You are on page 1of 15

Đề bài

1.Tại sao lợi nhuâ ̣n bình quân 1 lần nữa che đâ ̣y bóc lô ̣t của tư bản.

Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau đầu tư
vào các ngành khác nhau( Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-
Lenin). Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành khác nhau ban đầu
rất khác nhau. Nhưng do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác
nhau đó san bằng thành tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số trung bình của những
tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Khi đó lượng lợi nhuận của tư bản ở các ngành khác
nhau nếu lượng tư bản ứng ra bằng nhau đều tính theo lợi nhuận bình quân.

Đầu tiên lợi nhuận chính là giá trị thặng dư được quan niệm là toàn bộ tư bản ứng
trước và lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.
Do đó, lợi nhuận che đậy được bản chất bóc lột là vì: lợi nhuận được biểu hiện
trong lưu thông mà giá trị thặng dư chỉ được tạo ra trong quá trình sản xuất, nó
phản ánh sai lệch bản chất bóc lột bởi vì nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa với giá cả
lớn hơn chi phí đầu tư và nhỏ hơn giá trị hàng hóa là đã có thể thu được lợi nhuận,
nhà TB cho rằng mình thu được lợi là do khả năng mua bán, hơn nữa, do đầu tư chi
phí K mà nhà tư bản thu được lợi nhuận chứ không phải lợi nhuận chỉ xuất phát từ
tư bản khả biến v.

Hơn thế nữa, lợi nhuận bình quân thường thấp hơn giá trị thặng dư mà sức lao
động tạo ra. Vì chỉ cần ở một mức lợi nhuận vừa phải không nhất thiết phải bằng
giá trị thặng dư nhà tư bản đã có lời. Việc lợi nhuận hay lợi nhuận bình quân thấp
hơn giá trị thặng dư càng che dấu bản chất lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản thu
được là xuất phát từ giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư trở thành lợi nhuận bình
quân; quy luật giá trị thặng dư biến thành quy luật lợi nhuận bình quân. Cái gọi là
giá trị thặng dư do sức lao động của người lao động tạo ra đã được che đậy bới lợi
nhuận do nhà kinh doanh bỏ vốn đầu tư mà có. Hơn thế nữa lợi nhuận ấy lại cân
bằng và ổn định trên thị trường thì không có quá nhiều điểm để nghi vấn liệu lợi
nhuận ấy có phải do bản thân nhà tư bản tự tiến hành bóc lột sức lao động nhân
công của mình…Vì vậy, sự hình thành lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa
bản chất bóc lột sức lao động của chủ nghĩa tư bản

http://luanvan.co/luan-van/su-boc-lot-suc-lao-dong-cua-chu-nghia-tu-ban-50504/
(trang 9,10)

2. Tại sao nguyên tắc trao đổi ngang giá lại phổ biến, chứng minh qui tắc trao
đổi ngang giá

qui tắc trao đổi phổ biến là qui tắc ngang giá. tại vì cả 2 đối tượng tham gia trao đổi
đều cần sản phẩm của người còn lại và để việc trao đổi công bằng cho hai bên thì
phải trao đổi dựa trên ngang giá tức là cùng mức hao phí lao động như nhau.

3. Phân tích đă ̣c trưng sản xuất TBCN (chứng minh bản chất của tư bản chủ
nghĩa)

1. Đặc trưng của quá trình sản xuất TBCN


+ Công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
+ Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư của nhà tư bản
Để hiểu quá trình sản xuất tư bản ta hãy ví dụ: Để sản xuất sợi nhà tư bản phải mua
các yếu tố sản xuất. Giả định việc mua này đúng giá trị. 
10 kg bông giá: 10 đô la;
Mua sức lao động sử dụng một ngày 3 đô la;
Hao mòn máy móc 2 đô la để chuyển hết 10 kg bông thành sợi.
Giả sử trong 4 giờ đầu, bằng lao động cụ thể người công nhân chuyển hết 10 kg
bông ra sợi. Bằng lao động trừu tượng công nhân tạo thêm giá trị mới là 3đô la,
bằng với tiền công của mình tức tiền mua sức lao động của nhà tư bản.
Đến đây sản phẩm của qúa trình lao động trong 4 giờ có tổng giá trị là 10+2+3=15
đô la. Nếu ngày lao động chỉ có 4 giờ thì nhà tư bản không có lợi gì. Nhưng việc
thuê lao động là 8 giờ, theo ngày, do vậy, công nhân tiếp tục lao động thêm 4 giờ
nữa.Trong 4 giờ sau, nhà tư bản chỉ chi phí thêm:
10 đô la mua bông + 2 đô la hao mòn máy móc. Còn lao động của công nhân
không đươc trả công nhưng họ vẫn hao phí một lượng lao động kết tinh vào trong
sợi là 3 đô la. Kết quả của 4 giờ lao động sau tạo ra sợi có gía trị là 15 đô la.
Tổng cộng ngày lao động 8 giờ nhà tư bản chi phí:
Mua bông 20 đô la
Hao mòn máy 4 đô la
Trả công cho công nhân 3 đô la
Tổng cộng chi phí tư bản 27 đô la.
Nhưng chi phí lao động thực tế (lao động sống và lao động quá khứ) để sản xuất
hàng hóa sợi của nhà tư bản có giá trị 15 + 15 = 30 đô la. Như vậy so với chi phí tư
bản, nhà tư bản thu được 3 đô la dôi ra. Ba đô la đó chính là gía trị thặng dư. 
Gía trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hoá sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

