You are on page 1of 97

lời Mở đầu

Chóng ta được biết rằng: Có thể sử dụng nhiều nguồn năng lượng
khác nhau để phát điện. Trong đó năng lượng truyền thống như: Than, dầu,
khí đốt, hạt nhân, thuỷ năng được coi là các dạng năng lượng cơ bản, còn
năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thuỷ chiều và năng lượng
thuỷ chiều cực nhỏ... là những dạng năng lượng mới. Với các nhà máy
nhiệt điện, người ta sử dụng nhiên liệu là than đá, dầu hơi đốt.
Nhà máy thuỷ điện lợi dụng năng lượng dòng chảy (bao gồm cả
động năng và thế năng). Người ta còn xây dựng nhà máy điện bằng cách
khai thác năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời...
Ở nước ta có 3 nguồn năng lượng chính đã được khai thác là than,
dầu khí, và năng lượng các lòng sông, suối lớn. Còn các nguồn năng lượng
khác nh: Năng lượng hạt nhân, gió, thuỷ chiều, sóng biển, mặt trời...đang
được nghiên cứu sử dụng.
Trong các nhà máy điện kể trên, thì phổ biến nhất là nhà máy thuỷ
điện và nhiệt điện. Mỗi loại có những ưu điểm và nhược điểm riêng.
Nhà máy thuỷ điện gồm hàng loạt các ưu điểm sau :
- Hiệu suất nhà máy thuỷ điện có thể đạt được rất cao so với nhà máy
nhiệt điện.
- Thiết bị đơn giản, dễ tự động hoá và có khả năng điều khiển từ xa.
- Ýt sự cố và cần Ýt người vận hành.
- Có khả năng làm việc ở phần tải thay đổi.
- Thời gian mở máy và dừng máy ngắn.
- Không làm ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, nếu khai thác thuỷ năng tổng hợp, kết hợp với tưới tiêu,
giao thông và phát điện thì giá thành điện sẽ giảm xuống, giải quyết vấn đề
triệt để của thuỷ lợi và môi trường sinh thái của một vùng rộng lớn quanh
đó.
Vốn đầu tư xây dừng nhà máy thuỷ điện đòi hỏi lớn hơn so với xây
dựng nhà máy nhiệt điện. Nhưng giá thành 1 KWh của thuỷ điện rẻ hơn
nhiều so với nhiệt điện, nên tính kinh tế vẫn là tối ưu hơn. Tuy nhiên, người
ta cũng không thể khai thác nguồn năng lượng này bằng bất cứ giá nào.
Xây dựng công trình thuỷ điện thực chất là thực hiện một sự chuyển đổi
điều kiện tài nguyên và môi trường.
Sự chuyển đổi này có thể tạo ra một điều kiện mới, gía trị mới sử
dụng cho các lợi Ých kinh tế xã hội nhưng cũng có thể gây ra những tổn
thất về xã hội và môi trường mà chúng ta khó có thể đánh giá hết được.
Người ta chỉ khai thác thuỷ năng tại các vị trí công trình cho phép về
điều kiện kỹ thuật, có hiệu quả kinh tế sau khi đã so sánh giữa lợi Ých và
tổn thất.
Đối với những thành phố và khu công nghiệp lớn phải kết hợp nhiều
nhà máy nhiệt điện, điện nguyên tử và thuỷ điện. Chúng cần làm việc đồng
bộ sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Ở nước ta năng lượng của các dòng chảy trong sông, suối (thuỷ
năng) rất phong phú, đứng hàng thứ 22 trên thế giới về tiềm năng thuỷ
điện. Nguồn năng lượng này được phân bố khắp đất nước.
Nhà nước và chính phủ đã có những sự đầu tư phát triển hệ thống
thủy điện nh một số nhà máy lớn : Tuyên Quang, Sơn La, Hòa Bình …
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng điện năng là tần số
của lưới điện, tần số và sự suy giảm tần số của lưới nó phản ánh sự cung
cấp năng lượng đủ hay thiếu của hệ thống. Trong hệ thống các nhà máy
điện phải luôn luôn đảm bảo cung cấp đủ công suất cho tất cả các phụ tải
của hệ thống và có dự phòng, đảm bảo tần số lưới dao động 49.5-50.5 Hz.
Ở lưới điện Việt Nam, tần số lưới điện bình thường là 50 Hz. Việc
giữ tần số ổn định cho lưới điện là một vấn đề quan trọng, vì nó giữ ổn định
cho mạng điện quốc gia. Khi tần số suy giảm dẫn đến giao động công suất
trong khu vực làm mất ổn định hệ thống và hệ thống sẽ tan rã nếu không xử
lý kịp thời.
Thông qua việc điều khiển tốc độ quay tuabin ta có thể điều chỉnh
tần số và phân bố công suất của máy phát từ đó có thể điều chỉnh tần số của
lưới điện và phân bố công suất của tổ máy sao cho chi phí vận hành là nhỏ
nhất. Do vậy sau khi tìm hiểu về nhà máy thủy điện, được sự giúp đỡ tận
tình của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Hòa và các thầy cô trong bộ môn Điều
Khiển Tự Động, cùng với sự chỉ bảo dẫn dắt của các cô chú trong nhà máy
thủy điện Hòa Bình, chúng em đã hoàn thành đồ án tốt nghiệp:
“Nghiên cứu phương pháp điều khiển tốc độ quay của tuabin trong nhà
máy thủy điện Hòa Bình ”.
Bản đồ án này gồm các chương:
Chương 1 : Tổng quát chung nhà máy thuỷ điện.
Chương 2 : Kết cấu của các thành phần cơ khí trong nhà máy thủy điện
Hòa Bình
Chương 3 : Hệ thống điều khiển tốc độ quay của Tuabin (Bộ điều tốc).
Chương 4 : Mô phỏng quá trình điều khiển tần số của bộ điều tốc bằng
Matlab.
Để hoàn thành tốt đồ án này, trước hết chúng em xin chân thành
cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong bộ môn Điều Khiển Tự Động –
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội đã tạo hành trang kiến thức nhất định
và tạo mọi điều kiện trong học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt chân
thành cảm ơn thầy giáo TS.Nguyễn Văn Hòa đã nhận hướng dẫn và giúp
đỡ chúng em trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ của đồ án và chúng
em còng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cô chú, các kỹ sư …tại
Phân xưởng Tự động - Nhà máy thủy điện Hòa Bình.
chương 1: tổng quát chung nhà máy thuỷ điện.
1.1. Tổng quan về năng lượng điện và vai trò của nhà máy thủy
điện.
Năng lượng điện hay còn gọi là điện năng, là dạng năng lượng thứ
cấp được tạo ra từ nhiều nguồn năng lượng thứ cấp khác nhau như nhiệt
năng (dầu, khí đốt, than, năng lượng phóng xạ, năng lượng mặt trời…),
thủy năng (sông, suối, sóng biển, thủy chiều…), năng lượng gió… Đây là
loại năng lượng đóng vai trò quan trọng và được sử dụng trên khắp thế giới
trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống ngày nay như công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông, sinh hoạt …
Việc sử dụng dạng năng lượng khác để biến thành điện năng của mỗi
nước là tùy vào tình hình tài nguyên và đường nối phát triển của nước đó.
Thuỷ năng là một dạng năng lượng tái tạo được. Đây là đặc tính ưu
việt nhất của nguồn năng lượng này, các nguồn năng lượng khác nh :
Nguyên tử, than, dầu … không thể tái tạo được. Trong quá trình biến đổi
năng lượng, chỉ có thuỷ năng sau khi biến đổi thành cơ năng và nhiệt năng
lại được tái tạo thành dạng thủy năng, còn các dạng năng lượng khác trong
quá trình biến đổi không tự tái tạo trong tự nhiên. Con người sử dụng
nguồn thuỷ năng để phục vụ cho đời sống và sản xuất, đặc biệt là để phát
điện.
Tuỳ theo điều kiện từng nước mà tỷ lệ phát triển các loại nhà máy
điện có khác nhau. Theo số liệu năm 1978 thì nhìn chung trên toàn thế giới
năng lượng của thuỷ điện chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng điện năng.
Trong khi các nguồn khai thác than đã hơn 40 % thì các nguồn thuỷ năng
mới khai thác hơn 1,5 % (Điều đó không nói lên rằng sau này thuỷ điện sẽ
phát triển mạnh).
Theo thống kê năm 1978: Ở Châu âu tỷ lệ thuỷ điện chiếm khoảng
34% tổng sản lượng điện năng. Ở Liên Xô 19,8 %, Mỹ 18,6 %, Canada 95
%, Phần Lan 91,6 %, Triều Tiên 95-98 %, Na Uy 99 %, Thụy sỹ 99,5 %
trái lại ở nhiều nước châu Á và Châu Phi tuy nguồn thuỷ năng rất phong
phú nhưng tỷ lệ chưa đáng kể chính vì sự kìm hãm của chủ nghĩa đế quốc.
Ví dụ ở nước ta: Thời kỳ Pháp thuộc hầu như không để lại một thuỷ
điện nào đáng kể, trong thời gian chiến tranh ta chủ trương phát triển các
thủy điện nhỏ ở các vùng miền núi như : Lạng Sơn, Quảng Ninh, Sơn La,
Lai Châu, giải quyết được ánh sáng, cơ sở xay xát, chế biến nhỏ, ở Thanh
Hoá có thuỷ điện Bàn Thạch gồm 3x320 KW=960 KW, lợi dụng bậc núi
Nông Giang.
Thuỷ điện Thác Bà bị bom đạn tàn phá nặng nề, sau này đã khôi
phục
được xong cả 3 tổ máy 3x36=108 MW, ở miền Nam có thuỷ điện Đa
Nhim, kiểu kênh dẫn, lợi dụng độ chênh mực nước giữa hai con
sông, công suất 160 MW.
Hiện nay, trữ năng lý thuyết của thuỷ điện trên cả nước ước tính 270-
300 tỷ KWh/năm, với công suất khoảng 32.106 KW. Nhưng trữ năng thuỷ
điện kỹ thuật (tiềm năng kinh tế) chỉ có khoảng 80 tỷ KWh, Với công suất
lắp máy 17.438 MW. Tiềm năng kinh tế kỹ thuật thuỷ điện nhỏ khoảng 60
tỷ KWh/năm, với công suất lý thuyết 10.000 MW.
Miền bắc nước ta có 1069 con sông lớn nhỏ, công suất thuỷ năng
ước lượng 13, 68.10 6 KW với trữ lượng điện hàng năm trên 120 tỷ KWh,
khả năng xây dựng thuỷ điện ở các con sông chính sau :
- Sông Cả khoảng 34 vạn KW
- Sông Đà khoảng 254 vạn KW
- Sông Mã khoảng 25 vạn KW
- Sông Thao khoảng 52 vạn KW
- Sông Thái Bình khoảng 3,2 vạn KW
- Các hệ thống Nông Giang khoảng 3 vạn KW
Theo tính toán nếu xây dựng thuỷ điện được 4,8 triệu KW thuỷ điện

