You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN


~~~~~~~~*~~~~~~~~

BÀI TIỂU LUẬN


ĐỀ TÀI:

Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng và mô hình kinh

tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên CNXH cùng những tác động tới nền văn hoá

- xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Nhóm thực hiện: Nhóm 11

Lớp: SS010.L24
MỤC LỤC
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................................................1
NỘI DUNG......................................................................................................................... 2
I. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng........................................2
1. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường...............................2
2. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các kỳ Đại hội
3
3. Những thay đổi về tư duy của Đảng ta...............................................................4
II. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên CNXH cùng những tác động tới nền
văn hoá - xã hội ở Việt Nam hiện nay..............................................................................6
1. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.......................6
2. Tác động của kinh tế lên văn hoá – xã hội nước ta..........................................13
III. Kết luận:.................................................................................................................17
IV. Tài liệu tham khảo:................................................................................................17
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã có những bước phát triển rực rỡ. Nền kinh
tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Tốc độ phát triển
bình quân 7.5%. Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu 2005 trên 80 tỷ USD. Các thành phần
kinh tế phát triển nhanh chóng, đa dạng. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt về
nhiều mặt: kinh tế, y tế, văn hóa, xã hội…

Để đạt được những thành tựu to lớn như vậy, Đảng ta đã có những chính sách,
đường lối đúng đắn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là sự thay đổi
tư duy về kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta – một sự thay đổi mang tính
quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu và đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế vững
mạnh.

Nhận ra được tầm quan trọng của đường lối chính sách của Đảng về công cuộc đổi
mới tư duy nền kinh tế thị trường, nhóm 11 chúng em đã làm tiểu luận này để làm rõ quá
trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng đồng thời cũng giúp các bạn tìm
hiểu về mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên CNXH cùng những tác động tới
nền văn hoá - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

1
NỘI DUNG
Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
(1975 – 2018)

I. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng
1. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường
a. Hoàn cảnh kinh tế nước ta những năm 80 thế kỷ 20

Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính và những chỉ tiêu
áp đặt từ trên xuống. Chế độ bao cấp của nước ta được thực hiện dưới các hình thức chủ
yếu: bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.
Với những cơ chế như vậy có những mặt tích cực về việc tập trung vốn cho những lĩnh
vực mũi nhọn trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy cơ chế bao cấp
đã làm tăng gánh nặng đối với ngân sách nhà nước, vừa làm vừa cho nên việc sử dụng
kém hiệu quả, sinh ra cơ chế “xin cho”. Tất cả những điều đó làm cho một số nước
XHCN khác lâm vào tính trạng khủng hoảng, trì trệ.

b. Hình thành sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

Trong 10 năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1985), do chủ quan, muốn
sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm quy luật khách quan là
quan hệ sản xuất phải phù hợp với phát triển của lực lượng sản xuất. Kết quả là kinh tế
suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Việc thừa nhận kinh tế thị
trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là sự phát triển khách

2
quan của nền kinh tế hàng hóa. Mỗi nền kinh tế muốn phát triển bền vững cần phải sử
dụng hiệu quả nền kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm, điều kiện, mục tiêu. Vì vậy,
thực tiễn đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu, vận dụng tốt kho tàng tri thức về kinh
tế thị trường và các quy luật của nó nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.

2. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các kỳ
Đại hội
a. Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII

Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với
thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là thành
tựu của văn minh nhân loại mà chúng ta cần sử dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

“Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất
định của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế
hàng hóa, trong đó các yếu tố đầu vào, đầu ra đều thông qua thị trường; các chủ thể trong
nền kinh tế chịu tác động của các quy luật của thị trường và thái độ ứng xử của họ hướng
vào tìm kiếm lợi ích thông qua sự điều tiết của giá cả thị trường”

Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khái
niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa được sử dụng.

Đến Đại hội VII (6-1991), Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước”.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996), đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: Sản
xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.

3
b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội XI

Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Là một kiểu tổ chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa
trên những nguyên tắc quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và
bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Nội dung cơ bản của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta thể hiện ở 5 tiêu chí:

 Thứ nhất, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”
 Thứ hai, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
 Thứ ba, về chế độ phân phối, có nhiều hình thức trong đó phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
 Thứ tư, phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Nhà nước quản lý và
điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực
lượng vật chất cần thiết.
 Thứ năm, tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo các tổ
chức cơ sở đảng và kiểm tra về phát triển kinh tế.
3. Những thay đổi về tư duy của Đảng ta

Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa
(hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với
nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển.

