You are on page 1of 29

Những nguyên lí của Thực tại: 1.

Nguyên lí 1+1>2

Chủ Nhật, 22/05/2011 | 07:35:00 AM

Nhân ngày Rừng Toàn cầu, xóm Sườn Đồi tổ chức Hội thảo Quốc tế với chủ đề
“Những nguyên lí của thực tại – Cơ sở của Bảo tồn Thiên nhiên”. Ban tổ chức tập
hợp được 10 tham luận về 10 nguyên lí cơ bản của Thực tại nhưng vì không có kinh
phí in kỷ yếu nên các bản tham luận được gửi đăng dần vào mục Tản mạn Môi
trường trên trang web vacne.org.vn. Tham luận số 1 của Thiền sư Đa Yên Tử có cái
tên rất lạ: 1+1>2. Xin trân trọng giới thiệu cùng Quý Bạn đọc.

 
Dr. Cà Xáy, VACNE (Thư kí Hội thảo)
 
Kính thưa Quý vị

1.Lão nạp sống trong khuôn viên Trúc Lâm Thiền viện Yên Tử, là nơi vua Trần Nhân
Tông tu hành trước khi lên núi Yên Tử. Tương truyền lão nạp sinh từ thời đó, đến nay đã
trên 700 năm rồi. Có điều Quý vị không nên gọi lão nạp đơn giản là đa, vì trong gốc của
lão nạp còn có một cây Lão Thị trước cả lão nạp. Khi cây Thị này đã xanh tốt, chim trời
(có lẽ theo lệnh Đức Phật) đến thả một hạt đa lên cành, từ đó mọc ra lão nạp. Có người
nói rằng sinh thời, Phật Hoàng Trần Nhân Tông vẫn ngồi tham Thiền dưới gốc lão nạp,
và nhờ Cơ duyên Diệu hữu mà Ngài đã sáng tạo ra Thiền phái Trúc Lâm. Đến nay lão
Thị trong lòng lão nạp vẫn xanh tốt, hàng năm vẫn đơm hoa kết trái. Tốt nhất nên gọi lão
nạp là Đa – Thị hay Thị - Đa. Bởi lẽ không có Thị chẳng có Đa và không có Đa chắc gì
đã còn Thị?

2.Nhưng vấn đề lão nạp muốn tham luận ở đây là: cái tổ hợp Đa – Thị này lại nói lên
một điều khác hơn chỉ là sự sống chung đơn thuần.
Vâng thưa Quý vị, khi đến chiêm ngắm lão nạp, một nhà khoa học gọi lão nạp là cây đa
“bóp cổ”, ý nói lão nạp mọc đè và bóp cổ chết cây thị như rất nhiều cây đa khác. Khoa
học gia này còn giải thích cho đám học trò những vấn đề về cây kí sinh (cây đa) và vật
chủ (cây thị), về nguyên tắc cạnh tranh sinh tồn ,…
Một nhóm nhà cảm xạ lại cho rằng mảnh đất lão nạp mọc là nơi tập trung năng lượng vũ
trụ, là mảnh đất có lợi cho sức khỏe và tu tập nên có hai lão thụ mọc tranh ăn với nhau
mà vẫn sống nhăn răng (ý nói là nhăn …lá), lại còn to lớn kềnh càng nữa ! Họ còn
khuyên ai muốn tu thiền hay muốn khỏe mạnh thì cứ tọa thiền dưới gốc lão nạp (?).
Một hướng dẫn viên du lịch giới thiệu với du khách rằng đây là Song Đại thụ hiếm có của
vùng Thánh địa Yên tử, là sự phản ánh “truyền thống đoàn kết tương thân tương ái của
các loài cây cũng như con người Việt Nam” (lão nạp ghi nguyên văn câu thuyết minh của
vị hướng dẫn viên nọ, mong quý vị thông cảm là không ít hướng dẫn viên du lịch nói rất
hay những điều họ không mấy khi hiểu là gì)
Một quan chức VACNE tuyên bố rằng sớm hay muộn cặp song lão thụ này cũng sẽ được
VACNE ưu tiên vinh phong là cây di sản Việt Nam vì chỉ cần phong 1 lần mà được cả 2
cây, nếu mỗi cây mọc một nơi thì phải vinh danh hai lần, sẽ tốn kém lắm vì VACNE là tổ
chức phi lợi nhuận, đâu có nhiều tiền (!) Vốn là một nhà sinh thái học, vị quan chức
VACNE nọ còn quả quyết “Có lẽ 2 cây đa –thị này phải sống dựa vào nhau theo kiểu
cộng sinh chăng, đa ăn chất này, thị ăn chất kia. Đa bảo vệ thị khỏi gió bão, thị chăm sóc
đa bằng vẻ …dịu dàng của mình”. Lão nạp chẳng thể hiểu được nhà sinh thái học nọ
nghiên cứu đến đâu về “vẻ dịu dàng” của cây thị. Nghe nói người Việt chuyên đặt tên
phụ nữ là Thị này Thị nọ nên ông ta cho rằng lão Thị tất nhiên phải là phái nữ, tất nhiên
phải dịu dàng (?) .
3. Còn lắm chuyện không thể kể hết được. Nhưng vấn đề là ở chỗ những chuyện ấy
phản ảnh những tính chất, những chức năng, có thể lí giải hay chưa / không / lí giải được
bằng khoa học hiện nay, chỉ có được khi lão nạp và lão thị chung sống cùng một gốc.
Những tính chất xuất hiện do tương tác giữa các yếu tố cấu thành một hệ thống được các
khoa học gia gọi là “tính trồi” nghĩa là hệ thống thì có các tính chất này nọ, nhưng từng
yếu tố riêng lẻ của hệ thống đó lại không có. Cũng như cái đồng hồ có chức năng chỉ giờ,
nhưng tất cả chi tiết tạo ra cái đồng hồ lại không hề có chức năng đó. Hay nước (H 2O) có
tính chất rất đa dạng của một chất quyết định sự sống trên trái đất, nhưng các nguyên tố
Oxy (O2) và Hydro (H2) tạo ra phân tử nước lại không hề có tính chất của nước.
Lão nạp và lão Thị ngoài tính chất của đa và thị, còn có tính chất chung của một hệ
thống, lão nạp gọi là “chúng mình”, mà Quý vị đã nghe tranh luận ở mục 2 trên đây. Hơn
700 năm chung sống cùng một chỗ như thể là cùng một gốc, lão nạp và lão Thị không
bao giờ cãi nhau cả, vì lão nạp thắng thì chúng mình cùng thắng, lão nạp thua thì chúng
mình cùng thua. Mong các cặp vợ chồng khi chung sống với nhau cần áp dụng nguyên lí
“tính trồi” này để giữ yên gia thất. Nếu hai vợ chồng chia tay, cả hai vẫn sống nhăn răng
nhưng gia đình (cái gọi là chúng mình) không còn, con cái sẽ bơ vơ.
4.Mở rộng những điều trên, một hệ thống không chỉ có 2 yếu tố như lão nạp và lão Thị,
hay như nguyên tử Hydro và Oxy, mà có thể có rất nhiều yếu tố, rất đa dạng và phức tạp,
ví dụ như một hệ sinh thái chẳng hạn. Mọi loài trong hệ sinh thái đều có vai trò, đều
tương tác với nhau theo những cách thức mà con người chưa thể hiểu hết. Thêm một vài
loài lạ theo kiểu các vị kiểm lâm phóng thích thiếu nghiên cứu kỹ lưỡng động vật hoang
dã vào rừng sau khi bắt được một vụ buôn lậu; bớt đi dăm bảy loài mà con người chặt
phá hay săn bắt, đều tạo ra hệ thống mới có tính chất và chức năng mới, nhiều khi không
giống như hệ thống ban đầu. Hệ thống mới có thể gây hại cho con người ngoài sự tính
toán của họ. Vì tính trồi không phải bao giờ cũng có ích cho con người.
Vì vậy mọi tác động vào hệ sinh thái nguyên sơ ban đầu do ông Trời sinh ra, đối với con
người, đều là sự đánh đổi vì riêng lợi ích của con người, hay tệ hại hơn, vì lợi ích của một
nhóm người. Nếu như sự đánh đổi này là buộc phải làm vì lợi ích của cả cộng đồng thì
còn có thể hiểu và chấp nhận được, vì cộng đồng sẵn sàng trả giá cho sự đánh đổi đó.
Trên thế giới đã từng có hàng loạt nền văn minh bị hủy hoại chỉ vì lí do khủng hoảng sinh
thái. Con người tự coi mình là trung tâm thế giới, muốn làm gì thì làm, vì “khoa học và
công nghệ có thể giải quyết tất cả”. Nhưng danh vị đó là do họ tự phong chứ các loài
khác đâu có phong cho họ !
Vì vậy lão nạp tạm gọi nguyên lí này là nguyên lí 1+1>2, hay còn gọi là “nguyên lí tính
trồi”. Chúng ta vẫn hưởng thụ hay chịu tác động xấu từ tính trồi của các kiểu hệ thống
(thực tại chỉ toàn là các hệ thống mà thôi) nhưng khi suy xét vấn đề lại thường chỉ chú ý
vào các yếu tố cấu trúc riêng lẻ của hệ thống. Đó là cái chết của loài người đã được báo
trước.
Xin cảm ơn Quý vị
Thiền sư Đa Yên Tử
 
Chú thích:
Kính mời Quý Bạn đọc xem tiếp: Tham luận số 2 - “Bản chất Thực tại là Gồ ghề”, tác
giả: ThS. Họa sĩ Bông Lau đến từ núi Đá Bia (Phú Yên)

Những nguyên lí của thực tại: 2. Bản chất của Thực tại là gồ ghề

Thứ Ba, 24/05/2011 | 10:52:00 AM

Thực tại luôn luôn gồ ghề méo mó, không có đường thẳng, hình tròn, hình lập
phương hay hình cầu tuyệt đối. Gồ ghề tạo ra thiên hình vạn trạng của Thực tại. Gồ
ghề là cội nguồn của thi ca, nghệ thuật, tình yêu và là nguyên tắc của Bảo tồn Thiên
nhiên. Đây là tóm tắt bản tham luận của ThS - Họa sĩ Bông Lau đến từ núi Đá Bia,
tỉnh Phú Yên

 
Dr. Cà Xáy, VACNE
  
Kính thưa Quý vị
1.Các đường cong, hình cầu, hình trụ, hình nón, hình đa giác, hay lục lăng v.v.. chỉ là
những trường hợp lý tưởng. Những trường hợp lí tưởng đó có số chiều (còn gọi là thứ
nguyên) chẵn. Ví dụ một điểm có thứ nguyên là 0, đoạn thẳng hay đường thẳng có thứ
nguyên là 1,0, hình phẳng (ví dụ hình tròn, hình tam giác hay mặt phẳng) có thứ nguyên
là 2,0; khối hộp có thứ nguyên là 3,0.
Thực tế trong thiên nhiên lại tồn tại chủ yếu những hình dạng gồ ghề, gãy góc, lồi lõm
như đám mây, ngọn núi, bờ biển, con sao biển, thậm chí trái đất, mặt trăng, mặt trời,…và
ngay tia sáng cũng cong.Năm 1982, nhà toán học thiên tài Benoit Mandelbrot phát hiện
ra môn "Hình học của tự nhiên", còn gọi là Hình học Gồ ghề hay Fractal Geometry.
Ông khẳng định rằng : "Các đám mây không phải là hình cầu, các ngọn núi không phải là
hình nón". Và chính ông đã là người đã đề xướng từ Gồ Ghề hay "Fractal” để chỉ các đối
tượng có hình dáng gồ ghề, không trơn nhẵn trong tự nhiên.