thì hàng năm sẽ thu được độ 20.10 9 KWh , tiết kiệm được khoảng 20.10 6
tấn than đá.
Thấy được lợi thế này cùng với sự giúp đỡ của Liên Xô và các điều
kiện kỹ thuật cho phép, nước ta đã tiến hành điều tra khảo sát và xây dựng
thành công nhà máy Thuỷ điện Sông Đà với công suất đợt đầu khoảng 1,6
triệu KW gồm 8x200 MW, sau đó công suất có thể lên tới 3,2 triệu KW
(Hiện nay công suất nhà máy đạt 1.92 triệu KW). Xây dựng công trình này
nhằm sử dụng tổng hợp trong đó chống lũ là vấn đề cấp bách. Công trình
này có thể làm hạ mực nước ở Hà Nội trong mùa lũ xuống 1,4 m.
Đầu tư về thuỷ điện của nước ta không quá lớn nh các nước khác. Ta
có thể tự lực xây dựng thuỷ điện: Đầu tư cho thiết bị khoảng 30%, còn lại
các công trình khác có thể tự lực được.
Ngành thuỷ điện nước ta mở ra một triển vọng vô cùng to lớn, đòi
hỏi một số lượng rất lớn các cán bộ thiết kế, thi công, vận hành rất giỏi, đủ
sức thăm dò giải quyết những vấn đề kỹ thuật do hoàn cảnh đất nước ta đề
ra, phải biết áp dụng những kỹ thuật tiến triển nhất vào trong lĩnh vực này.
Ngành ta đào tạo kỹ sư điện thiết kế, vận hành mạng hệ thống điện,
nhà máy điện và thuỷ điện, ta phải tự thiết kế thi công các nhà máy điện.
Người kỹ sư vận hành điện ở nhà máy thuỷ điện ngoài những kiến thức
tổng quát cần biết (công trình và thiết bị thuỷ lực) mà cần hiểu sâu về điều
tiết hồ chứa để vận hành được tốt. Đây là một lĩnh vực nhiều lý thuyết khác
nhau.
1.2. Vấn đề tự động hóa trong nhà máy thủy điện
Hình 1.1 Sơ đồ điều khiển của nhà máy thuỷ điên
Cấu trúc toàn bộ hệ thống có các bộ điều khiển vận hành trực tiếp trên các
bộ phận riêng rẽ. Trong mỗi tổ máy phát gồm các bộ phận điều khiển động
lực đầu tiên và các bộ điều khiển kích từ. Phần động lực đầu tiên bao gồm
tuabin và hệ thống thủy lực, do vậy các bộ điều khiển động lực đầu tiên
liên quan tới việc điều chỉnh tốc độ và điều khiển các biến số của hệ thống
cung cấp năng lượng. Chức năng của điều khiển kích từ là điều chỉnh điện
áp máy phát và công suất phản kháng. Công suất phát mong muốn của các
tổ máy phát đơn lẻ được xác định bởi các quá trình điều khiển phát điện
của hệ thống.
Mục đích đầu tiên của điều khiển phát điện hệ thống là cân bằng
tổng công suất phát của hệ thống với phụ tải hệ thống và các tổn thất, vì
vậy tần số và công suất trao đổi với các hệ xung quanh được duy trì.
Điều khiển truyền tải bao gồm các thiết bị điều khiển điện áp và
công suất, nh các bộ bù phản kháng tĩnh, các bộ bù đồng bộ, các cuộn cảm
và điện dung chuyển mạch. Điều khiển các máy biến áp dịch pha và truyền
tải dòng một chiều điện áp cao (HVDC)
Các quá trình điều khiển đã mô tả ở trên góp phần cho sự thỏa mãn
vận hành của hệ thống bằng cách duy trì điện áp và tần số hệ thống và các
biến hệ thống khác trong giới hạn cho phép của chúng.
Các đối tượng điều khiển phụ thuộc vào trạng thái vận hành của hệ
thống. Với các trạng thái bình thường, đối tượng điều khiển vận hành có
hiệu quả khi tần số và điện áp điều khiển gần với giá trị danh định.
1.3. Sơ đồ tổng quan về nhà máy thủy điện:.
1.3.1. Nguyên lý chung:
Nước trên sông, suối chảy từ nguồn ra biển, đi từ cao đến thấp mang
theo nó một năng lượng, năng lượng này gọi là thuỷ năng.
Để xác định năng lượng đó ta chia dòng chảy trên sông thành đoạn
ngắn có chiều dài là l, được giới hạn bởi các tiết diện I-I và II-II:
Hình 1.2 Sơ đồ xác định năng lượng dòng chảy trên đoạn sông
Theo phương trình Becnuli ta có năng lượng riêng tại từng mặt cắt:

P  V2
E Z  I  I I
II I  2g

P  V2
E Z  II  II II
II  II II  2g

P
Trong đó:  , Z ,V ,  - áp năng, vị năng, vận tốc trung bình tại mặt cắt và hệ

số điều chỉnh động năng.


Hiệu năng lượng riêng của hai mặt cắt là năng lượng đơn vị của dòng
chảy trên đoạn sông có chiều dài l và được gọi là cột áp của đoạn sông, ký
hiệu là H.

P -P a V2 -a V2
H  E - E  Z I  Z II  1 2  1 1 2 2
I II g 2g

Nếu một đoạn sông có cột áp H, lưu lượng Q thì năng lượng dòng
chảy trên đoạn sông đó là:
   QHdt
Hay   HW
t
Trong đó: W – thể tích nước đoạn sông.
Công suất nước của dòng chảy trên đoạn sông là: N  QH
Để sử dụng năng lượng của đoạn sông thì phải tập trung năng lượng
dòng nước phân bố trên đoạn sông đó tại một chỗ, tạo độ chênh mực nước
thượng và hạ lưu, nghĩa là phải tạo nên cột áp.
1.3.2. Sơ đồ nhà máy thủy điện:
Nhà máy thủy điện là một tổ hợp phức tạp, sử dụng năng lượng của
sông suối, để sản xuất điện năng bao gồm 3 tuyến :
- Tuyến áp lực (tuyến đầu mối)
- Tuyến năng lượng.
- Tuyến hạ lưu.
TuyÕn n¨ng lîng.
+Kªnh vµo
+Cöa van
TuyÕn ¸p +§êng hÇm (gåm Th¸p vµ van)
lùc +§êng èng
Nhµ m¸y : H¹ lu
1.Hå chøa + ThiÕt bÞ c¬ khÝ :
+ BÓ ¸p lùc ChÝnh : Tuabin cho tõng tæ m¸y 1. Kªnh x¶
+ BÓ l¾ng Phô : (c¸c thiÕt bÞ kh¸c) 2. C¸c cöa
c¸t + ThiÕt bÞ ®iÖn kü thuËt van h¹ lu
2. §Ëp trµn Tæ m¸y
3. C¸c van Tuabin
x¶ + Tuabin, c¸nh híng …
+ Bé ®iÒu tèc
M¸y ph¸t
+ M¸y ph¸t
+ HÖ thèng kÝch tõ.

Hình 1.3 Sơ đồ các tuyến của nhà máy thủy điện


 Các thiết bị chính trong nhà máy thủy điện.
Hình 1.4 Sơ đồ bố trí các thiết bị trong nhà máy thủy điện
1. Cửa nhận nước 3. Bình tạo áp lực
2. Hầm dẫn 4. Nhà van
5. Èng áp lực 9. Hệ thống dầu áp lực và bộ
điều tốc
6. Tuabin 10. Hệ thống nước làm mát
7. Máy phát 11. Èng xả
8. Hệ thống kích thích máy phát 12. Cửa hạ lưu
Trong thực tế có 3 phương pháp tập trung năng lượng của dòng nước
tương ứng với ba sơ đồ nhà máy thủy điện: Nhà máy thủy điện kiểu lòng
sông, nhà máy thuỷ điện đường dẫn và nhà máy thuỷ điện kiểu tổng hơp.
1.3.2.1. Nhà máy thuỷ điện kiểu lòng sông (hay sau đập).
Để tập trung năng lượng người ta dùng đập cột áp H là độ chênh
mực nước trước và sau đập (tương ứng thượng lưu và hạ lưu). Đập có hồ
chứa nước lớn để điều tiết lưu lượng dòng sông.
Nhà máy thường đặt sau đập đối với cột nước lớn, hoặc là một bộ
phận của đập đối với cột nước nhỏ. Các trạm thuỷ điện với phương pháp
tập trung năng lượng bằng đập gọi là nhà máy kiểu lòng sông hay sau đập.
Nó áp dụng cho các con sông ở đồng bằng, trung du nơi có độ dốc lòng
sông nhỏ, lưu lượng sông lớn. Trong thực tế, chiều cao của đập bị hạn chế
bởi kỹ thuật đắp đập và diện tích bị ngập. Cột áp ở các trạm thủy điện này
không lớn, thông thường không lớn hơn 30 – 40m. Tuy nhiên, nhà máy
thủy điện kiểu này đã đạt cột áp cao nhất H = 300m là nhà máy thủy điện
Nurec ở Liên Xô.
Nhà máy thủy điện Thác Bà trên sông Chảy là nhà máy thủy điện
lòng sông có cột áp H = 37m, N = 40MW, ba tổ máy.

Hình 1.5 Sơ đồ nhà máy thuỷ điện kiểu lòng sông

1.3.2.2. Nhà máy thủy điện đường dẫn:


Nước được ngăn bởi một đập thấp rồi chảy theo đường dẫn (Kênh,
máng, tuy – nen, ống dẫn) đến nhà máy thủy điện.
Ở đây cột áp cơ bản là do đường dẫn tạo nên, còn đập chỉ để ngăn
nước lại để đưa vào đường dẫn. Đường dẫn có độ dốc nhỏ hơn độ dốc lòng
sông. Kiểu trạm này thường dùng ở các sông suối có độ dốc lòng sông lớn
và lưu lượng nhỏ.
Trạm thủy điện Đa Nhim (Ninh Thuận) có cột nước H = 800m, N =
160MW ( bốn tổ máy 40 MW/ tổ máy).
Trạm thủy điện có cột nước lớn nhất thế giới hiện nay là trạm Bogota
(Colombia) có H = 2000m, N = 500MW.
Hình 1.6 Sơ đồ nhà máy thuỷ điện kiểu kênh dẫn.
1.3.2.3. Nhà máy thủy điện tổng hợp:

Hình 1.7 Sơ đồ nhà máy thuỷ điện kiểu tổng hợp.


Năng lượng nước được tập trung là nhờ đập và cả đường dẫn. Cột áp
của trạm gồm 2 phần: một phần do đập tạo nên, phần còn lại do đường dẫn
tạo nên.
Nhà máy kiểu này được dùng cho các đoạn sông mà ở trên sông có
độ dốc nhỏ thì xây đập ngăn nước và hồ chứa, còn ở phía dưới có độ dốc
lớn thì xây dựng đường dẫn.
Nhà máy thủy điện Hoà Bình (H = 88m, N = 220MW, 8 tổ máy) và
Trị An (H = 50 m, N = 100MW, 3 tổ máy) là trạm kiểu tổng hợp.
1.4. Tuabin nước trong nhà máy thủy điện .
Tuabin nước là một trong các thiết bị quan trọng nhất của nhà máy
thủy điện, nhiệm vụ chính là chuyển đổi thủy năng thành cơ năng làm quay
rôto máy phát và sinh ra điện năng.
1.4.1 Sù ra đời của tuabin thủy lực.
Tuabin nước là loại máy thuỷ lực đầu tiên loài người dùng để sử
dụng nguồn năng lượng thiên nhiên để phục vụ đời sống và sản xuất, trước
tiên là trong công việc lấy nước và chế biến lương thực.
Tuabin nước đầu tiên là những bánh xe nước đơn giản sử dụng động
năng của dòng chảy. Cho tới nay lịch sử chưa xác định được ai là người
đầu tiên phát minh ra bánh xe nước. Người ta biết rằng hàng nghìn năm
trước công nguyên ở Ai Cập, Ên Độ và Trung Quốc đã sử dụng bánh xe
nước dưới dạng thiết bị biến đổi năng lượng. Đến nay ở nước ta bánh xe
nước vẫn còn được sử dụng trên các suối vùng núi và trung du.

Hình 1.8 Bánh xe nước


Tại Pháp từ thế kỷ IV đã có máy xay xát chạy bằng năng lượng của
nước. Tuy nhiên mãi đến thế kỷ thứ XVI với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản thì việc sử dụng năng lượng nước mới có những cải tiến lớn. Nhưng từ
bánh xe nước tới tuabin nước loài người phải trải qua tìm kiếm nghiên cứu
lâu dài.
Năm 1934 kỹ sư người Pháp là Fuaray đã chế tạo thành công tuabin
nước đầu tiên.
Hình 1.9 Tuabin nước
Sau đó Ýt năm, năm 1937 người thợ mộc Nga- Xaphon cũng chế tạo
tuabin nước kiểu li tâm. Năm 1838 Hopd (Mỹ) đã cải tạo tuabin li tâm trên
thành tuabin hướng tâm.
Năm 1847-1849 một kỹ sư mỹ là Dran Franxic đã cải tiến tuabin
Hopd thành tuabin tâm trục có hiêu suất cao hơn. Ngày nay người ta gọi
tuabin tâm trục là tuabin Franxic
Năm 1837-1841 Ghensen (Đức) và Jonvan (Pháp) đã chế tạo tuabin
hướng trục cánh cố định. Sau đó năm 1912-1924 một giáo sư người Tiệp
Khắc cũ là Kaplan cải tiến tuabin hướng trục cánh cố định thành tuabin
hướng trục cánh điều chỉnh gọi là tuabin Kaplan. Do điều chỉnh cánh làm
tăng hiệu suất trong một phạm vi điều chỉnh công suất rộng.
1880 Penton (Mỹ) đã cải tiến bãnh xe nước và phát minh ra tuabin
gáo. Vì thế tuabin gáo còn gọi là tuabin Penton.
Ngày nay các loại tuabin nước kể trên đã được cải tiến và hoàn thiện
ở mức độ cao. Nhiều kiểu tuabin đã được ra đời nh: Tuabin hướng chéo,
tuabin dòng thẳng (Capsun), tuabin bơm.
Hiện nay ở nước ta đã có nhiều cơ sở đầu tư tiến bộ khoa học kỹ
thuật cho việc chế tạo tuabin nước. Chúng ta đã chế tạo tuabin nhỏ (đến
hàng ngàn KW). Trong tương lai chóng ta sẽ chế tạo loại tuabin lớn hơn,
góp phần cho việc điện khí hoá và phục vụ sản xuất ở các địa phương xa
lưới điện quốc gia.

