You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

NHẬN THỨC VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH CỦA ĐẢNG


TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI

GVHD: Ths. Lê Quang Chung

SVTH: MSSV

Nguyễn Văn Đạt 19151114

Lê Thị Huệ 19124108

Phan Anh Duy 19151106

Phạm Hoàng Long 19151150

Võ Hạnh Đông 19151115

Lớp thứ 5 – Tiết 1, 2


LLCT220514 – 04CLC

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2021


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

.............................................................................................................................................

Ký tên

Ths. Lê Quang Chung


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

THỨ TỰ NHIỆM VỤ THỰC HIỆN KẾT QUẢ KÝ TÊN

1 Phụ trách mở đầu và Lê Thị Huệ Hoàn thành tốt


kết luận

2 Phụ trách Chương 1 Phạm Hoàng Long Hoàn thành tốt

3 Phụ trách Chương 2 Nguyễn Văn Đạt Hoàn thành tốt

4 Phụ trách Chương 2 Phan Anh Duy Hoàn thành tốt

5 Phụ trách Chương 3 Võ Hạnh Đông Hoàn thành tốt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................2

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................3


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận..........................................................3

6. Kết cấu của tiểu luận.............................................................................................3

Chương 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ.........................................................................4

Chương 2. NHẬN THỨC VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH CỦA ĐẢNG


THỜI KỲ ĐỔI MỚI..................................................................................................9

2.1. Nhận thức về quốc phòng an ninh của Đảng thời kỳ đổi mới từ năm
1986 – 1996.................................................................................................................9

2.2. Nhận thức về quốc phòng an ninh của Đảng thời kỳ đổi mới từ năm
1996 – nay...............................................................................................................13

2.2.1. Từ năm 1996 đến năm 2000..........................................................................13

2.2.2. Từ năm 2001 đến năm 2005..........................................................................14

2.2.3. Từ năm 2006 đến năm 2010..........................................................................14

2.2.4. Từ năm 2011 đến năm 2015..........................................................................15

2.2.5. Từ năm 2016 đến năm 2020..........................................................................16

Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI CỦA
ĐẢNG VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH..................................................................18
3.1. Mục đích xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh................................18

3.2. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh...............................18

KẾT LUẬN.............................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................28
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn coi trọng lĩnh vực quốc phòng, an
ninh và coi đó là một nội dung lãnh đạo của Đảng, một nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng Việt Nam. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn căn cứ
vào nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ để từ đó xác định đúng đắn
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cho phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường. Các thế lực thù địch
vẫn ráo riết chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chủ yếu và thông
qua diễn biến hoà bình, với mục đích xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển hướng cách mạng
nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, những các hành
động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các thế lực thù địch đối với nước
ta vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm mưu và với vô vàn thủ đoạn hết sức
tinh vi, sảo quyệt. Căn cứ vào nhiệm vụ của cách mạng, nắm bắt và phân tích
khoa học tình hình thế giới, tình hình trong nước Đảng ta đã xác định đường lối,
chủ trương lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những thành tựu, cũng như hạn
chế của Đảng về quốc phòng, an ninh trong thời kì đổi mới, đồng thời đề xuất
những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, vượt qua những khó
khăn, thách thức, nâng cao hiệu quả thự hiện công tác quốc phòng, an ninh của
đảng trong thời gian tới, nhóm chúng em chọn đề tài: ”Nhận thức về quốc
phòng, an ninh của Đảng trong thời kì đổi mới” làm tiểu luận kết thúc môn
học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Mục đích
- Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về hoàn cảnh
lịch sử và nhận thức về quốc phòng, an ninh của Đảng trong thời kì đổi mới.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách
quốc phòng, an ninh trong thời kì đổ mới.
- Trên cơ sở đó tổng kết những thành tựu, nêu lên những hạn chế, rút ra
những kinh nghiệm trong quá trình Đảng thực hiện chính sách quốc phòng, an

1
ninh giai đoạn 1986 đến nay, đồng thời đè xuất những giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách quốc phòng, an ninh của Đảng trong thời
gian tới.
Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm
vụ cụ thể như sau:

- Trình bày có hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về chính sách quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách quốc
phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới.
- Trình bày quá trình Đảng tiếp thu, vận dụng những chủ trương, chính
sách quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của đất
nước.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách
quốc phòng, an ninh gia đoạn 1986 đến nay.
- Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện chính sách quốc
phòng, an ninh gia đoạn 1986 đến nay, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách quốc phòng, an ninh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản về chính sách quốc phòng,
an ninh của Đảng và Nhà nước trong thời kì đổi mới, tiểu luận đi sâu nghiên
cứu sự tiếp thu, vận dụng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính
sách quốc phòng, an ninh thời gian tới.

Phạm vi nghiên cứu

Tiểu luận tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện
chính sách quốc phòng, an ninh gia đoạn 1986 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc; các quan điểm, chủ trương, chính sách về
quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Bên cạnh đó, tác giả
còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận

Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ hơn những nội dung cơ bản của
Đảng và Nhà nước về chính sách quốc phòng, an ninh, phục vụ cho các cơ quan,
đơn vị và cá nhân có nhu cầu tìm hiểu về các nội dung này.

