Professional Documents
Culture Documents
Lê Ngọc Tâm
2.1.2.Yêu cầu:
Hệ thống phanh cần đảm bảo các yêu cầu chính sau:
Làm việc bền vững, tin cậy.
Có hiệu quả phanh cao khi phanh đột ngột với cường độ lớn trong trường hợp
nguy hiểm.
Phanh êm dịu trong những trường hợp khác, để đảm bảo tiện nghi và an toàn
cho hành khách và hàng hoá.
Giữ cho ô tô máy kéo đứng yên khi cần thiết, trong thời gian không hạn chế.
Đảm bảo tính ổn định và điều khiển của ô tô máy kéo khi phanh.
Không có hiện tượng tự phanh khi các bánh xe dịch chuyển thẳng đứng và khi
quay vòng.
Hệ số ma sát giữa má phanh với trống phanh cao và ổn định trong mọi điều
kiện sử dụng:
Có khả năng thoát nhiệt tốt.
Điều khiển nhẹ, nhàng thuận tiện, lực cần thiết tác dụng lên bàn đạp hay đòn
điều khiển nhỏ.
Để có độ tin cậy cao, đảm bảo an toàn chuyển động trong mọi trường hợp, hệ
thống phanh của ô tô máy kéo bao giờ cũng phải có tối thiểu ba loại phanh, là:
Phanh làm việc: Phanh này là phanh chính, được sử dụng thường xuyên ở tất
cả mọi chế độ chuyển động, thường được điều khiển bằng bàn đạp nên còn gọi là
phanh chân.
Phanh dự trữ : Dùng để phanh ô tô máy kéo trong trường hợp phanh chính
hỏng.
Phanh dừng: Còn gọi là phanh phụ, dùng để giữ cho ô tô máy kéo đứng yên
tại chổ khi dừng xe hoặc khi không làm việc. Phanh này thường được điều khiển
bằng tay đòn nên gọi là phanh tay.
Ngoài ra còn có phanh chậm dần: Trên các ô tô máy kéo tải trọng lớn (như xe
tải, trọng lượng toàn bộ lớn hơn 12 tấn; xe khách- lớn hơn 5 tấn) hoặc làm việc ở
vùng đồi núi,thường xuyên phải chuyển động lên xuống các dốc dài còn phải có loại
phanh thứ tư là phanh chậm dần, dùng để:
Phanh liên tục, giữ cho tốc độ của ô tô máy kéo không tăng quá giới hạn cho
phép khi xuống dốc.
Để giảm dần tốc độ của ô tô máy kéo trước khi dừng hẳn.
Các loại phanh trên có thể có các bộ phận chung và kiêm nhiệm chức năng của
nhau. Nhưng chúng phải có ít nhất là hai bộ phận điều khiển và dẫn động độc lập.
Ngoài ra, để tăng thêm độ tin cậy, hệ thống phanh chính còn được phân thành
các dòng độc lập để nếu một dòng nào đó bị hỏng thì các dòng còn lại vẫn làm việc
bình thường.
Để có hiệu quả phanh cao:
Dẫn động phanh phải có độ nhạy lớn.
Phân phối mô men phanh trên các bánh xe phải đảm bảo tận dụng được toàn
bộ trọng lượng bám để tạo lực phanh. Muốn vậy, lực phanh trên các bánh xe phải tỷ
lệ thuận với phản lực pháp tuyến của đường tác dụng lên chúng.
Trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng các bộ trợ lực hay dùng dẫn động
khí nén hoặc bơm thuỷ lực để tăng hiệu quả phanh đối với các xe có trọng lượng
toàn bộ lớn.
Để đánh giá hiệu quả phanh người ta sử dụng hai chỉ tiêu chính, là: Gia tốc
chậm dần và quãng đường phanh. Ngoài ra cũng có thể dùng các chỉ tiêu khác, như:
Lực phanh hay thời gian phanh.
Giá trị các yêu cầu này có thể tham khảo trong bảng 2-1, 2-2 và 2-3.
Các chỉ tiêu quy định về hiệu quả phanh cho phép do từng quốc gia hay từng
hiệp hội quy định riêng dựa vào nhiều yếu tố, như : Nguồn gốc và chủng loại ô tô
đang lưu hành, điều kiện đường xá, trình độ tổ chức kiểm tra kỹ thuật, các trang
thiết bị kiểm tra....
Bảng 2-1: Tiêu chuẩn về hiệu quả phanh (của hệ thống phanh chính) cho phép
ô tô lưu hành trên đường- Do Bộ giao thông Vận tải Việt Nam quy định năm 1995.
Tiêu chuẩn trình bày ở bảng 2-1 trên được cho ứng với chế độ thử :
Do yêu cầu về tốc độ ô tô ngày càng tăng, cho nên có xu hướng tăng vận tốc
thử phanh để cho phép lưu hành trên đường. Tuy vậy thử phanh ở tốc độ cao là rất
nguy hiểm, nhất là trong điều kiện chưa cho phép có những bãi thử chuyên dùng. Vì
thế ở nước ta vẫn đang áp dụng tốc độ thử phanh là 30 [ Km/h ].
Số liệu cho ở bảng 2-1 chỉ sử dụng để kiểm tra phanh định kỳ nhằm cho
phép ô tô lưu hành trên đường để đảm bảo an toàn chuyển động. Đối với các cơ sở
nghiên cứu hay thiết kế chế tạo thì cần áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn.
Bảng 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiiệu quả của hệ thống phanh chính
Stt Chủng loại ô tô Tốc độ Lực tác Dạng Quãng Gia tốc
trước dụng thử đường chậm
khi lên bàn phanh dần ổn
phanh đạp định
Sp [ m ]
Vo Pbđ Jp [ m/g
( )
[N] ]
[Km/h]
( ) ( )
Bảng 2-3: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hệ thống phanh dự trữ
Stt Chủng loại ô tô Tốc độ Lực tác dụng lên Quãng Gia tốc
trước khi bàn đạp Pbđ [ N ] đường chậm dần
thử Vo phanh ổn định
( )
[Km/h] Sp [ m ] Jp[ m/s2 ]
( ) ( )
Đối với hệ thống phanh chính, giá trị các chỉ tiêu được cho tương ứng ba dạng
thử khác nhau, là :
Thử " O ": Để xác định hiệu quả của hệ thống phanh chính, khi các cơ cấu
phanh còn nguội và thường tiến hành hai trường hợp: Động cơ được tách và không
tách ra khỏi hệ thống truyền lực.
Thử " I ": Để xác định hiệu quả của hệ thống phanh chính, khi các cơ cấu
phanh đã làm việc nóng lên. Dạng thử này bao gồm hai giai đoạn :
Thử " II ": Để xác định hiệu quả phanh chính, khi ô tô, máy kéo chuyển
động xuống dốc dài.
Khi phanh bằng phanh dự trữ hoặc bằng các hệ thống phanh khác thực hiện
các chức năng của nó, gia tốc chậm dần lớn nhất cần phải đạt 3 [ m/s 2 ] đối với ô tô
khách và 2,8 [ m/s2 ] đối với ô tô tải.
Đối với hệ thống phanh dừng, hiệu quả phanh được đánh giá bằng tổng lực
phanh thực tế mà các cơ cấu phanh của nó có thể tạo ra. Khi thử ( theo cả hai chiều :
Đầu xe hướng xuống dốc và ngược lại - quay lên dốc ) phanh dừng cần phải giữ
được ô tô- máy kéo chở đầy tải và động cơ tách ra khỏi hệ thống truyền lực, đứng
yên trên dốc có độ nghiêng không nhỏ hơn 25%.
Hệ thống phanh chậm dần cần phải đảm bảo cho ô tô - máy kéo, khi chuyển
động xuống các dốc dài 6 [ Km ], độ dốc 7 %, tốc độ không vượt quá 302 [ Km/h ]
( 8,330,6 [ m/s ]), mà không cần sử dụng các hệ thống phanh khác. Khi phanh
bằng phanh này, gia tốc của ô tô, máy kéo thường đạt khoảng 0,62,0 [ m/s2 ].
Để quá trình phanh được êm dịu và để người lái cảm giác, điều khiển được
đúng cường độ phanh, dẫn động phanh phải có cơ cấu đảm bảo tỷ lệ thuận giữa lực
tác dụng lên bàn đạp hoặc đòn điều khiển với lực phanh tạo ra ở bánh xe, đồng thời
không có hiện tượng tự siết khi phanh.
Để đảm bảo tính ổn định và điều khiển của ô tô, máy kéo khi phanh, sự phân
bố lực phanh giữa các bánh xe phải hợp lý, cụ thể phải thỏa mãn các điều kiện chính
sau:
Lực phanh trên các bánh xe phải tỷ lệ thuận với phản lực pháp tuyến của mặt
đường tác dụng lên chúng.
Lực phanh tác dụng lên bánh xe phải và trái của cùng một cầu phải bằng nhau.
Sai lệch cho phép không được vượt quá 15% giá trị lực phanh lớn nhất.
Không xảy ra hiện tượng tự khóa cứng, trượt các bánh xe khi phanh. Vì : Các
bánh xe trước trượt trước sẽ bị trượt ngang, mất tính điều khiển. Các bánh xe sau
trượt trước sẽ bị quay đầu, mất tính ổn định. Ngoài ra các bánh xe bị trượt sẽ gây
mòn lốp, giảm hiệu quả phanh do giảm hệ số bám.
Để đảm bảo các yêu cầu này, trên ô tô, máy kéo hiện đại, người ta sử dụng các
bộ điều chỉnh lực phanh hay hệ thống chống hãm cứng bánh xe ( Antilook Braking
System - ABS ).
Yêu cầu về điều khiển nhẹ nhàng và thuận tiện được đánh giá bằng lực lớn
nhất cần thiết tác dụng lên bàn đạp hay đòn điều khiển và hành trình tương ứng của
chúng. Giá trị quy định của chúng được cho dưới bảng 2-4.
Bảng 2- 4: Giá trị tối đa cho phép của lực tác dụng lên bàn đạp hay đòn điều
khiển và hành trình tương ứng của chúng đối với hệ thống phanh ô tô.
Phương pháp Hệ thống phanh Chủng loại ô tô Pbđ max Sbđ max
Hệ thống phanh gồm có các cơ cấu phanh để hãm trực tiếp tốc độ góc của các
bánh xe hoặc một trục nào đó của hệ thống truyền lực và truyền động phanh để dẫn
động cơ cấu phanh.
Theo vị trí bố trí cơ cấu phanh ở bánh xe hoặc ở trục của hệ thống truyền lực,
phanh chia ra các loại: Phanh bánh xe và phanh truyền lực.
Theo dạng bộ phận tiến hành phanh (phần tử ma sát), phanh chia ra:
Phanh đĩa: Theo số lượng đĩa quay còn chia ra :Một đĩa quay và nhiều đĩa
quay.
Phanh trống-guốc: Theo đặc tính cân bằng thì được chia ra: Phanh cân bằng
và phanh không cân bằng.
Phanh dãi.
Để đảm bảo được nhiệm vụ của một hệ thống phanh, bất kỳ một hệ thống
phanh nào cũng có hai thành phần kết cấu chính sau:
trong quá trình phanh khi ô tô chuyển động, động năng của ô tô sẽ được biến thành
nhiệt năng ở cơ cấu phanh rồi tiêu tán ra môi trường.
Cơ cấu phanh trên ô tô chủ yếu làm việc theo nguyên lý ma sát. Do vậy kết
cấu của nó gồm có hai phần chính: Cơ cấu ép và phần tử ma sát. Bên cạnh đó còn
có thêm các phần tử phụ như cơ cấu điều khiển khe hở giữa má phanh và trống
phanh của loại phanh trống - guốc, bộ phận xả khí của phanh dẫn động thủy lực...
Phần tử ma sát của cơ cấu phanh có thể có dạng: Trống - Guốc, Đĩa hay Dải.
Mỗi dạng có đặc điểm kết cấu riêng biệt.
Kết cấu cơ cấu phanh trên ô tô có đặc trưng tùy thuộc bởi vị trí đặt nó ở bánh
xe hoặc ở truyền lực, bởi loại chi tiết quay và chi tiết tiến phanh.
Cơ cấu phanh ở bánh xe thường dùng loại trống - guốc và gần đây sử dụng
nhiều loại đĩa ở các bánh xe trước.
