Professional Documents
Culture Documents
BÀI TẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ 6
BÀI TẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ 6
Và trong nhận định [ 5 ] của Tòa án , đã nhận định khoảng thời gian mà quyền sử
dụng đất đã bị thu hồi :
- “ Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định
của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho
ông D1.”
Như vậy có thể thấy , quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi
hai cụ chết nhưng giá trị sử dụng thì vẫn được pháp luật bảo đảm .
Câu 8 . Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm xác định
di sản cùa cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất ? . Suy nghĩ của anh chị về
hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm ?
Theo quyết định số 58 , tại nhận định [ 5] của Tòa giám đốc thẩm đã xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất :
- Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định
của Luật Đất đai ...
Hướng xác định trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý . Bởi lẽ mảnh đất
M là tài sản chung của cụ C và cụ D , tuy nhiên nó đã được thu hồi theo quyết định
1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 nên di sản còn lại của cụ C và cụ D là quyền sử
dụng đất . Tòa giám đôc thẩm cũng đã nhận định bản án sơ thẩm và phúc thẩm là
chưa chính xác nên đã hủy bỏ và đề nghị xem xét đồng thời giá trị pháp lý của hợp
đồng mua bán nhà, đất giữa ông Trần Văn Y với cụ Nguyễn Thị C và tính hợp
pháp của bản di chúc do cụ D, cụ C lập cũng như Văn bản công bố di chúc mới
giải quyết triệt để vụ án và bảo đảm quyền, lợi ích của các bên .
Câu 9.Đoạn nào của quyết định 58 cho thấy Tòa giám đôc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi ? Suy nghĩ của anh chị về hướng vừa nêu trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Tại nhận định [2] của Tòa giám đốc thẩm đã nhận định về việc định đoạt giá trị sử
dụng đất bị Nhà nước thu hồi :
- Ngày 16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là
bất động sản tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên cho con trai tôi (ông
Nguyễn Văn D1). Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng
M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để lại phần tài sản của mình tại thửa đất nêu
trên cho ông D1, Khi Nhà nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc
nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận
tiền.
Tòa giám đốc thẩm nhận định như trên là hoàn toàn phù hợp , bởi lẽ việc cụ C và
cụ D lập di chúc để lại tài sản cho anh D1 là lúc hai cụ còn sống và mảnh đất đã bị
thu hồi trước đó theo quyết định 1208/QĐ-UBND . Và Tòa giám đốc thẩm đã nhận
định là việc Tòa sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng ông Y có quyền, lợi ích đối với di
sản là thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 18 và có quyền khởi kiện là chưa đủ căn cứ ,
làm ảnh hưởng tới quyền lợi của ông D1.
Bài tập 3: Di chúc chung của vợ chồng.
Câu 1. Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
- Đoạn mà bản án cho thấy di chúc tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng là: “Áp dụng Điều 627, 630 BLDS 2015; khoản 1,5 Điều 147 Bộ
luật tố tụng Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27
Nghị định số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án lệ, lệ phí Tòa án và Điều
26 Luật thi hành án Dân sự.
1. Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng
Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp.”
Câu 2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015. Vì theo đoạn:
“ Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực:
Tại Điều 630 BLDS 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không
bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định pháp luật.
...
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực được coi là
hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.”
Câu 3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
- Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015 là hoàn toàn đúng với pháp
luật. Vì: bản di chúc không người chứng thực của ông X và bà H hoàn
toàn hợp pháp theo Điều 630 BLDS 2015 quy định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đã thừa nhận ông
X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến
thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm
ông X viết bản di chúc còn khỏe mạnh, minh mẫn, không có sự ép
buộc nào.
Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.
Mặt khác, chữ ký và các chữ trên bản di chúc được đem so sánh với
các giấy tờ khác do ông X ghi và ký nhận và giám định bởi Phòng kỹ
thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ kết luận: do cùng một người ký và
viết ra.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc
thờ cúng không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý
để thực hiện việc thờ cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở
hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho
anh Tân và chị Hương.
- Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định
của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người
thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được
dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá
trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho
lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản
lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây
đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung
của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ chỉ được
quản lý. Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán
giá trị di sản phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản
ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.