Đến đây ta hiểu: Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công
nhân làm thuê.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công nhân làm
thuê dưới hình thức giá trị thặng dư.
Nhà tư bản dùng hai phương pháp phổ biến để sản xuất ra giá trị thặng dư: Phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ; Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối.
3. Các yếu tố tham gia quá trình sản xuất TBCN
+ Tư liệu sản xuất (tư bản bất biến, kí hiệu C) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình
thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu…)
trong quá trình sản xuất, mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào
trong sản phẩm mới, tức là giá trị của nó không tăng lên.
+ Sức lao động (tư bản khả biến, kí hiệu V) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình
thức sức lao động trong qúa trình sản xuất được tăng lên về lượng do đặc điểm giá
trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. 
Việc phân chia c, v đã chỉ rõ nguồn gốc của gía trị thặng dư là do lao động của
công nhân trong quá trình sản xuất của cải vật chất làm ra và không được trả công.
Còn tư liệu sản xuất, máy móc có vai trò rất quan trọng, nó quyết định năng xuất
lao động của công nhân. 
Giá trị của hàng hóa = c + v + m
4. Quy luật kinh tế cơ bản của CNTB là quy luật giá trị thặng dư. 
Quy luật này vạch rõ mục đích và phương tiện để đạt mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
+ Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư càng
nhiều càng tốt. Vì mục đích này, nhà tư bản sản xuất bất cứ hàng hoá gì.
+ Phương tiện để đạt mục đích là cải tiến và phát triển khoa học kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày lao động.
Vai trò, tác động

Chứng minh: Chủ nghĩa tư bản gắn liền với kinh tế thị trường tự do cạnh tranh tìm
kiếm và mở rộng thị trường mục đích tạo ra lợi nhuận hay giá trị thặng dư, để tạo
ra được giá trị thăng dư thì rất yếu phải có sự bóc lột. Chủ nghĩa tư bản hay giai
cấp tư sản cũng không nằm ngoài mục đích là tạo ra nhiều lợi nhuận và giá trị
thặng dư mà hơn thế là liên kết với nhau tạo thành các tập đoàn kinh tế xuyên quốc
gia để bóc lột triệt để sức lực của người lạo động làm thuê. Nơi nào còn giai cấp,
còn đấu tranh giai cấp, còn cạnh tranh tìm kiếm lợi nhuận thì nơi đó còn bóc lột.
Việt Nam không ngoại lệ, tuy nhiên VN phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà
nước là hướng tới một xã hội tốt đẹp, xã hội cộng sản và xóa bỏ dần sự bóc lột. Để
thực hiện được điều này rất cần có sự chung tay góp sức của thế hệ trẻ như chúng
ta đấy bạn ạ.

4.ý nghĩa của các giả định khi nghiên cứu quá trình sản xuất thặng dư? Các
giả định này có đúng trong thực tế không và việc này ảnh hưởng gì tới kết quả
nghiên cứu

Ý nghĩa các giả định khi nghiên cứu quá trình sản xuất thặng dư:

Việc đưa ra các giải định khi nghiên cứu là phương pháp trừu tượng hóa khoa
học: loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản ra khỏi đối tượng nghiên cứu.
Nó nhằm mục đích:

- Điều kiện 1:

+ Loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, không quan trọng

+ Đơn giản hóa quá trình nghiên cứu

+ Là trường hợp phổ biến nhất trong xã hội

+ Góp phần khẳng định: ngay trong trường hợp trao đổi phổ biến nhất của thị
trường – trao đổi ngang giá- nhà TBản vẫn thu được giá trị thặng dư.
- Điều kiện 2:

Đk sản xuất trung bình của XH là ĐK phổ biến trong XH. Giả định này giúp khẳng
định ngay cả khi ĐKSX trung bình vẫn thu được GTTD (mà không cần có ĐKSX
tiên tiến, lao động CLC hơn mức trung bình).