Có hai phương pháp để điều chỉnh: Bình thường bằng tay và tự động
b. Các sơ đồ và chỉ tiêu đánh giá:
Số lượng
Số bậc tự do Loại cơ cấu ép
của guốc cơ cấu ép
phanh
Xy lanh thuỷ lực Cam chêm
Một
2 III
IV V VI XVI
1
Hai
VII VIII IX
2 X X
XVII
P1 P2
P P
rb fN2 rb fN2
a
N1 N2 N1 N2
a
B B B e
c
fN1 fN1
c
a) b)
B
P P
rb fN2 rb fN2
N1 N2 N1 N2
c
a
e
a
fN1 fN1
a
P P
Hình 2.3. Các
d) cơ cấu phanh thông dụng và sơ đồ
c) lực tác dụng.
a- Ép bằng cam; b- Ép bằng xylanh thủy lực; c- Hai xylanh ép, guốc phanh một bậc
tự do; d- Hai xylanh ép, guốc phanh hai bậc tự do.
Hiện nay, đối với hệ thống phanh làm việc, được sử dụng thông dụng nhất là
các sơ đồ trên hình 2.3a và 2.3b. Tức là sơ đồ với guốc phanh một bậc tự do, quay
quanh hai điểm cố định đặt cùng phía và một cơ cấu ép. Sau đó đến các sơ đồ 2.3c
và 2.3d.
Để đánh giá, so sánh các sơ đồ khác nhau, ngoài các chỉ tiêu chung, người ta
sử dụng ba chỉ tiêu riêng, đăc trưng cho chất lượng của cơ cấu phanh là: Tính thuận
nghịch (đảo chiều), tính cân bằng và hệ số hiệu quả.
Cơ cấu phanh có tính thuận nghịch là cơ cấu phanh mà giá trị mô men phanh
do nó tạo ra không phụ thuộc vào chiều quay của trống, tức là chiều chuyển động
của ôtô- máy kéo.
Cơ cấu phanh có tính cân bằng tốt là cơ cấu phanh khi làm việc, các lực từ
guốc phanh tác dụng lên trống phanh tự cân bằng, không gây tải trọng phụ tác dụng
lên cụm ổ trục bánh xe.
Hệ số hiệu quả là một đại lượng bằng tỷ số giữa mômen phanh tạo ra và tích
của lực dẫn động nhân với bán kính trống phanh. (hay còn gọi một cách quy ước là
mômen của lực dẫn động).
Sơ đồ lực tác dụng lên guốc phanh trên hình 2.3 là sơ đồ biểu diễn đã được
đơn giản hóa nhờ các giả thiết sau:
+ Các má phanh được bố trí đối xứng với đường kính ngang của cơ cấu.
+ Hợp lực của các lực pháp tuyến (N) và của các lực ma sát (fN) đặt ở giữa
vòng cung của má phanh trên bán kính r.
Từ sơ đồ ta thấy rằng:
+ Lực ma sát tác dụng lên guốc trước (tính theo chiều chuyển động của xe) có
xu hướng phụ thêm với lực dẫn động ép guốc phanh vào trống phanh, nên các guốc
này gọi là guốc tự siết.
+ Đối với các guốc sau, lực ma sát có xu hướng làm giảm lực ép, nên các guốc
này được gọi là guốc tự tách. Hiện tượng tự siết, tự tách này là một đặc điểm đặc
trưng của cơ cấu phanh trống- guốc.
Sơ đồ hình 2.3a có cơ cấu ép bằng cơ khí, dạng cam đối xứng. Vì thế độ dịch
chuyển của các guốc luôn luôn bằng nhau. Và bởi vậy áp lực tác dụng lên các guốc
và mômen phanh do chúng tạo ra có giá trị như nhau:
N1 = N2 = N và Mp1 = Mp2 = Mp
Do hiện tượng tự siết nên khi N 1 = N2 thì P1< P2. Đây là cơ cấu vừa thuận
nghịch vừa cân bằng. Nó thường được sử dụng với dẫn động khí nén nên thích hợp
cho các ôtô tải và khách cỡ trung bình và lớn.
Sơ đồ trên hình 2.3b dùng cơ cấu ép thủy lực, nên lực dẫn động của hai guốc
bằng nhau P1 = P2 = P. Tuy vậy do hiện tượng tự siết nên áp lực N 1 > N2 và Mp1 >
Mp2. Cũng do N1 > N2 nên áp suất trên bề mặt má phanh của guốc trước lớn hơn
guốc sau, làm cho các guốc mòn không đều. Để khắc phục hiện tượng đó, ở một số
kết cấu đôi khi người ta làm má phanh của guốc tự siết dài hơn hoặc dùng xylanh ép
có đường kính làm việc khác nhau: Phía trước tự siết có đường kính nhỏ hơn.
Cơ cấu phanh loại này là cơ cấu phanh thuận nghịch nhưng không cân bằng.
Nó thường sử dụng trên các ôtô tải cở nhỏ và vừa hoặc các bánh sau của ôtô du lịch.
Về mặt hiệu quả phanh, nếu thừa nhận hệ số hiệu quả của sơ đồ hình 2.3a:
Khq = Mp/(P1+ P2).rt = 100%, thì hệ số hiệu quả của cơ cấu phanh dùng cơ
cấu ép thủy lực hình 2.3b sẽ là 116% 122%, khi có cùng kích thước chính và hệ số
ma sát giữa má phanh và trống phanh: f = 0,30 0,33.
Để tăng hiệu quả phanh theo chiều tiến của xe, người ta dùng cơ cấu phanh với
hai xylanh làm việc riêng rẽ. Mỗi guốc phanh quay quanh một điểm cố định bố trí
khác phía, sao cho khi xe chạy tiến thì cả hai guốc đều tự siết (hình.2.3c). Hiệu quả
phanh trong trường hợp này có thể tăng được 1,6 1,8 lần so với cách bố trí bình
thường. Tuy nhiên khi xe chạy lùi hiệu quả phanh sẽ thấp, tức là cơ cấu phanh
không có tính thuận nghịch.
Cơ cấu phanh loại này kết hợp với kiểu bình thường đặt ở các bánh sau, cho
phép dễ dàng nhận được quan hệ phân phối lực phanh cần thiết P pt > Pps trong khi
nhiều chi tiết của các phanh trước và sau có cùng kích thước. Vì thế nó thường được
sử dụng ở cầu trước các ôtô du lịch và tải nhỏ.
Để nhận được hiệu quả phanh cao cả khi chuyển động tiến và lùi, người ta
dùng cơ cấu phanh thuận nghịch và cân bằng loại bơi như trên hình 2.3d. Các guốc
phanh của sơ đồ này có hai bậc tự do và không có điểm quay cố định. Cơ cấu ép
gồm hai xylanh làm việc tác dụng đồng thời lên đầu trên và dưới của các guốc
phanh. Với kết cấu như vậy cả hai guốc phanh đều tự siết dù cho trống phanh quay
theo chiều nào. Tuy nhiên nó có nhược điểm là kết cấu phức tạp.
Để nâng cao hiệu quả phanh cao hơn nữa, người ta còn dùng các cơ cấu phanh
tự cường hóa. Tức là các cơ cấu phanh mà kết cấu của nó cho phép lợi dụng lực ma
sát giữa một má phanh và trống phanh để cường hóa - tăng lực ép, tăng hiệu quả
phanh cho má kia.
Các cơ cấu phanh tự cường hóa mặc dù có hiệu quả phanh cao, hệ số có thể
đạt đến 360% so với cơ cấu phanh bình thường dùng cam ép. Nhưng mômen phanh
kém ổn định, kết cấu phức tạp, tính cân bằng kém và làm việc không êm nên ít được
sử dụng. Xu hướng hiện nay là: Sử dụng cơ cấu phanh loại bình thường với các
guốc có điểm quay cố định, cùng phía. Trường hợp cần thiết thì dùng thêm các bộ
trợ lực để tăng lực dẫn động và tăng hiệu quả phanh.
R’ R’
V C C
P P
a
2f B B
N 2f
N
R R R R
X Z X Z
a) b)
.
Hình 2.5. Sơ đồ nguyên lý của phanh đĩa:
Phanh đĩa có một loạt các ưu điểm so với cơ cấu phanh trống guốc như sau:
Áp suất phân bố đều trên bề mặt má phanh, do đó má phanh mòn đều và ít
phải điều chỉnh.
- Bảo dưỡng đơn giản do không phải điều chỉnh khe hở.
- Có khả năng làm việc với khe hở nhỏ (0,050,15)mm nên rất nhạy, giảm
được thời gian chậm tác dụng và cho phép tăng tỷ số truyền dẫn động.
- Lực ép tác dụng theo chiều trục và tự cân bằng, nên cho phép tăng giá trị của
chúng để tăng hiệu quả phanh cần thiết mà không bị giới hạn bởi điều kiện biến
dạng của kết cấu. Vì thế phanh đĩa có kết cấu nhỏ gọn và dễ bố trí trong bánh xe.
- Hiệu quả phanh không phụ thuộc chiều quay và ổn định hơn.
- Điều kiện làm mát tốt hơn, nhất là đối với dạng đĩa quay.
Tuy vậy phanh đĩa còn có một số nhược điểm hạn chế sự sử dụng của nó là:
- Nhạy cảm với bụi bẩn và khó làm kín.
- Các đĩa phanh loại hở dễ bị ôxy hóa, bị bẩn làm các má phanh mòn nhanh.
- Áp suất làm việc cao nên các má phanh dễ bị nứt xước.
- Thường phải sử dụng các bộ trợ lực chân không để tăng lực dẫn động, nên
khi động cơ không làm việc, hiệu quả phanh dẫn động thấp và khó sử dụng chúng
để kết hợp làm phanh dừng.
Thường sử dung nhất là sơ đồ phân dòng theo các cầu (H 2.6). Đây là sơ đồ
phân dòng đơn giản nhất nhưng hiệu quả sẽ giảm nhiều khi hỏng dòng phanh cầu
trước.
Khi dùng các sơ đồ b, c và d hiệu quả phanh giảm ít hơn, hiệu quả phanh đảm
bảo không thấp hơn 50% khi hỏng một dòng nào đó. Tuy vậy khi dùng sơ đồ b và d,
lực phanh sẽ không đối xứng, làm giảm tính ổn định khi phanh nếu một trong hai
dòng bị hỏng. Điều này cần phải tính đến khi thiết kế hệ thống lái ( dùng cánh tay
đòn âm).
Sơ đồ e là sơ đồ hoàn thiện nhất nhưng củng phức tạp nhất.
Để đảm bảo những yêu cầu chung đặt ra đối với hệ thống phanh, dẫn động
phanh phải đảm bảo những yêu cầu cụ thể sau:
- Đảm bảo sự tỷ lệ giữa mô men phanh sinh ra với lực tác dung lên bàn đạp và
hành trình của nó.
- Thời gian chậm tác dụng khi phanh không được vượt quá 0,6 s, khi nhả
phanh không được lớn hơn 1,2 s.
- Phải có ít nhất hai dòng độc lập và khi một dòng hỏng, hiệu quả phanh phải
còn tối thiểu là 50%.
-Khi kéo moóc, nếu moóc bị tuột khỏi xe kéo thì phải được tự động phanh lại.
a) b) c)
d) e)
Khi người lái tác dụng trên bàn đạp phanh 6, piston 4 trong xylanh chính 5 sẽ
dịch chuyển, áp suất trong khoang A tăng lên đẩy piston 3 dịch chuyển sang trái. Do
đó áp suất trong khoang B cũng tăng theo. Chất lỏng bị ép đồng thời theo các ống
dẫn 2 và 8 đi đến các xylanh bánh xe 1 và 7 để thực hiện quá trình phanh.
1
2
3
B
A
5
4
Hình 2.7. Dẫn động phanh thuỷ lực tác động trực tiếp.
8
6
7
1, 7- Xylanh bánh xe; 3, 4- Piston trong xylanh chính; 2, 8- Đường ống dẫn dầu đến
xy lanh bánh xe; 5- Xy lanh chính; 6- Bàn đạp phanh.
