You are on page 1of 17

CÂU HỎI ÔN TẬP THI CUỐI KỲ MÔN MÁC – LENIN KỲ HÈ 193

Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết
định ý thức của con người. Giải thích mọi hiện tượng của thế giới bằng
nguyên nhân vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật cho đến nay được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác; chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác: là hình thức cơ bản thứ nhất, là kết quả nhận

Phạm Thị Tuyết Trinh –


thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ đại; mang nặng tính trực quan,
ngây thơ, chất phác do hạn chế về trình độ nhận thức vật chất và cấu trúc vật
chất nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó
MOK19
lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến thần linh,
thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình : là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của
chủ nghĩa duy vật, điển hình là ở thế kỉ XVII,XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ
học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển
quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn
này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới –
phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận trong
thế giới đó cơ bản là biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực
nhưng đã góp phần không nhỏ đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo, đặc
biệt là ở thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường Trung cổ sang thời Phục hưng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật do C.Mác và Ph. Angghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, sau đó được Lenin phát triển. Áp dụng triệt để thành tựu khoa học và
kế thừa tinh hoa học thuyết triết học trước đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng
từ khi ra đời đã khắc phục được hạn chế của hai hình thức chủ nghĩa trước
đó và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng hiện thực mà còn là công cụ hữu
hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
Câu 2: Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng: ý thức, tinh thần là cái có trước và sản
sinh ra giới tự nhiên. Thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên

Phạm
nào đó đối với toàn bộ thế giới.
- - Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và
chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Thị
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, khẳng định
mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
Tuyết
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con

Trinh
người. Thực thể tinh thần khách quan này được gọi bằng những cái tên khác
nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,….
Câu 3: Vai trò của triết học Mác – Lenin trong đời sống xã hội và trong sự
-
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Triết học Mác – Lenin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách

MOKmạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn


- Triết học Mác – Lenin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học
và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện

19
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lenin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Câu 4: Định nghĩa vật chất của Lenin, phương thức – hình thức tồn tại của
vật chất. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất đối với khoa học hiện nay.
- Kế thừa tư tưởng Mác và Angghen và tổng kết thành quả của khoa học tự
nhiên Lenin đã định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu
là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.Theo quan niệm của
Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không
gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động
“là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự
tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn
tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất. Dựa trên thành tựu khoa học trong
thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản:
vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học
và vận động xã hội. Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ
tự từ thấp đến cao tương ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức
vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối
quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên
cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận
động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình
thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi
hình thức vận động cao nhất mà nó có. Khi khẳng định vận động là phương
thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật
biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có
nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song
đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng
im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động. Đứng im là tương
đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một
hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ
nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất
định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế
cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí,
hình dáng, kết cấu của sự vật.
+ Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất: Mọi dạng cụ thể
của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định
và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật chất
khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm,
kế tiếp và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời
gian. Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và
thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài
không gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau;
không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có
không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động. Là những hình thức
tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có
những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách
quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Ngoài ra, không gian có thuộc
tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính ba chiều của không gian và
một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá
trình diễn biến của vật chất vận động.
- Ý nghĩa của định nghĩa vật chất với khoa học hiện nay: có ý nghĩa định
hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình
thức mới của vật thể trong thế giới, khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời
sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lenin đã cho phép xác định cái gì là vật
chất trong lĩnh vực xã hội giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên
nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở ấy người ta
có thể tìm ra phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
Câu 5: Nội dung hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật. Ý nghĩa
phương pháp luận của hai nguyên lý và liên hệ thực tiễn.
- Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển.
+ Nguyên lý mối liên hệ phổ biến:
Khái niệm: “ Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối
ràng buộc tương hỗ,quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ
phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Trong đó sự tác
động lẫn nhau là nội dung quan trọng nhất.
Tính chất của mối liên hệ phổ biến: tính khách quan; tính đa dạng, phong
phú; tính phổ biến.
Nội dung: mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều luôn luôn tồn tại trong các
mối liên hệ xác định ( mối liên hệ phổ biến) và nhiều mối liên hệ khác nhau
tức là luôn luôn tồn tại trong tính quy định, tính tương tác, những biến đổi
tác động tới nó. Như vậy, mỗi một sự biến đổi trong thế giới đều có khả
năng khách quan tất yếu tác động đến những biến đổi khác một cách trực
tiếp, gián tiếp.
+ Nguyên lý về sự phát triển:
Khái niệm: phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mời ở trình độ cao hơn. Phát
triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ
vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển.
Tính chất của sự phát triển: tính khách quan; tính phổ biến; tính kế thừa; tính
đa dạng, phong phú.
Nội dung: phát triển là những khuynh hướng khách quan và phổ biến trong
mọi lĩnh vực của tự nhiên xã hội, nhận thức tư duy trong giới tự nhiên đó là
quá trình phát triển từ vật chất đơn giản đến phức tạp, trong nhận thức từ
chưa chính xác đến chính xác hơn. Mọi con đường phát triển không bao giờ
thẳng tắp mà quanh co phức tạp, và trong đó cũng có những bước thụt lùi
tạm thời. Không có một mô hình phát triển tuyệt đối cho một lĩnh vực, trái
lại tùy vào điều kiện mà có những mô hình phát triển đa dạng. Phát triển
tuân theo quy luật: quy luật thay đổi dần về lượng dẫn đến thay đổi nhảy vọt
về chất( quy luật về phương thức phát triển); quy luật về nguồn gốc và động
lực của sự phát triển ( quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập); quy luật về hình thức có tính chu kỳ của sự phát triển ( quy luật phủ
định của phủ định).
- Ý nghĩa phương pháp luận của hai nguyên lý và liên hệ thực tiễn:
Ý nghĩa của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: có ý nghĩa phương pháp
luận to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên lý này đòi hỏi
khi nhận thức sự vật hiện tượng phải tuân theo quan điểm toàn diện và để
tránh phiến diện cần phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các khâu trung
gian có quy định ảnh hưởng đến thuộc tính của sự vật. Quan điểm toàn diện
đòi hỏi để nhận thức sự vật hiện tượng chúng ta phải xem xét mối liên hệ với
nhu cầu thực tiễn của con người. Nguyên lý này còn bao hàm những yêu cầu
của quan điểm lịch sử cụ thể, không đồng nhất các mối liên hệ với nhau mà
phải, phải phân loại, vạch rõ vị trí, vai trò của từng liên hệ, chỉ ra những liên
hệ tất yếu.
Vd: bước vào thời kỳ đổi mới 1986, Đảng ta đã chỉ ra hai nhiệm vụ chiến
lược để phát triển đất nước là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó xây
dựng Tổ Quốc là nhiệm vụ giữ vai trò quyết định thắng lợi của quy trình đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định tính toàn diện,
phạm vi bao quát của quá trình đổi mới. Đảng coi đổi mới tư duy lý luận, tư
duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, đổi mới kinh tế là trọng
tâm, đổi mới văn hóa là cần thiết, trong đó khoa học công nghệ giáo dục
phải trở thành quốc sách hàng đầu.
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển: có ý nghĩa
phương pháp luận to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi
phải có quan điểm phát triển bao gồm các yêu cầu:
+ Phải xem xét sự vật như một quá trình trong sự tự vận động, sự phát triển
của nó. Chỉ như vậy mới vạch ra được nguồn gốc, nguyên nhân, những điều
kiện và logic của sự vận động bên trong, tức là bản chất của sự vật.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem sự vật cần phải vạch ra những giai
đoạn, những điều kiện, và khuynh hướng cụ thể của nó, phân tích một cách
cụ thể từng giai đoạn. Nhưng không được tách rời các giai đoạn của sự vật
với nhau mà phải xem chúng thống nhất, liên hệ với nhau trong cả tiến trình
vận động của sự vật.
+ Quan điểm phát triển cũng yêu cầu cần phải có thái độ lạc quan, tích cực
trong thực tiễn, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, làm chậm hoặc kìm hãm
sự phát triển.
Vd: vận dụng đúng đắn quan điểm phát triển vào đường lối mới đất nước,
Đảng ta phân kỳ quá trình phát triển thành từng thời kỳ, bước đi thích hợp,
từ thấp đến cao: 1986-1990, 1991-2000, 2001-2020. Nhờ đó phát huy nội
lực, vận dụng được sức mạnh tổng hợp của thời đại đưa đất nước ta từng
bước phát triển vững chắc trên con đường chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu mà vẫn đảm bảo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Câu 6: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Những hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
- Hoạt động sản xuất vật chất
- Hoạt động chính trị - xã hội
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
Vai trò: + thực tiễn là cơ sở nhận thức
+ thực tiễn là động lực của nhận thức
+ thực tiễn là mục đích của nhận thức
+ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Câu 7: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Sự vận dụng quy luật trên vào đổi mới kinh tế của Việt Nam.
Lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến
giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Ngày
nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quan hệ sản xuất: là hình thức xã hội của phương thức sản xuất có tính ổn định
tương đối so với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
+ Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người:
biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao
động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng
dụng khoa học vào sản xuất.
+ Tính chất của lực lượng sản xuất: khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân
công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân.
Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại phân công lao động xã hội phát triển
thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong
đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.
+ Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động phát triển, bắt đầu từ công cụ lao động,
từ khoa học công nghệ; quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định mâu thuẫn với quan hệ sản xuất
hiện có đòi hỏi phải thay đổi bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với một trình
độ mới của lực lượng sản xuất.
+ Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo nguyên tắc khách quan:
QHSX phụ thuộc vào thực trạng phát triển của LLSX
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất bao hàm khả năng
chuyển háo thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tác
động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất không phù
hợp với lực lượng sản xuất (lạc hậu hoặc vượt trước) sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
+ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Vận dụng đổi mới kinh tế ở Việt Nam:
- Trước 1986 VN chưa có sự phù hợp giữa QHSX với LLSX, QHSX tiên tiến giả
tạo đi trước một bước so với LLSX...
- Sau 1986 VN tiến hành đổi mới, bước đầu xây dựng QHSX phù hợp với LLSX,
thể hiện ở việc thực hiện nhiều thành phần kinh tế, duy trì nhiều kiểu QHSX tương
ứng với nhiêu trình độ khác nhau của LLSX..
Câu 8: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Sự vận dụng quy luật trên vào xã hội Việt Nam hiện nay.
Phạm Thịlà khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên cơ
Cơ sở hạ tầng:
cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Tuyết
Các yếu tố cơ bản của một cơ sở hạ tầng cụ thể gồm:

Trinh-
+) Quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất trước đó.
+) Quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất đang tồn tại chủ đạo.
MOK19
+) Quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất tương lai.
+) Những kiểu quan hệ kinh tế khác.
Kiến trúc thượng tầng:
+) Toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu
tố đó của kiến trúc thượng tầng. “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương
ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó”.
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng gồm:
+) Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị.
+) Tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
+) Quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng:
– Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng
+) Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định.
Trong các quan hệ xã hội, quan hệ vật chất, kinh tế (cái thứ nhất) quy định quan hệ
tinh thần, tư tưởng (cái thứ hai). Mâu thuẫn trong đời sống vật chất, kinh tế, xét
cho đến cùng, quy định mâu thuẫn trong đời sống tinh thần, tư tưởng.
+) Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc
thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm biến đổi quan hệ sản xuất,
kéo theo sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và thông qua sự biến đổi này, làm biến đổi
kiến trúc thượng tầng. Trong đó quan điểm chính trị, pháp luật v.v thay đổi trước;
tôn giáo, nghệ thuật v.v biến đổi sau, thậm chí chúng còn được kế thừa trong kiến
trúc thượng tầng mới. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế – xã hội
cụ thể cũng như trong quá trình chuyển hoá từ hình thái kinh tế – xã hội này sang
hình thái kinh tế-xã hội khác, có nghĩa là mỗi hình thái kinh tế – xã hội đều có kiến
trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của riêng mình (là tính lịch sử – cụ thể của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng).
+) Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng phong phú và phức
tạp. Bên trong kiến trúc thượng tầng cũng có những mối liên hệ tác động lẫn nhau,
đôi khi dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng mà không do cơ sở hạ
tầng gây nên. Nhưng suy cho đến cùng, mọi sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng
đều có cơ sở từ những sự biến đổi trong cơ sở hạ tầng.
– Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Trong đời sống xã hội, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động, bằng
nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau, ở mức độ này hay ở mức
độ kia, ở vai trò này hoặc vai trò khác đối với cơ sở hạ tầng.
+) Trong mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến trúc thượng
tầng trước. Các yếu tố chính trị, pháp luật tác động trực tiếp, còn triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v tác động gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các
yếu tố chính trị, pháp luật chi phối.
+) Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh nhất đối
với cơ sở hạ tầng. Nhà nước kiểm soát xã hội và sử dụng bạo lực, bao gồm những
yếu tố vật chất như cảnh sát, toà án, nhà tù để tăng cường sức mạnh kinh tế của
giai cấp thống trị. Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì,
củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũ. Trong đó, nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng, kiểm soát xã
hội và sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất như quân đội, cảnh sát, toà
án, nhà tù, để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Tác dụng những
tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi tác động đó
cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan, nếu trái lại, thì sẽ
gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội. Kiến trúc
thượng tầng có tác động mạnh, nhưng không thay thế được yếu tố vật chất, kinh tế;
nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế-xã hội thì sớm hay
muộn, bằng cách này cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ được thay thế bằng
kiến trúc thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế-xã hội tiếp tục phát triển.
Sự vận dụng vào đổi mới kinh tế của Việt Nam: Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một
giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với
một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội
khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá. Bởi
vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang
tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành
phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình
thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ
tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà
nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã
hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế
quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề,
các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở
kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất,
vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn
cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau. Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh
tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm
từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế
quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề,
các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh
tế hợp lý. Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của
mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”.
Câu 9: Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Phạm
Giai cấp: Thị
+Định nghĩa giai cấp của Lenin: giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những
Tuyết
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ ( thường thường thì những quan hệ
Trinh-
này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò
MOK19
của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp
là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của
tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
- xã hội nhất định.
+ Đặc trưng cơ bản của giai cấp:
- Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.
- Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp là các mối
quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản
xuất.
- Thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là tập
đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do đối lập về
địa vị trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.
- Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử.
+Ý nghĩa của định nghĩa về giai cấp: mang bản chất cách mạng và khoa học,
có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để nhận thức đúng đắn
vị trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho
giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được vai trò lịch sử của
giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới.
+Nguồn gốc giai cấp: giai cấp là một hiện tượng xã hội xuất hiện lâu dài
trong lịch sử gắn với những điều kiện sản xuất vật chất nhất định của xã hội.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lenin chứng minh rằng nguồn gốc của
sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp cụ thể và của xã hội có giai cấp
đều dựa trên tính tất yếu kinh tế, “ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định của sản xuất”.
+Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp là sự phát triển của lực lượng
sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, xuất hiện “ của dư”, tạo khả
năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của
người khác. Nguyên nhân trực tiếp đưa tới sự ra đời của giai cấp là xã hội
xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
+ Kết cấu giai cấp – xã hội: là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các
giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội – giai
cấp trước hết do trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy
định. Kết cấu xã hội – giai cấp bao gồm hai giai cấp cơ bản và những giai
cấp không cơ bản, hoặc các tầng lớp xã hội trung gian. Giai cấp cơ bản là
giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, giai cấp không cơ bản gắn
với phương thức sản xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã hội. Ngoài ra
còn có nhóm xã hội nhất định( tầng lớp trí thức, nhân sĩ, giới tu hành,..) luôn
bị phân hóa dưới tác động của sự vận động nền sản xuất vật chất xã hội. Có
ý nghĩa giúp cho chính đảng của giai cấp vô sản xác định đúng các mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu của xã hội; nhận thức đúng địa vị, vai trò
và thái độ chính trị của mỗi giai cấp, trên cơ sở đó xác định đối tượng và lực
lượng cách mạng; nhiệm vụ và giai cấp lãnh đạo cách mạng,…
Đấu tranh giai cấp:
- Phạm
- Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp: đấu tranh giai cấp là tất yếu
Thị
do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được giữa các giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích
Tuyết
căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định. Thực
chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp
Trinh-
bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của

