi bản tính của con người ta không? Ngày đó,
nếu gia đình Trần Kiên không vì chuyện để cứu người con út bị ốm, bị
đói, cứ khăng khăng đòi bố cho ăn quả trứng gà để đến nỗi, người cha
nhất mực trọng danh dự, nhất mực lấy điều chân làm lẽ sống phải làm liều
vào xóm ăn trộm về cho con. Ngày đó không xảy ra, chuyện đau lòng đó
không xảy ra thì liệu Trần Kiên bây giờ có như ông không? Hoàn cảnh đã
xô đẩy con người. Đói khổ làm con người hèn đi. Tình cha con, máu mủ
ruột rà đã đầy ải con người rơi vào bể khổ. Có lẽ, sự dằn vặt duy nhất
trong ông lúc này là Trần Kiên.
Sự dằn vặt ấy có lẽ là do ông lo lắng cho bạn. Tính nết Trần
Kiên ngày ông gặp lại tự nhiên đem đến cho ông cảm giác bất an. Ông
vẫn tin vào Trần Kiên. Tin nhưng vì công việc, vì trọng trách ông vẫn
phải làm. Điều ông lo là nếu khi điều tra, chỉ một sơ xuất nhỏ, nếu lộ ra
chuyện Trần Kiên có người theo dõi, giám sát thì chắc chắn tình nghĩa
giữa ông và Trần Kiên sẽ không còn gì. Trần Kiên sẽ nhìn ông với cái
nhìn khác, đầy xấu xa và khinh bỉ. Trong cuộc đời, sự phản trắc đã là sự
xấu xa không thể chấp nhận. Đằng này, sự phản trắc trong tình nghĩa thì
càng là sự không thể chấp nhận. Nó là điều tối kỵ nhất trong cuộc đời. Và
đi liền với nó là đồng nghĩa của sự cô độc. Sống cũng như thừa, không
bằng chết. Nhưng cái bơi chèo mà Trần Kiên có được từ đâu? Có thực là
vớt được khi nó trôi dạt trên biển không? Con thuyền vô chủ trong vùng

100
biển mà Trần Kiên đánh bắt là từ đâu? Có phải chăng chỉ là sự ngẫu nhiên
trùng lặp.
Về nguyên tắc, Trịnh Toàn biết. Không bao giờ và chẳng bao
giờ kẻ xâm nhập lại giữ trong tay mình cái gì để lại dấu vết. Ấy là nguyên
tắc. Nhưng biết đâu. Kẻ cao tay lại vẫn sử dụng nó để làm điều không
tưởng, làm cái cớ để tránh thì sao? Sự bất minh sẽ được sử dụng làm cái
minh chứng cho vỏ bọc thì sao? Tính bất ngờ có khi lại mang lại hiệu quả
không ngờ?
Để làm rõ, ai trong số cán bộ thuộc quyền của ông có thể làm
được? Liệu người đó có đủ bản lĩnh để làm hay không? Với con người
như Trần Kiên liệu có cái gì mà không biết. Sự từng trải của Trần Kiên
chính là xuất phát từ những tháng năm lam lũ, tháng năm đầy khổ đau mà
Trần Kiên đã đi qua bao chuyện ngang trái của cuộc đời. Những nanh nọc
của đời Trần Kiên đã trải. Những góc khuất cuộc đời Trần Kiên đã từng.
Những gian dối cuộc đời Trần Kiên đã qua. Liệu ai có đủ sức để làm công
việc mà ông giao? Một công việc không chỉ đơn thuần là thực hiện nhiệm
vụ mà nó còn là danh dự sống của đời người. Với ông, mọi trường hợp sai
sót của cán bộ điều tra có thể xảy ra. Nhưng với Trần Kiên, ông không
muốn có bất cứ một sai sót nào. Ông không muốn niềm tin vào lẽ sống,
vào cuộc đời của Trần Kiên, vào chính chế độ này tắt. Bởi ông biết. Tất cả
những gì đã xảy ra đối với gia đình và cuộc sống của Trần Kiên thực sự
đã là một gánh nặng. Những gì đã xảy ra đã là quá đủ với một đời người.
Không ngủ được, Thiếu tá Trịnh Toàn cứ đi đi lại lại trong
phòng. Ông lật giở xem đi xem lại kế hoạch triển khai ngày mai. Sẽ bắt
đầu từ đâu. Lần theo dấu vết nào đây? Nếu không triển khai thì thôi. Khi
đã triển khai thì không thể để thất bại. Sự thất bại không chỉ có năng lực
nhận định đáng giá của người chỉ huy mà nó chính là niềm tin của người
lính vào công việc, trọng trách và nhiệm vụ được giao. Bắt đầu từ chuyện
hang ma có ma liệu có liên quan gì đến việc xâm nhập của đối tượng
AZET kia không? Rồi đến chuyện dân khu chân núi Bái, làng La Khê bỏ
nhà, bỏ làng đi có liên đới chuyện này không? Cái bơi chèo lạ của Trần
Kiên nữa? Chiếc thuyền vô chủ trôi dạt kia là gì? Cả những tần số sóng lạ
bộ phận trinh sát điện đài phát hiện được? Tất cả. Tất cả những điều như
xảy ra vô tình và ngẫu nhiên ấy, mắt xích liên kết ở đâu?
Hết đứng rồi đi. Hết đi lại ngồi. Thiếu tá Trịnh Toàn đã mấy lần
lên giường định chợp mắt nhưng không thể nào ngủ được. Cái tâm trạng
bước vào trận đánh vẫn nguyên vẹn như xưa, như cái thời trai trẻ lần đầu
ông được tham gia trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Rạo rực mà chất chứa
bao lo lắng. Vui sướng mà vẫn có chút lo âu. Sẵn sàng mà vẫn hồi hộp,
trông chờ, mong ngóng. Tất cả cứ đan vào nhau trong ông.
Đi ra cửa sổ, Trịnh Toàn lấy que chống, nhẹ nhàng nâng cánh
liếp. Cánh liếp vừa hé lên, những cơn gió từ biển tràn vào. Đưa mắt nhìn

101
ra khơi xa. Phía biển, chỉ có tiếng sóng vọng lại ầm ì, ầm ì trong màn
đêm. Trong bóng đêm kia, đâu là khuôn mặt của kẻ thù. Có cơn gió lạnh
ùa tới. Trịnh Toàn đưa tay lên, giữ lấy hai bên ve áo che cổ. Phía sau
lưng, ngọn đèn dầu cháy lập lòe. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu, hắt bóng
Trịnh Toàn lên tường. Nhìn bóng mình lúc ngả bên này, lúc nghiêng bên
kia theo ánh sáng của ngọn đèn lập lòe ngả nghiêng theo gió. Trịnh Toàn
cứ nhìn xoáy vào chính bóng mình trên vách. Đôi lúc, Trịnh Toàn bước
lên, tiến sát người vào cái bóng. Trịnh Toàn cứ ép dần, ép dần thân người
vào sát tường. Càng ép sát người vào tường bao nhiêu, cái bóng càng ít
nghiêng ngả bấy nhiêu. Ngay chiều ngang đến chiều cao của cái bóng
cũng thu dần lại gần bằng chính con người thực của ông. Trịnh Toàn nhìn
chính cái bóng của mình rất lâu. Bất giác, ông đưa tay lên vỗ vỗ trán.
Trịnh Toàn lùi ra xa cái bóng của chính mình trên tường. Ừ. Đúng rồi. Để
có thể đọc được chính xác tên sự vật hiện tượng, phải chăng chỉ có cách
duy nhất là hãy tiến gần, càng gần sự vật hiện tượng càng tốt. Sự tiếp cận
ấy sẽ cho cái nhìn đúng nhất.
Trịnh Toàn nghĩ nhanh. Ngày mai, ông sẽ phải ra quyết định
yêu cầu tất cả phải tiếp cận sát vào từng sự việc hiện tượng. Cách tốt nhất
lúc này, có lẽ là đánh trực diện vào chính các đối tượng.
Trịnh Toàn thấy vui trong lòng. Ông đưa tay gỡ chiếc que đẩy
ra, hạ cánh cửa che bớt gió. Ông lại bên bàn, lấy chiếc ấm, xúc bã. Ông
pha ấm chè. Đợi cho chè ngấm, ông rót chậm rãi vào chiếc chén mắt trâu
màu nâu sậm. Ông đưa lên miệng. Nhấp từng giọt một. Trịnh Toàn bỗng
nhận ra. Trong hương trà tỏa ra có mùi thơm ngầy ngậy, ngây ngất như
hương cốm đầu mùa.

22
TRỐN CHẠY

Bám vào từng mẩu đá, Phan Lềnh cẩn thận đặt mũi chân vào
những vấu đá nhô ra. Mỗi khi đặt bước chân, Phan Lềnh nhấp nhấp thử độ
chắc của mỗi vấu đá rồi dùng lực hai tay, mũi chân, nhún người lên. Khi
leo lên đến lưng chừng hang, Phan Lềnh gần như bò sát xuống nền đá,
trườn người vào phía trong cái hốc chỉ vừa gọn một người chui vào. Cuốn
102
người trong tấm dù, Phan Lềnh nằm vật xuống. Cuộn người xoay đầu thò
ra ngoài cái hốc đá. Trông Phan Lềnh lúc này không khác gì con sâu cuốn
mình trong chiếc kén. Hơi đá phả vào mặt lạnh ngắt. Phan Lềnh kéo tấm
dù trùm kín đầu thiu thiu ngủ. Giấc ngủ chập chờn, chập chờn…
…Nhét vội mấy bộ quần áo vào chiếc túi vải, Phan Lềnh vắt lên
vai, cứ nhằm hướng Nam cắt rừng mà đi. Từ chân núi Bái, nếu đi nhanh
thì sáng ra Phan Lềnh có thể kịp ra đến con đường cái. Con đường nối
Yên Hưng với vùng đất cảng Hải Phòng. Phan Lềnh cứ cắm đầu cắm cổ
bước. Phan Lềnh biết. Trong rất nhiều chuyến đi của Phan Lềnh, tất cả
các chuyến đi đều có ngày trở lại. Còn nay, trong chuyến đi này, Phan
Lềnh biết rằng sẽ là chuyến đi không có ngày trở lại. Biết thế nhưng Phan
Lềnh không muốn ngoái đầu nhìn lại một lần. Trong lòng Phan Lềnh chỉ
có một điều duy nhất sống, duy nhất tồn tại. Hãy báo thù cho cái chết của
bố. Hình ảnh bố Lềnh, cụ Chu treo cổ trên xà nhà lúc nào cũng như đập
vào ngay mắt Lềnh.
Lần được đường ra đến đường cái trời còn nhá nhem tối. Cái
thứ ánh sáng buổi sáng chưa đủ hắt lên đường phía chân trời. Ánh sáng
lúc này mới chỉ đủ làm cho những rặng cây, những ngôi nhà, những bóng
người lờ mờ. Những cái bóng ấy vật vờ trong sương, trong hơi nước từ
phía biển đem lên. Đứng trên dốc, Phan Lềnh chỉ nhận ra được vài ba
tiếng nói chuyện nhỏ nhưng rất gấp của một vài ba người đi chợ xa rảo
bước trên đường. Đợi cho mấy người đó đi xa, Phan Lềnh tụt dốc xuống
đường. Đưa mắt ngó quanh xem có còn ai đi đến nữa không, Phan Lềnh
sửa lại áo cho ngay ngắn, đeo chiếc túi vải có dăm ba bộ quần áo sát nách.
Phan Lềnh lầm lũi đi. Vừa đi, Phan Lềnh vừa ngoái đầu nhìn lại phía sau.
Mỗi bước chân đưa Phan Lềnh đi là mỗi bước chân Phan Lềnh xa thêm.
Nép sát vào bên lề đường, Phan Lềnh bước vội về phía trước. Những hạt
sương còn đọng trên lá cây, mỗi khi Phan Lềnh đi qua, như vô tình, những
hạt sương lại hắt vào má, vào cổ lành lạnh. Thỉnh thoảng, Phan Lềnh đưa
tay lên, quệt ngang mặt, cọ qua cổ. Con đường đưa Phan Lềnh ngày càng
xa phía biển.
Đang đi, Phan Lềnh nghe có tiếng ì ầm từ xa. Nép vội vào cái
cây bên đường, Phan Lềnh thấy có vệt sáng vàng ệch đang chiếu thẳng về
phía mình. Lẩn ra phía sau cái cây để nấp, Phan Lềnh quan sát. Cái ánh
sáng vàng ệch ấy mỗi lúc tiến lại gần hơn. Càng đến gần, cái ánh sáng
vàng ệch ấy lúc đầu chỉ là một rồi lại tách dần ra thành hai đốm sáng.
Càng đến gần, Phan Lềnh thấy hai đốm sáng ngày càng tách ra xa nhau
hơn. Tiếng nổ ầm ì cũng nghe rõ hơn. Phan Lềnh nhận ra, hai cái đốm
sáng vàng ệch ấy, cái tiếng nổ ầm ì ấy là đèn pha và tiếng nổ của chiếc xe
cam nhông.
Bỏ gốc cây đang nấp, Phan Lềnh nhẹ nhàng luổn ra bên mép
khóm cây chó đẻ cao lút đầu người bên vệ đường. Đợi cho thân chiếc xe

103
cam nhông chạy qua, nhanh như con mèo hoang, Phan Lềnh vội tách khỏi
khóm chó đẻ, chạy đuổi theo, bám hai tay vào thành sau chiếc cam nhông.
Phan Lềnh nhún người, vắt chân qua thành xe rồi gập người phía trên
xuống, trườn vào thùng. Lật tấm bạt phủ trên sàn, Phan Lềnh chui vào
trong.
Chui được vào trong thùng xe, che được tấm bạt lên trên, Phan
Lềnh nằm co quắp ép sát bên lưng vào một bên thành chiếc cam nhông.
Hai tay, Phan Lềnh ôm chặt lấy chiếc túi vải. Chiếc xe chạy mỗi khi lắc,
xóc lại hắt Phan Lềnh sang bên trái, khi lại vứt sang bên phải. Nằm thế,
Phan Lềnh bị văng đập vào thành xe nhiều quá, đau không chịu được.
Nhoài người lên phía trên thùng xe, nơi tiếp giáp với ca bin, Phan Lềnh
thấy đỡ bị lắc xóc hơn. Phan Lềnh đưa chiếc túi vải lên lót đầu. Sau khi đã
nằm như thế, hai mắt Phan Lềnh cứ díp vào nhau. Lúc đầu, Phan Lềnh
cũng cố gắng cưỡng lại, không dám nhắm hai mắt. Phan Lềnh sợ. Nếu
Phan Lềnh ngủ, biết đâu, khi chiếc xe dừng lại, người lái xe phát hiện ra
thì hỏng việc. Thậm chí đưa Phan Lềnh đi đâu thì sao. Phan Lềnh cố gắng
thức để quan sát đường, phát hiện thấy nơi cần xuống một khi chiếc xe
không chạy đi theo hướng Hải Phòng.
Lúc đầu Phan Lềnh cũng cố gắng để không ngủ quên trên xe,
nhưng cả một đêm vượt rừng, bao đêm mất ngủ vì cái chết của bố, không
những thế, mỗi khi chiếc xe xóc, bụi từ tấm bạt lại rơi xuống mặt, bay vào
mắt. Để tránh bụi, Phan Lềnh nghĩ, cứ nhắm mắt để tránh bụi, miễn là đầu
không ngủ, luôn tỉnh táo là được. Phan Lềnh nhắm mắt lại. Quá mệt, Phan
Lềnh ngủ lúc nào không hay.
Đang ngủ, Phan Lềnh bỗng thấy chiếc xe giật nảy lên, hất Phan
Lềnh lên khỏi cả mặt sàn xe. Phan Lềnh nghe thấy tiếng người lao xao
phía ngoài. Nhẹ nhàng vén chiếc bạt, thò đầu ra bên ngoài. Phan Lềnh giật
mình. Chiếc xe đang chạy trên cầu có những khung sắt to bắc qua con
sông rất rộng. Phan Lềnh nhìn qua khung thành xe. Con sông sậm một
màu sa. Đưa mắt nhìn về phía trước. Những ngôi nhà mái ngói nhấp nhô
cao thấp phủ màu rêu trong nắng chiều. Ngoái trước nhìn sau, Phan Lềnh
giật mình láng máng nghĩ. Hình như chiếc xe đang chạy trên cầu Long
Biên. Con sông dưới kia là dòng sông Hồng. Vẫn nằm nguyên tư thế trên
sàn xe, Phan Lềnh nhìn lại bốn phía để xác định phương hướng. Phan
Lềnh nhoài người về phía cuối sàn, thò hẳn đầu ra khỏi tấm bạt, đưa tay
bám lấy thành sau của xe, nhô hẳn người lên trên mặt sàn. Không tin vào
mắt mình, chiếc xe đang đưa Phan Lềnh vào Hà Nội.
Thụp vội đầu xuống sàn, chui lại vào trong tấm bạt, Phan Lềnh
nghĩ nhanh. Thế là do mệt quá, Phan Lềnh ngủ quên, khi chiếc xe chạy
theo hướng về Hà Nội mà không biết. Chiếc xe đã không chạy theo hướng
về Hải Phòng như Phan Lềnh nghĩ. Tình thế lúc này là đã đâm lao Phan
Lềnh đành phải theo lao. Đợi cho xe chạy chậm lại, xuống xe rồi sẽ tính

104
sau. Lợi dụng khi chiếc xe chạy qua đoạn phố khu vực bờ hồ, Phan Lềnh
chui ra khỏi thùng chiếc xe rồi tuột người xuống phía sau, nhảy ra khỏi
xe.
Phan Lềnh tìm lại một gốc cây to để ngồi nghỉ và cũng cho đầu
óc tỉnh táo. Ngồi tựa lưng vào thân cây, Phan Lềnh nghĩ. Muốn quay lại
Hải Phòng để có thể trốn xuống tàu đi vào Nam, Phan Lềnh lại phải tìm
cách vượt qua chiếc cầu Long Biên, về khu vực Gia Lâm bên kia sông
mới có thể trở lại được. Nhưng Phan Lềnh không thuộc đường. Phố xá Hà
Nội nhằng nhịt như mạng nhện. Thấy có người đi qua, Phan Lềnh đứng
lên, rời khỏi gốc cây đi ra. Phan Lềnh đang định cất lời hỏi thăm đường
thì chợt giật mình, vội đi tránh ra xa, kép sụp chiếc mũ qua trán, gần tịt
xuống mắt. Biết đâu, thấy Phan Lềnh hỏi đường, người ta phát hiện ra
ngay là người lạ mới đến rồi đi báo cho công an hay lực lượng bảo vệ thì
thế nào Phan Lềnh cũng bị bắt. Lúc này trời đã chiều, Phan Lềnh tính tìm
chỗ nào vắng vẻ, tạm thời tránh mặt mọi người, đợi đến đêm sẽ lại lần
theo đường trở lại về Hải Phòng.
Phan Lềnh đi về hướng vườn hoa tìm hàng ghế để ngồi. Có đôi
ba đôi trai gái đang tâm sự. Đi lang thang trong vườn hoa một lúc, tránh
nơi có người, Phan Lềnh thấy bên lề vườn hoa, nơi giáp với bờ đường, có
vài ba chiếc ghế còn trống. Tìm chiếc ghế khuất sau bóng cây, góc vườn
hoa, Phan Lềnh giấu chiếc túi vải có mấy bộ quần áo xuống dưới gầm,
làm ra vẻ như người ngồi hóng gió, đi chơi dạo hay ngồi nghỉ ngắm cảnh
đưa mắt nhìn bốn phía.
Ngồi yên vị trên chiếc ghế, Phan Lềnh thấy đói. Thế là gần cả
một ngày, Phan Lềnh chưa được ăn cái gì. Suốt trên chặng đường khi leo
lên chiếc cam nhông từ vùng Yên Hưng, Phan Lềnh đã ngủ gần như trọn
một ngày. Nhớ trong túi vải đựng quần áo còn nắm cơm, Phan Lềnh cúi
xuống định lấy ra thì đã vội rụt tay lại. Bây giờ mà Phan Lềnh lấy nắm
cơm ra ăn thì cũng không khác gì tự tố cáo với mọi người Phan Lềnh là
người nơi xa vừa đến. Phan Lềnh ngồi vội người thẳng lại, tựa lưng vào
thành ghế, lấy gót chân đẩy nhẹ chiếc túi vào sâu trong gầm ghế. Phan
Lềnh ngửa mặt nhìn trời. Nếu lúc này có ai nhìn thấy cũng chỉ nghĩ Phan
Lềnh như người đi dạo phố hóng mát, ngồi nghỉ nhìn trời đoán thời tiết
mà thôi.
Ngồi trong vườn hoa nhưng Phan Lềnh sợ ngồi lâu trên một
chỗ, ở một nơi sẽ có người sinh nghi. Cứ ngồi được khoảng trên dưới nửa
tiếng, Phan Lềnh lại cúi xuống, nhặt chiếc túi vải chuyển sang một góc
khác của vườn hoa. Chuyển được hai ba lần thì trời tối hẳn. Những ngọn
đèn đường vàng ệch hắt xuống mặt phố những quầng bụi sáng.
Sau khi ăn vội nắm cơm lấy từ trong chiếc túi vải, Phan Lềnh
khoác lại vào vai rồi cứ thư thả đi trên phố. Làm như người Hà Nội đi
công tác xa đang trên đường về thăm nhà, Phan Lềnh cứ theo các con phố

105
đi. Để không phải quay lại các đoạn phố đã qua, Phan Lềnh cố gắng nhớ
từng tên phố, cố gắng ghi nhận đặc điểm từng nơi đã qua. Bám vào con
phố nhỏ sát mép hồ, Phan Lềnh cứ nhằm phía trước mà bước. Cứ dọc theo
con phố đó đi, Phan Lềnh gặp đường ray xe lửa cắt ngang qua. Mắt Phan
Lềnh sáng lên. Đứng tạt vào bên lề con phố, trong đầu Phan Lềnh bỗng
nảy ra ý nghĩ. Có khi đi theo tàu nhanh hơn đi theo đường biển. Phan
Lềnh không đi về Hải Phòng nữa, sẽ bám theo tàu đi xuôi vào Nam. Nghĩ
sao làm thế, Phan Lềnh lần theo đường tàu tìm về nhà ga…
Đang cuộn mình trong tấm dù ngủ, bỗng Phan Lềnh thức giấc
bởi tiếng đá ngoài cửa hang rơi. Phan Lềnh thụt vội người, nép sát vào
trong tận cùng của hốc đá. Không biết là con thú nào đi vào hang hay là
người đi vào hang làm cho cái bẫy đá Phan Lềnh đặt ngoài cửa rơi xuống.
Những tháng Phan Lềnh được huấn luyện ở trung tâm đã biến Phan Lềnh
từ cậu ấm con nhà giàu thành con cáo mang dáng người. Phan Lềnh cứ
nằm im để nghe ngóng động tĩnh.
Bẫy đá mà Phan Lềnh đặt không khác gì cái cạm sập chuột
người ta hay dùng. Từ ngày trở lại núi Bái, tìm được về đến hang ma, bao
giờ cũng thế, trước khi chui vào trong hốc ngủ, Phan Lềnh cũng đặt bẫy.
Mỗi khi làm việc này, Phan Lềnh lại không thể nào không nhớ và biết ơn
lão Tảng. Ngày xưa, mỗi khi lão Tảng đưa Phan Lềnh theo vào rừng đặt
bẫy. Phan Lềnh không thể ngờ rằng, cái trò khi xưa chỉ như trò chơi, thú
tiêu khiển mà lão Tảng dạy cho bây giờ lại có tác dụng đến thế. Đã có đôi
ba lần, Phan Lềnh nằm một mình trong hang nghĩ đến nó, cái trò chơi, thú
nghịch ngợm ngày nhỏ lại trở thành trò định mệnh của số phận. Cái trò
chơi lúc đầu chỉ là ý thích được thấy con thú trúng bẫy vận vào người
Phan Lềnh.
Ngày đó, lúc đầu Phan Lềnh theo lão Tảng vào rừng đặt bẫy.
Phan Lềnh sao thấy lão như kẻ ngớ ngẩn. Trong lúc lão đặt bẫy, Phan
Lềnh chỉ nhăm nhăm khẩu súng trong tay. Súng trong tay, lão lại bắn rất
giỏi, chỉ cần giơ súng lên, nhắm vào con vật. Cứ nhè nhẹ kéo cò. Đoàng.
Thế là xong. Lúc đó chỉ cần thủng thẳng bước đến chỗ con thú mà nhặt
lên.
Một lần, Phan Lềnh cũng theo lão Tảng vào thăm bẫy. Cái bẫy
lão đặt mọi lần thường đè bẹp dí con thú xuống đất. Thế mà hôm đó, chả
hiểu sao, bẫy sập chỉ vào chân con thú. Khi lão Tảng và Phan Lềnh đến
gần, con thú bị trúng thương cả đêm, theo thói quen, thấy động định chạy
nhưng cái chân còn bị bẫy sập đè giữ lại kêu loạn xì ngậu. Phan Lềnh tự
nhiên thấy thích. Trông con thú trúng thương, muốn chạy mà không được,
cứ cuồng cuồng giằng mình ra khỏi bẫy. Nhưng bị bẫy giữ chân nên
người cứ quăng bên này, vật bên nọ. Sau hôm đó, Phan Lềnh bắt lão Tảng
phải dạy cho cách đặt bẫy.

106
Bẫy của lão Tảng rất đơn giản. Chỗ lão đặt bẫy thường chọn nơi
đất phẳng, gần hang con thú ở hay chỗ con thú ăn. Sau khi đã chọn được
vị trí đặt bẫy, lão Tảng đặt miếng phên tre đã được đan bằng toàn cật
xuống đất. Lão tìm hòn đá to, có một mặt nhẵn rồi đặt lên trên tấm phên
tre đó. Lão nhẹ nhàng nâng một đầu tấm phên đó lên, lấy chiếc que chống
cho tấm phên tre có tảng đá ở trên một đầu nghiêng cắm xuống đất, còn
đầu kia có cái cọc chống chéo lên phía trước. Xong lão rất nhẹ nhàng đặt
cái kim tre, một đầu cắm miếng mồi, đầu kia vào đầu que chống. Khi con
vật vào ăn, làm động cái kim tre. Chỉ cần có thế, cái kim tre sẽ làm cho
chiếc que chống phên tre có tảng đá trật khỏi cái kim. Sập xuống. Với sức
nặng của tảng đá phía trên tấm phên tre, con vật sẽ bị đè bất ngờ bẹp dí
xuống đất.
Mấy lần đầu, mặc dù lão Tảng đã bảo cho cách làm tỷ mỉ đến
từng ly từng tý nhưng Phan Lềnh vẫn bị cạm sập vào tay đau ơi là đau.
Làm dăm ba lần, Phan Lềnh đã biết dựng cạm. Cũng từ đó, cứ thấy lão
Tảng khoác khẩu súng kíp vào rừng săn là Phan Lềnh lại theo. Và cũng từ
đó, Phan Lềnh luôn bắt lão Tảng khi đặt cạm sập phải để cho làm.
Có một lần Phan Lềnh hỏi lão Tảng.
- Lão có súng, tại sao lão không dùng súng để săn mà lại cứ
thích đặt bẫy?
Lão vừa gỡ con thú ra khỏi bẫy miệng vừa hỏi lại.
- Khi cậu ăn miếng thịt thú săn bằng súng với miếng thịt thú
đánh bằng bẫy. Cậu có nhận ra nó khác nhau như thế nào không?
Đúng là cái lão vớ vẩn. Thịt nào chả là thịt. Nghĩ thế, Phan
Lềnh bảo.
- Chả có gì khác. Đều là thịt thú cả.
Nghe Phan Lềnh nói thế. Lão Tảng trừng mắt, trễ cái môi vừa
to vừa thâm như miếng thịt trâu chết nói.
- Cậu ơi. Mồm cậu bị hỏng rồi. Cũng là ăn miếng thịt mà cậu
không phân biệt được miếng nào ngon, miếng nào không ngon là hỏng
rồi. Dùng súng mà bắn thì miếng thịt bị ám khói thuốc ăn mất ngon. Khét
lèn lẹt. Thịt thú bị bẫy, còn nguyên mùi vị của nó. Vừa ngọt, vừa thơm mà
lại tươi.
Nói đoạn, lão ngoắc con thú vào đầu súng, đặt lên vai tòng teng
bước đi.
- Còn điều này nữa. Chắc cậu không biết đâu. Dùng súng mà
bắn. Nghe tiếng nổ, không chỉ các con thú khác bỏ đi mà ngay những
người trong hội đi săn cũng biết chỗ có thú. Khi ấy thì chẳng thể nào mình
cậu săn ở khu đó được nữa mà là cả làng, cả tổng. Lúc đó còn săn cái gì.
Tất nhiên, ngày đó nghe lão Tảng nói thế, thực bụng là Phan
Lềnh có nghe nhưng chả hiểu lão đang nói cái gì. Có mỗi việc đi săn, đi
bẫy con thú kiếm miếng thịt để ăn mà cũng phải tính toán. Đúng là rách

107
việc. Sau này, khi đi nói chuyện cho đồng bào ở trên khu Việt Bắc, trong
những ngày đi làm tuyên truyền, Phan Lềnh mới đủ khôn, đủ hiểu được
điều lão nói. Những khi nhớ lại lời lão Tảng, Phan Lềnh lại tủm tỉm cười
một mình. Phan Lềnh không nghĩ, trông lão Tảng có vẻ khù khờ mà khôn
lọt nước lọt cái. Thảo nào, lão không đi vào rừng thì thôi. Lão đã khoác
súng, cầm nỏ hay cái bẫy vào rừng là thế nào lão cũng có con thú mang
về. Hội săn của xóm, chả ai biết lão săn ở đâu, lão săn như thế nào mà sát
thế.
Đến mãi sau này và ngay cả lúc này, Phan Lềnh vẫn nghĩ. Bài
học săn thú đặt bẫy của lão Tảng ngày nào không chỉ là bài học săn thú
đặt bẫy mà nó còn là bài học về cách sống, cách giấu mình để tồn tại. Có
lẽ thế mà, người khôn cũng sống mà kẻ dại cũng vẫn sống. Cả hai kẻ đó
vẫn luôn tồn tại mà không kẻ nào bị loại bỏ. Đúng là. Chó có đường của
chó. Mèo có đường của mèo.
Nằm im một lúc lâu Phan Lềnh không thấy có động tĩnh gì mới
từ từ gỡ tấm dù cuốn quanh người ra. Phan Lềnh nhẹ nhàng trườn người
như con trăn ra phía cửa hốc đá. Phan Lềnh chỉ thò mỗi đầu ra khỏi hốc
đá. Phan Lềnh ngoái đầu như con rùa đi các hướng. Phan Lềnh hít những
hơi dài đánh hơi lạ. Biết chắc không có gì, Phan Lềnh lại thật nhẹ nhàng,
trườn theo vách đá, lò dò từng bước đi ra cửa hang. Phan Lềnh cúi người
lom khom lần theo đầu dây của chiếc bẫy đá.
Uỵch.
Phan Lềnh bị cái gì như thân cây lao thẳng vào người. Phan
Lềnh không kịp định thần, thấy tối tăm mắt mũi, nảy hoa cà hoa cải, ngã
quay ra ngay cửa hang.

23
ĐÊM TÌNH NHÂN

Mụ Đoác đợi cho lão Tảng ăn xong típ xôi rồi mới ngồi ghé vào
bên cạnh. Cái mông của mụ to chình ình choán cả sang chỗ lão ngồi. Mụ
đưa mắt nhìn hoa lửa nổ trong bếp lách tách mà sao thấy thân thể rạo rực.
Cái ngọn lửa hứng tình trong người mụ như hoa lửa trong bếp, bắt được
chút gió là bùng lên.

108
Thiên hạ mồm năm miệng mười kháo nhau. Mụ Đoác là kẻ
nghiện hơi đàn ông, là kẻ nứng già. Kệ. Với mụ, việc nghiện hay không
nghiện cái hơi đàn ông là của mụ. Còn kẻ nào nói không nghiện, mụ cũng
kệ. Mặc thây họ. Nghĩ là nghĩ thế chứ mụ nghe thiên hạ nói mà thấy thiên
hạ thật ngứa miệng. Đúng là một lũ thối mồm. Thì đấy. Nói không nghiện
mà có con đàn bà nào chịu ở một mình được không? Không có thằng đàn
ông mà xem. Có mà, nhẩy cẫng lên hết lượt. Có khi còn gấp năm gấp
mười mụ ấy chứ. Mà mụ có nghiện, mụ có nứng thì cũng là chuyện của
mụ. Mụ có cướp chồng, cướp con hay cướp thằng đàn ông của ai đâu. Tất
nhiên là cái đầu mụ nghĩ thế. Mụ dại gì mà nói ra miệng. Ếch chết vì
miệng, thú chết vì mồi. Mụ cho nói. Nói chán, nói đến mỏi mồm cũng
phải thôi.
Đưa mắt nhìn sang lão Tảng đang cố nhét miếng xôi vào miệng
sao mà ngon thế. Lão còn lấy mồm mút mút ngón tay dính mỡ. Lão làm
cứ như cả đời không biết đến miếng thịt. Khổ. Cả ngày nay, mụ mải đi
vào hang mà quên, bỏ lão đói. Ôi. Nhìn lão ăn sao mà mụ thấy thương đến
thế. Chả bù cho ngày trước, khi còn trai trẻ, khi còn được theo hầu cụ
Chu. Thích có miếng thịt, chả phải đợi lâu, xách súng hay cầm cái nỏ vào
rừng là đã có miếng ăn.
Lấy tay đập đập rồi vuốt vuốt sau lưng như lối người lớn hay
làm khi trẻ bị nghẹn. Mụ Đoác nhẹ nhàng.
- Ăn từ từ thôi. Có ai ăn mất phần đâu mà nhồi nhét thế.
Kệ. Dường như lão Tảng chả nghe thấy mụ Đoác nói gì. Lão cứ
nhét, cứ nhai. Thỉnh thoảng từ trong miệng lão lại có tiếng ken két như
nghiến răng. Đói quá đây mà. Mụ Đoác nghĩ thế. Đôi mắt mụ nhìn lão
Tảng đắm đuối. Mụ nhìn lão chả khác gì lũ con gái đi làm nương về, gặp
con suối, nhao xuống rửa mặt rồi nghiêng nghiêng, soi mặt vào đó. Mụ vỗ
vỗ nhẹ lên lưng lão.
Đứng lên, đi lại góc nhà, mụ Đoác lấy cái bát đặt xuống chỗ
chân. Mụ lấy tay, nhấc cái ấm, nghiêng cái miệng ấm đất rót ra đầy bát
nước nóng.
- Nước rót ra rồi đấy.
Mụ đẩy cái bát nước về phía lão Tảng. Mụ hỏi nhỏ chỉ đủ cho
mụ và lão nghe thấy. Mụ Đoác cứ làm như cái cây ngoài kia cũng có tai
không bằng.
- Hôm nọ lão đã gặp được hai cậu Đô, cậu Đồ nhà cậu chủ
chưa?
Lão Tảng vẫn đang mải nhai, không nói gì. Mụ hích vai vào
lão.
- Tôi hỏi. Lão đã tìm gặp được hai cậu Đô, cậu Đồ của cậu chủ
chưa?
Giọng mụ Đoác gắt lên.

109
- Rồi. Mai hai cậu ấy sẽ đến.
Lão vừa nhồm nhoàm nhai vừa trả lời. Nghe tiếng lão trả lời lúc
này chả khác gì hòn đá lăn lục cục bên sườn dốc.
- Thế lão cũng có gặp được mẹ của cậu chủ chưa?
- Rồi.
Lão trả lời cộc lốc, nuốt đánh ực cục xôi trong mồm xuống
bụng. Cục xôi trôi qua cái yết hầu làm cuống họng của lão như phình to
ra. Đưa tay cầm bát nước khi nãy mụ Đoác rót. Lão đưa lên miệng, tợp
một hớp. Nhặt lại cái típ xôi lên tay, lão lủng bủng.
- Hỏi đéo gì mà lắm thế. Ăn cũng không yên.
- Thôi mà. Chẳng qua người ta lo cho mình người ta mới hỏi
thế. Thì cứ ăn đi. Hỏi thế, nói cũng được mà không nói cũng được. Có ai
dám bảo gì đâu.
Miệng lão Tảng nói thế nhưng cái bụng lão lại đang nghĩ đến
gia cảnh nhà cậu chủ. Lão chả biết cụ nghĩ làm sao, đang yên đang lành,
đùng cái ông chủ Chu của lão phải thắt cổ treo trên xà nhà mà chết. Từ
ngày cụ chết đi cũng là lúc gia đình ly tán, khuynh gia bại sản. Ngoài bà
cả ở lại ngôi nhà cũ, còn mấy bà kia, ai cũng bỏ nhà mà đi. Họ đi đâu lão
không biết, nhưng chỉ nghe người làng trong xóm dưới kháo nhau rằng,
các bà ấy còn trẻ, còn hơ hớ thế nên không thể thiếu hơi thằng đàn ông.
Các bà đi tìm hơi thằng đàn ông mới.
Ai đi đâu cũng được, ai làm gì cũng được. Lão Tảng không
quan tâm lắm. Thói đời là thế. Dậu đổ bìm leo. Con người ai cũng tìm đến
chỗ sung sướng chứ có ai tìm đến nơi vất vả, khổ nhục. Lão cũng thế thôi.
Có chăng, trong số các bà bỏ đi, lão tiếc nhất là bà Năm. Lão cũng muốn
quên đi những gì bà Năm đối xử với lão. Nhưng khốn nạn thân lão. Lão
càng muốn quên thì lại càng nhớ, nhất là những ngày lão không dám dò
mặt ra đường sau khi cụ chủ Chu thắt cổ chết trên xà nhà. Lão nhớ cái
mùi của bà. Lão nhớ cái đùi trắng hơn hớn của bà. Lão nhớ tiếng cười rúc
ra rúc rích như con chuột của bà. Mỗi khi lão quàng tay ôm lấy cái eo nần
nẫn những thịt là thịt của bà. Bà cười rung lên. Thớ mỡ bên sườn bà dập
dà dập dình, cũng rung rung theo. Rồi lão nhớ. Nhớ cả cái tiếng thở hổn
hển, tiếng rên ri rỉ của bà mỗi khi lão làm cái việc ấy. Lão nhớ lắm. Nhớ
đến không ăn, không ngủ được. Bà cho lão được sung sướng. Cho lão biết
được thế nào là đời. Còn lão. Lão cho bà sự thèm thuồng của sức khỏe,
của sự thỏa mãn, của sự đáp ứng cái khao khát mùa động tình của bầy thú.
Có nhiều đêm, khi cụ chủ đi vắng, bà vần lão đến mệt phờ râu cáo. Mệt có
mệt thật nhưng lão lại cứ thích được mệt mãi như thế.
Lão tiếc. Tiếc đến rỏ nước mắt, nước mũi. Nhưng lão biết. Phận
làm trâu thì suốt đời phải cày phải kéo. Có muốn đổi phận cũng khó lòng
mà đổi được. Đã là phận làm con trâu, con bò thì chỉ có mỗi cách là ăn
phá đám, ăn vụng, ăn trộm. Thì đấy, lũ trâu, lũ bò, khi đem thả rông, lợi

110
dụng lúc vắng người, sục vào ruộng khoai, bãi ngô hay mảnh ruộng làm
mấy miếng. Ăn được miếng nào hay miếng đấy. Ngay chuyện của lão với
bà Năm. Lão cũng đã biết trước. Bà cho lão chẳng qua là cụ chủ để quên
bà. Bà thì khát mà ông lại không muốn uống. Vì thế mà bà mới cho lão.
Và có thế lão mới vớ được miếng ngon thế. Có thể với cụ chủ, bà không
còn là gì, nhưng với lão, thì quả là, mèo mù vớ cá rán. Cụ chủ mà chán thì
lão hưởng vậy. Như lão vẫn hưởng cái xái thuốc của cụ thôi.
Chuyện lão với bà Năm không phải cụ chủ không nghe, không
biết. Cụ cũng có nghe lời ra tiếng vào nhưng cụ bảo.
- Cái thằng lù khà lù khù làm được cái gì. Bà ấy mắc bệnh đau
chân, đau tay. Bắt nó lên đấm bóp cho đỡ đau, thông khí huyết.
Cụ chủ nói nghe nhẹ nhàng vậy đấy, đừng tưởng bở, chớ có
đùa. Lão biết thừa là cụ chủ muốn dẹp chuyện đi. Dư luận mà bung ra thì
cụ cũng chả hay ho gì. Để con ăn thằng ở ngủ với vợ mình họa có mà…
Lão thừa biết điều đó. Khi cụ chủ đã nói thế, đố ai dám ho he. Phải biết
lấy si mà tự gắn mồm lại. Cứ thử trái ý cụ mà xem. Chắc là xuống dưới
khe, dưới vực mà nằm cùng ông bà ông vải. Không chết vì trâu đâm cũng
chết vì hổ vồ. Thậm chí chết bất đắc kỳ tử vì cây đổ, đá lăn. Lão biết, mọi
người biết. Cái chết ở rừng cũng nhiều kiểu chết như cây làm vậy.
Có một lần, trên đường đi theo hầu cụ chủ. Khi lão và cụ chủ
ngồi nghỉ bên gốc cây. Cụ bảo.
- Tao nghe dạo này mày hay lên bóp chân bóp tay cho bà lắm
phải không?
Nghe vậy, chân tay lão bủn rủn. Mồ hôi vã ra như tắm. Lão vội
sụp xuống, lết trên hai đầu gối đến trước mặt cụ chủ.
- Cụ mà nói thế chết con. Dạo này con cũng không hiểu sao, bà
hay buốt chân buốt tay thế. Những lúc ấy, bà cho gọi con lên hầu.
- Tao biết. Tao nói cho biết thế thôi. Miếng mồi con cọp nó ăn
nửa chừng, để đấy không phải là nó không ăn nữa. Nhưng khi nó quay lại
ăn thì đừng có mà bén mảng. Thịt có thối cũng là thịt của nó. Rõ chửa.
Hé mắt nhìn khuôn mặt cụ chủ. Nét mặt cụ chủ không hề đổi
sắc. Cụ đập đập đầu cây gậy ba toong xuống đất.
- Tao nói thế mày đã hiểu gì chưa?
- Dạ. Cụ dạy thế con nhớ rồi ạ.
Cụ chủ nói với lão thế nhưng lão biết. Cụ cũng làm lơ điều ấy
đi thì phải. Thôi thì cụ chủ cứ lơ đi lúc nào là lão được hưởng lúc đó vậy.
Bao giờ con cọp về lại miếng mồi. Thì lão thôi. Lão lại ra ôm cái cột mà
cọ nó vào đấy. Phận tôi tớ nên phải thế. Chỉ tiếc là con cọp cứ về nhìn rồi
đi mà không ăn, không biết miếng thịt nó đang thối. Phí cả đống của giời.
Lão thấy thỏa mãn với cái nghĩ của mình. Được ngày nào hay
ngày đó. Nhưng lão vẫn tiếc. Tiếc hùi hụi. Nếu không có chuyện gì xảy

111
ra, lão vẫn được ăn vụng, ăn trộm. Vẫn được hưởng cái mà đáng ra lão
không được hưởng.
Cái số lão tưởng xấu xí thế mà lại hay, vẫn có duyên. Bà Năm
bỏ nhà đi sau khi cụ chủ chết thì lão lại vẫn có mụ Đoác, cái mụ suốt ngày
trông chuồng ngựa, chuồng gà cho cụ chủ. Khi cụ chủ còn sống, lão
không biết có mụ. Không đi theo hầu cụ chủ thì thôi. Nếu ở nhà là bà
Năm lại cho sai người gọi lên. Nếu không ở chỗ bà thì lão lại xách súng,
cầm nỏ hay tha cái bẫy vào rừng kiếm con cày con cáo đút miệng, kiếm
thêm tiền cho cái mồm nghiện thuốc.
Khi cụ chủ chết, các bà bỏ đi, các cậu cũng ly tán, tài sản thì bị
chia, con ăn thằng ở chả còn việc gì làm cũng lang thang vào rừng kiếm
ăn qua ngày. Lúc ấy lão mới để ý thấy mụ. Mụ cũng là người bị gán nợ
nhà cụ từ nhỏ. Bởi cụ cũng đã có nhiều người, thân thể mụ lại cứ to đẫy
lên, to như cái bồ tuột cạp. Cụ chán. Cụ bỏ luôn. Cụ cho mụ xuống trông
coi nhà ngựa. Cũng từ đó, mụ cho tuổi con gái của mụ ở đó luôn. Những
hôm cánh lính đi tuần hay đi đâu đó về. Khi vị quan hai còn cùng cụ chủ
mải hú hí trên nhà với mấy người trẻ, cánh lính lại tìm xuống mụ làm nơi
giải trí, nơi mua vui. Bọn lính đi tuần về, cướp được cái gì, chúng lại đem
cho mụ. Ở đời, chả ai cho không ai cái gì. Chúng cho mụ thì mụ cho lại.
Mụ cho cái của mụ. Cụ không dùng thì mụ cho đi. Không dùng cũng phí.
Nhưng cánh lính có làm cũng chả bõ bèn gì. Chả bõ công mụ cởi quần.
Có lẽ cũng vì thế mà không đi tuần thì thôi. Đi tuần là thế nào chúng cũng
qua nhà cụ chủ để được giải khuây nơi rừng sâu núi đỏ. Với mụ, một tiểu
đội lính dõng chứ đến cả đồn binh kia thì với mụ, cũng chả bõ bèn gì.
Mụ cũng đã tưởng cuộc đời của mụ chỉ đến thế thôi. Rồi bỗng
mụ thấy, ông quan hai ngày trước ngông nghênh, đi nửa bước đã có lính
cắp súng lóc cóc chạy sau mất biến, không thấy mặt. Cánh lính đi đến đâu
là trâu chết, bò chết, gà mất đến đấy cũng biệt tích. Nhà cửa của cụ chủ,
lầu ngang dãy dọc rồi cũng tứ tán, mỗi người một ít. Chỉ còn ngôi nhà nhỏ
nép góc vườn làm chỗ cho bà cả ở. Mấy cậu cũng bỏ nhà đi biệt tăm. Mụ
cũng được phân cho ngôi nhà của cụ nhưng mụ không quen sống trong
nhà to thế, mụ ra bìa rừng làm căn nhà để ở. Lão Tảng ngày đó cũng
tưởng bỏ đi hay chết mất xác ở đâu bỗng dưng thấy lù lù vác xác trở về.
Trông cái dáng lão mới tơi tả làm sao. Lão vớ được mụ hay mụ vớ được
lão. Gặp nhau là gá. Mụ ghét nhất cái thói lão. Làm được là đút hết vào
mồm, qua cái ống điếu.
Khi mới gá với lão, mụ có được chút vốn liếng nào từ những
lần tích cóp của cánh lính cho dốc hết ra cho lão hút. Cái ống điếu của lão
nhỏ chỉ bằng cái ngón chân cái mà bao nhiêu cũng hết. Mụ thấy lão hút
xách tốn kém quá cũng xót.
Một lần, đợi lão hết phê thuốc. Mụ quàng tay qua người lão.
- Hút gì mà hút lắm thế? Hút thế này có mà chết đói à?