Dẫn động tác động gián tiếp:
Bộ trợ lực chân không là bộ phận cho phép lợi dụng độ chân không trong
đường nạp của động cơ để tạo lực phụ cho người lái. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả
trợ lực, kích thước của các bộ trợ lực chân không thường phải lớn hơn và chỉ thích
hợp với các xe có động cơ xăng cao tốc.
Hiện nay, bộ trợ lực chân không có nhiều dạng và sơ đồ kết cấu khác nhau.
Tuy vậy tất cả chúng đều có chung một nguyên lý làm việc và luôn luôn phải có ba
phần tử kết cấu chính là:
- Buồng hay xylanh sinh lực: Để tạo lực tác dụng lên dẫn động.
- Cơ cấu tỷ lệ: Để đảm bảo quan hệ tỷ lệ thuận giữa lực tác dụng lên bàn đạp,
hành trình bàn đạp và lực phanh.
- Các van chân không và không khí.
8 9 10 11 12
Sc
Sd
1
Pc
Pc
6
2
7 Sc
A B
Phd
3
Sp
5 2 Pb 4
Hình 2. 8. Dẫn động phanh thủy lực trợ lực chân không:
1,3-Đường dẩn dầu phanh đêdns xy lanh bánh xe; 2- Xy lanh chính; 4- Đường
nạp động cơ; 5, 9- Van chan không; 6- Loc; 7- Bàn đạp; 8- Cần đẩy; 10- Vòng cao
su của cơ cấu tỷ lệ; 11- Màng(hoặc piston trợ lực); 12- Bầu trợ lực chân không;
Tùy thuộc cách bố trí và lắp đặt cơcấu tỷ lệ, buồng sinh lực và xy lanh chính,
các bộ trợ lực chân không có thể chia thành ba nhóm chính:
- Nhóm 1: Các bộ trợ lực mà cơ cấu tỷ lệ có dạng đòn và không có liên hệ trực
tiếp với hệ thống thủy lực dẫn động phanh.
- Nhóm 2: Các bộ trợ lực có buồng sinh lực, cơ cấu tỷ lệ và xylanh chính bố
trí riêng rẽ.
- Nhóm 3: Các bộ trợ lực có buồng sinh lực, cơ cấu tỷ lệ và xylanh chính bố
trí đồng trục chung trong một kết cấu.
Nguyên lý làm việc:
- Bầu trợ lực chân không 12 có hai khoang A và B được phân cách bởi piston
(hoặc màng)11. Van chân không 5, làm nhiệm vụ nối thông hai khoang A và B khi
nhả phanh và cắt đường thông giữa chúng khi đạp phanh. Van không khí 9, làm
nhiệm vụ cắt đường thông của khoang A với khí quyển khi nhả phanh và mở đường
thông của khoang A khi đạp phanh. Vòng cao su 10 là cơ cấu tỷ lệ làm nhiệm vụ
đảm bảo sự tỷ lệ giữa lực đạp và lực phanh.
- Khoang B của bầu trợ lực luôn luôn được nối với đường nạp động cơ 4 qua
van một chiều, vì thế thường xuyên có áp suất chân không. Khi nhả phanh van chân
không 5 mở, do đó khoang A sẽ thông với khoang B qua van này và có cùng áp suất
chân không. Khi phanh người lái tác dụng lên bàn đạp đẩy cần 8 dịch chuyển sang
phải làm van chân không 5 đóng lại, cắt đường thông hai khoang A và B, còn van
không khí 9 mở ra cho không khí qua phần tử lọc 6 đi vào khoang A. Độ chênh lệch
áp suất giữa hai khoang A và B sẽ tạo nên một áp lực tác dụng lên piston (màng)
của bầu trợ lực và qua đó tạo nên một lực phụ hổ trợ cùng người lái tác dụng lên các
piston trong xylanh chính 2, ép dầu theo các ống dẫn (dòng 1 và 3) đi đến các
xylanh bánh xe để thực hiện quá trình phanh. Khi lực tác dụng lên piston 11 tăng thì
biến dạng của vòng cao su 10 cũng tăng theo làm cho piston hơi dịch về phía trước
so với cần 8, làm cho van không khí 9 đóng lại, giữ cho độ chênh áp không đổi, tức
là lực trợ lực không đổi. Muốn tăng lực phanh, người lái phải tiếp tục đạp mạnh
hơn, cần 8 lại dịch chuyển sang phải làm van không khí 9 mở ra cho không khí đi
thêm vào khoang A. Độ chênh áp tăng lên, vòng cao su 10 biến dạng nhiều hơn làm
piston hơi dịch về phía trước so với cần 8, làm cho van không khí đóng lại đảm bảo
cho độ chênh áp hay lực trợ lực không đổi và tỷ lệ với lực đạp. Khi lực phanh đạt
cực đại thì van không khí mở ra hoàn toàn và độ chênh áp hay lực trợ lực cũng đạt
giá trị cực đại.
- Bộ trợ lực chân không có hiệu quả thấp, nên thường được sử dụng trên các ô
tô du lịch và tải nhỏ.
Dẫn động thủy lực trợ lực khí nén:
Bộ trợ lực khí nén là bộ phận cho phép lợi dụng khí nén để tạo lực phụ,
thường được lắp song song với xylanh chính, tác dụng lên dẫn động hỗ trợ cho
người lái. Bộ trợ lực phanh loại khí nén có hiệu quả trợ lực cao, độ nhạy cao, tạo lực
phanh lớn cho nên được dùng nhiều ở ô tô tải.
9
1
5
0 6 7
A
8
2
1
3 4
Hình 2.9. Dẫn động phanh thuỷ lực trợ lực khí nén.
1- Bàn đạp; 2- Đòn bẩy; 3- Cụm van khí nén; 4- Bình chứa khí nén; 5- Xi lanh
lực; 6- Xi lanh chính; 7,9- Đường ống dẫn dầu đến các xi lanh bánh xe; 8,10- Xi
lanh bánh xe.
Bộ trợ lực gồm cụm van khí nén 3 nối với bình chứa khí nén 4 và xi lanh lực
5. Trong cụm van 3 có các bộ phận sau:
- Cơ cấu tỷ lệ: Đảm bảo sự tỷ lệ giữa lực đạp và lực phanh.
- Van nạp: Cho khí nén từ bình chứa đi vào khi đạp phanh.
- Van xả: Cho khí nén trong dòng dẫn động thoát ra ngoài khí quyển khi nhả
phanh.
Nguyên lý làm việc: Khi tác dụng lên bàn đạp 1, qua đòn 2, lực sẽ truyền
đồng thời lên các cần của xi lanh chính 6 và của cụm van 3. Van 3 dịch chuyển mở
đường nối khoang A của xilanh lực với bình chứa khí nén 4. Khí nén từ bình chứa 4
sẽ đi vào khoang A tác dụng lên piston của xi lanh trợ lực, hỗ trợ cho người lái ép
các piston trong xi lanh chính 6 dịch chuyển, đưa dầu đến các xi lanh bánh xe. Khi
đi vào khoang A, khí nén đồng thời đi vào khoang phía sau piston của van 3, ép lò
xo lại, làm van dịch chuyển lùi sang trái. Khi lực khí nén cân bằng với lực lò xo thì
van dừng lại ở vị trí cân bằng mới, đồng thời đóng luôn đường khí nén từ bình chứa
đến khoang A duy trí một áp suất không đổi trong hệ thống, tương ứng với lực tác
dụng và dịch chuyển của bàn đạp. Nếu muốn tăng áp suất lên nữa thì phải tăng lực
đạp để đẩy van sang phải, mở đường cho khí nén tiếp tục đi vào. Như vậy cụm van
3 đảm bảo được sự tỷ lệ giữa lực tác dụng, chuyển vị của bàn đạp và lực phanh.
Dẫn động thủy lực trợ lực dùng bơm và các bộ tích năng:
Bơm thủy lực: Là nguồn cung cấp chất lỏng cao áp cho dẫn động. Trong dẫn
động phanh chỉ dùng loại bơm thể tích, như bánh răng, cánh gạt, piston hướng trục.
Bơm thủy lực cho tăng áp suất làm việc, cho phép tăng độ nhạy, giảm kích thước và
khối lượng của hệ thống. Nhưng đồng thời, yêu cầu về làm kín về chất lượng đường
ống cũng cao hơn.
Bộ tích năng thủy lực: Để đảm bảo áp suất làm việc cần thiết của hệ thống
trong trường hợp lưu lượng tăng nhanh ở chế độ phanh ngặt. Bên cạnh bơm thủy
lực cần phải có các bộ tích năng, có nhiệm vụ tích trữ năng lượng khi hệ thống
không làm việc và giải phóng nó, cung cấp chất lỏng cao áp cho hệ thống khi cần
thiết.
Trên các ô tô tải trọng cực lớn thường sử dụng dẫn động thủy lực với bơm và
các bộ tích năng 3 và 4 là hai khoang của van phanh được điều khiển từ xa nhờ dẫn
động thủy lực hai dòng với xilanh chính 2.
2
3 4
1
6 5
9 7
8 10
11
Hình 2.10. Dẫn động phanh thủy lực dùng bơm và các tích năng.
1 - Bàn đạp; 2- Xi lanh chính; 3,4- Van phanh; 5,6- Xi lanh bánh xe; 7- Bộ
tích năng; 8- Bộ điều chỉnh áp suất tự động kiểu rơle; 9- Bơm tích năng; 10- Van an
toàn; 11- Bơm.
Nguyên lý làm việc: Khi tác dụng lên bàn đạp 1, dầu tác dụng lên các van 3
và 4, mở đường cho chất lỏng từ các bộ tích năng 7 và 9, đi đến các xi lanh bánh xe
5 và 6. Lực đạp càng lớn, áp suất trong các xi lanh 5 và 6 càng cao. Bộ điều chỉnh
tự động áp suất kiểu rơle 8 dùng để giảm tải cho bơm 11 khi áp suất trong các bình
tích năng 7 và 9 đã đạt giá trị giới hạn trên, van an toàn 10 có tác dụng bảo vệ cho
hệ thống khỏi bị quá tải.
dòng khí nén để tạo ra mômen phanh ở các cơ cấu phanh bánh xe. Lực đạp phanh
của người lái ở đây đóng vai trò lực điều khiển để đóng mở van phân phối khí nén
chính của hệ thống. Do đó, lực đạp phanh có thể không lớn nhưng vẫn tạo được
momen phanh lớn trên các bánh xe. Vì vậy, hệ thống phanh loại này thường được
sử dụng trên các ô tô có khối lượng lớn.
Các hệ thống phanh khí nén thông thường có áp suất khí nén nhỏ hơn
0,8MN/m2, còn gọi là hệ thống phanh khí nén có áp suất thấp. Ngày nay còn sử
dụng hệ thống phanh khí nén áp suất cao, có áp suất khí nén cho phép lên tới
1,3MN/m2. Sử dụng hệ thống phanh có áp suất công tác cao sẽ làm tăng hiệu quả
phanh, giảm thời gian chậm tác dụng phanh và giảm được kích thước chung của các
cụm chi tiết, tuy nhiên yêu cầu an toàn kỹ thuật phải nâng cao rất nhiều.
Các thành phần chính của dẫn động phanh khí nén gồm có: Máy nén khí để
cung cấp nguồn khí nén, các bình chứa khí nén để dự trữ và ổn định áp suất công
tác trong hệ thống, van phân phối chính, van an toàn và các van khác. Ngoài ra, do
thường sử dụng trên các ô tô vận tải nên trong dẫn động phanh khí nén còn có các
cụm van để điều khiển và dẫn động phanh ra rơ moóc.
a. Ưu nhược điểm:
Dẫn động khí nén có các ưu điểm quan trọng là:
- Điều khiển nhẹ nhàng, lực điều khiển nhỏ.
- Làm việc tin cậy hơn dẫn động thủy lực (khi có rò rỉ nhỏ, hệ thống vẫn có thể
làm việc dược, tuy hiệu quả phanh giảm).
- Dễ phối hợp với các dẫn động và cơ cấu sử dụng khí nén khác nhau, như:
phanh rơ moóc, đóng mở cửa xe, hệ thống treo khí nén,....
Dễ cơ khí hóa, tự động hóa quá trình điều khiển dẫn động.
Tuy vậy dẫn động khí nén cũng có các nhược điểm là:
- Độ nhạy thấp, thời gian chậm tác dụng lớn.