Đó là những hình dạng có thứ nguyên lẻ, không chẵn. Ví dụ hình bông tuyết có thứ
nguyên là 1,2618. Hình lá phổi hoặc khối bọt biển có thứ nguyên xấp xỉ 2,7. Chỉ cần thay
đổi chút xíu, ví dụ một phần tỉ tỉ tỉ giá trị của thứ nguyên ban đầu là thiên nhiên lại tạo ra
một hình dạng khác.Chỉ cần vuốt nhọn và uốn cong đầu chiếc lá chút ít là ông Trời đã tạo
ra cây sanh từ cây si.
Trong tự nhiên, Quý vị không thể nào nhặt được một chiếc lá phẳng tuyệt đối: nó không
gồ chỗ này thì lõm chỗ kia hoặc khía răng cưa chỗ khác. Quý vị cũng không thể tìm đâu
ra một sản phẩm tự nhiên có hình tròn, hình cầu, hình lục lăng, hình nón,… tuyệt đối. Có
nghĩa là đại bộ phận nếu không nói mọi thành tạo tự nhiên luôn có thứ nguyên lẻ.
2.Do có thứ nguyên lẻ nên thiên nhiên cực kì đa dạng. Quý vị không thể nào tìm được
hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau trên cùng một cây. Hai anh em sinh đôi cũng không
bao giờ giống nhau tuyệt đối. Bản chất thiên nhiên là xù xì, ghồ ghề và vì thế mỗi sản
phẩm của tự nhiên chỉ là một sản phẩm duy nhất. Nếu nó bị tiêu diệt, bị phá hủy có nghĩa
là không bao giờ có được nó nữa.
Đặc điểm quan trọng nhất của sản phẩm tự nhiên là dù chia nhỏ đến đâu thì nó vẫn gồ
ghề. Ví dụ chia nhỏ một đọan bờ biển ra nhiều lần thì lần nào cũng chỉ được những đoạn
bờ gồ ghề. Tính chất đó của vật thể gồ ghề được gọi là “tính bất biến không phụ thuộc tỷ
lệ”; nghĩa là dù to hay nhỏ thì vẫn gồ ghề mà thôi. Gồ ghề tạo ra là thiên nhiên, tạo ra
thực tại, và chính thực tại có bản chất là gồ ghề.
Vì vậy bảo vệ rừng phải bảo vệ từng gốc cây ngọn cỏ, yêu con phố phải là yêu từng căn
nhà, con hẻm…Mỗi gốc cây, ngọn cỏ, căn nhà nhìn riêng có vẻ chẳng có gì đáng chú ý,
nhưng nó là duy nhất trên đời nên nó là đẹp nhất. Nếu Quý vị không tin điều này thì cứ
nhìn những ngôi nhà trong tranh Phố Phái xem chúng đẹp hay xấu? Chúng rất đẹp vì
chúng rất …xấu ! Thị Nở vẫn được coi là mẫu hình của người phụ nữ xấu xí, nhưng hình
tượng Thị Nở là duy nhất trên văn đàn Việt Nam. Thị Nở đâu có xấu ! Bởi vì nó phản ánh
chân thật, mộc mạc, không tô son vẽ phấn một con người cụ thể. Nếu có chăng cái xấu thì
chỉ là những cái giả dối do con người “phịa” ra. Thiên nhiên không biết giả dối. Không
có Thị Nở thứ hai trên đời. Và nếu không có Thị Nở - Chí Phèo thì chắc cũng không có
Nam Cao.
3.Độ gồ ghề của đường bờ biển giúp cho triệt tiêu năng lượng sóng vỗ bờ và tạo ra các ổ
sinh thái đa dạng. Tính đa dạng loài trong một khu bảo tồn thiên nhiên góp phần tạo ra
xích thức ăn hoàn hảo hơn và khu bảo tồn có tính đàn hồi cao hơn trước biến động môi
trường. Sự đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh khiến doanh nghiệp không bị phá sản.
Việc phân quyền quản lý môi trường cho các cấp địa phương (tỉnh, huyện, xã) làm cho
môi trường được quản lý tốt hơn là việc tập trung nhiệm vụ vào cơ quan cấp tỉnh/thành
phố như thời gian trước đây. Nhận thức về môi trường khác nhau của các cá nhân tạo
điều kiện cho các sáng kiến, giải pháp độc đáo của mỗi cộng đồng v.v…
Đa dạng sinh học và biến động của chúng trong một khu bảo tồn thiên nhiên; quy mô và
năng lực bảo vệ môi trường của các ngành trong một tỉnh; mức độ tham gia bảo vệ môi
trường của các đoàn thể chính trị tại một địa phương; nhận thức về môi trường của mỗi
người trong cộng đồng; độ khoẻ mạnh của các rạn san hô tại một vùng biển, sự khác nhau
trong hình dạng và tính các của anh/chị em ruột,...đều cho các hình ảnh về sự gồ ghề của
thực tại xã hội
4. Gồ ghề tạo ra sự đa dạng. Đó là cội nguồn vô tận của nghệ thuật, của thi ca, của cái
đẹp. Bởi lẽ tia nắng vàng chiều nay khác tia nắng vàng chiều qua, cái lá rơi mỗi lúc một
kiểu, và hàng ngàn thác nước trên đất nước ta chẳng có ngọn nào giống ngọn nào. Con
người cũng mỗi người một tính cách một hình thể. Xin mời quý vị hãy tạm quên đi
những lo toan hàng ngày để ngắm nhìn nụ cười bé thơ mỗi khi mẹ đón tan trường: nụ
cười nào cũng hạnh phúc nhưng mỗi cháu cười mỗi kiểu. Ngay vẻ ngập ngừng ngọn gió
trên con phố quen cũng chẳng bao giờ giống nhau khiến cho thi hứng mãi vẫn còn:
Ngập ngừng sợi gió mong manh
Để cho cánh én bồng bềnh lãng du
Ngập ngừng lá đỏ chiều thu
Ngập ngừng trái bưởi đánh đu đầu cành
Ngập ngừng bờ cát chông chênh
Ngập ngừng con sóng dập dềnh bãi ngang
Ngập ngừng, ánh mắt Nha Trang
Khiến cho cơn gió lang thang… ngập ngừng.

5. Con người tưởng tượng ra các hình dạng có thứ nguyên chẵn chỉ để cho dễ nhận thức
và phân loại mà thôi. Nhưng sau khi tạo ra mô hình lí thuyết để mô phỏng thực tại, thì
con người lại vô tình hay cố ý coi thực tại chỉ là đồng nghĩa với mô hình lí thuyết đó.
Những hình dạng chệch ra ngoài mô hình lí thuyết được gộp chung vào cái gọi là “dạng
lệch chuẩn”. Rất nhiều vật thể, ý tưởng hay hành vi tốt đẹp sau này được coi là hữu ích,
nhưng ban đầu khi xuất hiện lại được cho là lệch chuẩn. Nhiều loài sinh vật bị tiêu diệt vì
cho rằng chúng vô tích sự hay nguy hiểm cho con người, chúng “lệch chuẩn”.
Ví dụ điển hình của cái “lệch chuẩn mà không lệch chuẩn” là gốm méo Phù Lãng - Bắc
Ninh. Khoảng chục năm trước, khi gốm tròn đang chiếm lĩnh thị trường thì người dân
Phù lãng bắt đầu sản xuất gốm méo. Những bình, những lọ, những hộp đèn méo mó dẹo
dọ. Mỗi sản phẩm gốm Phù Lãng vì thế trở thành duy nhất trên đời. Ngày nay gốm méo
Phù Lãng đã chiếm lĩnh thị trường gốm nghệ thuật không chỉ ở trong nước. Gốm méo
Phù Lãng chứng minh rằng một cá thể hoàn hảo chính vì nó không hoàn hảo; chính sự
không hoàn hảo của mỗi cá thể tạo ra sự hoàn hảo của tổng thể.
Một ví dụ khác là việc vinh danh cây di sản Việt Nam của VACNE. Chỉ có rất ít tiêu
chuẩn cứng để xem xét công nhận cây di sản và kích thước tấm bia đá là ổn định, mọi
việc đăng kí và tổ chức lễ công nhận là tùy thuộc vào sáng kiến của cộng đồng nơi có cây
di sản. Vì thế lễ công nhận cây di sản mỗi nơi tổ chức mỗi kiểu nhưng đều rất cảm động,
hào hùng và được cộng đồng tham gia ngày càng đông đảo. Sáng kiến cây di sản Việt
Nam của VACNE đã trở thành một phong trào xã hội rộng rãi chỉ sau 1 năm. Đó cũng
chính là sự tôn trọng tính gồ ghề của thực tại.
Thừa nhận tính gồ ghề của thực tại khiến chúng ta từ tâm hơn với thiên nhiên và con
người, dễ thông cảm và dễ chia sẻ hơn, không có những đòi hỏi quá đáng để rồi sau đó lại
thất vọng tràn trề. Các cuộc cãi vã, xung đột hay chiến tranh cũng xuất phát từ việc muốn
áp đặt đối phương phải tuân theo một mô hình được phía này hay phía kia cho là chuẩn.
Bởi thế một mô hình bảo tồn thiên nhiên thành công nơi này có thể thất bại nơi khác nếu
nó không phù hợp với nơi mới. Một giống cây cho sản phẩm tốt nơi này đưa ra trồng nơi
khác có thể không cho thu hoạch.
Nếu chấp nhận thực tại là gồ ghề như Benoit Mandelbrot đã khẳng định trong “Hình học
của Tự nhiên”, thì cái gọi là sự tròn trịa, sự thẳng thớm, sự phẳng phiu, sự vuông vắn, sự
giống nhau, sự đồng nhất, sự nhất trí tuyệt đối, sự hoàn hảo,…chỉ là mô hình lí thuyết do
con người tự nghĩ ra. Nó không phải thực tại. Nó chỉ là công cụ mô phỏng thực tại. Nó rất
hữu ích cho việc nhận thức một khía cạnh của thực tại, nhưng nó sẽ là của giả nếu coi
những mô hình đó đồng nghĩa với thực tại.Đây cũng chính là cái hạn chế nếu không nói
là dở của một lĩnh vực toán học khi nó được áp dụng vào bảo tồn thiên nhiên – lĩnh vực
được gọi là Mô hình hóa hay Modeling môi trường.
Xin cảm ơn Quý vị
Th.S Họa sĩ Bông Lau

Những nguyên lí của thực tại: 3. Nguyên lí Bông bí

Thứ Năm, 26/05/2011 | 03:58:00 AM

Bông bí không phải là bông bí vì nó chính là bông bí. Đây là nguyên lí Thực tại số 3,
còn được gọi là nguyên lí “vô ngã”. Tham luận của nữ khoa học gia - tiến sĩ Dương
xỉ Nhung đến từ vùng khô hạn Ninh Thuận

 
Dr. Cà Xáy VACNE
Kính thưa Quý vị,
1.Xin hãy nhìn bông bí này: nó là một bông bí cái xinh đẹp. Nhiều người nhìn thấy nó
nghĩ ngay đến món canh cua đồng nấu bông bí non, món bông bí tẩm bột chiên dòn, món
bánh xèo bông bí, hay món lẩu mắm có rau bông bí…Chính bông bí vàng rực cũng tự
hào về mình nên không ít lần nó rung rinh trên cành xanh một cách tự mãn, rằng nó nếu
không là nữ hoàng thì cũng là Đệ nhất phu nhân của khu vườn.
Nhưng nghĩ kỹ: bông bí từ đâu ra mà xinh đẹp vậy?
 
