Professional Documents
Culture Documents
Vì là một đảo quốc, nên xung quanh Nhật Bản toàn là biển. Nhật Bản không tiếp
giáp quốc gia hãy lãnh thổ nào trên đất liền. Tuy nhiên, bán đảo Triều Tiên và bán đảo
Sakhalin (Nhật Bản gọi là Karafuto) chỉ cách các đảo chính của Nhật Bản vài chục km.
Trên biển, Nhật Bản có vùng đặc quyền kinh tế với đường viền danh nghĩa cách
bờ biển 200 hải lý, song trên thực tế ở các vùng biển Nhật Bản và biển Đông Hải thì
phạm vi hẹp hơn nhiều do đây là các biển chung. Tương tự, vùng lãnh hải của Nhật Bản
không phải hoàn toàn có đường viền cách bờ biển 12 hải lý. Đường bờ biển của Nhật Bản
có tổng chiều dài là 33.889 km.
Nhật Bản có hai đặc trưng tự nhiên khiến cho nước này nổi tiếng thế giới đó là
nhiều núi lửa, lắm động đất.
Mỗi năm Nhật Bản chịu vào khoảng 1000 trận động đất lớn nhỏ.
Nhật Bản có 186 núi lửa còn hoạt động trong đó có núi Phú Sĩ. Đi kèm với núi lửa
là các suối nước nóng cũng có rất nhiều ở Nhật Bản.
Điểm cao nhất ở Nhật Bản là đỉnh núi Phú Sĩ, cao tuyệt đối 3776m. Điểm thấp
nhất ở Nhật Bản là một hầm khai thác than đá ở Hachinohe, -135m.
+Nam: cận nhiệt đới, mùa đông không lạnh lắm, mùa hạ nóng, có mưa to
và bão.
Mùa hè và mùa đông tại Nhật Bản là hai thái cực trong khi mùa xuân và mùa
thu có thời tiết tương đối dịu hơn, với ít mưa và các ngày quang đãng. Thủ đô Tokyo của
Nhật Bản nằm trên cùng vĩ độ với các thành phố Athens của Hy
Lạp, Tehran của Iran và Los Angeles của Hoa Kỳ. Vào mùa đông tại Tokyo, trời lạnh vừa
với độ ẩm thấp và đôi khi có tuyết, trái với mùa hè có nhiệt độ và độ ẩm cao.
1.4. Kinh tế Nhật Bản
1.4.1. Nông nghiệp
Lúa, một loại cây trồng quan trọng của Nhật Bản.
Dù trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, trồng trọt vẫn giữ vai trò rất quan trọng đối
với kinh tế Nhật Bản. Giữ vai trò chủ đạo trong ngành nông nghiệp là việc canh tác lúa
nước. Tuy nhiên, nhiều trang trại có quy mô nhỏ. Hầu hết nông dân làm việc bán thời
gian và phần lớn việc đồng áng do phụ nữ đảm nhận.
Mặc dù lúa nước rõ ràng là cây trồng quan trọng nhất ở Nhật Bản, nhưng người
Nhật canh tác cả các loại ngũ cốc khác, như là lúa mạch để cung cấp rượu bia. Rất nhiều
loại rau quả, như cà chua, dưa chuột, khoai lang, rau diếp, táo, củ cải và quả anh đào cũng
được gieo trồng. Chè cũng được trồng nhiều ở Nhật Bản, đặc biệt là ở các thửa ruộng bậc
thang trên sườn núi. Sản phẩm chính từ chè là trà xanh hay ocha, được người dân khắp
nơi trong nước sử dụng. Chè được trồng chủ yếu ở phía nam đảo Honshu.
Ô tô, một trong những sản phẩm chính trong công nghiệp của Nhật Bản.
Công nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất Nhật Bản.
Trong công nghiệp, các ngành được ưa chuộng và phát triển nhất bao gồm: đóng tàu, điện
tử, sản xuất đồ gia dụng, sản xuất ô tô và kim loại màu.
