You are on page 1of 9

Phần I:

Câu 1: PTBĐ chủ yếu: nghị luận


Câu 2: Nd văn bản: hãy cứ mở rộng tấm lòng, cho đi sự sẻ chia yêu thương và nhận lại niềm hạnh phúc, ấm áp trong tâm hồn của chính
mình …..
Câu 3: “ Được san sẻ là một đặc ân.” Thật vậy, được chia sẻ, trao gửi yêu thương tới mọi người xung quanh luôn mang ý nnghĩa đặc
biệt. Mỗi người chúng ta đều hoàn thiện hơn nhân cách của chính mình, ta tạo ra được năng lượng tích cực cho mỗi người xung quanh;
xã hội cũng vì những tấm lòng đáng quý ấy mà trở nên trong sạch, tốt đẹp, đáng sống hơn, niềm vui và sự hạnh phúc sẽ đọng lại mãi còn
nỗi đau sẽ chìm trong lãng quên. Dù đối với cá nhân hay xã hội, lối sống vị tha, chia sẻ, cảm thông luôn mang lại nhiều điều kỳ diệu.
Câu 4: Những hành động cụ thể của bản thân thể hiện sự chia sẻ, yêu thương của bản thân đối với mọi người xung quanh:
Hiếu thảo, nghe lời ông bà cha mẹ, chia sẻ với những khó khăn áp lực trong cuộc sống với ba mẹ bằng cách phụ giúp làm việc nhà, cùng
trò chuyện với nhau để gia đình thêm thấu hiểu, gần gũi
Hoà đồng, thân thiện với bạn bè, chủ động giúp đỡ bạn trong những lúc khó khăn, là nơi gửi gắm tâm sự đáng tin cậy của bạn bè.
Cố gắng học tập thật tốt để đền đáp công ơn của ba mẹ, để không phụ sự kỳ vọng của gia đình dành cho mình.
Sống thật tốt, trở thành người có ích cho xã hội, lan toả thông điệp “cho đi là còn mãi” cho nhiều người để chung tay tô điểm thêm cho
cuộc sống những điều tốt đẹp.
Phần II:
Câu 1:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót ,chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
Được sẻ chia, trao gửi yêu thương đến cuộc sống là món quà tuyệt vời mà con người dành tặng cho chính mình. Lối sống “lá lành đùm lá
rách” luôn là kim chỉ nam cho cách ứng xử, hành động của mỗi người. Bên cạnh đó, câu tục ngữ “của cho không bằng cách cho” đã nói
lên ý nghĩa của những cách cho đi. Cho đi sự đồng cảm, thấu hiểu, đưa ra bàn tay để nắm lấy những gì sắp vụt tắt xuất phát từ tấm lòng,
là điều tự nguyện, vì vậy để tấm chân tình ấy được gửi đi trọn vẹn thì không thể bỏ qua cách thức, thái độ khi cho đi. Chúng ta vẫn ấm
lòng mỗi khi nhớ về hình ảnh qua chiếc camera về một cụ già dù quần áo nát nhàu, lấm lem vẫn trân trọng bỏ từng tờ tiền giấy vào thùng
từ thiện. Hình ảnh mờ ảo nhưng chất lượng lại “cao”. Dù cuộc sống khó khăn vất vả nhưng ông vẫn còn sức lao động, và ông hiểu rõ nỗi
cơ cực của những người đã mất đi khả năng làm việc, sống dựa vào số tiền mà mọi người quyên góp, giúp đỡ thế nên ông đã giúp một
tay, bằng cả tấm lòng. Chính sự cảm thông, lòng nhân ái của ông đã là món quà, thế nhưng cách ông nâng niu, vuốt phẳng tờ tiền lại lan
toả một thông điệp: có lòng giúp đỡ là điều đáng quý, nhưng cách giúp đỡ mới đáng trân trọng. Những hành động tế nhị, văn minh khi
giúp đỡ ai đó có thể làm cho người nhận cảm nhận được sự yêu thương chia sẻ một cách nhẹ nhàng, chứ không áy náy, mặc cảm vì bị
thương hại, khiến họ thấy bản thân được tôn trọng, không là gánh nặng của xã hội. Đừng giúp đỡ, từ thiện chỉ vì những cái like, vì mong
muốn hình ảnh, danh tiếng của bản thân được tăng vọt. Thật hợm hĩnh, giả tạo, ghê gớm những người nhân danh từ thiện để bòn rút cho
riêng mình, trước máy ảnh truyền hình thì xởi lởi, trìu mến nhưng khi tắt điện thoại đi thì chỉ còn cái nhìn khinh thường, ghẻ lạnh đối với
những người kém may mắn hơn. Cho đi là nhận lại hạnh phúc chỉ khi ta cho đi bằng cả tấm lòng, không vụ lợi, không bận tâm về lợi ích
của bản thân, thì điều nhận lại mới là hạnh phúc, sự thanh thản yên vui. Đây chỉ là những mảng màu tối tăm rất ít trong cuộc sống, đừng
vì thế mà đánh mất sự vững tin, quan trọng vẫn là tấm lòng thật tâm muốn cho đi, muốn san sẻ, muốn che chở những mảnh đời bất hạnh,
muốn nắm lấy tay bà cụ sang đường, muốn lắng nghe thêm nữa lời than thở xót xa những người cô đơn, buồn tủi. Cho đi đơn giản lắm,
cho những gì mình có đã là điều tuyết vời nhất rồi. Hãy sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn, cuộc sống sẽ bớt đi những
nỗi đau buồn, chỉ còn lại ngập tràn tình thương yêu giữa người với người mà thôi.
Câu 2:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Trong các tác phẩm văn chương, người phụ nữ hiện lên với số phận cay đắng, buồn tủi
cùng vẻ đẹp chân dung, đức hạnh trên nhiều bình diện. Tuy nhiên hiếm có thi nhân nào viết về người phụ nữ với tư cách là người vợ
bằng tình cảm chân thành của một người chồng như trong thơ Trần Tế Xương. “Thương vợ” là một bài thơ tiêu biểu khắc họa sinh động
hình ảnh bà Tú cùng với những phẩm chất tốt đẹp giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó và nhẫn nại, kiên cường vì chồng con. Hình
ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nét đẹp của người phụ nữ Việt.
“Quanh năm ….
…. Cũng như không.”