=> Từ đó rút ra được bản chất, nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư => Lí giải
bản chất thực sự của sự giàu có lên của toàn XH

* Các giả định không tồn tại trên thực tế vì:

+ Vẫn có trường hợp trao đổi không ngang giá (mua rẻ, bán đắt)

+ 1 số nhà TBản có Đkiện sxuất cao hơn mức trung bình, ngược 1 số nhà TBản có
ĐK sản xuất thấp hơn mức trung bình

*… không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu vì:

+ Ngay cả khi trao đổi diễn ra theo nguyên tắc phổ biến của XH – nguyên tắc
ngang giá – thì nhà TBản vẫn thu được GTTD. Trong khi trên thực tế, nhà tư bản
còn tìm mọi cách để mua rẻ, bán đắt để thu được lợi nhuận cao hơn.

+ Trường hợp mua rẻ bán đắt: sự giàu có lên của người này là sự thiệt hại của đối
tác => xét trên phạm vi toàn XH: không có sự tạo ra GTTD

+ Trong nền kinh tế hàng hóa, tại 1 thời điểm nhất điịnh có thể có trao đổi không
ngang giá nhưng không phổ biến ( khi lời thế thuộc về 1 bên – cung >cầu hoặc
cung<cầu). Nhưng tình trangk đó không kéo dài đc mãi mãi, xu hướng thị trường
luôn là gias cả cần bằng với giá trị , quay trở về giá trị, vì gnười sx sẽ điểu chỉnh
cung tương ứng với cầu.

5. Nếu tư bản trả lương theo đúng giá trị lao động của công nhân thì tư vản có
thu được giá trị thặng dư không? Tại sao?

nhà tư bản mua hàng hóa tức là mua TLSX và SLD. TLSX không tạo ra GTTD vì
nó được chuyển hóa nguyên vẹn vào sản phẩm. Ta xét việc mua GT hàng hóa sức
lao động với giá cả bằng giá trị. phần giá trị HH SLD ở đây là phần giá trị hiện tại,
do đó giá cả của SLD nếu mua bằng giá trị thì giá cả = giá trị hiện tại. Nhưng vì
hàng hóa SLD là loại hàng hóa đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó là quá trình sản
xuất ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân SLD. Do đó nhà tư bản vẫn sẽ thu được GTTD.

trong trường hợp nhà tư bản trả lương cho CN bằng giá trị sức lao động thì nhà tư
bản vẫn thu được giá trị thặng dư bởi vì:
Khi xét đến các tư liệu sản xuất cấu thành lên giá trị hàng hóa, tư bản khả biến sẽ
chuyển hóa toàn bộ vào sản phẩm, còn tư bản bất biến ( sức lao động) qua quá
trình sản xuất sẽ tạo ra giá trị mới, giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động bởi
vì Hàng hóa SLĐ là 1 hàng hóa đặc biệt nó tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân
nó, sự chênh lệch này chính là 1 phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được. do
đó nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền
nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình
thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động
gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng
giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra
đó gọi là giá trị thặng dư. 

Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một
giờ làm ra được giá trị sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở
sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100 đồng.
Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động. 
Theo như trên thì cho dù nhà TB có trả đúng mức lương cho công nhân thì vẫn thu
được giá trị thặng dư.

6. Tại sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch có tính chất tạm thời nhưng lại là
hiện tượng phổ biến trong XH. Tại sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch là động
lực thúc đẩy các nhà tư bản nâng cao năng suất lao động?

Ý một: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa
thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kĩ thuật
và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp
đó sẽ không còn nữa. 
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời,
nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng
năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. Vì vậy,
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối.

Ý hai: - Quá trình cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương
pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm
giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu
dược giá trị thặng dư siêu ngạch.
- Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá thặng dư thu được do tăng
năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị
trường của nó.
- Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh
chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xót toàn bộ xã hội tư bản
thân giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá
trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc
đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Tăng năng suất lao dộng,
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối cùng có một cơ sở chung
đó là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần
thiết.
- Điểm khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn
giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị
thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ
kỹ thuật mới được áp dụng ở các tư bản cá biệt trở thành phổ biến trong xã hội. Vì
thế, C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối.
+ Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu dược. Nó biểu
hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó
thì nó thể hiện quan hệ giữa giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các nhà tư bản.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới
trong cuộc cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư
siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư
bản, mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất,
hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng xuất lao động giảm
giá trị của hàng hoá.

