You are on page 1of 13

BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG

CHỨNG KHOÁN

MỤC TIÊU BÀI GIẢNG

1. Hiểu khái niệm thị trường chứng khoán, những đặc điểm và chức năng của thị
trường chứng khoán

2. Hiểu được cấu trúc của thị trường chứng khoán

3. Hiểu được các chủ thể và nguyên tắc tham gia trên thị trường chứng khoán

4. Phân tích được các thành phần và các chức năng của thị trường chứng khoán

5. Nhận thức được vai trò thị trường chứng khoán trong nền kinh tế, vị thế tham
gia của các chủ thể trên thị trường chứng khoán

1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.1. Sự ra đời của thị trường chứng khoán


Sự phát triển của hàng hóa tăng lên nhanh chóng dẫn đến sự ra đời của tiền tệ.
Lượng tiền tệ mà một ai đó nắm giữ thể hiện giá trị vật chất mà người đó đã tích lũy được và
sẽ trao đổi được trong tương lai. Sự khác biệt về sở hữu giá trị trong nền kinh tế tất yếu dẫn
đến sự mất cân đối của hai trạng thái: thiếu hụt và dư thừa tiền (giá trị). Để tạo giá trị gia
tăng, lượng tiền dưới dạng dự trữ phải được thu hút vào lưu thông, hay nói cách khác một số
người sẽ có nhu cầu cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư. Đối lập với tình trạng này,
lại có một số người khác có vốn nhàn rỗi tạm thời muốn cho vay để lấy lãi. Ban đầu những
người trực tiếp thiết lập quan hệ và trao đổi, thường là dựa trên các quan hệ quen biết cá
nhân. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu về vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay và cho
vay trực tiếp dựa trên quan hệ cá nhân tỏ ra không đáp ứng được nữa. Thực tế khách quan
đòi hỏi phải có một thị trường có quy mô, có tổ chức, tạo điều kiện tối ưu nhằm thỏa mãn
cung hay cầu về vốn. Thị trường tài chính ra đời và sau đây chúng ta thống nhất khi nhắc
đến thị trường tài chính sẽ hàm ý những thị trường chính thức trong nền kinh tế.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các
nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định,

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn. Thị trường tài chính định hướng các nguồn tiết
kiệm chủ yếu từ các hộ gia đình tới các cá nhân và các tổ chức cần thêm vốn để sử dụng
ngoài thu nhập hiện tại. Thông qua thị trường tài chính nguồn tiền nhàn rỗi được huy động
vào đầu tư, tạo lực cho sự phát triểu kinh tế.
Trong lịch sử hình thành và phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được
hình thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa cao và ban
đầu nhu cầu về vốn thường ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn
dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao và thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu
cầu vốn này. Để huy động được các nguồn vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng
(hình thức tài chính gián tiếp), chính phủ và một số công ty còn thực hiện huy động vốn
thông qua phát hành các chứng khoán (hình thức tài chính trực tiếp). Sau đó bản thân trung
gian tài chính cũng là chủ thể phát hành chứng khoán thông qua kênh tài chính trực tiếp,
chẳng hạn ngân hàng cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Các chứng khoán ngày
càng tăng lên về số lượng, đa dạng về chủng loại để tăng mức độ hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
Bộ phận các chứng khoán có giá nhất định được phát hành, tất yếu nảy sinh nhu cầu về mua
bán, trao đổỉ, kinh doanh các chứng khoán đó. Vì vậy, thị trường chứng khoán ra đời với tư
cách là một bộ phận của thị trường tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi vốn
thông qua chứng khoán các loại.
Vào giữa thế kỷ XV, tại những trung tâm thương mại ở Phương Tây, các thương gia
thường nhóm họp nhau tại các quán cafe để trao đổi, mua bán hàng hóa... Sau này, với quy
mô và sự đa dạng hàng hóa phát triển đã hình thành nên những khu chợ. Cuối thế kỷ XV, để
thuận tiện hơn cho các giao dịch, các quy ước được thống nhất, sau này được hoàn chỉnh
thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia. Thị trường hình
thành chính thức và ngày càng phát triển.
Phiên chợ đầu tiên diễn ra năm 1453, tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges
(Bỉ), tại đó có treo một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse”, tạm dịch
là mậu dịch, thị trường, hay là Sở giao dịch.
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp
cát nên giao dịch thị trường tại đây bị suy giảm và sụp đổ, sau đó chuyển qua thị trường
Anvers (Bỉ). Thị trường ở đây phát triển rất nhanh và đến giữa thế kỷ XVI, một đại thần Anh
quốc đến quan sát để về thiết lập mậu dịch thị trường tại Luân Đôn (Anh), sau này phát triển
thành Sở giao dịch chứng khoán Luân đôn. Sau đó, các thị trường khác cũng lần lượt được
thành lập như thị trường tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Thị trường phát triển với rất nhiều loại hình hàng hóa và với quy mô ngày càng lớn.
Vì vậy, thị trường phân hóa thành nhiều thị trường nhỏ hơn theo tính chất tự nhiên của các