4
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với trước. Nhìn khái
quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:

 Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ
công hữu đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta có ba chế độ sở hữu cơ bản là
toàn dân, tập thể, tư nhân.
 Từ quan niệm cho rằng phải cải tạo kinh tế tư bản tư nhân, đã đến quan niệm
rằng phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn việc cải tạo phải phù hợp
với tưng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
 Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đã đi đến phân biệt rõ
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh.
 Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân
phối theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động.

Xét về thời gian, tư duy của chúng ta cũng được đổi mới qua nhiều bước:

Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị
trường.

Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không
đối lập với chủ nghĩa xã hội.

Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ.

Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn.

Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn
và đầy đủ hơn vớicác thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi
ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của

5
WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm
thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

II. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên CNXH cùng những
tác động tới nền văn hoá - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Khái niệm
 Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường nói chung là những hình thức phát triển cao của kinh tế hang
hóa, một hình thức ở đó các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường, chịu sự chi phối của
quy luật kinh tế vốn có của nó.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường, trong môi
trường cạnh tranh và lấy lợi nhuận làm thúc đẩy.

 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


Đó là nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là việc sử dụng công nghệ kinh tế
thị trường để thực hiện mục tiêu của CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm mục đích phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống nhân dân.

1.2.Mục tiêu phát triển


Tính định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế-xã hội quy định phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta nhằm mục đích xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”

6
Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng trưởng kinh tế trên
cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tang trưởng kinh tế nếu không phát triển và
quản lý hiệu quả nền kinh tế thị trường. chỉ có sức mạnh của của nền kinh tế thị trường
hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển
theo định hướng XHCN chứ không phải duy nhất kinh tế quốc doanh.

1.3.Các thành phần kinh tế


Đại hội XIII của Đảng nêu rõ vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế.

Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trong để Nhà nước giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,
khắc phục các khuyết điểm của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của nhà nước
được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản
được phân bổ theo cơ chế thị trường.

Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc
phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc
tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Kinh tế tập thể, các hợp tác xã có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên
kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp
tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.

Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ phát triển
thành các công ti, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ;

7
phát triên các công ti cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là
người lao động.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân,
có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lí hiện đại,
mở rộng thị trường xuất khẩu.

1.4.Hình thức sở hữu


Qua những đổi mới đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chứng tỏ
tính đúng đắn của đờng lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do
Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn cho thấy, một nền kinh tế
nhiều thành phần đơng nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, không thể chỉ có hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể nh trớc đây. Hiện nay chúng ta đang xây dựng và
phát triển một cơ cấu sở hữu đa dạng với các hình thức sở hữu: Sở hữu Nhà nước, sở hữu
tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư nhân tư bản và sở hữu hỗn hợp.

1.5.Lực lượng sản xuất chính


Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế XHCN phải có LLSX đạt trình độ cao hơn
về chất so với tiêu chuẩn đặt ra trong quan niệm truyền thống về CNXH. Trình độ đó
không chỉ đo bằng chuẩn “đại Công Nghiệp cơ khí” mà còn được đo bằng chuẩn công
nghệ cao.
Trong nền kinh tế này, yếu tố ngày càng đóng vai trò quyết định là khoa học – kỹ
thuật và trí tuệ con người.

1.6.Phân phối
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay, sự thừa nhận nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đồng nghĩa với việc thừa nhận sự tồn tại nhiều chủ thể kinh
tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau, tuân thủ các quy luật thị trường. Quan hệ phân phối

8
trong việc phân chia nguồn lực, yếu tố sản xuất, của cải và thù nhập, cơ hôi tiềm năng
giữa nhiều chủ thể mang tính đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau.

Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thức XI Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội”

Lao động là nguồn gốc chính tạo ra của cải vật chất và tình thần cho xã hội, tạo ra
sự giàu có của quốc gia. Vì thế, để thực hiện công bằng, phải lấy phân phối theo hiểu quả
kinh doanh và năng suất lao động làm hình thức phân phối chính. Người lao động có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao phải có thu nhập cao hơn.

1.7.Vai trò của đảng và nhà nước


Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển
trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ xã hô ̣i của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo. Nhà nước ngày càng
tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ thể về kinh tế.
Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hô ̣i bằng pháp luâ ̣t, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
và lực lượng vâ ̣t chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luâ ̣t của kinh tế
thị trường, tương thích với thông lệ của các nước; kiến tạo được môi trường vĩ mô; xây
dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã hô ̣i; ban hành cơ chế chính sách về
phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế
gắn với tiến bô ̣ và công bằng xã hô ̣i; bảo vệ môi trường.