1.4.2. Phân loại và phạm vi sử dụng của tuabin:


* Phân loại theo dạng năng lượng của dòng chảy qua tuabin:

Hình 1.10 Sơ đồ nhà máy thủy điện


Ta khảo sát các thành phần năng lượng của dòng chảy. Năng lượng
đợn vị của dòng chảy truyền cho bánh xe công tác tuabin bằng độ chênh
năng lượng riêng giữa hai tiết diện trước và sau đó:
2 2
P  P  V  V
 
H  Z1  Z1  1

2  1 1
2g
2 2

Thế năng Động năng


Vậy năng lượng riêng gồm hai phần : động năng và thế năng.
Tùy thuộc vào dạng năng lượng này mà chia tuabin nước thành hai
hệ khác nhau: tuabin xung lực và tuabin phản lực.
Trong tuabin xung lực, chỉ có phần động năng của dòng chảy tác
dụng lên bánh xe công tác còn phần thế năng bằng không. Hệ tuabin này
phát ra công suất nhờ động năng của dòng chất lỏng, còn áp suất ở cửa vào
và cửa ra của tuabin là áp suất khí trời.
Tuabin phản lực là loại tuabin làm việc nhờ cả hai phần thế năng và
động năng, mà chủ yếu là thế năng của dòng chảy. Trong hệ tuabin này, áp
suất ở cửa vào luôn lớn hơn ở cửa ra. Dòng chảy qua tuabin là dòng liên tục
điền đầy toàn bộ máng dẫn cánh. Trong vùng bánh xe công tác tuabin,
dòng chảy biến đổi cả động năng và thế năng. Trong đó vận tốc dòng chảy
qua tuabin tăng dần, áp suất giảm dần. Máng dẫn của cánh hình côn nên
gây ra độ chênh áp mặt cánh, từ đó tạo ra momen quay.
Tuabin phản lực và xung lực có tính năng và phạm vi sử dụng khác
nhau. Tuabin phản lực dùng cho trạm có cột nước thấp, lưu lượng lớn còn
tuabin xung lực dùng cho trạm có cột nước cao, lưu lượng nhỏ.
1.4.2.1 Tuabin phản lực:
Tuabin phản lực là hệ tuabin được sử dụng rộng rãi nhất, bao gồm
phạm vi cột nước từ 1,5m đến 600m.
Tùy thuộc vào hướng dòng chảy của dòng nước đi qua cánh bánh xe
công tác mà chia tuabin phản lực thành nhiều loại: tuabin hướng trục,
tuabin tâm trục, tuabin hướng chéo.
a. Tuabin hướng trục:
Tuabin hướng trục là loại tuabin trong đó hướng chuyển động của
dòng chảy trong phạm vi bánh xe công tác song song với trục quay tuabin
(hình 1.8a,b )
Tuabin hướng trục có thể là loại cánh cố định hoặc là loại cánh điều
chỉnh bánh công tác gồm nhiều cánh được gắn với bầu. Nếu cánh được gắn
chặt với bầu thì gọi là tuabin hướng trục cánh cố định ( tuabin chong chóng
). Nếu cánh có thể quay quanh trục cánh cố định thường dùng cho các trạm
cỡ nhỏ và trung bình. Tuabin hướng trục cánh điều chỉnh được sử dụng cho
cỡ trung bình và lớn.
Tuabin hướng trục cánh điều chỉnh phức tạp vì cơ cấu điều chỉnh
cánh nằm trong bầu bánh công tác.

Hình 1.11 Tuabin hướng trục


b. Tuabin tâm trục (Hay còn gọi là tuabin Francis).
Trong tuabin tâm trục, hướng của dòng chảy ở vùng bánh công tác
ban đầu theo phương hướng tâm, sau đó chuyển sang phương song song
với trục.
Tuabin này còn gọi là tuabin Francis. Nó được sử dụng rộng rãi
trong các trạm có cột nước cao : H = 30-600m. Đối với các trạm nhỏ tuabin
này có thể làm việc với cột nước H > 4m.
Bánh công tác gồm hệ thống cánh gắn chặt với hai vành đĩa trên và dưới
thành một khối cứng. Cánh có dạng cong không gian và số cánh có từ 12
đến 22.
Tuabin tâm trục có hiệu suất cao nhưng cánh cố định nên chỉ thích
hợp với trạm có cột nước Ýt thay đổi (hình 1.8 d).
Tuabin tâm trục có cột nước cao nhất thế giới H = 620m ở Khot-xen-
van (Đức).
Ở nước ta các nhà máy thuỷ điện: Trị An, Hoà Bình, YaLy, Thác Mơ
dùng tuabin tâm trục cỡ lớn và trung bình, còn trạm Ta Sa, Na Ngần, Suối
Cùn…dùng tuabin tâm trục cỡ nhỏ.
Hình 1.12 Tuabin tâm trục
c. Tuabin hướng chéo:
Tuabin hướng chéo kết hợp ưu điểm của cả hai loại tuabin tâm trục
và hướng trục cánh điều chỉnh
Dòng chảy qua vùng bánh xe công tác của tuabin này có hướng tạo
với trục quay một góc nào đó (thường 45-60 độ). Bầu cánh là hình nón.
Bầu cánh chứa toàn bộ cơ cấu điều chỉnh cánh nh bầu cánh của tuabin
hướng trục cánh điều chỉnh.
Loại tuabin này làm việc trong phạm vi cột nước H = 30-150m. Nó có thể
điều chỉnh cánh nên phạm vi điều chỉnh công suất có hiệu suất cao tương
đối rộng so với tuabin tâm trục.

Hình 1.13 Tuabin hướng chéo


1.4.2.2 Tuabin xung lực (xung kích):
a. Tuabin gáo ( còn gọi là tuabin Pelton) HÌNH VẼ 1.5/7 THANH
1.9:
Trong đó : 1- Èng dẫn 2- Mòi phun 3- Hướng tia nước
4- Cánh gáo 5- Trục 6- Vở tuabin
Tuabin gáo là loại tuabin xung lực được sử dụng nhiều nhất. Phần
dẫn dòng của nó gồm bánh công tác và vòi phun. Bánh công tác gồm nhiều
cánh hình gáo được gắn chặt lên bánh công tác.
Bánh công tác gắn liền trên trục tuabin, trục này nối với trục máy phát.
Thông thường tuabin gáo đặt ngang, chỉ có một số tuabin cỡ lớn có tổ máy
đặt đứng.
Vòi phun gồm có ống hình côn nối với ống dẫn, trong ống hình côn có
kim điều chỉnh lưu lượng ra của vòi phun. Ở đây dòng chảy theo ống dẫn
vào vòi phun, từ đó dòng chảy ra khỏi vòi phun với vận tốc đủ lớn tác dụng
vào các cánh gáo và tạo thành momen quay.
Ngoài ra vòi phun làm nhiệm vụ điều chỉnh lưu lượng qua bánh công
tác. Tuabin gáo làm việc với cột nước H = 40-300m và lớn hơn nữa. Ở
nước ta trạm thuỷ điện Đa Nhim dùng tuabin gáo có công suất một tổ máy
N = 40MW.
b. Tuabin tia nghiêng:
Tuabin này khác với tuabin gáo là dòng chảy vào vòi phun hướng
vào bánh công tác dưới một góc nghiêng. Bánh công tác gồm các cánh
cong gắn chặt lên hai đĩa bên bánh công tác có hình dạng đơn giản hơn
dạng gáo nên dễ chế tạo. Vòi phun của loại này tương tự nh vòi phun của
tuabin gáo.
Tuabin tia nghiêng được lắp cho những trạm thuỷ điện nhỏ. Hiệu
suất của tuabin này thường nhỏ hơn hiệu suất của tuabin gáo.
c. Tuabin tác dụng kép (Tuabin xung kích hai lần ) (HÌNH VẼ 2.6):
Dòng chảy từ vòi phun tác dụng lên bánh công tác hai lần : dòng
chảy đi từ ngoài vào tâm sau đó lại hướng từ tâm ra ngoài, nên gọi loại này
là tuabin tác dụng kép. Vòi phun của tuabin này có tiết diện chữ nhật chứ
không phải tiết diện tròn.
Ở đây thay đổi lưu lượng bằng cách thay đổi một thành trong để thay
đổi tiết diện vòi phun.
Tuabin tác dụng kép còn có tên gọi là tuabin xung kích hai lần, hay
tuabin Banki. Nó được dùng cho các trạm thuỷ điện cỡ nhỏ N = 5-100KW.
1.4.3. Các bộ phận chính của tuabin nước:
Trong tuabin nước, bộ phận ảnh hưởng lớn đến hiệu suất tuabin đó là
phần dẫn dòng. Phần dẫn dòng gồm có ba bộ phận chính:
- Buồng dẫn tuabin.
- Bánh công tác.
- Buồng hót tuabin.
Trong đó bánh công tác là bộ phận chính làm nhiệm vụ biến đổi
năng lượng. Hai bộ phận buồng dẫn và buồng hút không trực tiếp biến đổi
năng lượng nhưng vai trò của chúng rất quan trọng giúp bánh công tác làm
nhiệm vụ biến đổi năng lượng có hiệu quả tốt.
Các bộ phận phụ của phần dẫn dòng gồm có: các van điều chỉnh lưu
lượng dòng chảy, van đóng nhanh khi có sự cố, lưới chắn rác…
Nếu tuabin làm việc đồng bộ với máy phát điện thì một bộ phận
quan trọng giúp cho sự đồng bộ này là máy điều tốc.
Trong các trạm thuỷ điện còn có các thiết bị phụ trợ khác nh: các tổ
máy bơm, các tổ máy nén khí, thiết bị nâng hạ, hệ thống điện…Ở đây ta chỉ
xét bộ phận chính của phần dẫn dòng tuabin.
CHƯƠNG 2 : TỔNG QUÁT CHUNG NHÀ MÁY THUỶ ĐIỆN HOÀ
BÌNH
2.1.Đường năng lượng của nhà máy thuỷ điện Hoà Bình: Thủy
năng - Cơ năng - Điện năng:
Nhà máy thủy điện Hoà Bình được thiết kế theo phương pháp nhà
máy thủy điện kiểu tổng hợp. Năng lượng nước được tập trung là nhờ đập
và cả đường dẫn.
Cột áp của trạm gồm 2 phần: một phần do đập tạo nên, phần còn lại
do đường dẫn tạo nên. Kiểu thiết kế này áp dụng cho các đoạn sông mà ở
trên sông có độ dốc nhỏ thì xây đập ngăn nước và hồ chứa, còn ở phía dưới
có độ dốc lớn thì xây đường dẫn.
Nước được tập trung trên hồ chứa nhờ đập sau đó được chảy qua các
đường dẫn tới tuabin. Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình có 8 tổ máy tương ứng
với 8 đường dẫn và 8 tuabin. Nước chảy tới tuabin qua đường dẫn rồi tới
buồng xoắn.
Buồng xoắn sẽ thay đổi dòng chảy từ hướng tâm sang hướng trục
qua cánh hướng nước tới bánh xe công tác. Nước chảy làm bánh xe công
tác quay và kéo theo rôto của máy phát điện quay. Rô to quay làm bộ phận
máy phát hoạt động và phát ra điện. Tuyến năng lượng của nhà máy được
thể hiện rất rõ qua hình vẽ kèm theo.
2.2.Cửa nhận nước nhà máy thuỷ điện Hoà Bình
Cửa nhận nước là cửa quan trọng của nhà máy thủy điện, nó là cửa
ngõ khi vào nhà máy. Tại đây dòng nước được lọc rác bằng lưới chắn rác,
sau đó được dẫn vào tuabin. Dòng nước này được điều chỉnh bởi cửa sửa
chữa và cửa vận hành. Như vậy cửa nhận nước đã thực hiện một điều chỉnh
trong toàn bộ hệ thống của nhà máy.