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
hàng hóa giao dịch: như thị trường hàng hóa, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các
hợp đồng tương lai, thị trường chứng khoán...
Như vậy, quá trình các giao dịch chứng khoán hình thành và diễn ra một cách tự phát
và lần lượt ra đời và phát triển ở các quốc gia khác nhau: Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu,
các nước Tây Âu và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được thực hiện ngoài trời một cách thủ công: đặt
lệnh với các ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến
năm 1921, tại Mỹ, khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán
được chính thức được thành lập.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ tin học, các phương
thức giao dịch tại các Sở giao dịch ngày càng được cải tiến về tốc độ và khối lượng yêu cầu
từ thủ công, bán tự động rồi tự động hoàn toàn. Trải qua rất nhiều thế kỷ phát triển, ngày
nay, các Sở giao dịch chứng khoán trên thế giới đã hoàn toàn sử dụng máy vi tính để truyền
các lệnh đặt hàng và kết nối
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới cho
thấy giai đoạn đầu thị trường phát triển một cách tự phát với sự tham gia của các nhà đầu cơ.
Sau này, khi thi trường phát triển, công chúng cũng tham gia đầu tư. Tuy nhiên, khi thị
trường phát triển quá nhanh, quy mô lớn, giao dịch phức tạp, tất yếu phát sinh những rủi ro,
thậm chí có thể tác động nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, và tâm lý đầu tư. Do
đó cần có sự quản lý của nhà nước, hình thành hệ thống pháp lý điều chỉnh thị trường hoàn
chỉnh để điều tiết hoạt động và tránh những tiêu cực quá lớn cho toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Việc
mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần
đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng
khoán đã được phát hành ở trị trường sơ cấp.
Xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng
khoán.
Xét về mặt bản chất, thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn
vốn tiết kiệm sang đầu tư. Hay nói cách khác thị trường chứng khoán giúp chuyển từ tư bản
sở hữu sang tư bản kinh doanh.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
Xét về phương thức chuyển giao vốn, giao dịch trên thị trường chứng khoán là hình
thức chuyển giao tài chính trực tiếp theo nguyên tắc đầu tư, tức là cả chủ thể cung và cầu
vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Ngược lại, thị trường tài chính gián tiếp
sẽ có sự tham gia của các trung gian tài chính như: ngân hàng thương mại, công ty tài chính,
… Với việc đầu tư qua các trung gian tài chính các chủ thể đầu tư không thể theo dõi, kiểm
tra, quản lý vốn đầu tư của họ. Trong trường hợp đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
tách rời nhau, làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý. Vì vậy, khi đầu tư qua thị trường
chứng khoán, kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư có thể chủ động nâng cao tiềm năng
quản lý vốn.
Qua những khái quát trên, khái niệm thống nhất sẽ là: “Thị trường chứng khoán là nơi
diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi tư bản hàng hóa thông qua các công cụ tài chính
được gọi là chứng khoán”

1.2. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.2.1. Căn cứ vào tính chất luân chuyển nguồn vốn


- Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị
trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang đơn vị phát hành thông qua việc nhà đầu
tư mua các chứng khoán mới phát hành.
- Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp tăng tính thanh khoản của các chứng khoán.
1.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
- Thị trường chứng khoán tập trung
Các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm cụ thể được gọi là thị trường
chứng khoán tập trung. Hình thức chủ yếu hiện nay được thực hiện tại các quốc gia trên thế
giới là Sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tại Sở giao dịch chứng khoán các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá trình ghép lệnh để hình thành lên giá, khối lượng giao dịch của thị trường.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung
Trên thị trường phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC – Over The Counter) các
giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp lãnh