2.Chẳng khó cũng nhận ra nó còn là sản phẩm của một hệ thống gồm đất, nước, thời
tiết và mùa vụ, côn trùng thụ phấn, sâu bệnh, hạt giống, AND di truyền từ họ hàng nhà bí,
sự chăm sóc của người trồng, thời gian, ánh nắng mặt trời, và đôi khí còn có sự tham gia
của mấy loại hóa chất bảo vệ thực vật nữa…Chỉ một trong những yếu tố trên thay đổi thì
bông bí chắc chắn cũng thay đổi : ít thì thay đổi về hình dạng, màu sắc; nhiều thì thay đổi
cả kích thước và độ tươi; thậm tệ nữa nó có thể chết yểu hoặc không mọc ra được.
3.Vì thế nó là bông bí và đồng thời không phải là bông bí.Bông bí chỉ là phần nổi, phần
thấy được, đo đếm được của một hệ thống rất nhiều điều kiện tạo ra bông bí. Hệ thống đó
cũng còn gồm những phần chìm (hay các chiều ngầm) gồm các yếu tố có thể phân tích
bằng khoa học được và những yếu tố khác chỉ có thể cảm nhận được. Phần nổi và phần
chìm tương tác rất chặt chẽ. Nhưng phần chìm dễ bị bỏ qua khi quan sát bông bí. Vì thế,
nếu nhìn nhận thật thấu đáo, Quý vị sẽ thấy cả phần nổi của hệ thống - cái gọi là bông bí,
và phần chìm tạo ra nó – cái không phải là nó. Bông bí vừa là chính nó, vừa là sự hiện
hữu và đại diện của những cái không phải là nó. Tách bông bí ra khỏi những chiều ngầm
của nó, liệu có còn nó không?
4.Trong thực tại, nếu thay bông bí bằng một con người, dù đó là Chí Phèo hay một vĩ
nhân, thì ta có thể hoàn toàn theo quy tắc bông bí trên để nói rằng : “Chí Phèo không phải
là Chí Phèo, bởi chính anh ta là Chí Phèo”. Người xưa cũng đã từng nói: “thoạt nhìn núi
là núi, sông là sông; nhưng lại gần soi kỹ thì núi không phải núi, sông chẳng phải sông;
nhưng soi kỹ nữa thì núi lại chính là núi, sông chính là sông” cũng tương tự như vậy.
5. Nếu thay bông bí bằng cái Tôi, cái Ngã, để mà nhiều khi tự hào về mình, để mà nhiều
khi tự vênh váo với đời vì được thiên hạ tung hô hay nể sợ, để tự phân biệt rạch ròi giữa
Tôi với cô A anh B, thì cũng chỉ đúng nửa phần thôi. Bởi vì cũng như bông bí, cái Tôi
trên đời vừa là Tôi, vừa chẳng phải là Tôi. Cái Tôi, còn gọi là cái Ngã, chỉ là sự tạm thời,
chỉ là kết quả tương tác của những cái Không - Phải - Tôi nhưng tạo ra Tôi. Vậy Tôi là
ai? Ta là ai? Vấn đề này thiên hạ đã suy nghĩ cả ngàn năm mà vẫn còn phải suy nghĩ nữa
để có thể tự trả lời. Nhưng câu trả lời thật đơn giản: Chẳng có cái gì là cái Tôi tuyệt đối.
Tôi vừa hiện hữu vừa không hiện hữu. Điều này thật mâu thuẫn với những lí thuyết hay
niềm tin vào bản thân vĩnh cửu. Nhưng chính vì tin vào việc có cái Tôi tách biệt với cái
Không – Phải - Tôi nên người ta vẫn muốn có thuốc trường sinh để không phải chết, dù
là chết về mặt xã hội, mặc dù vẫn có thể vẫn sống về mặt sinh học. Và khi phải rời khỏi
vũ đài, khi sự kính trọng của người xung quanh với cái Tôi không còn như mong đợi,
người ta rất dễ bị trầm cảm hay stress. Vì vậy nguyên lí bông bí còn được các Thiền sư
gọi là nguyên lí Vô Ngã. Ở đây Vô vừa là không vừa là có.
6. Cũng như vậy, việc bảo tồn một cây di sản hay một loài động vật quý hiếm, không thể
là bảo tồn riêng cái cây hay cái con đó mà quên bảo tồn những cái Không – Phải – Cây,
Không – Phải – Con nhưng lại rất quan trọng để giúp cho cái Cây hay Con đó tồn tại,
trong đó có văn hóa truyền thống bản địa của cộng đồng đã mấy trăm năm qua chung
sống và bảo vệ cây di sản.
Thành phố Nha Trang cứ vào dịp tháng 5 lại tổ chức săn bắt sao biển gai, tên khoa học là
Acanthaster planci, sống ở rạn san hô có độ sâu từ 5 - 20 m nước biển. Sao biển gai là
loài tàn phá rạn san hô. Trong vòng đời khoảng 3 năm, 1 con sao biển gai có thể ăn hết
khoảng 25 mét vuông san hô. Tuy nhiên nếu rạn san hô khỏe mạnh và các loài thiên địch
của sao biển gai như ốc tù và, các loài cá chuyên ăn trứng sao biển còn đông đảo thì sao
biển gai không thể bùng phát để trở thành mối đe dọa hủy diệt rạn san hô được. Chính sự
đánh bắt cạn kiệt các loài thiên địch của sao biển gai đã làm nó  bùng phát mạnh, trở
thành hung thần của rạn san hô. Năm nay 2011 Khu bảo tồn biển Hòn Mun - Nha Trang
có thành tích bắt diệt gần 6000 con sao biển gai. Khu Bảo tồn biển Hòn Mun còn có sáng
kiến thu mua 5.000 đồng một con sao biển gai gom về tiêu diệt để động viên phong trào
lặn bắt loài thủy sinh vật xinh đẹp này. Rõ ràng sao biển gai không phải sao biển gai vì
chính nó là sao biển gai vậy./.
Xin cảm ơn Quý vị
TS. Dương xỉ Nhung
Chú thích
Kính mời Quý bạn đọc xem tham luận số 4: Nguyên lí Vô thường. “Không ai có thể tắm
hai lần trong một dòng sông” do Triết học gia Văn Trắm, đến từ Sông Thao trình bày

Những nguyên lí của Thực tại : 4. Nguyên lí Vô thường

Thứ Ba, 31/05/2011 | 01:56:00 AM

Không ai có thể tắm hai lần như nhau trong một dòng sông. Thực tại luôn thay đổi,
chỉ có thay đổi liên tục mới là không thay đổi. Tham luận số 4 do Triết học gia Văn
Trắm, đến từ Sông Thao trình bày

 
Dr. Cà Xáy VACNE

 
Kính thưa Quý vị

1.Xin Quý vị cứ tưởng tượng rằng bức ảnh trên đây không phải là ảnh mà là phong cảnh
mà Qúy vị đang nhìn qua ô cửa. Hãy bớt chút thời gian ngắm phong cảnh trên đây trong
giây phút rồi nhắm mắt lại, sau đó mở mắt ra thật nhanh. Trước mắt quý vị đã là một
phong cảnh khác với rất nhiều thay đổi : hai cô gái đã chuyển sang vị trí khác, tia nắng
đứng bóng hơn, dăm chiếc lá già đã rụng khỏi vòm lá xanh, và làn gió ban nãy làm tán
cây xào xạc đã bay đi để lại một không gian ngập tràn tiếng ve,…Mọi thứ của thực tại
đều luôn thay đổi, vấn đề là tốc độ thay đổi nhiều khi không làm chúng ta chú ý.

2.Chúng ta không sinh sống trong một thế giới tĩnh, mà là một thế giới tràn ngập sự
vận động, đổi thay. Các sự kiện mới đang nảy sinh để thay thế cho các sự kiện vừa kết
thúc. Thực tại rất nhạy cảm với các điều kiện ban đầu nhỏ bé không ai để ý. Nhưng chính
những thay đổi nhỏ bé đó một khi được tích lũy lại sẽ tạo ra những thay đổi lớn lao
không ai có thể cản được. Các nhà khoa học gọi đó là hiệu ứng con bướm: một cánh
bướm vỗ nhẹ ở đỉnh Fanxipăng có thể gây ra một trận bão khủng khiếp ở rừng Amazon
tận Nam Mỹ. Dẫn giải này thật khó hiểu nhưng nếu ta chú ý rằng mọi thay đổi dù to lớn
đến đâu cũng xuất phát từ những thay đổi nhỏ xíu ban đầu nếu những thay đổi nhỏ xíu đó
là thay đổi tất định. Những gì không hiểu được thì vẫn có thể cảm nhận được.
Cái mà chúng ta tưởng là bất động thực ra gồm vô số vận động: những dích dắc, những
lộn xộn, những phân rã hay ngược lại, những thu hẹp, dao động xung quanh những trạng
thái cân bằng tạm thời (chính sự cân bằng tạm thời ấy tạo ra các vật thể). Chỉ có hiện
tượng thay đổi liên tục và không ngừng mới là không thay đổi thôi. Hay nói theo cách nói
của các thiền sư: Mọi chuyện đều vô thường, chỉ có vô thường mới thường hằng. Nhận
thức vô thường là điều duy nhất chúng ta có thể sở hữu lâu bền. Trái Đất có vẻ như vẫn
thế, bầu trời có vẻ như vẫn thế, đôi khi có cả động đất hay sóng thần - nhắc rằng không
thể xem bất cứ điều gì là không thay đổi. Sự sống là gì nếu không phải vũ khúc nối tiếp
nhau của những hình thái nhất thời? Thực tại là “sự toàn vẹn liên tục trong vòng biến
dịch”.  Cuộc sống hay cái chết chỉ là những khía cạnh khác nhau của “cái toàn vẹn trong
vòng biến dịch đó”.
Những đam mê cuồng si, nhiệt tình cháy bỏng, cố gắng không ngừng, danh tiếng lẫy
lừng,…cũng giống như những làn sóng. Chúng phải tan đi để truyền năng lượng sang
những làn sóng mới. Chỉ còn lại chút hoài niệm. Quá khứ mãi còn vì chúng đã không
còn, tương lai bắt nguồn từ đâu đó trong những ngày qua – tức là từ quá khứ; nhờ có mặt
trong tương lai mà quá khứ đã chết mà vẫn sống.
 
3. Sự biến dịch không loạn hướng mà thường theo hướng ngược lại những cái đang
hiện hữu, quy luật mà các nhà triết học vẫn gọi là sự chuyển hóa của các mặt đối lập. Ví
dụ: cái gì muốn trường tồn thì phải mất đi - cái mất đi nếu là quá lớn lao thì cái hiện hữu
cũng thực sự lớn lao nếu xét đến cả những kế thừa từ cái đã mất; điều gì sinh ra tất sẽ
chết đi; điều gì được gom góp tất sẽ tan tác; điều gì được tích luỹ tất sẽ cạn kiệt; cái mới
sẽ thành cũ; cái gì được ca ngợi sẽ có lúc bị chê bai; cái thành công sẽ dẫn đến thất bại;
muốn giận phải yêu, muốn bắt phải thả (binh pháp Tôn Tử); muốn lấy nhiều thì lấy ít
thôi,…và ngược lại.

4. Trong biến dịch của thực tại, mọi việc không bao giờ diễn ra 2 lần theo cùng một
cách thức. Mỗi thay đổi dù nhỏ xíu ở biến lượng này cũng sẽ gây ra những thay đổi ở các
biến lượng khác, vì lẽ chúng đều tác động qua lại, đều thay đổi trong thế đối ứng lẫn
nhau. Người ta không thể tắm 2 lần (như nhau) trên cùng một dòng sông vì dòng sông
luôn chảy và luôn thay đổi về chất lượng cũng như thành phần sinh vật trong nước.
Sự biến dịch của thực tại được một lí thuyết toán học làm rõ, đó là lí thuyết Nhiễu loạn
còn gọi là Chaos.Những luận lí ban đầu của Chaos được đề xuất bởi nhà toán học Henri
Poincaré vào thập niên 1880, sau đó được hàng loạt nhà khoa học khác hoàn thiện, đáng
chú ý có nhà khoa học Mỹ Edward Lorenz vào năm 1961 khi ông nghiên cứu sự nhiễu
loạn của thời tiết. Chaos chính là lý thuyết nhằm miêu tả ứng xử của các hệ hỗn độn, phi
tuyến. Chaos chính là cơ chế để khởi phát và tổ chức sự thay đổi. Nó là phương pháp để
thực tại sáng tạo nên tính đa dạng, phong phú mà chúng ta đang chứng kiến ở xung
quanh.
 