Trong đó :
Cẩu trục chân đê: Nhiệm vụ điều khiển gầu cào rác, nâng hạ gầu cào rác
và di chuyển tới nơi thải rác. Bên cạnh đó, nó còn thực hiện việc nâng hạ
lưới chắn rác phục vụ cho việc tu sửa lưới chắn rác.
Gầu cào rác: Để vớt rác ra khỏi lưới rác và vận chuyển tới nơi thải rác từ
lưới chắn rác thu gom được.
Xi lanh thủy lực nâng hạ : Nhiệm vụ nâng hạ cửa vận hành.
Ổ hướng: Nhiệm vụ định hướng cho trục của xilanh thủy lực đúng hướng
vì trục của xilanh dài.
Lưới chắn rác: Ngăn các vật trôi theo dòng nước không cho vào trong
đường ống áp lực để không gây sự cố cho tổ máy.
Cửa sửa chữa: Có nhiệm vụ đóng nhanh cửa nhận nước vào tuabin, bảo
vệ tuabin khi có sự cố. Thường đóng trong trường hợp nước tĩnh để không
gây chấn động. Tuy nhiên trong trường hợp cần đóng nhanh khi dòng chảy
lớn vẫn phải đảm bảo an toàn.
Cửa vận hành: Nó được điều chỉnh bởi xilanh thủy lực chính và được
thiết kế dùng trọng lượng đóng lại ở điều kiện dòng không bình thường.