Trình bày sâu sắc, có hệ thống quá trình Đảng thực hiện lãnh đạo thực hiện
chính sách quốc phòng, an ninh giai đoạn 1986 đến nay, góp phần vào việc
nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng và Nhà nước về vấn đề quốc phòng, an ninh
trong giai đoạn này.

Đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện chính sách quốc phòng, an ninh giai
đoạn 1986 đến nay, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách quốc phòng, an ninh trong thời gian tới.

Ngoài ra, tiểu luận còn có thể là tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về quá
trình thực hiện chính quốc phòng, an ninh giai đoạn 1986 đến nay, cũng như lịch
sử Đảng ở nội dung thực quốc phòng, an ninh trong giai đoạn này.

6. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được
chia làm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử.

Chương 2: Nhận thức về Quốc phòng, An ninh của Đảng thời kì đổi mới.

Chương 3: Đánh giá kết quả thực hiện đường lối của Đảng về quốc phòng,
an ninh.
Chương 1

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Vào thế kỷ thứ X sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc
và xây dựng một nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua
nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế kỷ XI và
XII), triều Trần (thế kỷ XIII và XIV), triều Lê (thế kỷ XV, XVI và XVII) với
một nền hành chính tập quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và
văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu tranh
chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông
Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế
kỷ XI), Nguyên (thế kỷ XIII), Minh (thế kỷ XV) đã giành những thắng lợi vang
dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn
kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới.

Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa
đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo,
Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố văn hoá
quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ
riêng và một nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.

Đến thế kỷ XVII và XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm
trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây
Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống nhất
đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành
nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của
ngoại bang, Nguyễn Ánh đã giành được quyền thống trị và lập nên triều đình
nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.

Vào giữa thế kỷ XIX (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt
Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và
từ năm 1884, Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng
dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng
đều thất bại.

Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc (sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã
hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm
đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945.

Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu
xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm lược của
Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc
bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954.
Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc
và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau
đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ
này mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao
động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà nằm dưới
sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền
Sài Gòn sử dụng mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại
bỏ những người kháng chiến cũ, do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà
bình, thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được
nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960.

Để duy trì chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ
giữa thập kỷ 1960 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam
Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt
Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
"Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở
cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký Hiệp định Paris
về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình
của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực
lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 2/7/1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và
Bắc.

Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 -
1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã
hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam
chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận
của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt
Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng
trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí
muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ
thể. Vào đầu những năm 1980, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên
gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.

Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm
vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu
vực và quốc tế. Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã
nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được,
phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong
đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi
mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển
từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ
của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân
sách nhà nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989, hàng năm Việt Nam
đều phải nhập khẩu lương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam
đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm
1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội
được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được
mở rộng, đẩy lùi tình trạng bị bao vây, cô lập.

Tháng 6/1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết
tâm tiếp tục chính sách Đổi mới với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực
đảm bảo công bằng xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá
và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "Muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Âu tan rã, các thị trường
truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm
mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều
thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng
sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống
còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân
được cải thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được
nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá
nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình
và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn
định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững,
quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc
Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà
nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại
độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt
được những kết quả tốt đẹp.

Trong gần 1 thập kỷ qua, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cho 10
năm đầu của TK 21, kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và phát triển tương đối
toàn diện. Trong 5 năm 2001 - 2005 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
trưởng bình quân 7,5% và trong giai đoạn từ năm 2005-2008, GDP tăng trưởng
bình quân 7,84%. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong
công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa có tiến bộ trên cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.

64 năm qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn.
Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do
Đảng đề ra và lãnh đạo đã đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Từ
những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX và nhất là từ khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã làm cho đất nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam "Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Việt Nam hiện có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị trí ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế
giới.Hiện nay Việt Nam đã thiết lập hơn 80 cơ quan đại diện ngoại giao ở nước
ngoài, có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh tế thương mại với
trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta
Chương 2

Nhận thức về quốc phòng an ninh của Đảng thời kỳ đổi mới

2.1. Nhận thức về quốc phòng an ninh của Đảng thời kỳ đổi mới từ năm
1986 – 1996

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và
nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là
sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực
lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và
an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh
với hoạt động đối ngoại.

Giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp là kế sách độc đáo của dân tộc ta trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trong
khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn chỉ rõ
bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, không một chút lơi lỏng. Trong công
cuộc đổi mới, cùng với quá trình đổi mới tư duy về kinh tế-xã hội mang tính
chất sáng tạo, cách mạng và khoa học, Đảng cũng luôn chăm lo xây dựng và
từng bước đổi mới hoàn thiện đường lối quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến
sâu sắc. Quan hệ chính trị quốc tế có những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến
chiến lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được
diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội là đại hội đổi mới toàn diện, triệt để
đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư
duy”. Đại hội lần thứ VI xác định: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết
một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội”. Trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn
thấu suốt quan điểm: “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”; phát
huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của cả hệ thống chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã đánh giá khách quan
tình hình đất nước, thừa nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ
quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện. Về đối ngoại, mục tiêu
của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là phải kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần
giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Cùng
với đó là những tìm tòi đổi mới mang tính đột phá trong đường lối phát triển
kinh tế-xã hội, nhiều chủ trương, chính sách trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng,
an ninh cũng được đổi mới, nhằm đáp ứng kịp thời với những đổi mới trên các
lĩnh vực khác nhau. Định hướng cho sự phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa,Đại hội VI cũng chỉ rõ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong
thời kỳ đổi mới là phải xây dựng quân đội chính quy, có chất lượng tổng hợp
ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến
đấu cao, luôn gắn liền với phát triển dân quân, tự vệ với số lượng và chất lượng
phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới; thực hiện
tốt chính sách hậu phương quân đội; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự nước nhà. Từng bước
phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của
đất nước.

Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập
trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” . Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị,
tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI
đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Theo đó, việc
mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là
một trong những nhiệm vụ cấp bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng
góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào các mạng thế giới là thực hiện thắng
lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính
trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.

Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990,
Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị. Kết quả
hoạt động đối ngoại đạt được trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX
tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng, mở cửa giao lưu hợp tác với
bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước trong quan hệ quốc tế.

Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội
thay đổi. Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991). Lần đầu tiên trong Nghị quyết
Đại hội VII, Đảng ta chính thức đưa ra quan điểm xây dựng thế trận an ninh
nhân dân: “Phát huy sức sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây
dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân”. Ngoài việc quan tâm đến
việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên bình diện rộng, trên toàn bộ lãnh
thổ, để chủ động bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền quốc gia trong mọi
tình huống, Đảng còn nhấn mạnh tới việc xây dựng các khu phòng thủ ở các địa
phương; sự cần thiết phải xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm,
không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ
trang, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý. Xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể
động viên được nhanh chóng theo kế hoạch. Xây dựng lực lượng dân quân, tự
vệ rộng khắp, lấy chất lượng làm chính. Đảng ta xác định trọng tâm của công tác
đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được quyết nghị, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới
- dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. . Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến
giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở
rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn. Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ
chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập ASEAN, một
tổ chức khu vực mà trong đó các thành viên đều không cùng ý thức hệ và chế độ
chính trị, xã hội với Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó
không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng
xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều
nơi.Trong nước tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại
Hà Nội từ ngày 28/6 - 1/7/1996, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan
hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đại hội nêu rõ chủ
trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối
mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đồng
thời cũng đề ra những quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Kết
hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết hợp quốc
phòng và an ninh với kinh tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh,
hai nhiệm vụ đó có liên quan chặt chẽ với nhau trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường
xuyên của cả hệ thống chính trị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ Tổ quốc;
thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và
an ninh. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và công an, đối với củng cố quốc phòng và an ninh.Tuy
nhiên, nếu như chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài, thì
những diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước xảy ra thường
xuyên, Đảng liên tục có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

Như vậy, trong quá trình phát triển nhận thức lý luận, Đảng ta lần lượt cụ
thể hóa đường lối quần chúng, chính sách dân vận thành các hình thái nền an
ninh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận
quốc phòng toàn dân. Đồng thời cùng với việc lãnh đạo xây dựng các nền, thế
trận độc lập, Đảng ta đã xác định phải kết hợp chặt chẽ nền an ninh nhân dân,
thế trận an ninh nhân dân với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng
toàn dân, cùng với đó là kết hợp kinh tế - đối ngoại trong một thể thống nhất
hoàn chỉnh. Xuyên suốt các nền và thế trận ấy là “Thế trận lòng dân” nhằm huy
động sức mạnh quần chúng và sự tham gia của các cấp, các ngành, các tổ chức
chính trị, đoàn thể quần chúng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
quốc gia dưới sự lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự quản lý
tập trung thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng
cốt.Quan điểm, đường lối phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của cả dân
tộc vào sự nghiệp quốc phòng, an ninh, trong đó có sức mạnh của quần chúng
nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cùng với sức mạnh vật
chất, sức mạnh tinh thần của toàn xã hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quán triệt quan điểm, chủ trương
của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở
một số ngành, địa phương vẫn còn hạn chế; hệ thống luật pháp về việc giải
quyết mối quan hệ này chưa hoàn thiện, việc cụ thể hóa sự kết hợp giữa quốc
phòng, an ninh và đối ngoại thành các quy hoạch, kế hoạch, quy chế, cơ chế
hoạt động có lúc chưa đồng bộ; sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ; sự phối hợp
trong nghiên cứu, dự báo về chiến lược quốc phòng, an ninh và đối ngoại có mặt
chưa theo kịp diễn biến của tình hình.