Đồng thời, Nhà nước phải bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luâ ̣t kỷ cương trong việc
chấp hành các chính sách, chế đô ̣, sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để tạo điều
kiện và hướng dẫn sự phát triển của các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế.

9
1.8. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
 Toàn cầu hóa

Không ít học giả cho rằng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu từ
đầu thế kỷ XX và đến nay đã có ba làn sóng Toàn cầu hóa:
 Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ hai
với những đặc trưng là: mậu dịch quốc tế phát triển mạnh mẽ, các luồng vốn
đầu tư tăng nhanh, gia tăng di cư liên lục địa; bắt đầu thực hiện phương pháp
sản xuất Taylor; các nước TBCN đi xâm chiếm thuộc địa, chiếm lĩnh thị
trường; các công ty xuyên quốc gia xuất hiện; các tàu biển đang phát triển cùng
với đường sắt.
 Làn sóng toàn cầu hoá thứ hai từ sau chiến tranh thế giới thứ hai tới cuối
thập niên 60. Làn sóng này có những đặc trưng sau: sự hình thành và phát triển
của hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế TBCN và khối kinh tế XHCN;
các thể chế liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực phát triển mạnh, sự ra đời của
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT) có chức năng điều phối hoạt động tiền tệ tài chính
và thương mại toàn cầu; các luồng thương mại, dịch vụ, đầu tư trực tiếp và
gián tiếp, công nghệ và lao động gia tăng mạnh về cả tốc độ và quy mô; bùng
nổ các công ty siêu quốc gia.

 Làn sóng thứ ba từ thập niên 70 tới nay với những đặc trưng là: Hệ thống
tiền tệ thế giới chuyển sang thả nổi; kinh tế thế giới trải qua các chấn động lớn
như giá dầu mỏ tăng cao trong thập niên 70; lạm phát cao; thâm hụt ngân sách
lớn; Liên Xô sụp đổ, hệ thống XHCN tan rã; chiến tranh lạnh chấm dứt; các
ngành công nghệ cao đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển, GATT chuyển
thành tổ chức thương mại thế giới (WTO) v.v..

10
 Giai đoạn từ cuối thập kỷ 80 đến nay vẫn là một giai đoạn toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế nổi rõ nhất với những đặc trưng sau đây:
o Chấm dứt chiến tranh và sự sụp đổ của của hệ thống XHCN
thế giới đã kết thúc thời kỳ thế giới hai cực, chấm dứt sự đối đầu
giữa hai hệ thống, mở ra thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu thực sự
với sự chuyển đổi của các quốc gia từng là XHCN, các nước đang
phát triển sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế;
xu thế hoà bình, hợp tác phát triển đã trở thành xu thế chính của thời
đại.
o Sự bùng nổ của thị trường tài chính toàn cầu
o Sự phát triển mạnh mẽ của cá công ti xuyên quốc gia
o Các nhà nước quoocs gia với chính sách mở cửa và hội nhập
quốc tế đang ngày càng trở thành chủ thể quan trọng của toàn cầu
hóa.
o Các tổ chức xã hội dân sự ngày càng có vai trò lớn hơn trong
nền kinh tế toàn cầu
o Gia tăng hoạt động các tổ chức kinh tế toàn cầu

 Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Đại hội Đảng lần thứ XI nêu hai quan điểm mới:
 Một là, nâng chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” lên thành
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
 Hai là, phát triển chủ trương “là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế” lên thành “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

11
Đại hội XII của Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ: “nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát
triển đất nước”

Hội nhập quốc tế là quá trình bao hàm nhiều phương diện, đối mặt với nhiều thách
thức và áp lực cạnh tranh. Vì thế, cần phải cân nhắc nhiều mối tương quan. “Triển khai
mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội
nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên
cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh
tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong
các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp
tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế
bị động, đối đầu, bất lợi”.

Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối
với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

1.9.Ý nghĩa việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN

Sự lựa chọn mô hình phát triển “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng
nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường
phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).

Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta không
chấp nhận kinh tế thị trường như là một thứ công nghệ – kỹ thuật thuần tuý, hay như một
phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự giàu có cho tư bản, mà phát huy

12
những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phục vụ cho
việc nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và hạnh phúc toàn xã hội. Để đạt điều đó
cần có sự can thiệp mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội.

Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tầng chính
trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập thể
chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhận thức và
vận dụng các quy luật khách quan cũng như vai trò lãnh đạo của chủ thể và kiến trúc
thượng tầng chính trị – pháp lý xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành
công quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.10. Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội


Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh
tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế- xã hội
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh
Thứ ba, xây dựng thống nhất kết cấu hạ tầng và đô thị
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học,
công nghệ
Thứ năm, phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân
Thứ sáu, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Thứ bảy, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiến kiệm, chống lãng phí
Thứ tám, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do,
dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế-xã hội
Thứ chín, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
Thứ mười, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo
môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước

13
2. Tác động của kinh tế lên văn hoá – xã hội nước ta.
a. Tác động lên văn hoá.

 Tác động tích cực:

Trước hết, cần khẳng định, đời sống văn hóa xã hội ta hiện nay so với thời cơ chế
cũ có bước tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội kinh tế và tính tích cực
công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, trong chờ bao cấp
trong cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng dân trí
từng bước được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người được khuyến khích, tôn
trọng. Những nét mới nổi bật ấy được phản ánh qua hoạt động khởi sắc, phong phú, đa
dạng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đời sống, trên báo chí, xuất bản, phát thanh,
truyền hình, giáo dục, văn học, nghệ thuật, ... Trong sự phong phú, đa dạng của đời sống
và hoạt động văn hóa, chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận
dụng và phát triển sáng tạo đóng vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho
xã hội phát triển đúng hướng vì độc lập tự do của Tổ quốc. Vì hạnh phúc nhân dân. Kinh
tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt động xã hội,
phát triển giao lưu hàng hóa, con người và các sản phẩm văn hóa với các nước, giúp nhân
dân tà mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn phương. Các mặt trải của
kinh tế thị trường và mở cửa – dù tác động dữ dội – đã không thể ngăn nỗi nhân dân ta
duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp như thay vỏ nhất vào những dịp kỷ niệm lớn
hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, trường nhà các anh hùng dân tộc, xóa
đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người bất hạn,
v.v...

Ngày nay, toàn cầu hóa đã và đang trở thành một xu thế khách quan, trước hết
trong lĩnh vực kinh tế và từ đó tác động mạnh lên mọi mặt đời sống của tất cả các quốc
gia dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần
nhau, hiểu biết lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và hỗ trợ lẫn nhau. Đất nước
ta nhất định nắm lấy xu thế này, coi đó là một thời cơ lớn, ra sức tận dụng mọi điều kiện
14
có lợi do xu thế ấy tạo ra, đặc biệt để tranh thủ những khả năng vật chất kỹ thuật, khoa
học, công nghệ cao, những kinh nghiệm và trì thực hiện đại cần thiết cho sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, cần thấy toàn cầu hóa hiện nay đang do
chủ nghĩa tư bản chỉ đạo, là một quá trình đầy mâu thuẫn phức tạp. Ở giác độ văn hóa,
toàn cầu hóa đã mở ra khả năng to lớn để giao lưu văn hóa toàn cầu, tạo thêm động lực
cho quá trình đổi mới và hiện đại hóa văn hóa dân tộc. Các dân tộc có điều kiện hiểu biết
và học hỏi lẫn nhau, làm cho “những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc
trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân
tộc ngây càng không thể tồn tại được nữa, và từ những nền văn học dân tộc và địa
phương, muôn hình muôn vẻ đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới”.

 Tác động tiêu cực:

Đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc biệt là nạn tham nhũng, hối lộ,
buôn lậu, gian lận thương mại, mua bằng, bán điểm, mua bán chức quyền trước sự tấn
công của thói lừa đảo, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh đồng tiền và chủ
nghĩa thực dụng. Đó là trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý
tưởng ở một bộ phận đảng viên, cán bộ, kể cả một số cán bộ trung, cao cấp. Đó là nhiều
hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong quan hệ gia đình, đạo lý thầy trò, quan
hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn giá trị và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là một bộ phận
dân cư, kể cả một số thanh niên, học sinh, sinh viên do hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân
tộc, về các giá trị truyền thống mà lịch sử và cách mạng đã xây nên, trong khi đó lại phục
hồi không phân biệt tốt, xấu các vốn cổ dân tộc, đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại
đôi khi đến mức mù quáng, phi lý, kệch cỡm, mất gốc. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng, sự đam mê nhu cầu vật chất và những dục vọng thấp hèn, lối sống bất
chấp đạo lý, dư luận xã hội và luật pháp, đang xô đẩy một số người đi vào con đường tội
lỗi. Tất cả những hiện tượng trên đang làm vẩn đục môi trường xã hội – văn hóa, gây bất
bình lớn trong nhân dân, làm xói mòn nền tảng tinh thần xã hội, tạo miếng đất màu mỡ
cho sự xâm nhập sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài. Những biến đổi phức tạp trong
văn hóa gắn với thị trường toàn cầu mà căn bản đang là thị trường tư bản chủ nghĩa, lại

15
đặt các nước đang phát triển trước những thách thức to lớn. Sự tác động của chủ nghĩa
thực dụng, “văn hóa tiêu dùng” đang dẫn đến nguy cơ đồng nhất về văn hóa, về lối sống,
một số thói quen và hình thức giải trí lại căng. Các hãng tư bản độc quyền xuyên quốc gia
ra sức tuyên truyền, quảng cáo cho các sản phẩm mang tính toàn cầu có thể làm thay đổi
nếp sống và văn hóa truyền thống của các dân tộc theo hướng “Tây hóa”, “Mỹ hóa”.