- Do bị hạn chế bởi điều kiện rò rỉ, áp suất làm việc của khí nén thấp hơn của
chất lỏng trong dẫn động thủy lực tới 1015 lần. Nên kích thước và khối lượng của
dẫn động lớn.
1 23 4
5 6
10
9
7
8
- Khi nhả phanh: Các chi tiết trở về trạng thái ban đầu dưới tác dụng của các
lò xo hồi vị.
- Trong trường hợp xe kéo moóc, dẫn động phanh rơ moóc có thể thực hiện
theo sơ đồ một đường hoặc hai đường.
11 12 16
13
17
18 14 15
11,16- Các bình chứa khí nén; 12- Các van cắt , nối đường ống; 13- Các đầu nối
ống giữa xe kéo và rơmoóc; 14- Đường nối giữa xe kéo và rơmoóc trong dẫn động
một đường; 15- Van phân phối phanh rơmoóc; 17- Các bầu phanh rơ moóc; 18-
Van điều khiển phanh rơmoóc.
Nguyên lý làm việc:
- Xe kéo và rơ moóc được nối với nhau bằng một đường ống (14). Đường này
vừa là đường cung cấp vừa là đường điều khiển.
- Ở trạng thái nhả phanh: Không khí nén sẽ từ bình 11 của xe kéo, qua van
điều khiển phanh rơ moóc 18, van cắt nối 12, đầu nối 13, rồi theo đường nối 14 qua
van phân phối khí rơmoóc 15 đi vào bình chứa khí 16 của rơmoóc.
- Khi phanh: Người lái tác dụng lên bàn đạp phanh, dẫn động phanh xe kéo sẽ
làm việc như đã mô tả trên. Đồng thời, không khí nén từ tổng van phân phối đi đến
van 18, điều khiển nó cắt đường nối từ bình chứa11 với đường ống 14, và nối thông
đường ống 14 với khí quyển. Không khí nén trong đường ống 14 thoát ra ngoài,
dưới tác dụng của độ chênh áp giữa bình chứa 16 và đường ống 14, van phân phối
rơmoóc 15 sẽ làm việc, đóng đường thông giữa các bầu phanh của rơmoóc với khí
quyển và mở đường cho khí nén từ bình chứa 16 đi đến các bầu phanh của rơmoóc
- Khi nhả phanh: Các chi tiết trở về trạng thái ban đầu dưới tác dụng của các
lò xo hồi vị.
- Quá trình phanh ứng với quá trình giảm áp suất trong đường ống nối giữa xe
kéo và rơmoóc (xả khí nén ra ngoài).
- Trong trường hợp rơmoóc bị tuột khỏi xe kéo, thì khí nén từ đường nối 14
cũng bị xả ra ngoài tương tự như khi người lái đạp phanh. Nhờ đó rơmoóc sẽ được
tự động phanh lại, đảm bảo tránh các sự cố giao thông nguy hiểm.
- Khi phanh, bình chứa của rơmoóc không được cung cấp khí nén.
11 12 13 16
17
15
21 19 20
- Xe kéo và rơmoóc được nối với nhau bằng hai đường ống. Một đường là
đường cung cấp 20 và một đường là đường điều khiển 19.
- Qua đường cung cấp, khí nén từ bình chứa 11 của xe kéo thường xuyên được
nạp vào bình chứa 16 của rơmoóc.
- Ở trạng thái nhả phanh: đường điều khiển 19 được nối với khí quyển qua van
điều khiển 21.
- Khi phanh: Người lái tác dụng lên bàn đạp phanh, dẫn động phanh xe kéo sẽ
làm việc như đã mô tả trên. Đồng thời, không khí nén sẽ từ tổng van phân phối đi
đến van 12, điều khiển nó cắt đường nối giữa đường ống 19 với khí quyển và cho
khí nén đi vào 19. Lúc này, do độ chênh áp giữa đường cung cấp 20 và đường điều
khiển 19 thay đổi, van phân phối 15 của rơmoóc sẽ làm việc, đóng đường thông các
bầu phanh của rơmoóc với khí quyển và mở đường cho khí nén từ bình chứa 16 đi
đến các bầu phanh của rơmoóc để phanh rơ moóc lại.
- Khi nhả phanh: Các chi tiết trở về trạng thái ban đầu dưới tác dụng của các lò
xo hồi vị.
Dẫn động liên hợp thủy khí được sử dụng rộng rãi trên các ô tô và đoàn xe kéo
moóc tải trọng lớn và đặc biệt lớn (như các ô tô URAL- 375, MAZ-7310 ...)
Dẫn động liên hợp điện khí nén là loại dẫn động triển vọng nhất sử dụng cho
các đoàn xe kéo moóc.
Trong các dẫn động này, chức năng điều khiển được thực hiện bởi phần điện
có độ nhạy cao, còn chức năng sinh lực do phần khí nén đảm nhận.
Trong những năm gần đây trên các ô tô và đoàn xe kéo moóc, sử dụng rộng rãi
các bộ vi xử lý để thực hiện các thao tác tính toán và xử lý khác nhau. Sử dụng các
bộ vi xử lý như vậy trong dẫn động điện khí nén cho phép tạo được các dẫn động có
độ nhạy, tính đồng bộ và chính xác rất cao.
Hệ thống phanh phụ được sử dụng ngày càng rộng rãi, chủ yếu trên ô tô hành
khách và ô tô tải có tải trọng trung bình và lớn.
Ô tô HYUNDAI-HD370 được sản xuất tại Hàn Quốc vào năm 1999. Đây là
loại ô tô tải, có thùng hàng tự đổ. Nó có nhiều ưu điểm và được đưa vào sử dụng
rộng rãi. Các đặc tính kỹ thuật của xe, thiết bị an toàn khi chạy xe, thao tác vận
hành đảm bảo được yêu cầu cao về vận tải ô tô trên thế giới. Ô tô HYUNDAI-
HD370 trên là loại ô tô có 4 cầu, hai cầu trước dẫn hướng, hai cầu sau chủ động,
công thức bánh xe là 8x4, tải trọng của xe là 23000 kg.
1280
3150
2098
1700 2900 1300 2495
8645
1850
1850
2098
2300
2098
Dài 5300 mm
Thùng xe
Rộng 2300 mm
4
Cao 1280 mm
Chiều rộng cơ sở
5 Bánh sau Bs 1850 mm
Bánh trước Bt 2098 mm
6 Tự trọng Go 14635 KG
7 Tải trọng Gt 23000 KG
8 Trọng lượng toàn bộ Ga 37635 KG
- Động cơ diesel 4 kỳ, dùng xuppap treo bố trí trên 2 hàng thành góc 900
- Số lượng xi lanh: 8
- Thân xi lanh làm bằng gang, có các ống lót ướt để tháo, ngoài ống lót còn có
các áo nước để làm mát.
- Nắp xi lanh: có hai nắp bố trí hình chữ V theo thân động cơ, làm bằng hợp
kim nhôm.
- Piston: trên đỉnh piston có khoét lõm để tạo buồng cháy dạng , trên thân
piston có bố trí 4 sec măng trong đó 3 sec măng khí và 1 sec măng dầu.
- Trục khuỷu: được chế tạo bằng thép, có 5 gối đở cổ trục. Trên trục khuỷu
có bố trí các đối trọng. Trong trục khuỷu có chứa các đường dầu bôi trơn để dẩn dầu
đi bôi trơn các khuỷu và cổ trục khuỷu.
- Thanh truyền:Làm bằng thép, tiết diện ngang có dạng chử I. Trong thân
thanh truyền có đường dầu để dẫn dầu từ cổ khuỷu đi lên bôi trơn chốt khuỷu. Đầu
nhỏ thanh truyền có bạc lót bằng đồng thanh.
- Bánh đà có dạng hình chậu, vật liệu chế tạo bằng gang. Trên bánh đà có
vành răng bằng thép để truyền động từ bộ khởi động sang động cơ để khởi động
động cơ.
Bơm dầu: Dùng bơm bánh răng, được dẫn động từ trục cam động cơ
Bầu lọc: Dùng bầu lọc li tâm hoàn toàn, bầu lọc được lắp nối tiếp với mạch
dầu từ bơm dầu bơm lên. Do đó toàn bộ dầu nhờn do bơm dầu cung cấp đều đi qua
bầu lọc. Một phần dầu nhờn phun qua lổ phun làm quay rôto của bầu lọc rồi về lại
cacte còn phần lớn dầu nhờn được lọc sạch rồi đi theo đường dầu chính để đi bôi
trơn và làm mát các bề mặt ma sát .
Bộ tản nhiệt: Để làm mát dầu nhờn sau khi dầu nhờn đi bôi trơn và làm mát
các bề mặt ma sát. Bộ tản nhiệt dạng ống, làm mát bằng không khí được lắp trước
bộ tản nhiệt dùng nước. Dầu sau khi được làm mát được trở lại cacte động cơ.
3.2.3.1. Ly hợp:
Ly hợp loại một đĩa ma sát khô, có bộ triệt tiêu dao động xoắn kiểu đàn hồi
bằng 4 lò xo trụ bố trí xung quanh đĩa.
Đĩa ma sát có đường kính trong là 250mm và đường kính ngoài 430mm
Đĩa ép làm bằng gang, có 12 lò xo trụ bố trí xung quanh để ép đĩa tỳ sát vào
đĩa ma sát.
Có 4 càng mở ly hợpdẫn động thủy lực được trợ lực bằng khí nén.
3.2.3.2. Hộp số:
Trên xe HYUNDAI-HD370 người ta lắp hộp số chính và hộp số phụ dẫn
động bằng cơ khí.
Hộp số chính có 5 cấp số, 2 đồng tốc và một số lùi, hộp số phụ có 2 cấp số, một cấp
chậm và một cấp nhanh. Như vậy tỷ số truyền cấp chậm của hộp số có 5 số, với số 5
là số truyền thẳng; Tỷ số truyền cấp nhanh của hộp số có 5 số với số 5 là số truyền
tăng; Tỷ số truyền số lùi của hộp số có 2 số, một số chậm và một số nhanh. Việc sử
dụng số truyền tăng sẽ làm tăng tính kinh tế và tính chất động lực của ôtô.
Sử dụng các bộ đồng tốc trong hộp số làm cho việc chuyển số được dể dàng
và êm diu. Đồng tốc làm việc theo nguyên lí ma sát.
- Hệ thống treo sau: Gồm có nhíp chính không có nhíp phụ, hệ thống treo
loại cân bằng, các lá nhíp ở phần treo sau có hai đầu trượt tự do. Nhíp có 11 lá, nhíp
được bắt chặt vào dầm cầu sau bằng bulông chử U.
Chiều dài của lá nhíp dài nhất: 1300 (mm)
18 (mm) có 8 lá nhíp
Cơ cấu lái trên ôtô HYUNDAI-HD370 là loại liên hợp: Trục vít- êcu bi -thanh
răng - cung răng, có bộ trợ lực lái bằng thuỷ lực. Dẫn động hệ thống lái thông qua
trục lái, khớp cácđăng và các khâu khớp trong hình thang lái, cơ cấu lái và trợ lực
lái được bố trí chung thành một cụm, cơ cấu lái được bắt chặt vào khung xe và nối
với trục lái bằng khớp các đăng. Bơm dầu trợ lực lái là bơm cánh gạt tác dụng
kép ,số cánh gạt là 10 cánh, trên thân bơm có bố trí van an toàn.
Hình thang lái được bố trí phía sau cầu trước.
- Phanh chính: Có công dụng để giảm bớt tốc độ chuyển động của ôtô hoặc
dừng hẳn ôtô. Phanh này cho phép dừng hẳn ôtô một cách nhanh chóng và đáng tin
cậy mà không phụ thuộc vào điều kiện chuyển động, tốc độ và tải trọng. Cơ cấu
phanh trong hệ thống phanh chính lắp trên cả 12 bánh xe ôtô. Dẫn động hệ thống
phanh chính là loại dẫn động khí nén hai dòng.
- Phanh dự trữ sử dụng loại bầu phanh với lò xo tích năng: Có công dụng
để giảm bớt tốc độ từ từ hoặc dừng hẳn ôtô đang chuyển động trong trường hợp
toàn bộ hoặc một phần hệ thống phanh chính bị hỏng.