2.2. Nhận thức về quốc phòng an ninh của Đảng thời kỳ đổi mới từ năm
1996 – nay.

2.2.1. Từ năm 1996 đến năm 2000

Tăng cường quốc phòng an ninh. Đại hội xác định nhiệm vụ về quốc phòng,
an ninh trong những năm tới là: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của
cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của
đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng
toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao
chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất
ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây
tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của tổ
quốc, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.

2.2.2. Từ năm 2001 đến năm 2005

Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với củng cố quốc phòng và an ninh là
nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh phát triển, cạnh tranh và hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới trong thập kỷ tới.

Việc kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng và an ninh được tiến hành
xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước, trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm, hằng
năm ở mỗi ngành, lĩnh vực, vùng, và từng tỉnh thành phố. Các công trình được
xây dựng trong các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, nhất là các vùng trọng điểm,
vùng biển và ven biển, vùng cửa khẩu và những vùng kinh tế đặc biệt khác phải
phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế trong từng ngành, từng vùng; khi cần
thiết có thể tăng cường khả năng chủ động ứng phó với mọi tình huống để bảo
vệ chủ quyền và an ninh của đất nước. Đồng thời nghiên cứu xây dựng một số
cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết, chú trọng những cơ sở vừa phục vụ cho
quốc phòng, an ninh, vừa sử dụng cho phát triển kinh tế. Huy động mạnh các cơ
sở công nghiệp quốc phòng và tổ chức cho lực lượng vũ trang tham gia phát
triển kinh tế - xã hội. Chú trọng tăng cường những trọng điểm về kinh tế, những
địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững trong mọi tình huống.

2.2.3. Từ năm 2006 đến năm 2010

Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm: phát
triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố
quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; thực
hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội
củng cố hoà bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo. Sự kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh phải được thực hiện ngay trên
từng địa bàn lãnh thổ, từ công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch và hình thành
các dự án đầu tư phát triển. Xây dựng tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững
chắc.

Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới và kết hợp
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các nguồn lực, lồng ghép các
chương trình, các dự án để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên
giới, hải đảo. Rà soát lại quy hoạch và điều chỉnh đất quốc phòng, an ninh đáp
ứng được yêu cầu về bố trí chiến lược quốc phòng, dành thêm đất cho phát triển
kinh tế - xã hội. Có chính sách đặc biệt phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân tại các khu vực có yêu cầu đặc thù về quốc phòng, an ninh.

Tiếp tục sắp xếp lại và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc
phòng; tập trung đầu tư vào những khâu đặc thù phục vụ quốc phòng, an ninh
mà công nghiệp dân sinh không có khả năng bảo đảm. Mở rộng phương thức
huy động vốn xây dựng công nghiệp quốc phòng. Có chính sách khuyến khích
các nhà máy công nghiệp quốc phòng sản xuất các sản phẩm dân dụng để tăng
thêm năng lực phát triển.

Bảo đảm tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của lực lượng vũ trang. Đáp
ứng tốt hơn nhu cầu về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật, nghiệp vụ có trình
độ công nghệ cao để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, khả
năng chủ động ứng phó của lực lượng công an trong mọi tình huống. Đầu tư cho
khoa học kỹ thuật và công nghệ quốc phòng, an ninh, đồng thời có chính sách
thích đáng để động viên tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia phục vụ quốc
phòng, an ninh.

Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng và
bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn kịp thời và đấu
tranh có hiệu quả đối với hoạt động của các thế lực thù địch. Hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật và thực hiện tốt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.

2.2.4. Từ năm 2011 đến năm 2015

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và
hải đảo. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết
quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển
kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch
và các chương trình, dự án. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,
quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm. Mở rộng phương thức huy
động nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng và nâng cao khả năng bảo
đảm của công nghiệp quốc phòng. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các
khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo. Xây dựng lực lượng Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và mọi ý đồ,
hành động xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không để bị động, bất ngờ.

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước.

Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng; thúc đẩy
giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm
lục địa với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử
của khu vực. Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng
ASEAN vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của
Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh
tế và ngoại giao văn hoá, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát
triển nhanh, bền vững. Phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.

Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công
nghệ nguồn; mở rộng thị trường xuất khẩu.

2.2.5. Từ năm 2016 đến năm 2020

Thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường
quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị -
xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước; không để bị động,
bất ngờ trong mọi tình huống. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hoá một
số quân chủng, binh chủng, lực lượng; bảo đảm số lượng hợp lý, có sức chiến
đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển. Chú trọng xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên; phát triển công nghiệp quốc phòng,
an ninh. Đẩy mạnh tuyên truyền trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân về nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh.

Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội; các dự án phát triển kinh tế, xã hội trong các khu vực phòng thủ phải bảo
đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, nhất là ở những vị trí trọng yếu, chiến lược.
Xây dựng đường tuần tra biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu
kinh tế - quốc phòng và phát triển bền vững kinh tế, xã hội khu vực dọc biên
giới và biển, đảo. Có chính sách phù hợp để triển khai thực hiện một số nhiệm
vụ đặc thù về quốc phòng, an ninh.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ của
cộng đồng quốc tế để duy trì môi trường hòa bình, củng cố quốc phòng, an ninh
và bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẩn trương hoàn thành phân định biên giới.
Tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc phù hợp với điều kiện
của Việt Nam.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Xây dựng xã hội kỷ cương, an toàn. Đẩy mạnh phòng, chống, đẩy lùi tội phạm,
tệ nạn xã hội. Tăng cường an ninh, an toàn thông tin mạng. Bảo đảm trật tự, an
toàn và giảm tai nạn giao thông.
Chương 3

Đánh giá kết quả thực hiện đường lối của Đảng về an ninh quốc phòng.

3.1. Mục đích xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh

Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh
tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi,
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới
mọi hình thức và quy mô.

Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ qụyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc ;
bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, xã hội ; giữ
vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

3.2. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh

Nắm vững quan điểm, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện
mới

Trước hết cần hiểu quốc phòng là gì, những tư duy mới về quốc phòng và
bảo vệ Tổ quốc của Ðảng ta?

Quốc phòng là: công cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể các
hoạt động đối nội, đối ngoại cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học
- công nghệ... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo sức mạnh
toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa
bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù, sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mô.

Như vậy hiểu quốc phòng, xây dựng nền QPTD là hoạt động của cả nước,
trên mọi lĩnh vực, lấy lực lượng vũ trang (LLVT) là lực lượng nòng cốt. Quốc
phòng không đồng nghĩa với quân sự, với chiến tranh, nó được thực hiện trong
thời bình nhằm mục đích tự vệ, phòng thủ đất nước, nhưng không thụ động phải
chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và sẵn sàng
đánh thắng khi chiến tranh xảy ra. Chiến lược quốc phòng tối ưu là chiến lược
giữ nước mà không phải tiến hành chiến tranh, là chiến lược giải quyết hợp lý
các mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và các mặt hoạt động khác của xã
hội. Vì vậy, Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã xác định rõ: "Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Ðảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy
lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị
động, bất ngờ". Tinh thần Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ:

Về mục tiêu, nhiệm vụ của nền quốc phòng toàn dân

Theo quan điểm của Ðảng, mục tiêu của nền quốc phòng toàn dân nước ta
hiện nay không chỉ làm nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ... mà
còn phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng,
Nhà nước và nhân dân; không chỉ có đối ngoại mà còn cả đối nội; quốc phòng
luôn gắn bó chặt chẽ với an ninh và đối ngoại. Quốc phòng không chỉ nhằm đối
phó với chiến tranh, mà điều quan trọng là nó phải ngăn chặn và đẩy lùi chiến
tranh, không để đất nước xảy ra chiến tranh, xử lý có hiệu quả mọi tình huống
liên quan đến quốc phòng, an ninh của quốc gia, bảo đảm môi trường ổn định,
hòa bình cho sự phát triển của đất nước.

Về nhiệm vụ quốc phòng, Ðại hội X của Ðảng đã cụ thể hóa thêm nhiệm
vụ của quốc phòng là phải giữ vững an ninh quốc gia kể cả an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh văn hóa - an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương an toàn xã
hội, v.v. Ðây là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi lực lượng.

Về tính chất, đặc điểm và phương châm của nền quốc phòng toàn dân

Ðảng ta luôn có quan điểm đúng đắn về tính chất, đặc điểm của nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện trong quá trình đổi mới, coi đó là công việc giữ nước
của quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động về mọi mặt; chính trị, kinh tế, quân sự
gắn với an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và thời chiến, cả đối nội và đối ngoại,
cả đấu tranh quân sự và đấu tranh phi quân sự.

Phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ,
tự lực tự cường, từng bước hiện đại ngày càng được nhận thức sâu sắc và cụ thể
hơn. Ðó là phương châm cơ bản của sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân ở nước ta, vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh
ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, nếu xảy ra. Các nội dung của phương
châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với
nhau, trong đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo hướng hiện đại là một
nội dung rất quan trọng, vừa thể hiện yêu cầu của nền quốc phòng, thể hiện lộ
trình hiện đại hóa nền quốc phòng toàn dân vừa phù hợp kinh tế đất nước và yêu
cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, phát triển công nghiệp
quốc phòng đã và đang trở thành một chủ trương lớn trong xây dựng và hiện đại
hóa nền quốc phòng toàn dân. Ðó là một nền công nghiệp quốc phòng độc lập,
tự chủ, có tiềm lực mạnh, phù hợp sự phát triển của nền kinh tế đất nước; một
nền công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng vừa đáp ứng nhu cầu quốc
phòng, quân sự vừa tham gia trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ
dân sinh.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối
ngoại

Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội và đối ngoại trở thành
chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp. Trong quá trình đổi mới, tư
duy của Ðảng về sự kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế- xã hội và đối
ngoại ngày càng được hoàn thiện trong chiến lược xây dựng sức mạnh tổng hợp
quốc gia bảo vệ Tổ quốc.