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
thổ quốc gia được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này hình thành
theo phương thức thỏa thuận.
1.2.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán Vốn
Thị trường cổ phiếu là thị trường chứng khoán vốn tiêu biểu. Bên cạnh đó, các chứng
khoán vốn khác cũng có thể được giao dịch trên thị trường như: chứng chỉ quỹ đầu tư.
- Thị trường chứng khoán Nợ
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái phiếu chính
phủ.
- Thị trường chứng khoán phái sinh
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, các công cụ lưu thông trên thị
trường chứng khoán cũng ngày càng phát triển về số lượng và đa dạng về chủng loại. Bên
cạnh các giao dịch truyền thống về cổ phiếu, trái phiếu, các giao dịch mua bán chứng từ tài
chính khác như: quyền mua cổ phần, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện. Các
chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) và
được quyền chuyển đổi sang các chứng khoán qua hành vi mua bán theo những điều kiện
nhất định. Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc chứng khoán, hay gọi là
chứng khoán phái sinh.
Thị trường phái sinh được phát hành trên cơ sở thị trường chứng khoán gốc như cổ
phiếu, trái phiếu… Chứng khoán phái sinh bản chất là một dạng hợp đồng liên quan đến các
chứng khoán (hàng hóa) gốc. Thị trướng chứng khoán phái sinh không có vai trò tạo vốn cho
nền kinh tế. Vai trò chính của thị trường là tăng tính hấp dẫn cho các chứng khoán gốc.
Thị trường chứng khoán phái sinh là thị trường cao cấp chuyên giao dịch những công
cụ tài chính cao cấp, nên đòi hỏi đồng bộ về cơ sở hạ tầng, nhân lực và các yếu tố hỗ trợ
khác.
1.2.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
1.3. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.3.1. Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Sự hoạt động của thị trường chứng khoán tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu. Thị trường chứng khoán cung cấp phương tiện huy động số vốn nhàn
rỗi trong dân cư cho các chủ thể cần vốn sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như doanh
nghiệp phát hành chứng khoán để có vốn đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất
mới, chính phủ phát hành trái phiếu để đầu tư cơ sở hạ tầng, … Khi các nhà đầu tư mua
chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản
xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ
và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng
và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Với xu hướng hội nhập quốc tế trong những thập niên gần đây thì việc chuyển giao
vốn không chỉ diễn ra trong pham vi quốc gia mà trên toàn thế giới. Với việc tham gia của
nhà đầu tư nước ngoài thông qua mua chứng khoán giúp giá trị vốn hóa trên thị trường tăng
lên, tăng tính chuyên nghiệp và vị thế của các doanh nghiệp phát hành trên thị trường quốc
tế. Mặt khác, thị trường chứng khoán nội địa cũng tăng cường cạnh tranh, chuyển giao công
nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý và tăng cường tính hiệu quả.
1.3.2. Chức năng cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh
với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về
tính chất, thời hạn, khả năng đưa lại lợi tức và mức độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể
lựa chọn được loại chứng khoán phù hợp với khả năng, sở thích và mục đích của mình.
1.3.3. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ
sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Thị trường càng năng
động và hiệu quả thì tính thanh khoản của thị trường càng được nâng cao. Khả năng thanh
khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Chức
năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan trọng nhất
đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách năng động, có hiệu quả. Và khi thị
trường chứng khoán hoạt động càng năng động, hiệu quả lại là môi trường tốt nâng cao khả
năng thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
1.3.4. Chức năng đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách
tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp
được nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Các
nhà quản lý thị trường có thể đánh giá sự tăng trưởng ổn định hay suy thoái bất ổn định của
các công ty.
Thị trường chứng khoán phản ánh tình hình tổng thể và chính xác nền kinh tế thông
qua các chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó, giúp các nhà quản lý thị trường nhận
biết tín hiệu, đánh giá thị trường để đưa ra những tác động kịp thời, chính xác, hiệu quả.
1.3.5. Chức năng tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh một cách nhạy bén và chính xác
động thái của nền kinh tế. Giá cả chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền
kinh tế tăng trưởng và ngược lại khi giá cả chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu
cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được coi là hàn thử biểu đo lường tính
chất của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu
chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra,
chính phủ cũng có thể sử dụng một số biện pháp, chính sách tác động vào thị trường chứng
khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Nếu thị trường được tổ chức tốt và hoạt động trong môi trường pháp lý hoàn chỉnh sẽ
phát huy hiệu quả và tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu thị trường
trong tình trạng rối loạn, mất cân đối, giảm lòng tin từ nhà đầu tư, nền kinh tế sẽ chịu những
tổn thất tài chính và phi tài chính rất lớn. Do vậy, thị trường chứng khoán vừa là môi trường
cho các công cụ điều tiết của chính phủ phát huy tác dụng, nhưng mặt khác sự phát triển của
thị trường cũng chịu tác động từ những chính sách của Nhà nước.