5. Thế giới có bản chất là sự lộn xộn, vô trật tự. Nhưng dưới cái vô trật tự đó có một
“trật tự”. Thuật ngữ “trật tự” này không liên quan với các đặc tính như yên bình, tĩnh lặng
hay tốt đẹp, mà thực chất là phương thức, hình dạng, hay cơ cấu tự tổ chức, liên quan đến
trạng thái cân bằng tạm thời của hệ thống. Nếu thực tại biến dịch là một cơn bão thì cái
gọi là “trật tự” chính là mắt bão. Bão càng lớn thì mắt bão càng rõ. Mắt bão là “sự yên
bình” của những luồng gió xoáy dữ dội. Vấn đề sai lầm của chúng ta là khi ngắm mắt bão
cứ tưởng là bão đã tan, cũng như khi xem xét các sự vật cứ tưởng là chúng không có biến
đổi gì.
 
6. Nguyên lí biến dịch liên tục là phương cách tồn tại của thiên nhiên. Vấn đề là ứng
dụng nguyên lí này vào công tác bảo tồn thiên nhiên như thế nào. Bảo tồn thiên nhiên
cũng phải là bảo tồn thích ứng, có nghĩa là lí thuyết và phương pháp bảo tồn cần luôn
luôn được thay đổi để thích ứng với những biến đổi của các đối tượng được bảo tồn. Nếu
trước đây loại hình khu bảo tồn thiên nhiên của IUCN là một tiến bộ thì nay nó đã trở
thành lạc hậu hơn so với hình thức khu dự trữ sinh quyển của UNESCO. Chúng ta biết rất
rõ các loài đang chống chọi để thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhưng hình như các lí
thuyết bảo tồn thiên nhiên hiện có vẫn khá khô cứng, vẫn giống như cả mấy chục năm
trước đây khi vấn đề biến đổi khí hậu còn chưa đủ rõ. Trong bối cảnh đó khái niệm hành
lang xanh trong bảo tồn để cho phép động vật hoang dã tự do di cư có thể là một mô hình
bảo tồn mới và thích hợp, nhưng không chắc đã khả thi do sự ham thích đến bệnh hoạn
của con nguòi đối với động vật hoang dã.
Chúng ta ít chú ý đến những biến đổi nhỏ trong tự nhiên, thường thì các nhà quản lí chỉ
hành động khi những biến đổi đó đã trở thành sự cố. Vai trò của dự báo khoa học trong
công tác bảo tồn vì vậy cần được chú ý đúng mức. Trong quá khứ, nếu chú ý đủ mức đến
các cảnh báo về ốc bươu vàng, hay virus taura đi theo tôm thẻ chân trắng, thì tình hình sẽ
khác. Cũng như vậy, sự thiếu chú ý đến cây bìm bôi hiện nay chắc chắn sẽ là sự trả giá
đắt trong tương lai.Thực tại biến động không phù hợp với cách quản lí khô cứng.
Xin một lời nhắn nhủ cuối cùng: Do thực tại biến đổi không ngừng, xin hãy quý những
phút giây của cuộc sống này. Mỗi ánh mắt, mỗi nụ cười mà quý vị nhìn thấy, mỗi miếng
cơm mà quý vị ăn,… là cái mà quý vị gặp duy nhất 1 lần trong đời. Chúng sẽ khác đi ở
lần gặp sau.
Xin cảm ơn Quý vị
Văn Trắm
Chú thích
Kính mời Quý bạn đọc xem Tham luận số 5: Nguyên lí Tương cầu, còn gọi là nguyên lí
Cơ duyên - còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng. Tham luận
của Trúc Vuông cô nương đến từ xóm Sườn Đồi.

Những nguyên lí của thực tại: 5. Nguyên lí tương cầu

Thứ Tư, 01/06/2011 | 05:39:00 AM

Mọi tập hợp gồm từ 2 yếu tố trở lên sinh ra đều là nhờ tương cầu giữa các yếu tố,
còn được gọi là cơ duyên. “Còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa
mặc lòng” (ca dao). Đây là tóm tắt bản Tham luận của Trúc Vuông cô nương đến từ
xóm Sườn Đồi.

 
Dr. Cà Xáy VACNE

1.Tương cầu hay cơ duyên. Tấm ảnh trên đây được chụp từ “tiểu sa mạc”, một cồn cát
đỏ trơ trụi ở khu du lịch Mũi Né tỉnh Bình Thuận. Trước đây đã có rất nhiều dự án đầu tư
vào trồng cây phủ xanh dãy cồn cát trơ trụi này nhưng đều thất bại. Một doanh nghiệp du
lịch đưa ra ý tưởng : giữ nguyên trạng thái trơ trụi của dãy cồn cát đỏ này, thậm chí còn
nhổ cả một số khóm cây rải rác để làm du lịch và giáo dục môi trường về các vấn đề sa
mạc hóa. Tiểu sa mạc ra đời và thu hút ngày càng đông du khách từ mọi miền đất nước.
Nhưng xin hãy để ý đến mấy cây rất xanh tốt trên tiểu sa mạc này. Tại sao chúng vẫn rất
xanh tốt trong khi hàng ngàn cây khác cùng trang lứa đã chết héo hay bị vặt trụi ? Tại sao
chúng mọc chỗ đó mà không mọc chỗ khác ? Câu trả lời thường là : ngẫu nhiên thôi.
Chúng ta vẫn thường học một ngành nhưng thành danh được lại nhờ cái nghề học sau
này; anh A rất yêu …mấy chị kiểu như thế này nhưng kết cục lại lấy chị kiểu kia; anh B
rất thích con gái nhưng đẻ mấy đứa lại toàn con trai; trời mưa tầm tã mấy ngày đêm
nhưng khi làm lễ vinh danh một cây di sản thì lại hửng, rồi khi lễ kết thúc lại mưa tiếp,…
tất nhiên chuyện đó vẫn là ngẫu nhiên thôi. Vấn đề là tại sao chuyện ngẫu nhiên ngoài dự
tính lại nhiều đến thế. Cái gì thường xảy ra cũng phải có một quy luật gì đó chi phối chứ?
May mắn thay những cái gọi là ngẫu nhiên quả thật không hề ngẫu nhiên. Xin Quý vị hãy
xem xét các thông tin dưới đây về hai phát hiện khoa học nổi tiếng mà không mấy người
để ý: định lí Bell và nguyên lí Foucault.
 
2.Định lý Bell.Cho hai điện tử vào 2 buồng phát điện tử, kín, không tương tác được với
nhau; 2 điện tử lúc đầu quay loạn xị với spin (trục quay) không định hướng; nếu chúng ta
định hướng trục quay 1 trong 2 điện tử thì lập tức điện tử kia cũng định hướng theo
nhưng ngược chiều. Năm 1964, nhà vật lý J.S. Bell đã cho công bố một bằng chứng toán
học gọi là định lý Bell : “Vũ trụ là một chỉnh thể, các bộ phận của nó đều liên quan với
nhau”. Theo định lý này, các hạt hạ nguyên tử liên kết với nhau một cách phi thời gian
và phi không gian, thể hiện ở chỗ bất kỳ điều gì xảy ra cho một hạt cũng tác động đến các
hạt khác ngay lập tức. Mối tương tác này không hề được thực hiện nhờ lực hay năng
lượng. Nhờ cái gì?
 
3.Thí nghiệm con lắc Foucault: Nhà vật lý Pháp Léon Foucault, 1851, gắn một con lắc
vào đỉnh vòm điện Panthéon ở Paris. Sau khi thả cho dao động, ông thấy mặt phẳng dao
động của con lắc quay hết 1 vòng sau nhiều giờ. Ông chứng minh rằng mặt phẳng dao
động của con lắc thực ra không thay đổi mà là Trái Đất quay. Mặt phẳng dao động của
con lắc hoàn toàn trùng với và được khống chế bởi đám thiên hà xa nhất, ở tận rìa vũ trụ,
cách Trái đất hàng tỷ năm ánh sáng. Rõ ràng cái được chuẩn bị xảy ra trên Trái Đất được
quyết định trong khoảng không vũ trụ, phụ thuộc vào tổng thể cấu trúc vũ trụ - hệ thống
lớn của chúng ta mà không qua bất cứ lực hay năng lượng nào thuộc loại đã biết.
Thí nghiệm về con lắc Foucault cho thấy tồn tại một mối tương tác khác hoàn toàn với
các định luật vật lý hiện có: tương tác này hoàn toàn không xuất hiện lực hay trao đổi
năng lượng, nhưng gắn kết toàn bộ vũ trụ của chúng ta với nhau thông qua một cách thức
lạ lùng. Mỗi một bộ phận của vũ trụ đều mang tính tổng thể và đều phụ thuộc vào những
bộ phận khác.
Các bộ phận phụ thuộc lẫn nhau vì chúng cùng tồn tại trong một thực tại mang tính thống
nhất, vận hành theo quy luật Tương cầu hay Duyên Khởi : cái này chỉ tồn tại khi cái kia
tồn tại, chỉ thay đổi khi cái kia thay đổi.“Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái
kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”- Đó cũng chính là
một nguyên lí Thiền học thường được gọi là nguyên lý “Duyên Khởi” (Cơ Duyên) mà
các Thiền sư đã “ngộ” được bằng con đường Thiền tập, không phải thực nghiệm khoa
học, từ rất lâu.
 
4. Vậy thì ngẫu nhiên tức là không ngẫu nhiên, chúng ta cho là ngẫu nhiên chỉ vì
chẳng biết chúng được vận hành ra sao, chỉ vì chúng ngoài tầm kiểm soát và dự định của
chúng ta. Liệu chúng ta có cơ duyên gì với cái bụi cây mọc trước cửa, với con suối chảy
róc rách mé rừng, với chú gà gáy le te đâu đó mỗi sáng? Chúng ta vẫn được dạy rằng
chẳng có liên quan gì cả. Chúng ta cần chặt thì cứ chặt, cần thịt thì cứ thịt, cần phá thì cứ
phá. Con người được dạy dỗ là chủ nhân, là trung tâm của thế giới. Ý muốn của chúng ta
là tối cao, nhất là những ý muốn được khoa học công nghệ chứng minh là hay, là an toàn.
Mọi thứ sinh ra trên đời đều do cơ duyên của chúng, đều do sự tương cầu với các thứ
khác. Định lí Bell, con lắc Foucault, hay nguyên lí Cơ duyên liệu có nói lên điều gì để
cảnh tỉnh con người không?
 
Xin cảm ơn Quý vị
Trúc Vuông – xóm Sườn Đồi
Chú thích:
Kính mời Quý bạn đọc xem tiếp: Tham luận số 6. Nguyên lí vô sở cầu, còn gọi là nguyên
lí về sự rủi ro. Tham luận của TS. Văn Tre đến từ xóm Sườn Đồi
Những nguyên lí của Thực tại: 6. Nguyên lí Vô sở cầu

Thứ Năm, 02/06/2011 | 04:27:00 AM

Hầu hết những điều chúng ta mong đợi, kỳ vọng đều không được như ý muốn. Thực
tại, vì phải thỏa mãn muôn loài, muôn người, nên không thể thỏa mãn riêng một ai
đó. Phần lớn những rủi ro là ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Tham luận của TS.
Văn Tre đến từ xóm Sườn Đồi.