7. Tại sao nói lợi nhuận biểu hiện ra bên ngoài dường như không phải là giá
trị thặng dư?

Vì thông thường lợi nhuận là do tài kinh doanh và vốn đầu tư thu được còn giá trị
thặng dư là phần giá trị tăng thêm do người lao động tạo ra.
Trong toàn xã hội, trao đổi ngang giá là phổ biến
=> doanh thu = giá cả = v+c+m = giá trị hàng hóa
chi phí sản xuất = c+v
=> lợi nhuận = m = giá trị thặng dư
=> lợi nhuận # giá trị thặng dư khi trao đổi không ngang giá (mất cân = cung –
cầu)

+ LN < giá trị thặng dư -> cung > cầu


+ LN > giá trị thặng dư -> cung < cầu
-> Trong một số trường hợp, tại một thời điểm cụ thể -> lợi nhuận # giá trị thặng
dư. Còn trong dài hạn, lợi nhuận = giá trị thặng dư
=> Lợi nhuận bắt nguồn từ giá trị thặng dư
* Có thể nói lợi nhuận là do tài kinh doanh.

–     Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có sự
chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hoá (giả định: giá cả = giá trị), nhà tư bản
không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu về được một số tiền lời
ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu: p.
Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ
của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức biến tướng là lợi nhuận. Hay lợi
nhuận là số tiền lời mà nhà tư bản thu được sau khi bán hàng hoá đo có sự chênh
lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí tư bản.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:
W = c + v + m = k + m bây giờ sẽ chuyển thành: W = k + p
–     So sánh giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận:
+ Giống nhau, cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều có chung một nguồn
gốc là kết quả lao động không công của công nhân.
+ Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn gốc và bản chát của
nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân, còn phạm trù
lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.
–     Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư
bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta hiểu lầm rằng giá trị thặng dư
không phải chỉ do lao dộng làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện tượng đó là:
+ Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa nhoà sự khác
nhau giữa c và v.
+ Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực
tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phi sản xuất tư bản chủ
nghĩa và có thế thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi.
Nhìn vào hình thức, lý luận giai cấp tư sản cho rằng, lợi nhuận là do lưu thông sinh
ra. Vì nếu:
Giá cả = giá trị thì p = m
Giá cả > giá trị thì p > m
Giá cả < giá trị thì p < m
Nhưng xét trong toàn xã hội thì tổng giá cả luôn băng tổng giá trị, do đó tổng p
luôn luôn bằng tổng m.

8. Tại sao sức lao động lại là một loại hàng hóa đặc biệt

Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính: giá trị
và giá trị sử dụng. Nhưng trong cả 2 thuộc tính đó của hàng hóa sức lao động đều
tồn tại những khía cạnh khác biệt để có thể khẳng định rằng: hàng hóa sức lao
động là hàng hóa đặc biệt. Trong thuộc tính “ giá trị”: là hàng hóa đặc biệt, giá trị
hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó còn bao gồm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất,
người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa… Những nhu cầu đó
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn
phụ thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó. Trong thuộc tính “ giá trị
sử dụng”: cũng giống như hàng hóa thông thường khác giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Nhưng quá trình
sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở
chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiên dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn
giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động, đó lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó,
đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa
sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã chiếm
đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó
là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Nói cách khác, hàng hóa sức lao động tạo ra giá trị thặng dư khi được
đem vào sử dụng và chỉ có hàng hóa sức lao động mới có thể tạo ra giá trị thặng
dư. Chính vì vậy mà hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt khác hẳn với
những hàng hóa thông thường khác. Hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải
quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản: T - H - T’ với T’ = T + AT.
Điều đặt ra là giá trị thặng dư (AT) do đâu mà có? Trong lưu thông, dù người ta
trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó
cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình
thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị của hàng
hóa trong xã hội cũng không tăng lên. Ngoài lưu thông cũng không tạo ra giá trị
thặng dư. Nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh ta, thì giá
trị của những hàng hóa ấy không hề tăng lên một chút nào. Ở ngoài lưu thông, nếu
người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hàng hóa thì phải bằng lao
động của mình. Vậy giá trị thặng dư không xuất hiện từ lưu thông cũng không xuất
hiện ngoài lưu thông, vậy giá trị thặng dư tạo ra từ đâu? Đó chính là từ hàng hóa
sức lao động. Bởi vì quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản
xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị
thặng dư. Từ đó cho thấy hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản.Chính hàng hóa sức lao động trong quá
trình được sử dụng đã tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản và việc nghiên cứu
hàng hóa sức lao động đã chỉ rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
9.  Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của tư bản sản xuất