2.3. Bộ dẫn động thuỷ lực nâng hạ cánh phai đập tràn xả đáy
Công dông :
- Nâng cánh phai dưới áp lực
- Giữ cánh pha ở tận cùng phía trên
- Hạ cánh phai xuống đến vị trí đóng hoàn toàn của xả đáy
- Nâng tự động cánh phai về vị trí ban đầu khi bị lún xuống 300mm
Trong đó :
1. Cẩu trục chân đê : Nâng hạ phai sửa chữa xả mặt và phai sửa
chữa xả sâu.
2. Thiết bị dầu áp lực : Tạo áp lực dầu để điều khiển xilanh thủy
lực.
3. Xilanh thủy lực : Nâng hạ van cung xả.
4. Van cung xả mặt.
5. Phai sửa chữa xả mặt.
6. Van cung xả sâu.
7. Phai sửa chữa xả mặt.
2.3.1. Đập tràn xả đáy bao gồm 12 cửa van cánh cung có kích thước
(6x10) m được chuyển động nhờ các xi lanh thuỷ lực, một cánh phai tương
ứng với một xi lanh thuỷ lực.
2.3.2. 12 cánh phai này được chuyển động nhờ có 6 bộ dẫn động thuỷ
lực.Thành phần của mỗi bộ dẫn động thuỷ lực bao gồm : (Máy bơm, Bảng
panen, Xilanh thuỷ lực, Khối điều khiển, Thùng dầu, Trụ điều khiển, Trụ xi
lanh, Èng dẫn dầu ).
2.4. Hệ thống khí nén OPY – 220/110 KV
2.4.1 Khái niệm :
Hệ thống khí nén dùng để cung cấp khí nén cho các máy ngắt không
khí, khí nén này có tác dụng dập hồ quang giữa các cực khi cắt mạch điện,
truyền động, hoặc để thông gió bên trong máy ngắt đề phòng hơi Èm
ngưng tụ tại đó.
Các thiết bị hệ thống khí OPY đảm bảo
- Duy trì tự động áp lực 32 kg/cm2 và 20 kg/cm2 ở các hệ thống khí
nén 220 KV và 110 KV
- Sấy nhiệt độ không khí tới độ Èm tương đối cần thiết
- Độ tổn hao cố định không khí để thông gió và dẫn trong hệ thống
bằng 70m3 /giê, khi đó áp lực đủ trong các bình chứa khí, sau thời
gian các máy nén khí tạm dừng làm việc 2 tiếng đồng hồ mà vẫn
đảm bảo độ Èm không khí theo yêu cầu.
- Thời gian khôi phục đầy đủ áp lực trong hệ thống sau khi có sự cố
nặng nhất là bé hơn 2 giờ mà không cần phải chạy máy nén khí dự
phòng.
1.4.2. Cấu tạo hệ thống nén khí :
Hệ thống này bao gồm: có 4 máy nén khí (trong đó có 3 máy làm
việc, 1 để dự phòng) và 3 côm chai chứa mỗi cụm có dung tích 3m3. Mỗi
máy nén cung cấp riêng cho từng cụm chai đặc biệt máy nén dự phòng có
thể cấp đồng thời cho cả 3 côm.
Kết cấu riêng của các máy nén khí : Có pít tông định hướng cố định
và các xi lanh lắp vuông góc với nhau khi pít tông chuyển động tạo chân
không thì không khí tràn đầy vào Xi lanh qua van hút, lượng không khí đủ
thì pít tông chuyển động ngược lại van hút đóng lại không khí được nén tới
một áp lực nhất định sau đó được đưa qua van đẩy.
2.5. Hệ thống khí nén cao và hạ áp gian máy trong nhà máy.
Công dông: Hệ thống khí nén hạ áp dùng để cung cấp khí nén áp lực 0,8
Mpa (8 kg/cm2) cho các hộ tiêu thụ sau :
- Hệ thống phanh các tổ máy.
- Các đồng hồ thuỷ khí.
- Các dông cụ làm việc bằng khí nén dùng trong các công tác sửa chữa
của hệ thống
2.6. Hệ thống dầu xả của các biến thế tự ngẫu và các máy biến thế tự
dùng.
Công dụng :
Hệ thống này có tác dụng thu gom dầu, lọc dầu, xả nước mưa, xả
nước ngầm cho hệ thống cứu hoả. ..của các máy biến thế tự ngẫu và các
máy biến thế tự dùng ở hệ thống khí nén (OPY).
2.7. Hệ thống dầu tuabin.
Hệ thống dầu tuabin đảm nhiệm mọi công việc tiếp nhận bảo quản
làm sạch, phân phối kiểm tra số lượng, chất lượng loại dầu T/7-30 đang sử
dụng tại nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.Thiết bị dầu tuabin được bố trí tại
nhà bờ trái và gian máy. Hệ thống ở gian máy được nối với hệ thống đặt ở
nhà bờ trái qua tuyến ống công nghệ nằm ở hầm giao thông.
2.8. Thiết bị dầu áp lực (MHY) và hệ thống làm mát dầu.
Thiết bị dầu áp lực dùng để cung cấp dầu áp lực T/7-30 (OCT 9972-74)
hoặc dầu tương đương với nó cho bộ điều chỉnh tốc độ tuabin.
Để thao tác điều tốc cần có hệ thống dầu áp lực làm nguồn cung cấp
năng lượng, thiết bị dầu áp lực là khâu trung gian truyền lực cho động cơ
sexcvomoto.
Hệ thống MHY gồm có :
Bình chứa dầu áp lực MHY, tổ máy bơm dầu, rơle điều khiển và
thiết bị làm mát dầu được nối với nhau và nối với hệ thống thuỷ lực bằng
các đường ống.
*Bình chứa dầu áp lực MHY chứa dung tích 12.5 m3 có kết cấu hình
trụ làm bằng kiểu hàn, đáy hình elíp làm bằng thép tấm, bình có cửa chui
để kiểm tra và sửa chữa, có các chân để lắp đặt lên móng, các tai cheo để
vận chuyển, có mặt bích và các ống để nối với các ống dẫn dầu và khí. Có
trang bị các áp kế, ống thuỷ báo mức dầu, van khí một chiều, các đát trích
báo mức, đát trích áp lực và các van khác.
Trong bình dầu chỉ chiếm 30  40% thể tích, phần còn lại là không
khí nén. Nhờ tính đàn hồi của không khí nén mà sóng áp lực sinh ra khi
thao tác điều chỉnh tuabin được giảm đi nhiều. Lượng dầu và áp lực dầu
trong bình là nguồn dự trữ năng lượng, nên giảm nhẹ công suất bơm dầu(so
với việc dùng bơm trực tiếp vào bộ phận điều chỉnh ). Trong quá trình làm
việc, dầu và không khí nén trong bình bị hao hụt do rò rỉ. Vì vậy cần
thường xuyên kiểm tra và bổ xung dầu vào bình chứa bằng hệ thống bơm,
còn không khí nén được cung cấp bởi các hệ thống nén khí. Áp lực khí nén
trong bình chứa dầu thường là 25 kg / cm 2 , 40 kg / cm 2 , do thao tác điều khiển
động cơ secvo làm áp lực trong bình chứa sụt xuống. Khi áp lực trong bình
sụt xuống 2  3 kg / cm 2 so với bình thường thì các bơm dầu hoạt động nhờ
các rơle áp lực. Khi áp lực đạt bình thường thì rơ le tự động điều chỉnh
dừng máy bơm.
* Èng thuỷ báo mức dầu của bình MHY được lắp trên thành bình dầu
khí, dùng để kiểm tra bằng mắt thường mức dầu trong bình MHY. Èng
thuỷ có các van chặn, ống trong suốt đánh dấu thang đo
và vá trong suốt bảo hiểm.
* Van chặn gồm có van chặn trên và van chặn dưới, ngoài ra còn có các
van bi một chiều. Trường hợp ống đo dầu bị vỡ thì các viên bi sẽ đậy các
lỗ thông, không cho dầu chảy ra ngoài. Thang đo của ống thuỷ có các
vạch chia độ tính bằng % so với thể tích bình dự trữ.
* Van không khí một chiều được lắp trên đường ống dẫn có áp lực nối
bình MHY với bình chứa khí của nhà máy và dùng để ngăn không khí
không cho ra khỏi bình MHY sau khi nạp.
* Bộ điều chỉnh mức dầu ở bình MHY.
Bộ điều chỉnh mức dầu PYM-3 dùng để nạp bổ xung không khí vào bình
MHY trong suốt quá trình MHY làm việc. Mức dầu trong bình MHY tăng
quá mức (35% thể tích bình MHY) khoảng từ 15-20mm thì phao bộ điều
chỉnh nổi lên và đẩy con đợi để mở van.
Không khí từ bình chứa khí của nhà máy qua bộ lọc và đi vào bình
MHY. Nếu mức dầu tụt quá mức thì phao cũng tụt xuống, giải phóng van
bi áp lực dư của không khí sẽ làm bịt kín van.
* Bể xả dầu.
Bể xẩ dầu có kết cấu kim loại hàn bằng thép tấm dùng để thu gom
dầu từ hệ thống thuỷ lực, lọc và khử không khí trong dầu.
* Để duy trì chế độ nhiệt bình thường trong hệ thống thuỷ lực, MHY
được nắp thiết bị làm mát dầu (MY-3b) có trị số chỉnh định chạy bơm ở 42
độ C và cắt bơm ở 38 độ C phát tín hiệu ở 37 độ C nhờ đát trích nhiệt độ
báo hiệu.
* Nhiệt độ toả ra trong hệ thống thuỷ lực do tổn thất năng lượng được làm
nguội bằng phương pháp bức xạ tự nhiên và phương pháp đối lưu qua thiết
bị làm mát dầu. Nhờ đó đảm bảo duy trì nhiệt độ môi trường trong phạm
vi cho phép.
2.9. Hệ thống cấp nước kỹ thuật tổ máy và biến thế.
Hệ thống cấp nước kỹ thuật phải được đảm bảo cấp nước sạch không
ngừng cho các hộ tiêu thụ như: Bộ làm mát không khí, bộ làm mát dầu ổ
hướng tuabin, ổ đỡ, ổ hướng máy phát, hệ thống cấp dầu điều khiển tổ
máy, bộ làm mát hệ thống thiết bị bán dẫn động lực kích thích máy phát và
các bộ phận có nhu cầu làm mát khác, để giữ ổn định cho các thiết bị đó
trong quá trình làm việc. Lượng nước sạch này được thiết kế tính toán sao
cho lưu lượng và áp lực của nước phải đảm bảo yêu cầu.
Cấu tạo : Nó gồm có hai hệ thống :
- Hệ thống nước làm mát tổ máy bao gồm cả hệ thống làm mát bộ biến
đổi thiristor.
- Hệ thống nước làm mát nhóm biến thế một pha.
2.10. Hệ thống cung cấp nước sản xuất nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.
Hệ thống cung cấp nước sản xuất đảm bảo dẫn nước sạch đến cho
các thiết bị tiêu thụ để giữ nhiệt độ theo quy định va bôi trơn các thiết bị
đang vận hành của nhà máy thuỷ điện ở tất cả các chế độ ổn định, quá độ
của tổ máy.
2.11. Hệ thống trạm bơm thải sau cứu hoả các máy biến áp và hầm
cáp:
Trạm bơm thải nước và dầu dùng để bơm thải nước sau cứu hoả các
máy biến áp và hầm cáp ở cao độ 24,6m. Trạm bơm nằm ở cao độ 9,8m
trong gian máy biến áp. Để gom nước cứu hoả máy biến áp, các hầm cáp ở
cao độ 24.6m và xả dầu sự cố ở các máy biến áp và cáp dầu áp lực, người
ta làm bể số 2 ở cao độ 8.6m trong gian máy biến áp.
2.12. Hệ thống làm khô phần nước qua các tổ máy của nhà máy thuỷ
điện.
Hệ thống làm khô dùng để tháo cạn nước ở các bộ phận phần nước
hạ lưu và giữ cho chóng trong tình trạng khô ráo để sữa chữa, những bộ
phận này gồm có: Phần nước của ống dẫn nước có áp lực, buồng xoắn,
buồng bánh xe công tác và ống xả.
2.13. KÕt cấu các thành phần cơ khí của tổ máy thuỷ lực.
2.13.1. Công dụng :
Máy tuabin thuỷ lực trục đứng kiểu PO 150/810-B-567,2 dùng để
dẫn động cho máy phát điện 3 pha có công suất định mức 240.000KW.
Điều khiển tuabin được thực hiện bằng bộ điều tốc thuỷ lực, trong hộp với
thiết bị dầu áp lực MHY. Tổ máy có khả năng làm việc ở cả chế độ bù.
2.13.2. Một số thông số kỹ thuật.
- Kiểu tuabin trục đứng hướng tâm : PO150/810-B-567,2
- Đường kính bánh xe công tác : 5672 mm
- Chiều quay : Phải
- Cột áp tính toán : 88 m
- Cột áp tối đa : 109 m
- Cột áp tối thiểu : 60 m
- Công suất định mức : 245 MW
- Lưu lượng nước qua tuabin ở công suất định mức và cột áp tính toán :
301,5 m3/h
- Tần sè quay định mức : 125 vòng /phút
- Tần sè quay lồng tốc : 240 vòng /phút
- Hiệu suất tối đa ở cột áp định mức : 95 %
- Tải trọng tính toán tối đa trên ổ đỡ : 16,1 tấn
- Tổng tổn thất tính toán ở ổ đỡ : 380 KW
- áp lực trung bình trên xéc măng ở tải trọng tính toán :
31,5 kg/cm2
- áp lực tối đa xéc măng chịu được : 7,6 kg /cm2
- Số lượng xéc măng : 16
- Khối lượng dầu trong bể : 10 m3
- Loại dầu tuabin : T/7.30/OCT9972-74
- Tốc độ quay tuabin : 20,6 m/s
- Độ lệch tâm : 9%
2.13.3. Kết cấu của tuabin.
2.13.3.1. Bánh xe công tác : (đường kính 5672 mm, chiều quay phải )
Là bộ phận làm việc chính của tuabin dùng để biến đổi năng lượng
dòng chảy của nước thành cơ năng quay rôto máy phát, bánh xe công tác
gồm có vành trên 16 cánh và vành dưới được hàn với nhau bằng hàn điện,
ở phía dưới của vành trên có các bulông bắt ghép nắp rẽ dòng.
Nắp này tạo nên sự đổi hướng của dòng chảy từ hướng kính sang
hướng dọc trục một cách êm dịu, để tháo nước từ buồng phía trên bánh xe
công tác ở vành trên có 10 lỗ xả D 130mm, để giảm bớt tổn thất năng
lượng rò rỉ giữa bánh xe công tác và nắp tuabin và vành dưới của cánh
hướng với vành dưới của bánh xe công tác có rãnh chèn hình răng lược.
*Buồng bánh xe công tác : Là chỗ lắp đặt bánh xe công tác, buồng bánh
xe công tác có dạng hình trụ. Khe hỡ giữa buồng và bánh xe công tác nằm
trong phạm vi (0.0005  0.001)D. Trong đó D là đường kính bánh xe công
tác.
Nước được đổ vào bánh xe công tác qua các cánh hướng (lưu lượng
nước là 301,5 m3/h)
2.13.3.2. Cánh hướng nước (bộ phận hước dòng): nằm ở phía stato
Bộ máy cánh hướng nước điều chỉnh lưu lượng nước qua tuabin khi
thay đổi công suất tổ máy cũng như ngăn không cho nước vào bánh xe
công tác lúc dừng máy.
Các cánh hướng được bố trí đều xung quanh và được gắn vào hai vành
trên và dưới. Cánh hướng nước có dạng hình trụ và gồm những bộ phận
sau:
Số lượng cánh hướng là 20 cánh. Đều có 3 gối đỡ và được đúc bằng
thép cácbon, các cánh đều có bạc định hướng làm bằng thép trong có phủ
một lớp vật liệu chống mài mòn mà không cần bôi trơn.
Ổ đỡ giữa và dưới được làm kín bằng gioăng cao su định hình, tất cả
các gối trục của cánh hướng đều được ốp bọc bằng thép không rỉ. Ổ đỡ
giữa cũng đồng thời là ổ chắn để bắt giữ chặt cánh hướng khỏi bị lực nước
nâng lên trên.
Để giảm bớt lượng nước rò qua cánh hướng đã đóng khi lắp ráp phải
mài nhẵn các bề mặt tiếp giáp giữa các cánh, còn gioăng cao su giữa các
khe rãnh của nắp tuabin và vành đỡ dưới là để chèn kín nước ở các đầu
cánh.
Mỗi cánh đều được treo lên nhờ bulông ở trên nắp chuyên dùng qua
tay đòn và mặt bích của gối đỡ. Nắp này Ðp chặt vào nắp tuabin và cũng
nhờ các bulông treo này để điều chỉnh vị trí nâng cánh và các khe hở ở hai
đầu cánh việc quay cánh hướng thực hiện nhờ 4 xécvômôtơ được truyền
qua vành điều chỉnh thanh giằng.
Bản giằng tay đòn để truyền đến cho cánh hướng, Tay đòn được
ghép với nhau bằng các chốt sắt, chốt sắt là khâu yếu nhất làm chức năng
bảo vệ cánh hướng khỏi gẫy khi điều chỉnh không đều các thanh giằng
hoặc các vật lạ lọt vào giữa các khe hở của cánh hướng.
Các khớp bản lề của phần cơ khí quay động cơ đều có đặt các ống lót
bằng nhựa pôlime tổng hợp không yêu cầu bôi trơn trong quá trình vận