- Phanh dừng: Đảm bảo cho ôtô đứng yên so với mặt đường khi ôtô đứng
trên dốc hoặc khi không có người lái. Hệ thống phanh dừng được chế tạo liền với
phanh dự phòng.
- Phanh chậm dần: Có công dụng giảm bớt tải và nhiệt độ của cơ cấu phanh
chính. Khi mở để hệ thống này làm việc, tiết diện đường ống xả của động cơ sẽ thu
nhỏ lại và nhiên liệu bị đóng giảm dần để giảm công suất động cơ.
- Ngoài ra trên ô tô HYUN DAI-HD370 còn trang bị cơ cấu dẫn động phanh
cơ khí, dùng để nhả phanh của lò xo tích năng khi các lò xo này tự động tác động
lên cơ cấu phanh để phanh các bánh xe do bị rò rỉ khí nén trên đường ống.
- Hệ thống tín hiệu sự cố và kiểm tra gồm có hai phần:
+ Tín hiệu ánh sáng và âm thanh: Các công tắc kiểu điện từ khí nén được bố
trí ở các điểm khác nhau trên đường khí nén, khi bất kỳ dòng khí của hệ thống
phanh nào tác động các công tắc này sẽ làm kín mạch hệ thống đèn phanh ở đằng
sau. Các công tắc điện, hơi bắt ở trong các bình khí nén là dạng công tắc thường
đóng, khi chưa đủ áp lực, khí nén chưa ngắt mạch đèn lắp trên bảng đồng hồ ở trong
cabin và mạch tín hiệu mạch đèn sẽ sáng và còi sẽ kêu.
+ Các van nằm ở các đầu kiểm tra, nhờ nó mà chúng ta có thể chẩn đoán
được tình trạng kỹ thuật của đường dẫn động và khi cần có thể trích lấy khí nén.
10
11 12 9 9
8 8
16
17 17 18 18
14
6
3 5 15
13
1 20
6
2 7
19 19
8 8
9 9
Hình 4.1. Sơ đồ dẫn động hệ thống phanh khí nén lắp trên xe HYUNDAI-
HD370.
1.Bàn đạp phanh; 2. Tổng van phân phối khí nén hai khoang; 3. Van điều
khiển phanh dừng; 4. Van cấp nhanh khí nén; 5. Van xả cặn; 6. Van cấp và xã
nhanh; 7. Van điệntừ; 8. Các bầu phanh trước; 9. Các bầu phanh sau và bầu tích
năng; 10. Máy nén khí; 11. Bộ lắng lọc và tách ẩm; 12. Bình xả; 13. Van an toàn;
14. Áp kế không khí; 15. Van bảo vệ bốn ngã; 16. Bình chứa khí nén; 17. Bình chứa
khí nén cung cấp cho các bầu phanh trước; 18. Bình chứa khí nén cung cấp cho các
bầu phanh sau và bầu tích năng; 19. Van đóng đường xã động cơ; 20. Đường khí
nén dùng phụ trơ các việc khác.
4.2.2. Cấu tạo và nguyên lý làm việc của hệ thống phanh xe HYUNDAI-
HD370:
4.2.2.1. Cấu tạo của hệ thống phanh xe HYUN DAI-HD370:
Hệ thống phanh HYUNDAI-HD370 có bốn đường dẫn động phanh riêng
biệt. Trong bốn đường phanh của hệ thống phanh có các bộ phận chung, là: Máy
nén khí 10, bộ lắng lọc và tách ẩm 11, bình xả 12, van an toàn 13, đồng hồ báo áp
suất 14, van bảo vệ bốn ngả 15, các ống dẫn và nối giữa các cơ cấu phanh.
việc nên dòng khí nén chưa thông được qua van này để vào các đường ống nối ở
phía sau tổng van, lúc này các van 6a và van 4 ở tư thế đóng kín, không nối thông
đường hơi có áp lực hơi với đường thông để đi đến các bầu phanh.
- Khi phanh:
Người lái tác dụng lên bàn đạp phanh ấn bàn đạp số 1 đi xuống, tác dụng lên
tổng van phân phối hai ngăn số 2, lúc này tổng van làm việc mở đường thông cho
dòng khí nén đi qua đến các đường ống nối phía sau tổng van và hai dòng phanh
được làm việc như sau:
-Từ ngăn trên của tổng van phân phối hai ngăn số 2 đưa hơi có áp lực đến van
cấp nhanh khí nén 4, điều khiển van này mở ra, hơi được thông từ bình chứa khí
nén 18 qua ngăn trên của tổng van 2, qua van 4 theo đường ống đi đến các bầu
phanh sau 9, để phanh các bánh xe trên hai cầu chủ động phía sau.
-Từ ngăn dưới của tổng van phân phối hai ngăn số 2, đưa hơi có áp lực đến
van cấp và xả nhanh khí nén 6a, điều khiển van này mở ra, mở đường thông cho khí
nén đi từ hai bình chứa 17 đi đến các bầu phanh 8 để phanh các bánh xe trên hai cầu
dẫn hướng phía trước.
Khi phanh với cường độ nhỏ. Người lái chỉ tác dụng một lực nhẹ lên bàn đạp
lúc này bàn đạp 1 chỉ đi xuống môt phần, tỳ nhẹ lên tổng van 2, lúc này van 2 sẽ mở
ra (nhưng mở không hoàn toàn) cho một phần khí nén đang chờ phía trước đi qua
theo đường ống đi đén các bầu phanh để giảm dần vận tốc của xe.
Khi phanh với cứờng độ lớn: Lúc này người lái phải tác động một lực lớn lên
bàn đạp 1, ấn bàn đạp 1 đi xuống hoàn toàn tác động lên tổng van 2, đẩy van này đi
xuống hoàn toàn để mở cho khí nén từ trước tổng van thông qua phía sau đi đến các
bầu phanh để phanh xe lại, giảm vận tốc của xe một cách nhanh chống:
- Khi nhả phanh:
Người lái thôi tác dụng lên bàn đạp 1, bàn đạp trở về vị trí củ, thôi tác dụng
lên tổng van phân phối hai ngăn số 2, van này trở về vị trí ban đầu (trạng thái không
làm việc), do đó ngắt dòng hơi có áp lực đến van 6a và van 4 nên hai van này củng
đóng lại. Đồng thời áp lực hơi từ các bầu phanh quay trở về van 4 và xả ra khí
quyển.
b/ Phanh dự trữ và phanh dừng:
- Khi chưa phanh:
Khí nén từ bình chứa 16, theo đường ống qua van điều khiển phanh tay 3, qua
van 6b, cho khí nén theo đường ống đi đến các bầu phanh lốc kê 9, đẩy bát phanh đi
lên nén các lò xo tích năng ở ngăn trên trong bầu phanh lại (xe chuyển động).
- khi phanh:
Người lái ấn công tắc phanh tay số 3, đóng van phanh lại ngắt không cho dòng
khí nén từ bình chứa đến van 6b nên xảy ra hiện tượng sụt áp ở phần điều khiển làm
van này mở cửa thông với khí quyển đưa dòng khí có áp lực từ phần dưới bầu
phanh ra ngoài, lúc này các lò xo trong các bầu phanh không chịu nén nữa và được
trả lại, lực trả của lò xo tác dụng vào thanh đẩy làm cho thanh đẩy chuyển động
sang trái truyền đến cần dẫn động cam, làm quay cam phanh đẩy các guốc phanh
bung ra ép má phanh tỳ sát vào trống phanh ⇒ các bánh xe được phanh lại.
- khi nhả phanh:
Người lái kéo công tắc phanh tay số 3 về vị trí ban đầu, van này mở ra cho
dòng khí nén đi từ bình chứa đi đến van 6b điều khiển đóng đường thông khí nén ra
khí quyển và mở đường thông cho dòng khí nén có áp lực đi đến các bầu phanh lốc
kê 9, đẩy bát phanh đi lên nén các lò xo tích năng lại, kéo thanh đẩy chuyển động
sang trái kéo cần dẫn động cam về theo. Dưới tác dụng của lò xo hồi vị bên trong
guốc phanh, hai guốc phanh được thu về, tách má phanh ra khỏi trống phanh (xe
chuyển động).
c/ Phanh chậm dần:
- Khi chưa phanh:
Van điện từ 7 lúc này ở trạng thái đóng, khí nén từ bình chứa 16, đến van bảo
vệ bốn ngả 15, đến van điện từ 7. Tại đây dòng khí qua cửa xả trên van điện từ 7
thoát ra khí quyển.
- Khi phanh:
Người lái bật công tắc điện, điều khiển van điện từ 7 đóng cửa thông ra khí
quyển lại, đồng thời mở cửa thông cho dòng khí qua van theo đường ống đi đến tác
động vào van xả khí thải động cơ 19, làm xoay van này đóng lại hạn chế dòng khí
xả từ động cơ ra ngoài nên công suất động cơ giảm xuống. Do đó làm cho công suất
động cơ giảm xuống.
- Khi nhả phanh:
Người lái bật công tắc điện trở về vị trí ban đầu, van điện từ 7 lúc này lại đóng
lại đồng thời cửa thông ra khí quyển trên van này lại được mở ra, khí nén từ van xả
19 đi ngược trở lại và ra khí quyển theo cửa xả trên van 7, van xả khí xả động cơ 19
lại mở ra khí xả từ động cơ đựơc thải ra ngoài động cơ làm việc bình thường.
21 20 19 18 17 16 15 14 13
12
22
11
23
24 10
8
25
7
26
27
3
28
29 2
1
30
34
31
33
32
Khi trục khuỷu quay thông qua thanh truyền (8) dẫn động piston (chuyển động
tịnh tiến từ diểm chết trên đến điểm chết dưới và ngược lại.
Khi piston (9) chuyển động từ điểm chết trên đến về điểm chết dưới thì tạo ra
áp suất chân không trên đỉnh piston lúc này dưới tác dụng của lò xo (12) làm vanhút
(14) mở ra, không khí từ bên ngoài qua van hút được hút vào buồng làm việc của xy
lanh máy nén và được nạp đầy cho đến khi piston đến điểm chết dưới.
Khi piston chuyển động từ điểm chết dưới đến điểm chết trên không khí trong
buồng làm việc của xy lanh bị nén lại, áp suất trong buồng làm việc của xy lanh máy
nén tăng lên thắng lực lò xo (12) của van hút làm cho van hút (14) đóng lại, đồng
thời áp suất tăng ép lò xo (21) của van xả làm cho van xả (22) mở ra, không khí chịu
nén từ bên trong buồng làm việc của xy lanh máy nén qua van xả (22), qua đầu nối
của đường cung cấp khí nén (19) theo đường ống đi đến bộ sấy lọc và tách ẩm. Tại
đây khí nén được làm sạch, qua van một chiều lắp trên đường ống đi đến các bình
chứa khí nén. Chu trình làm việc được lặp đi lặp lại như vậy.
Quá trình nén áp suất tăng nhanh hay chậm phụ thuộc vào tốc độ vòng quay
của động cơ.
11
Không khí nén được nén từ máy nén đi vào khoang A, khi đạt được áp suất
thắng được lực lò xo 3 thì nó ép lò xo 3 lại, để mở van 7, tác động lên màng 5, nâng
nó lên và khí qua lối ra vào hai mạch chính. Sau khi mở van ngược chiều, nén khí
vào van 7, mở chúng và qua lối ra đến mạch tăng cường.
Khi độ kín bị hở, một trong các mạch chính, áp suất trong mạch này củng như
lối vào van giảm xuống. Tiếp theo là van ngược chiều của van tăng cường sẽ đóng
lại, làm cho áp suất không giảm đi trong mạch này. (giả sử: Dòng bên phải bị hỏng)
áp suất trong dòng này sẽ giảm xuống, thì lò xo 3 lúc này không chịu nén nữa, nó sẽ
trả về, tác động lên màng 5 đóng van 7 lại, cắt đường thông từ khoang A đến dẫn
động. Đảm bảo cho các dòng khác làm việc bình thường.
Sau khi hư hỏng đã được khắc phục, áp suất trong dòng vừa hỏng được tăng
lên, khi áp suất trong các dòng trở lại bằng nhau thì dưới tác dụng của áp lực hơi nó
lại tác động lên màng 5, ép lò xo 3 lại để mở van 7 ra, mở đường cho khí nén tiiếp
tục đi từ khoang A đến dòng dẫn động.