112
Đang nằm, thấy mụ Đoác nói thế. Lão vùng ngay dậy.
- Mụ tiếc của phải không? Nếu tiếc thì nói thẳng ra.
Miệng nói chân lão bước. Lão phăm phăm ra cửa. Mụ vội chạy
ra, kéo tay lão giữ lại.
- Thì thôi. Có thế mà đã đùng đùng bỏ đi. Thì đấy. Lão muốn
làm gì thì làm. Tùy.
Tiếc của thì ai chả tiếc. Đói ai chả sợ. Nhưng khổ lắm. Nếu
ngày nào không có là người lão mềm nhũn ra, chả khác gì con chi chi.
Lão nằm đến bẹp cả tai. Nếu có được một xái, lão khỏe như con ngựa
đực. Lại xồng xộc vào rừng. Lúc nào mụ thích là lão chiều. Thôi thì đành
vậy. Của thiên trả địa. Những thứ ấy cũng chả phải của mụ. Lão cứ khỏe
là mụ vui rồi. Mụ chỉ cần lão khỏe thôi. Mụ thèm khát đến vật vã những
lúc được lão Tảng cắn xé, vầy vò mỗi lần ập vào nhau. Lúc ấy, lão Tảng
như con thú đói săn được con mồi. Mụ sung sướng mỗi khi được rên lên
trong đau đớn của thể xác nhưng lại mãn nguyện trong nhục dục. Mụ mê
mệt và sẵn sàng chết vì nó.
Ăn xong típ xôi mụ Đoác đem về, lão thấy người khoan khoái
hẳn. Lão vươn người, đưa hai tay lên cao.
- Mẹ nó chứ. Ngày trước chả đến nỗi phải thèm miếng thịt ôi
thế này.
Mụ Đoác lần trong cạp váy móc ra cuộn tiền giấy. Mụ đưa cho
lão.
- Của cậu chủ đấy. Cậu dặn lát nữa vào. Cậu chờ.
- Ờ. Nhớ rồi.
- Cậu dặn tiêu pha cũng vừa phải thôi. Nếu có mua thì cũng
đừng mua một chỗ. Mua nhiều nơi. Lộ. Tù mọt gông. Có khi còn bị treo
lên cột đấy.
Nghe mụ Đoác dặn, lão thấy sao mà vớ vẩn. Lão làm cái quái gì
mà chả tù với treo lên cột. Ngày trước lão theo hầu cụ cũng chỉ vì miếng
ăn. Bây giờ, lão có đi vào trong đó làm cho cậu cũng là vì miếng ăn. Lão
chỉ làm mỗi việc quay cái máy gì đấy cho cậu thôi. Quay có lúc là xong.
Xong cậu cho tiền. Lão về. Lão chỉ bực với bản thân lão thôi. Ngày trước
á. Cái máy này lão quay cả ngày chưa thấm mệt. Bây giờ, lão quay một
lúc là đã thấy mồ hôi ướt hết cả áo. Lão già rồi nên thế.
Lão đứng lên, ngó đầu ra cửa. Mụ Đoác cũng đứng lên theo, ra
đứng cạnh. Trời đã sâm sẩm tối. Với tay cầm khẩu súng kíp, vác lên vai.
Lão vỗ mông mụ cái đốp rồi thủng thẳng bước đi.

* *
*

113
Lồm cồm bò dậy, Phan Lềnh lủng bủng chửi. Thì ra con lợn
rừng đi vào hang, bị vướng dây bẫy đá. Khi Phan Lềnh xuống. Nó sợ quá
vội lao ra, đâm vào người Phan Lềnh.
Phan Lềnh lại lần leo lên hốc đá. Phan Lềnh tìm cái đèn pin nhỏ
tin hin bằng cái ngón tay, nhét bên kẽ hốc đá. Bật đèn, đưa tay nhìn đồng
hồ. Phan Lềnh giật mình. Sắp đến giờ rồi. Tụt vội xuống khỏi hốc đá,
Phan Lềnh lọ mọ leo lên hang Con Cóc phía trên đỉnh núi Bái.
Từ trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh nhìn xuống phía dưới. Phan
Lềnh không nhìn thấy gì ngoài một màu xanh thẫm. Lớp sương mỏng như
tờ giấy la đà bay. Tựa lưng vào vách đá, Phan Lềnh lại thấy tiếc một thời
đã qua. Phan Lềnh vẫn không làm sao quên được hình ảnh bố Phan Lềnh
lủng lẳng treo trên xà nhà ngày nào.
Trong đầu Phan Lềnh bỗng nhớ đến mẹ. Phan Lềnh thấy có lỗi
với mẹ biết bao. Ngày còn nhỏ, Phan Lềnh lại mải chơi, mải theo lão
Tảng đi săn con cú con cáo. Lớn lên, nghe theo lời ông Thi đi làm cách
mạng. Biền biệt bao năm, ngày trở về lại chứng kiến cảnh bố phải quỳ
trước mặt ngay chính mấy người ăn kẻ ở, phải thưa gửi với người ở bằng
ông bằng bà. Tưởng đến thế, ai ngờ. Đó cũng là lần cuối Phan Lềnh được
nhìn thấy mặt bố. Rồi Phan Lềnh đi. Suốt cả quãng thời gian sau đó, đầu
Phan Lềnh chỉ nghĩ duy nhất một điều. Phải quay lại để báo thù cho cha.
Nỗi nhớ mẹ làm lòng Phan Lềnh thấy nôn nao.
Xòe bàn tay ra bấm đốt, Phan Lềnh nhẩm tính. Năm nay mẹ
Phan Lềnh cũng đã bước sang tuổi người già. Cả tuổi trẻ, mẹ Phan Lềnh
cũng có khác gì con ăn kẻ ở. Một tay mẹ Phan Lềnh phải quán xuyến
chăm lo cho cái nhà của mình. Bố Phan Lềnh chỉ ăn chơi và lang thang
khắp các làng trên xóm dưới để tìm đàn bà trẻ, đẹp. Bắt được về, tất tần
tật lại dồn lên tay bà lo liệu xếp nếp phòng trong, phòng ngoài. Những
người bố bắt về, ngoài việc ăn, ngủ hầu như không làm gì. Phận đàn bà,
phận làm vợ, mẹ Phan Lềnh đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Có nói hay làm
gì cũng không được. Đàn ông năm ba bẩy thiếp. Gái chính chuyên chỉ có
một chồng. Xã hội thế, phận đàn bà đành thế.
- Cậu chủ đang nghĩ gì thế?
Giật mình. Phan Lềnh mở choàng mắt. Lão Tảng đã đứng lù lù
trước mặt. Không nói cũng chẳng trả lời, Phan Lềnh đưa tay xem lại đồng
hồ. Thùng thẳng hỏi.
- Có tìm được thằng Đô, thằng Đồ không?
- Dạ. Có.
- Có nói với chúng cái gì không?
- Dạ. Có. Đúng như những điều cậu dặn.
- Ờ. Thế thì tốt.
- Hôm nọ cậu làm tôi đau quá.
Phan Lềnh trừng mắt.

114
- Đau cái gì mà đau. Đã dặn là không vào khu này săn nữa.
Không mất dái là may lắm rồi đấy.
- Nhưng mà khu này có nhiều thú quá.
- Nhiều thì nhiều. Mặc nó. Mày thiếu tiền à. Tao cho mày thiếu
tiền để hút hay sao mà phải đi săn hả?
- Dạ. Không phải thế. Chẳng qua là hôm đó tự nhiên con thấy
thèm miếng thịt tươi quá.
- Lần sau không chỉ mất dái đâu. Còn bén mảng đến đây, không
nghe lời tao sẽ được xuống vực.
- Dạ. Con nhớ rồi.
- Thế mẹ tao thế nào?
- Dạ. Bà khỏe. Con không dám nói là cậu đã về.
- Bà có đói lắm không?
- Dạ. Không. Nhưng con nghĩ là bà…
Lão Tảng ngập ngừng định nói thật rằng, mẹ Phan Lềnh đã đinh
ninh Phan Lềnh chết ở đâu rồi. Rằng bà cũng không còn nhớ cậu nhiều
nữa. Bao nhiêu năm nay rồi. Bà sống với cậu Đô và cậu Đồ. Lão sợ nói
ra, tuy là sự thật đấy nhưng sự thật phũ phàng cũng dễ làm cho người ta
nổi khùng. Lúc đó, biết đâu, cậu giận, cậu lại đổ lên đầu lão thì toi. Lão
chả dại. Cuộc đời đã dạy lão biết được lúc nào nên nói, lúc nào nên nhịn.
Thiên hạ nói lão ngu, lão đần. Nghe thế lão chỉ cười. Người đời càng ít
biết đến lão biết cái gì càng hay.
- Nghĩ sao?
- Dạ con nghĩ là…Cậu đi lâu quá rồi ạ.
- Đi lâu quá rồi nên quên mặt tao rồi chứ gì?
- Không phải thế. Nhưng…
Phan Lềnh nhìn thẳng vào mặt lão Tảng. Đôi mắt như có màu
lửa. Những tia máu nho nhỏ nổi vằn trong tròng mắt.
- Cứ nói toạc ra. Có gì mà cứ úp úp mở mở.
- Theo con. Cậu nên về thăm bà một chút.
Phan Lềnh nghe thế trợn mắt.
- Lão khôn lắm cơ mà. Sao nay ngu thế? Tao về làm sao được.
- Ý con nói là cậu về thăm chứ có phải gặp trực tiếp bà đâu ạ.
Cậu nhìn thấy bà rồi đi cũng có sao đâu.
Phan Lềnh ngồi thuỗn mặt ra. Ừ. Có lẽ như thế vẫn được. Ý
nghĩ ấy chỉ thoáng qua thì Phan Lềnh đã tự gạt nó ra khỏi đầu. Mặc dù
Phan Lềnh muốn hỏi thêm về mẹ nhưng sợ nói thêm, lão Tảng lại nói đến
chuyện đi chuyện về thăm làm Phan Lềnh càng thêm nghĩ ngợi. Như để
tránh phải nói thêm về chuyện này, Phan Lềnh kéo lão Tảng lại gần. Ghé
vào tai nói nhỏ.
- Sau hôm nay về. Xem xem có lực lượng nào bảo vệ chiếc cầu
Ghềnh không nhé.

115
- Để làm gì cậu?
Miệng hỏi nhưng nét mặt lão Tảng lộ rõ vẻ sợ hãi.
- Cứ làm đi. Làm gì rồi biết.
- Dạ.
- Việc này đừng có bép xép với con mụ Đoác đấy nhé. Chỉ
mình lão làm thôi. Liệu có làm được không?
- Dạ. Được.
Phan Lềnh thò tay vào túi, lấy chiếc đèn pin tin hin lúc nãy,
bấm vào mặt đồng hồ. Phan Lềnh vẩy vẩy tay rồi ra hiệu chỉ tay nói lão
Tảng vào trong góc hang. Lão Tảng lặng lẽ chui vào. Phan Lềnh dỡ mấy
cành lá rấp phủ lên cái thùng. Bật bạt, Phan Lềnh ngồi vào tảng đá. Lão
Tảng lấy tay, túm hai tay vào cần quay. Tiếng máy chạy lè xè lè xè.
Phan Lềnh bật chiếc đài nhỏ như bao diêm. Phan Lềnh đưa tay
vặn cái núm nho nhỏ bên cạnh. Tiếng lẹt sẹt của cái triết áp phát ra trong
loa. Tiếng nhạc hiệu nổi lên. Tiếng cô phát thanh viên vang vang, rành rõ:
Đây là đài tiếng nói Việt Nam. Phát thanh từ Hà Nội. Thủ đô nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa…

24
QUYẾT ĐỊNH KHÓ XỬ

Thiếu tá Trịnh Toàn bước ra sân. Ông nhìn về phía dãy nhà
chính trị viên. Căn phòng đầu hồi, nơi chính trị viên Song Hoa còn sáng
đèn. Trịnh Toàn rảo chân đi về hướng có ánh đèn hắt ra từ phòng chính trị
viên. Đến trước cửa phòng chính trị viên, không biết thế nào, Trịnh Toàn
đứng phân vân một lát, quay lại.
116
- Có việc gì đấy anh Trịnh Toàn?
Tiếng chính trị viên từ trong phòng vọng ra.
- Tôi sợ làm anh mất ngủ. Có chuyện gì mà anh thức khuya thế?
Chính trị viên Song Hoa ra mở cửa.
- Đã đến rồi thì vào đi. Cũng như anh thôi.
Vừa bước vào phòng chính trị viên, Trịnh Toàn vừa cười vừa
nói.
- Sao lại như tôi. Anh biết tôi không ngủ vì sao đâu mà lại
giống được.
- Có chuyện gì đâu mà không đoán được. Anh đang lo không
biết lấy ai để điều tra Trần Kiên chứ gì?
Vừa lấy ấm trà xúc bã, vừa tráng nước lên thành ấm, chính trị
viên vừa trả lời. Trịnh Toàn cười, lòng đầy hào hứng.
- Anh giỏi thật. Quả là hơn cả Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Đoán người như thần.
- Anh cứ nói quá. Chẳng qua là anh không biết giấu cảm xúc
như nhiều người thôi.
Rót chén nước, chính trị viên Song Hoa cầm lên mời Trịnh
Toàn. Đỡ chén nước trên tay chính trị viên, Trịnh Toàn đùa.
- Trà của chị và cháu mới gửi ra cho phải không? Uống trà rồi
lại không ngủ, càng nhớ vợ, nhớ con, nhớ đến mất ngủ phải không?
- Thôi. Anh uống đi. Anh không có tài bắt vía người khác đâu.
Đúng là chè của nhà tôi mới gửi ra. Nhưng có anh đến thăm khuya thế
này mới pha ấm để hai anh em mình làm chén cho vui thôi. Trà ngon phải
có bạn hiền mà. Các cụ mình xưa dạy thế.
Nâng chén trà trên tay, Trịnh Toàn đưa chén trà lướt qua mũi để
tận hưởng hương thơm từ cánh trà tỏa ra. Xong, Trịnh Toàn đặt gọn trong
lòng tay, lấy tay kia che che trên miệng chén. Rất chậm chạp, thư thả,
Trịnh Toàn đưa chén trà, nhấp nhấp từng chút nước. Nhấp nhấp từng chút
đến khi hết chén trà, Trịnh Toàn đặt chén trà xuống mặt bàn, mắt lim dim.
Hương trà thơm, chất nước thơm. Trịnh Toàn cảm thấy vị ngọt của chén
trà thấm qua từng tế bào trong cơ thể.
Nhìn Trịnh Toàn uống trà, chính trị viên Song Hoa định trêu
đùa, song rồi ông thôi. Ông lặng lẽ quan sát, lặng lẽ học lối thưởng trà
như Trịnh Toàn. Cái kiểu thưởng ngoạn trà của Trịnh Toàn thật chả khác
gì bậc túc nho xưa.
Chính trị viên Song Hoa nhìn Trịnh Toàn uống trà, mỉm cười.
Con người mà nếu ai tiếp xúc lần đầu khó lòng tránh được mặc cảm về
thái độ, tác phong làm việc. Ở Trịnh Toàn cái gì cũng trở nên nguyên tắc
và có cảm giác cứng nhắc. Nhưng Song Hoa biết. Ẩn sau vẻ bề ngoài
nguyên tắc ấy là cả một con người đến tận cùng của con người. Với Trịnh
Toàn cái yêu cũng rạch ròi, thẳng băng như đường kẻ. Con người Trịnh

117
Toàn, có lẽ không cái gì là không muốn được đi đến tận cùng. Chính cái
thái độ và mong muốn đi đến tận cùng của sự vật mà người gặp dễ có sự
nhìn nhận về sự thái quá.
Nhẩn nha, thư thả uống hết chén nước, Trịnh Toàn vẫn giữ chén
nước để ủ trong lòng tay.
- Anh đưa chén đây tôi lấy thêm nước nào.
Đặt chén nước xuống mặt bàn, Trịnh Toàn nhìn chính trị viên
thong thả nói. Lối nói thong thả như thăm dò.
- Có việc này tôi muốn xin ý kiến anh trước. Không biết anh có
ủng hộ không?
- Ở với nhau bao năm rồi, anh không hiểu tôi hay sao mà còn
phải thăm dò nhau thế? Chỉ có điều, việc anh định nói tôi có thể làm được
không thôi. Chứ nếu vì việc chung, có gì mà anh và tôi không thống nhất
nhau được. Nếu khó quá, cùng lắm là tôi sẽ xin ý kiến của Thường vụ
Đảng ủy. Miễn là anh thấy thực sự cần thiết là được thôi mà.
- Tất nhiên là tôi rất cần. Song nó liên quan đến công tác cán
bộ. Mà việc này anh là người chủ trì. Tôi sợ làm khó cho anh thôi chứ đâu
có ý không tin anh đâu.
- Thế thì được. Công tác cán bộ xét cho đến cùng cũng là vì
công việc, cho công việc, cho nhiệm vụ chung của cách mạng giành thắng
lợi thôi mà. Anh nói tôi nghe xem thử xem có làm được không đã chứ.
Nghe chính trị viên nói thế, nét mặt Trịnh Toàn cũng chưa thật
vui. Ông biết, công tác cán bộ là công tác con người. Con người ta sẽ thấy
thoải mái khi được đánh giá đúng khả năng và sẽ thấy vui khi được mọi
người tin tưởng, tổ chức trao nhiệm vụ trọng trách. Song nếu không khéo,
không cẩn thận, cũng dễ đánh mất niềm tin trong con người và có thể đó
là bước ngoặt làm thay đổi cả cuộc đời một con người. Chính vì thế mà
khi làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sai sót trong
công tác cán bộ là đánh mất cả một con người. Hồ Chủ tịch dạy: Cán bộ
là cái gốc của công việc. Cán bộ mà không tốt, có khác gì cái cây. Cái gốc
mà không bền, không chắc thì có có khi chỉ một trận gió nhỏ đã bật gốc,
trơ rễ. Việc ông cùng bất đắc dĩ đã phải cho người đi điều tra Trần Kiên
đã làm cho ông mất ăn mất ngủ. Trịnh Toàn thấy đó đã là điều xấu hổ và
vô liêm sỉ trong tình bạn. Nó không chỉ còn là niềm tin để làm nên cuộc
sống. Biết thế nhưng vì công việc, vì nhiệm vụ và cũng chính vì niềm tin
với bạn mà Trịnh Toàn phải làm. Nhưng những điều đó, liệu ai có thể
hiểu được cho ông, hay chỉ đánh giá về con người với con người, tình bạn
với tình bạn của ông mà thôi.
Đoán điều Trịnh Toàn sắp bàn với ông là điều khó nói lắm, đau
lòng lắm nên Trịnh Toàn mới phải đắn đo, ngập ngừng, rào trước đón sau
như thế này. Chính trị viên Song Hoa không giục và cũng không gợi ý.

118
Ông tin rồi thế nào Trịnh Toàn cũng sẽ nói khi có cơ hội và điều kiện
thuận lợi.
Rót thêm nước vào chén cho Trịnh Toàn, chính trị viên Song
Hoa nhẹ nhàng nhắc.
- Anh uống nước đi. Nước nguội hết rồi. Uống trà mà nguội,
chán lắm. Rượu ngâm nga, trà uống gấp mà.
Trịnh Toàn đưa tay cầm chén nước lên rồi lại đặt xuống mặt
bàn.
- Anh ủng hộ tôi chắc chắn chứ?
- Ơ cái ông này. Tôi không ủng hộ anh thì tôi ủng hộ ai? Anh
hỏi gì mà lạ thế.
- Tôi muốn tạm thời trưng dụng Trần Minh Hồng để phục vụ
cho chuyên án. Tạm thời không giữ cương vị đồn trưởng nữa. Để khuyết
vị trí đó. Giao toàn quyền cho cậu chính trị viên đồn điều hành quản lý.
Thế được không anh?
Đợi mãi rồi cuối cùng Trịnh Toàn cũng nói cho biết, nhưng
trong lòng chính trị viên Song Hoa không nghĩ là vấn đề này. Chuyện bổ
nhiệm cán bộ đâu phải chuyện đùa, thích thì để, ưng thì để, muốn sắp xếp
lúc nào cũng được. Vấn đề cán bộ đúng là công tác của cấp ủy chứ đâu
mình ông có thể quyết định được. Nguyên tắc là thế nhưng chính trị viên
Song Hoa biết, nếu công việc chưa thật cần, nhiệm vụ chưa thật cấp bách
chắc Trịnh Toàn không đến nỗi mất ăn mất ngủ mà phải thức đêm thức
hôm sang bàn trước với ông chuyện này.
Khi nói ra điều này với chính trị viên Song Hoa, Trịnh Toàn
cũng biết là đẩy cái khó cho Song Hoa. Song, nếu điểm lại toàn bộ số cán
bộ thuộc quyền, Trịnh Toàn biết, không ai có thể làm được việc này tốt
hơn Trần Minh Hồng.
Trần Minh Hồng vốn là con trai của gia đình làng chài. Việc
sông nước không ai có thể giỏi hơn Trần Minh Hồng được. Với Trần
Minh Hồng, cuộc sống là sông nước. Nhìn sóng có thể biết gió, nhìn tăm
có thể biết cá, nhìn nước có thể biết độ nông sâu. Có một lần, Trịnh Toàn
đang cùng Trần Minh Hồng khi đó còn là trợ lý tác chiến ở ban chỉ huy
tỉnh xuống kiểm tra đơn vị đồn ở cửa sông. Khi hai người đang đi trên con
đò. Trần Minh Hồng nhìn xuống sông nói.
- Ở đấy có con ba ba to lắm. Phải tới bốn năm cân.
Nghe Trần Minh Hồng nói thế, Trịnh Toàn không tin.
- Cậu chỉ được cái nói khoác.
- Thủ trưởng không tin em nói sao. Em đảm bảo một trăm phần
trăm.
- Thế cậu lấy gì bảo đảm để tôi tin cậu đây? Trịnh Toàn hỏi lại.
- Thủ trưởng nhìn cái tăm kia kìa.

119
Trần Minh Hồng chỉ tay về phía thượng nguồn, cách chiếc đò
khoảng năm sáu mét. Trịnh Toàn nhìn theo tay Trần Minh Hồng chỉ thấy
sóng và nước, chả thấy cái gì.
- Tớ chẳng nhìn thấy cái gì. Chỉ thấy mỗi tay cậu.
- Em nói mà thủ trưởng không tin em. Thôi được rồi. Bây giờ
thủ trưởng đánh cược với em nhé.
- Đúng là cái cậu này. Sao lại đánh cược ở đây. Đúng cũng thế
mà sai cũng thế. Có gì mà phải cược với không cược.
- Thì chẳng qua là em để chứng minh với thủ trưởng thôi.
Không thủ trưởng lại cho rằng em nói khoác.
- Ờ thì cược. Cậu cược gì?
- Nếu em đúng, chỉ xin thủ trưởng cho em về nghỉ tranh thủ một
tuần. À không. Ba ngày thôi cũng được. Còn nếu em sai. Thủ trưởng yêu
cầu gì em cũng làm. Bảo em lội sông dọc em cũng lội.
- Nếu cậu sai. Ai lại bắt cậu thế. Vi phạm điều lệnh kỷ luật à.
Mọi người biết chuyện lại cho rằng tớ gia trưởng, bắt chẹt cán bộ thì chết.
- Thôi được. Thủ trưởng không cược cũng được. Nhưng em sẽ
bắt nó lên cho thủ trưởng xem. Chả gì tối nay, thủ trưởng với em cũng
được bữa thịt ba ba nấu chuối cùng anh em ở đồn.
Nói rồi, Trần Minh Hồng cởi bỏ quần áo. Trịnh Toàn chưa kịp
gàn, chỉ kịp nghe một tiếng ủm thì Trần Minh Hồng đã nhảy xuống sông
không thấy đâu. Bác lái đò thấy thế sợ quá vội cắm sào giữ con đò lại.
Cũng rất nhanh, có lẽ vừa đủ một hơi lặn, cả Trịnh Toàn và bác lái đò
chưa kịp tĩnh tâm lại để xem phải làm gì vớt Trần Minh Hồng lên thì đã
thấy Trần Minh Hồng đưa một tay lên bám mạn đò, tay kia đỡ mai con ba
ba đang ngửa bụng lốm đốm hoa nhô đầu lên khỏi mặt nước. Trần Minh
Hồng rướn người dưới nước, quẳng đánh uỵch con ba ba vào lòng thuyền.
Nhìn con ba ba to bằng lòng cái mâm đồng, nằm ngửa bụng, bốn chân
giẫy giẫy cố lật người trở lại.
Leo lại đò, Trần Minh Hồng cười.
- Bây giờ thủ trưởng đã tin em nói chưa hay vẫn cho là em nói
khoác.
- Tớ tin rồi.
- Dưới đó còn mấy ổ ba ba nữa. Nhưng mấy con kia không to
bằng con này. Thủ trưởng có tin không?
Trịnh Toàn cười, trêu.
- Cậu ăn may bắt được con này. Được đà nói phét chứ gì?
- Thủ trưởng vẫn không tin, em lại xuống bắt cho thủ trưởng
xem nhé?
Thấy Trần Minh Hồng định nhún chân nhảy xuống thật. Trịnh
Toàn vội ngăn lại.
- Thôi thôi. Tớ tin rồi. Để cho mấy con đó lớn rồi bắt sau vậy.

120
- Vâng. Thì em nghe thủ trưởng để lại vậy. Khi nào mấy con đó
to như con này, em lại ra bắt về cùng thủ trưởng làm nồi ba ba chuối.
Cũng từ sau lần đó, cứ mỗi lần Trịnh Toàn và Trần Minh Hồng
có việc đi đò qua quãng sông này, thế nào tối đó mấy anh em cán bộ chiến
sĩ trong ban chỉ huy bộ lại được bữa thịt ba ba nấu chuối.
Cũng chính vì Trịnh Toàn biết thế nên ông muốn việc tiếp cận
và có thể làm quen, theo dõi được người như Trần Kiên thì phải là người
của sông nước. Với Trần Kiên, sau những biến cố của gia đình có khác gì
con chim sợ cành cong. Nhất là cái nhìn thiếu thiện cảm trong tiềm thức
đối với người trên bờ với người sông nước. Không chỉ Trần Minh Hồng
có khả năng về sông nước mà Trịnh Toàn còn tin vào khả năng năng lực
khi Trần Minh Hồng thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt, Trần Minh Hồng cũng
sẽ biết cách để không làm lộ chuyện với ai về mối quan hệ của ông với
Trần Kiên. Trịnh Toàn không muốn và không bao giờ muốn làm điều gì
tổn thương trái tim và tình bạn của Trần Kiên. Với Trịnh Toàn, những gì
đã qua, những gì Trần Kiên đã trải, đã gánh chịu cũng đã quá đủ với một
đời người.
Ngồi nghe Trịnh Toàn trao đổi, bàn bạc, tranh thủ xin ý kiến về
việc tạm thời kéo Trần Minh Hồng ra phục vụ cho chuyên án mà chính trị
viên thấy áy náy khó xử. Nếu đồng ý với Trịnh Toàn thì sẽ sai nguyên tắc.
Nếu không đồng ý thì có khi Trịnh Toàn lại cho rằng ông không thực sự
ủng hộ. Cái quan niệm quan văn quan võ đâu đã có thể xóa khỏi đầu dễ
dàng cho được. Trong một bộ phận cán bộ, nhận thức mấy ông cán bộ
chính trị chỉ được cái giỏi nói, làm thì kém không phải là không có. Chính
trị viên Song Hoa biết. Vẻ bên ngoài có thể mọi người có ý sợ và tôn
trọng cán bộ chính trị, chứ trong thực tâm mỗi người, họ chưa thật tâm
phục khẩu phục.
- Hay là chuyện này anh để tôi bàn thêm với các anh trong
Đảng ủy đã.
Nghe chính trị viên nói thế, nét mặt Trịnh Toàn buồn hẳn. Trịnh
Toàn không nói gì, lẳng lặng đưa tay lấy chén nước, đưa lên chạm môi rồi
lại đặt xuống.
- Tùy anh thôi. Tôi biết. Tôi cũng không muốn làm khó dễ cho
anh đâu. Nhưng thực lòng. Tôi không muốn ai biết rõ việc này như những
gì tôi nói với anh.
Chính trị viên Song Hoa biết Trịnh Toàn không vui lắm nhưng
nguyên tắc của công tác cán bộ không cho phép ông tự quyết được vấn đề
này. Công tác cán bộ xét cho đến tận cùng là công tác con người, vì con
người. Việc sắp xếp không thể tùy tiện. Nguyên tắc cao nhất trong hoạt
động của Đảng đó chính là tập trung dân chủ. Cấp ủy là cơ quan lãnh đạo
cao nhất giữa hai kỳ đại hội nhưng không vì thế mà cấp ủy đứng trên
Đảng bộ. Để đổi chủ đề, chính trị viên chủ động.

121
- Thôi được rồi. Về cơ bản tôi ủng hộ anh. Và tôi tin mọi người
sẽ ủng hộ anh.
Chào chính trị viên, Trịnh Toàn bước ra ngoài. Lấy hai ngón tay
búng vào nhau lách chách, lách chách.

25
NHIỆM VỤ MẬT

Trịnh Toàn rời khỏi phòng của chính trị viên Song Hoa về
phòng. Bây giờ đã gần 5 giờ sáng. Công việc cộng thêm mấy chén trà của
chính trị viên, Trịnh Toàn lên giường nằm nhưng không thể ngủ được.
Ông trằn trọc kiểm tra công việc bằng trí nhớ.

122
Việc đồn Mũi Ngọc thu giữ được chiếc mủng trôi dạt liệu có
liên quan gì đến bức mật điện của Ban chỉ huy Công an Trung ương? Từ
khu vực cửa biển đồn Mũi Ngọc đến khu vực làng chài của Trần Kiên
phải trải qua rất nhiều núi đá, eo, vụng? Liệu nó có quan hệ với nhau
không? Có thể trôi dạt hàng trăm ki lô mét thế không? Hay chiếc xuồng
kia là của một nhóm xâm nhập khác? Nếu có, chúng xâm nhập bằng
đường nào? Ở đâu? Số lượng kẻ xâm là bao nhiêu? Liệu có thể xảy ra tình
huống chúng tạo hiện trường giả, tung hỏa mù để đánh lạc hướng điều tra
và gây rối trong quá trình điều động lực lượng hay không? Ngay bây giờ,
bản thân ông cũng chưa dám khẳng định việc xâm nhập là bao nhiêu? Đi
theo đường nào? Phương thức hoạt động? Mục tiêu hoạt động? Địa điểm
hoạt động? Nếu thực sự có sự xâm nhập của hai ba toán vào dịa bàn như
thế này thì chúng có quan hệ với nhau không? Quan hệ liên lạc bằng con
đường nào? Hoạt động đơn tuyến hay đa tuyến? Rất nhiều, rất nhiều vấn
đề mà bắt ông phải ra quyết định.
Ngồi chắp nối các sự kiện, tâm trạng Trịnh Toàn không vui.
Việc quản lý bảo vệ biên giới biển như vậy là còn bộc lộ nhiều sơ hở, nếu
không nói là thủng. Tất nhiên Trịnh Toàn cũng hiểu rằng, trong thời kỳ
đầu, tất cả đều mới, anh em cán bộ chiến sĩ cơ bản chỉ có lòng nhiệt tình
mà chưa được đào tạo, chưa trải nghiệm qua tháng năm thực tế. Không
những thế, quân số mỏng, cả một phạm vi biển rộng như hàng trăm ki lô
mét vuông, nếu có giăng tay cũng không thể che kín. Trong khi đó, đối
phương lại tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để xâm nhập hoạt động. Kẻ địch
trong bóng tối, anh em cán bộ chiến sĩ công an lại ở ngoài sáng. Kẻ địch
chủ động trong các phương thức hoạt động, còn anh em cán bộ chiến sĩ,
dù chủ động trong phòng ngừa nhưng vẫn bị động khi đối phương xâm
nhập. Trang thiết bị theo dõi giám sát hoạt động quản lý còn nghèo nàn,
nếu không nói là con số không. Chủ yếu là người trần mắt thịt. Bàn tay
đâu có thể che kín bầu trời. Hiểu và chia sẻ những khó khăn nhưng Trịnh
Toàn vẫn cho rằng, nếu kẻ địch xâm nhập vào được địa bàn, trách nhiệm
chính vẫn thuộc về ông, thuộc về trách nhiệm của người quản lý điều
hành, bố trí lực lượng.
Công việc cần làm lúc này nhiều vô kể. Phải bắt đầu từ đâu.
Trong cả mớ công việc rối như bòng bòng phải tìm ra được đầu mối cốt
tử, quyết định. Từ đầu mối này mà lần, ra gỡ ra những đường dây, mắt
xích được giấu trong mớ bòng bong ấy. Đối phương chủ động thì ta cũng
phải chủ động. Chỉ có chủ động thì mới tạo ra được tính đột phá, đưa kẻ
địch từ thế chủ động sang bị động bị đánh trả. Chính khi kẻ địch bị động,
sẽ buộc phải tìm cách tránh, đây cũng là điều kiện, cơ hội làm cho kẻ địch
bộc lộ, lộ diện. Từ chỗ chủ động xâm nhập sẽ thành bị động phòng tránh,
lẩn trốn.

123
Có tiếng gõ cửa ngập ngừng. Không nhìn ra ngoài, Trịnh Toàn
đánh tiếng.
- Vào đi.
Trần Minh Hồng nhẹ nhàng mở cửa rồi cũng nhẹ nhàng khép
cánh cửa lại.
- Không cần khép nữa đâu. Để thế cho mát. Đến giờ báo thức
rồi còn gì?
Trần Minh Hồng với tay, mở lại cửa. Gió từ phía biển thổi vào
mang theo làn hơi nước mát rượi. Gió làm tóc trên đầu Trịnh Toàn lật
ngược ra một bên. Lấy tay vắt lại đám tóc, Trịnh Toàn chỉ tay xuống chiếc
ghế.
- Ngồi đi. Có chuyện gì sao? Chắc đêm qua không ngủ à?
- Vâng. Thủ trưởng bảo ngủ sao được.
- Sao không ngủ được. Phòng ngủ nhà khách kém quá, không
bằng đồn chứ gì?
- Không phải đâu ạ.
- Thế vì sao? Chắc lạ giường chứ gì?
- Dạ. Chắc thế.
Trịnh Toàn với tay lấy tích nước định đứng lên. Trần Minh
Hồng vội vàng.
- Thủ trưởng để em.
- Thôi. Cậu để tớ. Cậu cứ ngồi đấy. Để tớ pha chè cho cậu uống
xem có được như đồng chí công vụ của đồn không nhé?
Trần Minh Hồng cười.
- Chết. Thủ trưởng nói thế em tổn thọ mất.
- Vớ vẩn. Có gì mà tổn thọ.
Trịnh Toàn vừa xúc tích pha chè vừa nhìn Trần Minh Hồng.
- Tớ nói thật nhá. Các cậu pha chè vạ phí chè đi. Tớ pha mới
ngon. Các cậu quen thói được người ta hầu hạ rồi. Thói xấu nhất của đời
là chỉ thích có người hầu kẻ hạ. Cứ thấy mình to mà không thấy người
khác.
Nhấc ấm nước đang sôi, đổ vào chiếc tích, Trịnh Toàn quan sát
nét mặt của Trần Minh Hồng.
- Tớ ghét lắm đấy. Cái thói ghé đầu mình vào gần đèn, rồi nhìn
vào tường. Tự mình hô toáng lên: Ôi. Tôi vĩ đại quá.
Trịnh Toàn cười.
- Ở đời mắc bệnh gì cũng có thể chữa được. Sợ nhất bệnh cuồng
đấy. Mắc bệnh này là hết thuốc chữa.
Trần Minh Hồng ngồi nghe thủ trưởng nói chuyện, chỉ cười.
Trần Minh Hồng biết tính thủ trưởng. Nói thì nói thế, vui thì vui thế.
Nhưng công việc léng phéng là sẽ ủng tai nghe quát.

124
- Có chuyện gì nên mới lên phòng chỉ huy sớm thế này. Đúng
không? Nói tớ nghe xem nào? Đợi chè ngấm rồi ta uống. Chè mà chưa
ngấm, uống tanh lắm. Nhạt toẹt.
Trước khi bước vào phòng chỉ huy trưởng, Trần Minh Hồng có
biết bao nhiêu cái muốn nói, muốn trình bày. Ấy thế mà, đến bây giờ, tự
nhiên không biết nói thế nào. Thủ trưởng có biết bao nhiêu việc, mà toàn
việc quan trọng cả. Nói ra liệu thủ trưởng có đánh giá hay hiểu khác đi
không? Hôm qua ở phòng của chính trị viên, Trần Minh Hồng cũng đã
định nói rồi thôi.
- Có gì thì cứ nói đi. Lại chưa biết bắt đầu từ đâu hả?
- Dạ. Em định nói với chỉ huy trưởng điều này nhưng em nghĩ
lại rồi. Nó chả đáng gì với những việc thủ trưởng phải lo nghĩ. Nói ra vạ
làm các thủ trưởng thêm mệt, nhức đầu.
Nhìn Trần Minh Hồng, Trịnh Toàn cười cười.
- Các cậu nghĩ được thế là mừng rồi. À. Mà xem ra từ ngày làm
đồn trưởng cậu cũng biết nịnh rồi đấy nhỉ? Khéo ăn khéo nói quá. Có
phẩm chất làm chính trị đấy chứ.
- Ấy ấy. Em xin thủ trưởng. Em chỉ nghĩ sao nói thế. Em đâu
biết nịnh và biết nói khéo. Em chỉ quen với hô hét đánh đấm thôi.
Rót chén nước, đẩy về phía Trần Minh Hồng. Trịnh Toàn làm
mặt nghiêm.
- Cậu này ăn nói hay thật. Thế việc cậu làm không có chính trị
à. Làm cán bộ có nghĩa là làm chính trị. Chúng ta đang làm chính trị cả
đấy chứ. Đi làm cách mạng mà lại có cán bộ này cán bộ nọ là sao? Thế
cậu tưởng tôi ở đây không đánh đấm chắc. Cứ phải ra mặt đối mặt với
thằng địch mới là làm cách mạng chắc, mới xứng là cán bộ chắc. Đấy mới
đáng mặt anh hùng, hảo hán chắc. Các cậu chỉ được cái nghĩ tầm bậy, tầm
bạ.
Trần Minh Hồng tưởng Trịnh Toàn nói thật, anh tái mặt. Bụng
Trần Minh Hồng nghĩ. Cũng may, chưa nói. Nói ra có khi bị quy cho tư
tưởng chết toi.
- Thủ trưởng nói thế chứ em đâu dám nghĩ thế.
Nhìn nét mặt Trần Minh Hồng, Trịnh Toàn biết, Trần Minh
Hồng lo lắng, sợ bị đánh giá này khác. Trịnh Toàn đứng lên, đến sau, ông
đặt tay lên vai. Vỗ vỗ nhẹ. Trịnh Toàn vui vẻ.
- Tôi thử bản lĩnh của cậu chút thôi. Lính tráng gì mà bản lĩnh
yếu quá. Nào. Có chuyện gì nói cho nghe đi.
Lúc này thì mọi suy nghĩ trong đầu Trần Minh Hồng đều tan
biến. Trần Minh Hồng biết. Nếu có nói bây giờ thì cũng không ngại ngần
gì nhưng tự nhiên Trần Minh Hồng thấy những suy nghĩ trong đầu đêm
qua thật không đáng nói.

125
- Cậu lên chỗ tớ định xin vào trong chiến trường chứ gì? Đúng
không?
Trần Minh Hồng bị bắt đúng thóp, cười trừ.
- Vâng. Em định xin thủ trưởng cho em vào trong chiến trường
để đánh nhau thực sự. Chứ ở ngoài này, không được đánh nhau, người em
nó bứt rứt lắm.
Trịnh Toàn cười.
- Tớ nói thật nhá. Khi thấy cậu lên sớm thế này là tớ đoán ra
ngay. Khi nào trong chiến trường có yêu cầu, tổ chức sẽ điều động các
cậu. Còn bây giờ. Vui vẻ mà làm đi. Đừng có này nọ vớ vẩn nữa. Chưa có
chuyện đi hay không đi đâu. Ngoài này cũng cần lắm chứ.
- Thì em mới định đề đạt ý kiến, nguyện vọng với các thủ
trưởng chứ em đã có gì đâu. Mà em cũng chưa nói. Toàn các thủ trưởng
nói trước em đấy chứ.
- Giỏi. Cậu cũng bẻm mép nhỉ. Được. Dám đổ lỗi cho thủ
trưởng. Các cậu hãy đợi đấy.
Trịnh Toàn lại ghế ngồi. Ông chỉnh lại thế ngồi ngay ngắn,
nghiêm chỉnh như đang điều hành cuộc hội họp nào đấy chứ không phải
nói chuyện với cán bộ dưới quyền.
- Này. Tớ hỏi cậu cái này nhé?
- Dạ.
- Cậu là con nhà chài phải không nhỉ?
- Vâng. Em con nhà chài. Thủ trưởng biết rồi mà.
- Tớ biết rồi nhưng hỏi lại cho chắc. Nhà cậu chài sông hay chài
biển?
- Ối giời ơi - Tô Hồng Dân cười - Chỉ có chài sông chứ còn
biển ai gọi là chài.
- Thì thế tớ mới hỏi cậu. Nhưng mà…
Trịnh Toàn nói đến đây bỗng dừng không nói nữa. Cái giọng
ông ngập ngừng như có ý đắn đo điều gì đó. Ông nhìn Trần Minh Hồng
với cái nhìn như thăm dò. Trần Minh Hồng đoán, nghĩ thủ trưởng có việc
gì khó nói nên chủ động hỏi.
- Nhưng mà sao thủ trưởng?
- Giả sử như bây giờ, cho cậu đi biển. Cậu có thể đi biển được
không?
- Em đi ngon chứ thủ trưởng.
- Tốt. Có thể làm nghề đúng như dân biển chứ?
- Vâng. Em đi được. Mà có chuyện gì thế ạ?
- Tớ định giao cho cậu làm việc này. Tớ cũng đã xem lý lịch,
nghề nghiệp của gia đình. Song tớ còn đắn đo chút. Nhưng thấy cậu cam
đoan thế tớ yên tâm rồi.

126
Bây giờ thì Trần Minh Hồng lo lắng thực sự. Anh không biết
thủ trưởng nói thế là làm sao? Định giao cho anh việc gì? Nếu là nhiệm
vụ không quan trọng, chắc thủ trưởng không đến mức phải đắn đo tính
toán thế. Nhưng nếu là nhiệm vụ quan trọng thì là nhiệm vụ gì? Là người
lính, Trần Minh Hồng biết. Nhiệm vụ nào cũng quan trọng nhưng không
phải nhiệm vụ nào cũng có thể giao cho bất cứ ai.
- Nhiệm vụ gì đấy thủ trưởng? Em có thể biết được không ạ?
- Nhiệm vụ giao cho cậu thì cậu chả biết thì là sao? Nhưng thôi.
Sáng rồi. Đến giờ báo thức rồi đấy. Ăn sáng xong. Bao giờ họp tôi sẽ cho
cậu biết. Cậu cứ xác định là vất vả trước đi là vừa.
- Nhưng mà…
- Đúng là cái cậu này. Chưa gì đã rối lên.
Lấy tay vỗ nhẹ vào vai Trần Minh Hồng. Đoạn, Trịnh Toàn đặt
tay sau lưng, đẩy nhẹ Trần Minh Hồng ra ý về nhà nghỉ. Trịnh Toàn vui
vẻ.
- Yên trí. Phần cậu việc không nhẹ đâu.
Trần Minh Hồng bước đi, lấy hai tay gãi hai bên đầu. Trịnh
Toàn nhìn theo. Ông tủm tỉm cười.
Tiếng kẻng báo thức cũng bắt đầu vang lên phía ngoài cổng trực
ban.