-Thương mại
Nhật Bản là một trong những quốc gia thương mại lớn nhất trên thế giới. Từ năm
1945, thương mại xuất khẩu tăng trưởng đáng kể và đến năm 2003 đạt giá trị 54,55 nghìn
tỷ yên. Hiện nay lợi nhuận mà Nhật Bản thu được từ xuất khẩu đã lớn hơn chi tiêu cho
nhập khẩu và thặng dư thương mại vào năm 2003 đạt 10,19 nghìn tỷ yên.
-Dịch vụ
Lao động trong các ngành bán lẻ và dịch vụ của Nhật tăng rất nhanh. Trong khi
đó, số người làm việc trong ngành công nghiệp chế tạo và nông nghiệp giảm xuống. Sự
chuyển dịch về lực lượng lao động nói trên một phần là do những tiến bộ về công nghệ.
Giờ đây ở các nông trang và trong các nhà máy, các loại máy móc tinh vi và robot đảm
nhiệm một cách nhanh chóng và hiệu quả những công việc có tính lặp đi lặp lại, đơn giản
và nguy hiểm. Đồng nghĩa với những công việc như vậy ngày càng giảm. Tốc độ đô thị
hoá tăng kéo theo sự gia tăng nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ như giao thông, viễn thông và
những ngành dịch vụ công cộng. Ngành giải trí và du lịch tăng trưởng mạnh mẽ.
-Mua sắm
Số lượng lớn những người làm việc trong các ngành dịch vụ là sự phản ánh về xã
hội tiêu dùng của Nhật Bản. Người Nhật rất thích mua sắm; trên thực tế, việc mua sắm
đang được xem như một thứ tôn giáo hiện đại của nước này. Vào mỗi Chủ nhật, tại
nhiều đại lộ, ô tô không được lưu thông để những đoàn người mua sắm có thể đi lại dễ
dàng hơn. Dù vậy, vào giờ nghỉ trưa của các ngày chủ nhật, việc mua bán tại siêu thị có
thể bị chậm lại.
-Ngành du lịch
Người Nhật là một trong những dân tộc ưa thích du lịch nhất trên thế giới và dành
một phần đáng kể trong thu nhập khả dụng của họ cho các kỳ nghỉ ở nước ngoài. Thế
nhưng ngành du lịch trong nước của Nhật Bản lại không mấy thu hút khách nước ngoài.
Năm 2003, có đến 13,30 triệu lượt người Nhật đi du lịch nước ngoài trong khi chỉ có 5,21
triệu du khách đến Nhật Bản. Năm 2002, nước này xếp thứ 32 trên thế giới về du lịch nội
địa, thấp hơn so với nhiều quốc gia láng giềng ở Đông Nam
Á như Singapore và Malaysia. Hiện nay, hầu hết khách du lịch tới Nhật Bản là người Đài
Loan, Mỹ, Hàn Quốc và Anh.
Người Nhật rất coi trọng sự chào hỏi, cho dù là ở bất cứ đâu, bất cứ hoàn cảnh
hay đối với bất cư ai họ cũng đều tỏ rõ mình là người lịch sự và tôn trọng lễ nghi. Đây là
một tập quán tốt đẹp của người Nhật. Không chỉ vậy, người Nhật còn rất coi trọng các
mối quan hệ có liên quan đến thứ bậc, địa vị như bố mẹ – con cái, vợ – chồng, chủ –
tớ….
Cũng giống như tất cả các nước trên thế giới, Nhật bản cũng có Quốc phục, đó
chính là Kimono. Tùy theo độ tuổi, giới tính và địa vị mà màu sắc của Kimono được
kiểm soát rất nghiêm ngặt. Nhưng về cơ bản thì đó phải là những màu có gốc sáng, dịu
nhẹ, tươi mới mà không quá sặc sỡ.
Môn thể thao truyền thống của Nhật Bản là Sumo, nhưng đại đa số người dân
Nhật Bản lại yêu thích môn Bóng chày hơn. Ngoài ra, những môn võ như: Karate, Judo,
Kendo, Aikido cũng được xuất phát từ Nhật Bản.