Tổng van hai ngăn dùng để điều khiển dẫn động hai dòng của ôtô đơn hoặc
của đoàn xe kéo moóc dẫn động hai đường. Nó cũng được dùng để điều khiển đồng
thời dẫn động một dòng của xe kéo và một đường của rơ moóc.
Tổng van ba ngăn được sử dụng để điều khiển phanh đoàn xe: Hai ngăn được
để điều khiển phanh hai dòng của xe kéo, ngăn thứ ba - phanh rơmoóc.
Tổng van hỗn hợp có từ hai đến bốn ngăn, trong đó có một ngăn tác dụng
nghịch để điều khiển phanh của rơ moóc dẫn động một đường.
Điều khiển tổng van có thể trực tiếp hay từ xa, có thể bằng các thanh đòn cơ
khí hay dẫn động thuỷ lực.
Bất cứ một tổng van nào cũng phải có những bộ phận chính sau:
-Van nạp: Cho khí nén từ bình chứa đi vào dẫn động khi phanh
- Van xả: Cho khí nén từ dẫn động thoát ra khí quyển khi nhả phanh.
- Cơ cấu tỷ lệ: Đảm bảo sự tỷ lệ giữa các thông số ở đầu ra (áp suất,
dịch chuyển) với tác động ở các tham số đầu vào (lực, dịch chuyển, áp suất điều
khiển).
Các van trong tổng van có thể có dạng phẳng, côn hay cầu. Có thể có một hay
hai đế van. Các đế van có thể cố định hay di động.
Cơ cấu tỷ lệ bao gồm: Phần tử đàn hồi (lò xo hay cao su) và phần tử cảm ứng
(piston hay màng).
Trên hình 5.4 là tổng van hai ngăn tác dụng thuận, bố trí nối tiếp, vẽ với trạng
thái van chưa làm việc:
34 35 36 37 38 1 2
3 4 5 6
33
7
32
8
31
9
30
10
29
11
28
12
27
A 13
II I
14
26
25 10
24 B 15
23
III
IV 16
22
17
21
19 18
20
V
van thứ hai; 18. Tấm dẫn hướng van hai; 19. Vòng chặn; 20. Tấm cao su chắn bụi;
21. Vòng làm kín; 22. Đĩa chặn lò xo; 23. Đệm cao su; 24. Lò xo hồi vị pít tông thứ
hai; 25 Vòng chặn;. 26. Lỗ thông; 27. Vòng làm kín; 28. Lò xo hồi vị van thứ nhất;
29. Đĩa chặn lò xo của van thứ nhất; 30. Lò xo hồi vị pít tong thứ nhất; 31. Phớt cao
su làm kín; Vòng làm kín; 33. Vít điều chỉnh bàn đạp phanh; 34. Đĩa chặn lò xo;
35. Đinh tán; 36. Nắp của tổng van; 37. Ống cao su dẩn hướng; 38. Vỏ bọc chốt;
Tổng van phân phối có các van hình trụ bằng kim loại và cơ cấu dạng piston.
Dẫn động điều khiển tổng van thực hiện bằng cơ khí.
Nguyên lý làm việc:
Như trên hình vẽ là vị trí van chưa hoạt động.
Ở tư thế nghĩ bàn đạp phanh 1, hai van cấp khí nén 11và 15 , hai pít tông 8 và
13 đều ở vị trí trên cùng. Lúc này hai van cấp khí nén 11và 15 tỳ lên hai đế chặn 10,
khí nén không thể đi vào hai cửa II và IV để đi đến trong hai dòng phanh trước và
sau. Khi này đế của hai pít tông 8 và 13 đều tách khỏi hai van cấp khí nén 11và 15
để nối cửa xả II và IVqua lỗ thông 26 đến cửa xả V, cho khí nén trong các bầu
phanh xả ra ngoài
Khi van hoạt động.
Trường hợp phanh cục bộ:
Ở vi trí này bàn đạp phanh 1 chỉ được nhấn xuống một phần, tỳ nhẹ lên chốt
đẩy 3, thông qua đĩa chặn lò xo 4, ép lò xo 7 lại đẩy pít tông 8 đi xuống , đế của pít
tông này tỳ lên ống lòng 9 ép lò xo kép 34 lại và van cấp khí nén thứ nhất 11 đi
xuống tách khỏi đế chặn 10. Cho khí nén từ bình chứa qua cửa thông I đến cửa II
rồi đi đến các bầu phanh sau. Đồng thời lúc này van 11 đi xuống nó sẻ tỳ lên pít
tông 13và đẩy pít tông này đi xuống thì đế của pít tông tỳ lên van 15 đẩy van này đi
xuống tách khỏi đế chặn 10, mở đường cho khí nén từ bình chứa qua cửa thông I
đến cửa II rồi đi đến các bầu phanh sau.
Hai đường cấp khí nén này mở cho đến khi khí bên trong hai ngăn A và B tác
dụng ngựơc lên pít tông 8 và 13 một lực đối kháng chóng lại lực của lò xo 7 và dưới
tác dụng lực trả của lò xo 16 và 28 đẩy van 11 và 15 đi lên tỳ sát vào đế chặn 10.
Sự cấp và thoát của chu trình phanh cục bộ bây giờ được khép lại, van phanh ở
tư thế trung gian, duy trì một áp suất nhất định trong hệ thống phanh cho chế độ
phanh cục bộ.
Trường hợp phanh khẩn cấp:
Ở vị trí này bàn đạp phanh 1 được nhấn xuống hoàn toàn ép sát lên chốt đẩy 3,
đẩy pít tông 8 và 13 đi xuống hết hành trình, mặt tỳ của pít tông 8 lúc náy ép sát lên
đế chặn 10, đẩy hai van cấp khí nén 11 và 15 đi xuống tách khỏi đế chặn 10. Lúc
này đế của pít tông 13 tỳ sát vào van cấp khí nén 15 đóng đường xả lại và hai van
11 và 15 được mở hoàn toàn.
Ở giai đoạn phanh khẩn cấp áp suất được hình thành trong hai dòng phanh
bằng với áp suất ở bình chứa.
Nếu một trong hai dòng phanh không hoạt động được dòng phanh còn lại vẫn
hoạt động bình thường.
3 4 5 6 7
A
C B
2 1
Hình 5.5. Van cấp và xả nhanh:
1. Thân van; 2. Vòng làm kín; 3. Lò xo hồi vị; 4. Đĩa lò xo; 5. Vòng đệm; 6.
Van; 7. Nắp van.
Nguyên lý làm việc:
Khi đạp phanh khí nén từ bình chứa đi đến van qua đường A, tác động lên van
6, ép lò xo 3 xuống, lúc này van 6 mở, đồng thời đóng đường thông giữa khí quyển
với các bầu phanh và cấp nhanh khí nén đến các bầu phanh qua các đường B và C
để thực hiện quá trình phanh.
Khi nhả phanh áp suất ở đầu vào giảm đi, lò xo 3 hồi vị trở lại đẩy van 6 về vị
trí ban đầu mở đường thông giữa các bầu phanh với khí quyển, thực hiện quá trình
xả nhanh khí ra ngoài.
3
10
2
5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
17
4
3 2 1 19 18
Hình 5.7. Kết cấu của bầu phanh sau và bầu tích năng.
1. Đầu nối; 2. Ổ bi tỳ; 3. Đai ốc; 4. Bu lông.; 5. Thân bầu phanh dừng; 6. Cần đẩy;
7-Vòng làm kín; 8. Pít tông ; 9. Lò xo tích năng; 10. Bu lông bắt thân; 11. Thân
giữa bầu phanh làm việc và bầu phanh dừng; 12. Màng; 13. Ổ tỳ; 14. Đĩa; 15. Lò xo
hồi vị của màng; 16. Thân bầu phanh làm việc; 17. Vòng định vị lò xo; 18. Bu lông
bắt bầu phanh vào giá; 19. Thanh đẩy.
Bầu phanh gồm có hai phần:
- Phần dưới là bầu phanh thông thường, điều khiển bằng khí nén từ hệ thống
phanh chính.
- Phần trên bầu phanh được gọi là buồng lò xo tích năng, điều khiển bằng khí
nén qua van phanh dừng.
Màng của bầu phanh được chế tạo từ cao su định hình, với một - hai lớp sợi
cốt, chiều dày màng từ (3 ÷ 6)mm. Thân và nắp bầu phanh được dập từ thép cácbon
thấp. Các lò xo được chế tạo từ thép hợp kim có thành phần cácbon cao.
Ở trạng thái nhả phanh, màng 12 chiếm vị trí trên cùng, piston 8 của bầu tích
năng dưới tác dụng của không khí nén đi vào khoang A từ van điều khiển phanh
dừng bị đẩy lên trên, ép lò xo 9 lại.
Khi phanh bằng phanh làm việc, khí nén từ tổng van phân phối, đi vào khoang
phía trên màng 12, ép thanh 19 dịch chuyển xuống dưới, tác dụng lên cơ cấu phanh.
Khi phanh bằng phanh dự trữ hay phanh dừng, khí nén từ khoang A sẽ thoát ra
ngoài qua đường thông ở tổng van điều khiển. Dưới tác dụng của lò xo 9, piston 8
lúc này tác dụng lên cần đẩy 6 và ép thanh 19 đi xuống để thực hiện quá trình
phanh.
Cụm lò xo tích năng là một bộ phận tác dụng ngược. Vì thế, nó sẽ tự động làm
việc và phanh ôtô lại, khi áp suất trong dẫn động giảm xuống hoặc khi có sự rò rỉ
khí nén. Để có thể nhả phanh cưỡng bức khi cần thiết, bầu phanh có trang bị cơ cấu
mở cơ khí gồm: Bu lông 4, đai ốc 3 và ổ tỳ 2.
5.8. CƠ CẤU PHANH:
Cơ cấu phanh được lắp trên tất cả 8 bánh của ô tô, cụm chính của cơ cấu
phanh được lắp trên giá đỡ nối cứng với bích của cầu. Cơ cấu phanh loại một bậc
tự do với cơ cấu ép bằng cam.
Các má phanh có hình dạng cong tương ứng với đặc tính mài mòn của chúng
và được lắp lên hai guốc phanh 4, các guốc phanh này tựa tự do lên các cam lệch
tâm của chốt lệch tâm 7. Trống phanh được bắt chặt lên may ơ bằng các bu lông.
Trên hình 5.8 là cơ cấu phanh lắp trên xe ô tô HYUN DAI-HD370:
9
1 23 10
11
2 12
13
22
3 14
21 15
20
152
16
4 19
145
116°
29° 18
162
17
chắn; 16. Bu lông bắt chặt mâm phanh; 17. Bu lông; 18. Giá bắt guốc phanh; 19.
Xương guốc phanh; 20. Đinh tán; 21. Lò xo hồi vị; 22. Cam ép; 23. Vòng chặn mỡ;
Khi phanh, cam ép 1 có hình chữ S sẽ doãng các guốc phanh ra và các má
phanh sẽ ép chặt vào mặt trong của trống. Giữa cam phanh và guốc phanh có lắp
con lăn 2 nhằm giảm ma sát và tăng hiệu quả phanh. Các lò xo hồi vị 3 có nhiệm vụ
trả guốc phanh về lại vị trí nhả phanh.
HD370:
Hệ thống phanh là một hệ thống đặc biệt quan trọng trên ô tô, do vậy việc tính
toán kiểm nghiệm lại hệ thống phanh là một công việc cần thiết. Nhiệm vụ đặt ra là
phải tính toán để xác định được giá trị mô men phanh yêu cầu, giá trị mô men
phanh do các guốc phanh sinh ra trong quá trình phanh ô tô; Sau đó chứng minh sự
cần thiết phải lắp bộ điều chỉnh lực phanh, tính toán sự thay đổi áp suất khí nén
trong các dòng phanh cầu trước và cầu sau, xây dựng các đường đặc tính và cuối
cùng là phần tính toán kiểm nghiệm lại cơ cấu phanh.
Ga
hg
O2 O1
Hình 6.1. Sơ đồ lực tác dụng lên ô tô (trường hợp ô tô đầy tải)
Trong đó:
Ga: Trọng lượng toàn bộ của xe.