26
CUỘC TÌNH MỘT ĐÊM VÀ KẺ GIẤU MẶT

Phan Lềnh nhìn theo bóng lão Tảng đi khuất rồi mới trở lại vào
trong hang. Trời mấy hôm nay có sương nên hơi nước bốc lên làm Phan
127
Lềnh khó chịu. Mùi ẩm mốc, mùi lá cây hoang oải, ngai ngái đến khó
chịu. Phan Lềnh cầm cái đèn pin nhỏ tin hin dò dẫm từng bước chui vào
hốc đá định nằm. Phan Lềnh tung túi dù thò chân vào trong. Khi cái mép
túi vừa chạm đến cổ thì Phan Lềnh tự nâng hai chân lên cao, lấy tay túm
lớp trong của chiếc túi, kéo cho sát chân. Nằm thế được một lúc, Phan
Lềnh không chịu nổi mùi lá cây mục, mũi cứ định hắt hơi. Phan Lềnh
đành phải kéo cái miệng túi trùm qua đầu…
Phan Lềnh thấy mình đang ở trong ngôi nhà nằm trong con
hẻm. Phan Lềnh cũng không biết được đây là con phố có tên là gì? Con
hẻm có ngôi nhà này có tên hẻm gì? Từ hôm chuyển từ trại tập trung về
đây, Phan Lềnh không được phép ra khỏi cửa. Hằng ngày Phan Lềnh chỉ
có mỗi việc chuyển các chữ viết thành các kí hiệu theo bảng quy định mà
chỉ có Phan Lềnh biết. Các bảng ký hiệu này có rất nhiều loại mà Phan
Lềnh chỉ biết người có tên gọi là Bình đưa cho.
Người duy nhất Phan Lềnh được gặp trong suốt thời gian ở con
hẻm có tên là Bình, ấy cũng là cái tên do ông ta bảo với Phan Lềnh như
thế. Với Phan Lềnh, cái tên để gọi, để phân biệt người này với người khác
chứ nó chẳng có quan trọng gì. Bảo tên là Bình. Ừ thì gọi là Bình.
Bình có dáng người to, đậm, trắng trẻo, mái tóc luôn chải mượt
về sau. Nếu chỉ nhìn bên ngoài, Bình không khác gì một công chức nhỏ.
Quần áo là lượt, lúc nào cũng thẳng ly. Ban đầu, mới gặp, Phan Lềnh
cũng cứ nghĩ Bình là người làm công chức bình thường được trung tâm
đưa đến để tiếp tế lương thực, thực phẩm. Bình nói năng nhẹ nhàng, khúc
chiết, miệng nói chuyện rất có duyên, hay cười. Nụ cười của Bình không
có tiếng, cứ âm âm trong miệng. Còn tiếng nói thì dù rất nhẹ nhưng đầy
quyền uy và kiên quyết. Phan Lềnh có cảm giác trong tiếng nói của Bình
có hàng trăm hàng nghìn mũi dao lách từng tý một tý một vào trong cơ
thể người. Cái đau không quằn quại mà nhức buốt. Thậm chí chỉ thấy rát
thì máu đã trào ra như con lợn bị chọc tiết. Lúc nào đến gặp Phan Lềnh,
Bình cũng đeo đôi kính đen, có đôi gọng to bản. Đôi mắt kính gần như
trùm kín hết nửa khuôn mặt. Có một lần, không biết thế nào, khi đang
ngồi nói chuyện với Phan Lềnh, Bình kéo đôi mắt kính trễ xuống. Giấu
sau đôi mắt kính đen là đôi lông mày to rậm. Mỗi khi Bình đến thường
nói rất ít mà chỉ hỏi và nghe. Sau nghe là yêu cầu việc cần làm tới là gì,
làm như thế nào. Tuy miệng Bình như cười nhưng Phan Lềnh biết, đó
chính là mệnh lệnh. Nếu như chỉ trái ý thì sự đánh đổi chính là tính mạng,
là cái chết.
Sau khi Phan Lềnh nhắm mắt có thể chuyển các chữ viết thành
các kí hiệu không sai một nét, Bình đến. Sau khi tự kéo cái ghế ngồi sát
bên Phan Lềnh. Bình tự tay với chai rượu rót ra hai ly rồi tự tay đưa Phan
Lềnh một ly.
- Hôm nay chắc anh nắm hết được các kí hiệu rồi nhỉ?

128
- Vâng.
- Anh thấy có khó lắm không?
- Cũng bình thường.
- Tốt.
Bình đưa mắt nhìn khắp căn phòng như người mới đặt chân đến
lần đầu.
- Mấy tháng qua chắc anh buồn lắm hả?
- Dạ. Cũng bình thường.
Bình nhếch mép cười. Cái cười không ra ngụ ý coi thường mà
cũng không có ý đánh giá cao. Bình nhìn xoáy vào mặt Phan Lềnh. Phan
Lềnh có cảm giác Bình đang đo đếm từng mụn nốt ruồi trên mặt mình.
- Anh người quê Quảng Ninh phải không?
- Dạ. Phải. Tôi đã ghi khai rõ trong bản tường trình rồi mà.
- Tôi đọc rồi. Tôi hỏi lại anh chút vậy thôi.
Ngừng đoạn, Bình nói rất nhỏ. Phan Lềnh có cảm giác tiếng nói
chỉ kịp phát ra khỏi miệng Bình thì nó đã bay biến đi mất.
- Tôi cũng người ngoài đó. Quê gốc tôi Kim Sơn, Ninh Bình.
- Thế ạ. Thế mà nay tôi mới được biết.
- Ừ. Tôi vào từ một chín năm tư. Nay biết cũng được chứ sao.
Sớm hay muộn thì có gì quan trọng.
Mặc dù Bình vừa nói, miệng vừa cười vui vẻ, thân thiện nhưng
Phan Lềnh vẫn có cảm giác lành lạnh nơi sống lưng. Phan Lềnh thấy làm
ngạc nhiên. Không biết làm sao tự nhiên nay Bình lại nói nhiều và bộc lộ
nhiều đến thế. Phan Lềnh đang nghĩ những lúc như thế này im lặng là tốt
nhất. Sự im lặng cũng là sự khích lệ người đang nói sẽ nói tiếp. Nhưng
không. Cái ý nghĩ ấy Phan Lềnh chưa kịp hết thì Bình đã chủ động ngắt,
chuyển sang chuyện khác.
- Thôi. Nếu anh nắm chắc hết rồi thì bữa nay nghỉ ngơi đi chút.
Hôm nay tôi nói cũng nhiều với anh rồi.
Dứt lời, Bình đưa hai tay lên vỗ vào nhau. Khi Bình vừa dứt
tiếng vỗ, ở cửa đã có người đàn bà đi vào. Người đàn bà hai tay buông
theo chiều đứng, hai bàn tay đan vào nhau.
- Dạ. Thiếu tá cho gọi em.
- Nhớ chăm sóc cho chu đáo nghe.
- Dạ. Em biết.
Bình chỉ tay vào Phan Lềnh, mắt nháy nháy cười ra hiệu. Phan
Lềnh chưa kịp hiểu chuyện gì thì Bình đã bước ra khỏi cửa. Cánh cửa
phòng đã khép lại.
Với tay rót rượu ra ly, Phan Lềnh ngửa cổ dốc một hơi hết luôn.
Ngồi thừ người ra một lúc Phan Lềnh vẫn chưa tin vào tai mình. Phan
Lềnh thật sự không thể tưởng tượng được người mà mấy tháng nay tiếp
xúc trông chỉ như một công chức quèn mà là một thiếu tá. Một con người

129
mà có thể dám làm những việc cho người ta sống thì được sống, bắt chết
là phải chết.
Người đàn bà đến sát bên người Phan Lềnh, lấy hai tay quàng
qua cổ, cúi sát mặt bên má. Phan Lềnh thấy cả hơi ấm phả ra từ hơi thở
của người đàn bà. Mái tóc mềm, đen, dày xòa xuống, phủ kín bên ngực
Phan Lềnh. Người đàn bà ép hai bầu vú vào sau lưng, chỗ vai của Phan
Lềnh. Người đàn bà cố tình đưa hai bầu vú chà qua chà lại trên người
Phan Lềnh.
- Anh hai có chuyện chi mà buồn dữ vậy?
Phan Lềnh không nói gì. Người đàn bà luồn tay vào trong người
Phan Lềnh. Hai bàn tay xoa nhẹ lên ngực, lên hai vú của Phan Lềnh.
Thỉnh thoảng người đàn bà lại lấy ngón tay, vê vê nhè nhẹ hai đầu vú,
miệng cắn cắn nhấm nhấm nhẹ nhẹ vào vành tai của Phan Lềnh.
- Anh hai không thích em sao? Em mà không làm cho anh hai
thích là ngài thiếu tá lại quở trách em đó.
Nghe thấy người đàn bà nhắc lại hai từ thiếu tá, Phan Lềnh chợt
tỉnh. Cái nháy nháy mắt của Bình ra hiệu cho Phan Lềnh trước khi bước
ra cửa là ý nói điều gì? Phan Lềnh thấy chột dạ. Cố gắng lấy lại bình tĩnh,
Phan Lềnh đưa tay xoa xoa, vuốt vuốt lên hai cánh tay trần của người đàn
bà. Cái cảm giác mát, mịn từ xác thịt của người đàn bà truyền sang Phan
Lềnh. Người đàn bà nhẹ nhàng xoay người, trườn nghiêng hẳn người về
phía trước Phan Lềnh. Hai tay người đàn bà ghì chặt lấy cổ Phan Lềnh.
Hai bầu vú của người đàn bà lúc này như ép chặt vào ngực Phan Lềnh.
Người đàn bà ưỡn người, nâng bầu vú lên như cố ý đưa bai bầu vú vào sát
khuôn mặt của Phan Lềnh. Lúc này thì Phan Lềnh thấy nóng bừng bừng,
các cơ trong cơ thể của Phan Lềnh căng cứng.
Người đàn bà nhẹ nhàng xoay người trong lòng Phan Lềnh. Khi
hai khuôn mặt đã gần như áp sát vào nhau thì bất ngờ người đàn bà đứng
lên, cài hai chân vào giữa hai chân của Phan Lềnh. Người đàn bà ép hai
bầu vú vào mặt, chà hai núm vú lên mũi rồi từ từ trượt xuống miệng Phan
Lềnh. Phan Lềnh lấy hai tay, ghì chặt lấy thân người đàn bà. Cả tấm thân
người đàn bà dính chặt vào người của Phan Lềnh. Tiếng thở, tiếng rên nhè
nhẹ của người đàn bà làm Phan Lềnh thấy ngạt thở, rạo rực.
- Anh hai bế em lên giường đi?
Phan Lềnh bế bổng người đàn bà trên tay. Người đàn bà cũng
lấy tay ôm chặt cổ, rồi hôn nhẹ lên cổ, lên má Phan Lềnh. Cái cảm giác
xác thịt của loài đực và loài cái trỗi dậy. Phan Lềnh nhẹ nhàng đặt người
đàn bà lên giường. Tiếng thở gấp gáp của loài đực, tiếng rên rỉ sung
sướng của loài cái, tiếng không khí nén hơi phả ra nhè nhẹ như gió từ
chiếc đệm lò so. Tất cả các âm thanh của niềm giao hoan cuộn vào nhau
theo nhịp nhún của chiếc đệm lò so khi lên khi xuống.

130
Phan Lềnh lật người nằm kề bên người đàn bà. Người đàn bà
nghiêng người, một tay vắt qua người Phan Lềnh, truồi đầu lên hôn nhẹ
lên ngực, lên vú, tay kia xoa xoa trên người Phan Lềnh. Phan Lềnh nhắm
nghiền hai mắt, lim dim. Phan Lềnh lấy tay, nâng nhẹ đầu người đàn bà
lên, luồn tay xuống dưới gáy. Người đàn bà lật người, giấu mặt vào bên
nách Phan Lềnh.
- Lúc trước, em gọi ông Bình là thiếu tá phải không?
- Dạ. Ổng là thiếu tá đó anh hai. Ủa. Anh hai không biết ổng là
thiếu tá sao?
Phan Lềnh không trả lời câu hỏi của người đàn bà. Trong đầu
Phan Lềnh lúc này như trống rỗng, không nghĩ ra được điều gì.
- Em có biết ông Bình là thiếu tá gì không?
- Ổng là thiếu tá chi em hổng biết. Mà biết là chết liền à. Em chỉ
thấy mấy đứa nhỏ bạn em kháo nhỏ với nhau thế thôi.
Người đàn bà vẫn lấy hai tay vê vê đầu vú Phan Lềnh. Phan
Lềnh nhận rõ hơi thở từ người đàn bà phả vào bên má man mát.
- Nghĩ làm chi cho già người anh hai. Anh hai cứ thấy vui bên
em là được à. Mà anh hai có điều chi lo lắng sao?
- Đâu có. Bên em là anh thấy vui rồi mà.
- Anh hai nói thiệt đó nghen?
- Thật chứ sao. Thế em tên là gì?
- Dạ. Em tên Thơm. Anh hai hỏi làm chi?
- Tên là Thơm. Thảo nào em thơm quá.
- Xạo dữ quá ta.
Người đàn bà nói rồi lấy miệng ngậm hai vú Phan Lềnh nhấm
nhấm.
- Em có biết đây là chỗ nào không?
- Dạ.
- Em không biết sao?
- Dạ. Em biết.
- Thế đây là chỗ nào?
- Dạ. Anh hai hỏi khó em quá. Em biết nhưng ổng thiếu tá
không cho em nói.
- Sao lại không cho em nói?
- Dạ. Em đâu biết. Ổng chỉ nói em chiều anh hai thôi. Anh hai
thấy vui là em vui rồi. Anh hai mà không vui thì em mới sợ. Mà anh hai
lâu nay không có ai phải không?
- Sao em biết?
- Thì em thấy anh hai làm dữ quá. Suýt nữa em ngạt thở luôn à.
- Thế hả. Thế em không thích sao?
- Dạ. Thích. Có mấy người được như anh hai.
- Thế em chiều anh hết đêm nay nghe?

131
- Dạ. Anh hai thích em lúc nào em cũng chiều mà. Đêm nay là
đêm em của riêng anh hai mà.
Phan Lềnh hơi xoay người, nằm nghiêng về phía người đàn bà.
Phan Lềnh quàng tay qua người rồi lật người đàn bà nằm nghiêng, úp mặt
về phía Phan Lềnh. Mùi thơm từ thân thể người đàn bà toát ra. Phan Lềnh
ôm chặt lấy người đàn bà. Tiếng rên nhẹ của người đàn bà đầy quyến rũ
và hấp dẫn. Nó như mùi hoa dẫn dụ loài ong tìm đến để hút nhụy. Thứ
nhụy thơm làm cho loài ong hút mãi mà không biết chán, vỗ cánh bay mãi
mà không biết mệt. Đã lâu lắm rồi, từ khi Phan Lềnh khoác chiếc tay nải
cắt rừng, rẽ sương mà đi cho đến hôm nay mới được gặp lại thân xác của
đàn bà. Cái hương của con cái mà không mấy người đã một lần hưởng rồi
có thể quên được. Phan Lềnh ghì chặt, ôm chặt người đàn bà trong tay.
Phan Lềnh nghe thấy rõ cả tiếng kêu khe khẽ trong ngực. Người đàn bà
cũng ghì siết Phan Lềnh trong tay. Phan Lềnh mệt, thở dốc, người bễ bã,
bủn rủn. Phan Lềnh buông tay, cố giẫy ra khỏi vòng tay của người đàn bà
đang siết chặt lấy mình…
Phan Lềnh vung tay thoát ra. Phan Lềnh thấy hai tay như có vật
gì níu giữ, khóa chặt lại. Vùng mạnh. Bàn tay Phan Lềnh đập vào trần hốc
đá đau điếng. Phan Lềnh nhoài người, lấy hai tay đẩy vật đang trùm kín
mặt xuống ngang ngực. Gỡ miệng chiếc túi ra khỏi đầu, Phan Lềnh hít
một hơi thật sâu rồi thở mạnh ra. Phan Lềnh lấy tay sờ sờ lên mu bàn tay
đau vừa bị đập lên trần hốc đá. Phan Lềnh giật mình, nhận ra. Phan Lềnh
đang nằm trong chiếc túi dù, trong cái hốc đá ở núi Bái. Phan Lềnh thấy
người đau ê ẩm. Trở mình, Phan Lềnh đưa tay tìm chiếc đèn pin nhỏ tin
hin đặt trong khe đá phía đầu chiếc túi dù. Phan Lềnh nghe thấy tiếng
khìn khịt như người bị xoang mũi phía bên dưới. Chiếu đèn xuống. Phía
dưới hốc, ngay trên nền hang, đôi rắn sọc xanh, sọc vàng đang cuốn lấy
nhau trong mùa động tình.
Phan Lềnh định chui ra lấy hòn đá nhưng rồi thôi. Phan Lềnh
đưa tay xem đồng hồ. Bây giờ mới nửa đêm. Phan Lềnh bỗng nhớ đến lão
Tảng nói sáng mai hai thằng Đô, thằng Đồ sẽ lên trên này gặp. Phan Lềnh
bỗng giật mình. Hai thằng Đô, thằng Đồ mà vào đây thì có khi bất lợi.
Chúng mà cứ đi ra đi vào mãi trong chỗ này thì thế nào cũng có người
biết. Không thể cho chúng vào đây được. Ngày mai Phan Lềnh phải đón
gặp chúng trong rừng, trên con đường vào hang. Như chợt nhớ ra điều gì,
Phan Lềnh xoay người, soi đèn pin lấy ra một vật có hình tròn, dài cỡ một
cánh tay rồi như con rắn, trườn xuống, ra ngoài cửa hang. Phan Lềnh chọn
một mô đá làm điểm đứng rồi giật nút. Ống tròn vuột khỏi tay, lao vút đi
lên trên các lùm cây.
Xong việc, Phan Lềnh quay vào hang, trườn người lên hốc đá,
chui mình vào trong chiếc túi dù.

132
27
XẾP THẾ CỜ

133
Đợi cho mọi người ngồi yên vị, Trịnh Toàn mới nhìn khắp lượt
như có ý điểm danh từng người. Trịnh Toàn đứng lên chậm rãi nói từng
tiếng.
- Hôm nay, ban chỉ huy công an vũ trang tỉnh cho triệu tập các
đồng chí về đây để triển khai một nhiệm vụ gấp. Trước khi triển khai
nhiệm vụ, tôi xin giới thiệu, chính trị viên Song Hoa sẽ thay mặt cho
Đảng ủy quán triệt trước đến các đồng chí chỉ thị của Ban chỉ huy công an
vũ trang Trung ương. Sau khi đồng chí chính trị viên quan triệt xong chỉ
thị của Ban chỉ huy công an vũ trang Trung ương, tôi sẽ phổ biến kế
hoạch cụ thể đến từng đơn vị, từng đồng chí.
Quay qua chính trị viên Song Hoa, Trịnh Toàn đưa tay về phía
trước.
- Xin mời anh Song Hoa có ý kiến trước các đồng chí.
Chính trị viên Song Hoa đứng lên. Ông đưa mắt khắp lượt. Mọi
người mở sổ đặt ngay ngắn trước mặt.
- Hôm nay, tôi thay mặt cho Thường vụ, Đảng ủy sẽ quán triệt,
phổ biến trước các đồng chí về chỉ thị của Ban chỉ huy công an vũ trang
Trung ương. Nội dung ngắn nhưng lại rất quan trọng. Nó yêu cầu mỗi cá
nhân phải xác định rõ trách nhiệm, phải cố gắng hết sức mới có thể hoàn
thành được nhiệm vụ.
Chính trị viên đánh giá nhanh đặc điểm tình hình của toàn đơn
vị trong thời gian qua. Sau đó ông đánh giá kết quả thắng lợi thực hiện
nhiệm vụ của các đơn vị, những mặt làm được những mặt còn tồn tại yếu
kém. Ông chỉ rõ nguyên nhân của kết quả thắng lợi cũng như nguyên
nhân của từng tồn tại, hạn chế, yếu kém. Chính trị viên Song Hoa nhấn
mạnh.
- Những hạn chế cơ bản của các đơn vị là biểu hiện chủ quan.
Chủ quan không chỉ biểu hiện bên ngoài mà đã ở trong ý thức của một vài
cá nhân. Chúng ta đã giành được thắn lợi. Chúng ta đã có chính quyền.
Nhưng kẻ thù vẫn còn đó. Một nửa nước còn nằm trong ách áp bức của
thực dân, nằm trong sự kìm kẹp, bóc lột, đàn áp của kẻ thù. Lạc quan là
cần thiết. Nhưng lạc quan quá thành lạc quan tếu thì trở thành sự nguy
hiểm. Khi trong tư tưởng chỉ thấy thắng lợi, chỉ thấy thuận lợi thì nhất
định khi triển khai hay tiến hành các hoạt động sẽ sơ hở. Điểm sơ hở đó
sẽ là nơi để kẻ địch khoét sâu vào khai thác phá chúng ta từ trong.
Chính trị viên Song Hoa phân tích từng yếu tố mà kẻ địch có
thể lợi dụng để chống phá. Ông đưa mắt quan sát từng người rồi ông nhấn
mạnh sang nội dung khác. Sau mỗi nội dung ông lại quay hỏi mọi người
- Có đúng thế không các đồng chí?
Ngồi nghe chính trị viên quán triệt mọi người giật mình. Quả
thật là trong giai đoạn qua, trong đơn vị ai cũng có lúc này lúc khác có
biểu hiện mất cảnh giác. Ngay yếu tố nắm tình hình địa bàn của các đơn

134
vị còn lỏng lẻo, thậm chí có nơi còn chưa thật sự quan tâm và đánh giá
đúng mức độ cần thiết trong công tác nắm địa bàn. Không những chỉ nắm
địa bàn mà ngay công tác quản lý các đối tượng sưu tra, hiềm nghi cũng
còn chưa được chú trọng. Trên tất cả các mặt công tác đều có những sơ hở
nhất định. Tất nhiên, có cái các đơn vị biết nhưng do lực lượng quá mỏng,
con người quá ít nên chưa đủ sức để vươn ra nắm chắc các nội dung hoạt
động. Yếu tố khách quan là thế song xét cho đến cùng thì vai trò chủ quan
của cấp ủy chỉ huy mỗi đơn vị cũng chưa thật sự phát huy hết trách
nhiệm.
Chính trị viên Song Hoa phân tích, mổ xẻ tiếp. Giọng chính trị
viên vẫn nhẹ nhàng, điềm đạm, mềm dẻo, không có biểu hiện gì của sự
nóng nảy hay bực tức.
- Tôi biết, cả Thường vụ, Đảng ủy biết. Hiện tại, các đồng chí
còn gặp rất nhiều khó khăn. Song dù khó khăn như thế nào, dù tác động
của đời sống ra làm sao thì tất cả những yếu tố đó chỉ là khách quan. Còn
cơ bản đều do yếu tố chủ quan quyết định. Mác cũng chỉ ra rằng. Yếu tố
khách quan chỉ đóng vai trò quan trọng. Còn yếu tố chủ quan mới đóng
vai trò quyết định. Vai trò chủ quan là từ chính chúng ta đang ngồi đây.
Đưa tay lấy chén nước, chính trị viên nhấp nhấp rồi ông tiếp.
- Tôi dám nói rằng, trong thời gian qua, biên giới của chúng ta
thủng. Công tác quản lý của chúng ta hở.
Chính trị viên quay sang phía chỉ huy trưởng Trịnh Toàn.
- Lát nữa đồng chí chỉ huy trưởng ban chỉ huy công an vũ trang
tỉnh sẽ nói cụ thể với các đồng chí. Nhưng có lẽ, các đồng chí ngồi đây,
không ai nghĩ trên địa bàn của chúng ta đã có kẻ xâm nhập. Kẻ xâm nhập
đã xâm nhập được vào địa bàn, dù có xâm nhập vào bằng đường nào thì
mỗi người ngồi đây cũng phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân
dân. Chúng ta đã làm không tròn bổn phận và trách nhiệm được giao. Xét
rộng ra, đây không chỉ là trách nhiệm mà là niềm tin. Niềm tin của Đảng,
của nhân dân gửi gắm vào mỗi chúng ta. Các đồng chí nghe nói thế, có
thể cho là tôi thích nói lên như thế. Nhưng không phải đâu. Các đồng chí
khi nào cứ ngồi rồi ngẫm nghĩ xem tôi nói thế có quá không nhé.
Trần Minh Hồng ngồi nghe mà lòng như có lửa đốt. Anh không
biết khi tối, chỉ huy trưởng nói với anh để sáng nay sẽ nói. Không biết
chuyện chỉ huy trưởng định nói có liên quan gì đến chuyện này không?
Bản thân anh, rồi đơn vị anh có liên quan gì không? Trần Minh Hồng đưa
mắt nhìn chỉ huy trưởng. Anh thấy nét mặt ông vẫn thế. Không có biểu
hiện gì là lo lắng cả. Cứ bình thản như không. Trần Minh Hồng đưa mắt
quan sát mọi người. Trên nét mặt của ai cũng lộ rõ sự lo lắng của trách
nhiệm.
Trong khi ngồi nghe chính trị viên quán triệt nghị quyết, chỉ thị
lãnh đạo của đơn vị và cấp trên, Trịnh Toàn vẫn biết rằng, Song Hoa rất

135
có tài hùng biện. Vẫn biết tài của chính trị viên Song Hoa như thế nhưng
ông không nghĩ, chỉ mới có chút trao đổi của ông với Song Hoa mà Song
Hoa có thể lý giải mọi vấn đề cụ thể đến mức như thế được. Những vấn
đề Song Hoa đưa ra, Trịnh Toàn có cảm giác nắm được, sờ được, chứ
không chỉ là câu chữ nghị quyết đơn thuần. Có ai đó đã nói. Sức mạnh
của nghị quyết chính là tính cụ thể và sức thuyết phục trong từng câu chữ
mà người nghe không chỉ hiểu được mà còn có thể làm được và làm một
cách chính xác. Còn nội dung, câu chữ nghị quyết chung chung thì bản
thân nghị quyết đó sẽ làm cho sức mạnh và khả năng lãnh đạo của chính
nghị quyết đó rơi vào quên lãng và không thuyết phục, dẫn con người đến
cái vô định. Chả khác gì người mù đi trong rừng. Đảng lãnh đạo bằng
nghị quyết. Nhưng đường lối, nghị quyết đó không chỉ được hướng đi,
không chỉ được đường đi thì có khác gì dắt người mù vào rừng rồi bỏ đó.
Nghe chính trị viên nói, Trịnh Toàn thỉnh thoảng lại gật gật đầu thán
phục. Trịnh Toàn nghĩ. Riêng cái khả năng vận dụng thực tiễn vào trong
lý luận để làm rõ cho những luận điểm đưa ra thì Trịnh Toàn còn phải học
nhiều nữa mới có thể làm được.
Nghĩ thế rồi Trịnh Toàn lại nghĩ. Làm công tác Đảng, công tác
chính trị mới cần thế. Bản thân ông, lính chiến, chỉ cần đánh đấm. Cứ
đánh cho tốt, cứ nện cho thắng lợi là được. Đánh giỏi, giành thắng lợi
cũng là thực hiện thắng lợi nghị quyết rồi. Bất giác Trịnh Toàn cười mỉm.
Trịnh Toàn nhận ra, ông đang tự biện hộ cho nhược điểm của chính mình.
Tự khen mình. Cái điều mà ông hay nói với cán bộ dưới quyền, mèo khen
mèo dài đuôi, mẹ hát con khen hay, cái lối tự mình kêu toáng lên: Ối giời
ơi. Tôi giỏi quá. Mình khen mình quá.
Trịnh Toàn ngồi nghe nhưng đầu óc cứ nghĩ đi những đẩu
những đâu. Trong số bạn bè, đồng chí, Trịnh Toàn vẫn biết khả năng của
họ và luôn trân trọng những suy nghĩ của mỗi cá nhân. Trịnh Toàn biết,
trong cuộc đời không phải ai, lúc nào nói cũng đúng. Khi họ nói ra, đó là
nhận thức của họ ở giai đoạn đó, lúc đó. Nhận thức là cả quá trình. Nhưng
quá trình đó nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào khả năng của chính người
đó. Khả năng ấy nó được tích lũy đúc rút từ những trải nghiệm, từ những
lý luận, từ tư duy phân tích đánh giá. Con người tốt hay xấu, thiện hay ác,
hiền lành hay hung dữ, tử tế hay bất nhân đều phải bộc lộ qua hành động.
Và cũng chỉ qua hành động mới có thể đánh giá nhận xét được. Hiện
tượng nào phản ánh bản chất đó. Ấy là lý luận dạy thế, nói thế. Song có
nhiều khi hiện tượng bộc lộ ra bên ngoài lại đánh lừa bản chất. Cái xấu nó
như bóng đêm, thay hình đổi dạng thường xuyên và liên tục. Nó có tài ẩn
nấp, trú tránh mà nếu không tỉnh táo, không khách quan sẽ dễ nhầm lẫn.
Và khi đó, chính cái nhìn nhận thiếu khách quan, thiếu chính xác đó đã
trở thành thứ tiếp tay cho cái xấu.

136
Rồi bất ưng Trịnh Toàn lại nhớ đến Trần Kiên. Nói rằng Trịnh
Toàn không đủ niềm tin với Trần Kiên cũng không đúng. Nhưng nói rằng
không còn tin Trần Kiên cũng không phải. Trịnh Toàn thật sự lúng lúng
không biết làm thế nào để có thể khẳng định được Trần Kiên, cái thằng
bạn một thời của ông vẫn như xưa. Bao ngày nay lúc nào trong đầu Trịnh
Toàn cũng cứ lởn vởn hình ảnh Trần Kiên. Thái độ không ra thân mà
cũng chẳng ra sơ ấy của Trần Kiên nói điều gì?
- Xin mời đồng chí chỉ huy trưởng thay mặt Thường vụ Đảng
ủy phổ biến triển khai kế hoạch tác chiến tới.
Giật mình nghe tiếng chính trị viên giới thiệu, Trịnh Toàn dứt
khỏi những suy nghĩ còn lởn vởn trong đầu. Đứng lên, nhìn lướt qua cuốn
sổ vẫn mở đặt trước mặt, Trịnh Toàn nhìn lại toàn cảnh hội nghị rồi chậm
rãi.
- Các đồng chí đã nghe đồng chí chính trị viên phổ biến, quán
triệt chỉ thị, nghị quyết của trên và của Đảng ủy. Tôi chỉ xin nhấn mạnh
một số nội dung công việc trước mắt để tập trung thực hiện những vấn đề
trong nghị quyết đã đưa ra. Để các đồng chí có cái nhìn thật đầy đủ về
tình hình thực tế công tác quản lý địa bàn và khả năng xảy ra, tôi xin đọc
bức điện mật của Ban chỉ huy công an vũ trang Trung ương gửi các đơn
vị trên toàn tuyến. Tôi cũng sẽ cho các đồng chí biết chuyện gì, việc gì
đang xảy ra ở trên địa bàn của chính mình.
Tất cả cán bộ ngồi bên dưới nghe chỉ huy trưởng chỉ ra từng
vấn đề, từng yếu tố căn cứ để đánh giá, nhận định ai cũng bồn chồn lo
lắng, nét mặt người nào người nấy căng thẳng. Từ bức điện mật của ban
chỉ huy công an vũ trang trung ương đến chuyện chiếc bơi chèo ở khu vực
bãi làng Vàng mà ngư dân có được. Rồi chiếc thuyền anh em ở đồn Mũi
Ngọc thu được khi đi tuần trên biển. Hiện tượng hang ma có ma trở lại.
Những bức điện tín bí mật phát trùng vào bản tin thời sự của đài tiếng nói
mà bộ phận trinh sát thu được. Bản chất của các hiện tượng trên là gì? Có
cái gì đằng sau những hiện tượng trên? Bức màn bí mật của chúng nằm ở
đâu? Những vấn đề được Trịnh Toàn đưa ra ngắn gọn song thực sự là vấn
đề nhức nhối mà mọi người phải tìm lời giải đáp.
- Tôi yêu cầu trong thời gian ngắn nhất, các đơn vị phải làm
ngay mấy nội dung sau…
Trịnh Toàn ngừng nói, như để cho số cán bộ có mặt có đủ thời
gian ghi chép lại từng việc.
- Thứ nhất, ngày mai, ngày kia. Tất cả các đơn vị phải có báo
cáo đầy đủ danh sách các đối tượng nằm trong diện sưu tra về ban trinh
sát. Sau khi nhận được báo cáo, ban trinh sát phải tổng hợp ngay, sàng lọc
các đối tượng báo cáo chỉ huy. Đặc biệt, các đơn vị chú ý đến các đối
tượng thành phần có nợ máu với cách mạng, bất mãn, bản thân có thâm
thù giai cấp nhất là những đối tượng gia đình có vấn đề trong cải cách.

137
Thứ hai, các đơn vị đồn Mũi Ngọc, đồn Bãi Vàng, đồn Yên Hồng phải kết
luận làm rõ nguyên nhân các vật, hiện tượng xảy ra trên địa bàn. Phải trả
lời cho ban chỉ huy biết chính xác, cụ thể. Những vật đó ở đâu? Địa
phương nào? Người thu giữ được có liên quan gì đến không? Quan hệ,
thân nhân, gia đình của người đó? Các mối quan hệ của họ ra làm sao?
Với những ai?
Nói đến đây, Trịnh Toàn đưa tay lên vuốt mấy sợi tóc đang bay
phơ phất trước mặt. Trịnh Toàn cũng có ý nghe phản ứng từ bên dưới về
những vấn đề vừa nêu.
- Đây chính là ba mũi tập trung chính. Yêu cầu các đơn vị tập
trung toàn bộ lực lượng có trong tay để giải quyết dứt điểm.
Quay sang bên phía trưởng ban trinh sát, Trịnh Toàn nhắc.
- Ban trinh sát, tập trung mọi khả năng, bằng mọi giá giải mã
cho được tín hiệu sóng lạ thu được. Nếu không tự giải quyết được, điện
yêu cầu Ban chỉ huy công an Trung ương giúp đỡ. Càng nhanh càng tốt.
Đồng thời, tập trung theo dõi, giám sát hai bốn trên hai bốn giờ tần số
trên. Kiểm soát các tần số gần tần số đã thu được tín hiệu.
Có tiếng suýt xoa xầm xì bên dưới. Trịnh Toàn đưa mắt quan
sát một lượt.
- Thế nào? Công việc nặng nề quá à? Khó khăn quá không làm
được sao?
- Không đâu ạ. Làm được ạ.
- Thế sao cứ xầm xầm xì xì thế? Hay là nói chuyện riêng khi
họp đấy?
Nghe chỉ huy trưởng nói thế, mọi người đưa mắt nhìn nhau, im
lặng.
- Các đơn vị có ý kiến gì không? Tôi nói thế các đồng chí đã rõ
chưa?
Trịnh Toàn hỏi lại. Ông vẫn quen tác phong sau mỗi khi giao
nhiệm vụ hỏi lại như thế.
- Không có ý kiến gì ạ. Rõ lắm rồi.
- Rõ thì cứ thế mà làm. Vướng đâu, điện hỏi lại ban chỉ huy
ngay.
Trịnh Toàn nhìn sang chỗ Trần Minh Hồng ngồi.
- Đồng chí Trần Minh Hồng và trưởng ban trinh sát ở lại gặp
riêng tôi có nhiệm vụ.
Mọi người lục tục ra ngoài. Trần Minh Hồng nhìn sang phía
trưởng ban trinh sát có ý dò hỏi chuyện gì. Trưởng ban trinh sát lắc đầu ra
hiệu. Đợi mọi người ra khỏi phòng, Trịnh Toàn vẫy vẫy tay bảo Trần
Minh Hồng và trưởng ban trinh sát lên ngồi gần bên mình. Khi Trần Minh
Hồng đã ngồi vào vị trí, Trịnh Toàn nói nhỏ, giọng tin tưởng.
- Tôi gọi hai đồng chí lại có nhiệm vụ này muốn giao phó.

138
Ngoái đầu nhìn ra, Trịnh Toàn thấy đồng chí cán bộ cơ yếu thập
thò ngoài cửa.
- Vào đi. Có việc gì thế?
Thấy đồng chí cán bộ thông tin có vẻ không muốn nói vì có
người lạ. Trịnh Toàn bảo.
- Có gì cứ báo cáo đi xem nào? Đồng chí trưởng ban trinh sát
thì đồng chí biết rồi. Còn đây là đồng chí Trần Minh Hồng, đồn trưởng
đồn Yên Hồng.
- Dạ. Báo cáo thủ trưởng. Bộ phận thông tin vừa nhận được một
tín hiệu lạ nữa trùng với tín hiệu đã phát hiện được.
- Phát hiện vào lúc mấy giờ?
- Lúc mười tám giờ ba mươi. Trùng với thời gian của thời gian
phát hiện được tín hiệu hôm trước.
- Thời gian liên lạc có dài không?
- Khoảng 10 phút.
- Còn gì nữa không?
- Báo cáo hết. Không còn gì nữa ạ.
- Cám ơn đồng chí. Tôi biết rồi.
Đợi cho đồng chí cán bộ thông tin ra khỏi phòng. Trịnh Toàn
đưa mắt nhìn trưởng ban trinh sát và Trần Minh Hồng. Nếp nhăn trên trán
Trịnh Toàn hằn rõ từng đường chạy ngang trán.
- Tôi gọi hai đồng chí ở lại cũng là việc này đấy.
Trịnh Toàn đứng lên lấy chiếc xắc cốt treo trên tường. Trịnh
Toàn lấy từ bên trong ra tấm bản đồ, trải ra mặt bàn. Tay vừa chỉ, Trịnh
Toàn vừa trao đổi với trưởng ban trinh sát và Trần Minh Hồng. Nghe chỉ
huy trưởng trao đổi, cả hai cứ gật gật đầu.

28
ĐỘT NHẬP

139
Trời vừa tang tảng sáng, A Lò và Tự Kim đã vội vã lên đường.
Khi cả hai vừa bước ra đến cửa, già làng La Khê đã thức. Thấy hai người
có vẻ vội vã, già làng đánh tiếng.
- Con gà còn chưa đánh tiếng. Con chim chửa kịp gọi. Sương
còn nhiều như khói bếp. Đường trơn. Đi làm sao được.
- Nhưng con ngựa dưới sàn đã gõ móng rồi già ạ.
- Con ngựa nó quen cái chân đi rồi. Nó ngửi thấy mùi con ngựa
cái nên dậm móng nhiều thế đấy.
- Không đi sớm, chúng con sợ tối ngày chưa về được với già
thôi.
- Khắc đi khắc đến mà. Lo gì.
- Vâng. Chúng con cũng biết già nói đúng nhưng công việc gấp
lắm già à.
- Đường đi lên đó khó lắm đấy. Hai đứa mày có cần già đưa đi
không?
- Được già đi cùng dẫn đường còn gì bằng. Nhưng già ơi. Ngoài
trời lạnh lắm. Sương còn nhiều. Đường trơn. Già cứ nghỉ đi. Chúng con
cũng biết đường lên đó rồi.
- Không cần già thì thôi. Nhưng mấy đứa đi cho cẩn thận. Rừng
cho cái ăn nhưng rừng cũng sẽ giết người đấy.
- Dạ. Chúng con cám ơn già. Già nghỉ đi. Chúng con đi đây.
Ngồi xổm bên chân cầu thang, A Lò và Tự Kim thắt lại dây
giầy, kiểm tra lại quân tư trang, khoác súng rồi túm lấy chiếc yên, vắt lên
vai, lần từng bậc cầu thang đi xuống. Ngửi thấy mùi chủ, cả hai chú ngựa
ngúc ngoắc đầu, gõ móng xuống nền, nghểnh cổ hí. Tiếng hí nhỏ chỉ đủ
để mừng chủ. Chúng đã quen với những chuyến đi, đã quen với những
sinh hoạt của người lính biên giới nên tiếng hí không bao giờ to. Những
con ngựa chiến chúng biết tuân thủ những nguyên tắc. Tiếng hí mừng chủ
vẫn không làm thức giấc của mọi người.
Tháo dây cương khỏi thanh gióng ngang buộc gác lên hai chiếc
cọc, A Lò và Tự Kim nhẹ nhàng dắt ngựa ra khỏi chuồng. Ra đến lối ngõ,
bắt lên con đường vào rừng, A Lò, Tự Kim bám lấy cọc trên yên, vắt
mình nhảy lên.
Sương còn đậm, vương trên cành, trên lá. A Lò và Tự Kim cho
ngựa đi bước nhỏ. Tiếng gõ móng lặn vào trong sương sớm, lặn vào trong
tiếng rì rào của gió, lặn vào muôn âm thanh của rừng tạo cho A Lò và Tự
Kim cảm giác nhẹ nhàng và thanh thoát. Một không gian thanh bình và
trong trẻo như trùm lên cả cánh rừng bạt ngàn xanh, bạt ngàn cây, bạt
ngàn gió và mênh mông sương.
Khi bắt vào con đường mòn dẫn lên hang ma, cây cối ngày một
rậm hơn. Thỉnh thoảng văng vẳng tiếng con chim bắt cô trói cột vọng lại.
Tiếng chim bắt cô trói cột đập vào hang đá, vướng vào thân cây, dội ra,

140
nghe khắc khoải và nghèn nghẹn đến nao lòng. Tiếng mang tác gọi bạn
tình bên bờ con suối bồng bềnh, bồng bềnh như xao xuyến. Tiếng rào rào
lướt qua của bầy thú thấy động trốn chạy. Những chùm hoa lan rủ xuống,
sương đọng trên cành hoa cuống lá, tí tách rơi xuống lớp lá mục. Mùi
thơm của hoa, mùi ngai ngái của lớp lá rụng lâu ngày, mùi sương lảng
vảng bay làm thành một thứ hương sắc đặc trưng của rừng huyền ảo và
quyến rũ.
Vì đường trơn, A Lò và Tự Kim không dám thúc ngựa đi nhanh
hơn. Hai anh cứ thả lỏng dây cương để ngựa bước từng bước một. Thi
thoảng, bước vào mặt phiến đá, bị lớp lá che phủ, chú ngựa lại trượt chân,
hơi nhún mình xuống rồi lại bước tiếp. Con đường lên hang ma ngày một
nhỏ dần. Có nhiều chỗ, những khóm lau mọc cao hơn đầu người, lá xòa
che kín lối. A Lò và Tự Kim thu gọn người, gần như ép sát vào thân ngựa
để tránh. Sương vương vào trên cổ, theo đường chân lông thấm dần vào
da làm cả hai chú ngựa chốc chốc lại lắc lắc đầu rũ sương. Mỗi nhịp thở,
từ hai cánh mũi của chúng, hơi nước phả ra mờ mờ.
Đường càng vào sâu càng vắng, hơi ẩm mốc, ngai ngái của lá
cây mục càng nặng, sương càng đậm. Có nhiều đoạn, dây leo chằng chịt,
thân cây đan ken giáp vào nhau không có lối. A Lò và Tự Kim phải xuống
ngựa, tay cầm cương dắt ngựa đi.
Ra khỏi được khu rừng già, A Lò và Tự Kim gặp cánh rừng lau.
Những khóm lau đan kín vào nhau trông như một thảm của thiên tạo.
Những hạt sương đọng trên đầu lá trong veo. A Lò và Tự Kim lấy ngón
tay búng nhẹ vào những hạt nước. Mỗi khi như thế, hạt nước vỡ, bắn ra
những hạt nước nhỏ li ti, gặp gió, bay tạt vào mặt hơi nước man mát dịu
nhẹ.
Gặp được bãi đất trống, xung quanh có vài ba cây me. Những
chùm me lúc lỉu, sà xuống ngang mặt người. A Lò và Tự Kim dừng chân
để nghỉ và cũng là cho ngựa lấy lại sức. Ngước mắt nhìn lên dãy núi Bái.
Màu xanh ngằn ngặt. Thi thoảng chen vào một thảm xanh là những màu
vàng vàng . Đó chính là một vài bãi lau mọc chen, bám chân vào lưng núi.
Những con chim chập chờn bay, sà cánh xuống màu xanh xanh điểm vàng
vàng rồi lấp bóng vào trong màu xanh của núi.
Ngồi nhấm nhấm mấy trái me còn chưa chín, màu vỏ mới chỉ
vàng vàng như rám của quả bưởi bị nắng phía tây rọi vào. A Lò nhìn Tự
Kim.
- Tôi với ông có khi xác định tối nay mình phải ở lại trong hang
mất.
- Ừ.
Nhìn lên đỉnh núi Bái, Tự Kim thư thả trả lời. Việc Tự Kim và
A Lò được trưởng ban trinh sát rồi trực tiếp chỉ huy trưởng ban công an
vũ trang tỉnh giao nhiệm vụ lên xem thực hư chắc là chuyện không đơn