Tặng quà là một phần trung tâm trong văn hoá của người Nhật. Đối với người
Nhật, tặng quà đã trở thành một thói quen, một lễ nghi không thể thiếu được trong đời
sống thường ngày của họ. Tặng quà được xem như một cách thể hiện sự yêu mến và kính
trọng lẫn nhau và để xác định các mối quan hệ xã hội. Do đó, nếu họ tặng bạn quà thì
đừng từ chối mà hãy vui vẻ đón nhận và tặng lại học một món
Người Nhật rất coi trong những lễ nghi truyền thống, việc chào hỏi, ăn uống, cách
để giày dép, xin lỗi, cảm ơn, hay uống trà,…cũng đều phát tuân theo lễ nghi và nguyên
tắc. Tuy nhiên, điều này không gò bó với khách nước ngoài, nhưng bạn vẫn phải chú ý để
không làm mất lòng người dân Nhật Bản nhé.
Trong giao tiếp , người Nhật thường có những kiểu như :Kiểu khẽ cúi chào , Kiểu
cúi chào bình thường , Kiểu Saikeirei, Sự im lặng, Giao tiếp mắt, Gián tiếp và nhập
nhằng, Ngón trỏ và ngón cái tạo thành hình tròn
-Lễ hội
Nhật Bản là quốc gia có nhiều lễ hội. Các lễ hội được gọi là Matsuri và được tổ
chức quanh năm. Các lễ hội tổ chức theo các nghi lễ cổ của Thần đạo hay tái hiện lại lịch
sử với đầy màu sắc, các nhạc cụ như chuông, trống và các chiếc xe Mikoshi được rước đi
cùng đoàn người nườm nượp.
Lễ hội duy nhất về tình yêu ở Nhật Bản, được gọi là Tanabata, được tổ chức vào
ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch.
Thơ Nhật Bản, mà điển hình là thơ haiku, với đặc trưng là các câu ngắn và việc sử
dụng nhuần nhuyễn các từ chỉ mùa
Nhật Bản nổi tiếng thế giới với thể loại truyện tranh manga và thể loại phim hoạt
hình anime
Về Nghệ thuật Nhật Bản nổi tiếng với Trà đạo, Thư đạo, Kiếm đạo, Nhu đạo….
Còn nói về ẩm thực có lẽ sushi là món ăn không thể không nhắc đến bên cạch đó
là rượu sake và đậu nành cũng là đặc trưng của Nhật Bản
2.1. Về kinh tế
Ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007, Việt
Nam và Nhật Bản đã đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-
Nhật Bản vào năm 2008, đây cũng là hiệp định tự do hóa thương mại song phương đầu
tiên của Việt Nam.
Hai nước cùng là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế thế giới, điển hình như:
TPP, WTO…, nhờ đó mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia liên tục được cải thiện
và phát triển.
Trong nhiều năm, Nhật Bản là đối tác đầu tư FDI lớn nhất và quốc gia cung cấp
nguồn vốn ODA hàng đầu cho Việt Nam, do đó Nhật Bản có vai trò rất quan trọng đối
với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Quan hệ hợp tác thương mại giữa hai nước
không ngừng phát triển và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay, Nhật Bản là thị trường
xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Mỹ và Trung Quốc và là thị trường tiêu thụ đặc
biệt về các mặt hàng nông sản, thủy sản và các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng như: dệt
may, giày da, thực phẩm chế biến… Nhật Bản là đối tác nhập khẩu hàng đầu của Việt
Nam, đứng thứ 3 về kim ngạch sau Trung Quốc và Hàn Quốc, cung cấp những mặt hàng
rất cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam như máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển, các nguồn nguyên liệu quan trọng phục vụ đối với hoạt
động sản xuất trong nước.