 
Dr. Cà Xáy - VACNE
 
Kính thưa quý vị
1.Có lẽ nỗi khổ nhất trên đời của mỗi chúng ta là rất nhiều mong muốn của mỗi cá nhân
hay của cộng đồng, dù là những mong muốn rất hợp lí, cũng không được toại nguyện
hoặc chỉ đạt được một phần nhỏ. Chẳng hạn, là một công chức cần mẫn và nhiều sáng tạo
nhưng thu nhập lại thấp; chuyến bay đột nhiên bị hoãn giờ,  thậm chí hủy chuyến; đến lúc
thuyết trình lại bị khàn tiếng; một cô gái rất xinh đẹp chỉ tội cặp dò ngắn khiến cô ta khổ
sở vô cùng; sắp đi gặp người yêu theo hẹn hò thì trời lại đổ mưa; đường và cầu đều mới
khánh thành nhưng cứ mỗi lần lên xuống cầu, con xe cứ phải nhẩy lên một cái vì mấy tay
thợ cầu không bao giờ làm đường lên cầu cho nhẵn; lúa sắp gặt thì lũ đổ về, nhiều khi
không phải ông Trời mưa to mà chỉ là do cái đập thủy điện xả nước theo cách mà họ vẫn
gọi là… “đúng quy trình”,…
Những vụ thảm họa hạt nhân như Chernobyl ở Ucraina, Fukushima ở Nhật, vụ 11/9 ở Mỹ
hay nứt đất Di Linh hồi đầu tháng 3/2011 là những thảm họa lớn hơn, thậm chí có không
ít vụ tầm cỡ châu lục hay toàn cầu.
Những điều không vừa ý có tên gọi chung là “vô sở cầu”, nghĩa là không như ý muốn,
thường rất nhiều, rất đa dạng, khiến nhiều người luôn khó chịu đến mức thường bị stress,
thậm chí dù có học đến mấy cũng có lúc phải chửi đổng kiểu Chí Phèo.
 
 
2.Những vô sở cầu đó đều là những rủi ro không đoán định được. Khi con người khôn
ngoan hơn, khoa học công nghệ cao hơn, dự báo và phòng tránh tốt hơn, thì vẫn còn đó
những vô sở cầu loại khác lại xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ chúng ta quen tư duy trên cơ sở
những điều chúng ta được dạy hay tự học từ vốn hiểu biết của nhân loại tích lũy ngàn đời
trao cho. Nhưng thật tiếc, cái mà chúng ta biết lại là rất nhỏ bé so với Thực tại chứa đầy
những điều mà chúng ta không hay chưa biết.
Con người nhận thức Thực tại qua 5 giác quan và các công cụ hay kỹ thuật do chúng ta
sáng tạo ra để nối dài 5 giác quan đó. Nhưng như vậy vẫn chưa biết hết 0,5% vật chất tạo
ra thế giới. Vẫn còn đó 99,5% thực tại là loại vật chất tối và năng lượng đen, theo kết
luận của Vật lí học hiện đại, mà giác quan dù sẽ được nối dài đến đâu cũng không thể
quan sát đo đếm được. Những luận giải của Định lí Bell và con lắc Foucault đã nói ở
nguyên lí Tương cầu (nguyên lí số 5) cho thấy chúng ta đang bị điều khiển bởi mối tương
tác phi năng lượng và phi lực vốn không thể hình dung được.
Chúng ta chỉ biết một không gian 3 chiều. Các phát minh mới nhất của ngành Vật lý đều
cho rằng Thực tại có nhiều chiều hơn thế giới của con người. Con người không thể dùng
phân tích logic để nhận thức được cái mà ta gọi là “thực tại” (theo Kant, 1775). “Thực
tại” hiện ra trước mắt con người chỉ là hiện tượng xuất hiện với chúng ta, dựa trên khả
năng của chúng ta. Đó là một thế giới cho chúng ta và vì chúng ta. “Thực tại” của con
người là sự phản ánh của thế giới 10 chiều (lý thuyết dây), 11 chiều (lý thuyết siêu trọng
trường), 18 chiều…vào trong thế giới 3 chiều của con người - một thế giới mang đầy tính
chủ quan. Cái mà chúng ta nhận thức được chỉ là những sự kiện vì lí do nào đó rơi từ
thực tại nhiều chiều vào thế giới 3 chiều của chúng ta. Đó là những “tiểu thực tại méo
mó” mà con người lầm tưởng chúng là toàn bộ thực tại. Những vấn đề không tiên kiến
được ở các chiều khác luôn rình rập để nhảy vào không gian 3 chiều, khiến con người
luôn ngỡ ngàng và chỉ biết kêu Trời. Đó chính là lí do của vô sở cầu.
 
3.Vậy con người thực ra còn quyền hành gì hơn ngoài các thành tựu khoa học công
nghệ mà chúng ta tuyệt đối tin tưởng và kì vọng? Quyền hành đó bao chứa trong các cụm
từ có ý nghĩa vô định nhưng rất hay được dùng trong xã hội như: sự tin tưởng, lời thề
thốt, sự hứa hẹn, sự cam kết,…Thật tiếc là những từ vô định và rất gợi cảm đó không ít
trường hợp lại chính là những rủi ro, những vô sở cầu lớn nhất.
Vấn đề còn lại là phải biết cách sống chung với rủi ro, với cái vô sở cầu, như sống chung
với thiên tai vậy. Khi có được sự hiểu biết về tính chất thật của Thực tại, chúng ta bắt đầu
cởi trói cho chính chúng ta khỏi những ràng buộc tham đắm. Chúng ta tuy có quyền đòi
hỏi, ham muốn, nhưng chúng ta sẽ không còn hối tiếc hay chán nản, đau buồn khi chúng
ta không đạt được những gì chúng ta muốn. Nhưng chả lẽ sống trên đời không có kì vọng
gì, không có ham muốn gì? 
Chẳng ai cấm quý vị có kì vọng hay ham muốn, nhưng cần “ham muốn một cách không
ham muốn” về bất cứ điều gì vốn có sinh và có diệt. Bạn cứ ham muốn, cứ mơ tưởng, cứ
nỗ lực, cứ hoạch định,..và hãy kiên trì để đạt được chúng, nhưng nếu vẫn không đạt được
do các rủi ro bất khả tiên kiến, thì hãy chấp nhận và dự tính sẵn cách ứng phó với kết quả
mà đừng tham đắm. Vì kết quả là cái xảy ra có duyên cớ riêng. Đó chính là cách “ham
muốn một cách không ham muốn”. Những nỗi khổ đau của con người đều bắt nguồn từ
những ham muốn quá đáng, muốn được hết những gì mình đòi hỏi (cái gọi là tham đắm).
Khi chúng ta ngộ được rằng những ham muốn thường hằng cần phải được đặt dưới quy
luật bất thường hằng (vô thường), chúng ta bắt đầu thấu hiểu Thực tại.
Trong Thực tại vô thường này, chẳng có điều gì là chắc chắn. Họ hàng nhà Tre Trúc
chúng tôi vẫn được coi là Quân tử. Nhưng xin thưa, Tre Trúc lại là loài rỗng ruột, chỉ có
vỏ thôi. “Tin” vào Tre Trúc, nhưng xin quý vị đừng tin vào các loại bánh mì hay bánh rán
“quân tử” nhé, vì bây giờ nhờ công nghệ làm bánh cao siêu, nhiều loại bánh mì hay bánh
rán chỉ có vỏ mà không có ruột. Chúng cũng giống như những điểm trang, những lời hứa,
những cam đoan hay thề thốt ngày càng nhiều trên đời vốn thoạt nghe hay thoạt nhìn đều
rất quyến rũ. Chúng thực ra đa phần là vô sở cầu.
Xin cảm ơn Quý vị
TS Văn Tre, xóm Sườn Đồi
 
Chú thích:
Kính mời Quý bạn đọc xem tiếp: Nguyên lí Thực tại số 7.Không và Có – Không tức là
Có, Có tức là Không, Không chẳng phải Không, Có chẳng phải Có, Không ở trong Có,
Có ở trong Không…Tham luận của Thiền sư Liễu Rủ đến từ Quốc tế Thiền viện
Brussels, Bỉ.

Những nguyên lí của Thực tại : 7. Không và Có

Thứ Hai, 06/06/2011 | 07:26:00 AM

Không tức là Có, Có tức là Không, Không chẳng phải Không, Có chẳng phải Có,
Không ở trong Có, Có ở trong Không…Tham luận của Thiền sư - Giáo sư Vật lí
Liễu Rủ đến từ Quốc tế Thiền viện Brussels, Bỉ.
 
 
Dr. Cà Xáy, VACNE

Kính thưa Quý vị


1.Vật thể nếu chia nhỏ mãi sẽ là không có gì. Năm 1927 là một mốc thời gian quan
trọng nhất trong lịch sử tư duy hiện đại : đó là năm Einstein đưa ra lý thuyết về trường
thống nhất và nhóm khoa học Copenhagen công bố chính thức về lý thuyết lượng tử.
Theo thuyết lượng tử, nếu chia nhỏ một vật thể bất kỳ đến cùng thì chỉ còn các “hạt”
quark vốn không có khối lượng.
Các hạt cơ bản (proton, electron, notron, photon ) không chỉ ứng xử như các hạt rắn,
chúng còn ứng xử với tư cách những thực thể trừu tượng. Proton là đại dương mênh
mông các hạt hadron - hạt tạo ra hạt nhân - bản thân hadron lại được tạo ra từ các “hạt”
quark.Thế giới khách quan không gì khác hơn là sự chuyển động của các "hạt" quark có
kích thước 10 -18 met. Tuy nhiên cái gọi là "hạt" quark này là không tồn tại như những vật
thể, mà chỉ là hệ quả của các mối tương tác giữa các trường phi vật chất. Quark – vật liệu
cơ bản tạo ra thế giới vật chất - thực ra chỉ là hư cấu toán học, nửa cụ thể nửa hư vô, là
một thứ trung gian giữa hai thế giới vật chất và phi vật chất. Từ các "hạt" quark, những vi
hệ thống đầu tiên được hình thành (proton và nơtron) để sau đó xuất hiện hạt nhân
nguyên tử có đường kính 10 -14 met, Sự kết hợp giữa hạt nhân với các electron đã làm nảy
sinh các hệ thống khác nhau: đó là các nguyên tử (d=10 -10 met), rồi từ đó hình thành nên
thế giới vật chất, trong đó có lão nạp và quý vị đang ngồi đây. Từ đó mà suy đến cùng thì
chúng ta chỉ là cái Không mà thôi, hay chính xác hơn chỉ là một chùm năng lượng tạm
thời dưới dạng cái hình thể mà chúng ta đang được thấy.
Nếu các nguyên tử tạo ra cơ thể một người co tụ lại để chúng đụng vào nhau, thì một
người sẽ co lại thành một hạt bụi nhỏ li ti vài phần ngàn milimet (rõ ràng về cơ bản con
người là rỗng…tuếch). Quark không tồn tại như những vật thể, mà chỉ là hệ quả của các
mối tương tác. Quark là bằng chứng cuối cùng của sự tồn tại “một cái gì đó “ giống như
một hạt. Nhỏ hơn cái đó là một cái gì đó phi vật chất được vật lý học gọi là trường (có 4
loại trường: điện từ, hấp dẫn, proton và electron).
2.Hạt chính là trường, trường chính là hạt.Trong vật lý cổ điển, vật chất hiện ra dưới
dạng các hạt, trong khi các lực thì được mô tả ở các trường. Thuyết Lượng tử xoá bỏ sự
phân biệt giữa trường và hạt, giữa cái vật chất và cái phi vật chất. Không thể mô tả một
trường bằng những biến đổi của các cấu trúc không - thời gian ở những vùng nhất định.
Cái chúng ta gọi là hiện thực chỉ là sự kế tục của những đứt đoạn, những biến động,
những tương phản và những sự cố…Toàn bộ chúng tạo thành và chỉ là một hệ thông tin.
Thuyết lượng tử cho rằng một hạt không thể tồn tại bởi tự bản thân nó, mà chỉ tồn tại nhờ
các tập hợp do nó tạo ra, tập hợp ấy gọi là một “trường”. Như vậy những vật thể bao
quanh ta chỉ là những tập hợp trường, tác động lẫn nhau thường xuyên. Một trường
không có thực chất nào khác ngoài thực chất dao động. Đó là một tập hợp những dao
động tiềm tàng mà các quanton, tức là những hạt cơ bản có bản chất khác nhau tụ lại. Các
hạt này chính là những biểu hiện “vật chất” của trường, có thể di chuyển trong không
gian và đi vào sự tương tác. Các hạt cơ bản không phải là các hạt như chúng vốn có, với
tư cách là những vật thể, mà là những tương tác không ngừng, nhiều vô số, giữa các
trường với nhau.
Mọi tương tác trong hạt nhân nguyên tử gồm có sự huỷ diệt và tái tạo các hạt hạ nguyên
tử mới. Thế giới bên trong một nguyên tử là một bản luân vũ của sinh và diệt, của vật
chất biến thành năng lượng và năng lượng biến thành vật chất. Những hình thái nhất thời
hiện hữu chớp nhoáng, gây ra một thực thể bất tuyệt mãi mãi được tái tạo. Điều này được
minh chứng bằng công thức dưới đây của Einstein:
E=mC2
Trong đó E là năng lượng của một vật thể, m là khối lượng của nó còn C là tốc độ. C
bằng tốc độ ánh sáng thì m tiến tới Không (0) vì E không đổi. Rõ ràng một vật thể chỉ có
khối lượng khi tốc độ của nó giảm. Nếu tăng quy mô và giảm tốc độ, thì hạt nhân nguyên
tử giống như trái đất mà mỗi vật thể, mỗi sinh vật giống như một hạt hạ nguyên tử.
Như vậy bản chất thực tại là năng lượng và cách tổ chức của nó trong không – thời gian.
 