141
giản. Trước khi đi, trưởng ban trinh sát và chỉ huy trưởng chỉ dặn là xem
xét thật kỹ. Xác định cho rõ, có thật là có ma ở hang ma không? Những
đám lửa cháy bay được đó là cái gì? Ngoài việc xác định làm rõ ra thì đến
bây giờ, Tự Kim cũng chưa biết được sẽ phải làm gì tiếp theo. Chỉ có
điều, không phải Tự Kim mà mọi người cũng biết rõ rằng, ma xuất hiện ở
hang ma là điều không thể có được. Nhưng ở đây là vấn đề gì thì không
chỉ ngồi nhà mà phán đoán, nhận định. Làm công tác trinh sát, tất cả phải
sờ được bằng tay, nhìn thấy bằng mắt. Trọng chứng hơn trọng cung. Khó
nhất là phải kết luận và xác minh xem những đốm lửa đêm đêm bay từ
hang ma ra là cái gì? Dư luận cho rằng ma. Nhưng có thật hay không thì
không ai có thể bảo đảm chắc chắn. Để có thể cháy được, nhất định phải
có sự tác động của con người hoặc tự nhiên.
Sau khi nhận nhiệm vụ từ trưởng ban trinh sát và chỉ huy
trưởng, Tự Kim cũng đã tranh thủ hỏi một số người có học vấn. Việc cháy
có thể do con người. Trên này, có thể do người dân đi nương đốt tránh rét.
Đám cháy ban ngày, đến đêm tàn lửa theo gió bay đi mà thành. Cũng có
thể đám cháy do trong khu vực có hiện tượng lá cây, thân cây chết, mục
rồi do thời gian tích tụ lâu ngày mà tạo ra lượng khí mê tan. Lượng khí
này khi bốc lên, gặp nhiệt độ nóng bắt cháy thành lửa. Mà trong khu vực
núi Bái, rừng cây nhiều, lá cây đã qua biết bao nhiêu năm, việc tạo thành
những ổ chứa khí mê tan là có thể xảy ra.
Ngước mắt nhìn trời. Sương đã loãng, gió lúc này cũng có chiều
hướng nhẹ hơn. Phía bìa rừng, đường chân trời đã ánh lên những vệt vàng
vàng. A Lò lẩm nhẩm.
- Bây giờ phải chín mười giờ sáng rồi đấy.
Tự Kim đứng lên, xốc lại trang phục rồi đi lại chỗ hai chú ngựa
bên gốc cây me. Thấy thế, A Lò cũng đứng lên, giọng lo lắng.
- Hôm nay sương nhiều quá. Đường trơn. Cứ thế này, đến trưa
may ra mới lên được đến hang.
- Nghĩ làm gì. Nếu chiều chưa xong thì ở lại hang. Sáng mai về
sớm. Đi đã có ngựa đưa. Lo nghĩ làm gì cho già người.
Cả hai lại lên ngựa. Đường lúc này cũng đã sáng hơn. A Lò và
Tự Kim cứ điều khiển hai chú ngựa tự đi theo những đường nước chảy
thành rãnh. Đường dốc, làm A Lò và Tự Kim phải lấy tay bám chặt vào
lông mao. Có một vài chỗ, A Lò và Tự Kim phải ép người vào sát cổ
ngựa để dồn trọng lực về phía trước.
Vượt qua cánh rừng lau, A Lò và Tự Kim đi vào cánh rừng dẻ.
Những cây dẻ vỏ trắng, thẳng tắp, cao hai ba chục mét. Tiếng sóc chuyền
cành rào rào trên đầu. Có nhiều con sóc mải ăn, thấy động, đánh rơi hạt dẻ
lộp bộp trên lá. Trên đường đi, một vài đoạn A Lò và Tự Kim lại gặp
những bộ xương trâu trắng xốp nằm trên đường. Những cặp ngà cũng
trắng, vểnh lên trên bộ xương đầu trâu ngập trong lớp lá rụng. Có những

142
chỗ, bộ xương đã bị lá phủ lên gần hết chỉ còn đôi ngà ngoi lên trên lớp lá.
Những bộ xương trâu rừng A Lò và Tự Kim gặp trên đường, có con do
già yếu chết đi, cũng có con bị sét đánh chết. Vì trong rừng sâu, khi chết
đi, những xác chết đó bị chim, mối, và các loài thú ăn xác thối rỉa còn trơ
bộ xương trắng. Hết rừng dẻ, A Lò và Tự Kim vào rừng già. Những thân
cây mốc thếch, rêu bám xanh rì ngoài vỏ. Những đụn mối nổi lên như
những đống rạ. Tiếng bầy ong đi tìm phấn hoa lao xao. Có những chú
ong, thấy hơi lạ, bậu vào vai, vào tay áo ngó nghiêng rồi vù bay. Thỉnh
thoảng lại có con chim bìm bịp, xòe đôi cánh có màu nâu nâu bay vù qua
trước mặt. Chúng sà vội xuống một lùm cây rồi lẩn nhanh vào trong bụi
dây gai, dây leo.
Phựt!
Đang đi, bỗng A Lò và Tự Kim giật mình. Theo phản xạ, A Lò
và Tự Kim ép sát người xuống mình ngựa, thân người hơi sa, nghiêng về
một phía. Hai chú ngựa khựng lại, bốn chân dồn lại chụm dưới bụng. A
Lò và Tự Kim kéo dây cương điều khiển mỗi con đi về một hướng. Khi
đã tách đội hình, A Lò và Tự Kim rất nhanh rời khỏi yên ngựa, người nào
cũng nằm ép sát bên dưới gốc cây làm vật che đỡ. Hai chú ngựa vẫn
hướng về phía trước bước. Những chú ngựa chiến đã quen thuộc với
những tình huống như thế này. Mỗi khi chuyển từ đội hình đi tuần sang
đội hình chiến đấu, người điểu khiển rời khỏi yên ngựa, chúng đều biết
vẫn phải đi để thu hút sự chú ý của đối phương, đánh lạc hướng quan sát
để các chiến sĩ có thời cơ tấn công, giành lại thế chủ động.
Nằm im quan sát phía trước, nơi có tiếng động lạ phát ra. A Lò
ra hiệu cho Tự Kim lợi dụng các gốc cây, vận động tiến về phía trước. A
Lò nhẹ nhàng nâng súng, tỳ lên vào vai, sẵn sàng nổ súng để yểm trợ cho
Tự Kim khi bị tấn công. Như con rắn, Tự Kim trườn từ gốc cây này qua
gốc cây khác, mắt quan sát phía trước. Bỗng Tự Kim đứng dậy, vỗ tay
vào báng súng cười. Tiếng cười của Tự Kim dội vào núi đá, vọng lại. Bầy
sóc, bầy chim thấy động xáo xác bay. Những con thú xé rừng, lao vào các
bụi cây rào rào.
A Lò từ từ đứng lên quan sát bốn hướng rồi chậm chạp tiến dần
về chỗ Tự Kim. Tự Kim đưa tay chỉ về phía trước. Trước mặt A Lò và Tự
Kim là con chồn vừa bị chiếc bẫy thòng lọng giật treo cổ lủng lẳng trên
cao. Bốn chân giãy đạp chới với trong không khí. Con chồn cố gắng trong
tuyệt vọng. Nó càng giãy, làm cho chiếc cần bật treo nó nhún lên nhún
xuống. Mỗi khi chiếc cần đó dập dình như thế, càng làm cho chiếc dây
thòng lọng siết chặt hơn vào cổ nó. Chính sức nặng của nó, sự giãy giụa
cố thoát khỏi cái chết càng làm nó đến gần cái chết hơn. Đợi cho con chồn
không còn giãy, bốn chiếc chân không còn chới với bới đạp vào không
gian được nữa, Tự Kim bước lên, rút con dao khỏi bao giơ lên định cắt
dây thòng lọng. Khi Tự Kim giơ lên, A Lò bước vội đến, nắm lấy tay.

143
- Ấy chớ. Đừng cắt nó xuống. Cứ để đấy.
Tự Kim nhìn A Lò với ánh mắt dò hỏi.
- Ông cứ để đấy. Để nguyên như thế. Coi như không có chuyện
gì xảy ra - A Lò nắm tay Tự Kim kéo ra xa.
- Tôi hỏi ông nhé. Trong tít tận rừng sâu như thế này, liệu ai có
thể vào đây để đặt bẫy được. Tôi giả thử có người vào đây đặt bẫy đi. Vậy
họ đi vào đây bằng đường nào? Bây giờ mà ông cắt xuống, vô hình chung
ông báo cho người đặt bẫy là có người đã vào đây. Đã đặt bẫy, tất sẽ phải
đi kiểm tra bẫy. Đúng không?
- Nhưng mà …
- Không nhưng mà gì. Ông để tôi nói tiếp đã. Ông nghĩ là khi
ông và tôi vào đến hang thì đúng lúc người đặt bẫy này đi kiểm tra chứ gì.
Đừng lo. Ông và tôi đi ngựa mà bây giờ gần trưa mới đến đây. Nếu họ
cũng đi ngựa thì, vào đến đây cũng không thể quay kịp về bản. Còn nếu đi
bộ thì càng không thể làm được. Bản gần nhất là bản La Khê đúng không?
Nếu đúng là người bản La Khê thì ngày mai ông và tôi quay về, không
cần hỏi cũng biết là bẫy của ai.
Vỗ vỗ tay lên vai Tự Kim, A Lò cười cười.
- Tiếc phải không? Không tiếc được đâu. Ông mà lấy con chồn
này thì ông và tôi sẽ không bao giờ có thể vào bản nào được nữa. Người
dân tộc tối kỵ là lấy trộm thú săn và bẫy của nhau. Họ có thể sẵn sàng cho
ông cả con thú săn được, nhưng cũng sẵn sàng cho ông nếm đủ cả đạn
ghém, mũi tên khi ông lấy trộm của họ.
Đưa tay lên miệng, A Lò huýt một tiếng dài. Hai chú ngựa nghe
tiếng huýt tìm về. Mặc dù nghe A Lò giải thích nhưng Tự Kim vẫn thấy
tiếc. Tự Kim mắt cứ nhìn như dán vào con chồn đang treo lủng lẳng trên
bẫy. Kéo tay Tự Kim ra xa cái bẫy đi về hướng hai chú ngựa đang rẽ mấy
lùm cây lúp xúp chạy về.
- Đừng tiếc. Nếu ông thích ăn thịt chồn. Tối nay ở trong hang,
tôi sẽ chiêu đãi ông. Rừng này á, chồn nhiều lắm. Dưới đất đầy chân chồn
đây này.
Dứt lời, A Lò đặt chân trái lên bàn đạp, tung chân, vắt mình lên
yên ngựa. Tự Kim cũng lặng lẽ làm theo. Mặc dù Tự Kim vẫn còn chút
nuối tiếc nhưng nghe A Lò nói thế, Tự Kim lặng lẽ nắm dây cương, thúc
nhẹ bàn đạp vào bên sườn ngựa. Con ngựa gại gại móng vào đám lá khô
rồi bước đi.
Gần trưa, A Lò và Tự Kim mới đến được cửa hang ma. Cây si,
nơi cô Lù treo cổ chết rễ đã phủ che kín trước cửa. Những chiếc rễ rủ
xuống đã có cái thành cây, to bằng bắp tay. Dựa vào những chiếc rễ đó,
đám dây leo bám vào rậm thành từng búi, nhằng nhịt.
Buộc ngựa vào cành cây gần cửa hang, A Lò và Tự Kim lấy từ
trong túi vải buộc bên cọc yên ngựa ra bọc xôi. Nắm xôi đêm qua, khi A

144
Lò và Tự Kim vào ăn nghỉ nhờ ở nhà già làng được vợ già làng gói lại, để
dành cho hôm nay. Xôi gạo nếp nương vừa thơm, vừa dẻo. Nếu có để cả
ngày cũng không sợ khô, sợ cứng hay lại gạo. Bẻ miếng xôi làm đôi, A
Lò và Tự Kim thấy ở giữa có mấy miếng thịt nai. Chắc đêm qua, khi nắm
xôi cho A Lò và Tự Kim, vợ già làng đã đặt nó vào đó. Chắc vợ già không
muốn A Lò và Tự Kim đi đường vất vả lại không có gì bồi dưỡng lấy lại
sức.
Mỗi người ăn hết một nửa nắm xôi. Số còn lại, A Lò và Tự Kim
đều gói lại, treo vào cọc yên ngựa. Nhấc chiếc bình tông có màu sơn xam
xám, mỗi người cũng chỉ làm một ngụm rồi đóng nắp treo vào bên sườn
yên ngựa. Trên phía đỉnh núi Bái, những tia nắng đã chiếu xuống, phủ lên
trên cả một màu xanh của rừng một lớp vàng vàng màu mỡ gà.
Quan sát một lượt khu rừng bên chân núi, A Lò và Tự Kim
kiểm tra lại bao xe, khẩu CKC rồi lấy tay, rẽ đám dây rừng nhằng nhịt
ngoài cửa hang, dò dẫm bước vào. Từ trong hang phả ra một luồng hơi
lạnh. A Lò và Tự Kim khẽ rùng mình rồi bước tiếp.
Bước vào sâu trong cửa hang được khoảng chừng chục mét thì
cả A Lò và Tự Kim nghe tiếng ngựa hí dài. Giật mình, A Lò và Tự Kim
cùng ngoái đầu nhìn ra phía cửa hang. Tiếng ngựa hí như thế này là báo
hiệu khi chúng gặp nguy hiểm. Không lẽ chúng gặp hổ hay con thú ăn thịt
lớn nào đó. Sau tiếng hí dài là tiếng cào chân xuống nền đất đá. Tiếng lạo
xạo của lớp lá bị lật. A Lò và Tự Kim quay người, hướng mũi súng ra
phía cửa hang. Mỗi người một bên vách đá, A Lò và Tự Kim lặng lẽ nép
sát mình vào vách, trở ra cửa hang. Qua khe hở của lùm dây leo, A Lò và
Tự Kim thấy cả hai chú ngựa hướng đầu vào cửa hang, dướn mình đá
chân sau về phía rừng. Mỗi khi chúng tung hai chân sau lên cao lại kèm
theo tiếng hí dài. Hình như chúng đang sợ một cái gì đấy.
Khi A Lò và Tự Kim lách người khỏi lùm cây, ra khỏi cửa hang
những chú ngựa nhận ra chủ, hai đầu nâng lên cúi xuống liên tục, rồi
chúng lúc lắc sang hai phía, hai chân sau vẫn tung vó đá lên cao. Dường
như chúng đang cố gắng tháo chiếc dây cương buộc vào cành cây để chạy
trốn. Lao vội ra giữ lấy dây cương, A Lò và Tự Kim vỗ vỗ nhẹ vào bên
má chúng. Thấy có chủ đến bên, chúng không tung chân đá lên cao nhưng
hơi thở từ hai bên cánh mũi rất nặng. Hơi thở nặng nhọc và sợ sệt.
Khi đã làm cho hai chú ngựa không còn sợ sệt nữa, chúng đã
chịu đứng yên, rúc rúc đầu vào bên nách để được che chở. A Lò và Tự
Kim đưa mắt quan sát bốn xung quanh. Cả hai đều nghe thấy tiếng nổ
lách tách rất nhỏ phía trên cao. Hướng mắt về phía đó, cả A Lò và Tự
Kim giật mình, nổi da gà khắp người, bước lùi lại, tựa hẳn người vào đám
dây leo ở cửa hang. A Lò và Tự Kim đều không tin vào mắt mình. Trên
những lá cây có ánh lửa cháy nhấp nhem. Ánh sáng cháy màu xanh xanh
vàng vàng dập dờn, dập dờn.

145
Chỉ một thoáng giật mình, rồi rất nhanh, A Lò và Tự Kim lật
người, mỗi người sang một bên cửa hang, khẩu CKC ép chặt bên nách.

29
KẺ TRỞ LẠI

146
Đang ngồi trên phía đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh giật mình thấy
những con chim bay vội, táo tác, tiếng kêu chíu chít phía cánh rừng vào
hang ma. Linh tính báo cho Phan Lềnh biết, khu rừng đang có người đi
vào. Những cánh chim bay vội, những tiếng kêu xao xác, táo tác đã ngầm
thông báo cho Phan Lềnh biết. Phan Lềnh lẩn nhanh vào bên hốc quan
sát. Phan Lềnh đưa tay về phía sau rút khẩu súng giắt sau lưng. Nhẹ
nhàng nhưng dứt khoát, Phan Lềnh đưa tay trái, ép khẩu độ tay vào thân
súng, bóp chặt lấy nắp quy lát kéo về sau. Khi quy lát đã về hết phía sau,
đầu búa đập của kim hỏa nằm ở tư thế sẵn sàng phát hỏa, Phan Lềnh nhẹ
nhàng, từ từ lấy tay giữ cho nắp quy lát khẩu súng trở về vị trí sẵn sàng,
không để tiếng động của quy lát phát ra do va đập của vỏ thép. Lưng tựa
vào vách đá bên hốc Con Cóc, Phan Lềnh nghiêng người, thò đầu quan
sát phía dưới.
Từ trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh nhìn xuống phía dưới tán cây
rừng. Phan Lềnh không thấy gì. Chỉ thấy một màu xanh xanh, vàng vàng
của lá rừng và vài đám lau mọc đơn lẻ, đan xen trong những khoảng trống
của khu rừng bên chân núi. Phan Lềnh tự mỉm cười với chính mình. Chắc
con thú nào đó đến giờ vẫn còn đi săn làm động bầy chim sợ bay lên.
Phan Lềnh tự nhủ, thần hồn nát thần tính, tự mình làm mình sợ. Thở dài,
Phan Lềnh chửi thể
- Mẹ nó chứ. Làm ông hết cả hồn. Tưởng gì.
Phan Lềnh lại lặng lẽ lấy ngón tay cái, đặt lên đầu búa đập nối
với kim hỏa, nhấn về sau một chút để tháo lẫy giữ búa, rồi cứ giữ như thế,
thả đầu búa đập thanh kim hỏa từ từ trượt về vị trí an toàn. Giắt lại khẩu
súng sau lưng, Phan Lềnh ngồi bệt xuống tảng đá, mắt vẫn dõi nhìn về
phía dưới.
Tựa lưng vào vách núi, ngước mặt nhìn trời, Phan Lềnh tự
nhiên thấy tủi hổ. Bản thân Phan Lềnh, là một đấng nam nhi, đấng quân tử
mà không được bằng cánh chim bay giữa trời. Rồi Phan Lềnh lại nghĩ, lại
nhớ đến hình ảnh bố treo cổ chết ngay trên xà nhà lối ra vào cửa. Phan
Lềnh hận. Phan Lềnh hận cuộc đời đã cay nghiệt với mình. Nếu không vì
đám người kia thì Phan Lềnh đâu đến nông nỗi này. Lòng Phan Lềnh
nóng như có lửa đốt. Không. Phan Lềnh muốn đốt hết, phá hết. Phan Lềnh
lại đưa tay ra sau, rút khẩu súng, ngắm mấy con chim đang bay. Nâng
súng lên. Ngón tay từ từ siết cò.
Không. Bây giờ mà nổ súng, Phan Lềnh có khác gì mách ông
tôi ở bụi này. Tiếng súng nổ sẽ đưa cánh công an biên phòng đến đây thì
việc lớn sẽ hỏng. Phan Lềnh nhả tay cò. Phan Lềnh nhớ và rất nhớ câu
thiếu tá Bình khi đưa Phan Lềnh xuống con thuyền trở lại miền Bắc…
Trước khi Phan Lềnh bước chân xuống con thuyền, thiếu tá
Bình và một ông cố vấn Mỹ ở trung tâm tập trung đã căn dặn.

147
- Anh ra Bắc lần này. Tình hình hiện tại chưa có lợi. Anh chỉ có
một mình. Làm gì cũng phải cân nhắc. Mọi sự nóng nảy đều có thể dẫn
đến sự thất bại.
Khi nghe thiếu tá Bình căn dặn thế, Phan Lềnh trong bụng nghĩ
thầm.
- Mẹ bố mày. Dạy đĩ vén váy. Bố mày còn biết hơn mày nhiều.
Nếu bố mày không sa cơ lỡ vận thì hãy đợi đấy. Loại mày xách dép cho
bố mày đây chưa xong. Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn. Sao cũng có
ngày bố mày dạy cho mày bài học.
Tất nhiên là Phan Lềnh chỉ nghĩ trong bụng thế thôi. Phan Lềnh
hiểu hơn ai hết thân phận làm kẻ tôi tớ của mình. Chúng nó nuôi ăn, cho
tiền chơi, trả tiền công đâu phải chỉ để Phan Lềnh suốt ngày đọc sách, đọc
báo và chơi gái. Tất cả chẳng qua là chúng nó trả tiền để mua mạng sống
của Phan Lềnh.
Khi Phan Lềnh bước xuống tàu cá để quay trở lại miền Bắc.
Phan Lềnh lúc đó đã coi như đánh bạc cuộc đời với chúng. Không. Nhất
quyết không phải là đánh bạc mà Phan Lềnh đã tự trói cuộc đời của chính
mình vào một cuộc gá nợ. Phan Lềnh phải trả nợ cho những gì chúng đã
nuôi ăn, cho chơi thời gian qua khi ở trong ngõ hẻm của thành phố.
Phan Lềnh rất khó chịu khi thấy thiếu tá Bình cứ khúm núm
vâng vâng dạ dạ trước người mà thiếu tá Bình gọi là cố vấn. Nghe giọng
nói, nhìn thái độ, xét cử chỉ của thiếu tá Bình thì Phan Lềnh cũng đoán
được người đó có vị thế quan trọng thế nào. Nhìn dáng khệnh khạng, bề
trên của viên cố vấn, Phan Lềnh lẩm bẩm.
- Đồ rậm râu sâu mắt. Mặt mũi người ngợm đầy lông lá, chả
khác gì khỉ. Người đâu mà lông chân, lông tay nhiều quá bằng lông chó.
Tóc lại vàng vàng, hoe heo như râu ngô. Chả khác gì lông dái của người.
Theo chân Phan Lềnh xuống tàu cùng có thiếu tá Bình và viên
cố vấn. Khi bước xuống các bậc cầu thang chui vào lòng khoang, thiếu tá
Bình vỗ vỗ vai ra chiều thân thiện, nói nhỏ.
- Anh có biết con tàu nào đây không? Không biết phải không?
Đây là con tàu sẽ đưa anh về lại quê hương. Ở đấy anh sẽ có cơ hội để
làm nên sự nghiệp lớn. Đường vinh quang ngày trở về đang đón đợi anh.
Nhìn con tàu Phan Lềnh nhếch mép cười. Thiếu tá Bình không
nói thì Phan Lềnh cũng biết. Bên ngoài dáng vẻ của chiếc tàu đánh cá
nhưng thực ra là con tàu của trung tâm tập trung dùng để đưa những
người đã được đào tạo đánh trở lại để thu thập tin tức cung cấp cho các cơ
quan nghiên cứu phân tích phản gián.
- Anh còn nhớ vùng biển quê anh chứ?
Viên cố vấn người Mỹ bất ngờ hỏi Phan Lềnh bằng tiếng Việt.
Phan Lềnh thoáng một chút ngỡ ngàng. Thế mà. Lúc trước, Phan Lềnh cứ

148
nghĩ viên cố vấn không nghe được tiếng Việt. Đang có ấn tượng không
hay về viên cố vấn. Phan Lềnh trả lời trống không.
- Nhớ chứ. Quên sao được.
- Tốt. Đêm anh vẫn có thể xác định được phương hướng và địa
điểm đấy chứ?
Phan Lềnh nghĩ thầm. Sao thằng này nó ngu đến thế. Nó hỏi thế
chả khác nào nó hỏi bố nó. Con có phải là con bố không? Với Phan Lềnh,
cả cái vùng biển phía Đông Bắc này thuộc hơn lòng bàn tay. Phan Lềnh
đã phải lặn lội bao nhiêu ngày sống trên các đảo để tránh mấy thằng cũng
mũi khoằm, dài như mỏ con diều hâu, mắt xanh, tóc râu ngô như bọn mày
rồi đấy.
- Được.
- Tốt.
Viên cố vấn lại khen. Càng nghe viên cố vấn nói, Phan Lềnh
càng thấy ghét cái mặt hắn. Phan Lềnh làm việc này là tự nguyện chứ có
phải vì nó chó đâu mà khen tốt với chả xấu.
- Có vẻ anh không được vui lắm phải không?
Viên cố vấn nhìn thẳng vào mặt Phan Lềnh hỏi.
- Tốt. Anh vui là tốt lắm.
Chắc đoán được tâm tư suy nghĩ của Phan Lềnh. Thiếu tá Bình
nhìn Phan Lềnh cười vui vẻ.
- Đây là toàn bộ những gì anh cần.
Thiếu tá Bình chỉ tay vào đống trang thiết bị đã được đóng gói
cẩn thận đặt ở góc phòng trong lòng thuyền. Nói rồi, thiếu tá Bình đưa tay
ra hướng cửa vẫy vẫy. Một người đàn ông để trần, mặc chiếc quần cộc
bước vào.
- Bây giờ anh thay đồ đi.
Thiếu tá Bình ra hiệu cho người đàn ông. Ông ta đưa cho Phan
Lềnh một bộ quần áo may kiểu ngoài Bắc, vùng dân chài ở vùng Đông
Bắc.
Cầm bộ quần áo trên tay, Phan Lềnh nghĩ. Chắc chúng nó sợ
mình mang theo cái gì trong này đây. Đúng là đồ chó. Đã cộng tác làm ăn,
cùng hội cùng thuyền mà còn nghi ngờ. Dẫu bực là thế nhưng Phan Lềnh
vẫn phải lặng lẽ làm theo. Phan Lềnh biết. Qua sông thì phải lụy đò, nếu
không muốn chết trôi chết nổi trên sông.
Đợi cho Phan Lềnh thay xong. Thiếu tá Bình nhẹ nhàng.
- Anh thấy khó chịu lắm à?
Nghe hỏi thế, Phan Lềnh giật mình. Tối hôm người đàn bà ở lại
cùng Phan Lềnh. Khi hỏi về thiếu tá Bình. Người đàn bà chỉ nói ngắn gọn.
- Ổng trông hiền lành thế đó. Nhưng không có chuyện gì qua
được mắt ổng đâu. Ổng mà không thích ai, mấy ngày sau là không thấy
đâu nữa à.

149
Nhớ lại lời người đàn bà, Phan Lềnh vội vàng.
- Không. Thưa ông.
Thiếu tá Bình cười cười, lấy tay đập đập nhẹ vào lưng Phan
Lềnh. Phan Lềnh chửi thầm. Đúng là đồ chó. Mũi thính hơn cả mũi chó.
Nhớ lại lần thiếu tá Bình và viên cố vấn đưa xuống tàu, Phan
Lềnh thấy phận mình thật nhỏ, chả bằng con sâu cái kiến. Nhưng Phan
Lềnh biết làm sao bây giờ. Trót tay đã nhúng chàm, Phan Lềnh còn biết
làm gì hơn là phải tuân lệnh, ngoan ngoãn như con chó đối với chủ…
Đang nhớ lại đêm xuống tàu trở lại miền Bắc, Phan Lềnh giật
mình nghe thấy có tiếng ngựa hí dài. Tiếng ngựa hí ngay trên sườn núi
Bái, ở ngay cửa hang ma. Không lẽ, mấy thằng công an biên phòng đánh
hơi được hay sao mà lên đây? Phan Lềnh nằm bẹp xuống, trườn nhanh ra
phía mấy lùm cây rậm cạnh đỉnh Con Cóc. Tay lăm lăm khẩu súng.
Nằm yên nghe ngóng một lúc lâu, thấy yên tĩnh, Phan Lềnh vẫn
không dám đứng lên, vẫn ở thế nằm, cứ thế lùi dần, lùi dần vào hang.
Phan Lềnh vừa bò giật lùi vừa lấy tay khua khua đám lá trước mặt. Phan
Lềnh cứ thế bò thụt lùi rồi chui vào trong hốc đá, phía trên đỉnh Con Cóc.

* *
*
Nép người bên cửa hang, A Lò và Tự Kim lặng lẽ quan sát mọi
diễn biến. Đợi khoảng hơn mười phút thì đám cháy tự nhiên tắt. Lật người
một vòng, Tự Kim chuyển sang nằm sát bên A Lò. Tự Kim đưa mắt như
dò hỏi A Lò có chuyện gì đang xảy ra. A Lò không nói gì, mắt vẫn nhìn
đăm đắm vào nơi vừa phát ra những ánh lửa nhỏ màu xanh xanh, vàng
vàng dập dờn trên ngọn cây. Cả cánh rừng như chìm vào trong yên lặng.
Chỉ còn tiếng gió thổi lao xao trên cao. Trên những chiếc lá vừa phát
cháy, A Lò vẫn chỉ nhìn thấy xanh xanh mà dường như không hề có việc
gì vừa xảy ra.
Huých tay vào bên sườn A Lò, Tự Kim phá tan sự yên tĩnh.
- Này.
- Cái gì?
- Ông có biết cái gì đang xảy ra không?
- Không.
- Cái gì vừa cháy trên tán cây đấy?
- Không biết.
- Để tôi bắn cho nó mấy phát.
- Đừng bắn. Cứ nằm yên quan sát. Biết đâu…
- Biết đâu cái gì?
- Ma xuất hiện chẳng hạn.
- Vớ vẩn. Làm chó gì có ma.

150
- Thế không phải ma thì làm sao lá cây xanh thế kia lại tự nhiên
cháy được?
- Ông còn không biết lại đi hỏi tôi.
- Vậy thì cứ nằm yên đó đi.
Nằm yên tại chỗ, Tự Kim thấy trong người bồn chồn như có
con gì đang bò trên da. Tỳ khẩu CKC vào vai, tay đặt sẵn trên cò súng, Tự
Kim cố gắng căng mắt ra nhìn. Từ bé đến giờ, chưa bao giờ Tự Kim thấy
hiện tượng lạ như thế này. Ừ. Nếu không ma thì là cái gì? Lóe lên rồi tắt.
Cháy cứ dập dà dập dờn. Màu lửa xanh xanh, vàng vàng như sợi dây đồng
bị cháy thế. Trên tít ngọn cây đó, làm gì có dây đồng mà cháy. Mà cũng
có cái gì để đốt đâu? Khéo có ma thật. Người dân dưới bản La Khê chả
đang đồn ầm lên là ma lại xuất hiện trên hang ma là gì đấy.
Ngày bé, khi còn ở nhà, vào những đêm trăng sáng, tối tối mấy
cụ ông nhà bên vẫn sang nhà Tự Kim chơi. Những tối như thế, bên ấm
chè xanh mẹ nấu, các cụ vẫn thỉnh thoảng lại kể cho đám Tự Kim và mấy
đứa trong xóm nghe chuyện ma. Nghe chuyện ma, đứa nào cũng thích
nhưng đều sợ. Chỉ có điều, Tự Kim mới chỉ được nghe kể chứ chưa bao
giờ nhìn thấy ma. Tự Kim còn nhớ, có một lần, cụ Hào sang ngồi chơi
uống nước. Thấy Tự Kim và mấy đứa cứ tối tối hay rủ nhau ra ngoài chỗ
gốc cây dừa của nhà ông Nhuế chơi trò trốn tìm. Có mấy lần, mải chơi, cả
lũ ngã xuống con ngòi bên gốc dừa. May cái ngòi lâu ngày đã bị sa kéo về
nên nông. Ngã xuống đó chỉ ướt chứ không đứa nào bị làm sao.
Cụ Hào kể. Ở gốc dừa nhà ông Nhuế có con ma trơi. Vào
những đêm mưa thâm tối trời là con ma trơi này thường xuất hiện. Con
ma trơi có hình người đàn bà xõa tóc. Mái tóc của bà trắng lắm. Trắng
như mây. Bà cũng mặc bộ quần áo trắng. Người bà trắng như tuyết. Tay
bà cầm cái đuốc cháy rần rật mà mọi người nhìn thấy đấy. Ngọn đuốc này
cháy nó mang màu đỏ như máu. Nếu ai mà nhìn vào đó, về nhà thế nào
cũng mù mắt. Rồi nó bay. Tay cứ cầm cái đuốc ấy bay khắp vườn nhà ông
Nhuế. Phía sau có một vệt dài màu đỏ bay bay theo. Cái lưỡi của con ma
đấy.
Cụ Hào còn kể. Có nhiều khi con ma đó lại biến thành người
con gái. Cô gái này có khuôn mặt đẹp lắm. Mặt hoa, da phấn, mũi dọc
dừa, lông mày lá liễu. Con ma có đôi môi đỏ tươi. Mỗi khi con ma xuất
hiện, nó thường leo tít lên tận ngọn cây dừa rồi ngồi trên những cành lá
dừa khóc. Nó khóc vì nhớ con. Khóc chán, con ma buông mình rơi từ trên
ngọn cây dừa xuống con ngòi. Lúc đó, cả con ngòi nước cứ cuồn cuộn,
dâng cao hơn cả đầu người. Có nhiều khi, ngọn nước đó còn cao lên tới cả
ngọn cây dừa. Ngồi trong nhà còn nghe thấy tiếng nước ở khúc ngòi đó
ầm ầm. Người nào mà lai vãng ra khúc ngòi lúc đó. Ngọn sóng sẽ cuốn
phăng đi, dìm xuống đáy. Ngày hôm sau, người ta có đi tìm thì phải ra tận
ngoài biển. Sóng đã lôi người đó ra ngoài biển rồi. Cũng có một lần, khi

151
con ma nó như thế. Có một đứa bé, chả biết ở đâu, không biết, thấy động
chạy ra xem. Thế là sóng cuốn trôi ra mãi tít ngoài hòn đảo xa lắm ở
ngoài biển. Khi người nhà đi tìm. Đứa bé ấy đã chết, chỉ còn hình người
bao lấy những khúc xương nổi lập lờ trên mặt nước. Cụ Hào bảo. Con ma
nó nghĩ là con nó nên nó đưa ra ngoài biển giấu vì lại sợ bị con ma khác
bắt mất con nó.
Cụ Hào còn kể. Ngày xửa ngày xưa, cũng có một người ở làng
bên không biết sợ ma là gì. Nghe nói ở gốc dừa có ma nên mang vó ra
kéo. Ông ta cứ kéo mãi vó ở chỗ đó. Đến nửa đêm, khi ông ấy kéo vó lên.
Ông thấy trong vó nặng lắm, có tiếng quẫy nước thùm thũm. Nghĩ kéo
được con cá to. Ông cố gắng kéo vó lên ngang mặt nước. Lấy đèn soi. Ai
ngờ. Ông nhìn thấy trong lòng vó là một người đàn bà, quần áo trắng toát,
nằm thẳng đuồn đuỗn dưới đáy. Khi ông vừa soi đèn vào gần, người đàn
bà bỗng cất tiếng cười khành khạch rồi trở người, rơi tõm xuống ngòi.
Sợ quá, ông ấy quăng cả đèn vào vó rồi cứ thế chạy. Chạy về
được đến nhà, ông ấy nằm vật ra giường, ốm lên ốm xuống. Không thuốc
thang nào chữa được. Ngủ đi thì thôi, chứ cứ mở mắt ra là lại cười. Tiếng
cười như tiếng dao mài vào đá. Hơn tháng sau thì chết. Hôm đưa tang,
người ta còn nhìn thấy, trên cỗ linh xa, cái có hình vuông vuông, phía trên
bên ngoài có những đường uốn lượn rồng phượng, được sơn son thếp
vàng, bên trong có mâm hoa quả, ảnh người chết ấy, bóng người đàn bà
mặc áo trắng lúc thì ngồi, lúc thì bay bên trên. Vừa bay bà ta vừa cười. Từ
miệng bà ấy nhỏ những giọt máu đỏ lắm rơi xuống nóc chiếc linh xa. Khi
những giọt máu đó, rơi xuống chạm vào linh xa tự nhiên bốc cháy. Mọi
người đi đưa tang ông ấy sợ lắm. Khênh ông vội vàng cho xuống huyệt.
Khi vừa đặt quan tài ông ấy vào huyệt thì cái bóng ấy cũng chui tọt vào
theo. Từ đó, đêm nào cũng thế. Trên mộ ông ấy có đám cháy. Người ta
còn nhìn thấy rõ trong đám cháy ấy có người đàn bà ngồi cười.
Tất nhiên là từ ngày đó trở đi, Tự Kim và đám bạn chả đứa nào
dám ra chơi ở chỗ gốc dừa nhà ông Nhuế nữa. Cũng chả đứa nào dám đi
đâu khi trời mưa, đêm tối. Mặc dù được nghe kể thế những Tự Kim cũng
chưa lần nào nhìn thấy ma. Nhưng những câu chuyện ma vẫn có rất nhiều
người muốn nghe. Ngay bây giờ, khi được về nghỉ thăm nhà, có việc đi
qua gốc cây dừa nhà ông Nhuế. Tự Kim vẫn thấy sợ. Da chân da tay nổi
như da gà run run.
Bỗng, Tự Kim nghe thấy có tiếng luỵch uỵch phía sau lưng.
Chưa kịp định thần, Tự Kim đã thấy cả một đàn chuột, con nào con nấy
cứ như cắn đuôi nhau, chui từ búi cây chặn cửa hang rầm rầm chạy ra, lao
vào trong rừng. Hết chuột là đến cáo. Chúng chạy ra khỏi hang cứ như có
con gì đuổi phía sau. Sau cùng là con gì, Tự Kim nhìn không rõ, tròn, to
như cái cối đá lăn ào ào ra. Chúng chạy suýt nữa dẫm qua cả người Tự
Kim. Ôm súng vào lòng, Tự Kim lăn một vòng vào sát chân hốc đá cạnh

152
cửa hang. Tự Kim nhắm tịt mắt lại. Đợi cho yên ắng, từ từ mở mắt ra, Tự
Kim cũng thấy A Lò ôm súng nằm bẹp gí vào một gờ đá.
Thấy lành lạnh bắp chân. Cúi xuống. Tự Kim thấy dưới đũng
ướt sũng.
Nhoài người về phía A Lò, Tự Kim lay lay.
- Này.
Như không nghe thấy gì, A Lò vẫn nằm yên, ép tai xuống nền
đất, không động cựa.
- Này.
Tự Kim quát to vào tai A Lò.
- Cái gì?
- Có làm sao không? Tại sao tôi gọi mà không nói thế? Không
biết cái gì vừa xảy ra à?
Cầm tay Tự Kim, A Lò ra hiệu nằm xuống. Áp tai xuống đất.
Tự Kim trợn tròn mắt, ngạc nhiên. Có tiếng chân ngựa nện xuống nền đất
đang đến rất gần.
- Hình như có người đang đến?
- Ừ. Có người đang đến.
A Lò vẫy tay ra hiệu. Mỗi người nép sau mô đá, súng hướng về
phía trước.

30
GIẢI TỎA

153
Trời ngả sang chiều.
Một vài cánh chim trễ nải bay về phía chân trời.
Trần Kiên lồm cồm bò từ trong nhà thuyền ra. Cuốn gọn gàng
chiếc mành che, Trần Kiên bước ra cửa. Lên mũi thuyền, Trần Kiên vừa
vươn vai vừa ngó nghiêng xem thời tiết. Nhìn mặt sóng. Những con sóng
nhỏ, hết lớp này đến lớp khác cứ thay nhau trườn lên bờ cát. Rồi, như
chơi trò đuổi bắt, chúng lại lùi ra xa, xong trườn vào bờ. Gió nhè nhẹ thổi,
hơi nước lành lạnh mơn man trên cơ thể. Hôm nay trời trở gió nam, cá
vào bờ sẽ nhiều.
Tối qua đi biển về, sau khi đã bán chỗ cá đánh bắt được cho
những người buôn để đem lên chợ, Trần Kiên chui vào nhà thuyền ngủ.
Cả sáng nay Trần Kiên cứ lúi húi sửa sang lại mấy tấm lưới. Tối qua, lúc
thu lưới, chẳng may gặp phải chiếc thuyền bạn vướng vào làm rách mất
mấy chỗ.
Dân chài lưới sông nước sống ở đâu cũng phải dựa vào nhau
trong cái cuộc sống cộng sinh con người với con người và con người với
tôm cá. Con người dựa vào nhau để vượt qua khốn khó nguy nan khi bão
gió. Người dựa vào mình và mình dựa vào người. Rồi con người lại dựa
vào tôm cá. Con người dựa vào tôm cá để sống, để tồn tại. Nhưng cũng
nhờ có con người mà các loài cá, tôm mới được con người biết đến các
loài và chất lượng giá trị thực của chính mình.
Trong môi trường sống tự nhiên, cá lớn nuốt cá bé, mọi giá trị
đều dựa vào sức mạnh của cộng đồng chứ không chỉ nhờ vả, dựa mượt
vào mỗi giá trị đích thực của bản thân. Cũng vì thế mà mọi xô xát, xích
mích ở các làng chài, trên sông, trên biển đều được giải quyết rất nhanh
gọn. Sự giải quyết ấy thường dựa vào chính khả năng làm được của họ.
Nếu có thiệt hại, không tự làm lại được thì người làm hỏng có trách nhiệm
làm trả lại phục hồi như cũ. Còn tự làm được thì bản thân sẽ tự khắc phục
mà không cần đến bất cứ một người nào làm trung gian.
Và, cũng còn một điều, người dân chài lưới, sông nước, rất
không muốn những việc của họ để người trên bờ nhúng chân, nhúng tay,
nhúng mũi vào. Cái quyền lực của người trên bờ là cái thứ quyền lực chỉ
do một nhóm người quy định ra, phục vụ cho mục đích, quyền lợi của
nhóm người đó. Nó trói buộc con người. Còn người sông nước, sức mạnh
của họ chính là thiên nhiên, chính là sự tồn tại. Sự tồn tại là quyền lực cao
nhất. Đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại đó là sức mạnh duy nhất.
Sau khi vá xong mấy tấm lưới, sẵn có bình rượu Trần Kiên nhờ
mấy người buôn bán cá mua giúp. Trưa, một mình Trần Kiên ngồi uống
gần hết. Mệt quá, tưởng ngả lưng một lúc rồi dậy chuẩn bị thuyền để đêm
đi làm rồi ngủ quên mất đến chiều mới dậy được. Không vợ, không con,

154
chỉ có con thuyền và tay lưới bầu bạn, Trần Kiên đã có đôi lúc thấy cuộc
sống thật vô vị.
Thời gian gần đây, Trần Kiên sau khi đi biển về thường cảm
thấy rất mệt. Thường sau khi trao chỗ cá đánh bắt được là chui vào thuyền
ngủ, không la cà sang mấy thuyền bạn bên uống rượu như trước nữa. Mấy
bạn làng chài có hỏi, Trần Kiên lấy cớ dịp này trộm cắp nhiều nên phải ở
thuyền trông coi. Thực ra đấy chỉ là cái cớ. Điều làm Trần Kiên nghĩ ngợi
nhiều nhất là từ hôm gặp lại Trịnh Toàn, người bạn cũ một thời quần cộc.
Đây có phải là cái duyên trời cho Trần Kiên và Trịnh Toàn có nhau hay
đây là cái ách mà ông trời quàng vào vai phải gánh.
Hôm gặp lại nhau, linh tính mách bảo Trần Kiên. Mặc dù bên
ngoài Trịnh Toàn vẫn vui vẻ trò chuyện, hỏi han hồ hởi nhưng bên trong
dường như có chuyện gì rất khó nói. Trần Kiên cứ thắc mắc trong lòng.
Phải chăng thời gian cũng đã làm cho con người thay đổi, thời gian đưa
con người đến sự nghi ngờ.
- Gớm. Ngày nay em qua anh mấy lần mà anh vẫn ngủ.
- Ừ. Mấy hôm nay trở trời nên cũng mệt. Thay đổi thời tiết nên
trong người cũng thấy khó chịu. Thế, chiều nay chú không phải đi kiểm
tra các thuyền nữa hay sao mà đến tôi?
- Hôm nay em không phải làm. Có anh em khác rồi. Qua anh
mấy lần, thấy anh ngủ thế. Đoán anh mệt. Em sang xin anh chén rượu và
xem có gì giúp được anh không thôi.
- Thế hả. Có một mình. Vỗ vai đắp miệng. Lo gì. Ngày hôm
nay chưa đi thì ngày mai. Có phải làm nuôi ai đâu mà lo.
Sếp lại tay lưới cho gọn, Trần Kiên dẹp mấy dây phao vào sát
be thuyền rồi bảo.
- Chú thích uống rượu thì lên đây. Tôi với chú làm chén.
- Vâng.
Dứt lời, Trần Minh Hồng bám tay vào cọc dây neo, nhảy lên
thuyền. Ngồi trong nhà thuyền, sau khi đã uống đôi ba chén, Trần Minh
Hồng bảo.
- Em xem gió hôm nay thấy trời đã chuyển gió nam. Tối nay đi
là dễ trúng lắm.
Trần Kiên rất ngạc nhiên khi thấy Trần Minh Hồng lại có kiến
thức về biển và đánh bắt như thế.
- Thế ra chú cũng biết về biển đấy nhỉ?
- Em cũng con nhà chài đấy anh ơi.
- Thế gia đình chú ở chỗ nào?
- Nhà em ở cửa Hóa.
- Thế sao chú lại ra đây?
- Thì em đi bộ đội. Cấp trên điều em ra đây thì em ra.