- Tỷ suất lợi nhuận


- Khái niệm : Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
toàn bộ tư bản ứng trước.
+ Công thức: nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có:

+ So sánh tỷ suất lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư:
Lợi nhuận là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng
là sự chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Nhưng giữa m’ và p’ lại có sự khác nhau cả về chất và lượng.
+ Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê, còn p’ không thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức doanh lợi của
việc đầu tư tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi
hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy
các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Về mặt lượng: p’ luôn luôn nhỏ hơn m’, vì:

- Các nhân tố ảnh hướng tới tỷ suất lợi nhuận


+ Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Ví dụ:
Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là 800c + 200v + 200m thì m' = 100%, p’ = 20%.
Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là 800c + 200v + 400m thì m’ = 200%, p’ = 40%.
Do đó tất cả các thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư cũng
chính là những thủ đoạn nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng
cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
Ví dụ:
Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 70c + 30v + 20m thì p’ = 30%.
Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 80c + 20v + 20m thì p’ = 20%.
Thông thường, khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thì suất giá trị thặng dư cũng có
thể tăng lên, nhưng không thể tăng đủ bù đắp mức giảm của tỷ suất lợi nhuận.
+ Tốc độ chu chuyển của tư bản:
Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư
trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng
lên làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

10. Chứng minh nguyên tắc trao đổi phổ biến nhất trong nền kinh tế hàng hoá

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì nó
quy định bản chất của sản xuất hàng hoá, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của
sản xuất hàng hoá 
- Nội dung của quy luật giá trị: 
Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết. 
- Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao
phí sức lao động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí sức lao động xã
hội cần thiết, có như vậy họ mới có thể tồn tại được. 
- Trong trao đổi, hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng
hoá trao đổi được với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau, hoặc
trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị. 
- Cơ chế tác động của quy luật giá trị được thể hiện cả trong trường hợp giá cả
bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. 
Ý nghĩa : - Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá được thể hiện trong hai trường
hợp sau: 
+ Thứ nhất: Nếu như một mặt hàng nào đó có giả cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán
chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư
liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hoá khác cũng
có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng. 
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn.
Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở
ngành này giảm đi ở ngành khác lại có thể tăng lên. 
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục
sản xuất mặt hàng này. 
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức
lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ưng nhu cầu của xã hội. 
Tác động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút
hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho
hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. 
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá
thành sản phẩm: 
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức
hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều
phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy người sản
xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích
thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến
tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xuất. 
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn.
Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng
suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng
giảm xuống. 
- Phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành giàu, nghèo: 
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua
sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động
trở thành ông chủ. 
+ Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào đó có mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào
tình trạng thua lỗ, nghèo đi thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. 
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản. 
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những
biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.

11. Nguồn gốc ra đời của tiền tệ

Theo Mác tiền tệ là sản phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Khi nghiên cứu về tiền Mác viết: "Tiền là một vật được kết tinh, hình thành một
cách tự nhiên trong trao đổi". Như vậy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của tiền
tệ là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng
phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con người cũng đi
kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ người sản xuất ra
lúa cần cái rừu để cuốc đất nhưng người có rừu không cần lúa mà cần vải, việc này
buộc người có lúa phải đổi lấy vải và sau đó dùng vải để đổi lấy rừu. Nhu cầu trao
đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức tạp hơn.
Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra tìm những vật làm trung gian cho các cuộc trao
đổi đó, đây là vật ngang giá.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua bốn giai đoạn:
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa ngẫu nhiên phản ánh
giá trị của một hàng hoá khác
Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng: khi nhiều hàng hoá đều có khả năng trở
thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó
Hình thái giá trị chung khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để
thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác.
Có nhiều loại hàng hóa đã từng được sử dụng để làm vật ngang giá chung như: gia
súc, đồng, bạc, vàng... Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi riêng khi
làm phương tiện trao đổi - vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá chung
bằng hàng hóa chỉ được hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn, trong đó
chủ yếu là vàng.
Khi phần lớn các quốc gia, các vùng đều sử dụng vàng làm vật ngang giá chung
trongtrao đổi hàng hóa với nhau (khoảng cuối thế kỷ 19), vàng loại bạc và trở
thành vật ngang giá chung - thế giới độc nhất.
Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu
cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế. 

You might also like