Theo số liệu thống kê, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
trong tháng 5/2017 đạt trị giá 1,49 tỷ USD, tăng 17,5 so với tháng tháng 4/2017; nâng
tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2017 lên 6,51 tỷ USD, tăng trưởng
19,5% so với cùng kỳ năm 2016.
Trong 5 tháng đầu năm 2017, dệt may là nhóm hàng có kim ngach xuất khẩu lớn
nhất, đạt 1,13 tỷ USD, chiếm 17,4% tổng trị giá xuất khẩu, tăng trưởng 10,3% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Xếp thứ hai trong bảng xuất khẩu là nhóm hàng phương tiện vận tải và phụ tùng,
kim ngạch đạt 833,77 triệu USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 13,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đứng thứ ba về kim ngạch xuất khẩu là nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ
tùng khác, đạt 683,79 triệu USD, tăng trưởng 15,9% so với cùng kỳ năm 2016, chiếm
10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhìn chung, trong 5 tháng đầu năm 2017, hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản đều có mức tăng trưởng dương về kim ngạch so với cùng năm ngoái,
một số nhóm hàng có kim ngạch tăng trưởng cao gồm: sắt thép các loại tăng 179,3%;
điện thoại các loại và linh kiện tăng 157,7%; xơ, sợi dệt các loại tăng 57,5%; hàng rau
quả tăng 56,1%.
Tuy nhiên, một số nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản lại có kim
ngạch sụt giảm so với cùng kỳ như: hạt tiêu giảm 21,1%; thức ăn gia súc và nguyên liệu
giảm 17,2%; kim loại thường khác và sản phẩm giảm 15,7%.
Cụ thể, 5 năm gần đây (từ năm 2012 đến 2016), Việt Nam duy trì mức xuất siêu sang
Nhật Bản trong 3 năm đầu (2012, 2013, 2014), những 2 năm sau đó mức thặng dư thương
mại đảo chiều sang nước bạn.
Trong đó, năm 2012 Việt Nam xuất siêu được 1,462 tỷ USD; năm 2013 xuất siêu
2,016 tỷ USD; năm 2014 xuất siêu 1,767 tỷ USD. Bước sang năm 2015, Việt Nam nhập
siêu từ Nhật Bản 218 triệu USD; năm 2016 nhập siêu 393 triệu USD.
Bộ trưởng Ngoại giao hai nước đã gia hạn nhiệm kỳ Đại sứ Đặc biệt Việt Nam-
Nhật Bản (đến 31/3/2016) và Đại sứ Đặc biệt Nhật Bản-Việt Nam (đến 31/3/2016) cho
ông Sugi Ryotaro.
Tháng 4/2005, hai bên ký Tuyên bố chung về hợp tác du lịch Việt Nam-Nhật Bản,
tạo điều kiện cho việc thu hút khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Số lượng khách du
lịch Nhật Bản vào Việt Nam tăng đều trong những năm qua. Năm 2013 có 604.050 lượt
khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2012.
Lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam 4 tháng đầu năm 2014 đạt 222.278
lượt (đứng thứ 3 sau Trung Quốc, Hàn Quốc), tăng 8,45% so với cùng kỳ năm
2013 (Nguồn: Tổng Cục Du lịch).
- Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại
các diễn đàn quốc tế và khu vực.
+ Tháng 5/2007, hai bên thành lập Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật do hai Bộ trưởng
Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (đã họp 5 phiên).
+ Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản về ngoại giao-an ninh-quốc
phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao từ năm 2010 (đã họp 4 phiên).
+ Đối thoại chính sách quốc phòng Việt-Nhật cấp Thứ trưởng từ tháng 11/2012
(đã họp 2 phiên).
+ Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (đã họp phiên đầu tiên tháng 11/2013).
+ Đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993).
- Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội
nhập vào khu vực và thế giới (APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt
Nam về kỹ thuật...).
Trong những năm qua, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản được củng cố
và tăng cường, ngày càng đi vào thực chất, trên cơ sở lợi ích chiến lược tương đồng.
Quan hệ hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại
giao và có sự tin cậy cao.
Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại
các diễn đàn quốc tế và khu vực. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã chọn Việt Nam là
nước đầu tiên đến thăm sau khi nhậm chức nhiệm kỳ 2 vào tháng 1/2013 và là lãnh đạo
đầu tiên trong các nước G7 mời Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị
thượng đỉnh G7 mở rộng.
Hợp tác giữa hai Quốc hội được tăng cường thông qua trao đổi đoàn cấp cao và
giữa các Ủy ban chuyên môn. Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Việt-Nhật và Liên minh Nghị sĩ
Hữu nghị Nhật-Việt duy trì thường xuyên tiếp xúc và hợp tác tích cực, hiệu quả.
Hai bên cũng duy trì hiệu quả các cơ chế đối thoại như Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật
do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch từ năm 2007; Đối thoại Đối tác chiến
lược Việt-Nhật về ngoại giao-an ninh-quốc phòng cấp Thứ trưởng Ngoại giao từ năm
2010; Đối thoại chính sách quốc phòng Việt-Nhật cấp Thứ trưởng từ năm 2012; Đối
thoại An ninh cấp Thứ trưởng từ năm 2013.
Việt Nam và Nhật Bản ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp
quốc (LHQ), ASEAN, APEC, ASEM, Hội đồng nhân quyền LHQ... Việt Nam ủng hộ
Nhật Bản vào Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2016-
2017.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật nên cẩn trọng chú ý vị trí ngồi trong bàn
đàm phán. Khi ngồi vô bàn đàm phán, nên sử dụng ngôn ngữ kính trọng, khiêm nhường
để tránh xảy ra xung đột trước đàm phán.
3.1.4. Chủ nghĩa tập thể (Collectivism), sự đoàn kết là quan trọng nhất:
Trong văn hóa Nhật Bản thì chủ nghĩa tập thể luôn được đề cao hàng đầu. Trong
đời sống người Nhật, tập thể đóng vai trò rất quan trọng. Sự thành công hay thất bại trong
con mắt người Nhật đều là chuyện chung của nhóm và mọi thành viên trong nhóm, bất kể
anh ta đã làm ra sao, đều hưởng chung sự cay đắng hay vinh quang mà nhóm đã đạt
được. Tập thể, nhóm ở đây có thể là công ty, trường học hay hội đoàn…
Phải luôn nhớ rằng khái niệm tập thể rất quan trọng đối với người Nhật Bản và họ
luôn phấn đấu để có được lòng tin với toàn bộ nhóm. Khi đàm phán Người Nhật sẽ dùng
từ “chúng tôi” thay vì tôi, những người đi họp chỉ là những người đại diện cho đa số ý
kiến.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật cần phải cẩn trọng tôn trọng tất cả những
người ngồi trong bàn đàm phán, tránh vì hào quang cá nhân mà ảnh hưởng đến tập thể.
3.1.5. Phong cách giao tiếp - Kìm nén cảm xúc (Neutral):
Người Nhật là một dân tộc điển hình cho văn hóa kìm nén cảm xúc. Họ sống khá
là khép kín, có xu hướng che dấu cảm xúc của bản thân, không để lộ ra bản thân đang
nghĩ gì.
Khi tiếp xúc với người Nhật, người đối thoại khó có thể biết được người Nhật
đang nghĩ gì, đánh giá, khen chê ra sao. Người Nhật biết ghìm mình, cố gắng tránh va
chạm và tranh cãi, thậm chí khi bị hiểu nhầm, nhiều người còn không giải thích, phân
bua. Người Nhật Bản không thích nói chuyện hay bàn bạc đặc biệt là về công việc tại nơi
công cộng vì họ không muốn những người ngoài biết được chuyện của họ. Chính vì đặc
tính này của người Nhật mà “những bí mật” của chính họ hay của doanh nghiệp nơi họ
làm việc, ít khi bị rò rỉ ra bên ngoài.