1.4. CHỦ THỂ THAM GIA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành 3
nhóm sau: đơn vị phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức liên quan đến chứng khoán.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
1.4.1. Đơn vị phát hành
Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán dưới hình
thức phát hành các chứng khoán. Đơn vị phát hành là người cung cấp các chứng khoán –
hàng hóa của thị trường chứng khoán. Đó là:
- Chính phủ và chính quyền địa phương:
Phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty:
Phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty (đối với công ty cổ phần). Trong đó, các tổ
chức tài chính là phát hành chứng khoán: cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần, trái
phiếu ngân hàng, chứng chỉ quỹ... thường có tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
1.4.2. Nhà đầu tư
Là những chủ thể thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Bao gồm:
- Nhà đầu tư cá nhân:
Là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích
kiếm lời.
- Nhà đầu tư có tổ chức:
Gồm các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên
thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
1.4.3. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán

SỞ GIAO DỊCH
CHỨNG
KHOÁN

CÔNG
TY ỦY BAN CÁC TỔ
CHỨNG NHÀ
NIÊM ĐẦU TƯ CHỨC
YẾT KHOÁN NHÀ KHÁC
NƯỚC

CÔNG TY
CHỨNG
KHOÁN

Sơ đồ 1.1 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
- Uỷ ban chứng khoán:
Cơ quan thuộc quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Ở VN, cơ quan quản lý
cao nhất là (UBCK) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính,
thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị
trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường
chứng khoán theo quy định của pháp luật…
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các
quy định của luật pháp và UBCK. Đây là nơi cung cấp thông tin chỉ số giá chứng khoán như
VN-INDEX…
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán : là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch
chứng khoán. Công ty này cung cấp hệ thống máy tính với các chương trình để thông qua đó
có thể thực hiện được các lệnh giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường,
công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ra đời khi thị trường chứng khoán đó phát triển đến
một trình độ nhất định, triển khai các giao dịch một cách tự động hóa.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán : là tổ chức nhận lưu giữ các chứng
khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
- Nhà môi giới chứng khoán: Các tổ chức này có vai trò kết nối các lệnh mua và lệnh
bán chứng khoán trên thị trường để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mua hay bán chứng
khoán. Có thể hiểu đây là những đại lý mua bán các chứng khoán nhân danh khách hàng
mình. Các nhà môi giới chứng khoán thường là những thành viêc của Sở giao dịch chứng
khoán và là những chủ thể duy nhất được phép giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán.
Nhân viên làm việc cho hãng môi giới thường là những nhà tư vấn cho khách hàng, là những
đại diện hợp pháp của những thành viên. Việc đầu tư qua tổ chức tư vấn tài chính cũng vẫn
phải tuân thủ giao dịch mua bán thông qua một hãng môi giới chứng khoán. Như vậy, một
chứng khoán được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, đều buộc phải thông qua một tổ
chức thành viên nào đó của Sở giao dịch, tức nhà môi giới.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán: là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến
khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay
tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ
chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước
không có loại hình tổ chức này.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng
lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đó cam kết
của công ty phát hành tương ứng với mỗi đợt phát hành cụ thể.
-
1.5. CHỦ THỂ THAM GIA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.5.1. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
- Nguyên tắc cạnh tranh tự do
Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên cơ sở cạnh tranh tự do. Các nhà phát
hành, nhà đầu tư tự do tham gia và rút lui khỏi thị trường. Giá cả trên thị trường phản ánh
mối quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty.
Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình
cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn chứng khoán (hàng hóa). Trên thị
trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một mức lợi
nhuận cao nhất.
- Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở
hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung
cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
Yêu cầu công khai thông tin trên thị trường chứng khoán:
+ Chính xác:
Các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới
những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà
đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên thị trường chứng khoán. Do đó, đòi hỏi thông tin
cần phải chính xác.
+ Kịp thời:
Nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt
hại cho các nhà đầu tư.
+ Dễ tiếp cận:
Công khai thông tin thị trường chứng khoán nhưng phải dễ dàng tiếp cận đối với các
nhà đầu tư. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán ở các nước trên thế giới sử dụng rất nhiều
loại phương tiện để công khai thông tin như báo chí, phát thanh, truyền hình, bảng tin…