155
- Thế à. Thảo nào. Lúc tôi nhìn động tác của chú lên thuyền tôi
đã nghi nghi. Cái lối lên xuống như thế này không phải con nhà sông
nước thì khó mà làm được.
- Từ ngày nhập ngũ, không được đi biển, em thấy nhớ quá. Mấy
lần em định nói anh cho em theo đi biển một hôm mà sợ chưa dám nói.
- Cái nghề của anh em mình vất vả lắm. Chú còn lạ gì. Còn
thích đi thì đi chứ có gì mà ngại.
- Vậy, đêm nay anh cho em đi nhé.
- Được thôi. Nhưng liệu chú có bị cấp trên làm sao không?
Nói dứt lời, Trần Kiên lại chợt nhớ đến Trịnh Toàn. Cái nét mặt
của Trịnh Toàn khi nhìn thấy cái bơi chèo mà Trần Kiên nhặt được trên
biển hôm trước. Trần Kiên tự nhiên thấy áy náy. Trần Kiên bỗng thấy ân
hận vì đã trót nói ra để cho Trần Minh Hồng đi. Liệu lính của Trịnh Toàn
có như Trịnh Toàn không? Người ta nói, quan nào lính ấy.
Nhìn nét mặt Trần Kiên đang vui bỗng sa xuống. Trần Minh
Hồng đoán chắc Trần Kiên lại nhớ đến chuyện mà thủ trưởng Trịnh Toàn
đã trao đổi riêng với anh hôm trước…
Sau khi họp xong, thủ trưởng Trịnh Toàn gọi Trần Minh Hồng
ở lại. Chỉ huy trưởng muốn Trần Minh Hồng tạm thời giao việc quản lý
chỉ huy đồn lại cho đồng chí chính trị viên để tham gia làm một việc mà
theo ông là rất quan trọng. Hôm đó, đắn đo mãi, chỉ hủy trưởng mới nói.
- Tớ có việc này muốn nhờ cậu làm giúp mà không biết có được
không? Tớ tính toán mãi, chỉ có cậu may ra mới có thể làm được. Phi cậu
ra khó lòng mà hoàn thành.
- Thì thủ trưởng cứ thấy em làm được việc gì. Thủ trưởng tin
tưởng giao cho em là em làm. Chỉ có điều…
- Cậu lo việc ở đơn vị chứ gì?
- Dạ. Vâng.
- Việc đó cậu khỏi lo. Tớ với đồng chí chính trị viên trên ban
chỉ huy công an vũ trang tỉnh đã nhất trí rồi. Chỉ tạm thời trưng dụng và
tăng cường cậu một thời gian thôi. Xong việc lại trả cậu về đơn vị.
- Các thủ trưởng giao em nhiệm vụ gì cũng được. Em sẽ cố
gắng hoàn thành.
- Thế này nhé…
Trần Minh Hồng không nghĩ chuyện nhỏ thế mà lại quan trọng
đến vậy. Cứ theo nguyên tắc mà làm. Luật pháp bất vi thân. Tình hình địa
bàn đang có diễn biến phức tạp. Thấy có hiện tượng lạ, bất minh về vật
dụng thì thu giữ để xác minh làm rõ.
Nghĩ là nghĩ thế nhưng khi nghe chỉ huy trưởng ban chỉ huy
công an vũ trang tỉnh phân tích thì Trần Minh Hồng mới té ngửa. Đúng là
cuộc đời không đơn giản như một cộng một bằng hai. Nó là những mối
quan hệ nhằng nhịt có tác động đến nhau. Chỉ cần sơ suất một chút là có

156
thể làm hỏng cả một đời người. Đúng là. Nếu theo đúng quy định, nguyên
tắc của luật pháp thì việc thu giữ cái bơi chèo là bình thường. Nhưng để
kết luận được nó có đúng như nó đang diễn ra không thì lại không thể làm
được. Mặc dù cái bơi chèo đó không thuộc dạng bơi chèo của dân địa
phương hay dùng. Nhưng nó ở đâu, của địa phương nào và làm sao người
dân lại có được. Nếu đúng là của đối tượng đang cần truy tìm thì chắc
chắn đối tượng sẽ khai trước sau như một. Còn thật sự của người ta nhặt
được thì cũng sẽ khó mà sai được. Tất nhiên chuyện này không lớn. Việc
kết luận làm rõ cũng đơn giản. Cái khó là phải làm rõ thân phận của người
đó.
Với bản thân con người như Trần Kiên, nếu áp dụng biện pháp
điều tra bí mật thì với Trịnh Toàn đúng là một sự xúc phạm. Những kỷ
niệm tuổi thơ dù không đủ để khẳng định một thân phận con người nhưng
dẫu sao nó cũng là điểm xuất phát để tạo nên một nhân cách. Nhân chi sơ
tính bản thiện. Những cái đó sẽ là cái gốc cho sự hình thành tính cách con
người sau này trưởng thành. Còn điều tra công khai, sẽ khó hơn. Nếu quả
thực đúng là đối tượng thì sẽ đánh động đối tượng. Cũng có khi qua đó
mà đối tượng biết được cách đối phó, thậm chí sẽ bị mất đối tượng. Nếu
xác định sai đối tượng thì công tác điều tra lại tạo ra độ tin cậy và niềm tin
cho con người. Và tất nhiên, kết quả cũng sẽ nhanh hơn. Sau khi tính
toán, Trịnh Toàn thống nhất với Trần Minh Hồng chọn phương án điều tra
công khai. Phương án mà theo Trịnh Toàn là được ăn cả ngã về không.
Cái khó nhất của hoạt động điều tra công khai chính là chỗ phải
chọn được người có đủ bản lĩnh, có đủ khả năng để tạo được sự tin cậy
với đối tượng. Không những phải nắm chắc nghiệp vụ, nắm chắc đối
tượng mà còn phải thạo nghề của đối tượng. Con người ta, sinh ư nghiệp,
tử ư nghiệp. Sống vì nghiệp mà chết cũng vì nghiệp. Chính vì thế, nên khi
gặp được người cũng chung nghiệp sống thì sự chia sẻ và hiểu biết sẽ dễ
dàng hơn và dễ bộc lộ hơn. Và chính vì thế mà Trần Minh Hồng được chỉ
huy trưởng tin tưởng chọn giao nhiệm vụ này. Những phản ứng của Trần
Kiên như thế này cũng đã được Trịnh Toàn dự kiến trước.
Sau khi giao xong nhiệm vụ, thủ trưởng đập đập tay vào vai
Trần Minh Hồng bộc bạch.
- Cậu làm việc này không những là nhiệm vụ mà còn là giữ tình
bạn cho tớ, giữ cho con người không còn nghi kỵ, giũ bỏ cho Trần Kiên
được những gánh nặng mà trước đây con người ta đã mắc sai lầm. Con
người thời nào cũng cần sống phải có niềm tin đấy.
Nghe tâm sự của chỉ huy trưởng những điều rút gan rút ruột,
Trần Minh Hồng biết, phải làm điều này ông cũng đau lòng lắm. Nhưng
trách nhiệm và cương vị của ông phải thế. Bây giờ, ngồi đối diện với Trần
Kiên, Trần Minh Hồng nhận ra. Chẳng phải chỉ huy trưởng mà ngay Trần

157
Kiên cũng thấy đau lòng. Chính anh sẽ là người phải làm cho mọi sự được
sáng rõ, phải trả về những gì đúng chân giá trị và sự thật của nó.
Coi như mình không biết chuyện gì giữa hai người, biết gì về
mối quan hệ giữa hai người, Trần Minh Hồng hồ hởi.
- Không sao đâu mà anh. Em cũng đã nói với cấp trên rồi. Mới
lại. Em đi biển với anh cũng là đi làm việc đấy chứ có phải chỉ đi để chơi
đâu. Qua anh em cũng trực tiếp kiểm tra và chia sẻ được nỗi vất vả với bà
con làm ăn trên biển mà. Em chỉ sợ anh lo em làm anh vất vả thôi.
Tự tay lấy chiếc lọ sành đựng rượu, Trần Minh Hồng rót ra đầy
hai chén. Lấy hai tay nâng chén rượu lên, Trần Minh Hồng mời Trần
Kiên.
- Em kính anh một ly. Của người phúc ta. Rượu của anh em lấy
rót mời anh vậy. Anh uống ly này với em. Em sẽ nói hết với anh những
điều anh còn nghĩ, còn lăn tăn, còn trăn trở, thậm chí còn nghi ngờ. Em
tin rằng, khi em nói xong, anh sẽ thấy nhẹ nhõm.
Dứt lời, Trần Minh Hồng đưa chén rượu lên, uống một hơi.
Trần Kiên cũng đưa chén lên dốc cạn. Một không gian nặng trĩu như đè
lên, phủ kín trong ngôi nhà thuyền.
Từ khi được chỉ huy trưởng điều tăng cường về đồn Bãi Vàng,
tiếp xúc với Trần Kiên, Trần Minh Hồng thầm cảm phục khả năng đánh
giá nhận định về con người của ông. Những người như Trần Kiên, quả là
sự thẳng thắn luôn là sợi dây níu giữ con người với con người. Khi con
người càng chịu nhiều ngang trái, càng chịu nhiều nỗi uẩn khúc đắng cay
thì sự thẳng thắn trung thực trong cuộc sống luôn được đưa lên hàng đầu.
Có phải chăng, chính những điều đó làm cho con người sống kiên cường
và biết trân trọng sự thật. Dẫu sự thật có phũ phàng đến đâu.
- Có điều này em định nói với anh nhưng chưa có cơ hội. Thôi
thì hôm nay, em sẽ nói với anh rõ về những điều mà anh Trịnh Toàn cũng
đau khổ chẳng kém gì anh. Và em cũng nói rõ với anh là em được về đây
muốn anh làm rõ những vấn đề mà anh Trịnh Toàn và mọi người quan
tâm.
Trần Kiên khi nghe Trần Minh Hồng nói lại những điều Trịnh
Toàn trao đổi mà lòng dịu lại. Trần Kiên có biết đâu, câu chuyện tưởng
bình thường mà lại liên quan đến vấn đề lớn của đất nước như thế. Đất
nước còn chia cắt, đời sống của nhân dân còn vất vả, sự nghiệp giải phóng
dân tộc coi như mới chỉ hoàn thành một nửa. Một nửa dân tộc còn đang
chịu giày xéo dưới gót giầy của quân xâm lược, chịu sự đè nén, áp bức
của chế độ thực dân. Cả miền Bắc đang phải vừa dồn sức xây dựng xã hội
mới và vẫn phải dồn sức cho miền Nam. Hạt gạo chia hai, hạt muối chia
đôi, cách mạng mới thành công thì tránh sao khỏi những vất vả. Nhân dân
được ấm no, nước được độc lập, dù chưa đóng góp được gì cho cách
mạng nhưng Trần Kiên cũng thấy cuộc đời mình hạnh phúc. Ngay như

158
gia đình của Trần Kiên thôi. Những điều mà gia đình Trần Kiên phải gánh
chịu cũng là do cuộc sống cơ hàn, nghèo khổ mà sinh ra. Nghèo hèn làm
cho con người nhỏ nhen và ích kỷ. Nghèo hèn làm cho con người lấy cái
ăn làm chân giá trị, làm thước đo đạo đức.
Nghĩ thế, Trần Kiên thấy lòng mình nhẹ nhõm nhưng buồn. Ừ.
Có thể thời gian sẽ làm cho con người ta thay đổi. Nhưng không lẽ những
gì mà Trịnh Toàn và Trần Kiên đã có, đã sống chưa đủ độ tin cậy để làm
chỗ dựa cho niềm tin hay sao? Trách nhiệm của Trịnh Toàn với nhân dân,
với cách mạng đúng là lớn thật nhưng không lẽ vì thế mà không thể nói
thẳng với nhau. Xây dựng đất nước, xây dựng một xã hội mới là trách
nhiệm của mọi người chứ đâu chỉ của mấy người cán bộ.
Một phần muốn chứng minh sự trong sạch của mình. Một phần
cũng muốn giúp cho Trịnh Toàn và Trần Minh Hồng nhanh làm sáng rõ
được những điều về chiếc bê chèo. Trần Kiên nhìn thẳng vào mắt Trần
Minh Hồng.
- Tối nay chú đi với tôi. Tôi sẽ đưa chú ra đúng nơi mà tôi đã
nhặt được.
Nói đoạn, Trần Kiên dừng lại như đo đếm điều gì đó. Giọng
trách móc.
- Mà cái ông Trịnh Toàn này tại sao không hỏi thẳng ngay tôi.
Nếu làm giúp được các chú cái gì là tôi làm. Tôi cũng phải có trách nhiệm
trong việc bảo vệ cách mạng chứ đâu chỉ có mình mấy chú.
Bất chợt có con sóng xô vào thuyền. Đợt sóng đẩy chiếc thuyền
sát vào bờ rồi cũng theo triền sóng, chúng lại kéo con thuyền ra xa. Chiếc
dây neo giữ con thuyền ở lại. Chiếc thuyền lắc lư, lắc lư vài ba nhịp rồi
trở lại dập dềnh trên sóng.
- Đêm nay anh nhé. Hai anh em mình sẽ ra khơi một chuyến.
Nâng chén rượu lên ngang mày, Trần Minh Hồng hướng về
phía Trần Kiên.
- Anh hứa nhé.
Không trả lời câu hỏi của Trần Minh Hồng. Trần Kiên đưa chén
rượu lên, tợp một ngụm. Ngó đầu ra ngoài. Một vài chiếc thuyền đã bắt
đầu rời bến. Giữa biển cả mênh mông, chiếc thuyền nhỏ như cái lá bập
bềnh, bập bềnh gối đầu lên sóng, vượt lên sóng về phía khơi xa. Những
chiếc thuyền căng buồm, nhờ sức gió đưa đi. Những con sóng bị chiếc
thuyền gối lên, trườn về sau, hơi gợn lên trên mặt biển luồn nước nhỏ lăn
tăn. Mùa gió nam bắt đầu.

31
BÍ MẬT TRÊN CHIẾC LÁ
159
Cầm cành cây bị cháy từ A Lò và Tự Kim gửi về, Trịnh Toàn
cứ cầm lên rồi đặt xuống. Cành cây có mấy cái lá cứ như hút hồn Trịnh
Toàn. Nhìn mấy cái lá, Trịnh Toàn chỉ thấy trên mặt lá có lớp cháy vàng
vàng. Chiếc lá chỉ sạm màu xanh chứ không hề bị cháy. Trịnh Toàn cũng
cho gọi mấy cậu trinh sát lên xem nhưng chả ai có được ý kiến gì rõ ràng
và sắc nét. Bứt tách ra một chiếc, Trịnh Toàn đốt trên lửa. Không. Chiếc
lá vẫn không cháy. Nó chỉ cháy khi hơi nóng của ngọn lửa làm cho mép
chiếc lá khô đi thì lúc đó mới cháy. Mà chiếc lá cũng chỉ cháy cái phần bị
lửa làm khô đi mà thôi. Gặp phần lá còn tươi là ngọn lửa tắt ngay. Ngay
mấy chỗ mép lá, nó cháy cũng là do chịu nhiệt của ngọn lửa chứ bản thân
chiếc lá không đủ sức tự cháy được. Đưa lên mũi ngửi. Chiếc lá cũng
không hề có mùi gì khắc lạ. Chỉ mỗi mùi ngai ngái, nồng nồng của lá tươi
bị đốt.
Hết ra bàn đứng ngắm mấy cái lá từ khi A Lò và Tự Kim gửi
về, Trịnh Toàn lại xem lại bản danh sách sưu tra trên các địa bàn từ các
đơn vị gửi về. Nhiều quá. Năm 1954, có rất nhiều gia đình di cư vào Nam.
Bọn phản động, lợi dụng lòng tin của nhân dân, chúng phao tin, chúa đã
vào Nam. Thế là, khi chúa đã vào Nam thì các con chiên cũng phải vào
theo. Vào theo chúa để nếu sau này có chết linh hồn còn được lên thiên
đường. Trịnh Toàn đã nhiều lần tự hỏi. Trong mười hai điều dạy của chúa
đối với các con chiên. Có một điều chúa dạy rằng: Đối với những người
làm điều ác. Bao giờ con chim đại bàng chui qua lỗ kim thì kẻ đó mới lên
được thiên đường. Vậy những kẻ tung điều xằng bậy chúa chạy vào Nam,
liệu khi chết, chúa có chấp nhận linh hồn chúng lên thiên đường hay
không? Trong kinh thánh của chúa lại dạy rằng: Chúa ở khắp mọi nơi.
Chúa trên đầu mọi người. Ở đâu kính chúa thì ở đấy có chúa. Và như vậy,
rõ ràng là lòng kính chúa mới là điểm cơ bản và quan trọng. Chúa ở trong
tâm con chiên. Ở đâu có con chiên nhớ chúa thì ở đó có chúa lòng lành
cứu rỗi. Ở lại miền Bắc và trong lòng kính chúa thì vẫn có chúa. Chúa có
bao giờ bỏ con chiên của mình. Người dân theo chúa, đọc kinh nhưng
chưa hiểu hết lời kinh thánh răn dạy. Bọn phản động đã lợi dụng vào sự
kém hiểu biết đó để làm lòng dân bất ổn, gây ra phức tạp, xáo trộn cuộc
sống của dân. Làm phức tạp tình hình an ninh chính trị xã hội, kích động
những người kém hiểu biết chống đối nhà nước, chống đối chính quyền.
Những đối tượng là ngụy quân, ngụy quyền, lý trưởng, chánh
tổng, địa chủ, cường hào còn ở lại trên địa bàn cũng nhiều. Đất nước có
tới gần tám mươi năm chịu ách đô hộ của thực dân. Những người tham
gia vào bộ máy chính quyền thực dân nhiều là tất yếu. Trong số những đối
tượng này, không khỏi không có những đối tượng bán dân hại nước, chấp
nhận quỳ gối theo giặc song cũng có không ít người vì thời thế buộc họ
160
phải theo vì mưu sinh. Những người này, mặc dù tham gia làm việc trong
bộ máy chính quyền tay sai, thực dân song trong lòng họ vẫn một lòng vì
dân tộc. Lòng yêu nước thương nòi giống vẫn không hề thay đổi. Nhưng
số đối tượng ở lại này chính là chỗ duy nhất mà những kẻ xâm nhập phải
móc nối, xây dựng cơ sở. Những người này chính là điểm tựa, điểm dựa
cho kẻ muốn xâm nhập.
Bỏ ra cả tuần nghiên cứu, sàng lọc tài liệu nhưng Trịnh Toàn
thấy vẫn rối như tơ vò. Bắt đầu từ đâu, gỡ từ chỗ nào thì quả là Trịnh
Toàn chưa xác định được. Tất cả cứ mù mờ, mù mờ như sương. Nằm vắt
tay lên trán suy nghĩ. Đối tượng nhiều nhưng phải chọn được những đối
tượng trọng tâm để tập trung. Trong số các loại đối tượng. Ban đầu hãy
tập trung vào các đối tượng có mặt tại địa bàn. Địa bàn rộng phải tìm ra
được khu vực trọng điểm để xác minh. Và địa bàn lúc này tập trung vào
khu vực hang ma, xóm Bãi, làng Vàng và Mũi Ngọc. Những địa điểm trên
là những địa điểm đang nổi lên vấn đề nóng. Suy nghĩ, tính toán là thế
nhưng trong lòng Trịnh Toàn vẫn chưa đủ tin cậy vào những tính toán suy
nghĩ của chính mình. Lúc này Trịnh Toàn nghĩ. Có lẽ Trịnh Toàn phải xin
ý kiến của Thường vụ Đảng ủy về vấn đề này. Mỗi người cho một ý kiến,
cho nhận xét đánh giá rồi qua đó sẽ tìm ra được mối gỡ.
Cầm lại cành cây mà A Lò và Tự Kim gửi về, Trịnh Toàn ngắm
nghía, lấy kính lúp ra soi vẫn không thể hiểu được tại sao nó lại cháy. Bất
lực với chính bản thân. Trịnh Toàn ném cành cây lại mặt bàn.
Cộc. Cộc.
Không cả ngoái đầu nhìn ra cửa, ngồi nguyên trên ghế, Trịnh
Toàn đánh tiếng.
- Vào đi.
Tiếng mở cửa. Trần Minh Hồng bước vào.
- Chào thủ trưởng.
Nghe tiếng chào của Trần Minh Hồng, Trịnh Toàn đứng lên,
dợm chân đang định đi ra phía bàn nước bỗng đứng lại.
- Cậu về đúng lúc lắm. Lại đây. Tớ đang mong cậu về để bàn
chuyện này đây.
Trần Minh Hồng đến bên chiếc bàn có mấy cành cây để trên
mặt. Trịnh Toàn nhặt cành cây có mấy chiếc lá lên.
- Cậu có biết cái gì đây không?
- Dạ. Cái cành cây với mấy cái lá. Có vấn đề gì ạ?
- Đúng. Nó là cái cành cây với mấy cái lá. Nhưng cậu có biết nó
được lấy ở đâu không?
- Em biết làm sao được ạ.
- Nó được lấy từ hang ma gửi về cho tớ.
- Thế ạ. Nó làm sao thủ trưởng?

161
- Cậu cứ quan sát kỹ đi. Xem nó có khác gì với bình thường
không?
Cầm cành cây lên, Trần Minh Hồng lật nghiêng lật ngửa, lấy
kính lúp soi. Nó chỉ là mấy cái lá bị héo. Bình thường như những chiếc lá
khác.
Đợi cho Trần Minh Hồng quan sát kỹ, Trịnh Toàn hỏi.
- Cậu thấy nó bình thường như những chiếc lá khác đúng
không?
- Vâng. Không có gì khác. Chỉ có điều em không biết nó là lá
cây gì?
- Đây là lá cây trẩu. Có khác chăng là chỉ bị cháy sém trên bề
mặt lá. Kiểu như bị hơ trên lửa đúng không?
- Vâng. Đúng thế thật. Nhưng mà sao nó lại có mặt ở đây?
- Hai cậu A Lò và Tự Kim vào hang ma. Gặp đúng lúc lá cây tự
cháy. Hai cậu ấy bẻ rồi gửi về.
- Thế A Lò và Tự Kim đâu ạ?
- Tớ cho hai cậu đó ở lại để nắm thêm tình hình. Mai hai cậu đó
sẽ về và báo cáo trực tiếp.
Nhìn sâu vào khuôn mặt Trần Minh Hồng, Trịnh Toàn hỏi,
giọng gửi gắm, tin tưởng.
- Cậu có nhận xét đánh giá gì không? Về mấy cái lá này ấy?
- Theo em thì …
Thực lòng, Trần Minh Hồng cũng chưa biết nhiều về vấn đề
này lắm. Ngay suy nghĩ cũng chưa thật rõ nét về hiện tượng trên. Nhưng
thấy chỉ huy trưởng tin tưởng hỏi, Trần Minh Hồng mạnh dạn trình bày.
Theo Trần Minh Hồng nghĩ. Tất cả các hiện tượng cháy trong thiên nhiên
thường quy vào hai dạng. Một là do tác động của con người, nghĩa là
khách quan tác động. Như kiểu người ta đốt, hơ hay phóng hỏa. Hai là do
tự bản thân vật đó tự cháy. Nghĩa là do chính chủ quan của vật đó. Như
chất mê tan hay chất phốt pho chẳng hạn. Khi gặp không khí, chúng có
thể tự cháy. Mà khu vực hang ma nằm trên dải địa chất có nhiều mỏ than,
lượng khí mê tan ở đây là có thể nhiều hơn nơi khác. Lượng khí này thoát
ra từ mặt đất và khi gặp không khí nóng, chúng tự cháy. Song có thể,
lượng khí thoát ra ít nên chúng chỉ đủ làm sém lá rồi hết mà chưa đủ sức
để làm cháy.
Trần Minh Hồng cứ trung thực nói với Trịnh Toàn về những
suy nghĩ của mình. Trịnh Toàn nghe Trần Minh Hồng nói một cách chăm
chú. Nghe xong, Trịnh Toàn gật gật đầu. Bỗng, Trịnh Toàn nhíu mày, hỏi
lại.
- Thế tớ hỏi cậu. Khi khí thoát khỏi mặt đất cách bao nhiêu thì
nó mới có thể cháy được.

162
- Còn tùy thuộc vào không khí ở đó chứ thủ trưởng. Có thể khi
ở thấp, mới thoát ra khỏi mặt đất, không khí chưa đủ nóng vì do lá cây
che. Khi lên cao, không khí bị ánh nắng mặt trời đốt nóng. Và khi đó,
lượng khí mê tan bốc lên đến đây, gặp được không khí nóng và bốc cháy.
- Tốt. Đúng là như thế. Nhưng tớ lại hỏi cậu. Giả sử ta đốt ngay
tại mặt đất chỗ đó, thì lượng khí đó có cháy được không?
- Cháy chứ ạ. Sức nóng của lửa sẽ làm cho khí đó cháy.
- Tốt. Ngoài hai khả năng cháy như cậu nói ra. Cậu còn nghĩ
một khả năng nào có thể xảy ra được không?
- Ngoài hai khả năng trên ra, còn một khả năng nữa. Khả năng
này là do con người. Nhưng là do con người tạo ra. Đó chính là chất hóa
học.
- Cậu nói rõ hơn chỗ này xem nào?
- Người ta có thể làm ra chất hóa học có khả năng tự cháy.
Dùng chất đó, đem rắc lên một vật nào đó. Đợi khi chất đó, gặp không khí
nóng. Dưới tác động của ánh nắng mặt trời chẳng hạn. Chúng sẽ tự cháy.
Vừa nghe Trần Minh Hồng nói đến đó. Trịnh Toàn đấm tay
xuống bàn. Chạy lại ôm chầm lấy Trần Minh Hồng.
- Giỏi. Rất giỏi. Các cậu giỏi lắm. Đúng là: Hậu sinh khả úy.
Trần Minh Hồng ngơ ngác nhìn chỉ huy trưởng. Lúc nào trông
ông cũng nghiêm nghị, nét mặt cũng căng thẳng, như điều tra hình sự.
Thế mà khi nghe phân tích vấn đề này, ông vui thế. Chắc là ông đã tìm ra
được vấn đề gì quan trọng.
Vừa nói xong, Trần Minh Hồng đã thấy nét mặt của chỉ huy
trưởng lại đăm chiêu. Những nếp nhăn hằn sâu trên trán.
- Này. Những điều cậu phát hiện, tớ thấy rất hay. Nhưng cái
chất ấy từ đâu đến? Chả lẽ kẻ đó leo lên từng cây mà rắc lên được hay
sao? Ở một phạm vi rộng, dài như thế thì phải trên cao mới làm được. Và
kẻ đó làm với mục đích gì? Như vậy là, còn hai vấn đề nữa mà chúng ta
phải tìm được câu trả lời. Phương tiện để thực hiện và mục đích thực hiện.
Không trả lời được hai vấn đề trên thì cũng coi như không? Khi nào tìm ra
thì nhất định sẽ lộ mặt đối tượng.
Nghe chỉ huy trưởng nêu những vấn đề vướng mắc, Trần Minh
Hồng lúc này cũng thấy quả là khó tìm được câu trả lời. Tất nhiên có thể
chỉ là giả thuyết thôi. Nhưng giả thuyết đó phải thuyết phục, không thể
đoán mò, nghĩ mò. Nếu đoán mò, nghĩ mò sẽ rất tốn công sức mà không
hiệu quả. Lực lượng mỏng, khả năng phán đoán của anh em cũng chưa
phải thực sự sắc sảo. Khi đã đưa ra tình huống phải cụ thể, gần như cầm
tay chỉ việc. Cái khó của người chỉ huy khi đưa ra các quyết định chính là
vấn đề này.
Biết chỉ huy trưởng đang đau đầu vì chuyện này, Trần Minh
Hồng tuy nghĩ chưa chín nhưng cũng mạnh dạn tham gia.

163
- Anh này. Em nghĩ ra mấy cách mà đối tượng có thể làm.
Nhưng lại ngại…
Không để Trần Minh Hồng nói hết câu, Trịnh Toàn đã cắt
ngang.
- Cái cậu này. Hôm nay cậu làm sao thế. Nghĩ sao thì cứ nói mẹ
nó ra. Rào rào, đón đón. Khó chịu quá.
- Em nghĩ có thể phải máy bay anh ạ.
- Máy bay nó bay ầm ầm. Đến cậu cũng nghe thấy chứ nó im
thế nào được? Mà máy bay á. Đám cháy thành rừng, to như núi Bái chứ
nó đâu có chỉ một vệt nhỏ thế này?
- Nếu không thì đối tượng dùng khinh khí cầu.
- Có lý. Ừ. Có khi khinh khí cầu thật. Khinh khí cầu nó bay ban
đêm. Các cậu lúc đó chả đang ngủ chảy dái ra cũng nên.
- Thủ trưởng nói thế là chết chúng em. Chúng em vẫn cắt cử
canh gác quan sát chặt chẽ đấy ạ. Thủ trưởng nói thế, hóa ra chúng em bỏ
nhiệm vụ ạ.
- Ôi giời. Cái cậu này. Ai đánh giá các cậu thế đâu mà sợ.
Nhưng mà, khinh khí cầu nó bay cao. Khi nó thả xuống thì cũng phải tán
rộng chứ. Đằng này nó chỉ có một vệt ngắn thôi.
Trần Minh Hồng gãi đầu.
- Thì em cũng chỉ mới nghĩ được đến thế thôi. Thủ trưởng hỏi
thế em làm sao mà có thể nghĩ ra được. Nếu em mà nghĩ ra được hết thì
có mà….
Chỉ huy trưởng Trịnh Toàn nhìn Trần Minh Hồng đùa.
- Nếu không thì em đã là chỉ huy trưởng. Đúng không? Cậu này
giỏi. Giỏi.
- Thủ trưởng mà nghĩ thế là chết em rồi. Em đâu có ý đó.
- Thì cậu vừa nói ra đấy thôi.
- Em đang định nói là. Nếu em biết hết có mà là thánh. Như các
thủ trưởng ấy.
- Xem ra cậu dạo này cũng nói năng lên mồm lắm rồi. Mà nịnh
cũng khéo. Kiến trong lỗ cũng phải chui ra khi nghe cậu nói mất.
- Thôi. Em chả nói nữa. Nói ra, thủ trưởng bắt bẻ thế này có khi
thêm dại.
- Cậu không muốn nói cũng không được. Chuyện máy bay máy
bò để lại đó. Nghĩ sau. Mà cậu cũng phải nghĩ đấy. Bây giờ cậu thử nói về
mục đích xem nào?
- Biết thủ trưởng đùa em cũng nói thế thôi. Chứ còn một khi em
đã nói, thủ trưởng có cấm nói thì em vẫn cứ nói. Em có nói cho em đâu
mà em sợ. Và thủ trưởng cũng có phải như người khác đâu mà em lo.
Trần Minh Hồng vừa nói vừa cười khì khì.
- Em mà không nói được nữa, có mà các thủ trưởng lại lo thì có.

164
Trịnh Toàn đưa mắt nhìn Trần Minh Hồng. Trong tất cả số cán
bộ đồn, Trần Minh Hồng là người ông có thể tin tưởng được. Cái mà mọi
người không thích chỉ vì Trần Minh Hồng dám nói thật, nói thẳng. Trung
ngôn thường nghịch nhĩ. Nhưng với Trịnh Toàn, ông lại quý Trần Minh
Hồng chính là đức tính đó. Dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Một người đã dám nói thì người đó phải là người có bản lĩnh. Bản lĩnh là
yếu tố rất cần của người chỉ huy. Cái anh cán bộ mà không có bản lĩnh thì
thường là kẻ cơ hội. Trong tất cả các loại người tốt xấu thì kẻ cơ hội là kẻ
nguy hiểm và đáng sợ nhất. Với Trịnh Toàn, nói thẳng cũng có mặt tốt và
khi người nghe cũng phải có cái nhìn khách quan về vấn đề người ta nói.
Nhận thức của người ta thế nào thì nói như thế. Đó cũng là người tốt. Còn
cái anh, không nói, thực ra có khi anh ta chẳng biết cái gì. Nếu không
khéo, có khi tốt xấu lại lẫn lộn, đánh giá sai đi. Từ đánh giá sai rồi ra dẫn
đến sử dụng con người sai. Khi đó, hậu quả lớn lắm. Bao công lao của thế
hệ cha ông có khi đổ xuống sông xuống biển.
- Thế nghĩ thế nào cứ nói ra tớ nghe thử. Đang bàn với cậu chứ
có họp hành gì đâu mà phải giữ ý giữ tứ. Sợ vạ miệng rồi chứ gì?
- Sự chứ thủ trưởng. Ếch chết tại miệng mà. Nhưng chết thì
chết. Được nói ra là em khoái. Thế thôi. Nếu biết sợ đã không còn là em
nữa.
- Biết rồi. Cậu ngang như cua. Được chưa. Thế theo cậu. Mục
đích của việc làm trên là gì?
- Theo em. Đối tượng làm việc trên chỉ có hai mục đích. Thứ
nhất là gây hoang mang trong nhân dân, gây sự hoảng loạn rồi từ đó làm
cho tình hình trong dân mất ổn định về trật tự xã hội. Và thứ hai là lợi
dụng vào tình hình đó đục nước béo cò, tạo thuận lợi và địa bàn hoạt
động.
Sau khi trả lời xong, Trần Minh Hồng nhìn Trịnh Toàn. Ngập
ngừng một lát rồi Trần Minh Hồng mạnh dạn nói.
- Thủ trưởng để em gọi A Lò và Tự Kim về hỏi thêm rồi sẽ nói
rõ hơn. Còn bây giờ, em muốn thủ trưởng gặp một người. Người này quan
trọng hơn việc ở hang ma nhiều.
Trịnh Toàn đưa mắt nhìn Trần Minh Hồng có ý thăm dò chuyện
gì. Trần Minh Hồng nhìn Trịnh Toàn cười cười không nói.
- Ai mà quan trọng thế?
- Gặp rồi thủ trưởng biết ngay.
- Cái cậu này làm mất việc quá. Ai thì cứ nói ra xem nào?
- Người mà thủ trưởng rất muốn gặp. Em bảo đảm như thế.
Nhăn trán nghĩ một lát, Trịnh Toàn hỏi.
- Trần Kiên phải không?
- Thì thủ trưởng cứ gặp đã.

165
- Thế ông ấy đang ở đâu? Thế mà từ nãy đến giờ cậu không nói
ngay. Chờ lâu ông ấy lại bỏ về thì chết. Cứ đứng đây mà thiên hô bồ tát
mãi.
Nói rồi, Trịnh Toàn lập cập bước ra ngoài.
- Cậu đi với tớ. Nhanh lên. Đưa tớ ra đó.
Nhìn theo Trịnh Toàn, Trần Minh Hồng cũng lập cập chạy theo,
cười, lắc lắc đầu. Trần Minh Hồng thấy trong lòng tràn ngập một niềm tin
yêu, một tình cảm như người cha, người anh của mình với chỉ huy trưởng.
Trần Minh Hồng thấy mình may mắn biết bao khi có người chỉ huy như
Trịnh Toàn.

32
166
ĐIỀM GỞ

Mụ Đoác cả đêm qua không ngủ. Mụ hết đứng lại ngồi rồi đi ra
đi vào. Lòng mụ như ai đem lửa vào đốt. Từ khi lão Tảng nói với mụ đi
vào hang ma là lòng mụ đã không yên. Mọi lần lão đi, lòng mụ không như
lần này. Nhưng lần này lại khác. Khi lão Tảng bước chân đi là lòng mụ
Đoác đã thấy bồn chồn không yên. Linh tính báo cho mụ biết có chuyện
không lành. Mấy lần mụ đã định đi vào hang ma xem lão có làm sao
không nhưng rồi mụ lại sợ. Tính lão Tảng, mụ biết. Bình thường lão hiền
lành như cục đất, lăn đâu cũng được, ném đâu cũng xong, nhưng khi lão
nóng lên, lão dữ hơn cả con beo, con cọp, hơn cả bò điên.
Mụ Đoác lo cho lão từ hôm lão vào hang bị trúng bẫy cò ke,
bắn cho dập dái. Mụ thừa biết. Kiểu bẫy đó chỉ có của lão với cậu chủ là
mới có cái kiểu bẫy thế. Hôm đó mụ đưa lão về nhưng tịnh không dám
nói gì. Nhưng mụ cũng không lạ gì cậu chủ. Cúc cung phụng cậu thì
không sao. Trái ý cậu chủ xem. Cậu cho chết ngay. Với cậu chủ, người ăn
kẻ ở chỉ như con chó. Nếu khi con chó hết tác dụng coi nhà, cậu chủ sẵn
sàng làm thịt ngay. Đã vướng vào cậu rồi, có muốn yên cũng khó. Mà cả
đời lão, như định mệnh, dính vào cậu chủ rồi. Mụ có muốn gỡ cũng khó
mà gỡ cho được.
Chưa bao giờ trong đời, mụ Đoác mong trời sáng như hôm nay.
Mụ nghểnh tai ra ngoài nghe ngóng. Mụ chờ tiếng gà gáy phía rừng. Mụ
chờ tiếng chân nặng nề, bậm bịch của lão bước mà như nện trên nền đất.
Mỗi khi nghe tiếng con mang tác nhau ngoài rừng, tiếng con chim bắt cô
trói cột réo ngoài núi vọng lại, mụ lại càng lo. Mụ nghe tiếng sương rơi
lộp bộp trên lá mà như muối sát ruột. Cả đêm mụ cho củi vào bếp để giữ
lửa. Mụ biết, lão Tảng có bị bịt mắt thì lão vẫn tìm được đường về. Nhưng
mụ Đoác muốn để lửa làm hướng cho lão tìm về, báo cho lão, mụ còn
thức chờ lão. Nếu lão có định làm gì nữa thì khi lão nhìn thấy lửa mụ vẫn
để cháy sáng, lão sẽ biết mụ còn thức để chờ và khi đó, thế nào lão cũng
mò về. Bao năm nay mụ thuộc tính nết của lão rồi. Đêm nào lão đi vào
rừng săn, dù lão có nghĩ sẽ còn đi tiếp. Nhưng khi lão đã nhìn thấy lửa
bếp mụ còn để cháy là thế nào lão cũng phải ghé qua. Vào nhà, lão chưa
vật mụ ra được là chưa xong. Bao giờ lão vật được mụ ra rồi, khi đó, lão
có đi tiếp mới đi. Mụ Đoác thấp thỏm chờ lão đến mờ con mắt.
Đang ngồi cho thêm củi vào bếp, mụ Đoác gần như chồm người
lên. Mụ nghe có tiếng chân bước bậm bịch từ xa. Mụ lao ra cửa. Gió núi
mang theo hơi sương lạnh táp vào mặt. Mụ thấy tỉnh táo hẳn. Mụ nghiêng
hẳn tai ra phía ngoài nghe ngóng. Không thể lẫn vào đâu được. Tiếng
bước chân nặng như nện xuống đất, bậm bà bậm bịch chỉ có ở lão, không
lạc vào đâu được.
167
Lão Tảng bước vào nhà. Người lão ướt nhình, tóc bết nước. Lão
đặt chân vào trong nhà mang theo cả hơi lạnh vào theo. Tay lão xách lủng
lẳng con dũi, ném phịch về phía góc nhà. Lão đi đến bên cái bếp đưa hai
tay hơ hơ. Hơi nóng từ trong bếp tỏa ra, hơi nước từ chiếc áo của lão bốc
hơi. Từ làn hơi nước của chiếc áo lão mặc thoát ra mùi hôi hôi như phân
trâu đầm chuồng. Cái thứ hơi quyện giữa mùi phân và mùi nước đái của
loài nhai lại.
Mụ Đoác đến gần. Mụ nhăn mặt. Khịt khịt mũi như tiếng khịt
của loài dũi. Mụ ném cho lão chiếc áo.
- Cởi áo ra thay đi. Mùi khiếp quá.
Lão Tảng nghe thấy mụ Đoác nhắc nhưng lão làm như không
nghe thấy, hai tay vẫn đưa hơ hơ về phía bếp lửa. Thỉnh thoảng lão lại đưa
lên áp vào má.
- Thay áo đi. Người đâu mà hôi như cú.
Lần này thì lão không im nữa. Lão quay sang phía mụ Đoác.
- Tao hôi chứ mày hôi à. Thối mồm.
Mụ Đoác đưa mắt lườm. Lão cũng không thèm để ý. Kệ. Mụ
thích nói cứ cho mụ nói. Nói chán, nói đến mỏi mồm thì cũng phải thôi.
Lão ngồi bên bếp một lúc nữa, khi cái áo của lão đã khô, lão nghe thấy
bụng lão réo sùng sục. Lão quay sang chỗ mụ Đoác.
- Còn cái gì ăn được không?
Miệng lão hỏi, tay lão cởi áo, vứt về phía mụ Đoác. Mụ Đoác
nhặt cái áo lên, miệng lủng bủng.
- Đúng là đồ dở hơi. Lúc lạnh thì không thay. Khi khô rồi lại
thay.
Mụ Đoác tay vẫn cầm chiếc áo của lão Tảng, đi lại góc bếp, lấy
cái nồi đưa cho lão. Lão Tảng đặt cái nồi cạnh bên bếp như muốn làm
nóng lên. Lão đứng lên với cái típ xôi treo bên móc cột. Mụ đặt lên trên
bếp nồi nước lã.
Khi cái nồi lão đặt bên bếp đã có hơi nước phả ra qua cái nắp.
Lão Tảng mở vung rồi đưa cả tay vào trong mà bốc. Lão lôi từ trong ra
cái cánh gà, đưa lên miệng cắn rôm rốp.
- Sao nay đi về muộn thế?
Mụ Đoác nhìn lão Tảng ăn, nhẹ nhàng hỏi.
- Còn đi thăm bẫy.
- Cậu có cho tiền không?
Nghe mụ Đoác hỏi thế, lão đưa tay xuống cạp quần rồi nắm lấy
chỗ gần cạp, giật giật. Từ trong lần cạp quần, cuộn giấy tuột ra. Lão nhặt
lên, ném vào lòng mụ Đoác.
Mụ Đoác nhặt lên, tháo dây buộc ngoài, dùng hai tay lân lân
chỗ tiền đang cuộn tu tu như tổ sâu. Mụ đưa tay lên chấm chấm nước bọt,
đếm.

168
- Đi cả ngày cả đêm mà có thế này à?
Lão Tảng miệng vẫn nhai nhồm nhoàm, lụng bụng.
- Còn hơn là làm không có một xu. Cả đống thế mà còn chê ít.
Đúng là đồ tham hơn chó.
Lão đưa mắt nhìn mụ Đoác. Ánh lửa hắt vào mặt mụ cũng sáng
lên hồng hồng. Lão nuốt chỗ thịt còn đầy trong miệng. Cái yết hầu như cố
đẩy cái chỗ thức ăn quá to ấy xuống phía dưới mà phình ra to như nắm
tay. Cái yết hầu tụt xuống phía dưới rồi nằm lại đó. Lão đưa tay lên nắn
nắn bên ngoài cổ, chỗ yết hầu. Nhìn lão làm chả khác gì như lối người ta
khi dồi lòng lợn, nhân cho nhiều quá mà lấy tay bóp bóp cho nhân nhỏ lại
rồi vuốt vuốt cho trôi xuống.
- Cậu dặn tiêu pha vừa vừa thôi. Đừng thấy có lắm rồi mà nứng
lên mua cho đẫy các thứ vào rồi chết.
Đánh mắt nguýt lão Tảng cái rõ dài. Trông cái điệu mụ Đoác
làm duyên cũng không giống ai. Mắt mụ liếc, môi mụ dẩu ra, cánh mũi
phập phồng, phập phồng chả khác gì cánh con bươm bướm sắp bay. Mụ
trách móc.
- Thế người ta mua sắm cho người ta chắc.
- Thì cậu dặn thế.
- Cứ làm như người ta còn nhỏ lắm đấy mà phải dặn.
- Cũng tại mụ hay tí tởn lắm nên cậu mới phải dặn thế.
- Có dặn vậy chứ dặn nữa, nếu không từ cái lỗ của người kia
chui ra thì cũng từ lỗ kẻ này mà ra cả.
Sao bỗng dưng mụ Đoác thấy thương lão Tảng đến thế. Lão
ngồi cái lưng gập xuống, đầu gối chạm tai. Chả bù cho ngày trước, lão to
như con trâu mộng, ngực nở như ngực con ngựa đực, bắp chân bắp tay cứ
cuồn cuộn như dây thừng dây chão. Ngày đó, mỗi khi thấy bà Năm cho
gọi lão vào, mụ lại rủa thầm. Cái tay kia nó mà ghì cho thì có mà gãy
lưng. Người nó to như con trâu mộng thế kia mà nó đè cho có mà bẹp
ruột. Rủa là rủa thế chứ mụ cũng mong có lúc được cái tay kia nó ôm siết
lấy sườn, cái thân trâu mộng nó ép xuống tấm ván kêu răng rắc.
- Đi lâu thế để người ta lo lo là.
Mụ lấy mông hẩy hẩy vào vai lão.
- Trời sắp sáng rồi. Có đi nằm một tý không?
Lão Tảng vẫn ngồi không nói. Người lão nghiêng nghiêng theo
nhịp hẩy hẩy mông của mụ Đoác. Mụ Đoác nhìn xói vào mặt lão. Cái mặt
lão khó đăm đăm. Chắc lão lại đang lo lắng, nghĩ ngợi cái gì. Hay là cậu
chủ vừa nói gì với lão. Mụ ngồi xuống bên cạnh.
- Sáng nay, lúc lão vào rừng, lên hang ma. Tôi thấy có hai
người công an cũng đi ngựa vào hướng đó.
Nghe thế, lão xoay hẳn người về phía mụ Đoác, giọng lo lắng.
- Mụ nói sáng nay hả?