hành thanh giằng cánh hướng nước có thể điều chỉnh được chiều dài.
Có thể làm cho các cánh hoàn toàn sát kín với nhau khi các cánh hướng
nước đóng hết, gối đỡ tiếp nhận lực dọc trục của rôto, tổ máy cũng như
mômen xoắn do ổ trục của tổ máy tạo ra kho rôto quay, để cố định cánh
hướng ở vị trí mở hết, hoặc đóng hết có đặt 4 chốt hãm chịu được lực tổng
hợp của 4xécvômôtơ.
Việc quay các cánh hướng nước, khi khởi động và ngừng máy được
thực hiện bằng 4 xéc vô mô tơ trục thẳng đứng tác động 2 chiều.
Đường kính của pittông là 500 mm và hành trình của pittông là 730 mm
áp lực định mức của xéc vô mô tơ lấy từ hệ thống điều chỉnh là 40kg/cm2.
Cấu trúc của xéc vô mô tơ có 1 ống xi lanh thép kiểu hàn có các nắp
được bắt chặt 2 đầu bằng gioăng, pittông gang, thanh giằng của xéc vô mô
tơ có 1 đầu tự do được lắp vào lỗ của chốt trục. Chốt này được nối khớp
với bản lề với vành điều chỉnh và có các ê cu chặn để bắt kẹp các thanh
giằng với nó và cũng nhờ các ê cu này để đảm bảo điều chỉnh thanh giằng
theo hướng dọc trục.
Trong xéc vô mô tơ có hệ thống điều tiết làm chậm chuyển động của
pittông ở cuối hành trình đóng có hệ thống xả dầu từ 2 khoang của xéc vô
mô tơ vào tổ máy vét dầu.
2.13.3.3. Buồng xoắn stato : Là bộ phận dẫn nước vào bánh xe công
tác có cấu tạo hình xoắn có tiết diện thay đổi không khép kín gồm có 20
khâu và một ống nối được cấu tạo từ thép tấm có độ dày khác nhau. Để
vào được buồng xoắn có một lỗ tròn và có nắp đậy.
2.13.3.4. Èng hót : Tác dụng
- Dẫn nước từ bánh xe công tác tuabin xuống hạ lưu với Ýt tổn thất thủy
lực nhất.
- Sử dụng được phần lớn động năng còn lại của nước sau khi ra khỏi
bánh xe công tác.
- Khi đặt bánh xe công tác cao hơn mực nước hạ lưu hơn mực nước hạ
lưu để tiện sửa chữa và giảm bớt khối lượng nhà máy thủy điện, nhờ
có ống hút mà phần cột nước từ bánh xe công tác đến mức nước hạ lưu
được sử dụng.
2.13.3.5. Stato tuabin : Nhận toàn bộ tải trọng của tổ máy, khối bê
tông phía trên và lực Ðp do áp suất nước trong buồng xoắn, cánh hướng
bánh xe công tác tạo nên.
2.13.3.6. Cấu trúc của roto gồm có hai phần : Phần đai trên và đai
dưới cấu tạo từ 4 phần gắn với các vành đó là 48 trụ chịu lực, trong đó 5 trụ
ở vành đầu vào buồng xoắn được chế tạo từ thép đúc còn các trụ khác được
làm bằng thép tấm, đai trên của stato được nối đai tăng cường chịu áp lực
bằng bê tông cốt sắt.
2.13.3.7. Trục tuabin : Truyền mô men quay từ bánh xe công tác đến
trục của máy phát có cấu tạo nguyên khối, kiểu rỗng có vành riêng để lắp ổ
hướng tuabin, đường kính trục là 1500 mm. Độ dày thành trục là 130 mm,
tổng chiều dài là 6800 mm, đường kính của vành chỗ lắp ổ hướng là 1900
mm, mặt dưới của trục được nối bằng 20 bu lông M140 với mặt trên của
bánh xe công tác tương tự như vậy đối với điểm nối của trục tuabin và roto
máy phát.
2.13.3.8. Ổ hướng : Có tác dụng định vị trí của trục tuabin. Trong quá
trình làm việc ổ hướng chịu tác dụng của lực hướng kính do không cân
bằng về lực cơ thuỷ lực và lực điện của roto. Ổ hướng gồm có 12 xéc
măng bằng thép trên bề mặt có phủ một lớp ba bít qua ống lót cách điện.
Vỏ của ổ hướng : Bằng thép và được bắt chặt lên nắp tuabin nhờ bu lông
và chốt định vị, phía dưới vỏ ổ hướng là thùng dầu có thể tích 1m3 để bôi
trơn các xéc măng.
Việc tuần hoàn dầu trong ổ hướng được thực hiện khi các trục quay
nên nó có tính năng giống như bơm li tâm dẫn dầu trong thùng dầu và
khoang giữa các xéc măng và vỏ của ổ hướng làm cho mức dầu ở đó đẩy
lên tới mức cần để bôi trơn các xéc măng. Sau đó dầu qua lỗ ở thanh đứng
của vỏ và đi theo đường ống xả đến 12 bộ làm mát bằng xung quanh thùng
dầu dưới, từ dưới lên và tiếp tục vào thùng dầu. Do đó trong qúa trình
làm việc phải thường xuyên kiểm tra mức dầu, nhiệt độ của dầu và nhiệt
độ các xéc măng bằng các đát trích để biết tình trạng làm việc của tổ máy.
2.13.4. Các phần tử của hệ thống điều chỉnh tốc độ tuabin :
- Bộ điều tốc
- Thiết bị dầu áp lực
- Thiết bị tự động MHY
- Thiết bị tự động tuabin .
Các thành phần của bộ điều tốc thuỷ lực
- Tủ điều tốc
- Bảng thiết bị
- Cơ cấu phản hồi
- Thiết bị chỉ huy
Dầu áp lực từ bình chứa MHY được dẫn theo đường ống tới khối
ngăn kéo chính, từ đây có 3 đường ống dẫn tới ngăn kéo sự cố rồi sau đó
dẫn dầu tới các xéc vô mô tơ.
Ngăn kéo sự cố : Có đường ống phụ nối với đường ống dầu áp lực và
thông với bình chứa MHY, nó được sử dụng để đóng cánh hướng nước
trong trường hợp bộ điều tốc bị hỏng, ngăn kéo có truyền động điện từ để
điều khiển ngăn kéo sự cố.
Khi tổ máy làm việc bình thường dầu dễ dàng chảy qua ngăn kéo sự
cố, còn khi bộ điều tốc bị hỏng và tốc độ quay của roto tăng cao thì rơ le
tần số quay sẽ được tín hiệu đi khởi động ngăn kéo sự cố có bộ dẫn động
điện từ.
Sau khi ngăn kéo sự cố tác động khi đó dầu sẽ được nối thông với
khoang đóng các xéc vô mô tơ cánh hướng với đường dầu áp lực, còn
khoang mở thông với đường xả do đó cánh hướng nước được đóng lại.
Để đưa ngăn kéo sự cố trở lại vị trí đóng bình thường thì trước tiên ta
phải cắt mạch điện cho ngăn kéo có truyền động điện từ để kiểm tra áp lực
dầu trong buồng xéc vô mô tơ bằng các đồng hộ đo áp lực mạch phản hồi
và đưa các phần tử của bộ điều tốc thuỷ lực về vị trí ban đầu.
Cáp truyền : Thực hiện phản hồi cơ giữa cánh hướng nước và tủ điều tốc
sẽ làm cho thiết bị chỉ huy (thực chất là các tiếp điểm hành trình) chuyển
động và nó cho những tín hiệu khác nhau tuỳ theo vị trí của cánh hướng
nước.
Các tổ máy bơm vét dầu : Sử dụng để thu dọn dầu từ các cơ cấu điều
chỉnh và kiểm tra tuabin còng nh định kỳ bơm dầu vào bể xả, ngoài ra còn
dùng để tháo xả dầu cho đường ống của hệ thống điều chỉnh và tốc độ
Thiết bị chỉ huy : Đảm bảo ghép và tách các mạch của hệ thống tự động
điều khiển ở các vị trí xác định của cánh hướng.
Thiết bị dầu áp lực và thiết bị tự động MHY : Dùng để cung cấp dầu
áp lực cho các phần thuỷ lực của hệ thống điều chỉnh.
Thiết bị tự động MHY : Dùng để tự động điều khiển các bộ phận của
MHY thiết bị này được xác định trên cơ sở sử dụng các hệ thống không
tiếp điểm và gồm có : Phần thông báo, Phần lôgic, và cơ cấu chấp hành.
Ngoài ra còn một số các van xả để tháo hết nước khi cần sửa chữa
hoặc kiểm tra tổ máy khi dõng.
2.13.5. Kết cấu của máy phát thuỷ lực :
2.13.5.1. Máy phát thuỷ lực : (kiểu CB1190/215 )
Trục của máy phát điện được nối trực tiếp với trục tuabin nên máy
phát sẽ quay cùng với tốc độ quay của tuabin, do vậy việc điều chỉnh tần số
và điện áp cảu máy phát chính là việc điều khiển tốc độ của tuabin thủy
lực. Máy phát là nơi biến cơ năng do nước sinh ra thành điện năng phát lên
lưới điện quốc gia.
Được cấu tạo theo kiểu ô dù có 1 ổ đỡ được tỳ nên nắp tuabin và có
1 ổ hướng ở phần trung tâm của giá chữ thập trên.
2.13.5.2 Stato máy phát (phần đứng yên ):
Vỏ của stato có cấu tạo từ thép tấm được hàn lại với nhau, stato
được ghép vào bệ nhờ các bu lông bệ.
Lõi của stato được được ghép bằng thép kỹ thuật điện cán nguội và
được sơn cả hai mặt bằng sơn cách điện chịu nhiệt. Theo chiều cao của lõi
thép được chia thành 41 ngăn mà giữa các ngăn có khe hở không khí làm
mát.
Cuộn dây của stato có dạng thanh dẫn uốn sóng hai lớp có 4 nhánh
song song trên một pha và có 6 đầu ra trung tính.
- Số rãnh : Z= 576
- Số cực : 2P=48 pha
- Số rãnh cho một cực và một pha : g=4
- Bước quấn dây : 1-15-25
- Số nhánh song song : a=4.
2.13.5.3 Roto máy phát (phần chuyển động ): Gồm có đĩa roto, thân
roto có gắn đĩa phanh, các cực có cuộn dây kích từ và cuộn cảm, vành
chổi than và may ơ của ổ đỡ.
Đĩa roto là cấu trúc hàn đúc gồm có : Sáu nan hoa tiết diện hình hộp
có thể tháo ra được. Phần trung tâm có ống lót đúc, đĩa gân và các tấm nối
để bắp giữ các nan hoa.
Mặt trong phía dưới của ống được đấu ghép với trục tuabin bằng các
bu lông, mặt bích trên ống lót roto nối với trục phụ.
2.13.5.4 Máy phát phụ.
Máy phát phụ dùng để cung cấp cho hệ thống kích thích độc lập
bằng thiristor của máy phát thuỷ lực. Stato máy phát phụ được Ðp vào chân
giá chữ thập trên còn roto được gắn vào khung bệ của roto máy phát thuỷ
lực.
2.13.5.5. Máy phát điều chỉnh.
Máy phát điều chỉnh thực chất là bộ xung tần số cho bộ điều tốc thuỷ
lực của tuabin và nó cũng được làm máy phát đồng bộ 3 pha với phần kích
thích bằng nam châm vĩnh cửu được nắp trên các cửa của roto.
Để từ hoá các nam châm, mỗi cực từ có một cuộn dây đặc biệt.
Cần phải tiến hành nạp từ điện áp stato thấp dưới 110 V. Tiến hành nạp từ
bằng dòng một chiều 600 A, thời gian nạp không quá 1 giây.
Trong thời gian làm việc, cuộn dây nạp từ phải được nối ngắn mạch.
2.13.5.6. Hệ thống thông gió.
Để làm mát phần tác dụng của máy phát chính có dùng hệ thống
thông gió tuần hoàn làm mát bằng không khí. Roto máy phát làm việc
giống như quạt li tâm tạo nên áp lực gió làm mát cần thiết, làm mát các
cực từ roto, cuộn dây và lõi thép stato và đi vào các bộ làm mát gió bằng
nước, khi ra khỏi bộ làm mát khí theo hướng gió khép kín quanh stato,
không khí lạnh được chia làm hai đường quay trở lại roto.
Các bộ làm mát khí được nắp vào thân stato máy phát chính.
2.13.5.7. Hệ thống phanh.
Để phanh roto khi ngừng máy và khi sửa chữa. tổ máy có bố trí 24
bé phanh kích, các phanh này có các êcu và các vít nâng 3 ngả để giữ roto,
ở trạng thái nâng phanh làm việc. Thiết bị phanh gồm có van chặn không
khí có bộ dẫn động điện áp kế. .. và có khả năng điều khiển bằng tay.
2.13.5.8. Hệ thống kiểm tra nhiệt độ.
Máy phát được kiểm tra nhiệt độ nhờ các bộ biến đổi nhiệt điện trở
và nhiệt điện kế áp lực có tín hiệu được nắp ở đầu nối để kiểm tra nhiệt độ
của lõi sắt stato máy phát cả 3 pha, kiểm tra nhiệt độ các xéc măng của ổ
đỡ và ổ hướng, trong bể dầu cũng có lắp các nhiệt điện trở nhiệt kế áp lực
có tín hiệu.
2.13.5.9. Hệ thống cứu hoả.
Máy phát thuỷ lực được trang bị hệ thống cứu hoả bằng nước
phun. Thiết bị dập lửa máy phát chính có cấu tạo từ hai vòng ống dẫn
bố trí xung quanh phần trên và dưới stato. Theo vòng tròn của ống góp
có rất nhiều lỗ nhỏ trong đó có lắp các ống phun. Nguốn cung cấp
nước cứu hoả máy phát thuỷ lực phải là nguồn độc lập. Máy phát phụ
cũng được bố trí 1 ống phòng hoả riêng, trên đường ống dẫn có lắp
thiết bị van chặn tác động điện.
2.14. Máy biến áp.
Máy biến áp là một thiết bị điện từ đứng yên, làm việc trên nguyên
tắc cảm ứng điện từ, biến đổi một hệ thống dòng điện xoay chiều ở điện áp
máy phát lên cấp điện áp truyền tải 110kV, 220kV, 500kV... với tần số
không thay đổi. Công suất của máy biến áp được tính sao cho có thể đáp
ứng được công suất tối đa của máy phát.
* Các loại máy biến áp được dùng trong nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.
Các máy biến áp 1 pha, 2 cuộn dây kiểu //-105000/220-85-TB-B
dùng để đấu nối 3 pha và lắp đặt vào khối máy phát biến áp.
- Máy biến áp tự ngẫu 3 pha, 3 cuộn dây kiểu ATD//TH6-3000/220/110-
TL, có bộ điều chỉnh điện áp dưới tải, dùng để liên lạc OPY-220 và
cung cấp cho tự dùng nhà máy.
- Máy biến áp 3 pha, 2 cuộn dây kiểu TMH-6300/35-74-71 có bộ điều
chỉnh điện áp dưới tải, máy biến áp này được đấu vào các cuộn dây 35
KV của máy biến áp tự ngẫu và các thanh dẫn điện áp máy phát, dùng
để cung cấp điện tự dùng cho nhà máy.
2.15. Kháng điện
Chức năng chính của kháng điện là hạn chế dòng điện khi có sự cố
sảy ra nh ngắn mạch, quá điện áp khí quyển(nh do sét đánh)
2.16. Máy cắt
Máy cắt dùng để đóng cắt điện áp ở chế độ bình thường và tác động
cắt tải hay máy phát ra khỏi lưới điện khi có sự cố sảy ra theo dòng điện.
2.17. Dao cách ly và dao nối đất.
Chức năng tạo sự an toàn khi có nhu cầu kiểm tra, bảo dưỡng và sửa
chữa phần mạng điện của hệ thống. Tùy thuộc vào vị trí dao cách ly mà nó
có những chức năng nhất định. Như dao cách ly đặt nối đất của đường dây
có tác dụng giải phóng các điện áp dư trên mạng điện mà đã ngắt ra khỏi
nguồn điện nhằm đảm bảo an toàn khi kiểm tra và sửa chữa. Toàn bộ thao
tác này được thực hiện bằng động cơ.
2.18. Hệ thống chống sét.
Có tác dụng bảo vệ đường dây, các thiết bị động lực khác khi có hiện
tượng quá điện áp hệ thống hoặc quá điện áp khí quyển sinh ra.
2.19. Thanh cái
Là nơi tập trung chuyển công suất điện áp từ hệ thống máy phát lên
lưới điện và đến các hộ tiêu thụ khác.
2.20. Biến điện áp (TU) và biến dòng điện (TI)
Biến điện áp và biến dòng điện thuộc bộ phận đo lường và chỉ thị có
tác dụng biến các điện áp siêu cao, cao, trung và hạ thế về các cấp điện áp
nhỏ có thể tiếp xúc được các thiết bị đo lường và hiển thị các thông số của
nhà máy và đường dây.
2.21. Hệ thống điện tự dùng.
Hệ thống điện tự dùng công suất lấy ra từ đầu cực máy phát hay một
phần công suất điện áp đưa vào trạm điện để phục vụ các hộ tiêu thụ nhỏ
đây là việc nội bộ trong nhà máy thủy điện.