3. Vật nói cho đơn giản, Có và Không là gì? Sóng điện từ chỉ có thể là dạng rung động
cùa một yếu tố mà ta gọi là năng lượng. Đó là thời điểm mà người ta phải từ bỏ khái niệm
cho rằng thực tại vật lý phải có một chất liệu.Thực tại không hề có chất liệu! Đây là một
trong những phát kiến làm cho vật lý tiến rất gần với Triết học Phật giáo. Triết học Phật
giáo cho rằng các Sắc (tức là cái Có) đều lưu xuất từ Thức, mà Thức được coi là mặt tích
cực của cái Không. Thực tại phi chất liệu của Vật lý và tính Không của Phật giáo có thể
gợi mở nhiều điều đáng suy nghĩ.
Một lượn sóng ngoài biển cả dường như là một cá thể riêng biệt có đầu có cuối, có sinh
có diệt…Thực ra nó là một cái gì đó tạm thời có được nhờ gió hoặc năng lượng động đất,
và nước, và lệ thuộc vào một loạt những điều kiện thường xuyên thay đổi. Mỗi lượn sóng
đều có liên quan đến mọi lượn sóng khác. Khi lượn sóng này mất năng lượng do truyền
cho một lượn sóng khác hay bị chuyển thành sự mài mòn bờ, nó sẽ bị triệt tiêu và biến
mất.
Vậy thực chất cái Không chính là năng lượng và những quy luật để biến năng lượng đó
thành sự vật hay hiện tượng cụ thể mà ta gọi là cái Có. Con người còn chưa thể “ngộ” hết
cái Không nhưng phải thừa nhận là có một cái Không đang điều hành Thực tại. Cái Có là
một bình diện khác, là sự hiện hữu của cái Không. Nó là hiện thân của cái Không trong
một điều kiện nhất định đồng thời chắng phải là cái Không. Cái Không thì hình như vĩnh
hằng, còn cái Có chỉ là tạm thời vì nó có sinh và có diệt. Trong Không có Có, trong Có
có Không. Có chính là, đồng thời không phải Không. Không chính là, đồng thời không
phải Có.
4.Hàng hóa và logo – Danh và Thực. Vật được phân loại theo các danh (tên hay danh
hiệu, logo, nhãn mác). Nếu dựa vào danh mà tìm kiếm đến vật, thì vật không phải vì danh
của nó mà trở thành đúng như danh được; nếu dựa vào vật mà tìm đến danh gọi thì danh
không phản ánh hết tính chất của vật, danh không đúng như vật. Vật không vì danh của
nó mà nó trở nên thật như danh, nên chẳng phải vật như ta nghĩ. Danh không phản ánh
đúng bản chất của vật nên vật chẳng phải thật là danh như ta vẫn nghĩ. Vật cần có danh
để gọi, để nhận diện. Danh cần có vật để tồn tại. Cả 2 chỉ là tương đối, có mà không thực
có. Vật và danh cũng giống như hàng hóa và logo của nó.
Ví dụ khi xóm Sườn Đồi vinh phong Văn Gạo tiên sinh là một Danh nhân hay Hiệp sĩ,
dựa theo một nhóm tiêu chí do xóm xây dựng nên, thì có thể tạm coi bộ tiêu chí và cách
tuyển chọn là cái Không, cái danh, còn Danh nhân hay Hiệp sĩ Văn Gạo là cái Có. Cái
danh còn mãi, có thể dùng cho nhiều tiên sinh khác vào những không - thời gian khác
nhau, còn cái Có tức là chính thân tiên sinh Văn Gạo với nhiều tính chất mà danh không
bao gồm hết, thì tạm thời và luôn biến đổi, có sinh có diệt. Đồng nhất Văn Gạo tiên sinh
với Hiệp sĩ Văn Gạo là vừa đúng vừa sai. Văn Gạo không phải là Văn Gạo vì tiên sinh
này chính là Văn Gạo, và chỉ duy nhất, không có Văn Gạo thứ hai. Đồng nhất Văn Gạo
tiên sinh với Văn Gạo Hiệp sĩ chính tà thần thành hóa Tiên sinh theo bộ tiêu chí mà xóm
tạo ra (nhiều khi là gán ghép), để rồi cư dân xóm Sườn Đồi tự huyễn hoặc mình. Đó là cái
hay đồng thời cũng là cái dở.
Thực tế có nhiều khu rừng gọi là rừng phòng hộ nhưng trong ruột đã bị phá nát bởi lâm
tặc hay thủy điện, nhiều khu bảo tồn thiên nhiên nhưng bên trong toàn là resort du lịch,
nhiều nơi gọi là khu du lịch sinh thái nhưng lại nuôi nhốt động vật hoang dã để kinh
doanh…cũng là một kiểu như vậy. Xã hội con người còn nhiều thứ danh hơn, nhưng
không mấy khi danh giống thực, cũng chẳng bao giờ có thực đúng như danh. Những ham
muốn đồng nhất thực với danh cũng giống như ham muốn sự bất tử vậy, vì nhiều người
không hề muốn chết theo kiểu chuyển hóa thành một chùm năng lượng theo thuyết lượng
tử, mà muốn chuyển hóa thành cái danh vốn được gán cho. Thiện tai ! Thiện Tai !
Nam mô A di đà Phật
Xin cảm ơn Quý vị
Liễu Rủ,
Thiền Sư, GS Vật Lí. Quốc tế Thiền viện Brussels, Vương Quốc Bỉ.
Những nguyên lí của Thực tại: 8. Nguyên lí Bất toàn với Triết lí Six Senses
Hideaways trong ngành Du lịch.

Thứ Ba, 07/06/2011 | 07:21:00 AM

Cảm nhận là một cách nhận thức Thực tại. Thực tại là gì phần lớn do cảm nhận,
chứ nó là gì thì …hết biết. Tham luận của bà Giám đốc Lữ hành Bích Bướm, đến từ
Phong Nha – Kẻ Bàng.