Trong ứng xử, sự khen - chê của người Nhật rất đặc biệt, khiến người nghe dù có
bị chê bai vẫn cảm thấy hết sức thoải mái. Nụ cười của người Nhật cũng khiến nhiều
người trở nên bối rối, không hiểu hết được ý nghĩa của nụ cười đó. Tóm lại, giao tiếp của
người Nhật nhìn chung khá cầu kỳ và phức tạp. Nhiều điều rất nhỏ nhặt nhưng lại trở
thành những đặc trưng cơ bản trong giao tiếp. Và văn hóa giao tiếp chốn công sở là một
trong những mối quan tâm lớn của nhiều người yêu thích đất nước mặt trời mọc khi
muốn được tham dự vào đời sống công sở Nhật.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật thì cần phải chú ý kết hợp nghe họ nói,
quan sát những gì họ thể hiện ra và cố gắng thấu hiểu tính cách của họ. Bởi những điều
nhỏ nhặt đó có thể là điểm nhấn để việc đàm phán trở nên dễ dàng hơn.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật thì khi đi đàm phán nên chú trọng vào giờ
giấc, tránh thói quen “giờ cao su” mà ảnh hưởng đến công việc. Điều tốt nhất là nên làm
theo thói quen của họ là có mặt trước buổi hẹn 5 phút và nên hẹn qua điện thoại để tôn
trọng phép lịch sự.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật thì cần chú trọng đến địa vị của cá nhân
mỗi người trong tổ chức, nên tôn trọng từ người để tránh xảy ra việc xung đột trong đàm
phán.
→ Đối với văn hóa này của người Nhật thì nên chú ý đến địa điểm đàm phán và
thực phẩm trong buổi đàm phán.
3.1.9. Tính cẩn trọng cao/ Thái độ né tránh rủi ro cao (High uncertainty
avoidance).
Người Nhật Bản có tính cẩn trọng rất cao, Nếu như bạn làm kinh doanh tại đất
nước hoa anh đào thì mỗi tuần bạn nên mang theo trong túi 100 bưu thiếp. Không chỉ văn
hóa Nhật Bản trong kinh doanh mới có điều này mà từ lâu, việc trao danh thiếp đã được
xem như điều cơ bản trong kinh doanh mà bất cứ ai cũng cần phải có. Ngoài ra, thay vì
viết vào danh thiếp thì người Nhật luôn mang theo một cuốn sổ tay để có thể ghi chép lại
những gì quan trọng.
3.1.10. Khoảng cách quyền lực (Power distance):
Nhật Bản được xem là nền văn hoá có khoảng cách quyền lực tương đối cao và hệ
thống tôn ti thứ bậc tương đối chặt chẽ . Sự phân phối quyền lực không đồng đều được
chấp nhận một cách đương nhiên và mọi người thường hành xử trong phạm vi vị trí xã
hội của họ cho phép.
3.1.11. Trọng mối quan hệ (Relationship focus):
Ở người Nhật xem việc tạo lập mối quan hệ là tiền đề cần thiết để làm ăn vì trước
hết phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau.
Trong giao tiếp, người Nhật không muốn có sự đối đầu, họ tin tưởng vào sự thỏa
hiệp và hòa giải. Họ tin tưởng tuyệt đối vào quyết định của tập thể, ưu tiên cho những
quyết định có kết quả. Họ sẽ nói ra cảm xúc thật sự của họ bởi vì muốn duy trì sự hòa
thuận.
Tính bằng hữu trong kinh doanh thì quan trọng hơn cả tính logic, người Nhật cũng
thường trò chuyện xã giao để thiết lập quan hệ với bạn trước khi bàn bạc công chuyện
kinh doanh. Vào thời điểm bắt đầu thảo luận công việc, nếu đại diện nhóm nói chuyện thì
những người còn lại nên ghi chú những điều cần thiết để bàn bạc thêm với nhóm sau đó,
vì người Nhật thường thể hiện mình khá phức tạp, khó hiểu.