CHƯƠNG 3: BỘ ĐIỀU KHIỂN TỐC ĐỘ QUAY TUABIN (BỘ ĐIỀU


TỐC) CỦA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN HÒA BÌNH:
3.2. Hệ thống điều khiển tốc độ quay của tuabin:
Các chương trước, chúng ta đã tìm hiểu về các thiết bị trong nhà
máy, gồm cả các thiết bị cơ và điện, đặc biệt là tuabin thủy lực. Song hệ
thống dầu áp lực và bộ điều tốc là các thiết bị quan trọng trong nhà máy
thủy điện, có nhiệm vụ điều chỉnh tốc độ tuabin phục vụ cho điều chỉnh tần
số để hệ thống điện luôn luôn ổn định. Vì vậy chương này chúng ta sẽ đi
sâu tìm hiểu nghiên cứu về nhiệm vụ cũng như nguyên lý hoạt động của bộ
điều tốc.
Hình vẽ tổng quan hệ thống dầu áp lực và bộ điều tốc
(HÌNH CHỤP SAU 3.1)
Hệ thống dầu áp lực gồm có :
1.1 Thùng chứa dầu áp lực. 1.4 Hệ thống làm mát dầu
1.2 Bảng điều khiển 1.5 Hệ thống trao đổi dầu
1.3 Máy bơm dầu
Hệ thống điều tốc điện thủy lực:
2.1 Tủ điều tốc
2.2 Tủ khởi động bộ điều tốc
2.3 Van sự cố bộ điều chỉnh van định hướng xecvomoto
2.4 Thiết bị phản hồi
2.5 Bộ bảo vệ tần số và chống lồng tốc.
Hệ thống tự động điều chỉnh tuabin:
3.1 Tủ điều khiển tự động 3.6 Đo mức dầu ổ trục
3.2 Bảng dụng cụ đo và điều khiển 3.7 Đo độ mở trục ổ hướng
3.3 Vòng hướng đo nhiệt độ 3.8 Đo mức nước nắp tuabin
3.4 Đồng hồ đo lưu lượng 3.9 Đo áp suất của nước
dưới
3.5 Khóa van cánh hướng bánh xe công tác.
* Nhiệm vụ và nguyên lý làm việc của bộ điều tốc:
3.2.1. Nhiệm vụ:
- Giữ số vòng quay của tổ máy không thay đổi (thay đổi trong giới
hạn cho
phép ) trong phạm vi thay đổi phụ tải của máy phát.
- Phân bố phụ tải của các tổ máy làm việc song song.
- Thực hiện qúa trình mở và tắt máy trong điều kiện bình thường và
trong điều kiện có sự cố.
3.2.2. Nguyên lý làm việc:
Phương trình chuyển động của rôto máy phát có dạng:
d
MT - MC =J . (1)
dT
Trong đó : MT - Mômen của tuabin.
MC - Mômen cản, phụ thuộc vào phụ tải.
J – Mô men quán tính của roto tổ máy
 - Vận tốc góc.

Mômen của tuabin được xác đinh theo công thức:


1000QH 102N
MT = ; hoặc MT = . (2)
 
Trong đó : Q lưu lượng nước H Chiều cao cột nước
N Công suất tuabin  Hiệu suất của tuabin
Từ biểu thức (2) ta thấy trong điều kiện trạm làm việc, cột áp suất
trong ngày hầu nh không thay đổi, hiệu suất gần nh không đổi, mômen của
tuabin phụ thuộc vào lưu lượng.
Nhiệm vụ cơ bản của bộ điều tốc là làm thay đổi lưu lượng qua
tuabin, để thay đổi mômen tuabin sao cho bằng mômen cản và giữ cho số
vòng quay không đổi.
Từ phương trình (1), trạng thái làm việc của hệ thống có thể mô tả
qua 3 phương trình:
d
J =0 (3)
dT

J  = const (4)
MT - MC = 0 (5)
Tương ứng với ba phương trình này, ta có ba nguyên lý điều chỉnh
tuabin:
* Theo phương trình (3) người ta chế tạo ra bộ điều tốc có nhiêm vụ điều
chỉnh gia tốc sao cho d  /dt =0. Bộ điều tốc này gọi là điều tốc gia tốc.
* Theo phương trình (4) người ta chế tạo ra bộ điều tốc thay đổi sự thay đổi
của vận tốc góc  và tác động sao cho J  = const.
* Theo phương trình (5) người ta chế tạo ra bộ điều tốc có khả năng theo
dõi sự thay đổi của mômen MC, hay là theo dõi sự thay đổi của phụ tải, để
điều chỉnh mômen động lực của tuabin M T, sao cho MT cân bằng với MC.
Có thể đạt được điều này bằng hai cách:
- Điều chỉnh MT thông qua việc điều chỉnh lưu lượng qua tuabin, sao
cho MT = MC.
- Điều chỉnh MC thông qua việc điều chỉnh tổng mômen cản của phụ tải,
sao cho MT = MC. Theo hướng này ta có loại điều tốc điều chỉnh phụ
tải.
Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình dùng tuabin tâm trục, nên việc điều chỉnh
thực hiện nhờ hệ thống cánh hướng dòng, từ đó điều chỉnh dễ dàng MT theo
MC .
3.3. Cấu tạo và hoạt động của phần cơ khí của tủ điều tốc
Tủ điều tốc kiểu )/P-150-11 là phần cơ khí thủy lực của bộ điều
chỉnh điện thủy lực dùng để tự động điều chỉnh tần số quay và điều khiển
tuabin thủy lực hướng tâm, hướng trục ở các chế độ khác nhau, đồng thời
dùng để điều chỉnh riêng và điều chỉnh theo nhóm công suất hữu công của
tổ máy.
Trọn bộ điều tốc gồm có: tủ điều tốc, bảng thiết bị điện, cơ cấu
liên lạc ngược và máy chỉ huy.
Các số liệu kỹ thuật:
- Đường kính quy ước của ngăn kéo chính:150mm
- Áp lực làm việc của dầu trong hệ thống điều chỉnh: 40kg/cm2
- Mác dầu trong hệ thống điều chỉnh (Dầu tuabin): T/7-30
- Nhiệt độ dầu của hệ thống điều chỉnh: +10..50oC
- Thời gian làm việc của động cơ bộ hạn chế độ mở từ 0 đến 100%
hoặc ngược lại: 10..30s
- Hành trình lớn nhất của bộ biến đổi điện thủy lực: +(-)6mm
- Kích thước tủ điều tốc (Không có ngăn kéo chính): 500x500x1715
- Trọng lượng tủ điều tốc: 1610kg
Cấu tạo tủ điều tốc:
Tủ điều tốc gồm các bộ phận chính sau đây:
- Bộ biến đổi điện thủy lực
- Ngăn kéo chính
- Cơ cấu hạn chế độ mở
- Cơ cấu điều chỉnh theo cột nước
- Cơ cấu liên lạc ngược điều chỉnh theo cột nước
- Trục của các bộ hạn chế
- Trục liên lạc ngược
- Bộ phát tín hiệu đứt dây cáp phản hồi
- Bộ lọc dầu kép
Ở mặt trước của tủ điều tốc có lắp vô lăng điều khiển cơ cấu hạn chế độ
mở, nhờ vậy có thể điều khiển tổ máy bằng tay và khoá điều khiển cơ cấu
thay đổi tần số và công suất khi tô máy làm việc ở chế độ phát điện và các
đồng hồ cần thiết để theo dõi sự làm việc của tổ máy và của bộ điều tốc.
- Đồng hồ tốc độ điện báo tần số quay của tổ máy
- Đồng hồ chỉ độ mở của máy hướng nước và vị trí của bộ hạn chế.
- Đồng hồ cân bằng chỉ giá trị và chiều dòng điện điều khiển trong cuộn
dây của bộ biến đổi điện thủy lực
- Các đèn tín hiệu báo vị trí các chốt vành điều khiển
- Áp kế báo áp lực dầu đưa vào bộ biến đổi điện thuỷ lực và các bộ báo
cột nước nằm ở trong tủ điều tốc.
- Dây cáp phản hồi cơ và tất cả các đường ống dẫn đến tủ điều tốc từ
phía dưới.
Nguyên lý hoạt động:
3.3.1: Bộ biến đổi điện thủy lực [  P ] gồm các bộ biến đổi điện từ
[M)/7]-1 và bộ khuếch đại thủy lực-2. Bộ biến đổi điện từ là bộ phân gắn
liền phần điện và cơ khí thủy lực của bộ điều tốc. Nó là một hệ thống điện
từ làm việc trên nguyên lý tác động tương hỗ giữa từ trường của cuộn 1.3
và nam châm vĩnh cửu 1.4.
Nếu trong cuộn dây có dòng điện đi qua thì cuộn dây sẽ chuyển động
do tác động của lực điện từ giá trị và chiều chuyển động này tương ứng với
giá trị và chiều tín hiệu điện vào cuộn dây.
Cuộn dây 1.3 truyền chuyển động với bản chắn 1.5, khi bản chắn này
chuyển động sẽ làm thay đổi áp lực dầu trong các khoang của bộ khuếch
đại thủy lực, làm cho pittông 2.1 dịch chuyển lên trên hoặc xuống dưới ứng
với chiều chuyển động của cuộn dây.
Khi pittông 2.1 rời khỏi vị trí giữa thì khoang trên pittông sẽ thông
với hoặc là đường dầu áp lực hoặc là đường dầu xả, do đó làm cho pittông
chuyển động xuống dưới hoặc lên trên cho đến khi mạch phản hồi thông
qua đát trích chuyển dịch 2.6 tác động cắt tín hiệu điều khiển vào cuộn
dây1.3.
Để nâng cao độ nhạy của bộ khuếch đại thuỷ lực 2, người ta dùng
dòng điện xoay chiều vào cuộn dây 1.3 để tạo rung cho hệ thống chuyển
động của bộ biến đổi điện từ. Biên độ dao động trên cần pittông 2.4 = +
[-]0.15..0.2.
Thông qua các mối liên kết cơ khí thuỷ lực tương ứng, độ dao động
được truyền tới kim ngăn kéo kích thích 8.4.
Đồng hồ cân bằng 10 báo giá trị về chiều dòng điện điều khiển trong
cuộn dây. Áp lực dầu làm việc trong bộ khuếch đại thuỷ lực là 18-
20kg/cm2. Tiết lưu 4 tách dùng để giảm áp lực từ 40kg/cm 2 xuống trị số
nêu trên.
Khi điều khiển tổ máy bằng tay thì bộ khuếch đại thuỷ lực được tách
ra bằng cách bẻ cần 2.3 về vị trí “Bằng tay” khi đó áp lực dầu sẽ đưa
pittông 2.4 lên vị trí trên cùng và không hạn chế độ chuyển dịch củ thanh
truyền 8.6 và kim 8.4.
3.3.2: Ngăn kéo chính 8 về mặt cấu tạo được hợp nhất với ngăn kéo kích
thích 8.4 và xéc vô mô tơ phụ 8.2. Lò xo đảm bảo Ðp giữa kim ngăn kéo
kích thích 8.4 với thanh truyền 8.6 và hệ thống truyền động, bằng thanh
truyền do ngăn kéo chính điều khiển và do tính sai áp của kim ở ngăn kéo
kích thích nên giữa các đĩa của nó tạo ra hướng áp lực.
Do tính sai áp của thân ngăn kéo chính 8.3 nên tạo ra lực hướng lên
phía trên, cân bằng với lực từ phía pittông xéc vô mô tơ phụ 8.2. Kim 8.4
chuyển động lên trên và xuống dưới nhờ tác động của thanh truyền 8.6 sẽ
làm cho áp lực trong khoang trên pittông 8.4 thay đổi, phá vỡ cân bằng lực
tác động cần pittông, do đó pittông chuyển về hướng tương ứng (Lên trên
hoặc xuống dưới) thông qua thanh truyền 8.6 đẩy kim ngăn kéo kích thích
8.4 về vị trí giữa.
Thân ngăn kéo chính 8.3 chuyển động cùng với pittông, đẩy dầu áp
lực vào một khoang của xéc vô mô tơ máy hướng nước và thông khoang
kia với đường dầu cả.
Thời gian mở và đóng của xéc vô mô tơ máy hướng nước được điều
chỉnh bằng các êcu 8.1, trong đó êcu trên hạn chế hành trình xuống dưới
của thân ngăn kéo chính và chỉnh thời gian đóng, còn êcu dưới hạn chế
hành trình lên phí trên và chỉnh thời gian mở.
3.3.3: Cơ cấu hạn chế độ mở [MOO]
Nhờ có cơ cấu hạn chế độ mở có thể ngừng và khởi động tổ máy
điều khiển bằng tay và hạn chế độ mở cánh hướng nước. Cơ cấu có 2 bộ
truyền động độc lập, bộ truyền động bằng tay 14.1 và bộ truyền động tự
động 14.2.
Khi động cơ chay hoặc quay vô lăng thì cần 14.7 sẽ truyền động làm
quay trục hạn chế 18. Trục hạn chế quay sẽ tác động lên ngăn kéo chính 8
và sẽ làm cho thân ngăn kéo chuyển động.
Do ngăn kéo chuyển động, xéc vô mô tơ máy hướng nước sẽ thay
đổi vị trí của mình và thông qua cáp liên lạc ngược 22 làm quay trục liên
lạc 19 đẩy thân ngăn kéo về vị trí giữa. Để hạn chế độ mở máy hướng
nước, cơ cấu độ mở được đưa về vị trí ứng với độ mở cho phép lớn nhất
tuỳ theo điều kiện vận hành.
Khi máy hướng nước dịch chuyển về phía mở đạt tới độ mở đó thì
liên lạc ngược thông qua trục liên lạc ngược 19 đẩy thân ngăn kéo về phía
giữa và máy hướng nước ngừng chuyển động. Động cơ điện 14.2 dừng lại
ở vị trí ngoài cùng nhờ các công tắc hành trình đầu cuối: Đóng 14.3, mở
14.4.
3.3.4: Cơ cấu hiệu chỉnh bộ điều chỉnh theo cột nước 15.
Độ mở vào tuabin bị hạn chế nhờ cam 15.3, thông qua thanh truyền
18.2 và 18.4 tác động liên tục bộ hạn chế 18, đưa nó về vị trí ứng với độ
mở cho phép lớn nhất của máy hướng nước ở cột nước đó. Cam 15.3 được
chế tạo phù hợp với đường giới hạn công suất của tổ máy được xác định
bởi đặc tính vận hành.
3.3.5: Cơ cấu liên lạc ngược điều chỉnh theo cột nước 17 đảm bảo cắt
tín hiệu đến động cơ 15.1 của cơ cấu chỉnh bộ điều chỉnh theo cột nước khi
cơ cấu điều chỉnh theo cột nước đạt tới vị trí ứng với cột nước đang làm
việc.
3.3.6: Trục bộ hạn chế 18 lùa chon giá trị lớn nhất hạn chế độ mở máy
hướng nước trong các giá trị hiện có ở thời điểm đó ở cơ cấu hạn chế độ
mở 14 và han chế theo cột nước 15.
3.3.7: Trục liên lạc ngược 19 dùng để truyền tín hiệu liên lạc ngược từ
xéc vô mô tơ máy hướng nước. Trục có quả tạ 19.3 để kéo căng dây cáp
22.
Để trục không bị quay qúa trong trường hợp đứt dây cáp, người ta
lắp chốt hạn chế 20.2 trên bệ máy, ở dưới qủa tạ người ta có lắp bộ phận
hình dẻ quạt 19.5 để dây cáp truyền chuyển động của xéc vô mô tơ máy
hướng nước đến đồng hồ chỉ độ mở của máy hướng nước 13. Vị trí bộ phận
hình dẻ quạt trên quả tạ có thể được điều chỉnh nhờ cam lệch tâm.
3.3.8: Bộ lọc dầu kép 5 dùng để lọc thêm dầu vào các cơ cấu nằm trong
tủ điều tốc. Cấu tạo bộ lọc đảm bảo có thể dùng dầu sạch để vệ sinh và rửa
phần lưới lọc không làm việc và không phải tháo nó ra khỏi vỏ.
Ngoài ra còn các đồng hồ cần thiết để theo dõi sự làm việc của tổ
máy và của bộ điều tốc.
- Đồng hồ tốc độ điện báo tần số quay của tổ máy
- Đồng hồ chỉ độ mở của máy hướng nước và vị trí của bộ hạn chế.
- Đồng hồ cân bằng chỉ giá trị và chiều dòng điện điều khiển trong cuộn
dây của bộ biến đổi điện thủy lực
- Các đèn tín hiệu báo vị trí các chốt vành điều khiển
- Áp kế báo áp lực dầu đưa vào bộ biến đổi điện thuỷ lực và các bộ báo
cột nước nằm ở trong tủ điều tốc.
- Dây cáp phản hồi cơ và tất cả các đường ống dẫn đến tủ điều tốc từ phía
dưới.
Quá trình hoạt động ở các chế độ khác nhau của tủ điều tốc:
* Khởi động tổ máy:
Vị trí của các cơ cấu và các bộ phận riêng biệt trước khi khởi động tổ máy
như sau :
- Van 7 trong tủ điều tốc mở, áp lực dầu bằng 18-20kg/cm2.
- Cần 2.3 của bộ biến đổi điện thuỷ lực nằm ở vị trí Tự động.
- Cơ cấu hạn chế mở nằm ở vị trí tương ứng với vị trí máy hướng
nước đóng hoàn toàn. Kim đỏ của đồng hồ 13 nằm ở chấm đỏ kể từ phía
0 của thang đo. Kim đen chỉ máy hướng nước đóng hoàn toàn. Đèn tín
hiệu 12 báo xéc vô mô tơ máy hướng nước đã tháo chốt ( Đèn xanh
sáng). Khi phát tín hiệu khởi động, động cơ 14.2 đóng điện đẩy cần 14.7
của bộ hạn chế độ mở lên phía trên. Khi cần bắt đầu chuyển động thì
tiếp điểm cuối14.3 tác động và phát tín hiệu điều khiển vào cuộn dây
của bộ biến đổi điện thủy lực làm việc nhở tín hiệu của bộ hạn chế điện
trên bảng thiết bị điện. Tổ máy bắt đầu quay, khi tần số quay gần bằng
tần số quay định mức và máy hướng nước mở đến độ mở không tải thì
tiến hành đồng bộ và hoà tổ máy vào lưới. Khi đóng máy ngắt của máy
phát thì bộ hạn chế điện được cắt ra. Tổ máy có thể mang tải đến phụ tải
cho phép lớn nhất của cột nước đó.
* Ngừng máy :
Khi phát tín hiệu ngừng tổ máy bình thường thì cơ cấu thay đổi tần số và
công suất sẽ giảm bớt phụ tải của tổ máy bằng cách đóng bớt máy hướng
nước của tuabin. Khi máy hướng nước đạt tới độ mở không tải thì tổ máy
được cắt khỏi lưới nhờ tiếp điểm hành trình của máy chỉ huy, lúc đó động
cơ bộ hạn chế độ mở đóng điện làm việc về phía đóng, máy hướng nước
đóng hoàn toàn, tổ máy ngừng. Tiếp điểm hành trình tác động cắt điện
động cơ.
* Tổ máy làm việc dưới tải:
Tần số trong lưới điện tăng lên làm cho tần số quay của tổ máy cũng tăng
lên. Khi tần số đó vượt quá giá trị số bộ nhạy của bộ điêu tốc thì trên bảng
điện sẽ tạo ra tín hiệu tỷ lệ với độ sai lệch tần số và có chiều hướng khôi
phục trạng thái cân bằng, nghĩa là có chiều hướng đóng bớt máy hướng
nước.
* Sa thải phụ tải:
Khi máy ngắt của máy phát nhảy, bảng thiết bị điện hình thành tín hiệu
“Đi đóng” truyền qua bộ biến đổi thuỷ lực, do đó thân ngăn kéo chính 8.3
chuyển động hết xuống dưới và máy hướng nước đóng lại với tốc độ lớn
nhất mà điều kiện đảm bảo điều chỉnh cho phép.