Dr. Cà Xáy VACNE

 
Kính thưa Quý vị
1.Chắc là Quý vị đã từng ăn phở Hà Nội. Ai cũng có thể hiểu phở nếu tiến hành lấy
mẫu phân tích xem nó được làm ra từ bao nhiêu gram bột bánh phở, bao nhiêu gram thịt
bò nạc, bao nhiêu hành tỏi dấm ớt muối nước,…Nhưng cái ngon của phở thì không ai
phân tích được, mà chỉ biết được thông qua cảm nhận. Và sự cảm nhận đó không chỉ
bằng vị giác của cái lưỡi, mà còn do mũi - mắt - văn hóa ăn, cảm giác khi đói, cảm giác
nhớ phở,…  Không chỉ vị ngon của phở, trên đời còn có bao nhiêu cái khác chỉ cảm nhận
được mà không sao hiểu được. Ví dụ như vị đắng của tình yêu, vẻ đẹp buồn của hoàng
hôn tím ngắt, một cánh bướm trong họ nhà chúng tôi, sự khó chịu trước một hành vi hay
một lời nói khiếm nhã, nỗi buồn trước cuộc chia li, nỗi đau trước một mất mát,…
2.Định lí Bất toàn. Trong Thực tại có rất nhiều vấn đề chỉ có thể cảm nhận được mà
không thể dùng logic khoa học để chứng minh hay bác bỏ được. Nhà toán học Godel đã
tuyên bố như vậy.Năm 1932, Godel phát biểu một định lý được coi là bí hiểm nhất trong
toán học được gọi là định lí Bất toàn: “Một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn
chắc chắn chứa những mệnh đề không giải quyết được, tức là không thể bằng logic để
nói chúng là đúng hay sai”. Có nghĩa là các hệ thống dù hoàn hảo đến đâu cũng luôn
luôn bất toàn vì có những vấn đề tự nó không phán xét được, muốn phán xét phải đi ra
ngoài hệ thống.
Không chứng minh hay bác bỏ được thì chỉ còn cách cảm nhận thấy chúng và chấp nhận
chúng. May thay con người cũng như muôn loài qua một quá trình tiến hóa dài dằng dặc
mà có được khả năng cảm nhận khá nhanh nhạy. Cảm nhận trong trường hợp khẩn cấp
được gọi là trực cảm.
Bộ nhớ ý thức có được nhờ học tập và trải nghiệm. Nhưng mọi quyết định hợp lý, nhất là
sáng tạo đều có liên quan đến trực cảm. Đó là những trường hợp người quyết định không
có thời gian để suy nghĩ (tư duy logic), như người thủ môn trước cú phạt penalty, cầu thủ
bóng đá di chuyển không bóng, võ sĩ đang đấu quyền, nhà đầu tư trên sàn chứng khoán,
những ngẫu hứng bột phát khi sáng tác thơ ca nhạc họa…Trực cảm khác đoán mò ở độ
chính xác cao, còn đoán mò thì hay sai. Cần kết hợp trực cảm với tư duy logic. Trực cảm
là thiên bẩm, tư duy logic có được nhờ học tập và trải nghiệm. Người ta vẫn gọi trực cảm
là giác quan thứ 6.
3. “Six senses” (6 giác quan) là triết lí sau đó trở thành một trường phái du lịch nổi danh
trên thế giới vốn xuất phát từ Ấn Độ, quê hương của Phật giáo và Thiền học. Triết lí này
cho rằng ngoài 5 giác quan gồm thính (tai nghe), vị (lưỡi nếm), xúc (da sờ) thị (mắt nhìn)
và khứu (mũi ngửi) thì con người cũng như sinh vật luôn luôn có giác quan thứ 6, có tên
là “body sense” có nghĩa sâu xa là sự cảm nhận hay trực cảm. Cảm nhận hay trực cảm
không có cơ sở thần kinh từ vỏ đại não nên không thể học hay truyền dạy được. Tuy
nhiên có thể khơi dạy được khả năng này vào những khi, những nơi mà vỏ đại não, nơi
khởi phát tư duy logic được nghỉ ngơi hay không kịp huy động do tình hình quá khẩn
cấp.
Các loài động vật không biết tư duy logic như chúng ta, nhưng chúng biết cảm nhận rất
tinh tế. Cảm nhận là khả năng mà con người được thừa kế từ tổ tiên động vật nhưng đã bị
lãng quên do học tập và khoa học công nghệ, nói cách khác là do tư duy logic. Nếu có
cách nào đó khôi phục khả năng này thì con người sẽ trở nên khiêm nhường trước Thực
tại, thấu hiểu được Thực tại và có sức sống mãnh liệt và cân bằng hơn, khả năng sáng tạo
lớn hơn.
4.Trường phái du lịch Six sensens của Ấn Độ đã thành công trong việc xây dựng
những resort theo triết lí này. Resort Ninh Vân Six senses Hideaways Khánh Hòa là
resort đầu tiên, tiếp đó là những resort cùng triết lí khác ở Ninh Bình, Côn Đảo. Trên thế
giới những resorts theo triết lí six sensens có mặt ở nhiều nơi tại Thái Lan, Mandive.
Tại resort Ninh Vân Khánh Hòa, để du khách tạm quên thói quen tư duy logic, mọi cố
gắng đã được thực hiện để du khách hòa mình vào thiên nhiên, ẩn mình đi (hideaways).
Tất cả những gì của tự nhiên có thể bắt chước hay sử dụng đều được bảo vệ. Mái lá, ngõ
nhỏ, đường đi không lát đá, không bê tông, đồ đạc bằng gỗ trần không sơn, rừng cây mát
mẻ,…Không điện thoại để bàn, không sóng điện thoại, không có net và TV (nếu yêu cầu
mới có nhưng được khuyến cáo là hãy tạm xa chúng. Ít phải sử dụng máy lạnh do không
khí mát mẻ và kiến trúc thông thoáng. Đồ dùng ít thứ bằng nhựa, bút bi làm bằng cành
cây. Vườn rau hữu cơ (khách có thể hái rau để ăn). Nhà hàng không bán thịt rừng. Nhân
viên phục vụ đi bộ là chính. Không nhìn xa được quá 50 m trên đường đi, để khách cảm
nhận được tính đa dạng của thiên nhiên và không cảm thấy mệt mỏi khi đi dạo. Một số
nhân viên cần thiết mới được đi xe đạp. Chở khách bằng xe con chạy điện.Buổi chiều,
voọc chà vá, sóc, chuột núi, kỳ nhông, gà rừng, cheo, mang, bìm bịp sống tự do, vào cả
khu khách ở và cantin chơi đùa, leo lên cả ghế để giao tiếp bằng cảm nhận với du khách.
Yêu cầu của du khách là không nuôi nhốt kể cả cá lẫn động vật dưới mọi hình thức. Như
đã biết, Resort Ninh Vân là doanh nghiệp du lịch làm ăn tốt nhất Việt Nam trong nhiều
năm liên tục cho đến nay.
5. Cảm nhận không mâu thuẫn với tư duy logic mà bổ sung cho nó trên bước đường
tìm hiểu Thực tại của con người. Những gì khoa học công nghệ chưa hay không với tới
được thì cảm nhận thay thế. Những gì cảm nhận đem lại, sau này có thể được khoa học
chứng minh hoặc không, nhưng tất cả đang góp sức làm cho cuộc sống thêm đáng yêu và
đáng sống.
Bạn có muốn khám phá xem khả năng cảm nhận của mình còn bao nhiêu không? Hãy
hideaways (tự ẩn mình đi) như Ninh Vân vẫn khuyên du khách của họ. Khi mà bạn còn
thích và có thể làm thơ, ca hát, yêu và hiểu nhạc, họa; khi mà bạn còn biết vị ngọt ngào
và cay đắng của tình yêu; khi mà bạn còn hiểu được tại sao nỗi cô đơn cũng là niềm an
lạc; hay đơn giản hơn, khi mà bạn vẫn thấy phở Hà Nội, hay cao lầu Hội An, hay bánh
giò bánh chưng Bờ Đậu - Thái Nguyên, hay bánh tráng cuốn thịt heo Đà Nẵng,…còn rất
ngon, thì khi đó khả năng cảm nhận của bạn còn chưa mất hết.
                                               Sợi gió mong manh
Tình như sợi gió mong manh
Ta chiêm bao buộc với mình chiêm bao
Đời như thác chảy ào ào
Mong manh bóng liễu ngả vào dòng trôi
Vấn vương câu hát “người ơi…”
Cánh cò đánh dậm cuối trời chân mây
Nhớ ai nâng chén rượu đầy
Thơ nghiêng sóng rượu, trăng say một mình
Tình là sợi gió mong manh
Ta chiêm bao buộc với mình chiêm bao
(Trích dẫn bài thơ của Dr. Cà Xáy tặng Phó Hội Viên VACNE)
Xin cảm ơn Quý vị
Bích Bướm
Giám đốc Lữ hành, đến từ Phong Nha Kẻ Bàng
 
Chú thích.
Kính mời Quý bạn đọc xem tiếp : 9. Nhất nguyên luận. Thực tại là gì ư : chỉ là cái ta
muốn thấy, là cái hiện ra dưới sự vấn hỏi của ta qua cách nhìn của ta. Tham luận của nhạc
sĩ Văn Bọ Ngựa đến từ Vườn chuối Thị Nở
Những nguyên lí của thực tại : 9. Nhất nguyên luận và Nhị nguyên luận.

Thứ Tư, 08/06/2011 | 03:14:00 PM

Thực tại là gì ư ? Chủ yếu là cái ta muốn thấy, là cái hiện ra dưới sự vấn hỏi của ta
qua cách nhìn của ta. Vì thế mà con người luôn cần phải thảo luận, tranh luận để
tăng đồng thuận. Tham luận của nhạc sĩ Văn Bọ Ngựa đến từ Vườn chuối Thị Nở
tỉnh Hà Nam.

 
Dr. Cà Xáy VACNE

 
Kính thưa Quý vị
1.Xin quý vị hãy bớt chút thời gian ngắm bức ảnh vịnh Nha Trang
trên đây rồi cho biết Quý vị nhận thấy cái vịnh xinh đẹp đó là gì. Sau
đây là một số phương án trả lời theo kết quả phiếu điều tra mà Bọ
Ngựa tôi nhận được.
Vịnh Nha Trang là :
·        Một thiếu nữ ( một Thi nhân)
·        Một bức tranh thủy mặc ( một Họa sĩ)
·        Một khu bảo tồn biển ( một nhà Môi trường)
·        Nhiều cảng nước sâu ( một nhà Hàng hải)
·        Một thắng cảnh Quốc gia, 1 trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới (một
nhà Du lịch)
·        Vùng tôm hùm giống (một Ngư phủ)
·        Ráng chiều trên vịnh Nha Trang, không buồn như ánh mắt nàng nhìn tôi (một chàng
trai si tình)
·        Là vịnh Nha Trang (một Thiền sư).
Vậy thì trên thực tế có bao nhiêu vịnh Nha Trang? Nếu có n người quan sát thì có “n +
1” vịnh Nha Trang khác nhau. Sẽ có n vịnh dưới quan sát của n người, và thêm “+1”
vịnh là chính cái vịnh đó khi chẳng có ai quan sát nó. N cái vịnh đầy màu sắc và cảm xúc,
còn cái vịnh “ +1” chẳng hiện hữu với màu sác, hình dạng, tính chất và cảm xúc gì. Nó có
đó nhưng là gì thì chẳng ai biết. Cái vịnh “+1” tồn tại khách quan ngoài ý muốn của nhà
quan sát và tuân theo nguyên lí “Nhị nguyên luận”, còn n cái vịnh được quan sát tuân
theo nguyên lí “Nhất nguyên luận”. Thực tại đa phần tuân theo nguyên lí Nhất nguyên và
một chút xíu theo nguyên lí Nhị nguyên.
2. Nhị nguyên luận.Plato (427-347 tr CN) khởi thuỷ thuyết Nhị nguyên luận, cho
rằng:1.Có một thực thể tồn tại bên ngoài, độc lập và khách quan đối với đầu óc con
người, 2. Ý thức của con người có thể tiếp cận thực tại đó, 3. Thực tại đó có thể biểu diễn
bằng toán học . Chúng ta và thực tại không phải là 1, mà rõ ràng là 2. Đó chính là Nhị
nguyên luận. Nhị nguyên luận tách con người khỏi thực tại, tạo tiền đề xuất hiện kiểu tư
duy cho rằng con người là trung tâm và đứng trên tự nhiên, không phải chính là một phần
hữu cơ của tự nhiên. Nên con người muốn làm gì thì làm, làm gì cũng đúng.
Nhị nguyên luận gần 2500 năm qua vẫn là cơ sở triết học mà Quý vị và Bọ Ngựa tôi phải
mài đũng quần trên ghế nhà trường mà học cho thuộc. Rằng thực tại là khách quan, tồn
tại ngoài ý muốn của chúng ta, rằng chúng ta có thể nhận thức được thực tại, rằng…Vì
Thực tại là khách quan với chúng ta nên nó được hậu thuẫn bởi Luận thuyết Quyết định
luận và Hiệu ứng Vòm tuyết hơn 400 năm qua.
Quyết đinh luận cho rằng mọi thứ đều có thể tính toán và tiên đoán được. Sự ngẫu nhiên
không có chỗ trong Thực tại. Laplace P. (1740-1827) – nhà toán học và thiên văn học
Pháp là người đại diện của luận thuyết này (nhưng buồn cười thay chính ông lại sáng tạo
ra phép tính xác suất !). Quyết định luận cho rằng thực chất tương lai chỉ là sự kéo dài
thêm quá khứ mà thôi, nhờ toán học có thể biết trước được hết thảy mọi việc sẽ diễn ra
miễn là biết rõ các điều kiện hiện hữu ở một thời điểm trước đó để dự phóng (projecting)
vào tương lai. Toán học Mô hình hóa là tuyệt đỉnh và toàn năng.
Descarte R. (1644) trong cuốn “Nguyên lý Triết học” đã phân chia dứt khoát giữa vật
chất và ý thức. Con người là chủ thể, thế giới còn lại là khách thể. Chủ thể không thể tác
động gì lên khách thể.
“Hiệu ứng vòm tuyết” (snow dome effect): theo quan niệm châu Âu, thế giới có tính trật
tự cao nên có thể tiên kiến được, kiểm soát được, hiểu biết được, tại đó các thảm họa của
thiên nhiên, nạn dịch hạch, tình trạng nổi dậy trong xã hội, các hình thức hỗn loạn
khác…, tất cả chỉ là biểu hiện lệch lạc, sai trái của một thế giới vốn có kỷ cương và trật
tự. Thế giới ấy nếu có bị rung chuyển dưới bàn tay của định mệnh thì rồi lại trở về với
thứ trật tự quá tỷ mỷ của nó dưới một vòm nóc vững vàng, chắc chắn, được duy trì bằng
khoa học, tôn giáo và nhà nước.
Cái Vòm cứng rắn nay hóa ra lại là cái vòm bằng tuyết. Nó nhanh chóng tan chảy dưới
sức nóng của lý thuyết lượng tử.
Dưới ánh sáng của Nhị nguyên luận và Quyết định luận, các phương trình tuyến tính xấp
xỉ (làm tròn) quả thật đã cung cấp cho các nhà khoa học một vũ khí tư duy hùng mạn và
dẫn đến nhiều khám phá lớn của khoa học. Nhưng chính nó cũng tạo ra niềm tin vào một
thế giới cứng, tiên kiến được, tuyến tính và phục tùng quy luật nhân quả, trong đó bỏ qua
những sai biệt nhỏ bé để chú trọng đặc biệt đến phép xấp xỉ toán học. Sai lầm của Nhị
nguyên luận và Quyết định luận chính là ở cái sai biệt nhỏ bé đã bị bỏ qua đó, cái hiệu
ứng cánh bướm đó, cái nhiễu loạn tất định đó, lại chính là những cái xác lập thực tại (để
hiểu các khái niệm này xin mời Quý vị xem lại các nguyên lí đã đăng trước đây trên web
vacne.org.vn, mục Tản mạn môi trường).
3. Nhất nguyên luận
Với Lí thuyết Lượng tử Copenhagen, thực tại chỉ có khi ta quan sát đo lường nó. Bài tập
ngắm vịnh Nha Trang trên đây đã minh họa cho điều đó. Khi ta không quan sát một vật
thì vật đó không tồn tại (đối với người quan sát). Không có người quan sát thì không có
vật được quan sát, không có chủ thể thì không có khách thể. Heizenberg nhà vật lí
Trường lượng tử khẳng định rằng “điều mà ta quan sát được không phải tự tính đích
thực của thiên nhiên mà là cái cách mà thiên nhiên hiện ra dưới cách vấn hỏi của chúng
ta”. Như vậy thực tại chính là ở chúng ta, là cái ta muốn thấy và có khả năng thấy. Đó
chính là Nhất nguyên luận.
Theo Nhất nguyên luận, thế giới chúng ta đang sống có thể đồng thời được xem là một
thế giới hay nhiều thế giới. Là một thế giới duy nhất nếu lấy cái chung của mọi tâm thức
làm nền tảng, là nhiều thế giới nếu lấy cái riêng của tâm thức mỗi cá nhân làm nền tảng.
Ta không bao giờ biết chính xác người khác thấy vịnh Nha Trang có giống ta thấy hay
không.
Xét cho rạch ròi và công bằng, thì Nhất nguyên luận đúng với n người quan sát, còn Nhị
nguyên luận đúng với “+1” đối tượng quan sát. Cái đối tượng “+1” ấy không xuất hiện
trước mắt n người quan sat, nhưng nó vẫn tồn tại để chờ đợi và xuất lộ hình ảnh và tính
chất mới khi có người quan sát mới. Đối với con người, đối tượng “+1” này vừa tồn tại
(để chờ đợi) vừa không tồn tại (vì chưa có người quan sát mới). “n+1 vịnh Nha Trang”
cũng chính là cái được gọi là “Thực tại khách quan” theo Nhị nguyên luận hay “Thực
tại chủ quan” theo Nhất nguyên luận.
Các thành tố cơ bản của vật chất - như các electron chẳng hạn - là những thực thể 2 mặt,
chúng hiện ra khi thì như những hạt vật chất, khi thì như những sóng phi vật chất. Tính
bổ sung lẫn nhau giữa trạng thái hạt và trạng thái sóng đã vĩnh viễn chấm dứt Nhị nguyên
luận của Descarte về sự phân đôi giữa vật chất và tinh thần : cả hai thứ đều là những
thuộc tính của cùng một hiện thực duy nhất – cái được gọi là Thực tại. Điều này làm xuất
hiện một quan niệm triết học mới có tên là chủ nghĩa Siêu Duy Thực (Metarealism) – sự
hợp nhất giữa vật chất và tinh thần. Không thể nói tinh thần và vật chất cùng tồn tại:
chúng tồn tại cái này thông qua cái kia.
4.Vậy thì Nhất nguyên hay Nhị nguyên xét đến cùng cũng không tồn tại độc lập và
không phản bác lẫn nhau như các nhà triết học cực đoan vẫn nghĩ, chúng là hai mặt của
Thực tại, chúng cũng tồn tại cái này thông qua cái kia. Cần phải có 1 vịnh Nha Trang có
sẵn đó để chờ đợi các quan sát viên, nhưng cái vịnh Nha Trang dưới quan sát của các
quan sát viên lại không giống nhau. Vịnh Nha Trang vì thế tồn tại mà thực không tồn tại
như một thực thể duy nhất. Nó có nhiều khuôn mặt. Thực tại luôn là cái có nhiều khuôn
mặt. Nó vẫn đấy nhưng không thực có đấy ! Vậy vịnh Nha Trang là gì? Với mỗi con
người, nó là cái ta muốn thấy, là cái hiện ra dưới sự vấn hỏi của ta qua cách nhìn của ta.
Với ta nó là vịnh Nha Trang Nhất nguyên, bởi vì nó chính là vịnh Nha Trang Nhị nguyên.
5.Tại sao phải trao đổi, thảo luận và phản biện?
Vịnh Nha Trang Nhị nguyên vẫn đấy dù bạn có quan sát nó hay không. Nhưng mỗi khi
bạn quan sát, quản lí hay bảo tồn nó, thì nó lại là vịnh Nha Trang Nhất nguyên. Cái sai
lầm chết người chính là ở chỗ nhà quản lí luôn coi cái vịnh Nhất nguyên xuất hiện dưới
cách vấn hỏi của anh ta lại được anh ta coi là cái vịnh Nhị nguyên, khách quan với anh ta
và với cộng đồng. Cho nên cái vịnh Nhất nguyên của riêng anh ta thường được anh ta
dùng quyền lực ép cộng đồng phải coi là cái vịnh duy nhất trên đời, là cái vịnh Nhị
nguyên.
Vì vậy mọi quyết định bảo tồn kiểu mệnh lệnh, kiểu hành chính bao cấp chẳng bao giờ
đạt được sự đồng thuận cao, do đó chẳng được mấy người thực hiện, có chăng chỉ được
thực hiện tốt trong các báo cáo của nhà quản lí.
Để đạt được sự đồng thuận cao, để cộng đồng các nhà quan sát lựa chọn một hình ảnh
phù hợp cho công tác bảo tồn vịnh Nha trang nói riêng hay bất cứ đối tượng cần quản lí
nào, cần tạo điều kiện tiếp cận thông tin rộng rãi cho cộng đống, tổ chức thảo luận trao
đổi rộng rãi và nếu cần thì tiến hành phản biện xã hội. Những việc trên nhằm tiến tới sự
đồng thuận cho khái niệm có tính tương đồng cao về cái gọi là đối tượng, mục tiêu, cách
thức quản lí và bảo tồn.
Xin cảm ơn Quý vị
Văn Bọ Ngựa
Nhạc sĩ, đến từ vườn chuối Thị Nở tỉnh Hà Nam
 