169
- Sáng nay. Lúc tôi vào rừng hái rau.
- Thế họ có nhìn thấy mụ không?
- Không. Tôi đang nhặt nắm rau. Nghe tiếng ngựa qua, ngoái
đầu lên nhìn thì thấy. Nhưng họ không thấy tôi.
- Thế mụ đã thấy họ về chưa?
- Chưa. Thấy họ vào đó mà lão chưa về nên làm người ta đợi
gần hết đêm. Nếu không thế, người ta lo mà thèm vào à.
Lão Tảng ngồi thừ mặt ra. Lão không biết nên làm thế nào bây
giờ. Chiều qua, khi lão lên hang ma, thằng Đô, thằng Đồ nói nó sẽ lên gặp
cậu chủ. Nếu chúng nó lên đó thì nguy to. Biết làm thế nào để báo cho cậu
chủ. Lão mà lên bây giờ có khi lão cũng gặp nguy hiểm. Bỗng lão thấy
bực với mụ Đoác. Biết có người vào hang mà không tìm cách báo cho lão
để lão nói cho cậu chủ. Cậu chủ có làm sao thì lão không sống được. Rồi
lão lại thầm trách cậu chủ. Làm sao mà cậu chủ cứ phải đòi gặp cho bằng
được hai thằng Đô, thằng Đồ. Rừng có dày mấy cũng đâu che được hết
nắng. Thú có khôn mấy cũng đâu có thoát được tay người. Hay là cậu
không tin lão? Cậu sợ lão thay lòng đổi dạ? Cậu bây giờ không còn tin ai
nữa. Ông chủ chết là do ông chứ đâu có do ai. Ông tự thắt cổ tự tử chứ có
ai đâm, ai chém ông đâu? Ông chết là do ông không còn được sống như
trước nữa thôi.
Nhìn mặt lão Tảng tái đi khi nghe mụ thông báo có người vào
hang ma. Mụ đoán chắc lão lại lo cho cậu chủ. Mặc dù lão cũng chỉ là
hạng tôi tớ, con ăn, thằng ở nhà cụ chủ nhưng cái tình của lão với cậu chủ
thì không chỉ có thế. Ngày cậu chủ còn nhỏ, cậu lẽo đẽo theo lão. Việc
săn bắn, bẫy thú, đi rừng của cậu cũng đều do lão dạy. Cái ăn có được từ
rừng cũng là nhờ lão. Lão chiều cậu như con. Mụ Đoác biết. Cả đời lão
không vợ nên lão dành tất cả tình cảm cho cậu.
- Liệu cậu chủ có làm sao không?
- Biết làm sao được - Lão Tảng nhìn mụ trách móc - Khi thấy
có người vào hang ma phải báo cho biết để tránh đi. Đúng là mụ…
Lão Tảng còn định nói thêm điều gì đó nhưng rồi lão chợt nghĩ.
Mụ không sinh ra cậu chủ nhưng cũng là người nhà cậu chủ. Dẫu mụ
chẳng được cụ chủ để mắt đến, cho ra chuồng trâu chuồng ngựa nhưng
mụ vẫn là chỗ mà cậu chủ coi hơn lão. Lão có được mụ cũng âu là cái số
trời cho lão.
Lão lo lắng thế nhưng rồi lão vẫn tin cậu chủ. Lão biết cậu. Cậu
chủ cũng là người đã đi dày gót chân, ăn cơm thiên hạ đến mòn bát mòn
đũa. Chắc cậu sẽ biết phải làm gì. Cái lão lo nhất là hai thằng Đô, thằng
Đồ. Hai thằng này liếm gót cậu chủ chưa xong. Nếu khôn ngoan cậu chủ
mười thì chúng nó chưa được lấy một phần. Quen thói ăn sung mặc
sướng, có người hầu từ miếng ăn đến cả chuyện đi ỉa. Hai thằng chỉ ham

170
chơi chứ không như cậu chủ. Cậu tuy cũng được nuông chiều nhưng vẫn
có tính tự chủ.
Bỗng lão đứng lên, với tay lấy cái nỏ và khoác khẩu súng kíp
lên vai. Mụ Đoác thấy thế vội hỏi.
- Lão lại định vào rừng đấy à?
- Ừ. Lão Tảng đáp cộc lốc.
- Sao không để sáng hẳn rồi hãy đi? Lão vừa về xong.
- Không đợi được. Đi ngay thì may ra mới kịp được.
- Nhưng mà…
- Không phải lo. Nếu có gặp. Tao nói tao vào rừng thăm bẫy.
Nói chưa hết câu, lão đã bước ra khỏi cửa. Mụ Đoác đi theo ra
đến cửa. Đợi bóng lão khuất sau hàng rào rồi quay vào. Mụ cho thêm củi
vào bếp. Nồi nước đặt trên bếp sôi sùng sục. Mụ bỗng thấy sờ sợ. Chiều
nay, khi mụ đi ra chiếc cầu Ghềnh như lão Tảng dặn. Mụ thấy hai bên mố
cầu có bốn năm người mặc sắc phục đi đi lại lại. Mụ để ý, không thấy họ
có biểu hiện gì là đi qua mà có vẻ là ra đấy canh gác. Chả lẽ họ biết việc
của lão Tảng nói với mụ rồi sao? Mụ sợ, vội về nhà. Bây giờ lại thêm
chuyện này, mụ thật sự không yên lòng chút nào.
Mụ ra cửa. Bóng tối còn trùm lên cả khu rừng. Sương mờ mờ,
đùng đục che kín mọi ngõ ngách. Mụ Đoác thở dài. Tự nhiên mụ thấy đôi
chân mềm ra, không thể đỡ được cái thân của mụ nữa. Mụ Đoác vội ngồi
phịch xuống nền nhà.
Mụ Đoác nhìn ra cửa. Chiếc cửa chập chờn trước mắt, mờ mờ
trong sương. Chiếc cửa như chiếc thòng lọng thòng xuống cổ mụ. Chiếc
thòng lọng cứ thít dần, thít dần. Mụ Đoác thấy nghèn nghẹn ở cổ. Mụ
Đoác nấc lên, ngã vật xuống nền nhà.

33
ĐÊM TRONG HANG MA
171
Sau khi về bản, nhờ người đưa cành cây tự cháy trong rừng bên
chân núi Bái về ban chỉ huy, A Lò và Tự Kim quyết định trở lại hang ma
để tìm hiểu tiếp. Cả đêm, A Lò và Tự Kim phải đốt lửa để sưởi. Hơi lạnh
từ trong đá càng về đêm càng lạnh. Thấy ánh lửa bầy dĩn, muỗi, vờ, thiêu
thân bay đến. Chúng lao vào đống lửa mà quên đi cái chết từ chính việc
chúng làm. Khi A Lò và Tự Kim lấy được cành lá tự cháy gửi về ban chỉ
huy, cả hai lúc đầu cũng đã định về tỉnh báo cáo trực tiếp. Dùng dằng mãi
và cuối cùng cả hai quyết định ở lại.
Nghĩ lại lúc chiều cả A Lò và Tự Kim cứ ôm bụng cười. Cả A
Lò và Tự Kim ôm súng nằm ép vào hốc đá trước cửa hang chờ. Tiếng
chân ngựa xa dần rồi chìm vào tiếng rừng. A Lò không nghĩ Tự Kim lại
yếu bóng vía đến thế. Ấy thế mà, khi đồn trưởng và chỉ huy trưởng gọi lên
giao nhiệm vụ hăng lắm. Lúc ấy sao mà anh dũng và bản lĩnh thế.
A Lò biết. Tự Kim nhát, lúc chiều, bị bất ngờ mà đã sợ vãi đái
cả ra quần. Để Tự Kim ở lại chắc sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và ngay bản
thân Tự Kim cũng không dám nhận ở lại. Lúc chiều mải tìm cách lấy đám
lá cháy rồi gửi về ban chỉ huy cho kịp, A Lò và Tự Kim cũng chưa kịp
xác minh xem tiếng bước chân của người vào khu rừng là ai. Khu vực
rừng bốn xung quanh chân núi Bái là vùng sâu, xa, nguy hiểm. Họ vào
đây làm gì? Trong khu vực này làm gì có đất mà làm nương. Những
người vào đây chủ yếu là người đi săn bắn thú rừng. Hay nơi đây có con
đường tắt cắt rừng sang bên kia biên giới mà A Lò và Tự Kim chưa biết.
Chọn chỗ bằng phẳng, A Lò và Tự Kim nhặt củi khô về nhóm
lửa. Việc nhóm lửa là cùng bất đắc dĩ. Đi kiểm tra mà đốt lửa thì có khác
nào thông báo cho đối tượng, nếu có, biết mà lẩn trốn. Nhưng lạnh quá, cả
A Lò và Tự Kim rét không chịu được. Và đốt lửa cũng là cách để xua
đuổi các loài thú khi chiều biết đâu lại quay trở lại hang. Lửa đã làm ra sự
sống trên trái đất và lửa cũng là sức mạnh của trái đất. Chính lửa đã mang
đến cho trái đất sự phát triển sinh sôi.
Ngồi tựa lưng vào vách hang, A Lò và Tự Kim cuốn mình
trong chiếc chăn chiên. Tối qua, trước khi đi ngủ, già bản La Khê nhắc
khi đi nhớ mang theo chăn ấm. Nếu không có già bản La Khê nhắc, chắc
cả A Lò và Tự Kim không nghĩ đến tình huống này. Đúng là khôn đâu
đến trẻ, khỏe đâu đến già. Kinh nghiệm đi rừng, ở rừng quả là cả A Lò và
Tự Kim không bằng một phần của già bản.
Mùi sắn chín từ trong bếp tỏa ra. Cái mùi hương sắn chín thơm
ngầy ngậy, bùi bùi. A Lò lấy que gẩy gẩy cho củ sắn lăn ra ngoài. Khi củ
sắn vừa lăn ra khỏi đống lửa, Tự Kim nhoài người ra nhặt lên. Vừa cầm
lên, Tự Kim ném vội xuống, đưa hai tay lên tai. A Lò thấy Tự Kim ham
ăn quá, bị nóng cười.
172
- Đúng là. Khi ăn chẳng gọi đến ai. Đến khi bị nóng cứ tai mà
sờ. Đáng đời. Tham ăn cho lắm vào.
Tự Kim nhìn A Lò, tay lấy que củi khều khều cho củ sắn lăn về
phía mình.
- Chả biết ai. Sắn chưa chín đã bới. Giá không nhanh thì cũng
đã kéo nó về phía mình.
- Thôi. Không phải nói. Ai thế nào nhìn đấy thì biết.
Nhặt củ sắn lên, Tự Kim đưa lên mũi ngửi, hít hà làm ra vẻ
ngon lắm. A Lò đưa thêm củi vào đống lửa. Những tàn lửa bay tóe lên
như hoa. Thấy tàn hoa lửa bay lên cao, A Lò rút vội thanh củi ra, chỉ để
đầu thanh củi vừa chạm vào mép lửa. A Lò gẩy ra khỏi bếp một củ sắn
khác. Lấy que cời cời về phía mình rồi nhặt chiếc lá xanh, A Lò lót tay,
cầm củ sắn lên.
Dùng hai tay xoay xoay cho đám than bám xung quanh rụng ra,
A Lò nhẹ nhàng bóc một chỗ lớp vỏ cháy, rồi cứ thế, một tay xoay, tay
kia gỡ lớp vỏ ra. Một lớp bột trắng, thơm phưng phức tỏa khói.
- Này.
Tự Kim vừa nhai vừa hỏi nói chuyện với A Lò.
- Gì.
- Ông có nghĩ. Chiều nay liệu có người vào khu rừng này
không?
- Ăn xong rồi nói.
A Lò nhấm nhẳm trả lời. A Lò thừa biết là Tự Kim hỏi chuyện
chẳng qua là để lấp liếm nỗi sợ mà thôi.
- Sao không chắc lại ở lại đây?
A Lò không trả lời ngay mà hỏi lại
- Lão sợ chứ gì?
- Sợ gì mà sợ.
- Không sợ mà vãi cả ra quần.
- Chẳng qua là lúc đó người ta mót quá. Đúng lúc đó nó thế.
- Thôi đi ạ. Con xin bố. Chỉ được cái nói khoác. Nhưng dẫu sao
cũng còn may chán. Chưa vãi ra quần nhỉ.
A Lò nói xong cười khùng khục. Tự Kim bị nhắc lại chuyện
chiều mặc dù rất cáu nhưng không biết làm sao được. Tự Kim chỉ sợ A Lò
lại đem kể chuyện này với mọi người thôi. Lúc đó thì xấu hổ lắm.
- Chuyện đó, ông đừng nói hay kể cho ai nhé. Tôi xin ông đấy.
- He he. Nếu không muốn bị lộ thì đút lót gì đây. Thông tin đắt
nhất đấy. Hối lộ bao nhiêu thì nói ngay.
- Thì ông thích gì?
- Thích à. Thích thì nhiều thứ lắm. Không biết có đáp ứng được
không?

173
- Thì sau chuyến công tác này, tôi đưa ông đi chiêu đãi bữa thịt
chó là cùng chứ gì.
Trêu chọc nhau một lúc thì cả A Lò và Tự Kim không thể
cưỡng lại được cơn thèm ngủ kéo đến. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng
cơn buồn ngủ kéo sập mi mắt xuống. Chuyện một hồi cũng vãn nhưng có
lẽ, ai cũng buồn ngủ nên có cố tìm chuyện để nói cho tỉnh ngủ thì câu
được câu chăng. Cả A Lò và Tự Kim chẳng ai nói ra nhưng cứ thế ngồi
tựa vào vách đá mà ngủ.

* *
*

Phan Lềnh nằm thụt hẳn đầu vào trong cái hốc phía giáp trên
nóc hang, không dám trở mình. Nằm nghe chuyện trêu đùa của A Lò và
Tự Kim. Phan Lềnh nghĩ mông lung, tay không rời khẩu súng. Phan Lềnh
nắm chặt báng súng đến nỗi mồ hôi tay làm ướt cả phần báng, nham nháp.
Chiều nay, khi A Lò và Tự Kim trèo lên cây để lấy lá mang về
dưới kia, Phan Lềnh ngồi trên đỉnh Con Cóc nhìn thấy hết. Phan Lềnh lúc
đầu đã định trốn khỏi hang. Trong ba mươi sáu chước thì chước chuồn
bao giờ cũng là thượng sách. Phan Lềnh cứ nằm nép sát xuống đám cỏ rồi
tuồi dần về phía sau dãy núi. Điều Phan Lềnh lo nhất là nếu theo đúng
như lão Tảng nói thì chiều nay, thằng Đô, thằng Đồ sẽ lên đây gặp Phan
Lềnh. Nếu hai thằng Đô, thằng Đồ lên đây thì có khi hỏng việc. Phan
Lềnh chửi thầm lão Tảng. Phan Lềnh sao thấy lão Tảng ngu đến thế.
Không cái gì lão có thể tự nghĩ ra được. Phan Lềnh cứ phải dặn dò từng ly
từng tý một mà làm cũng không xong. Rồi Phan Lềnh bực với chính
mình. Phan Lềnh cứ phải chết dí ở trên núi, phải chui lủi như con cầy, con
cáo. Nếu không, những chuyện mà lão Tảng làm, Phan Lềnh nhắm mắt là
xong. Mà hai thằng Đô, thằng Đồ cũng ngu. Làm cái gì cũng chẳng nghĩ
trước nghĩ sau, cứ làm hùng hục như trâu húc mả. Chỉ được cái khỏe, thấy
nói thế nào là tin như thế. Nghe lão Tảng nói lên đây gặp Phan Lềnh, có
khi đi cũng chả để ý để tứ xem thế nào, cứ nói đi là đi.
Nghĩ là thế, lo là thế nhưng Phan Lềnh tính. Nếu hai thằng Đô,
thằng Đồ có lên đây, giả sử không gặp được Phan Lềnh thì công an có bắt
được thì cũng không làm được gì. Nếu có hỏi thì hai thằng Đô, thằng Đồ
cứ nói là đi săn hay đi đặt bẫy là chẳng có gì để buộc tội. Khi hai thằng
Đô, thằng Đồ lên đây, không gặp được Phan Lềnh rồi chúng nó cũng phải
tìm đường về.
Phan Lềnh tụt dần xuống đến lưng lửng sườn núi thì bất ngờ
Phan Lềnh lại nghĩ khác. Phan Lềnh thấy hai người này có vẻ còn trẻ, lại
xem ra không thông thạo khu vực núi Bái này cho lắm. Nhất là khi thấy A
Lò và Tự Kim trèo lên cây để bẻ cành dãy cây bị cháy thì Phan Lềnh tự

174
nhiên lại tò mò muốn biết họ đang định làm gì. Cái máu mạo hiểm, yêng
hùng bỗng trỗi dậy.
Phan Lềnh lại lặng lẽ bò theo lối vừa trượt xuống để lên đỉnh
Con Cóc. Từ trên này, Phan Lềnh có thể quan sát cả một khu vực gần hết
của khu rừng. Nằm quan sát mọi hành động của A Lò và Tự Kim, Phan
Lềnh yên tâm dần. Cứ theo các việc mà Phan Lềnh quan sát được, chứng
tỏ họ chưa biết gì. Việc họ lên đây có khi cũng chỉ là để dẹp dư luận hang
ma có ma mà thôi. Và Phan Lềnh thấy vui, thấy ý định của mình đã đạt
được. Việc bên công an cho người lên đây chắc chắn là tình hình an ninh
và trật tự ở dưới mấy bản chân núi đang phức tạp, rối ren. Phan Lềnh
không lạ gì cách thức làm việc của mấy người này. Chỉ khi nào có việc
cần làm thì họ mới xúm vào chứ còn họ chưa thể đủ lực để làm những
công việc có tính dài hơi. Lực lượng còn mỏng, chính quyền mới được
thành lập, mọi cái còn mới, còn nhiều việc phải làm, nên việc làm sổi là
tất yếu. Có muốn cũng chưa thể làm được.
Mặc dù nghĩ hai người đang ở trong hang kia không biết được
mình nhưng Phan Lềnh vẫn chưa thật yên tâm. Khi họ đã lên đây có nghĩa
là khu vực núi Bái cũng đã nằm trong tầm ngắm của họ. Phan Lềnh cứ
nằm tính toán những bước tiếp theo. Khu vực núi Bái này rộng thật nhưng
cũng là nơi mà các tay đi săn hay mò đến. Phan Lềnh thấy không yên tâm.
Càng nghĩ, Phan Lềnh càng thấy hận. Phan Lềnh hận với
những kẻ đã làm cho bố Phan Lềnh phải thắt cổ mà chết. Phan Lềnh hận
vì những đóng góp của Phan Lềnh không được đánh giá nhìn nhận, bao
công lao đều đổ xuống sông xuống biển. Phan Lềnh hận với chính bản
thân mình không thức thời. Hết hận chuyện nhà đến chuyện bản thân,
Phan Lềnh nằm nghe tiếng con chim bắt cô trói cột cứ ra rả kêu ngoài
rừng, tiếng cú rúc đến sốt cả ruột. Phan Lềnh thấy lũ chim, lũ cú sao mà
kêu lắm thế, rúc lắm thế.
Nằm trong hốc đá, Phan Lềnh lặng lẽ đưa nòng súng ngắm vào
đầu A Lò rồi lại từ từ đưa sang ngắm vào Tự Kim. Bây giờ nếu Phan
Lềnh chỉ cần siết tay cò súng là có thể hạ được cả hai người.
Phan Lềnh từ từ siết tay cò.

34
ĐỘNG CỎ ĐÁNH RẮN

175
Trịnh Toàn không ngờ chuyện của ông với Trần Kiên lại được
giải quyết nhanh như thế. Điều mà Trịnh Toàn thấy vui nhất không chỉ là
mọi nghi ngờ, thắc mắc của ông được làm rõ mà chính là một phần nổi
của công việc đã được loại bỏ. Hướng điều tra cũng được thu hẹp lại.
Chiều qua, khi Trịnh Toàn về đến phòng làm việc lại nhận
được bức điện từ Ban công an vũ trang Trung ương gửi xuống. Bức điện
khẳng định lại một lần nữa việc đối phương có thể sử dụng phương thức
hoạt động gián điệp biệt kích để đánh trở lại miền Bắc nhằm thu thập tin
tức tình báo là có thể xảy ra. Mặc dù đã tung các lực lượng điều tra theo
các hướng nhưng phải nói là, cho đến giờ phút này, tất cả vẫn chỉ là dự
đoán, không có đủ căn cứ để xác định có hay không đối tượng đã tung
gián điệp biệt kích vào địa bàn.
Việc chiếc bơi chèo thu giữ từ Trần Kiên đã được làm rõ. Trần
Kiên chỉ vô tình nhặt được khi chiếc bơi chèo trôi nổi trên biển. Bây giờ
đang là mùa gió nam, việc các ngư dân phía trong ra đánh bắt ngoài vùng
vịnh Bắc bộ vẫn thường xuyên xảy ra. Việc chiếc thuyền bị trôi dạt cũng
có thể do ngư dân khi đi đánh bắt, gặp sóng to hay do ban đêm bị tuột dây
buộc mà trôi dạt vào khu vực Mũi Ngọc. Chuyện nhặt được những thứ
này cũng là chuyện thường tình.
Chuyện hang ma có ma cũng chỉ là dư luận. Việc xác định
được ai nói, từ đâu phát ra cũng gặp rất nhiều khó khăn, khó có thể xác
định được chính xác. Hiện tượng lá cây tự cháy vẫn chưa xác định rõ
nguyên nhân. Mẫu vật thu được đã được gửi lên trên để xin sự giúp đỡ
nhưng xem ra cũng khó xác định.
Càng nghĩ, Trịnh Toàn càng thấy các hướng điều tra đi vào ngõ
cụt. Nhưng linh tính của người lính lại mách bảo Trịnh Toàn rằng, đối
phương đã xâm nhập vào địa bàn. Việc bộ phận thu được sóng lạ phát
trùng vào buổi phát thanh thời sự là một minh chứng. Mặc dù cho đến giờ
phút này, bộ phận trinh sát vẫn chưa xác định được tọa độ, khu vực phát
sóng. Muốn xác định được phải có phương tiện định vị. Mà để làm được
điều này thì gần như là vượt khỏi khả năng của đơn vị.
Càng nghĩ Trịnh Toàn càng thấy bế tắc, không có định hướng
cụ thể. Mọi việc đều chưa thể kết luận nhưng lại không thể gác lại hay bỏ
qua. Cả đêm nằm nghĩ mà Trịnh Toàn chưa biết được sẽ bắt đầu từ đâu.
Ngay các đối tượng nằm trong danh sách sưu tra gần như không có di
biến động nào đáng khả nghi. Vẫn diễn ra bình thường.
Cả đêm không ngủ, Trịnh Toàn mệt nên được ngày nghỉ ông
nằm dậy muộn. Khi Trịnh Toàn thức dậy đã nửa buổi sáng. Theo thói
quen, Trịnh Toàn pha ấm chè sáng. Trịnh Toàn nhấc chiếc phích. Phích
đầy nước. Cậu công vụ đã vào lấy phích đun nước từ bao giờ mà ông
không biết. Đợi cho chè ngấm, Trịnh Toàn đi ra cửa. Mấy dẫy nhà làm
việc vắng lặng. Phía cửa phòng cửa chính trị viên vẫn đóng.

176
Mặc dù không chủ định nhưng Trịnh Toàn vẫn cứ bước về phía
dãy nhà công vụ, nơi các phòng ban vừa làm việc và ở. Trịnh Toàn thật sự
thấy bế tắc. Thời gian thì cứ trôi đi mà công việc hầu như dậm chân tại
chỗ. Mớ bòng bong cần tìm ra mối gỡ mà cho đến bây giờ, Trịnh Toàn
chưa biết được nó bắt đầu từ đâu. Dấu hiệu đối tượng đã xâm nhập vào
địa bàn thì đã rõ. Hướng xâm nhập từ biển cũng có thể xác định. Nhưng
đối tượng xâm nhập thì vẫn chưa xác định được. Rồi số lượng đối tượng
xâm nhập là bao nhiêu tên cũng chưa thể kết luận. Bức điện lạ cho đến
bây giờ cũng chưa thể giải mã được. Trịnh Toàn thấy buồn bực mà không
biết làm sao.
Lơ đễnh đi, Trịnh Toàn thấy cửa phòng ban trinh sát cửa mở.
Trịnh Toàn nhìn vào. Trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân vẫn đang hí húi
làm gì bên bàn. Đứng ngoài cửa một lúc mà trưởng ban trinh sát vẫn
không hề hay biết. Trịnh Toàn định dạm bước đi thì bất ngờ Tô Hồng Dân
ngẩng lên. Phát hiện thấy Trịnh Toàn, trưởng ban trinh sát vội đứng dậy.
- Chào thủ trưởng. Thủ trưởng đến từ bao giờ mà em không
biết thế ạ?
Trịnh Toàn bước vào. Đi nhanh lại phía bàn.
- Tớ đến được một lúc rồi. Thấy cậu làm chăm chú quá nên
không dám lên tiếng. Sợ cậu mất tập trung.
Rồi nhìn vào tập tài liệu trên bàn, Trịnh Toàn hỏi trưởng ban
trinh sát.
- Cậu đang rà soát lại các đối tượng nằm trong diện sưu tra à?
- Vâng. Em đang rà lại số đối tượng trong khu vực để xem có
phát hiện được gì không?
- Tớ cũng đã xem lại rồi. Nhưng thấy các đối tượng trên địa
bàn vẫn bình thường, chưa thấy có biểu hiện gì khả nghi cả.
- Trần Minh Hồng còn ở dưới này không thủ trưởng?
Nghe trưởng ban trinh sát hỏi, Trịnh Toàn chưa trả lời ngay.
Ông nhìn trưởng ban trinh sát một thoáng rồi mới nói.
- Chiều qua, tôi nói cậu ấy về đồn rồi. Cậu ấy về để điều quân
tăng cường thêm cho tổ công tác trên hang ma.
- Thế mà em cứ tưởng cậu ấy còn đang ở dưới này. Em tưởng
còn thì …
Quan sát nét mặt trưởng ban trinh sát, Trịnh Toàn thấy khi
nghe ông nói, nét mặt trưởng ban trinh sát hơi buồn buồn.
- Có chuyện gì à?
- Dạ. Không. Em tưởng cậu ấy còn ở tỉnh thì trao đổi với cậu
ấy chút việc.
- Việc chung hay việc riêng thế.
- Thì thủ trưởng bảo. Chúng em thì còn có việc gì riêng. Việc
chung cả thôi mà thủ trưởng. Cũng chỉ là chuyện hang ma thôi.

177
- Thế à. Có quan trọng lắm không? Nếu cần thì cứ gọi cậu ấy
xuống.
- Thực ra thì chuyện này em cũng chưa dám chắc lắm nên chưa
dám trao đổi. Em mới chỉ chợt nghĩ đến thôi.
- Cậu có thể nói tớ nghe được không? Tớ cũng đang bí đây.
Nghe Trịnh Toàn hỏi nhưng trưởng ban trinh sát vẫn cứ lặng lẽ
sếp lại tập tài liệu. Trong số cán bộ thuộc quyền, Trịnh Toàn biết. Trưởng
ban trinh sát là người nổi tiếng kín đáo và ít nói. Nhưng khi nói ra là chắc
như đinh đóng cột. Cái nghề nghiệp nó tạo nên tính cách cho con người.
Một kết luận đưa ra, hồ đồ, không chính xác không những chỉ làm cho
công việc thất bại mà có khi còn làm hỏng cả một đời người. Nhận định,
đánh giá không chắc chắn có khi làm oan người ngay mà bỏ lọt tội. Rồi
cũng từ đó nó ảnh hưởng đến cả bao thế hệ sau đó nữa. Một vụ án, chỉ cần
nhận định sai mục đích phạm tội hoặc sai hướng đối tượng là có khi kéo
dài thời gian điều tra thậm chí làm hỏng cả một chuyên án.
Biết tính trưởng ban trinh sát, Trịnh Toàn không gặng hỏi
thêm. Ông lặng lẽ quan sát, theo dõi thái độ của trưởng ban trinh sát. Sau
khi đã sắp xếp tập hồ sơ vào trong chiếc cặp ba dây, thắt dây buộc lại cẩn
thận, xếp vào ngăn tủ, trưởng ban trinh sát đến chiếc ghế đối diện với
Trịnh Toàn.
- Em nghĩ việc điều tra xác minh của ta có sơ hở anh ạ.
Nghe thế nhưng Trịnh Toàn vẫn giữ thái độ điềm tĩnh, nét mặt
không hề bộc lộ một chút gì là biểu cảm của suy nghĩ. Từ khi triển khai kế
hoạch đến bây giờ, đây là ý kiến đầu tiên dám đưa ra suy nghĩ trái chiều
với các bước tiến hành.
Dừng ngắn có ý thăm dò ý kiến của chỉ huy trưởng, trưởng ban
trinh sát Tô Hồng Dân nói tiếp.
- Theo em. Việc làm thời gian qua còn nhiều vấn đề sơ hở quá.
Nếu em không nói là sai lầm. Thôi thì. Biết đâu em nói thế, nghĩ sao em
nói vậy. Chỉ huy trưởng có nghe được hay không em cũng chịu, đánh giá
em thế nào em cũng vui. Miễn là em đã nói ra được em băn khoăn, trăn
trở và áy náy trong lòng. Nó không giống và không trùng với suy nghĩ
tính toán của chỉ huy trưởng thì chỉ huy trưởng cũng thông cảm.
Trịnh Toàn nghe Tô Hồng Dân nói kiểu giao hẹn rất lấy làm
khó chịu. Trịnh Toàn nghĩ bụng: Cái thằng cha này nghĩ gì về mình mà lại
rào trước đón sau thế không biết. Trịnh Toàn đã định bật lại nhưng rồi
thôi. Trịnh Toàn biết. Nếu ông mà bật lại trưởng ban trinh sát bây giờ là
khó lòng ông có được dịp nghe anh em giãi bày sy nghĩ của mình. Trịnh
Toàn nhẹ nhàng.
- Ừ. Thì cậu cứ nói đi. Tôi đã nghe, đã biết gì đâu mà đánh giá.
Cái cậu này khôn quá. Rào rào đón đón suốt. Cậu nghĩ tôi nhỏ nhen đến
thế sao. Vì việc chung chứ có phải vì việc nhà ai đâu.

178
Nói đoạn, Trịnh Toàn pha trò.
- Cánh trẻ các cậu dạo này khôn ngoan để giống được. Làm
trinh sát mà lại còn thủ đoạn cả với thủ trưởng.
Thấy chỉ huy trưởng nói vui, trêu đùa, Tô Hồng Dân biết là ông
đang thực sự muốn nghe ý kiến từ anh.
- Em nói thật nhé. Thủ trưởng có không nói thế thì em đã định
nói là em nói. Việc đưa A Lò và Tự Kim đi lên xác minh trên hang ma có
khi làm hỏng việc. Có khi đánh rắn động cỏ mà đối tượng biết đối sách để
phòng chống lại. Rút được một cái dây rừng mà làm động cả rừng.
Trịnh Toàn ngồi nghe ý kiến trình bày, phân tích của trưởng
ban trinh sát, mới thấy quả là Tô Hồng Dân có những cách nhìn về sự
kiện hiện tượng không giống ai. Rất riêng, chỉ mình trưởng ban trinh sát
mới có. Để tạo hưng phấn và tâm lý thoải mái cho trưởng ban trinh sát khi
trao đổi, thỉnh thoảng ông lại nhắc: Ừ cậu cứ nói tiếp đi. Trịnh Toàn nhắc
thế nhưng quả thực lúc này trong lòng ông thấy việc triển khai các bước
điều tra xác minh có nhiều điểm cần phải chỉnh sửa và rút kinh nghiệm.
Việc quyết định đưa A Lò và Tự Kim lên hang ma ông chỉ nghĩ
sẽ sớm có được kết luận về dư luận trên địa bàn. Và sau khi xác minh
được nguồn tin, dư luận mới có thể định yên được tư tưởng trong dân.
Tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn bản La Khê và các bản lân
cận núi Bái đang có chiều hướng phức tạp. Sự rối ren ở địa bàn đều bắt
nguồn từ việc hang ma có ma xuất hiện trở lại. Đúng là khi A Lò và Tự
Kim lên hang ma thì muốn hay không, bản thân ông đã để bộc lộ ý định,
và như thế, vô hình chung đã đánh động đối tượng về việc điều tra xác
minh. Khi đối tượng đã phát hiện ra việc làm thì sự đánh động đó sẽ là
điều kiện để đối tượng tạm thời ngừng các hoạt động. Việc ngừng hoạt
động đồng nghĩa với các đầu mối, dấu vết để lực lượng trinh sát có thể lần
theo coi như đi vào con đường cụt. Khi đối tượng hoạt động mới tạo ra sơ
hở. Còn khi đối tượng đã không còn hoạt động nữa thì sẽ không còn gì để
xác định và có được sơ hở. Tự mình làm khó mình. Đúng là lấy dây mà tự
buộc mình, làm khó mình. Đánh rắn để động cỏ thì rắn sẽ tìm cách chạy
trốn và khi đó khó lòng mà bắt được. Không những chỉ con rắn đó mà
những con khác cũng biết mà trốn thoát.
- Sai lầm thứ hai là xác định đối tượng. Hiện nay chúng ta mới
chỉ xác định đối tượng trong danh sách và trong địa bàn quản lý mà chưa
xác định đối tượng là người ngoài địa bàn và không nằm trong danh sách
quản lý. Xác định đối tượng xâm nhập theo em. Đối tượng này phải là
người ở địa phương, thông thạo địa hình, địa bàn và thông hiểu tâm lý tập
quán, phong tục của người ở đây.
Trịnh Toàn chăm chú nghe trưởng ban trinh sát trao đổi, càng
nghe, Trịnh toàn càng nhận ra những việc cần phải làm và cần phải khắc
phục ngay. Trịnh Toàn mặc dù trong lòng không vui với những việc đã

179
xảy ra nhưng ông lại thấy sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ dưới quyền.
Một đội ngũ cán bộ trưởng thành qua từng ngày.
Sau khi nghe trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân nói đối sách tới
cần làm. Trịnh Toàn ngồi một lúc lâu rồi mới đứng dậy. Ông đưa tay qua
bàn bắt tay trưởng ban trinh sát. Trưởng ban trinh sát ngạc nhiên khi thấy
chỉ huy trưởng có hành động mà theo anh là từ trước đến nay ít gặp. Cái
lối xã giao trong các cuộc giao tiếp của ông thường bị coi nhẹ. Trưởng
ban trinh sát vội đưa tay, nắm lấy bàn tay Trịnh Toàn.
- Cám ơn cậu. Các cậu rất giỏi.
Nói rồi, Trịnh Toàn bước nhanh ra cửa. Trong đầu ông đang
nghĩ đến đối sách tới. Ông phải chuyển từ những sai sót đã xảy ra thành
những lợi thế cho công việc tới. Mặc dù những việc làm qua có nhiều bộc
lộ nhưng việc gì cũng có hai mặt. Ông phải là người chịu trách nhiệm về
những sai sót đó và cũng phải là ông, tìm cách chuyển những yếu tố có
được từ những việc làm đó thành lợi thế cho đối sách tới. Ông phải
chuyển từ chuyện đánh rắn động cỏ sang lợi thế rung chà cá nhảy. Ông
phải tạo ra được tâm lý làm đối phương cho rằng bản thân đã bị phát hiện.
Ông buộc cho đối phương phải bộc lộ. Phải lùa rắn ra khỏi hang. Phải xua
cáo ra khỏi ổ. Phải làm sao định được hướng đi của chúng vào đúng nơi
ông đã đặt đó.
Nhìn theo bóng chỉ huy trưởng cắm cúi bước. Tô Hồng Dân
chợt thấy lòng mình buồn. Liệu những điều anh nói ra có làm cho chỉ huy
trưởng buồn. Nhưng anh tin. Trong đầu ông lại đang có đối sách mới.
Anh tin là như thế và rất tin vào điều đó.

35
TƯƠNG KẾ TỰU KẾ

180
Sau khi nói chuyện với trưởng ban trinh sát, Trịnh Toàn về
phòng ngồi rà soát lại tất cả các công việc đã làm. Quả đúng là trong quá
trình triển khai công tác điều tra xác minh, ông đã để bộc lộ nhiều vấn đề
mà qua đó đối tượng có thể biết được các bước tiến hành. Những nội dung
vấn đề mà trưởng ban trinh sát đưa ra, Trịnh Toàn thấy thật xác đáng. Lúc
đầu nghe trưởng ban trinh sát trao đổi, trong lòng Trịnh Toàn cũng gợn
lên chút khó chịu. Nhưng rồi Trịnh Toàn biết. Con người ai chả có sĩ diện.
Nhưng nếu chỉ vì chính cái sĩ diện đó sẽ bỏ qua nhiều điều đúng đắn.
Chân lý đâu có thuộc về số đông. Chân lý là cụ thể.
Trong quá trình tiến hành, ông và mọi người đã bỏ qua một chi
tiết rất đắt. Một chi tiết mà có thể xác định ngay được số lượng đối tượng
xâm nhập. Nếu đối tượng sử dụng điện báo, chúng sẽ phải có ít nhất hai
người. Khi nghe trưởng ban trinh sát trao đổi ông mới phát hiện ra. Để
đánh được điện báo, phải có một người quay máy phát điện. Còn một
người khác làm nhiệm vụ phát. Ông xuống tận bộ phận cơ yếu để quan
sát. Quả đúng là khi quay chiếc máy phát điện, anh em hay gọi là đầu bò
thì phải là người khỏe. Ông phải dùng hai tay quay mới nổi mà cũng chỉ
quay được một lát đã thấy mỏi nhừ cả hai tay. Như vậy. Để chuyển được
một bức điện, có thể người chuyển mã khóa đồng thời là người phát
nhưng không thể làm đồng thời là người quay máy phát điện được. Một
chi tiết nhỏ nhưng rất quan trọng thế này mà ông không hiểu sao lại bỏ
qua. Không chỉ ông mà ngay một số cán bộ khác cũng bỏ qua, không tính
đếm đến.
Ngồi một mình trong phòng, Trịnh Toàn như tự giam mình để
suy ngẫm. Việc điều A Lò và Tự Kim lên hang ma dẫu sao sự việc đã rồi.
Nếu quả thực đối tượng muốn tạo dư luận, gây sự chú ý và làm mất trật tự
an ninh xã hội từ việc làm bất ổn người dân khu vực chân núi Bái thì
chúng cũng đã thành công. Đưa tổ công tác lên đây đúng là đánh động
cho đối tượng biết. Con rắn đang định ra ngoài hang thấy động chúng sẽ
lại chui sâu vào hang và chúng sẽ nằm im chờ đợi.
Để khắc phục chuyện này, cách tốt nhất là lấy độc trị độc. Lấy
ngay những sai lầm để sửa chữa sai lầm. Cách tốt nhất bây giờ là phải làm
sao cho đối tượng tưởng như tất cả đã bị phát hiện. Những việc làm đã để
lại dấu vết, sơ hở. Có nghĩa là, con rắn tưởng chiếc hang đã bị lộ mà
chuyển đi đến một cái hang khác. Khi chúng chuyển buộc lòng phải bộc
lộ và đây chính là cơ hội để đánh bắt. Muốn vậy, ông phải tăng cường lực
lượng lên trên hang ma. Quản lý thật chặt, giám sát thật chặt địa bàn.
Tăng cường lực lượng bám nắm địa bàn. Trịnh Toàn tin, nếu chúng nghĩ
đã bị phát hiện thì nhất định chúng sẽ phải di chuyển. Có thể cán bộ
không phát hiện ra được nhưng nhân dân sẽ phát hiện ra. Các cụ xưa đã
dậy: Cái kim giấu trong giẻ, bọc lâu ngày rồi nó cũng phải tòi ra. Trịnh
Toàn cũng nhớ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn đội ngũ cán bộ công an

181
trong dịp đến thăm: Cán bộ có hai mắt, hai tay nhưng nhân dân có hàng
nghìn mắt, hàng nghìn tay. Nếu biết dựa vào dân, việc gì cũng có thể làm
được.
Để bảo đảm cho hoạt động trên, các đơn vị phải tăng cường các
lực lượng bảo vệ tuyến biên giới trên đất liền và trên biển. Khi đánh động,
đối tượng sẽ tìm đường thoát và khi đó có nhiều khả năng chuyển địa bàn
sang một nơi mới. Nếu để đối tượng di chuyển địa điểm thành công thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn cho các bước điều tra tiếp theo. Lực lượng mỏng,
rải quân ra khắp các địa bàn khó lòng mà làm được. Phải phát động phong
trào trong toàn dân. Tạo cho quần chúng nhân dân ý thức trách nhiệm
trong hoạt động bảo vệ an ninh. Trước mắt là các đối tượng lạ khi xâm
nhập vào địa bàn. Khi thấy có đối tượng lạ vào địa bàn là trình báo ngay.
Chuyện này Trịnh Toàn nghĩ ngay đến chính trị viên. Việc phát động
phong trào này không ai có thể giỏi hơn Song Hoa. Phong trào quần
chúng tham gia bảo vệ an ninh là vấn đề mới. Cũng vì là vấn đề mới nên
sẽ có nhiều vấn đề phát sinh. Vấn đề này cần phải bàn kỹ và phải tạo được
sự thống nhất cao. Nếu thế nó phải được đưa vào nghị quyết lãnh đạo.
Trịnh Toàn tin là khi nghe ông trao dổi vấn đề này, chính trị viên Song
Hoa cũng sẽ ủng hộ. Cái khó chính là làm thế nào để quần chúng nhân
dân hiểu và nhận ra lợi ích cũng như quyền lợi và trách nhiệm của chính
họ trong hoạt động này. Phong trào phát mà không động coi như thất bại.
Chỉ khi nào, phong trào thật sự biến thành ý thức của người dân thì khi đó
nó mới có thể phát huy tác dụng.
Để cả ngày tính toán cân nhắc, khi Trịnh Toàn đã thấy thật sự
chắc chắn, ông nhấc máy.
Chuông vừa reo, Trịnh Toàn đã thấy phía đầu dây bên kia trả
lời.
- A lô. Có tôi Song Hoa nghe.
- Tôi. Trịnh Toàn đây mà anh.
- Có việc gì mà mới đầu tuần anh đã gọi thế?
- Ăn sáng xong tôi mời anh qua tôi uống nước và xin ý kiến
anh chút việc.
- Được thôi. Mà anh cũng xuống ăn sáng đấy chứ?
- Tôi không xuống bếp ăn. Tôi nhờ cậu công vụ mang cho tiêu
chuẩn sáng mấy cái tạt tai rồi.
- Được rồi. Xong tôi sẽ sang anh ngay.
Cúp máy với chính trị viên, Trịnh Toàn gọi đồng chí tham mưu
trưởng, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân, các bộ phận vận động quần
chúng, vũ trang, kiểm soát hành chính, cơ yếu, báo vụ. Trịnh Toàn không
chỉ muốn công việc này phải được toàn bộ các cơ quan có liên quan
chung tay mà ông muốn, những vấn đề sai sót, tồn tại trong những bước
vừa qua các bộ phận có liên quan cũng được biết để rút kinh nghiệm

182
chung. Sai sót, tồn tại không của riêng ai. Đã làm là phải có sai sót, có
khuyết điểm. Biết sợ sai sót, biết sợ khuyết điểm để tìm biện pháp khắc
phục chứ không phải sợ mắc sai sót mà không làm. Những tồn tại vừa
qua, một phần cũng chính vì ai cũng lo sợ trách nhiệm mà không nói,
không chịu đầu tư suy nghĩ. Chỉ biết trông chờ vào ý kiến của cấp trên,
của cơ quan chuyện môn. Chính điều đó đã đưa người ta đến chỗ thụ
động, mất tính sáng tạo và chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
Cầm mấy lát mỳ luộc, chính trị viên Song Hoa bỗng mỉm cười.
Lính tráng có khác. Ngay ngôn ngữ cũng không giống ai. Do đời sống còn
khó khăn, cán bộ nhân viên nhà nước nói chung và cán bộ chiến sĩ các lực
lượng vũ trang sáng sáng phải ăn mỳ. Bột mỳ nhào lên, các anh nuôi lại
nặn thành những tấm bánh bèn bẹt rồi đem luộc. Anh nuôi toàn cánh đàn
ông đàn ang, chẳng biết chế biến thế nào cho dễ ăn nên cứ nhất món mỳ
luộc độc diễn. Cũng vì tiêu chuẩn ăn còn chưa đảm bảo, để cho khẩu phần
ăn trông đỡ tằn tiện, nghèo khổ, anh nuôi nặn cái nào cũng bèn bẹt chả
khác gì mấy cái tai chuột. Thế là lính nhà ta đặt ngay cho thứ bánh mỳ
sáng cái tên đọc lên đã nói đúng được hình ảnh của nó: Bánh tạt tai.
Thế mới có chuyện. Có cậu chiến sĩ, khi viết thư về nhà, chả
biết viết thế nào mà trong thư thấy con nói sáng nào cũng được mấy cái
tạt tai. Tưởng con vào quân ngũ, bị cán bộ đánh đập mới vội vàng lặn
ngòi ngoi nước vất vả đi ra thăm con. Gặp con thấy béo tốt, khỏe hơn ở
nhà. Hỏi ra mới biết là trong thư viết ăn tạt tai là mấy cái bánh mỳ anh
nuôi làm buổi sáng. Sau đó, để không ảnh hưởng đến tâm tư của gia đình,
gây cho gia đình những lo lắng không cần thiết, tránh sự hiểu lầm, đơn vị
phải quán triệt tất cả cán bộ chiến sĩ, khi viết thư về thăm gia đình, viết
phải cụ thể, không được viết theo lối ngôn ngữ bông đùa của lính tráng.
Ngồi ăn mấy cái bánh mỳ sáng, nhớ chuyện của cậu chiến sĩ nọ, Song
Hoa không nín được cười.
Ăn vội xuất mỳ xong, chỉ kịp về phòng lấy cuốn sổ là chính trị
viên Song Hoa vội vàng lên phòng của Trịnh Toàn.
Lên đến nơi, chính trị viên Song Hoa hơi ngỡ ngàng một chút
khi thấy đông đủ các thành phần chỉ huy các bộ phận cũng đã có mặt.
Thấy chính trị viên Song Hoa bước vào, mọi người đều đứng cả lên chào.
Chính trị viên Song Hoa đi một vòng quanh bàn bắt tay mọi người. Trịnh
Toàn đứng lên mời Song Hoa ngồi vào chiếc ghế bên cạnh phía đầu bàn.
Cậu công vụ mang đến đặt trước mặt cốc nước chè tươi.
- Mời anh uống nước.
Cầm chén nước lên, chính trị viên Song Hoa đưa mắt quan sát
khắp lượt một lần nữa.
- Mời các đồng chí uống nước.
Quay sang phía Trịnh Toàn, chính trị viên Song Hoa hỏi nhỏ
chỉ dủ hai người nghe.