Đứng trước thực trạng này, có lúc ngay Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Pháp cũng phải kêu
lên: Văn hóa không phải là một thứ hàng hóa thông thường. Mối nguy cơ thực sự chính là
quan điểm kiểu Mỹ về văn hóa, theo đó văn hóa cũng là một thử hàng hóa thông thường.
Chúng ta phải đấu tranh chống lại “thương mại hóa” ngày càng gia tăng đối với các hoạt
động của con người, không cho tiền công nghiệp giải trí Mỹ vốn đã đạt được hiệu quả
chính trên thị trường của họ giờ đây lại chiếm lĩnh nốt mọi không gian sáng tạo của các
nền văn hóa khác. Có thể nói, toàn cầu hóa bên cạnh mặt tích cực, đang đặt văn hóa dân
tộc trước những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị tha hóa tiểu thiệu bản sắc độc lập, tự
chủ. Quá trình toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, nếu áp dụng cho văn hóa, về thực chất có
nghĩa là chủ nghĩa đế quốc văn hóa, nó đưa những giá trị phương Tây thông trị thế giới,
nó đe dọa xóa bỏ sự khác biệt về nền văn hóa giữa các quốc gia dân tộc, giữa các vùng,
các khu vực, sẽ làm nghèo đi sự đa dạng phong phú của bức tranh văn hóa nhân loại;
nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống sẽ dẫn đến xóa bỏ ý thức dân
tộc, làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa.

b. Tác động lên xã hội.

 Tác động tích cực:

Nền kinh tế thị trường đang chia đều cơ hội của tất cả mọi người dưới sự lãnh đạo
của Đảng đang trở nên công bằng và bình đẳng. Giúp xã hội phát triển theo hướng tích
cực, nhiều của cãi được tạo ra phục vụ đầy đủ thăm chia là vượt qua nhu cầu của rất
nhiều người. Cạnh tranh thì giúp cho chất lượng và giá cả ngày càng phù hợp với người
tiêu dùng hơn.

16
Có thể nói nên kinh tế thị trường là sân chơi giúp cho tất cả các doanh nghiệp và người
tiêu dùng thỏa mãn được tất cả như cầu của mình.

 Tác động tiêu cực:

Như đã nói kinh tế thị trường là một nền kinh tế đầy cạnh tranh nên sự phân hoá
giàu nghèo ngày càng sâu sắc hơn, người giàu thì được hưởng thụ các nhu cầu một cách
dư thừa còn người nghèo lại khó có khả năng đó.

Từ đó còn người và xã hội chạy theo vật chất bất chấp thủ đoạn khiến xã hội rối
loạn hơn. Phải nói nếu không có sự điều hoà của Đảng và nhà nước thì xã hội hiện tại
không còn được yên bình.

Tuy nên kinh tế thị trường có nhiều tác động tích cực lên xã hội nước ta nhưng nó
cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.

III. Kết luận:


Do nhảy từ chế độ phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa
nên nước ta cần thời kỳ quá độ, mà mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là mô hình cần thiết cho thời kỳ quá độ. Tuy có nhiều mặt tích cực
nhưng song song với đó nó cũng có nhiều mặt tiêu cực gây trở ngại lớn cho quá trình tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên ta cần phải phát huy các mặt tích cực, khắc phục các
mặt tiêu cực để chuẩn bị sẵn sàng tiến lên chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội mới là
mục đích cuối cùng của nước ta hiện nay.

IV. Tài liệu tham khảo:


1. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực
hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015.
2. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Báo cáo phát triển thường niên.

17
3. Dự thảo các văn kiện trình đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại Đại đảng bộ
cấp cơ sở)
4. Đảng cộng sản Việt Nam. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài
liệu sử dụng tại Đại hội đảng bộ cấp cơ sở).
5. Đảng cộng sản Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.

18

You might also like