“Nhà thơ là người thư ký trung thành của thời đại”. Thời nhà thơ Trần Tế Xương sống là giai đoạn bi phẫn nhất của dân tộc. Là người
học hành có chí, lại có tài làm thơ, cũng như bao nho sĩ trẻ, nhà thơ mang khát vọng học hành thành đạt để có cuộc sống tử tế. Có lẽ
phong cách phóng khoáng, không tuân thủ theo lối văn khuôn sáo cử nghiệp, cộng với cách thức thi cử “chọn nhân tài” của chế độ
thực dân phong kiến đương thời, nên ông lận đận mãi. Ông đành chấp nhận số phận cuộc đời, phải sống trong môi trường thị dân đang
bị chi phối sâu sắc bởi chế độ thực dân nửa phong kiến, nhiều giá trị đạo đức và nhân văn bị pha tạp hoặc đảo lộn. Chính sự nghiệp
học hành mãi bấp bênh, nên những lo toán gánh nặng của trụ cột gia đình đều đổ dồn lên vai vợ ông. Bài thơ “Thương vợ” cất lên như
lời tri ân, ghi nhận công lao, nỗ lực của bà Tú trước bao sóng gió cuộc đời để chu toàn, chăm lo cho gia đình của mình. Bà là hình mẫu
tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến cũ xưa bởi những áp lực, định kiến lạc hậu vây hãm lấy đôi vai bé nhỏ, nhưng họ
vẫn toả sáng nét đẹp nhân cách, vẻ đẹp đằm thắm của đức hạnh, sự vị tha.

Xuyên suốt bài thơ, Tú Xương khắc hoạ hình ảnh người vợ vất vả, lam lũ nhưng lại sáng ngời những phẩm chất, đáng quý đáng trân
trọng. Hai câu đề thể hiện trách nhiệm nặng nề mà bà Tú phải gánh vác.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”.
Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại
đối lập hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là
cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. “Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm
buôn bán của bà Tú_ nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là
“quanh năm” hết ngày này qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà
người vợ phải gánh vác để lo cho gia đình.

“Thân em như của ấu gai.


Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen,
Ai ơi nếm thử mà xem.
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi,”
(Ca dao)

Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã
biến những người đàn ông vốn là những trụ cột vững chắc trong gia đình thành những kẻ vô tích sự chỉ biết sống dựa vào vợ, mà đặc biệt
là “ăn lương vợ”:

“Trống hầu chưa dứt bố lên thang,


Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.”
(Quan tại gia – Trần Tế Xương)

Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình phải do
người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy ở đây là bà Tú,người đàn bà giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực có thể
“Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy trách nhiêm
nặng nề đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình. Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con là số nhiều nhưng lại được đặt
ngang hàng để đối với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như ta đã biết
cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi bắt đầu đi thi,
22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một tay bà Tú trang
trải. “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng
là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói
đến khi đồng chè đồng rượu,... Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Hơn thế nữa, cấu trúc “năm” – “một” cùng liên
từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc họa nên chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ
chịu thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” và “một chồng” nhưng dường như sự khó khăn lại nghiêng lệch về phía
người chồng vô tích sự nhiều hơn vì chế độ “trọng nam khinh nữ” rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bà Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương
không chỉ chu toàn cho ông “chăn ấm, nệm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mài nở mặt vì
suy cho cùng, Tế Xương vẫn là một tú tài, là người có chí thi cử công danh:

“Biết thuốc lá, biết chè tàu,


Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.”
(Hỏi ông trời – Trần Tế Xương)

Hay:

“Hôm qua anh đến chơi đây,


Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.”
(Đi hát mất ô – Trần Tế Xương)

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả
con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:
“Cơm hai bữa: cá kho rau muống
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”
(Thầy đồ dậy học).

Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan
hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự
thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế
chẳng đẹp lắm sao. Cái không bình thường trong bài thơ là cách đếm số người. Giá như tính gộp lại là sáu miệng ăn và một mình bà Tú
mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ ràng là:
năm con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này: "Hoá ra
ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đến ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng ăn...".
Mà bà Tú nuôi chồng đâu có đơn giản như nuôi con. Cơm ăn đã đành, đôi khi phải có tí rượu tí trà cho ông ngâm nga câu thơ câu phú.
Áo mặc đã đành, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ông quanh năm "Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông" và
"Một đoàn rách rưới con như bố". Lại phải cho ông xổng xểnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả về
số lượng lẫn chất lượng. Như vậy là bà Tú không chỉ nuôi ông Tú mà còn cung phụng, còn thờ, bà Tú hiện lên trong hai câu thơ đầu tiên
với sự đảm đang, chu toàn, vun vén cho gia đình.

Đâu chỉ khó khăn với trách nhiệm to lớn trên vai, bà Tú còn phải trải qua những sóng gió, trắc trở của công việc mưu sinh mỗi ngày.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh “con cò” năm xưa trong ca
dao, hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về
những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

“Con cò lặn lội bờ sông,


Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.”
(Ca dao)

Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự
tấp nập, ồn ào để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa và sự lam lũ của người phụ nữ “năm con với một chồng” . Mặt khác, hình
ảnh “quãng vắng”, “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bà Tú cần mẫn, tất bật và sự đông đúc,
xô bồ đó đã từng được ca dao xưa nhắc đến:

“Con ơi nhớ lấy câu này,


Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”
Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng
manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời:
“Thương thay thân phận con rùa”
“Thân em như chẽn lúa đồng đòng”
“Thân em như hạt mưa sa.”
Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội buổi đồ đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ
được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng
trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và
kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ.
Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.

Nếu các câu thơ trên đều diễn tả số phận bấp bênh, nhọc nhằn của bà Tú thì tới hai câu luận Tú Xương lại khắc hoạ bức chân dung người
vợ cam chịu, nhẫn nhịn và sự hy sinh cao cả, lớn lao dành cho ông và gia đình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất
phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông Tơ bà Nguyệt:

“Kiếp người sao mãi long đong,


Ông tơ bà Nguyệt chỉ hồng se duyên”

Thế nhưng khi đi vào lời thơ của một bậc thức giả dè dặn kinh nghiệm như Tú Xương, định nghĩa đó dường như đã đánh mất đi tính chất
quyền quý của mình mà trở nên nặng nề vô cùng như một lời than thở khi “duyên” thì chỉ có một mà “nợ” lại hai:

“Chồng gì anh, vợ gì tôi,


Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”
(Ca dao)

Bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
      Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất
ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ
nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Chẳng phải trong cái “năm nắng mười mưa”
kia còn rất nhiều nỗi lo toan sao? Ông Tú quanh năm mài dùi kinh sử, chăm lo học hành, vậy còn nàng dâu sẽ phải chăm sóc thêm người
mẹ chồng, mối quan hệ gây nhiều phiền não cho các người vợ. Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng
dâu, vì quan niệm phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công mà đối xử tệ
bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm thúy trong ca dao như:
“Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi”
hay
“Trách cha trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau”.
Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn
đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận/ dám quản công. Một thái độ dứt
khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi
“giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.

Khép lại bài thơ là sự bất bình của nhà thơ trước sự chịu đựng, hy sinh thầm lặng của vợ, những giá trị tuyệt vời nhưng không được coi
trọng, nhà thơ đã lên tiếng thay cho bà.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời...”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng
tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho
vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thơ có
chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này ví biết đường này nhẽ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ
vả cái vai trò “hờ hững” của mình. Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không
chỉ là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Trong câu thơ trên nhà thơ mượn lời vợ mình
để chửi chính bản thân mình là một người chồng “hờ hững”, vô tích sự không gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại còn làm nặng trĩu
thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ. Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái
cách chưa từng thấy trong thơ văn trung đại:
“Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”.
Cái đặc sắc của hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông
với vợ. Ông thấu hiểu sâu sắc những khó khăn mà người bạn đời của mình phải trải qua, lời thơ ghi nhận công lao ấy, để bày tỏ sự tri ân,
biết ơn và hơn hết là tình yêu mà nhà thơ dành cho người phụ nữ của mình. Dù không thể có công danh rạng ngời để vợ được phú quý
giàu sang, dù theo con đường học hành làm gánh nặng trên vai vợ ngày một nhiều nhưng tất cả đều không phải chuyện mà ông có thể
quyết định. Xã hội suy tàn kéo theo thời thế, số phận con người thay đổi, thế nhưng thật may mắn rằng trong bão giông, tình yêu mà hai
con người thế hệ trước dành cho nhau vẫn luôn sắt son, sâu đậm, và trong cuộc đời, gặp được người vì nỗi bất hạnh của mình mà đau
lòng là điều thật đáng quý.