183
- Có chuyện gì quan trọng sao mà triệu tập anh em đông đủ thế
này?
Trịnh Toàn cũng nói nhỏ.
- Anh uống nước rồi có lẽ xin phép anh ta làm việc luôn.
Đợi chính trị viên Song Hoa uống xong chén nước, Trịnh Toàn
đứng lên. Nhìn sang chính trị viên, Trịnh Toàn nói.
- Trước hết tôi xin lỗi đồng chí chính trị viên về cuộc họp đột
xuất hôm nay. Công việc gấp quá nên tôi chưa xin được ý kiến của đồng
chí.
Biết Trịnh Toàn từ trước đến nay là người luôn chấp hành
nghiêm túc các quy định, quy chế về quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy.
Hôm nay Trịnh Toàn phải làm thế này chắc là việc không thể đừng được.
Chính trị viên nghe thế, vui vẻ.
- Không trao đổi trước thì bây giờ trao đổi luôn trong cuộc họp
cũng được. Có gì anh em cũng cho ý kiến luôn. Đều là việc chung chứ có
việc riêng tư gì đâu mà ngại nói trước với chả nói sau. Phải thế không các
đồng chí?
Mọi người đều nhất trí và ủng hộ ý kiến của chính trị viên.
Đợi mọi người lắng lại, Trịnh Toàn tiếp tục.
- Tôi xin nhận hết trách nhiệm về mình với những sai sót trong
các hoạt động vừa qua. Do nóng vội mà tôi đã chưa thực sự có đối sách
chuẩn xác trong chỉ đạo các đơn vị…
Mọi người nghe Trịnh Toàn nói mà chưa hiểu chuyện gì. Ai
cũng đưa mắt nhìn nhau thăm dò. Chỉ có trưởng ban trinh sát Tô Hồng
Dân là nét mặt vẫn bình thường.
Trịnh Toàn tóm tắt lại toàn bộ diễn biến của vụ việc. Những
nhận định đánh giá, những hoạt động cũng như chỉ đạo các tổ, các đơn vị.
Trong từng vấn đề, khi nói đến mặt công tác nào, hoạt động nào Trịnh
Toàn cũng nêu luôn những kết quả và tồn tại, hạn chế, khuyết điểm. Trịnh
Toàn nhấn mạnh vào những ý kiến tham gia góp ý của trưởng ban trinh
sát Tô Hồng Dân với ông.
Nghe Trịnh Toàn trình bày toàn bộ vấn đề, mọi người nhìn
nhau. Đúng là như chỉ huy trưởng đánh giá. Việc sai sót làm cho tiến độ
điều tra bị chậm quả là do nhận định và đánh giá mức độ của vấn đề nhiều
người còn chưa coi trọng. Việc nhận định tính chất nguy hiểm và sự cấp
bách của vụ việc chưa coi trọng đúng mức. Chỉ huy trưởng tuy nhận hết
lỗi về mình nhưng ai cũng thấy bản thân mình đều có trách nhiệm trong
việc triển khai kế hoạch cả.
Sau khi đã nói rõ tất cả những vấn đề cần tập trung, Trịnh Toàn
dừng ngắn. Với tay cầm chén nước lên nhấp nhấp cho đỡ khô giọng.
Đoạn Trịnh Toàn nhấn mạnh yêu cầu.

184
Thứ nhất. Ngay sau đây, ban tham mưu điện ngay cho các đơn
vị phải tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm soát chặt chẽ các tuyến
biên giới. Điện yêu cầu đồn Yên Hồng tăng cường lực lượng cho tổ công
tác hang ma. Ban vận động quần chúng, trinh sát tăng cường cán bộ
xuống các bản khu vực chân núi Bái.
Thứ hai. Bộ phận quản lý hồ sơ, rà soát lại toàn bộ các đối
tượng trên các địa bàn đã rời đi vào Nam. Chú trọng đến các đối tượng
nằm trong địa bàn khu vực núi Bái.
Ban thông tin trực hai bốn trên hai bốn để giám sát sóng lạ.
Ban tham mưu, điều đồng chí Trần Minh Hồng về tăng cường
cho bộ phận chuyên án. Tất cả giữ đúng chế độ liên lạc báo cáo thường
xuyên và liên tục.
Trịnh Toàn quay sang chính trị viên. Ông cúi xuống nói nhỏ.
- Anh uý lạo anh em giúp tôi mấy câu. Tôi không nói được.
Chính trị viên nháy mắt cười rồi lấy giọng, đứng lên.

36
CÚ ĐÊM

185
Nằm ép sát trong hốc phía trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh lại lo.
Không thể tự nhiên mà công an đưa hai người lên trên hang ma. Có phải
chăng lão Tảng lên đây đã để lộ dấu vết mà tụi công an bám theo? Nhưng
nếu lão Tảng để lộ dấu vết tại sao lại chỉ có hai người lên hang ma mà
không thấy có nhiều người. Khi nấp trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh để ý
thấy hai công an chỉ leo lên cây bẻ lấy cành cây rồi xuống. Chứng tỏ họ
chưa biết gì nhiều về hiện tượng cháy. Có lẽ, họ muốn thu thập chứng cứ
để xác minh kết luận hiện tượng cháy ở hang ma. Phan Lềnh nằm xâu
chuỗi những vấn đề lại với nhau để tìm câu trả lời. Nhưng Phan Lềnh
chưa thể tìm ra được câu trả lời cho hiện tượng khi lấy được đám lá cháy,
cả hai đã lên ngựa về rồi lại quay lên ngay. Khi quay lại hang, giả thử
phát hiện được vấn đề gì thì tại sao đêm họ lại đốt lửa công khai mà
không hề có ý giấu giếm hành động. Cái lối nửa kín nửa hở như biết mà
lại như không biết làm Phan Lềnh không tìm được câu trả lời xác đáng.
Các hoạt động đó nó chẳng theo một quy luật nào.
Nằm nấp trong hốc đá đến nửa đêm, khi thấy cả hai người đã có
ý mệt, cuốn chăn ngồi ngủ, Phan Lềnh nhẹ nhàng truồi người về sau. Ra
khỏi hốc đá, Phan Lềnh nghe thấy tiếng cú rúc gắt. Tiếng cú này là ám
hiệu của lão Tảng. Phan Lềnh bỗng thấy lo. Không biết lão Tảng có biết
công an lên đây chưa mà lại mò lên đây vào lúc này. Phan Lềnh vừa tức
vừa bực mà lòng lại lo lo.
- Mẹ cha lão già. Sao lại mò lên đây lúc này? Công an nó mà
phát hiện thì chết cả lũ.
Bò về phía có tiếng cú rúc, tay cầm súng chĩa về tiếng cú rúc.
Nấp sau gờ đá, Phan Lềnh nháy ba lần ánh đèn pin nhỏ tin hin cầm tay.
Ánh đèn chỉ nháy lên rồi tắt như ánh sáng của con đom đóm. Sau ba lần
như thế, từ phía có tiếng cú rúc vọng lại tiếng tắc kè kêu ba lần, mỗi lần
đúng ba tiếng. Nhận ra đúng ám hiệu, Phan Lềnh ngồi hẳn lên. Một bóng
đen bò nhẹ nhàng đến bên gờ đá.
Tiếng thì thào trao đổi nhẹ như gió.
- Cậu phải chuyển đi thôi. Chỗ này của cậu bị bọn công an nó
phát hiện ra rồi.
- Ai nói với lão thế.
- Thì con vừa ở chỗ cậu về đến nhà thì con mụ Đoác nó nói.
- Nó nói sao?
- Chiều qua nó gặp hai thằng công an biên phòng đi ngựa vào
hướng hang ma.
- Chuyện ấy tao biết rồi.
- Cậu biết mà không trốn đi lại còn ở đây à.
- Việc gì tao phải đi. Tao mà bắn, chúng nó chết hết rồi.

186
Nghe thế, bóng đen đưa tay xua xua trong sương đêm. Cánh tay
xua xua trông chới với, chới với như người chết đuối cố bám lấy vật gì
đó.
- Cậu đừng bắn. Có tiếng súng nổ là lộ đấy.
- Đồ ngu. Tao ngu hay sao mà bắn.
- Thì con cũng lo xa cho cậu thế.
- Có mang cái gì lên cho tao ăn không đấy?
- Dạ có. Con nghe mụ Đoác nói, vội quá, đi lên đây báo cho
cậu. Con chỉ mang được típ xôi. Cậu ăn tạm vậy. Có gì mai con mang
tiếp.
Cầm típ xôi vừa ăn Phan Lềnh vừa hỏi.
- Thế lão bảo chiều nay thằng Đô, thằng Đồ lên đây sao tao
không thấy?
- Thì con nói là lên đây mà. Thế cậu chưa gặp hai cậu Đô, cậu
Đồ ạ?
- Gặp rồi thì tao hỏi lão làm gì?
- Hay là hai cậu lên đây, thấy có công an mà không dám vào?
- Ừ. Có khi như thế.
Ngồi đợi Phan Lềnh ăn xong típ xôi, bóng đen đưa tay nhận lại
cái típ xôi đã hết.
- Cậu còn dặn gì nữa không ạ?
- Thôi.
Bóng đen lom khom người quay trở lại thì Phan Lềnh bỗng gọi
giật.
- Này.
- Dạ.
- Lão có nghĩ hai thằng Đô, thằng Đồ làm sao không?
Cái đầu lão Tảng làm sao biết được cậu Đô, cậu Đồ ra làm sao.
Nhưng lão lo. Hôm qua lão có nói với hai cậu là hôm nay vào đây gặp cậu
cả. Thế mà bây giờ cậu cả chưa gặp thì hai cậu đi đâu? Hai cậu Đô, cậu
Đồ lạc làm sao được. Nếu nhẩm tính thời gian, lúc hai cậu Đô, cậu Đồ đi
cũng là lúc hai công an biên phòng cưỡi ngựa lên hang ma. Hay là hai cậu
bị bắt rồi? Hai cậu mà bị bắt thì thật khốn nạn cho lão. Tại lão nói nên hai
cậu mới lên đây. Mà cũng tại cậu chủ nữa. Cứ nhất nhất đòi gặp cho bằng
được hai cậu Đô, cậu Đồ cơ. Tiền cậu chủ gửi đưa cho hai cậu, lão đâu có
tơ hào lấy một xu. Lão và mụ Đoác, cần gì tiền. Với lão, rừng còn là lão
còn cái sống. Lão chả cần.
- Con không biết. Con chỉ biết là sáng nay hai cậu cũng vào
đây.
Nghe lão Tảng trả lời, Phan Lềnh rất khó chịu. Đúng là một lũ
đầu bã đậu, củ chuối. Nói sao biết thế, bảo sao làm vậy, không có tính
trước tính sau gì, cứ hùng hục như lũ trâu.

187
- Thôi. Đêm nay lão ở lại đây với tao. Đừng về nữa. Mà lão về
bây giờ cũng không kịp sáng đâu. Vớ vẩn trên đường đi lại gặp bọn công
an thì chết cả lũ chứ chả chơi.
- Vâng. Cậu bảo ở lại thì con ở lại. Sáng mai con về cũng được.
- Ừ. Lão có hay nghe bà nhắc đến tên tao không?
Nghe cậu chủ hỏi, lão Tảng giật mình. Đã lâu lắm rồi, lão chỉ
quẩn quanh bên mụ Đoác nên không đến và cũng chưa gặp mẹ cậu chủ.
Hết vào rừng kiếm cái ăn, săn con thú bán kiếm tiền để lấy tiền mua
thuốc, lão còn đâu thời gian nữa. Nhưng cái điều làm lão không dám gặp
bà mẹ cậu chủ là lão sợ bà lại hỏi lão chuyện của mụ Đoác. Chẳng gì thì
cũng người nhà một thời. Từ ngày cụ chủ chết, tài sản phân tán, mỗi
người một phận kiếm ăn nên mới như thế này. Nói thật có khi cậu chủ
giận. Tốt nhất là lão cứ nói lấy lòng cậu chủ. Để cậu đỡ lo, đỡ buồn. Đang
lúc nước sôi lửa bỏng thế này, nói để cậu yên tâm cũng chẳng lỗi gì. Sau
này, khi cậu đạt được mong muốn như cậu nói. Nếu cậu có phát hiện ra
thì lão nói lại lòng lão cho cậu hiểu. Nghĩ sao làm thế, lão Tảng thủ thỉ.
- Mấy lần con qua đưa tiền cậu gửi cho hai cậu Đô, cậu Đồ và
bà. Con gặp lần nào bà cũng hỏi thăm cậu thế nào? Cậu có khoẻ không?
Bà lo cho cậu lắm.
Nghe lão Tảng nói thế, lòng Phan Lềnh lại cồn cào. Những năm
tháng tuổi thơ Phan Lềnh chỉ ham chơi và làm khổ mẹ. Bố thì cả ngày đi
hết bản trên xóm dưới, thấy gái đẹp là bắt về. Mọi công to việc lớn của
nhà đều do bàn tay mẹ vun vén lo toan. Kiếp đàn bà sinh ra là để chịu
nhục chịu khổ thì phải. Rồi khi lớn lên, theo ông Thi đi tham gia đoàn thể.
Phan Lềnh cứ đi biền biệt chả lúc nào có thời gian gánh đỡ việc nhà cho
bà. Tưởng khi trở lại, được quây quần sum họp thì lại gặp đúng cảnh bố bị
mấy người kẻ ăn kẻ ở truy vấn đến nỗi thắt cổ tự tử. Rồi Phan Lềnh lại bỏ
nhà đi. Đi cho đến bây giờ quay lại mà cũng chưa gặp bà. Phan Lềnh tự
nhiên thấy bản thân như kẻ vô ơn.
- Mai lão và tao về thăm bà nhé. Lâu lắm rồi tao chưa được gặp
bà.
Nghe vậy, lão Tảng giãy nảy.
- Cậu về làm sao được. Mọi người biết thì chết.
Lấy tay vỗ vỗ nhẹ vào vai lão Tảng. Phan Lềnh có ý trấn an.
- Không lo. Sáng mai lão cứ về sớm. Nếu có gặp công an, có hỏi
thì nói đi rừng. Lão đi rồi tao sẽ đi sau. Mới lại. Đêm nay sương sa nặng
hạt thế này, chúng nó dậy sớm làm sao được. Chúng nó có muốn đi cũng
phải chờ đến khi sương tan mới đi đâu thì đi được.
- Nhưng mà…
- Tao biết rồi. Lão không phải lo.
- Nhỡ khi cậu về, người trong bản biết thì sao? Tai vách mạch
rừng, bức vách có tai. Họ mà nhìn thấy cậu là thế nào họ cũng báo cho

188
công an đấy. Họ mới phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh đấy. Người nào người nấy còn đang hăng lắm.
Phan Lềnh cười.
- Đúng là lão này. Tao đã tính rồi. Lão cứ về trước. Nếu có gặp
công an thì có gì lão đã nói cho biết. Nếu không gặp ai thì lúc đó tao mới
về chứ. Lão như người đi trước thăm đường ấy. Nếu cùng lắm thì tao…
Phan Lềnh cọ cọ mũi súng vào sườn lão Tảng. Lão Tảng sợ quá,
giật mình, ngồi thụt về phía sau. Lão Tảng lạ gì tính cậu. Cậu nói thế nào
là sẽ làm thế.
- Con biết rồi. Thôi cậu cất nó đi, nhỡ nó nổ vào con bây giờ.
Lão Tảng đâu có biết. Việc Phan Lềnh nói lão đưa về thăm mẹ
thực ra là đi tìm nơi lẩn trốn khác. Lúc trước, khi Phan Lềnh nói lão về rồi
lại gọi giật lại là đã có ý này. Ban đầu, Phan Lềnh nghĩ để cho lão về rồi
tự bản thân tìm đường về thăm mẹ. Nhưng Phan Lềnh sợ. Biết đâu, khi đi
một mình, đường xá đã lâu, đã đổi khác Phan Lềnh lại đi nhầm đường.
Không những thế, khi đi một mình, không có người thăm dò đường bất
ngờ gặp công an hay người dân ở bản thì hỏng. Chi bằng, nhân có lão
Tảng đang ở đây. Giữ lão lại để lão làm người thăm đường trước. Có gì
Phan Lềnh còn biết để tránh. Nhất cử lưỡng tiện. Vì thế nên Phan Lềnh
mới nói lão ở lại ngủ với mình trên núi.
Mặc dù Phan Lềnh nghĩ chắc chắn rằng, hai người công an vào
hang ma cũng chỉ là vô tình chứ chắc chưa biết gì về mình. Nếu họ đã
biết, chắc không bao giờ họ lại leo lên cây để bẻ lấy mấy cành cây cháy
làm gì? Hoặc nếu biết, chắc họ cũng không bao giờ đem đốt lửa trong
hang. Tuy lòng nghĩ thế nhưng từ chiều qua đến giờ, khi thấy có người
vào hang ma là Phan Lềnh đã tính đến việc phải di chuyển địa điểm.
Trước mắt, Phan Lềnh chưa biết sẽ phải đi đâu. Nơi tưởng như sơ hở nhất
có khi lại là nơi ẩn nấp kín đáo nhất. Phan Lềnh tính đến tính bất ngờ.
Nếu giả thử công an hay người dân trong khu vực có mong manh biết
Phan Lềnh đã về thì cũng không ai nghĩ lại về ngay ngôi nhà của mình.
Nếu có biết, chắc chắn họ sẽ tìm lên núi. Mà dấu hiệu đó là trên hang ma
đã có hai người lên đây. Tránh voi có xấu mặt nào. Phan Lềnh tính về
thăm mẹ vừa tránh được trước mắt các tình huống xấu có thể xảy ra. Nhỡ
đâu, sáng ngày mai, hai người đó lại lần mò đi khắp hang ma thì sao. Vô
tình lại phát hiện thấy cái gì đó do sơ suất của Phan Lềnh để lại thì lúc đó
có trốn cũng khó. Chi bằng, sáng mai, khi hai người công an còn ngủ,
Phan Lềnh tạm thời rời núi Bái.
Nghĩ thế, Phan Lềnh nằm chờ sáng để lên đường xuống núi. Lão
Tảng ngồi co ra bên hốc đá, chân tay ngọ ngoạy vì muỗi. Chắc lão đang
ngủ. Cái miệng lão thỉnh thoảng lại tóp tép như đang nhai vật gì đó. Phan
Lềnh chợt thấy thương lão. Cả đời lão Tảng, chỉ có đi tìm cái ăn và chỉ
mong có cái ăn. Đến giấc ngủ cũng còn mơ thấy được ăn.

189
Phan Lềnh ngồi tựa hẳn lưng vào hốc đá. Ngửa mặt nhìn trời.
Sương đêm đã phủ trắng cả dãy núi. Cả một trời đêm chỉ có duy nhất một
màu đen. Trong bóng đêm ấy, Phan Lềnh nhận ra có mùi ngai ngái của lá
mục, có hơi lành lạnh của gió núi, sương rừng, có cả mùi tanh nồng của
máu con thú bị ăn thịt. Cuộc sống của bầy thú trong bóng đêm là cả một
cuộc chiến tranh giành sự sống. Lẩn khuất trong bóng đêm là cái chết
chực chờ. Bóng đêm là sự đồng lõa của cái chết.
Phan Lềnh thao thức chờ trời sáng.

37
LỘ MẶT

190
Chiều. Trịnh Toàn cầm vượt xuống khu nhà để xe chơi bóng
bàn. Vì nhiều người chơi nên phải đánh đôi. Chính trị viên Song Hoa và
Trịnh Toàn một bên còn bên kia là trưởng ban chính trị và tham mưu
trưởng. Thời gian qua, do bận việc quá nên ông cũng ít tham gia được với
anh em. Tham gia thể thao không những chỉ vui, khỏe mà qua những
chiều như thế, ông cũng năm được nhiều tâm sự của anh em.
Đan hai tay vào nhau lắc tròn khởi động khớp cổ tay, Trịnh
Toàn trêu đùa.
- Các cậu hôm nay có mang rổ ra đây không đấy?
Hiểu ý chỉ huy trưởng, trưởng ban chính trị cười.
- Em sợ thủ trưởng lâu nay không đánh, lại quên cả đường cắt
bóng rồi ấy chứ. Chúng em có thua cả rổ cũng có sao. Chỉ huy trưởng với
chính trị viên mà thua mới ngại. Chúng em chỉ thương các cụ phải chạy đi
nhặt bóng nhiều thôi.
- A. Cậu này giỏi. Ý cậu là chê cánh tớ già rồi chứ gì. Được.
Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào đâu nhé.
Trịnh Toàn cầm vợt lên phát bóng khởi động. Vừa phát bóng thì
cậu công vụ đã xuống tìm.
- Báo cáo chỉ huy trưởng. Đồng chí trưởng ban trinh sát đang
tìm thủ trưởng.
Trịnh Toàn dừng tay, nhìn sang phía chiến sĩ công vụ đang
đứng.
- Đồng chí có nói nội dung gì không?
- Dạ. Không. Đồng chí đó chỉ nói là có việc khẩn xin báo cáo
chỉ huy trưởng.
- Đồng chí cứ về trước đi. Tôi biết rồi.
Bỏ dở trận bóng bàn, Trịnh Toàn về phòng. Vừa trông thấy ông,
trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân đã báo cáo, không kịp uống nước.
- Tổ công tác trên bản La Khê báo về. Có thông tin người dân
cho biết. Chiều qua người ta đã nhìn thấy có người rất giống Phan Lềnh
nằm ngủ ở gốc cây khế trong vườn nhà bà Chu.
- Thế hả. Cụ thể thế nào cậu kể lại tôi nghe xem nào?
- Báo cáo thủ trưởng. Chiều qua, tổ công tác dưới địa bàn La
Khê có điện báo về. Vào khoảng bốn hay năm giờ chiều gì đó, bà Ỉn
người trong bản La Khê, đi rừng hái măng về có việc qua nhà bà Chu. Khi
đi vào nhà bà Chu, thấy nhà bà Chu đóng cửa. Tưởng bà Chu ở ngoài
vườn, bà Ỉn đi ra tìm. Khi ra đến đầu hồi, thấy có một người nằm ngủ ở
dưới gốc cây khế. Trông mặt người này rất giống Phan Lềnh con cả của
bà Chu. Người mà đã bỏ nhà đi đâu lâu nay không rõ. Thấy ngờ ngợ, bà
Ỉn vội đi vào sân chờ bà Chu về để hỏi. Khi bà Ỉn quay lại, người nằm ngủ
lúc trước ở gốc cây khế đã đi mất. Bà Ỉn có hỏi bà Chu nhưng bà Chu cho
biết là Phan Lềnh đi từ ngày đó đến nay vẫn chưa về.

191
- Thế theo ý của bà Ỉn thì thế nào? Các cậu đã xác minh chưa?
- Báo cáo thủ trưởng. Anh em trong tổ công tác khi nghe tin đã
đến tận nhà bà Ỉn xác minh. Bà Ỉn khẳng định là có chuyện trên.
- Có đúng là Phan Lềnh không?
- Bà Ỉn không dám khẳng định là Phan Lềnh. Song bà Ỉn vẫn
cho rằng người nằm ngủ dưới gốc cây khế là Phan Lềnh.
- Thế liệu trong bản La Khê có ai có khuôn mặt giống Phan
Lềnh không? Liệu bà Ỉn có nhầm không?
- Nhầm sao được thủ trưởng. Bản La Khê có mấy chục hộ. Bà
Ỉn là người gốc ở bản. Cả đời ở đây, người nào, con nhà ai là bà ấy phải
biết chứ thủ trưởng.
- Các cậu chủ quan bỏ mẹ đi được. Nếu đúng là Phan Lềnh thì
sao bà Ỉn lại không dám khẳng định?
- Bà Ỉn không dám nói chắc một trăm phần trăm vì khi ra vườn
nhìn thấy người đó đang ngủ. Khi quay lại thì người đó đã bỏ đi. Nhưng
bà Ỉn vẫn cho rằng đó là Phan Lềnh.
- Còn gì nữa không?
- Bà Ỉn cũng cho biết. Trước đó bà có nhìn thấy lão Tảng đi từ
trong rừng hướng hang ma đi ra.
- Tốt. Đã xác minh lúc đó bà Chu làm gì chưa?
- Em cũng đã cho xác minh. Theo báo cáo thì vào thời gian đó,
bà Chu đang ở nhà Phan Đô và Phan Đồ.
- Bà Chu ở đó làm gì?
- Trông nhà cho Phan Đô, Phan Đồ đi rừng.
- Đã xác minh thông tin này chưa?
- Đã cho xác minh. Đúng là thời gian đó, Phan Đô và Phan Đồ
đi rừng.
- Các cậu có thấy vấn đề gì nổi lên không?
- Về thời gian thì hoàn toàn chính xác. Chỉ có điều. Thời gian
gần đây, Phan Đô và Phan Đồ hay đi rừng nhưng hầu như không săn bắn
được gì. Có nhiều lần đi săn nhưng về rất muộn. Có hôm, chập tối đã đi
săn nhưng đến gần trưa mới về.
- Thế tình hình trên địa bàn có gì nổi lên?
- Tình hình địa bàn đã ổn định sau khi ta tăng cường tổ công tác
vận động quần chúng xuống đây để vận động bà con ổn định, không
chuyển đi nơi khác. Tuy nhiên trong bản, vấn đề hang ma có ma trở lại
tạm yên nhưng đôi chỗ vẫn còn xầm xì. Và có vấn đề nữa là lão Tảng thời
gian gần đây có vẻ có tiền mua thuốc phiện hút thoải mái hơn chứ không
như trước.
Hôm qua, khi yêu cầu bộ phận quản lý hồ sơ cung cấp những
danh sách các đối tượng nằm trong diện sưu tra, Trịnh Toàn không thấy
có tên Phan Lềnh. Phan Lềnh ở trong danh sách các đối tượng bỏ địa bàn

192
đi chưa rõ nguyên nhân. Trong hồ sơ cũng chỉ ghi tóm tắt rất sơ lược về
người này. Khi đơn vị tiếp quản địa bàn thì Phan Lềnh cũng đã rời địa bàn
đi rồi.
- Thế cậu đã nghiên cứu hồ sơ về Phan Lềnh chưa?
- Báo cáo thủ trưởng. Trường hợp Phan Lềnh thì. Sau khi có
thông tin trên, ban trinh sát có đi xác minh được biết. Phan Lềnh khi ở nhà
cũng như khi đi thoát ly có rất nhiều tên gọi khác nhau. Bản thân Phan
Lềnh là người đã có tham gia cách mạng. Trong thời gian này, Phan Lềnh
đã từng đảm nhiệm các việc như tuyên huấn, cán bộ đoàn và có thời gian
làm báo trên chiến khu Việt Bắc. Vào khoảng năm 1956, 1957, khi chúng
ta đang thực hiện chính sách cải cách. Gia đình Phan Lềnh bị xếp vào
thuộc diện địa chủ. Lúc này Phan Lềnh được cấp trên đưa trở về quê để
nhận nhiệm vụ mới. Phan Lềnh gặp đúng lúc quần chúng nhân dân đang
đấu tố bố là cụ Chu. Mặc dù chính quyền chưa có ý kiến gì nhưng bố
Phan Lềnh đã thắt cổ tự tử. Sau khi chôn cất bố xong, người ta thấy Phan
Lềnh bỏ nhà đi từ đó đến nay. Phan Lềnh đi đâu làm gì từ đó đến nay
cũng không ai được biết.
Nghe trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân báo cáo, Trịnh Toàn
thấy có nhiều vấn đề cần phải làm rõ. Các đối tượng có vấn đề nổi lên chủ
yếu có mối quan hệ với nhau. Không phải anh em ruột thịt thì cũng là kẻ
ăn người ở trong gia đình một thời. Bản thân đối tượng có nhiều uẩn khúc
giữa gia đình với cách mạng. Những vấn đề bất minh có nổi lên song chưa
phải là rõ nét. Việc đi vào rừng săn bắn về muộn cũng bình thường. Việc
săn bắt có hôm được hôm không cũng chưa phải là lạ. Có chăng, vấn đề
bà Ỉn là người ở bản, tuy không dám khẳng định một trăm phần trăm
nhưng việc nhận người trong bản khó có thể nhầm. Bà Ỉn không dám
khẳng định chẳng qua là còn e ngại khi cung cấp thông tin mà thôi.
Nhưng Phan Lềnh trở lại quê tại sao lại không về nhà mà lại
phải lén lút? Nếu đúng là Phan Lềnh thật thì tại sao lại phải ngủ ngoài
vườn mà không dám vào nhà? Có phải Phan Lềnh sợ khi bị phát hiện sẽ
làm mẹ và em bị liên luỵ? Phan Lềnh trở lại không ở nhà thì ở đâu?
Không lẽ Phan Lềnh vẫn còn e ngại khi tiếp xúc với dân bản và chính
quyền? Nếu đúng là còn e ngại thì e ngại vì cái gì?
Một giả thiết khác cũng được Trịnh Toàn nghĩ đến. Nếu theo
đúng bức mật điện của trên thông báo. Đối tượng xâm nhập có nhiều khả
năng hoạt động đơn tuyến. Vậy, để bảo đảm việc liên lạc thì ai sẽ là người
phát máy phát điện. Nếu đúng như những gì mấy cậu bên cơ yếu báo vụ
cho biết thì. Khi phát điện tín phải có ít nhất hai người? Một người có thể
vừa chuyển mã hóa vừa phát tín hiệu còn một người phải quay máy phát
điện. Ngoài Phan Lềnh liệu còn có ai nữa không? Việc Phan Đô, Phan Đồ
vào rừng săn bắn là thực hay chỉ là vỏ bọc? Mà tại sao lại đi cả hai người
mà không đi một người?

193
Một mâu thuẫn nhỏ nổi lên ở đây là. Nếu cứ theo báo cáo của
ban trinh sát thì lão Tảng cũng là người chuyên sống bằng nghề săn bắn.
Lão Tảng có tiền để hút thuốc phiện có nghĩa là việc săn bắn được nhiều.
Nhưng tại sao Phan Đô và Phan Đồ cũng đi săn, dẫu không phải là tay săn
bắn chuyên nghiệp thì cũng không đến nỗi lại đi về tay không như thế?
Sau khi đưa ra các giả thiết bàn bạc cùng trưởng ban trinh sát.
Trịnh Toàn hỏi Tô Hồng Dân.
- Theo cậu thì bây giờ chúng ta nên bắt đầu từ đâu?
Tô Hồng Dân nghe chỉ huy trưởng phân tích các khả năng và
tình huống xảy ra. Thực lòng là Tô Hồng Dân thấy rất hợp lý. Song hỏi
bắt đầu từ đâu thì quả là Tô Hồng Dân chưa biết một cách chính xác.
Nhưng khi chỉ huy trưởng đã hỏi ý kiến mà không nói cũng không được.
Tô Hồng Dân nói nước đôi.
- Theo em thì ta tiếp tục bí mật theo dõi các đối tượng để nắm
thêm tình hình. Khi nắm chắc được rồi thì lúc đó sẽ đưa ra đối sách được.
Còn ý thủ trưởng thế nào?
Biết hỏi chỉ để mà hỏi thôi. Trịnh Toàn thừa biết. Những thông
tin này chưa đủ điều kiện để xác định rõ được vấn đề gì. Song không xác
minh thì rõ ràng là không được, càng không thể bỏ qua. Nghe trưởng ban
trinh sát nói nước đôi, Trịnh Toàn bảo.
- Các cậu khôn lắm. Chưa nghĩ ra được cách gì nên nói chung
chung thế đúng không? Bị đá bóng vào chân, chưa tìm được người
chuyền lại đá sang chân người khác đúng không?
Trịnh Toàn kéo Tô Hồng Dân lại gần rồi ghé vào tai dặn. Tô
Hồng Dân nghe xong cười. Nghe xong, Tô Hồng Dân đưa hai tay lên
chắp, vái Trịnh Toàn.
- Về cứ thế triển khai nhé. Nhớ chưa?
- Em nhớ rồi. Thủ trưởng yên tâm.
Miệng nói, chân bước, Tô Hồng Dân đã tót ra đến cửa. Trịnh
Toàn đưa tay lên vẫy lại.
- Chưa hết đâu mà đã định chuồn đi. Vào đây tôi hỏi đã.
- Thủ trưởng còn hỏi thêm gì nữa ạ?
- Các cậu đã tăng cường lực lượng lên tổ công tác trên hang ma
chưa?
- Dạ rồi. Trên đó hiện nay có năm người tất cả.
- Cậu nói tôi xem có đúng là hai cậu A Lò và Tự Kim khi ở
trong hang ma đã dùng lửa để sưởi không?
- Em đã có báo cáo thủ trưởng rồi đấy ạ.
- Có chắc không?
- Em báo cáo với thủ trưởng mà báo cáo sai để em chết ạ. Có
phải chuyện chơi đâu thủ trưởng. Có chuyện gì không ạ?

194
- Thế thì tốt rồi. Nếu giả sử trong khu vực hang ma, kể cả khu
vực núi Bái có khí mê tan hay phốt pho. Cậu nghĩ xem, liệu hai cậu A Lò
và Tự Kim liệu có bị thiêu cháy không?
- Sống làm sao được thủ trưởng. Nếu không chết cháy thì cũng
chết vì khí độc. Nhưng mà…
Bỗng, Tô Hồng Dân đưa tay lên vỗ vào trán bồm bộp.
- Thế mà em không nghĩ ra. Đúng là…
- Cậu thấy không? Trong cái rủi ta gặp cái may. Trong cái sơ
suất ta lại tìm thấy cái may mắn.
- Thế đã có kết luận của trên chưa thủ trưởng?
- Bây giờ ta không cần chờ kết luận nữa. Có cũng được mà
không có cũng được. Ta có thể kết luận được rồi. Đúng không? Rõ ràng
chuyện cháy trên hang ma là do con người. Vấn đề là con người đó là ai
và tạo ra hiện tượng đó để làm gì? Chỉ cần tìm ra mục đích là ta có thể tìm
ra chân tướng của sự việc.
Nghe chỉ huy trưởng trao đổi, Tô Hồng Dân quả là không thể
ngờ được. Trong con người ông là cả một kho kiến thức mà không một
sách vở nào có thể nói hết được, dậy hết được. Những kiến thức ấy không
chỉ là những trải nghiệm sống, trải nghiệm trong đấu tranh, trong thực tiễn
mà nó còn là cả một sự uyên thâm trong phân tích mổ xẻ những vấn đề
của sự vật hiện tượng.
Trịnh Toàn mở tủ lấy ra bao thuốc lá Trường Sơn rồi đưa cho
Tô Hồng Dân.
- Hôm qua anh Song Hoa cho tớ. Tớ thích hút thuốc lào hơn.
Hút thuốc này nhạt lắm. Cậu cầm lấy mà hút.
Thấy Tô Hồng Dân cứ đứng như trời trồng, đầu gật gật. Trịnh
Toàn bảo.
- Ơ cái cậu này. Thôi. Đi đi. Đi làm ngay đi chứ còn đứng đấy
thì đến bao giờ mới làm đây. Nhớ đấy. Cứ theo những gì tôi nói mà làm
nhé.
- Rõ.
Miệng nói chân bước, Tô Hồng Dân đi nhanh ra cửa. Nét mặt
bộc lộ rõ niềm vui. Tô Hồng Dân vừa đi vừa huýt sáo. Nhìn theo bóng Tô
Hồng Dân. Trịnh Toàn mỉm cười.
- Đúng là ...

38
ÁO CỎ

195
Trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân sướng ra mặt. Ngồi sau lưng
Trần Minh Hồng trên chiếc xe mô tô ba bánh, Tô Hồng Dân nhìn đống
lưới được phủ bạt kín trong thùng, huýt sáo miệng liên tục. Đoán trưởng
ban trinh sát có chuyện vui, Trần Minh Hồng thỉnh thoảng lại ngoái cổ
sang cười mỉm.
Nhận mệnh lệnh từ chỉ huy trưởng, Tô Hồng Dân lập kế hoạch
đánh án. Lúc đầu nghe chỉ huy trưởng nói là rút quân ra khỏi hang ma
xong rồi lại đưa trở lại hang ma ngay Tô Hồng Dân không hiểu ý định.
Đêm về phòng, nằm nghĩ, Tô Hồng Dân mới nhận ra cái thâm ý của chỉ
huy trưởng.
Nhưng làm thế nào để đưa tổ công tác trở lại hang ma mà vẫn
giữ được yếu tố bất ngờ. Chỉ huy trưởng dặn đi dặn lại là không được
đánh rắn động cỏ. Nếu đối tượng phát hiện ra là sẽ thất bại. Việc A Lò và
Tự Kim đêm lạnh đốt lửa trong hang đã là một việc đánh rắn động cỏ làm
đối tượng đã có sự phòng bị. Chỉ huy trưởng cho rằng, sớm muộn đối
tượng cũng sẽ chuyển vị trí. Rút quân ra để tạo tình huống bất ngờ, làm
cho đối tượng không thể phán đoán được tình hình. Rút quân ra xong rồi
bí mật đưa trở lại để phòng khi, nếu đối tượng thực sự phát hiện được
hướng điều tra anh em cán bộ vẫn có thể xử lý kịp. Còn không, nếu thấy
động là đối tượng sẽ thay đổi phương thức hoạt động, không theo quy luật
nữa là công tác điều tra sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Muốn vậy chỉ có cách
là ém quân sẵn, mật phục tại chỗ, lót ổ chờ đối tượng. Yếu tố quan trọng
nhất của mật phục là nguỵ trang. Rừng là nơi thuận lợi cho ẩn nấp, nhưng
cũng là điểm rất dễ bị phát hiện nếu nguỵ trang không tốt, tạo độ chênh
trong màu sắc. Nhất là số anh em trẻ. Mật phục phải kiên trì, chịu áp lực
vất vả. Lính trẻ lại hiếu động, thường chủ quan. Có khi nằm phục cả ngày,
chỉ cần bị kiến hay vắt cắn, thậm chí hắt hơi không kìm giữ, chịu được,
ngọ ngoạy là sẽ lộ. Mọi công lao sẽ đổ xuống sông xuống biển.
Sáng ra, Tô Hồng Dân đi ra vườn, trên tay cầm mấy vòng tre để
cài lá nguỵ trang. Đang hí hoáy cài lá vào khung thì chỉ huy trưởng Trịnh
Toàn đi qua. Trịnh Toàn đến sát sau lưng mà Tô Hồng Dân vẫn không hề
biết.
- Cậu làm gì mà lụi hà lụi hụi thế?
Giật mình, Tô Hồng Dân quay lại. Thấy chỉ huy trưởng vội
đứng lên.
- Chào thủ trưởng. Thủ trưởng đến mà em không biết.
Tô Hồng Dân chỉ tay vào mấy cái vòng nguỵ trang. Gãi đầu.
- Em đang tìm cách làm nguỵ trang cho anh em. Làm theo kiểu
nguỵ trang này xem ra không ổn. Em đang bí quá mà chưa nghĩ ra cách
nào thủ trưởng ạ.
Trịnh Toàn cúi xuống cầm vòng nguỵ trang lên, ngắm nghía.
Ông lắc đầu.

196
- Đúng là làm thế này không ổn. Nếu đi đêm còn khả dĩ chứ ban
ngày, lộ ngay. Tự nhiên lại có búi lá xanh ngăn ngắt, nằm lè tè giữa cả
một đám lá khô, vàng vàng thì có khác chó gì thông báo: Có tôi đang nằm
ở đây. Không ổn.
- Thì em cũng nghĩ thế. Nhưng quả thật là em chưa nghĩ ra cách
nào hay hơn.
Vẫn cầm chiếc vòng nguỵ trang trên tay, Trịnh Toàn xoay xoay
rồi áp thử vào ngực.
- Theo tôi. Vòng nguỵ trang này chỉ đủ che được phần trên thân
người, còn từ thắt lưng trở xuống chân coi như không có. Làm sao phải
che được toàn thân. Màu sắc lại phải trùng màu với lá cây rụng. Cái xanh,
cái vàng, cái khô, cái héo. Dẫu vậy, phải mềm, dễ cơ động. Khi di chuyển
hay khi tấn công không bị ảnh hưởng, vướng víu. Nó phải như cái áo ấy.
Đặt cái vòng nguỵ trang xuống, Trịnh Toàn lấy chân khua đi
khua lại trên lớp lá rụng. Đám lá rụng bị đảo lên. Những cái lá vẫn còn
giữ nguyên nếp cũ, mặt lá khô, có màu vàng vàng. Những chiếc bị lật lên,
mang màu sẫm, ươn ướt. Mùi lá ai ải, hoai mục hắt lên.
Nhặt lấy một nắm lá, Trịnh Toàn giắt vào khuy áo. Những chiếc
lá đầu cuống bám vào áo, thân lá rủ xuống xuôi chiều thân người. Trịnh
Toàn rùng rùng người. Một vài chiếc tuột khỏi khuy rơi xuống. Trịnh
Toàn lại cúi xuống, gỡ mấy dây cỏ chỉ bò nghêu nghao bên mấy khóm
cây. Trịnh Toàn xoè bàn tay, giắt vào kẽ ngón những sợi dây cỏ. Đặt tay
ép sát vào người. Trịnh Toàn lắc lắc. Những dây cỏ chuyển động theo cơ
thể. Những đầu dây cỏ phía dưới chuyển động, đung đưa, cuốn, vướng
vào nhau, vón lại.
Ném mấy sợi dây cỏ xuống đất. Trịnh Toàn quay sang nói với
Tô Hồng Dân.
- Cậu có nhìn lúc nãy khi tôi cài mấy chiếc lá vào khuy áo
không? Có thấy mấy dây cỏ tôi dắt vào kẽ tay không?
- Dạ có.
- Cậu thấy gì?
- Dắt lá khi vận động lắc mạnh sẽ rơi. Còn dây cỏ, khi vận động
chúng vón lại với nhau.
- Đúng thế, nhưng chưa hết. Nếu làm nguỵ trang được như màu
lá, màu cỏ sẽ rất tốt. Nguỵ trang phải như tấm vải dù phủ che hết lưng.
Cái khó là phải làm sao cài giữ được lá, giữ được dây cỏ không rơi, không
vón, chúng luôn luôn phủ xuôi theo thân người. Khi đó, giấu mình trong
lớp lá nữa thì mới đảm bảo được bí mật.
Dừng ngắn như để suy nghĩ thêm, rồi Trịnh Toàn lại hỏi tiếp.
- Cậu có nghĩ làm cách nào được chưa?
- Theo em thì muốn thế phải tết chúng lại với nhau. Tô Hồng
Dân ngập ngừng trả lời.