Chú thích.
Kính mời Quý bạn đọc xem tiếp : Nguyên lí số 10 . “Vô vi nhi vô bất vi”.Bảo tồn là tự
bảo tồn vì bảo tồn là vị nhân sinh. Báo cáo tổng kết Hội thảo của GS Đa Lông xóm Sườn
Đồi

Những nguyên lí của Thực tại: 10. “Vô vi nhi vô bất vi”.

Thứ Năm, 09/06/2011 | 03:20:00 PM

Bảo tồn là tự bảo tồn vì bảo tồn có gốc là vị nhân sinh. Báo cáo tổng kết Hội thảo
của GS Đa Lông xóm Sườn Đồi.
Dr. Cà xáy VACNE

 
Kính thưa Quý vị
1.Vô vi nhi vô bất vi
Đây có thể coi là nguyên lí thứ 10 của Thực tại, còn được Lão Tử 600 năm trước trong
Đạo Đức kinh gọi là “vô vi nhi vô bất vi”, có nghĩa là làm thuận theo quy luật của Thực
tại thoạt nhìn có vẻ như không làm gì mà thực ra cái gì cũng làm hết.
Đạo Đức kinh là quyển sách do Lão Tử - một nhà Hiền triết Trung Quốc viết ra vào
khoảng năm 600 TCN. Đạo Đức kinh chỉ 5000 chữ, nhưng những cuốn sách bình giảng,
chú thích về nó suốt hàng ngàn năm qua thì nhiều không kể xiết. Khái niệm vô vi là khái
niệm xuyên suốt trong Đạo Đức kinh được Lão Tử ví von với cách hành xử của nước. Vô
vi theo Đạo Đức Kinh có 3 ý nghĩa: Bất ngôn phân biệt, Để cho vạn vật tự nhiên và Làm
không kể công.
"Bất ngôn" không phải là không nói mà là không nói kiểu thị phi phân biệt, túc là không
nói vu khống, không nói tiền hậu bất nhất. Đó là cái nghĩa thứ nhất của Vô vi. "Để cho
vạn vật nên mà không cản" là để cho vạn vật vận hành theo quy luật của Thực tại, không
dụng tâm xen vào sự tự sinh tự hóa của nó, không áp đặt cái con người thích, đó là cái
nghĩa thứ hai của Vô vi. Giúp cho vạn vật sống theo chúng, hành động tự nhiên giúp đời
mà không chiếm đoạt, không cho đó là công riêng của mình, không cho rằng ngoài mình
thì trong thiên hạ không ai làm được. Làm mà không kể công. Đó là nghĩa thứ ba của vô
vi.
Lão Tử nói: nếu làm theo lẽ tự nhiên thì không cái gì không làm. (Đạo thường vô vi nhi
vô bất vi). Lo việc khó từ khi còn dễ, làm việc lớn từ khi còn nhỏ. Vì vậy, không bao giờ
làm ngay việc lớn nào mà có thể hoàn thành được việc lớn. Vâng nhận một cách khinh
suất tất nhiên ít được đúng lời, coi là dễ bao nhiêu thì càng khó khăn bấy nhiêu. Vô Vi
không phải là không làm, không trị, nhưng phải làm từ lúc chưa có việc gì xảy ra, trị lúc
chưa loạn. (Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn).
3. Bảo tồn là tự bảo tồn
Những lời nói của Lão Tử từ 2600 năm trước vẫn đúng với công tác bảo tồn thiên nhiên
ngày nay. Nó dựa trên những hiểu biết thấu đáo về Thực tại khi mà phần lớn nguyên lí
Thực tại khi đó mới được Lão Tử cảm nhận mà chưa được khoa học chúng minh như bây
giờ.
Trong số những cây di sản đã được VACNE công nhận, có những cây hay cụm cây 600 –
700 năm tưổi, có những cây cả ngàn tuổi. Trong thời gian dài dằng dặc đó, bao nhiêu
triều đại đã thay đổi, bao nhiêu thế hệ đã mất. Vậy cái gì khiến cho các “cụ” cây đó vẫn
xanh tươi ? Vẫn đơm hoa kết trái ? Đó chính là công việc bảo tồn được chính cộng đồng
thực hiện. Những cộng đồng bảo tồn các “cụ” cây di sản cho đến hôm nay phần lớn đều
là những cộng đồng nghèo, thậm chí nhiều nơi cái sở học còn chưa cao. Nhưng vốn tri
thức bản địa và văn hóa bảo tồn thiên nhiên của họ thì nhiều nơi khác còn phải học tập
dài dài.
Muốn thành công, mọi quyết định bảo tồn của nhà quản lí cần phải biến thành hoạt động
tự bảo tồn của cộng đồng. Cộng đồng tự bảo tồn thành công nếu kiến thức bản địa của họ
được ứng dụng, nếu danh dự và quyền lợi chính đáng của họ đối với đối tượng bảo tồn
được công nhận và tôn trọng. Những nguyên lí Thực tại nếu được ứng dụng đầy đủ thì
bảo tồn bao giờ cũng là bảo tồn vị nhân sinh. Chính những “cụ” cây di sản sống cả ngàn
năm qua cho thấy một chân lí “hoạt động bảo tồn của cộng đồng xuyên suốt hàng trăm
thế hệ dù theo cách gì thì vẫn đúng”, vì nếu nhà khoa học, nhà quản lí còn chưa hiểu
được, thì thực tế đã chứng minh hùng hồn cho sự đúng đắn đó. Không cần đi học đâu xa,
cứ học hỏi các cộng đồng bảo vệ thành công các “cụ” cây di sản ở Việt nam, dù mỗi nơi
mỗi kiểu, nhưng đều là những bài học tốt cho công tác bảo tồn.
 
Xin cảm ơn quý vị
GS. Đa Lông
Cây di sản xóm Sườn Đồi
 
Chút thích
Kính mời Quý bạn đọc xem tiếp loạt bài “14 phản đề trong Bảo vệ Thiên nhiên và Môi
trường”. Trích luận án Tiến sĩ của NCS Lẩu Mắm đến từ Cần Thơ, mới bảo vệ thành
công tại Hội đồng chấm luận án xóm Sườn Đồi.

You might also like