Quan điểm "Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh
quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước", do Ðại
hội X của Ðảng đề ra là sự tiếp tục khẳng định, kế thừa, phát triển, hoàn thiện
đường lối chiến lược về quốc phòng được Ðảng ta đề ra từ Ðại hội VII. Và việc
kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại đã được
thể chế hóa bằng những chủ trương, chính sách cụ thể. Nhà nước đã từng bước
thể chế hóa các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, tập trung
hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng quy chế
thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, đối
ngoại. Bởi vì, thế trận bảo vệ Tổ quốc là sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, cùng với các hoạt
động đối ngoại nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Thế trận đó phải vừa giữ vững
ổn định, hòa bình cho sự phát triển, ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ chiến
tranh; vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân, tăng cường sức
mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN

Quan điểm của Ðảng về sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là sức
mạnh tổng hợp, không phải đơn thuần hoặc chủ yếu là sức mạnh quân sự. Trong
quá trình đổi mới đất nước, Ðảng ta luôn có nhận thức đúng đắn về thế trận và
lực lượng của nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh
phải đồng bộ, nhiều lực lượng, nhiều lĩnh vực cả tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân
sự, đặc biệt là tiềm lực chính trị tinh thần.

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Sức mạnh quốc phòng được tạo ra
bởi sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng; được tổ chức, bố
trí hợp lý trên phạm vi cả nước kết hợp với từng hướng, từng địa bàn chiến lược,
từng địa phương, cơ sở. Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ: "Xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân.
Ðẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển
các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục
tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng
điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo".

Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc là một nội dung
quan trọng trong xây dựng thế trận, tạo nên sức mạnh của nền quốc phòng toàn
dân. Trong hai mươi năm đổi mới đất nước, trước yêu cầu của sự nghiệp củng
cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vấn đề xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh (thành phố) đã trở thành một vấn đề quan trọng trong chiến lược
quốc phòng, an ninh của nước ta, được Ðảng ta nhận thức và chỉ đạo trong thực
tiễn ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn.

Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng tỉnh (thành phố) vững mạnh
không chỉ về quốc phòng, an ninh mà còn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Khu vực phòng thủ vừa phải bảo đảm được yêu cầu bảo vệ và tác chiến trên
địa bàn toàn tỉnh (thành phố), vừa nằm trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc
gia, góp phần củng cố sự vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân của đất nước,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
XHCN trong mọi tình huống.
Xây dựng cơ sở chính trị-xã hội là nội dung quan trọng của việc xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, được Ðảng ta hoạch định ngày càng cụ thể và sâu
sắc hơn trong quá trình đổi mới. Nội dung xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ngày
càng được đề cập rõ hơn và cụ thể hơn qua các kỳ Ðại hội của Ðảng. Tại Ðại hội
IX, Ðảng ta nhấn mạnh: "Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân; coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến
lược trọng yếu;xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo vệ cơ sở".
Trong xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân, vấn đề
xây dựng các tổ chức chính trị, nhất là các cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo và tăng cường công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng là
những nội dung rất quan trọng được Ðảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo.
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội phản ánh sâu sắc nguồn sức mạnh to lớn của
nền quốc phòng toàn dân nước ta là từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.

Xây dựng "Thế trận lòng dân" là nội dung cơ bản, là vấn đề mấu chốt việc
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Ðảng trong điều kiện mới. Nghị
quyết Ðại hội X của Ðảng chỉ rõ: "Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân là nòng cốt". Có thể nói, vấn đề này có tầm quan trọng hàng đầu
trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc được Ðảng ta kế thừa xuất
sắc trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc
trong quá trình đổi mới.

Yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quyết định của xây dựng sức mạnh quốc phòng,
của "thế trận lòng dân" là: Khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao
động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
khi xảy ra chiến tranh thì thực hiện chiến tranh nhân dân "Cả nước một lòng,
toàn dân đánh giặc", tạo ra những "Tấm lưới sắt", "Bức thành đồng", "Thiên la
địa võng" đánh giặc bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng "Thế trận lòng dân" là nội dung
cơ bản nhằm hướng vào đáp ứng yêu cầu trên và cũng chỉ trên cơ sở xây dựng
"Thế trận lòng dân" vững mạnh mới có điều kiện và khả năng làm thất bại âm
mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, mới nâng cao
khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Ðó là sức
mạnh của nền quốc phòng toàn dân, là bí quyết chiến thắng của nhân dân ta.

Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Tại Ðại hội IX, quan điểm xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân được Ðảng ta xác định rõ phương hướng: "Xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...". Văn
kiện Ðại hội X vẫn trên quan điểm cơ bản như Ðại hội IX, Ðảng ta đã có sự cụ
thể hơn nội hàm của phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân. Nghị quyết nêu rõ: "Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và
nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Ðổi mới tổ chức, nội dung, phương
pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương
tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, khoa học
công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của
lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách; phối hợp với các tổ chức nhân dân
trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội".