197
- Đúng thế. Phải tết chúng lại. Nhưng để làm được như thế là
mất rất nhiều thời gian. Cậu thử làm xem nó hết bao lâu nhé.
- Em nghĩ là rất lâu.
- Thì cậu cứ làm đi. Đã làm đâu mà nghĩ với chả không nghĩ.
Đúng là cái cậu này chỉ được nhanh hẩu đoảng.
- Theo tôi thì không cần phải làm thế đâu. Chỉ cần tấm lưới rồi
cài giắt lá và cỏ lên trên là xong. Không cần phải tết hay buộc chúng lại
mà vẫn bảo đảm được.
Nghe thấy phía sau có tiếng góp ý, cả Trịnh Toàn và Tô Hồng
Dân quay lại. Trần Minh Hồng đã có mặt từ khi nào nói góp ý. Trịnh
Toàn đưa tay vỗ vỗ lên trán. Đoạn quay hẳn sang phía Trần Minh Hồng.
- Đúng. Tuyệt. Quá hay. Chỉ cần có tấm lưới rồi làm là sẽ được.
Nhưng mà…
Trịnh Toàn ngắt nửa chừng đăm chiêu.
- Thủ trưởng định hỏi lấy đâu ra lưới chứ gì. Thủ trưởng còn
nhớ người bạn của mình không?
- Ý cậu là Trần Kiên?
- Đúng thế. Thủ trưởng chỉ cần viết thư cho Trần Kiên là mọi
việc sẽ xuôi.
- Có chắc không?
- Chắc chứ ạ. Thủ trưởng cứ viết cho em lá thư gửi Trần Kiên.
Em và Tô Hồng Dân sẽ có trách nhiệm đi. Em đảm bảo là xong.
- Tớ nghĩ…
- Thủ trưởng nghĩ Trần Kiên vẫn giận chứ gì? Trần Kiên vẫn là
con người rất tốt, là người bạn chí cốt của thủ trưởng đấy.
- Được. Nếu cậu bảo đảm chắc chắn thế. Cả hai cậu lên phòng
tớ.
Cầm lá thư của Trịnh Toàn đi gặp Trần Kiên, Tô Hồng Dân
không nghĩ mọi việc lại suôn sẻ thế. Không những chỉ xin được những
tấm lưới rách, đã bỏ đi mà Trần Kiên còn cho luôn cả mấy tấm lưới vẫn
còn đang dùng được. Có được đám lưới này, việc làm áo cỏ nguỵ trang sẽ
thuận lợi biết bao. Sướng quá, Tô Hồng Dân không kìm được, ngồi trên
xe cứ huýt sáo suốt.
Khi Tô Hồng Dân và Trần Minh Hồng về đến ban chỉ huy thì A
Lò và Tự Kim cùng tổ công tác vừa từ trên hang ma về đến đơn vị. A Lò
và Tự Kim vừa bước chân vào phòng nghỉ, cậu chiến sĩ trong ban trinh sát
đến truyền mệnh lệnh.
- Trưởng ban trinh sát mời các anh lên phòng giao ban của sở
chỉ huy ngay.
- Có việc gì mà vội thế?
- Tôi không biết. Các đồng chí muốn biết lên mà hỏi trưởng ban.

198
- Này. Không phải thách nhé. Bọn này không ngọng đâu. Đằng
ấy làm được thì đằng này cũng làm được. Nếu không nói cho biết thì đằng
này cũng không đi. Thế thôi.
- Các anh đi hay không là tuỳ. Tôi đã truyền đạt xong mệnh
lệnh. Các anh không lên thật. Tôi sẽ báo cáo lại.
Nói xong, cậu chiến sĩ quay bước, dạm bỏ đi. Tổ công tác vội
chạy lại.
- Ấy ấy. Làm gì mà căng thẳng nhau thế. Chúng tôi vừa về đến
nhà. Làm gì cũng để anh em tắm rửa tý chứ? Cả tuần nay quần áo chả
được thay, người ngượm chưa được tắm. Cậu về báo lại trưởng ban.
Chúng tôi tắm xong lên ngay.
- Việc đó các anh lên mà báo cáo. Tôi không biết.
- Được thôi. Quan đã cần nhưng dân chưa vội. Quan có vội quan
lội quan sang.
Miệng nói cứng thế nhưng ai nấy lóc cóc theo chân đồng chí
chiến sĩ lên phòng giao ban.
Khi mọi người vừa ngồi xuống ghế, Tô Hồng Dân tập trung tất
cả số cán bộ trinh sát lại quán triệt nhiệm vụ. Tô Hồng Dân nói ngay vào
công việc.
- Ngay sau đây, tất cả các đồng chí chuẩn bị quay lại hang ma
ngay.
- Chúng tôi vừa về mà trưởng ban.
- Các đồng chí vừa về, tôi biết và mọi người cũng biết.
- Thì để chúng em tắm rửa lấy cái đã. Mấy hôm nay chả được
tắm rửa gì cả. Người ngợm ngứa ngáy khó chịu lắm.
- Không cần tắm. Đồng chí nào muốn tắm thì ở lại. Không phải
đi nữa. Tôi đang cần các đồng chí phải bẩn thế đấy.
- Nếu thế thì chúng em thôi vậy. Nhưng trưởng ban cũng phải
nói cho chúng em biết là làm gì đã chứ ạ.
Tô Hồng Dân lật tấm bạt phủ thùng chiếc xe mô tô ba bánh, lôi
ra những tấm lưới.
- Trước mắt. Các đồng chí lấy dao, rọc tấm lưới này ra chiều
ngang khoảng bẩy tám mươi phân, chiều dài bằng thân các đồng chí. Rọc
xong, từng người đi lấy dây cỏ giắt dọc vào theo tấm lưới. Cứ cách
khoảng hai mươi đến ba mươi phân thì cài thêm lá cây vào. Làm sao khi
người khác nhìn vào trông giống đám cỏ bị lá cây rụng lên trên là được.
Mọi người nghe Tô Hồng Dân giao nhiệm vụ mà không biết là
nhiệm vụ gì cứ đưa mắt nhìn nhau. Có vài ba tiếng nói cất lên trong đám
đông.
- Làm để làm gì thế trưởng ban?
Tô Hồng Dân nhìn khắp lượt mọi người.

199
- Thì các đồng chí có để tôi nói tiếp không? Hay là cứ làm ầm
lên thế?
- Thời gian làm áo rất ngắn. Đến chiều phải xong. Khi nào tôi
kiểm tra thấy đảm bảo chất lượng thì mới được. Xong cũng mới ăn cơm.
Chưa xong chưa ăn cơm.
- Ối giời. Thế này thì đói chết mất.
Có vài ba tiếng thì thầm. Tô Hồng Dân nhìn mọi người, nét mặt
như đùa.
- Không chết được đâu mà sợ. Làm xong áo cỏ nguỵ trang, ăn
xong các đồng chí chuẩn bị lên đường ngay.
Tô Hồng Dân phân công thành hai tổ. Tổ một do Trần Minh
Hồng trực tiếp chỉ huy. Tổ này có nhiệm vụ bí mật ém quân xung quanh
chân núi Bái. Tổ hai do Tô Hồng Dân phụ trách. Tổ này có nhiệm vụ bám
lão Tảng và hướng các đối tượng khi di chuyển lên hang ma. Riêng A Lò
và Tự Kim đi theo tổ một song có nhiệm vụ đặc trách khu vực trên đỉnh
Con Cóc. Mỗi tổ mang theo lương khô và nước bảo đảm ăn, uống trong
một tuần. Khi phát hiện đối tượng hay bất cứ một di biến động nào cũng
phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của trên. Không được tự ý hành động.
Tô Hồng Dân thống nhất các ký tín ám hiệu trong các tổ.
Sau khi phân công nhiệm vụ xong, Tô Hồng Dân vui vẻ hỏi.
- Thế nào? Bây giờ các đồng chí còn muốn đi tắm nữa không?
Tất cả mọi người đều ồn lên.
- Thôi rồi trưởng ban ạ. Nhưng mà bao giờ hoàn thành nhiệm
vụ, rút về. Yêu cầu trưởng ban báo cáo với ban chỉ huy cho anh em toàn
đơn vị nghỉ việc để tránh mùi của tổ công tác thôi ạ.
- Trưởng ban báo cáo ban chỉ huy cho nghỉ ngâm nước một tuần
để cho ghét và cáu bẩn vữa ra thôi.
Tô Hồng Dân đưa tay lên xua xua.
- Được rồi. Xong việc sẽ đáp ứng tất cả các yêu cầu của các
đồng chí. Bây giờ còn chỗ nào chưa rõ, các đồng chí hỏi để tôi nói cho rõ.
Không còn điều kiện để hỏi thêm nữa đâu.
- Rõ lắm rồi trưởng ban ạ.
- Rõ rồi thì tất cả về triển khai công việc theo kế hoạch. Tất cả
sẽ cấm trại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tuyệt đối gặp gỡ hay thư từ trao
đổi gì với người ngoài đội. Đúng sáu giờ ba mươi phút các tổ phải xuất
phát. Các đồng chí rõ chưa?
- Rõ.
Ai nấy cầm tấm lưới rồi lục tục rời khỏi phòng.
Đợi mọi người đi ra hết, Tô Hồng Dân kéo tay Trần Minh Hồng.
- Tranh thủ khi anh em đi làm nguỵ trang. Tôi với anh lên báo
cáo chỉ huy trưởng và xin ý kiến thêm.

200
Ngồi một mình trong phòng, Trịnh Toàn cũng đang xem xét và
tính toán bố trí các lực lượng hỗ trợ khi cần thiết. Tấm bản đồ trước mặt
lấm tấm những điểm chấm đo đỏ.

* *
*

Ngồi trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh không thể hiểu được tại sao
toán người đang ở trong hang ma lại tự nhiên rút đi. Hôm trước, Phan
Lềnh theo lão Tảng về qua nhà suýt nữa thì hỏng việc. Trong lúc chờ mẹ
về, Phan Lềnh chỉ nghĩ nằm nghỉ một lát ở dưới gốc cây khế ngoài vườn.
Đâu ngờ, ngủ quên đi. Cũng may là Phan Lềnh thấy động, thức giấc. Nếu
không thức giấc đúng lúc đó, có khi bây giờ Phan Lềnh đã bị bọn công an
bắt rồi cũng nên. Lúc đó, không chỉ có Phan Lềnh mà có khi cả mẹ rồi
thằng Đô, thằng Đồ cũng chịu lây. Bây giờ ngồi nghĩ lại, Phan Lềnh còn
thấy run.
Nghĩ mà vừa bực vừa lo, Phan Lềnh cho rằng cái lỗi ấy chỉ tại
lão Tảng. Đêm đó vì có lão ở lại để chờ sáng đưa Phan Lềnh về mà làm
mất ngủ. Cũng chính vì không ngủ được nên khi về, không gặp mẹ mà để
Phan Lềnh ngủ quên bên gốc cây khế.
Nghĩ chán Phan Lềnh bỗng thấy dại. Nếu ngày đó Phan Lềnh
không bỏ đi thì làm sao bây giờ lại phải như thế này. Phan Lềnh nhớ khi
trốn lên tàu từ ga Hàng Cỏ vào Vinh, theo đường tìm ra Lạc Xao. Lúc đó
Phan Lềnh chỉ nghĩ làm sao báo thù được cho bố để hả dạ. Phan Lềnh
không thể quên được hình ảnh lão Dung, lão Mai, kẻ ăn người ở mà dám
ngồi trên bàn cầm roi chỉ vào mặt bố. Vì nhục quá mà bố Phan Lềnh phải
thắt cổ tự tử mà chết.
Ngồi một mình trên đỉnh Con Cóc lúc này, Phan Lềnh nhận ra,
lòng thù hận đã làm cho con người tăm tối. Chính lòng thù hận đã đưa
Phan Lềnh đến con đường này. Đêm Phan Lềnh một mình vừa đặt chân
đến Lạc Xao bị một toán lính bắt. Sau khi xét hỏi chúng đưa Phan Lềnh
lên chiếc xe bịt kín bạt. Chúng đưa Phan Lềnh đi đâu không biết. Nằm
trên sàn xe, Phan Lềnh đoán chắc xa lắm. Sau này Phan Lềnh mới biết.
Chúng đưa Phan Lềnh về Viên Chăn. Phan Lềnh lúc đó nghĩ. Cứ mặc
chúng nó đưa đi. Đến đâu cũng thế. Đâu chả đất này người này. Sống ở
đâu chả thế. Đã làm người chạy đâu cho khỏi nắng. Phan Lềnh cứ nhắm
mắt đưa chân. Mặc số phận đi đến đâu thì đến.
Về đến Viên Chăn, Phan Lềnh được đưa vào một căn nhà vắng
vẻ, xung quanh có cây xanh. Phan Lềnh ở đó một thời gian. Thỉnh thoảng
lại có người đi vào hỏi dăm ba câu rồi lại đi. Tất cả mọi hoạt động ăn
uống ngủ nghỉ có người phục vụ chu tất.

201
Ở trong căn nhà đó khoảng một tuần, Phan Lềnh lại được đưa
lên chiếc xe con màu trắng sang trọng. Chiếc xe đưa Phan Lềnh vào khu
nhà khác. Khi chiếc xe chạy vào cổng, Phan Lềnh thấy có lính đứng gác
từ ngoài cổng. Những người đi trên xe dẫn Phan Lềnh vào trong ngôi nhà
xong rồi bỏ đi ngay. Đưa mắt nhìn quanh, Phan Lềnh không thấy người,
vắng tanh vắng ngắt. Trên chiếc bàn kê giữa bộ sa lông bọc nhung màu
vàng vàng là ly cà phê tóc tách nhỏ giọt. Phan Lềnh đi vòng quanh ngôi
nhà quan sát. Khi Phan Lềnh đang định đi ra phía cửa bỗng có tiếng nói
vọng lại.
- Cà phê đã pha sẵn mời anh để trên bàn. Anh cứ dùng tự nhiên.
Tôi đang có chút việc. Xong tôi sẽ ra ngay.
Hướng mắt về phía có tiếng nói, Phan Lềnh vẫn không thấy ai.
Kệ. Có cứ uống đã. Mấy ngày nay nhịn đói, nhịn khát rồi. Cứ ăn cứ uống.
Nếu có chết cũng không phải làm ma đói.
Có bóng người lệt sệt đi vào. Nhìn ra hướng cửa. Một người đàn
ông, tóc chải ngược về sau. Bộ com lê là ly láng bóng. Người đó nhìn như
xoáy vào người Phan Lềnh, nhẹ nhàng.
- Mấy ngày qua chắc anh vất vả quá rồi phải không? Mọi người
chưa rõ tâm ý của anh nên ra thế. Bây giờ chúng ta đã là người một nhà
rồi. Anh cần gì cứ nói. Tôi sẽ cho người phục vụ anh đầy đủ.
Ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện với Phan Lềnh. Dường như
không cần nghe, không cần xem thái độ của Phan Lềnh ra sao, người đó
vẫn giữ cái giọng nhẹ nhàng.
- Quốc gia rất cần những người như anh. Nếu anh về làm việc
cho quốc gia. Quốc gia cũng sẽ hết lòng đáp ứng cho anh. Bao giờ quốc
gia tiêu diệt hết cộng sản. Tôi dám bảo đảm với anh. Những mất mát của
anh sẽ được quốc gia trả lại đầy đủ.
Lúc này, Phan Lềnh nhìn kỹ khuôn mặt người ngồi đối diện.
Một khuôn mặt không có đường nét, tất cả đều trơn tru, phăng phẳng, bèn
bẹt. Đôi mắt nhỏ lúc nào cũng như cười nhưng khi nhìn sâu vào bên
trong, hình như từ nó toát ra một ám khí lành lạnh đến rờn rợn. Trót tay
đã nhúng chàm. Con dao đã ném khỏi tay làm sao còn cầm lại. Một liều
ba bẩy cũng liều, nhắm mắt đưa chân rồi đến đâu thì đến. Phan Lềnh chưa
biết người ngồi đối diện là ai. Quan sát căn phòng, xem xét cách nói
chuyện, Phan Lềnh đoán. Người ngồi đối diện chắc phải là một người có
địa vị quyền cao chức trọng. Tốt nhất là nói chung chung, không cụ thể để
xem thái độ phản ứng thế nào.
- Thì tất cả tôi đã nói với các ông rồi.
- Tôi biết. Tôi biết.
Phan Lềnh vừa nói hết câu, người đối diện đã đưa mắt nhìn
Phan Lềnh cười cười thân thiện.

202
- Nếu anh chưa thật lòng với quốc gia thì anh làm sao có mặt ở
nơi này được. Tôi đã được các chiến hữu trình báo cho biết chuyện của
anh và tâm nguyện của anh rồi. Chỉ có điều anh chưa biết tôi là ai thôi.
Anh thật lòng về hợp tác với quốc gia là quốc gia sẵn sàng đón nhận.
Câu chuyện sau đó cũng chỉ xoay quanh những điều mà một số
lần trước Phan Lềnh đã được hỏi và đã nói. Suốt cả cuộc trò chuyện đó,
Phan Lềnh dường như chỉ trả lời mà không được hỏi. Khi câu chuyện vãn,
chiếc xe khi trước đưa Phan Lềnh đến từ từ lùi vào sát bên bậc cửa. Tiễn
Phan Lềnh ra cửa để trở lại căn nhà ẩn trong những hàng cây xanh, người
có khuôn mặt trơn tru, không có đường nét đưa tay ra bắt.
- Mọi thông tin về anh tôi cũng đã báo cáo về ngài tổng thống.
Chuyến chuyên cơ đưa anh đi cũng đã sẵn sàng. Bác sĩ Trần Kim Tuyến
cũng rất quan tâm đến tâm ý của anh đó. Ông Ngô Thế Linh cũng đã điện
sang hỏi tôi. Khi nào anh xuống sân bay là sẽ gặp. Chúc anh lên đường
may mắn.
Phan Lềnh cũng đưa tay ra bắt đáp lễ. Lần đầu tiên Phan Lềnh
mới thấy có bàn tay mềm và lạnh đến thế. Ngay bay giờ, khi ngồi trên
đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh nhớ lại những chuyện đã qua mà còn cảm thấy
bàn tay mềm mềm và lành lạnh ấy. Lúc đó Phan Lềnh đâu có biết. Đó
chính là viên đại sứ quán của Việt Nam cộng hoà ở Lào.
Khi Phan Lềnh xuống sân bay quả đúng như viên đại sứ quán
nói, Ngô Thế Linh đã đón sẵn. Lúc trước, khi ngồi nói chuyện trong
phòng của viên đại sứ quán ở Viên Chăn, Phan Lềnh không biết tý gì gọi
là về bác sĩ Trần Kim Tuyến và Ngô Thế Linhh. Mặc dù không hề biết
nhưng cứ nghe cách nói của viên đại sứ là Phan Lềnh biết hai người này
phải là những kẻ có máu mặt.
Ngô Thế Linh đưa Phan Lềnh về trung tâm điều tra. Sau một
thời gian ở đây, Phan Lềnh được đưa đi ra một hòn đảo ngoài khơi Thái
Bình Dương. Ở hai nơi này, Phan Lềnh được huấn luyện các kỹ chiến
thuật xâm nhập và sử dụng các phương tiện điện đài. Với những việc như
thế này, Phan Lềnh coi không là cái gì. Cái mà Phan Lềnh khó chịu nhất
chính là sự tù túng. Cả ngày không được bước chân ra khỏi hàng rào dây
thép gai, tất cả mọi nhu cầu sinh hoạt đều nằm trong sự kiểm soát. Khi
biết được công việc đòi hỏi phải thế, sự tù túng cũng dần được làm quen.
Nhưng cái khó chịu mà cho đến bây giờ, Phan Lềnh vẫn không thể hiểu
được là các bài rao giảng. Cứ mỗi khi phải nghe thuyết trình, giảng giải về
lý tưởng của quốc gia là Phan Lềnh không thể chấp nhận. Thể chế chính
trị nào cũng chỉ phục vụ cho lợi ích của một giai cấp chứ làm gì có chế độ
phục vụ cho tất cả. Giai cấp này muốn tồn tại, muốn duy trì lợi ích của
mình thì phải tiêu diệt giai cấp kia. Phan Lềnh nghe mà phát ứ lên cổ. Mỗi
khi phải nghe như thế, Phan Lềnh thường lẩm bẩm chửi thầm.

203
- Mẹ chúng mày. Nói ngu như con c…Bố mày không lỡ bước
thì loại như chúng mày xếp hàng nghe tao giảng chưa xong.
Những lúc như thế, Phan Lềnh thấy lòng rối bời. Những năm
tháng đã sống dạy cho Phan Lềnh biết phải im lặng. Im lặng là vàng. Nếu
Phan Lềnh còn muốn giữ mạng sống thì phải biết im lặng và tuân thủ. Đã
có những lúc, Phan Lềnh mong có cơ hội để thoát ra sự trói buộc này.
Ngay bây giờ, hơn lúc nào, Phan Lềnh chỉ muốn được tự do,
được làm những việc mình mong muốn. Phan Lềnh ngồi nghĩ và nhớ lại
tất cả. Việc này là do chính Phan Lềnh đem dây tự trói tay mình. Phan
Lềnh thấy mệt mỏi. Cố nén tiếng thở dài mà không nén được. Tiếng thở
cứ hắt ra.
Bực mình, Phan Lềnh nhặt hòn đá ném bừa xuống chân núi.
Có tiếng cú rúc đổ hồi bên sườn núi. Phan Lềnh vụm tay làm giả
tiếng cú rúc đáp lại. Hôm nay đúng phiên liên lạc. Tưởng lão Tảng còn
mải chết rấp ở dưới kia với con mụ Đoác lại không nhớ. Mà tiên sư nhà
lão. Sao hôm nay lão lên sớm thế? Hay là…
Nhìn qua làn sương sớm, Phan Lềnh thấy ba cái đầu nhô lên.
Lão Tảng cùng thằng Đô, thằng Đồ xuất hiện trước mặt. Phan Lềnh nhớ
ra. Hôm trước có bảo lão Tảng đưa hai thằng Đô, thằng Đồ lên để chuyển
mấy cái thứ chết tiệt sang vị trí mới. Phan Lềnh thấy mấy tay công an cứ
lượn lờ suốt ngày cũng sốt ruột. Nhỡ ra, sơ xẩy một chút mà họ biết được
thì công cốc. Cẩn tắc vô áy náy. Cứ chuyển sang bên vị trí khác cho an
toàn. Nếu không có gì thì lại trở lại.
Phan Lềnh đã định chuyển sớm thì thấy tốp công an tự nhiên rút
đi. Phan Lềnh nghĩ. Chắc họ chưa biết gì. Nếu họ mong manh biết thì sẽ
phải tăng cường lực lượng chứ không rút đi. Hôm nay cũng đã đến phiên
liên lạc. Sau phiên liên lạc này thì sẽ chuyển. Phan Lềnh đưa tay xem
đồng hồ. Bây giờ mới năm giờ mười lăm. Từ lúc này đến chương trình
phát thanh của đài tiếng nói còn một tiếng mười lăm phút nữa.
Phan Lềnh ra hiệu cho lão Tảng, thằng Đô, thằng Đồ vào khuất
trong hang.

39
204
CẤT VÓ

Sau khi Tô Hồng Dân dẫn các tổ trinh sát quay trở lại hang ma,
lòng Trịnh Toàn như có lửa đốt. Tất cả chỉ là phán đoán chứ không hề có
lấy chút gọi là căn cứ xác đáng. Bản chất của sự việc cho đến lúc này vẫn
là một ẩn số mà Trịnh Toàn chưa tìm ra. Việc ông quyết định kéo tổ trinh
sát từ hang ma ra rồi lại đưa vào ngay cũng chỉ là kinh nghiệm và linh
cảm của nghề nghiệp mách bảo. Ông đã ngồi xâu chuỗi các sự kiện lại
nhưng quả thực là giữa chúng các mối quan hệ rất lỏng lẻo. Sự kiện chiếc
bơi chèo Trần Kiên nhặt được trên biển khu vực làng Vàng chưa đủ khẳng
định địch đã xâm nhập. Biết đâu đấy chỉ là do ngư dân đánh rơi trên biển
rồi trôi dạt vào khu vực làng Vàng. Ngay chiếc thuyền anh em cán bộ đồn
Mũi Ngọc thu giữ cũng chưa khẳng định được. Nó chỉ là dấu hiệu khả
nghi là kẻ địch đã xâm nhập. Rồi chuyện cháy trên hang ma cũng thế. Có
thể bằng trực giác và kinh nghiệm cho biết việc cháy ở trên hang ma là
con người tạo ra. Còn tạo ra với mục đích gì thì cũng chưa được làm rõ.
Ngay chất gây cháy cũng chưa được kết luận. Thông tin nhìn thấy Phan
Lềnh, kẻ đã bỏ nhà đi đâu không rõ nay bỗng dưng trở lại cũng chưa được
xác minh đi đến kết luận chính xác. Tất cả cũng chỉ là tin đồn, là dư luận.
Ngay mối quan hệ giữa đối tượng nằm trong diện theo dõi là lão Tảng với
Phan Lềnh cũng chỉ là mối quan hệ của kẻ ăn người ở với cậu chủ chứ nó
không ràng buộc như gia đình, anh em, họ hàng. Có chăng, đây chỉ là cơ
sở móc nối, lôi kéo mà thôi.
Tất nhiên bản thân Trịnh Toàn nhận định và phân tích như thế
nhưng nếu cứ theo bức điện mật báo về thì đối tượng không thể chưa xâm
nhập. Bức điện tín mà trinh sát thu được trùng vào giờ phát thanh trong
chương trình thời sự đã nói lên điều đó. Lý thuyết là thế. Nếu từ các
chứng cứ và thông tin thu được thì tất cả vẫn chỉ là hoài nghi, là dấu hỏi
mà chưa có câu trả lời. Giả sử có ai hỏi, căn cứ nào để Trịnh Toàn đưa ra
quyết định đánh tổ trinh sát trở lại hang ma thì chắc chắn ông không thể
giải thích được.
Điều quân khi chưa có cơ sở xác đáng là sự mạo hiểm. Nhưng
nếu cứ ngồi chờ cho đối tượng xuất hiện thì cũng là cách thụ động. Trong
hai cách chủ động và thụ động, Trịnh Toàn chọn phương án chủ động.
Thử làm và làm hỏng còn hơn không làm. Trịnh Toàn không thể chịu
được lối đại lãn chờ sung rụng. Nếu có sai, ông xin chịu tất cả trách
nhiệm.
Từ khi các tổ công tác trinh sát lên đường, Trịnh Toàn yêu cầu
cậu chiến sĩ công vụ xuống bếp lấy tiêu chuẩn ăn về phòng cho mình mà
không xuống bếp như mọi khi. Cả ngày Trịnh Toàn ngồi trực bên chiếc
máy điện thoại. Ông chỉ sợ, khi xuống bếp ăn mà có điện thoại lại không
205
kịp trả lời, xử lý làm nhỡ công việc. Cứ nghe thấy có tiếng điện thoại là
Trịnh Toàn lại thấy hồi hộp. Mấy lần nhấc máy lên không phải điện từ các
tổ trinh sát điện về, sau khi trả lời xong là ông lại dập máy ngồi thở dài.
Trưa không thấy chỉ huy trưởng xuống bếp ăn cơm như mọi khi.
Ăn xong, chính trị viên chủ động sang phòng Trịnh Toàn. Chính trị viên
Song Hoa đoán chắc phải có chuyện gì hệ trọng lắm Trịnh Toàn mới như
thế này.
Vừa trông thấy chính trị viên Song Hoa bước vào cửa, Trịnh
toàn đã hồ hởi.
- Hay quá. Đang định cho cậu công vụ mời anh lên ngồi cùng.
Chính trị viên Song Hoa kéo ghế, ngồi đối diện với Trịnh Toàn.
Chính trị viên nhẹ nhàng.
- Chắc anh đang có chuyện gì phải không? Cả ngày hôm qua rồi
sáng nay, không thấy anh xuống bếp ăn như mọi khi.
- Thì vẫn chỉ có chuyện trên hang ma đó thôi. Hai ngày nay tổ
trinh sát đã đi mà chưa có thông tin gì về cả. Nó mà vỡ thì….
- Anh đừng lo. Nếu có thông tin gì là các cậu ấy sẽ thông báo
ngay. Chắc là chưa có gì nên mới yên ắng thế.
- Đúng là thế. Nhưng tôi vẫn cứ lo lo.
- Thành bại là chuyện thường của nhà binh. Thất bại biết đâu là
mẹ của thành công. Nếu có việc gì, tôi sẽ cùng chịu trách nhiệm với anh.
- Cám ơn anh. Nhưng tôi hỏi thật anh nhé. Mà anh cũng phải nói
thật lòng. Anh có tin tôi không?
Chính trị viên Song Hoa cầm chén nước lên nhấp nhấp, cười.
- Anh với tôi mà còn hỏi thế. Chịu anh thật. Thế tôi hỏi lại anh.
Anh có tin tôi không?
- Không. Ý tôi là anh có tin vào quyết định tập trung lực lượng
trên hang ma không? Chứ tôi không tin anh thì tin ai. Nếu tôi không có
anh. Tôi nói thật nhé. Tôi hỏng nhiều việc rồi ấy chứ.
- Anh hỏi thế, tôi cũng phải nói thật là. Mặc dù tin anh, ủng hộ
anh nhưng tôi vẫn thấy nó phiêu liêu quá. Cứ chông chênh thế nào ấy.
- Quả là, ngay bản thân tôi cũng thấy thế. Nhưng linh tính cứ
mách bảo tôi là đối tượng sẽ ẩn nấp trên hang ma. Linh cảm thôi nhưng
tôi tin là mình đúng.
- Tôi cũng mong như thế.
Chính trị viên chưa nói xong câu thì có tiếng chuống đổ dài.
Nhấc vội tổ hợp lên, Trịnh Toàn áp vào tai. Nhìn Trịnh Toàn thấy tiếng
chuông đổ vội vàng cập rập thế, chính trị viên Song Hoa tủm tỉm cười.
Chính trị viên nhủ thầm trong lòng. Khổ. Cũng chỉ vì lo công việc quá.
- Tôi Trịnh Toàn nghe đây.
Tiếng đầu dây phía kia có tiếng nói.
- Báo cáo thủ trưởng. Cáo đã ra khỏi hang.

206
Nghe thế, nét mặt Trịnh Toàn rạng rỡ hẳn lên.
- Tốt. Cho anh em bám chắc. Tuyệt đối bí mật, không để đối
tượng phát hiện đấy.
- Báo cáo. Rõ. Không chỉ có một đối tượng mà còn xuất hiện
thêm hai đối tượng khác nữa cùng rời vị trí.
- Cứ bám. Có gì thông báo ngay. Tôi sẽ chờ thông tin của các
đồng chí đấy.
- Rõ.
Mặc dù không trực tiếp nghe máy nhưng chỉ nghe Trịnh Toàn
trả lời là chính trị viên biết được nội dung công việc. Thông tin vừa qua,
chắc của mấy anh em ở dưới bản La Khê điện về báo cáo tình hình.

* *
*

Theo nguồn tin của cơ sở, lão Tảng vẫn ở cùng nhà với mụ
Đoác, Tô Hồng Dân quyết định triển khai ngay từ dưới bản. Đưa quân lên
nằm phục cả ngày ngoài nhà mà vẫn không thấy có động tĩnh gì Tô Hồng
Dân cũng sốt ruột. Bản thân Tô Hồng Dân cũng thấy tất cả còn mù mờ,
không có cái gì rõ ràng cả. Nếu đúng theo quy luật thì hôm nay sẽ là lịch
phát sóng liên lạc, khi chương trình phát thanh thời sự của đài tiếng nói
Việt Nam. Bốn bức điện lạ mà trinh sát thu được đều trùng vào giờ này.
Các phiên liên lạc đều rơi vào chiều ngày thứ bẩy trong tuần và vào giờ
phát sóng chương trình thời sự. Hôm qua, ngay trong đêm Tô Hồng Dân
đã cho triển khai xong các mũi đúng theo kế hoạch. Kiểm tra lại các bước,
Tô Hồng Dân tin là tất cả hoạt động bố trí lực lượng đều suôn sẻ. Nhưng
mà sao đối tượng không xuất hiện như mọi khi. Hay là thông tin cơ sở báo
cho không chính xác. Hoặc là các đối tượng đã đánh hơi thấy mà tự ý co
lại, không hoạt động, nằm im chờ thời cơ kiểu rắn ấp trứng.
Đang sốt ruột vì mọi hoạt động của các đối tượng tự nhiên lại im
ắng, Tô Hồng Dân phân vân lo lắng thì thấy mụ Đoác đi ra cửa nhìn ngó
xung quanh rồi vào. Khi mụ Đoác vào lại trong nhà thì thằng Đô, thằng
Đồ xuất hiện. Tô Hồng Dân ra tín hiệu nằm chờ mệnh lệnh.
Bám theo lão Tảng và thằng Đô, thằng Đồ lên hang ma. Tô
Hồng Dân lệnh cho các điểm theo dõi, bám sát mọi cử động của đối
tượng. Khi lão Tảng cùng thằng Đô, thằng Đồ theo chân Phan Lềnh vào
hang thì tổ trinh sát của A Lò và Tự Kim cũng đã ém sát ngay phía ngoài.
Khi Tô Hồng Dân phát hiện thấy Phan Lềnh đưa lão Tảng và
thằng Đô, thằng Đồ vào hang đã định cho các tổ tấn công. Nhưng Tô
Hồng Dân nhớ chiều hôm trước, khi anh em xuất kích, chỉ huy trưởng gọi
riêng anh và Trần Minh Hồng vào dặn dò. Chỉ huy trưởng nhấn mạnh.
Cách đánh phải đảm bảo áp sát, bí mật, bất ngờ. Thời cơ đánh bắt khi đối

207
tượng chuẩn bị triển khai các hoạt động liên lạc. Yêu cầu khi đánh bắt
phải đảm bảo được yếu tố bí mật, gọn, không để đối tượng thoát song anh
em phải tuyệt đối an toàn. Sau khi đã nhấn mạnh những vấn đề cần tập
trung bảo đảm, chỉ huy trưởng trao đổi.
- Các cậu làm thế nào thì làm. Đánh bắt vụ này không phải là
đánh gọn rồi cắt luôn mà phải tính đến chuyện lâu dài. Đây là cơ hội và
điều kiện để ta có thể nắm bắt và phục vụ cho công tác lâu dài.
Nghe chỉ huy trưởng giao nhiệm vụ cả Tô Hồng Dân và Trần
Minh Hồng chỉ láng máng hiểu ý định chiến thuật. Sợ chưa hiểu hết ý của
chỉ huy trưởng, Tô Hồng Dân hỏi lại.
- Có phải là chỉ huy trưởng có ý định…
Biết anh em chưa rõ chủ trương và ý định chiến lược lâu dài,
Trịnh Toàn nói luôn.
- Tôi hiểu hai cậu định hỏi vấn đề gì rồi. Thế này nhé. Các cậu
còn nhớ hôm trước học nghị quyết của Đảng uỷ Ban Công an Trung ương
không? Khả năng thời gian tới, kẻ địch sẽ còn tung nhiều toán gián điệp
biệt kích xâm nhập vào miền Bắc để thu thập tin tức phục vụ cho lâu dài.
Trận đánh này chưa phải là trận đầu mà cũng không phải là trận cuối. Kẻ
địch đã sử dụng chiêu thức này thì ta cũng phải biết tương kế tựu kế. Từ
vụ án này ta sẽ tổ chức câu nhử để làm rõ thủ đoạn, âm mưu và đối sách
của chúng.
Nói rồi, Trịnh Toàn vỗ vai Trần Minh Hồng trêu đùa.
- Trưởng ban trinh sát phải hỏi ông đồn trưởng này này. Muốn
bắt cá phải làm gì. Có cần mà chưa mồi thì có mà ngồi chảy tĩ ra à.
- Thế nhỡ đối tượng chống đối thì sao?
- Thế mới phải áp sát, bí mật, bất ngờ, hót gọn, không được để
lộ sự việc.
- Có nghĩa là…
- Chấp nhận tất cả mọi điều kiện nếu đối tượng hợp tác. Tất
nhiên, mọi điều kiện có thể đạt được để phục vụ cho nhiệm vụ lâu dài.
Chấp nhận hết. Phải biết thả con săn sắt mới bắt được con cá rô. Tôi chấp
nhận tất cả nhưng trời này, đất này vẫn là của tôi là được.
Trịnh Toàn thân mật.
- Tôi giao toàn quyền cho hai cậu. Làm sai ý định. Léng phéng
chờ đấy. Lúc đó đừng có trách.
Nhớ lời chỉ huy trưởng căn dặn trước lúc đi, Tô Hồng Dân ra tín
hiệu nói với Trần Minh Hồng để khi nào đối tượng chuẩn bị hành động,
lực lượng anh em chiến sĩ đã áp sát mới tấn công. Trần Minh Hồng nhận
được tín hiệu của Tô Hồng Dân liền ra hiệu cho A Lò và Tự Kim áp sát
hơn nữa vào cửa hang Con Cóc.
A Lò và Tự Kim lợi dụng các gốc cây, mô đá nhẹ nhàng trườn
lên phía trên. Khi A Lò vừa đưa tay nắm lấy mỏm đá trước cửa hang thì

208
bất ngờ lão Tảng bước ra. Thụt vội người lại phía sau, A Lò ép chặt người
dưới chân mỏm đá.
Lão Tảng trèo lên đứng trên mỏm đá kéo trễ cạp quần xuống
khỏi rốn. Lão đứng dạng tè he ra thoải mái xả. A Lò nằm bên dưới chân
tảng đá bị tưới ướt khắp người. Tiếng nước rơi vào đám lá dắt trên tấm áo
cỏ lẹp bẹp. A Lò định trườn ra tránh nhưng lại thôi. A Lò sợ vô tình phát
ra tiếng động bị lộ. Đúng lúc A Lò nghiêng mắt quan sát phía trên mỏm
đá thì lão Tảng cứ thế cầm của nợ vẩy vẩy. Lão có vẻ sướng lắm. Lão vẩy
quàng bên nọ ngọ ngoạy ngoành sang bên kia thành đường vòng cung vô
tình trúng ngay vào mặt A Lò. Mùi nước đái của lão ăn thịt thú nhiều, độ
đạm cao nên rất khai. A Lò nghiến răng chịu trận, bụng lẩm nhẩm nghĩ:
Nếu không vì nhiệm vụ thì ông đập cho lão nhát. Bố láo, bố toét. Nằm kế
bên cạnh A Lò. Tự Kim thấy A Lò phải chịu thế, vội nhặt viên đá nhét
vào miệng, bấm bụng cười.
Đợi lão Tảng quay lại hang. A Lò và Tự Kim trườn sang hai bên
tảng đá lão Tảng vừa đứng, ốp sát vào cửa hang. Tô Hồng Dân ra ký hiệu
chờ lệnh.
Trong khi các tổ tiếp cận khu vực hang Con Cóc, Trịnh Toàn
gần như không rời mắt khỏi chiếc điện thoại. Thấy chỉ huy trưởng thế,
chính trị viên Song Hoa cũng không nói gì. Ông với tay cầm tờ báo.
Chính trị viên Song Hoa chậm rãi lật từng trang, chăm chú đọc.
Có tiếng chuông đổ dài. Trịnh Toàn gần như nhoai người lên
chộp lấy tổ hợp.
- Báo cáo, cá đã vào đăng. Xin cho cất.
Trịnh Toàn giơ tay xem đồng hồ. Bây giờ là năm giờ ba mươi.
- Cất.
Tiếng ra mệnh lệnh của Trịnh Toàn dứt khoát, mạnh mẽ. Chính
trị viên Song Hoa đặt tờ báo xuống mặt bàn. Đưa mắt nhìn chỉ huy
trưởng.
Chỉ cần có thế, Tô Hồng Dân ra tín hiệu cho các tổ tấn công.
Nhận được tín hiệu từ trưởng ban trinh sát, Trần Minh Hồng ra
hiệu cho A Lò và Tự Kim tấn công. Cả A Lò và Tự Kim lúc này đã đứng
ép sát vào bên tảng đá chỗ cửa ra vào hang. Bằng động tác xoay người, A
Lò và Tự Kim đã áp sát vào phía sau đối tượng, chặn lối thoát xuống
dưới. Đồng thời cùng lúc đó, Trần Minh Hồng và tổ công tác lao vào theo,
không chế toàn bộ các đối tượng. Trần Minh Hồng ra lệnh.
- Tất cả đứng im. AZET. Anh đã bị bắt. Ai chống cự sẽ bị tiêu
diệt.
Bị bất ngờ, Phan Lềnh, lão Tảng và thằng Đô, thằng Đồ đứng
im, không cựa quậy. Miệng lão Tảng há hốc, mắt trợn ngược rồi bất ngờ
ngã uỵch xuống. Thằng Đô, thằng Đồ cũng ngồi phịch xuống nền hang.

209
Phan Lềnh lùi lại phía sau, lưng tựa vào bờ vách hang, hai tay buông
thõng.
Thực hiện đúng ý kiến chỉ đạo và cũng là dự kiến tình huống
của chỉ huy trưởng trước lúc lên đường. Tổ công tác triển khai lấy cung
nhanh. Khi Phan Lềnh chấp nhận hợp tác với điều kiện thả thằng Đô,
thằng Đồ và lão Tảng, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân đồng ý ngay.
Nhìn đồng hồ, lúc này đã là sáu giờ hai nhăm phút, chỉ còn năm phút nữa
đã đến giờ phát sóng chương trình thời sự của đài tiếng nói.
- Phan Lềnh. Bây giờ anh sẽ điện báo vào trung tâm của anh
theo nội dung này.
Tô Hồng Dân đưa cho Phan Lềnh tờ giấy trên đó đã ghi sẵn nội
dung cần truyền đạt. Cầm tờ giấy trên tay, mồ hôi rịn ra trên trán Phan
Lềnh. Phan Lềnh không ngờ, tất cả các hoạt động đã được định liệu trước.
Phan Lềnh run run ngồi xuống cạnh chiếc máy.
Trong khi đợi Phan Lềnh chuyển mã khoá của bức điện theo yêu
cầu của Tô Hồng Dân, Trần Minh Hồng nắm lấy tay lão Tảng kéo dậy,
đưa đến bên chiếc máy phát điện.
- Thế nào? Lão vẫn làm được chứ?
- Dạ. Làm được.
- Thế thì làm đi.
Lão Tảng đưa mắt nhìn Phan Lềnh. Phan Lềnh nhìn thoáng lão
rồi gật đầu.
Ngồi ở phòng làm việc, Trịnh Toàn thỉnh thoảng lại đưa tay lên
xem đồng hồ. Chính trị viên Song Hoa nhìn tủm tỉm cười. Thấy thế, Trịnh
Toàn kéo tay áo, không giơ tay lên nữa mà liếc mắt nhìn. Song Hoa đứng
lên, đi lại chiếc bàn. Song Hoa cầm chiếc đồng hồ đặt lên chính giữa bàn.
Chiếc đồng hồ nhích từng giây chậm chạp. Cả Trịnh Toàn và Song Hoa
nghe rõ tiếng kim giây chạy tích tắc, tích tắc. Sáu giờ ba nhăm phút, đồng
chí cơ yếu ào vào.
- Báo cáo đồng chí chỉ huy trưởng. Bộ phận trinh sát vừa bắt
được một bức điện sóng lạ.
Trịnh Toàn không nói gì, ông đưa tay xem đồng hồ rồi cầm bản
báo cáo.
Có tiếng chuông điện thoại đổ. Trịnh Toàn thư thả cầm ống tổ
hợp lên, áp vào tai.
- Báo cáo. Tất cả đúng theo kịch bản. Phiên liên lạc vừa kết
thúc.
- Tốt.
Tiếng bên kia đầu dây.
- Chỉ huy trưởng cho xin ý kiến xử lý trường hợp lão Tảng và
thằng Đô, thằng Đồ?
- Cứ thả cho tự về. Cho người đi theo giám sát.

210
- Rõ.
Tay vẫn cầm tổ hợp, Trịnh Toàn ấn nhẹ vào phím ngắt mạch rồi
quay máy.
- Ban hậu cần phải không? Chuẩn bị xe đi công tác ngay nhé.
Có tiếng đáp nhận mệnh lệnh. Đặt tổ hợp vào vị trí, Trịnh Toàn
đi đến chiếc tủ cá nhân lấy ra chai rượu. Rót tràn hai ly, Trịnh Toàn cầm
lên đến bên chính trị viên.
- Mời anh cụng ly chúc mừng thắng lợi. Bao giờ anh em về, ta
sẽ tổ chức liên hoan sau vậy. Xong, mời anh đi cùng tôi lên hang ma. Anh
lên thăm và động viên anh em tổ công tác cho anh em phấn khởi. Cuộc
chiến bây giờ mới thực sự bắt đầu.
- Đúng thế. Cuộc chiến mới bắt đầu.
Trịnh Toàn cầm tay chính trị viên. Cả hai đi ra cửa.
Vừa bước ra đến cửa, chiếc xe ô tô con đã đậu chờ sẵn. Trịnh
Toàn và Song Hoa bước lên xe. Chiếc xe từ từ lăn bánh.
Khi xe ra khỏi cổng, Trịnh Toàn quay sang nói với Song Hoa.
- Nó vào đây mang mật danh AZET. Anh thử nghĩ xem bây giờ,
ta đặt tên cho nó mang bí số gì cho phù hợp nhỉ?
Gần như không cần nghĩ lâu, chính trị viên Song Hoa trả lời
ngay.
- Đây là trận đầu và nó phải được kéo dài cho đến ngày toàn
thắng. Năm nay là năm sáu ba. Nó lại là phương thức hoạt động mới của
kẻ địch. Theo tôi. Vừa để ghi dấu năm ta thực hiện vừa nói được phương
thức của chúng áp dụng lần đầu, cho đối tượng đầu. Ta đặt cho nó bí số
BK63.
- Nhất trí. Quá hay. Chúng ta sẽ lấy cho nó bí số BK63. Mai tôi
sẽ báo cáo Ban công an Trung ương về vấn đề này.
Chiếc xe cắt theo hướng núi Bái, lao vào trong đêm. Bóng đèn
pha của chiếc ô tô quét một vệt sáng dài trên đường.
Một cuộc đấu trí mới đã thực sự bắt đầu đang chờ Trịnh Toàn và
Song Hoa phía trước./.

Viết và sửa xong tháng 5 năm 2010.

211

You might also like