Ga1, Ga2: Trọng lượng phân bố lên cầu trước và cầu sau của xe.
Gọi thứ tự các cầu tính từ phía đầu xe trở lùi là cầu 1, cầu 2, cầu 3, cầu 4.
Gọi chung cầu 1, cầu 2 là cầu trước và cầu 3, cầu 4 là cầu sau.
Như vậy ta có:
L1 = 1700 [mm] là khoảng cách giữa cầu 1 và cầu 2.
L= 2900 [mm] là khoảng cách giữa cầu 2 và cầu 3.
L2 = 1300 [mm] là khoảng cách giữa cầu 3 và cầu 4.
ΔL1 ΔL2 1700 1300
L= L0+ 2 + 2 = 2900 + 2 + 2 = 4400[mm]
L = là chiều dài cơ sở của xe.
ΔL1 ΔL2
(
G a2 Lo+
2
+
2 ) G a2
.L
Mà Z2 = Ga2 a = Ga = Ga
(6.1)
26316
. 4400=
a = 37635 30766 [mm]
Theo sơ đồ hình 6.1.a, ta có:
a+b = L (6.2)
b = L - a = 4400 -3,07667 = 1323,33 [mm]
Vậy ta đã tính được tọa độ trọng tâm với trường hợp xe đầy tải là:
+ a = 30766 [mm]
+ b = 1323,33 [mm]
+ hg1 = 1379 [mm]
O P
Pj
hg Ga
O2 O1
Pp2/2 Pp2/2 Pp1/2 Pp1/2
Hình 6.2. Sơ đồ lực tác dụng lên ô tô khi phanh (trường hợp ô tô đầy tải).
Ga J .h
Z 1=
L (
b+ p g 1
g ) (6.6)
Ga J .h
Z 2=
L (
a− p g 1
g ) (6.7)
Để sử dụng hết trọng lượng bám của ôtô thì cơ cấu phanh được bố trí ở các
bánh xe trước và sau. Lực phanh lớn nhất đối với toàn bộ xe tức là phanh có hiệu
quả nhất khi lực phanh sinh ra ở các bánh xe tỉ lệ thuận với tải trọng tác dụng lên
chúng.
Từ đó ta có lực phanh cực đại tác dụng lên bánh xe ở cầu trước và sau là:
- Lực phanh sinh ra ở cầu trước:
Bảng 6.1. Giá trị lực phanh cầu trước và cầu sau theo với trường hợp xe đầy tải
(đối với một cơ cấu phanh).
ϕ 0,1 0,2 0,3 0,4 0,5 0,6 0,7 0,8
40721,5
Pp1(N) 3065,26 6709,07 10931,43 15732,35 21111,82 27069,85 33606,42
6
lk: Chiều dài đòn dẫn động cam phanh sau; lk = 145 (mm)
Hiện nay để xác định mô men phanh M p ta có ba phương pháp là: Đồ thị, giải
tích và đồ - giải. Phương pháp giải tích phổ biến và ưu việt hơn cả vì nó đơn giản,
có độ chính xác cao và thuận tiện khi cần phân tích ảnh hưởng của các thông số.
Bởi vậy ở đây ở đây chúng ta sử dụng phương pháp này, và ta có sơ đồ tính
như sau:
h'
rt
X
d
O
h
dN
h''
- Ap suất phân bố đều theo chiều
C
rộng má phanh.
- Quy luật phân bố áp suất theo chiều dài má phanh không phụ thuộc vào
giá trị lực ép tác dụng lên guốc và có dạng tổng quát:
q = qmax.()
Trong đó:
- Hệ số ma sát giữa trống và má phanh không phụ thuộc vào chế độ phanh.
Đối với cơ cấu phanh đang khảo sát và tính toán, guốc phanh chỉ có một bậc tự
do nên xét trường hợp áp suất trên má phanh phân bố theo quy luật đường sin:
q = qmax.sin. (6.15)
Khi phân bố theo đường sin, các phần tử lực pháp tuyến dN và lực ma sát dFT
từ phía trống phanh tác dụng lên phần tử vô cùng bé d (hình 6.3) của má phanh là:
dN = qmax.b.rt.sin.d
dFT= .qmax.b.rt.sin.d
Tích phân biểu thức (6.16) từ 0 đến 1 ta được mô men phanh tổng do các
guốc phanh tương ứng tạo ra (guốc tự siết có chỉ số1, guốc không tự siết có chỉ
số2):
α1
Để xác định qmax, ta viết phương trình cân bằng mô men đối với điểm quay (C)
của guốc :
α1 α1
Thế các biểu thức của dFT và dN vào (6.20) và l= (rt - scos), thì sau khi biến
đổi chúng ta có:
α1 α1 α1
Thế biểu thức (6.19) vào phương trình (6.17) rồi chia tử và mẫu cho r
α1
∫ sin α . dα
α0
chúng ta nhận được phương trình xác định mô men của mỗi guốc theo
lực ép:
s
1− (cosα 0−cosα 1 )
B= 2. r t (6.22)
Dấu (-) ở mẫu số của biểu thức (6.20) tương ứng với guốc tự siết, còn dấu (+)
tương ứng với guốc không tự siết.
P 1 h1 μ P h μ
+ 2 2
MP = MP1 + MP2 = A 1−μB1 A2 + μB 2 (6.23)
Vì cơ cấu phanh yêu cầu có độ cứng vững cao, là loại phanh guốc một bậc tự
do nên: = sin và áp suất qmax tác dụng ở điểm có =900 (hình 6.4).
Pmax
X O
C
Hình 6.4. Biểu đồ phân bố áp suất trên má phanh theo qui luật hình sin.
Với: 0 = 290
1 = 1450
rt = 414/2 = 207 (mm)
s = 162 (mm)
Thay các giá trị trên vào (6.21) và (6.22)
3 ,1416
sin(2 .29 0 )−sin(2 .145 0 )+2(145 0−29 0 ).( )
180 162
. =0 , 558
A= 4 (cos 290 −cos 1450 ) 207
162
1− (cos 290 −cos 1450 )=0 , 339
B= 2. 207
Pd
lk P2
dk
P1 h2
h1
Hình 6.5. Sơ đồ tính toán cơ cấu ép.
Từ (6.24), nếu xem h1 h2 thì:
( A+ μ . B ) ( A + μ. B) 2 AP 1
P2 = P1. ( A−μ . B )
⇒ P 2 + P1 1+ ( =
( A−μ . B ) A−μ . B )
Thay biểu thức trên vào (6.25), ta tìm được:
Lực do guốc tự siết sinh ra:
lk B
Pd (1−μ )
P1 = dk A [N] (6.26)
Lực do guốc tự tách sinh ra:
lk B
Pd (1+ μ )
P2 = dk A [N] (6.27)
Lực tác dụng lên đòn của cam ép cơ cấu phanh trước được xác định theo công
thức:
Pd 1 =p×S1 [N] (6.28)
Ở đây:
p: áp suất trong bầu phanh; p = (0,55 ¿ 0,65) (MN /m2)
chọn sơ bộ p = 0,55 (MN/m2) = 0,55.106 (N/m2)
D
12
π.
S1 = 4 [mm2]: Diện tích làm việc của màng bầu phanh trước
D1 = 180 (mm): Đường kính của màng bầu phanh trước
Thay các giá trị trên vào (6.28) ta có:
1802 . 10−6
Pd 1 =0,55. 106 .3 ,14 .
4 = 13988,70 [N]
Thay Pd1 vào (6.26) và (6.27) ta có:
+ Lực ép tác dụng lên guốc tự siết:
lk B
Pd 1 (1−μ )
P1 = dk A
với: lk - Chiều dài đòn dẫn động cam trước; lk = 140 (mm)
A, B: Hệ số kết cấu
140 0, 339
13988,70. (1−0,35 )=40559,86
P1 = 38 0, 558 (N)
140 0,339
13988,70 (1+0 ,35 )=62494 , 15
P2 = 38 0,558 (N)
Với cơ cấu ép bằng cam ta có mô men do 2 guốc sinh ra bằng nhau;
P 1 h1 μ P 2 h 2 μ
+
MP = A−μB A+μB (6.29)
6.2.3. Xác định mô men phanh do cơ cấu phanh sau sinh ra:
- Theo (6.28 ) lực tác dụng lên đòn của cam ép cơ cấu phanh sau được xác
định như sau:
π .D
22
Pd 2 =p×S2 = p. 4
2
6 3 ,14 .170
Pd 2 =0 , 55. 10 . 10−6 =12477 , 575
4 [N]
- Theo (6.26) lực ép tác dụng lên guốc tự siết:
lk B
Pd 2 (1−μ )
P1 = dk A
145 0 ,339
P1=12477,575 . (1−0, 35 )=37470 , 486
38 0 ,558 [N]
- Theo (6.27) lực ép tác dụng lên guốc guốc tự tách:
lk B
Pd 2 (1+ μ )
P2 = dk A
145 0 ,339
12477 ,575. (1+0 ,35 )=57734 , 068
P2 = 38 0 ,558 [N]
- Theo (6.29) ta có mô men phanh do một cơ cấu phanh ở cầu sau sinh ra:
Mp2s = MP =
P 1 h1 μ P 2 h 2 μ
+
MP = A−μB A+μB
lk B
Pd 1 (1−μ )
Mà: P1 = dk A
lk B
Pd 2 (1+ μ )
P2 = dk A
Trong đó:
πD
12
Pd 1 =p 1
4
πD
22
Pd 2 =p 2
4
πD2 l k1 πD1 l k 1
[{ B
}{
A
}]
2
πD1 lk 1
[{ πD2 lk1 B
}{
A
}]
2
k1 =
{ 4
.
0,038
(1+0,35.
0,558−0,35
0.558
)0,32.0,35
} +
+
{ 4
.
0,038
(1−0,35.
0,339
0,558+0,35.0,339
)0,32.0,35
}
K1 = 0.037635
M p1
p1 = k1 [N/m2]
+ Xác định áp suất của cơ cấu phanh sau:
Tương tự ta thay các giá trị ứng với cơ cấu phanh sau vào công thức (6.30) thì
ta nhận được áp suất của cơ cấu phanh sau là:
Với k2 =
{ 4
.
0,038
(1+0,35.
0,558−0,35
0.558
)0,32.0,35
} +
+
{ 4
.
0,038
(1−0,35.
0,339
0,558+0,35.0,339
).0,32.0,35
}
k2 = 0.034769
Ứng với các giá trị hệ số bám khác nhau, mô men phanh khác nhau ta có bảng
sau:
Bảng 6.3. Giá tri áp suất phanh cầu trước theo φ, Mp1 với trường hợp xe đầy
tải:
0,1 0,2 0,3 0,4 0,5 0,6 0,7 0,8
pp1=Mp1/k1
42759,45 93589,56 152490,3 219461,7 294503, 8 377616,5 468799,9 568053,9
[N/m2]
Bảng 6.4. Giá tri áp suất phanh cầu trước theo φ, Mp2 với trường hợp xe đầy tải:
pp2=Mp1/k1
93086,39 177436,7 253051 319929,2 378071,3 427477,4 468147,4 500081
[N/m2]
p ( 1000 N/m )
2
x
2
2 3
4
5
1
p ( 1000 N/m )
1
x
2
Hình 6.6. Đồ thị biểu diển quan hệ áp suất phanh dòng trước và sau của xe
HYUNDAI-HD370:
+ Đường 1 biểu diển quan hệ giữa áp suất dòng sau và hệ số bám đối với
trường hợp xe không tải:
+ Đường 2 biểu diển quan hệ giữa áp suất dòng sau và hệ số bám đối với
trường hợp xe đầy tải:
+ Đường 3 biểu diển quan hệ giữa áp suất dòng sau và trước đối với trường
hợp xe đầy tải:
+ Đường 4 biểu diển đặc tính lý tưởng:
+ Đường 5 biểu diển quan hệ giữa áp suất dòng sau và trước đối với trường
Nếu lúc phanh ngặt tất cả các bánh xe sẽ đồng thời bị hãm cứng và lực phanh
đạt giá trị cực đại bằng lực bám, tức là:
P p1 Pp2 P p 1+ P p 2 ma . J p Jp
= = = = =ϕ
Z1 Z2 Z 1 + Z2 ma . g g
P p1 Z1 b+ϕ. h g
= =
hay: P p2 Z 2 a−ϕ .h g (6.32)
Ở đây ta chỉ tính toán cho một cơ cấu phanh ở cầu trước và cầu sau. Vì cầu
trước có 4 cơ cấu phanh, cầu sau có 4 cơ cấu phanh cho nên biểu thức (6.32)ta viết
lại như sau:
P p1 Z1 /4 (b+ϕ . h g )/4
= =
p = P p2 . Z 2 /4 (a−ϕ. h g )/4
P p1 Z1 b+ϕ. h g M p1
= = =
p = P p2 Z 2 a−ϕ .h g M p2 (6.33)
Trong đó: P P1, PP2 - Tương ứng là lực phanh do một cơ cấu phanh cầu trước
và cầu sau tạo ra.