Quan điểm Ðại hội X của Ðảng thể hiện trên các nội dung chính sau:

Kiên trì và từng bước cụ thể hóa phương châm xây dựng quân đội nhân dân
và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ðây
là phương châm cơ bản trong quá trình xây dựng quân đội và công an. Các nội
dung của phương châm này đã được Ðảng ta đề cập qua các kỳ Ðại hội trong
quá trình đổi mới và hoàn chỉnh, nhấn mạnh tại Ðại hội X.

Tư tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng quân đội nhân dân và công
an nhân dân của Ðảng là không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây
dựng quân đội và công an vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng các
lĩnh vực khác. Vì thế, trong quá trình đổi mới, Ðảng ta luôn chỉ đạo tập trung
xây dựng những nội dung cơ bản, những vấn đề cốt lõi trong xây dựng quân đội
và công an về chính trị. Ðó là vấn đề bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân,
tính dân tộc của quân đội và công an; lòng trung thành tuyệt đối của quân đội và
công an đối với Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN... Trong xây dựng
quân đội và công an về chính trị, vấn đề giữ vững, tăng cường nguyên tắc Ðảng
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội và công an được Ðảng
ta quan tâm hàng đầu, bảo đảm cho quân đội và công an luôn là lực lượng chính
trị trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, với nhân dân, vững vàng trong mọi tình
huống, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Ðể nâng cao chất lượng đội ngũ, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của
lực lượng quân đội và công an phải thường xuyên đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp đào tạo, huấn luyện; đổi mới vũ khí trang bị, phương tiện;
nâng cao khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, có phương thức
hoạt động phù hợp để sẵn sàng đánh thắng khi có chiến tranh và giữ vững an
ninh quốc gia, ổn định chính trị xã hội tạo điều kiện phát triển kinh tế.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành đối
với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Với vai trò là chủ thể lãnh đạo, mặt
khác xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực quân sự - quốc phòng, Ðảng đã thực
hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với xây dựng nền
quốc phòng toàn dân (QPTD). Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ Ðảng trực tiếp
quyết định chủ trương, đường lối; trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra,
đánh giá quá trình thực hiện xây dựng nền QPTD trong mọi hoạt động. Những
chủ trương, quan điểm, đường lối của Ðảng phải được quán triệt sâu sắc trong
nội bộ Ðảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt là các tổ chức có
liên quan trực tiếp đến xây dựng nền QPTD.

Xuất phát từ những nhận thức mới về quốc phòng, xây dựng nền QPTD và
kết quả thực hiện cơ chế theo Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị. Nghị quyết Ðại
hội X xác định cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền
QPTD, xây dựng LLVTND trên cơ sở những nhận thức mới và điều kiện mới về
xây dựng nền QPTD.

Qua 20 năm đổi mới cùng với những thành tựu về đổi mới tư duy lý luận
nói chung, trên lĩnh vực xây dựng nền QPTD, Ðảng ta cũng đã có nhiều đổi mới
nhận thức khá toàn diện trong quá trình xây dựng nền QPTD. Ðây chính là
những luận cứ làm cơ sở để xây dựng, bổ sung đường lối quân sự, đường lối xây
dựng nền QPTD, xây dựng LLVT. Ðảng coi trọng việc nghiên cứu những diễn
biến của tình hình thế giới và trong nước; dự báo chính xác các tình huống cơ
bản liên quan nhiệm vụ quốc phòng - an ninh để chủ động lãnh đạo xây dựng
chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược tổ chức lực lượng, chiến lược trang bị,
nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, chiến lược bảo vệ các khu trọng điểm quốc gia...
phù hợp với các loại hình tác chiến trong chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ
cao và tác chiến phi vũ trang chống "diễn biến hòa bình", giữ vững an ninh quốc
gia, duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong quản lý, điều
hành quá trình xây dựng nền QPTD trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Ðảng
đối với Nhà nước nói chung, đối với quản lý Nhà nước về quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc. Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ cần
phải xác định đúng những yêu cầu, nội dung và phương thức lãnh đạo của Ðảng
đối với Nhà nước. Yêu cầu phải tiến hành đồng bộ trong quá trình đổi mới gắn
với hệ thống chính trị, với phát huy dân chủ cơ sở, kiện toàn và củng cố hoạt
động của các tổ chức, đồng thời phải cụ thể hóa, thể chế hóa thành luật, điều lệ,
quy chế, nguyên tắc...

Phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cần phân biệt có sự khác nhau giữa sự lãnh đạo
của Ðảng với sự quản lý của Nhà nước, sự khác nhau này xuất phát từ vai trò,
chức năng xã hội của mỗi tổ chức, đồng thời cần thấy rõ mối liên hệ, tính phụ
thuộc lẫn nhau trong một cơ cấu chính trị - xã hội thống nhất. Nhà nước có chức
năng, nhiệm vụ thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Ðảng thành hệ
thống pháp luật, pháp lệnh, nghị định, chính sách và tổ chức triển khai thực hiện
trên phạm vi toàn xã hội về nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Ðây là những văn
bản mang tính pháp quy buộc hệ thống chính quyền các cấp, các tổ chức chính
trị - xã hội, các lực lượng có liên quan phải chấp hành theo đúng chức năng,
quyền hạn của mình.

Ðể tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng
theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng, cần tập trung thực hiện tốt một
số vấn đề cơ bản đó là:

Ðẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các thể chế, quy
định, phương thức hoạt động trong quá trình xây dựng nền QPTD, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện luật pháp, pháp lệnh về bảo
vệ Tổ quốc và hệ thống chính sách đối với công tác quốc phòng. Xác định rõ
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, trách nhiệm của các tổ chức chính trị -
xã hội. Ngoài các luật, pháp lệnh Dân quân tự vệ - Pháp lệnh Quân dự bị động
viên - Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng - Pháp lệnh Cảnh sát biển - Pháp lệnh
Phòng không nhân dân - Pháp lệnh động viên công nghiệp khi có chiến tranh -
Quy định Ðộng viên cục bộ và tổng động viên lực lượng, v.v. cần khẩn trương
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp
quy cao như Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật Biên giới quốc gia,
Luật Giới nghiêm và thiết quân luật, v.v.
Tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật về quốc phòng, quân sự và an ninh,
phối hợp chặt chẽ giữa quân đội và công an, điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý
Nhà nước về quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế vận
hành, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách và bán chuyên
trách về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, địa phương. Ðối với các cơ quan
chức năng cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách tăng cường bồi dưỡng,
hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức xây dựng và quản lý
quốc phòng.

Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo của
Ðảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân và toàn
quân là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
KẾT LUẬN

Hiện nay, cùng những tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ và cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, sự biến động
của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và
thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với sự nghiệp quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, hơn bao giờ hết, chúng ta
luôn tỉnh táo, chủ động ứng phó và giải quyết linh hoạt, hiệu quả mọi tình huống,
góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Trước những diễn biến phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần
luôn đánh giá đúng tình hình, thấy rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, nguy cơ,
thách thức, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối
ngoại của Đảng, Nhà nước; mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị lệ
thuộc, cô lập, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân
dân vững mạnh. Bảo đảm cho đất nước thích nghi, ổn định và phát triển, tạo môi
trường “trong ấm, ngoài êm”, coi trọng giữ vững bên trong, đây là yếu tố quyết
định để giữ vững môi trường ổn định, là điều kiện để đánh bại mọi âm mưu, thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và tác động từ bên ngoài; đồng thời, xây
dựng, củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại, quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Kế
thừa và phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc ta, trên cơ sở phân tích khoa học, lôgic và cụ thể những
đặc điểm của tình hình thế giới, của thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã tổng kết và xác định những quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây
dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những quan điểm này có giá trị to lớn trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn tổ
chức, xây dựng, quản lý nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam bản dự thảo

2. Phùng Kim Lân, Nhận thức đúng về đường lối xây dựng nền quốc phòng
toàn dân của Đảng ta, Tuyên giáo Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương,
ngày truy cập 29/12/2020, http://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-
dang/nhan-thuc-dung-ve-duong-loi-xay-dung-nen-quoc-phong-toan-dan-cua-
dang-ta-125707

3. Lê Nguyên An, Đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ
đổi mới (2015), Cổng thông tin điện tử Bộ quốc phòng nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, ngày truy cập 26/12/2020, http://mod.gov.vn/wps/portal/!
ut/p/b1/vZPLbqNAEEW_JR-
AaMAYzejaGB5mFgYwHBGNsYgm0wfH2YjDTSLJJsZlK1aulWnXtbKjqlYz
q9ZkNdZfe6vWaXX.

4. Đại tá,PGS,TS Đoàn Ngọc Hải, Quá trình đổi mới tư duy quân sự quốc
phòng bảo vệ Tổ quốc của Đảng (2017), Quân đội nhân dân online, ngày truy
cập 25/12/2020, https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-
doi/qua- trinh-doi-moi-tu-duy-quan-su-quoc-phong-bao-ve-to-quoc-cua-dang-
498914.

5. TS. Trần Doãn Tiến, Cơ quan chủ quản: Ban tuyên giáo Trung ương. 2018
Bản quyền thuộc Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày truy cập
24/12/2020, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang.

6. Trung tướng, PGS Lê Minh Vụ, Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, Nhân dân điện tử, ngày truy cập 24/12/2020, https://nhandan.com.vn/tin-
tuc-su-kien/X%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-n%E1%BB%81n- qu%E1%BB
%91c-ph%C3%B2ng-to%C3%A0n-d%C3%A2n- v%E1%BB%AFng-m
%E1%BA%A1nh-501615

You might also like