Dù xã hội phong kiến lụi tàn với những định kiến bất công về người phụ nữ, song đã có những nhà thơ trung đại có tư tưởng, quan niệm
tiến bộ vượt trước thời đại, nhìn ra giá trị cao đẹp của người phụ nữ, mở ra lối đi tươi sáng cho người phụ nữ được tự quyết định cuộc
đời, số phận của mình, thoát khỏi vòng lẩn quẩn đầu tắt mặt tối chăm lo chồng con xưa cũ, để họ được sống đúng với chính bản thân
mình. Đại thi hào Nguyễn Du với Truyện Kiều, Nguyễn Dữ với Người con gái Nam Xương, Hồ Xuân Hương với hàng loạt bài thơ về
người phụ nữ và cả Tú Xương với Thương vợ, họ đều ý thức được rằng: người con gái dù “bạc phận” nhưng thật sự đúng là “hồng
nhan”. Họ đẹp về vẻ bề ngoài, hình thức thanh tao thoát tục như Thuý Kiều đẹp đến nao lòng:
“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Hay sắc đẹp của người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều đã đẹp đến mức siêu phàm:
“Hương tươi đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình”
Đâu chỉ đẹp về “sắc”, cái tài của người phụ nữ trong thời đại này cũng được các tác giả công tâm nhìn nhận và khai thác. Tiếng đàn của
Kiều làm Kim Trọng phải “ngơ ngẩn sầu”, Thúc Sinh phải “tan nát lòng” và Hồ Tôn Hiến thì “nhăn mặt rơi châu”. Thơ của nàng cũng
khiến cho Hoạn Thư phải thốt lên:
“Rằng: tài nên trọng, mà tình nên thương”
Trong xã hội phong kiến ấy vậy mà Hồ Xuân Hương vẫn bộc lộ trí thông minh, tài năng sắc sảo của mình qua hai câu thơ:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
“Tài sắc vẹn toàn” cùng với những phẩm chất truyền thống tốt đẹp hiếu thảo như nàng Kiều, thuỷ chung trong sạch như nàng Vũ Thị
Thiết, đoan trang lễ nghi như nàng Kiều Nguyệt Nga, hy sinh chịu đựng như bà Tú, tất cả đủ để minh chứng vị thế của người phụ nữ
trong xã hội vô cùng thấp hèn so với giá trị thật sự của họ. Các tác giả phát hiện, trân trọng, ca ngợi họ song chỉ vài câu thơ không thể
thay đổi suy nghĩ, định kiến của bao nhiêu thế hệ. Rất nhiều người phụ nữ vô danh khác đã phải trải qua cuộc đời khó khăn, bi kịch. Thế
nhưng, xã hội ngày một phát triển, ngày nay người phụ nữ Việt Nam đã được công nhận về sự đóng góp cho đất nước, sánh vai bên cạnh
đàn ông, là chỗ dựa, là người đồng hành chứ không là cái bóng lẻ loi, đơn chiếc. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, nguyên chủ tịch quốc hội
nước Việt Nam là sự khẳng định vị thế người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh.
“Người ơi người viết truyện Kiều
Về xem đất nước quá nhiều đổi thay!”

“Tài gia tình chi phát, tài thịnh ắt tình thâm”. Câu nói trên đúng với tấm lòng của Tú Xương đã song hành với tài năng nghệ thuật của
ông. Nhà thơ dùng nhiều biện pháp nghệ thuật như đảo ngữ, phép đối, ẩn dụ cùng cách vận dụng sáng tạo các thành ngữ, hình ảnh dân
gian trong việc khắc hoạ bức chân dung bà Tú tảo tần, vất vả nhưng lại đẹp về nhân cách, tâm hồn, đóng góp vào “bảo tàng con người
Việt Nam”.

Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy
rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài
thơ Thương vợ  là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng
thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân
thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả. Bài thơ cho ta cái nhìn hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn về
người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Đúng như Huy Cận đã viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ".

You might also like