MP1, MP2 - Tương ứng là mô men phanh do một cơ cấu phanh cầu trước và cầu
sau tạo ra.
Z1, Z2 - Phản lực pháp tuyến của mặt đường tác dụng lên lốp xe khi phanh
tương ứng ở cầu trước và cầu sau.
Để xác định quan hệ lý tưởng giữa P p1 và Pp2 phụ thuộc vào hệ số bám và mức
P p1 Z1 b+ ϕ .h g
= =
độ chất tải của xe ta sử dụng hệ số p = P p2 Z 2 (a−ϕ . hg ) gọi là hệ số phân
phối lực phanh thì ta thấy rằng: để đảm bảo hiệu quả phanh cao nhất (khi sử dụng
toàn bộ trọng lượng bám của xe) thì hệ số phân phối lực phanh p phải là một đại
lượng thay đổi phụ thuộc vào trạng thái đường (cụ thể là hệ số bám) và mức độ chất
tải của xe (thể hiện qua các toạ độ trọng tâm). Đồ thị biểu diễn quan hệ thay đổi lý
tưởng được thể hiện trên hình 6.6.
Từ các kết quả tính toán ở trên ta tiến hành lập bảng và xây dựng các đường
đặc tính lý thuyết.
Bảng 6.3. Các thông số cơ bản của xe ứng với khi đầy tải.
Bảng 6.4. Kết quả tính toán Mp1, Mp2 và tỷ số p=Mp1/Mp2 khi xe đầy tải.
1.4
1.0
0.8
0.6
2
0.4 `
0.2
0.0
0.0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9
Hệ số bám
Hình 6.7 . Đồ thị biểu diễn quan hệ giữa hệ số phân phối lực phanh tối ưu và
hệ số bám P = f()
25000
Mp2[Nm]
20000
15000
10000
5000
0
0 10000 20000 30000
Mp1[Nm]
Hình 6.8. Đồ thị quan hệ giữa Mp2 theo Mp1 khi hệ số bám biến thiên từ 0,1
đến 0.8;
1- Đường biểu diển quan hệ Mp1 và Mp2 theo hệ số bám ứng với xe đầy tải.
M pt b+ϕ . hg
= =1 , 082
M ps (a−ϕ . hg )
Ta thấy lực phanh sinh ra khi phanh sẽ tỷ lệ với lực bám ở các cầu khi hệ số
bám ϕ = 0,63.
Từ đồ thị nhận được ở hình 6.6 và hình 6.7 với hê số bám ϕ = 0,63 thì xe
HYUNDAI-HD370 không cần dùng bộ điều hòa lực phanh là thỏa mản.
37765×9 , 81
⇒b≥
32 , 376×0 , 25 . 106 [m]
⇒b≥ 0,046
Kiểm tra bề rộng má phanh thông qua áp suất trên bề mặt má phanh q t theo
công thức:
MP
q= ≤[ q ]
μ.b.rt2. β
Mp
⇒b≥ 2
μ. r t . β . [q] (6.40)
Trong đó:
MP : mô men do guốc phanh của má phanh đó tạo ra.
Với cơ cấu phanh của cầu trước: Mp1t = Mp2t = 9704,02 [N.m]
Với cơ cấu phanh của cầu sau: Mp1s = Mp2s = 8964,88 [N.m]
: hệ số ma sát giữa má phanh và trống phanh; μ = 0,35.
rt: Bán kính tang trống; rt = 207 [mm]
= 1160
[q]: Áp suất trung bình cho phép của bề mặt ma sát của trống phanh; Áp
suất cho phép trên bề mặt má phanh phụ thuộc bởi nguyên liệu má phanh và trống
phanh. Ap suất này thay đổi trong giới hạn rộng. Đối với các má phanh hiện nay
dùng cho ôtô áp suất trung bình cho phép khi phanh với cường độ cực đại nằm
2 2
trong giới hạn từ 1,5 ¿ 2 MN/m .Ta chọn [ q tb ] = 2 [MN/m ].
Ở đây mô men phanh của cơ cấu phanh cầu trước lớn hơn mô men phanh của
cơ cấu phanh cầu sau nên ta chỉ kiểm tra bề rộng má phanh với trường hợp cơ cấu
phanh cầu trước:
M P 1t 9704,02.180
b≥
μ . r 2t . β . [q ] 2
= 0 ,35 .0,207 .116 .3,14.2.10
6
= 0,155 [m]
Hay b ≥ 155 [mm]
So điều kiện ta thấy bề rộng các má phanh trên các cơ cấu phanh trước bằng
160 (mm) và các cơ cấu phanh sau bằng 170 (mm) là thỏa mản.
lực ma sát mà không cần tác dụng của lực dẫn động.
Từ (6.20) ta có công thức Mp1,2 = Ph/(A ∓ B)
Đối với phanh guốc, hiện tượng tự siết vào trống phanh sẽ xảy ra khi mẫu số
bằng không. Để tránh hiện tượng này phải đảm bảo điều kiện:
A
⇒ μ<
A−μ . B>0 B (6.41)
Với:
A = 0,558 ; B = 0,339 là các hệ số kết cấu của cơ cấu phanh.
Thay các số liệu trên vào (6.44) ta được:
0,558
< 0,339
< 1,64
So với giá trị của hệ số ma sát giữa má phanh và tang trống = 0,32÷ 0,38.
Như vậy hiện tượng tự siết không xảy ra.
Nắp máy nén khí bắt không chặt. Nắp đậy máy nén khí trong quá trình làm
việc có thể bị hỏng. Do đó năng suất của máy nén khí có thể bị giảm và áp suất
trong hệ thống củng bị giảm xuống theo. Qua mỗi lần bảo dưỡng kỹ thuật ô tô đều
phải kiểm tra độ kín khít nắp đậy, khi cần thiết thì siết lại các bu lông, lực siết phải
bằng 11,7 - 16,6 (Nm). Phải siết chặt các bu lông tuần tự, từ từ, đều tay và siết làm
hai đợt : đợt đầu siết sơ bộ, đợt sau siết chặt.
Điều chỉnh toàn bộ cụm phanh không đúng, việc điều chỉnh toàn bộ cụm
phanh được tiến hành sau khi tháo phanh, thay guốc và má phanh. Khi tâm của
trống phanh và tâm của má phanh không trùng nhau thì phải điều chỉnh. Nếu điều
chỉnh không đúng thì sẽ làm cho hiệu quả phanh giảm xuống. Tuyệt đối không để ô
tô làm việc với các phanh điều chỉnh không đúng.
Trước khi điều chỉnh phanh, cần kiểm tra xem các ổ bi và moay ơ bánh xe có
được xiết đúng không, trường hợp cần thiết thì phải điều chỉnh lại.
Điều chỉnh cục bộ cụm phanh bị sai lạch. Trường hợp khe hở giữa guốc và
trống phanh nhỏ quá thì cần phải tiến hành điều chỉnh cục bộ, nếu không chúng sẻ
bị mòn.
Phanh chỉ ăn ở một bánh xe. Phanh chỉ ăn một bánh thường xảy ra trong
trường hợp điều chỉnh phanh không đúng. Để tránh hiện tượng này cần phải điều
chỉnh lại.
Má phanh và trống phanh bị mòn. Má phanh và trống phanh bị mòn sớm hơn
quy định thường là việc bảo dưởng không chu đáo các phanh bánh xe.
Cần phải luôn nhớ rằng, chỉ với những phanh tốt mới đảm bảo an toàn vận
hành. Người lái xe phải biết điều chỉnh phanh kịp thời, làm sạch phanh khỏi bụi bẩn
và kiểm tra độ bắt chặt của tất cả các chi tiết của phanh. Không cho phép dùng
những má phanh bị mòn quá nhiều, nếu khoảng cách từ bề mặt má phanh tới đầu
đinh tán nhỏ hơn 0,5 mm thì phải thay má mới.
Chú ý không để dầu nhờn vào guốc phanh, bởi vì khi má phanh bị dính dầu thì
khó có thể phục hồi được tính chất ma sát ban đầu cảu nó băng cách lau hay rửa.
Khi bôi trơn các trục cam nha, trong bất kỳ trường hợp nào củng không được
tra mỡ quá thừa thải, bởi vì mở thừa có thể rơi vào má phanh.
8. KẾT LUẬN:
Sau hơn ba tháng tập trung làm việc nghiêm túc, cộng với sự hướng dẫn tận
tình của thầy giáo hướng dẫn TS. NGUYỄN HOÀNG VIỆT em đã hoàn thành xong
đồ án của mình.
Trong Đồ án của mình, em đã giới thiệu được về nội dung của hệ thống phanh
nói chung và hệ thống phanh dẫn động khí nén nói riêng, tiếp đó em đi sâu vàu phân
tích về nguyên lý hoạt động của hệ thống phanh, cấu tạo và nguyên láy hoạt động
của các chi tiết chính, tính toán kiểm nghiệm hệ thống phanh khí nén trên xe tải
HYUNDAI-HD370 và cuối cùng là phân tích các nguyên nhân hư hỏng và các biện
pháp khắc phục những hư hỏng đó. Nhìn chung, hệ thống phanh trên xe tải HYUN
DAI-HD370các đời là hệ thống phanh hoàn thiện và có phần phức tạp do vậy việc
phân tích và tìm hiểu củng có phần khó khăn. Đợt thực tập tôt nghiệp vừa rồi em đã
được nghe trình bày và quan sát, tìm hiểu về tổng quan cũng như chi tiết của hệ
thống phanh khí nén của xe HYUN DAI-HD370, đây là cơ hội thực tế rất tốt để em
hiểu sâu hơn về tổng quan củng như chi t1iết của hệ thống phanh sau những kiến
thức đã học tập ở trường giúp cho đồ án hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, thời gian làm đồ án có hạn mà khối lượng công việc thì nhiều, mặc
dù bản thân em đã tìm hiểu và cố gắng nhiều trong công việc nhưng củng không thể
tránh khỏi sai sót do đây là lần đầu tiên phải giải quyết một khối lượng công việc
tương đối lớn và phức tạp, mong các thầy, cô thông cảm.
Cuối cùng em xin chân thanh cảm ơn thầy giáo hướng dẫn TS. NGUYỄN
HOÀNG VIỆT đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian làm đồ án, cùng các
thầy cô giáo trong khoa Cơ khí Giao thông đã trang bị cho em kiến thức trong thời
gian ở trường .
3. TS. Trần Thanh Hải Tùng. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI KỸ THUẬT Ô TÔ.
Bài Giảng môn học dùng cho sinh viên ngành Cơ Khí Giao Thông.
4. Nguyễn Hữu Cẩn, Phan Đình Kiên. THIẾT KẾ VÀ TÍNH TOÁN Ô TÔ MÁY
KÉO TẬP III. Nhà xuất bản Đaih Học và Trung Học chuyên nghiệp.
Hà Nội, 1985.
5. Nguyễn Hữu Cẩn, Dư Quốc Thịnh, Phạm Minh Thái, Nguyễn Văn Tài, Lê
Thị Vàng. LÝ THUYẾT Ô TÔ MÁY KÉO. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Hà Nội, 2000.
6. Một nhóm cán bộ giảng dạy thuộc bộ môn Động cơ đốt trong và bộ môn Ô tô
máy kéo thuộc trường Đaih Học Bách Khoa Hà Nội dịch. Ô TÔ. 600 NGUYÊN
NHÂN HƯ HỎNG VÀ PHƯƠNG PHÁP KHẮC PHỤC. Nhà xuất bản Khoa học
và Kỹ thuật. Hà Nội, 1970.