3.1.12. Dương tính (Masculinity):
Người Nhật thuộc nền văn hóa dương tính cao, chú ý tới thành công, thành đạt và
thăng tiến. Tại Nhật, thành tích được định nghĩa trên khía cạnh được mọi người công
nhận và sự giàu có, áp lực nơi làm việc cao, hệ thống trường học khuyến khích đạt được
thành tích cao. Đứa trẻ ở Nhật sẽ luôn được dạy rằng phải có sự nghiệp, thành tích cao.
3.2. Phong cách đàm phán của người Nhật Bản:
-Địa điểm đàm phán không nhất thiết phải tại văn phòng mà còn có thể trên một
bữa ăn tại một nhà hàng nào đó.
-Các tài liệu cần thiết cho buổi đàm phán sẽ được trao cho nhau tại buổi đàm phán.
Đặc biệt trên các tài liệu là văn bản chính thức mà không dùng chữ kí phải đóng dấu mộc
đỏ.
-Trao đổi danh thiếp cho nhau là sự ý thức được về việc tôn trọng đối phương
đang trên bàn đàm phán.
-Tiếng anh không được sử dụng rộng rãi lắm trong các cuộc đàm phán thương mại
cũng như chính trị. Nên việc sử dụng tiếng Nhật cũng là một lợi thế.
-Về trang phục thì cũng cần được chú trọng đến hình thức, phải trang trọng và phù
hợp với môi trường đàm phán. Thường thì đối với nam là SUIT đen, áo sơ mi và cà vạt;
còn đối với nữ thì có thể là SUIT hoặc váy công sở.
-Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, không giống như người phương Tây thì người Nhật
thường tỏ ra lo lắng khi gặp gỡ người mới.
-Người Nhật luôn đại diện cho một nhóm người nên họ sẽ không thể thông báo
hay trò chuyện bất cứ điều gì nếu chưa tham khảo ý kiến toàn thể.
-Nên tìm hiểu trước về đối tác đàm phán vì việc trao đổi danh thiếp cũng không
cung cấp đầy thủ thông tin.
-Hãy gọi tên chính xác đối tác đàm phán được ghi trong danh thiếp. Xuất phát từ
truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời của mình, người Nhật dựa vào danh thiếp để gọi
chính xác và đúng tên người giao dịch bởi vì họ tên người Nhật rất phức tạp.
-Những nhà đàm phán đến từ Nhật thường sử dụng những lời nói gián tiếp, có ý
mơ hồ nhưng hàm chứa những ẩn ý hơn là cách nói trực tiếp. Chính vì thế nên khi giao
tiếp, trao đổi với người Nhật thì nên tăng cường vào những buổi gặp mặt trực tiếp.
-Người Nhật thường có sự phần biệt giữa cảm xúc thật, ý kiến cá nhân và những
điều họ hiểu họ nên nói giữa tập thể vì đó là điều thích hợp trong tình huống đó. Nên là
đôi khi, thay vì nói “không”, nhà đàm phán Nhật Bản có xu hướng nói “Tôi sẽ cố gắng
hết sức” hoặc “Cái này thật sự khó với chúng tôi” để tránh làm tổn thương đối phương.
Hoặc là trong buổi đàm phán, những người cấp dưới, chức thấp thường sẽ không tự mình
đưa ra ý kiến riêng, thực chất buổi đàm phán chính là phục vụ cho việc thiết lập bối cảnh
để chia sẻ và gắn kết nhóm.
-Học im lặng và cách chấp nhận sự im lặng trong hơn 30 giây hoặc lâu hơn. Đây là
thời điểm then chốt để người Nhật đưa ra quyết định. Người Nhật nghiền ngẫm những gì
bạn nói và đưa ra các câu hỏi. Bạn cũng không nên bối rối trước những giây phút im lặng
trong đàm thoại của họ như vây. Cũng không nên tìm cách phá tan sự im lặng trong lúc
nói chuyện. Sự im lặng có nghĩa là đối tác người Nhật đang suy nghĩ một cách nghiệm
chỉnh về vấn đề đang bàn bạn.