MOK19
chúng. Liên minh giai cấp là tất yếu.
- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội: đấu tranh giai
cấp là động lực quan trọng, trực tiếp của lịch sử, là động lực phát triển của
xã hội, nhưng không phải động lực duy nhất mà là một động lực trực tiếp và
quan trọng.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay: Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã bước
ngay vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
Phạm
nghĩa. Quá Thị
độ lên chủ Tuyết
nghĩa xã hội ởTrinh-MOK19
nước ta diễn ra trong điều kiện kinh tế xã
hội đặc thù. Trước 1945, Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nền sản xuất lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, công nghiệp nhỏ bé,
80% dân số là nông dân, lực lượng sản xuất ở trình độ thấp. Sau năm 1975, nền
sản xuất ở nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta không phải là quá độ trực tiếp mà là bước quá độ gián tiếp từ sản xuất nhỏ bỏ
qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm đó quy định bước đi hình
thức của thời kỳ quá độ. Từ sau Đại hội VI (tháng 12-1986) đến nay Đảng ta
chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần như một tất yếu khách
quan. Đại hội X của Đảng( tháng 4-2006) đã xác định nước ta có năm thành
phần kinh tế là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( gồm kính tế
cá thể, tiểu chủ , tư bản tư nhân), thành phần kinh tế Tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó được Đại hội XI của
Đảng tiếp tục khẳng định.

You might also like