You are on page 1of 11

BÀI TẬP MÔN LUẬT DÂN SỰ

Bài thảo luận thứ sáu: Quy định về di chúc


Lớp TM44-B3
Nhóm DSB3.1
Họ và tên MSSV
1 Trần Anh Thư 1953801011289
2 Nguyễn Kiều Anh Thy 1953801011297
3 Hoàng Thị Quỳnh Trang 1953801011307
4 Bùi Thị Diễm Trinh 1953801011312
5 Trần Thị Phương Trinh 1953801011315
6 Phạm Thị Thanh Trúc 1953801011317
7 Đặng Duy Trung 1953801011318
8 Võ Thị Lan Vi 1953801011335

Bài tập 1: Hình thức của di chúc


Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lí? Nêu cơ
sở pháp lí?
- Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng
văn bản thì có thể di chúc miệng ( theo điều 627 BLDS 2015 )
- Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau:
 Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không
bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
 Nội dung của di chúc không vi phạm điểm cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của luật.
- Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn
bản và phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám
hộ đồng ý về việc lập di chúc.
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
- Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này.
- Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,
cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng
viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ
của người làm chứng ( Điều 630, BLDS 2015 ).
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lí?
- Những người đã làm chứng di chúc của ông Này gồm ông Chìa, bà Phước
( cha mẹ ông Này ), ông Thành ( em ruột ông Này ) là những người làm
chứng hợp pháp vì những người này:
 Không là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người
lập di chúc.
 Không có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
 Có năng lực hành vi dân sự, nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình ( theo điều 632, BLDS 2015 ).
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết ra không? Vì
sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết. Theo bản án số
83/2009/DSPT ngày 28/12/2019 của TAND tỉnh Phú Yên cho thấy di chúc
do ông Này viết ra và được cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên
làm chứng.
Câu 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc của ông Này tự viết tay.
- Hướng giải quyết của Tòa án là đúng. Tòa án khẳng định di chúc của ông
Này là hợp pháp, là hoàn toàn có cơ sở. Di chúc do ông Này viết tuy không
được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong
lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa và có nhiều
người làm chứng nên được coi là hợp pháp.
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
- Ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc di chúc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Xúy kí tên làm chứng. Ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc
đến cho ông Hoàng Văn Thưởng ( trưởng thôn ) và UBND xã Mai Lâm xác
nhận.
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu
trả lời?
- Ông Hựu không biết chữ. Cụ thể tại Quyết định số 874 có ghi rõ: “Ông
Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 630 Bộ luật dân sự 2015, di chúc hợp pháp
phải thoả mãn các điều kiện sau đây:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Và theo khoản 3 Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Ngoài ra, di chúc còn cần phải thỏa quy định tại Điều 634 BLDS 2015 do
đây là dạng di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Vậy, có 4 điều kiện cần được đáp ứng:
 Di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản.
 Phải có ít nhất 2 người làm chứng.
 Di chúc phải có công chứng hoặc chứng thực.
 Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bảng di chúc trước mặt
những người làm chứng.
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?
- Điều kiện thứ nhất: Do ông Hựu đã đọc cho ông Vũ viết di chúc, điều này
cho thấy di chúc của ông Hựu đã được người làm chứng lập thành văn bản.
- Điều kiện thứ hai: Có hai người làm chứng là ông Vũ và bà Quý.
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
- Điều kiện thứ ba: UBND Xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng
(trưởng thôn) mà không xác định nội dung của di chúc. Ngoài ra, việc chứng
thực di chúc không tuân theo trình tự thủ tục được nêu tại Điều 636 BLDS
2015.
Điều kiện thứ tư: Không có căn cứ để cho rằng di chúc đã được người lập di
chúc điểm chỉ theo đúng quy định do dấu vân tay mờ, không thể hiện rõ các
đặc điểm riêng dẫn đến không đủ yếu tố giám định.
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
- Di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức do vi phạm điều kiện
thứ ba và thứ tư:
Thứ nhất, di chúc không được chứng thực theo đúng thủ tục quy định tại