-Trong buổi đàm phán, thái độ và hành động trong giao tiếp của chúng ta đôi khi
lại thể hiện sự niềm nở và chuyên nghiệp của mình. Người Nhật Bản thường chú ý đến
những chi tiết nhỏ nhất. Khi chào hỏi đứng thẳng người, bắt tay bằng hai tay (hoặc
thường bằng tay phải), mỉm cười và cúi đầu nhẹ thể hiện sự thiện chí đồng thời nói tên
mình hoặc tên của công ty; tránh những ánh mắt nhìn căng thẳng hoặc bắt tay quá mạnh.
-Đối tác người Nhật có thói quen ăn nói nhỏ nhẹ, thái độ chững chạc. Đây không
phải là biểu hiện của một cá tính yếu đuối mà vì họ xem đó như là biểu hiện của sự khôn
ngoan, kinh nghiệm và tuổi tác. Vì vậy, cần phải có thái độ ôn hoà, mềm mỏng khi làm
việc với người Nhật, tránh tỏ thái độ bực dọc, nóng nảy. Điều này có thể mất đi mối quan
hệ tốt đẹp giữa hai bên. Trong khi đàm phán, người trẻ tuổi nên ngồi với 27 tay đặt lên
đùi, đầu và vai hơi nghiêng về phía trước để tỏ sự tôn kính với người lớn tuổi hơn.
-Vấn đề trao đổi quà tặng cũng là một phần quan trọng trong buổi đàm phán. Họ
thường chuẩn bị chu đáo những món quà muốn tặng cho đối tác. Sau buổi đầu tiên gặp
mặt thì nên đến tận nhà để tặng quà, trao quà một cách tự nhiên, khiêm tốn sẽ thể hiện
được sự tin tưởng và tầm quan trọng của mối quan hệ so với món quà.
-Thường thường trong các buổi đàm phán của người Nhật cũng cần một chút giải
trí để xây dựng mối quan hệ thân thiết. Nghi lễ uống rượu là một cách truyền thống để
hiểu thêm về đối tác của mình. Họ thường uống rất nhiều, thậm chí có thể say. Đối với
doanh nhân Nhật, uống rượu dường như làm tan độ cứng nhắc và sự trang trọng trong
buổi đàm phán. Người Nhật có xu hướng nhìn biểu hiện bên ngoài hoặc cuộc hội thoại
đang diễn ra để nói những gì bạn muốn nghe. Vì thế rượu được xem như một chất xúc tác
cho những cuộc đàm phán khó khăn.
-Người Nhật không mặc cả về giá và các điều khoản khác một cách chăm bẵm như
những người láng giềng châu Á khác. Thế nhưng đừng vì vậy mà đưa ra nhân nhượng
quá nhanh bởi vì nếu ta làm vậy họ sẽ hỏi về sự trung thực của bạn, lời đề nghị ban đầu
của bạn. Nếu có thể hãy để đối tác Nhật đưa ra sự nhân nhượng trước. Người Nhật quen
đưa ra từng vấn đề để bàn bạc chứ không đưa ra một loạt vấn đề để thảo luận, tuy mất
thời gian nhưng bạn cứ theo lối đó và đừng bao giờ đem hết “bài” của mình ra một lúc.
=> Phong cách đàm phán của người Nhật Bản: Tôn trọng lễ nghi thứ bậc;
Coi đàm phán như một cuộc đấu tranh thắng bại; Tránh xung đột bằng cách thỏa
hiệp; Tìm hiểu rõ đối tác trước khi đàm phán; Thao túng nhật trình đối thủ; Lợi
dụng điểm yếu đối thủ; Tôn trọng quyết định của nhóm; Tầm quan trọng của bữa
tiệc đàm phán; Trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ, làm việc rất máy móc.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_tế_Nhật_Bản
https://vi.wikipedia.org/wiki/Văn_hóa_Nhật_Bản
https://vi.wikipedia.org/wiki/Địa_lý_Nhật_Bản