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa
rằng, một khi đó được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải
tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
- Nguyên tắc trung gian
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ
chức trung gian là các môi giới chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không
mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ
cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán
chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện
các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
- Nguyên tắc đấu giá
Mọi việc mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán đều hoạt động trên
nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết
định.
Phân loại các hình thức đấu giá:
- Căn cứ vào hình thức đấu giá:
+ Đấu giá trực tiếp:
Là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông
qua người trung gian (một chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch để thương lượng giá.
+ Đấu giá gián tiếp:
Là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán không trực tiếp gặp nhau, mà
việc thương lượng giá được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại, máy tính…
+ Đấu giá tự động:
Là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ của sở giao dịch
với hệ thống máy tính của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua, bán được
truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua – bán có giá phù hợp và thông báo
kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện.
- Căn cứ vào hình thức đấu giá có:
+ Đấu giá định kỳ:
Là hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được tiến hành tại một mức giá duy
nhất bằng cách tập hợp tất cả các đơn đặt hàng mua và bán trong một khoảng thời gian nhất
định. Đấu giá định kỳ là phương thức xác định mức giá cân bằng giữa cung và cầu. Phương
thức đấu giá này rất có hiệu quả trong việc hạn chế biến động giá quá mức phát sinh từ việc
phối hợp những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một cách bất thường như trong
trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, phương thức này không phản ánh kịp thời thông tin

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
về thị trường và hạn chế khối lượng các giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với
giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán khi số lượng khách hàng và khối lượng giao dịch
nhỏ, kém sôi động.
+ Đấu giá liên tục:
Là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến hành liên tục bằng cách
phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp
được. Đặc điểm của đấu giá liên tục là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời với
những thông tin và các nhà đầu tư có thể nhanh chóng phản ứng lại trước những thay đổi
trên thị trường. Hình thức đấu giá này thích hợp với những thị trường có khối lượng giao
dịch lớn và nhiều đơn đặt hàng.
Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về giá
(giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về khách hàng (ưu tiên các
nhà đầu tư cá nhân trước), về quy mô lệnh (cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối
lượng lớn hơn).
- Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc công bằng đảm bảo mọi chủ thể tham gia thị trường đều phải tuân thủ
những quy định chung, bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và có trách nhiệm trước
những vi phạm quy định.

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11
TỔNG KẾT BÀI HỌC

1. Tổng quan về thị trường chứng khoán


- Sự ra đời của thị trường chứng khoán
- Khái niệm thị trường chứng khoán
2. Phân loại thị trường chứng khoán
- Căn cứ vào tính chất luân chuyển nguồn vốn, thị trường chứng khoán được
chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, thị trường chứng khoán
được chia thành thị trường sơ giao dịch tập trung và thị trường giao dịch phi tập.
- Căn cứ vào loại hàng hóa, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường
chứng khoán Nợ, thị trường chứng khoán Vốn và thị trường chứng khoán phái sinh.
3. Chức năng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có các chức năng cơ bản sau: Huy động vốn cho nền
kinh tế, cung cấp tính thanh khoản cho chứng khoán, cung cấp môi trường đầu tư cho
công chúng, đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình nền kinh tế, tạo môi trường
cho Chính phủ điều tiết vĩ mô.
4. Chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán
Hai chủ thể tham gia chính trên thị trường là nhà đầu tư và các chủ thể phát
hành chứng khoán. Ngoài ra, thị trường còn có: Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Sở
giao dịch chứng khoán, Công ty chứng khoán, Trung tâm thanh toán bù trừ chứng
khoán...
5. Các nguyên tắc hoạt động trên thị trường chứng khoán
Khi tham gia trên thị trường chứng khoán cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc trung gian, nguyên tắc cạnh tranh, nguyên tắc đấu giá, nguyên tắc công
khai, nguyên tắc công bằng

Bộ môn Tài chính doanh nghiệp (C) Copyright (11/2020) All Rights Reserved
11

You might also like