khoản 2 Điều 636 BLDS 2015. Mặc dù di chúc của ông Hựu đã được hai
người làm chứng, và người làm chứng cũng đã ký tên xác nhận về việc lập
di chúc nhưng việc ký tên không được thưc hiện trước mặt người có thẩm
quyền chứng thực của UBND cấp xã. Điều này được thể hiện qua tình tiết:
sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn một tháng thì ông Vũ và bà Quý mới đem
bản di chúc đó ra công chứng. Bên cạnh đó, người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã cũng không thực hiện bước chứng nhận
bản di chúc trước mặt người lập di chúc là ông Hựu. Hơn nữa, UBND xã
cũng đã xác nhận chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận
đến nội dung của bản di chúc.
Thứ hai, không có căn cứ để cho rằng ông Hựu đã điểm chỉ vào bản di chúc
theo Điều 634 BLDS 2015. Cụ thể, Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh
sát đã kết luận dấu vân tay trên bản di chúc mờ, không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
- Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 thì: “Di chúc của người bị hạn chế về
thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”
Các quy định liên quan đến di chúc của người không biết chữ trong BLDS đi
liền với khá nhiều điều kiện vè hình thức so với di chúc thông thường. Vì
chủ thể lập di chúc là người không biết chữ nên việc phải thỏa mãn hết các
điều kiện từ đọc cho người làm chứng lập thành văn bản, đến việc công
chứng hoặc chứng thực là nhằm đảm bảo quyền lợi và độ xác thực của bản
di chúc. Như vậy, chúng ta có thể hạn chế trường hợp lợi dụng yếu điểm của
người mù chữ có tài sản để lập nên một bản di chúc trái với nguyện vọng và
ý chí của họ.
Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát hơn, các điều luật quy định tuy chặt chẽ
nhưng vẫn không thể xóa bỏ trường hợp di chúc được lập ra không hoàn
toàn truyền tải được ý niệm của người chết. Việc phải thông qua nhiều chủ
thể để cho ra đời bản di chúc cuối cùng suy cho cùng là khá tốn thời gian,
nhân lực. Hơn nữa, các chủ thể này chưa chắc đã nắm được toàn bộ mong
muốn của người lập di chúc nên có thể dẫn đến sơ suất. Các nhà làm luật
nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di chúc của người không biết
chữ như dùng băng ghi hình. Việc lắng nghe trực tiếp tâm tư, nguyện vọng
của chính người lập di chúc sẽ đảm bảo tính xác thực cũng như tiết kiệm
thời gian cho quá trình lập di chúc.
Bài tập 2: Tài sản được định đoạt theo di chúc
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của quyết định 359 cho
câu trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng gồm nhà và đất tại số
302 Nguyễn Nhượng Hiền, p5, Quận Phú Nhuận.
- “Ngày 6/4/2009, cụ Hương mất, để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn
nhà tọa lạc tại số 25D/19 Nguyễn Văn Đậu( Số mới 302 Nguyễn Thượng
Hiền, P5,Quận Phú Nhuận) cho 5 người con..”
Câu 2: Đoạn nào của quyết định số 359 cho thấy tài sản của cũ hương định
đoạt trong di chúc là tài sản chung của 2 vợ chồng?
- “ Cụ Quý và cụ Hương có tạo lập được bất động sản gồm nhà và đất tọa lạc
tại số 25D/19 Nguyễn Văn Đậu ( Số mới 302 Nguyễn Thượng Hiền,
P5,Quận Phú Nhuận), diện tích 699m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 1994, chưa được cấp chủ quyền sỡ hữu nhà.”
Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của quyết định
359 cho câu trả lời?
- Tòa Án chỉ công nhận một phần của di chúc vì tài sản là của cả hai vợ chồng
việc cụ Hương để lại tất cả tài sản của cả hai mà không bàn bạc với vợ là
không đúng.
- “ Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét di chúc của cụ Hương có hiệu lực một
phần đối với tài sản của cụ Hương ( ½ nhà đất) nên được chia đều cho 5
người con là các ông bà..”
Câu 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm?
- Hoàn toàn đồng ý với hường giải quyết của Tòa giám đốc thẩm vì như đã
xét ở trên, tài sản của cả 2 vợ chồng, muốn để lại di chúc cần có sự bàn bạc
giữa 2 bên, một mình cụ Hương không thể dịnh đoạt tất cả tài sản của cả hai
vợ chồng”
Câu 5: Nếu cụ Qúy chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị hợp
lí? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời?
- Theo khoản 1 Điều 626 BLDS 2015 thì khi cụ Qúy mất trước, cụ Hương sẽ
có toàn quyền trong phần lập di chúc “ chỉ định người thừa kế; truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế”. Vậy nên, lúc này phần di cúc của cụ
Hương là hoàn toàn hợp pháp.
Câu 6: Nếu tài sản định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị hợp lí không? Vì
sao?
- Có vì theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 thì phần di chúc này hoàn tòan
hợp pháp.
Câu 7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết .
Trong quyết định số 58 , Theo nhận định [2] của Tòa án tại phiên tòa giám đốc
thẩm đã có nhận định về thời gian mà cụ C và cụ D mất như sau :

- “ Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết. Sau khi cụ D và


cụ C chết, ngày 26-01-2011, Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc (sau đây
viết tắt là Phòng công chứng M) có Văn bản công bố Di chúc ngày 16-12-
2009 của cụ T1 và Di chúc ngày 15-01-2011 của cụ D đối với di sản của hai
cụ là thửa số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M, phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh
Phúc.”

Và trong nhận định [ 5 ] của Tòa án , đã nhận định khoảng thời gian mà quyền sử
dụng đất đã bị thu hồi :
- “ Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định
của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho
ông D1.”

Như vậy có thể thấy , quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi
hai cụ chết nhưng giá trị sử dụng thì vẫn được pháp luật bảo đảm .
Câu 8 . Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm xác định
di sản cùa cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất ? . Suy nghĩ của anh chị về
hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm ?
Theo quyết định số 58 , tại nhận định [ 5] của Tòa giám đốc thẩm đã xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất :
- Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định
của Luật Đất đai ...

Hướng xác định trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý . Bởi lẽ mảnh đất
M là tài sản chung của cụ C và cụ D , tuy nhiên nó đã được thu hồi theo quyết định
1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 nên di sản còn lại của cụ C và cụ D là quyền sử
dụng đất . Tòa giám đôc thẩm cũng đã nhận định bản án sơ thẩm và phúc thẩm là
chưa chính xác nên đã hủy bỏ và đề nghị xem xét đồng thời giá trị pháp lý của hợp
đồng mua bán nhà, đất giữa ông Trần Văn Y với cụ Nguyễn Thị C và tính hợp
pháp của bản di chúc do cụ D, cụ C lập cũng như Văn bản công bố di chúc mới
giải quyết triệt để vụ án và bảo đảm quyền, lợi ích của các bên .
Câu 9.Đoạn nào của quyết định 58 cho thấy Tòa giám đôc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi ? Suy nghĩ của anh chị về hướng vừa nêu trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Tại nhận định [2] của Tòa giám đốc thẩm đã nhận định về việc định đoạt giá trị sử
dụng đất bị Nhà nước thu hồi :
- Ngày 16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là
bất động sản tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên cho con trai tôi (ông
Nguyễn Văn D1). Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng
M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để lại phần tài sản của mình tại thửa đất nêu
trên cho ông D1, Khi Nhà nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc
nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận
tiền.

Tòa giám đốc thẩm nhận định như trên là hoàn toàn phù hợp , bởi lẽ việc cụ C và
cụ D lập di chúc để lại tài sản cho anh D1 là lúc hai cụ còn sống và mảnh đất đã bị
thu hồi trước đó theo quyết định 1208/QĐ-UBND . Và Tòa giám đốc thẩm đã nhận
định là việc Tòa sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng ông Y có quyền, lợi ích đối với di
sản là thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 18 và có quyền khởi kiện là chưa đủ căn cứ ,
làm ảnh hưởng tới quyền lợi của ông D1.
Bài tập 3: Di chúc chung của vợ chồng.
Câu 1. Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?

- Đoạn mà bản án cho thấy di chúc tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng là: “Áp dụng Điều 627, 630 BLDS 2015; khoản 1,5 Điều 147 Bộ
luật tố tụng Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27
Nghị định số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án lệ, lệ phí Tòa án và Điều
26 Luật thi hành án Dân sự.
1. Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng
Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp.”
Câu 2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.

- Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015. Vì theo đoạn:
“ Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực:
Tại Điều 630 BLDS 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không
bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định pháp luật.
...
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực được coi là
hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.”
Câu 3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.

- Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015 là hoàn toàn đúng với pháp
luật. Vì: bản di chúc không người chứng thực của ông X và bà H hoàn
toàn hợp pháp theo Điều 630 BLDS 2015 quy định.
 Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đã thừa nhận ông
X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến
thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm
ông X viết bản di chúc còn khỏe mạnh, minh mẫn, không có sự ép
buộc nào.
 Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.
 Mặt khác, chữ ký và các chữ trên bản di chúc được đem so sánh với
các giấy tờ khác do ông X ghi và ký nhận và giám định bởi Phòng kỹ
thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ kết luận: do cùng một người ký và
viết ra.

Bài tập 4. Di sản dùng vào việc thờ cúng.


Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng cho việc thờ cúng có trách nhiệm
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo điều 645 của BLDS 2015 có quy định:
- Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao
cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc
thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc
không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế
có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lí
để thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người
quản lí di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di
sản thờ cúng. Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc
đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản
lí hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp
luật.
- Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng.”
Câu 2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?
- Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng:
“ Về nội dung: Bà Lâng là mẹ của anh Thảo…có cơ sở chấp thuận”
Câu 3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp lý vẫn thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu.
Điều 645 của BLDS 2015 đáp ứng đúng và đủ trong nghiên cứu trên.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con(tức người thừa kế theo di
chúc của bà Lùng để lại) đồng ý chia di sản.Cụ thể là: anh Thảo, anh
Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được. Còn 2 người không đồng ý chia di
sản là anh Tân và chị Hương.
- Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh
lập di chúc để lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm
2005 năm anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và
chị Hương không đồng ý.”
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng.
- Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan
Thị Hương và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo,
anh Phan Văn Xuân, anhh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc
“Tranh chấp di sản thừa kế”.…

Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh
Tân và chị Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi
bảy triệu bốn trăm hai mươi bốn ngàn đồng).

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc
thờ cúng không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý
để thực hiện việc thờ cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở
hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho
anh Tân và chị Hương.
- Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định
của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người
thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được
dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá
trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho
lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản
lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây
đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung
của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ chỉ được
quản lý. Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán
giá trị di sản phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản
ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.

You might also like