* Ngừng sự cố tổ máy.
Nếu sau khi máy ngắt của máy phát nhảy mà thân ngăn kéo chính
không chuyển động xuống dưới và công tắc hành trình củ mạch bảo vệ
chống lồng tốc 21 không nhả ra thì ngăn kéo sự cố sẽ tác động khi tần số
quay của tổ máy đạt bằng 115% tốc độ định mức và ngăn kéo sự cố sẽ
đóng máy hướng nước không qua ngăn kéo chính của bộ điều tốc.
Ngăn kéo sự cố cũng tác động để đóng máy hướng nước khi bất kỳ
bảo vệ cơ khí thuỷ lực vào làm việc mà máy hướng nước không đóng lại
được bằng ngăn kéo chính của bộ điều tốc.
Khi lồng tốc 170% nguyên lý làm việc của ngăn kéo sự cố có bộ
truyền động điện tử. Việc ngừng sự cố tổ máy do các nguyên nhân không
liên quan tới lồng tốc được thực hiện bằng cách đống điện động cơ của các
cơ cấu hạn chế độ mở. Trong trường hợp này máy phát được cắt khỏi lưới
điện nhờ công tắc hành trình của máy chỉ huy khi các máy hướng nước đạt
tới độ mở không tải.
* Điều khiển bằng tay.
Để điều khiển bằng tay, cần của bộ biến đổi điện thuỷ lực 2.3 phải đưa về
“Bằng tay” lúc đó khoang trên pittông 2.4 củ bộ biến đổi điện thuỷ lực sẽ
thông với đường dầu xả và pittông chuyển động lên trên, lại trừ khả năng
làm việc tự động của điểu tốc qua bộ biến đổi điện thuỷ lực. Trong trường
hợp này phải dung vô lăng của cơ cấu hạn chế độ mở 14.1 để khởi động,
ngừng, duy trì tần số quay và thay đổi phụ tải của tổ máy.
Khởi động tổ máy ở chế độ điều khiển bằng tay nh sau:
Quay vô lăng 14.1 để đưa cần bộ hạn chế 14.7 về vị trí độ mở khởi động
bằng cách căn cứ vào chỉ số đồng hồ vị trí máy hướng nước 13. Dùng vô
lăng 14.1 của cơ cấu hạn chế độ mở 14 chỉnh độ mở không tải phù hợp để
đạt tần số quay định mức 100%.
Ngừng tổ máy bằng cách quay vô lăng 14.1 về phía đóng. Khi đó tổ máy
phải tự động cắt khỏi lưới khi máy hướng nước đạt tới độ mở không tải.
* Trình tự chuyển tổ máy từ điều khiển bằng tay ra điều khiển tự
động và ngược lại.
Khi chuyển từ điều khiển bằng tay sang tự động
phải dùng khoá 9 để đưa kim đồng hồ cân bằng 10 đến vạch 1-1.5 về phía
“Tăng” sau đó chuyển cần 2.3 về vị trí “Tự động”.
Sau khi thực hiện thao tác trên, dung khoá 9 phát tín hiệu “Giảm” cho
đến khi kim đồng hồ cân bằng 10 nằm về vạch “0” trên đồng hồ 13. Kim
đen chỉ vị trí máy hướng nước cách kim đỏ hạn chế độ mở một Ýt, dùng vô
lăng 14.1 để đưa cần 14.7 về vị trí mở hết.
Khi chuyển từ điều khiển tự động sang bằng tay thì
phải quay vô lăng 14.1 của cơ cấu hạn chế độ mở về phía đóng đến khi
nào trên đồng hồ 13 kim đỏ và kim đen trùng nhau, lúc đó trên đồng hồ cân
bằng sẽ xuất hiện tín hiệu nhỏ về phía tăng sau đó chuyển cần 2.3 về vị trí
“Bằng tay”.
Thực hiện nghiêm túc trình tự thao tác ở mục 5.6 khi chuyển từ điều
khiển tự động sang điều khiển bằng tay và ngược lại sẽ đảm bảo phụ tải của
tổ máy sẽ không thay đổi.
Chỉ ở chế độ điều khiển bằng tay hoặc khi máy đã ngừng mới được
phép đóng và mở van 7.
3.4. Cấu tạo và nguyên lý làm việc của ngăn kéo đóng sự cố máy hướng
nước.
3.4.1: Tổ máy ngừng sự cố nhờ ngăn kéo sự cố được điều khiển
bằng điện thủy lực.
Ngăn kéo sự cố gồm có:
- Bản thân ngăn kéo sự cố đường kính 150mm.
- Ngăn kéo điều khiển cuộn điện từ.
- Bộ tiết lưu.
3.4.2: Ngăn kéo sự cố được lắp đặt trên các ống điều khiển, nối ngăn kéo
chính của bộ điều tốc với các xéc vô mô tơ máy hướng nước.
Đầu nối với ngăn kéo sự cố có các đường ống:
- Èng áp lực từ MHY.
- Èng xả dầu về MHY.
- Èng nối với xécvômôtơ lắp trong ngăn kéo, vào khoang B.
- Èng tháo dầu về bơm vét dầu.
Khi tổ máy ở chế độ điều khiển bình thường, thân ngăn kéo 1.1 nằm
ở vị trí ngoài cùng bên phải và không ngăn cản dòng dầu từ ngăn kéo của
bộ điều chỉnh tới xécvômôtơ máy hướng nước. Ngăn kéo sự cố được điều
khiển nhờ xécvômôtơ láp ở bên trong.
Khi ngăn kéo sự cố phát tín hiệu ngừng tổ máy thì khoang “B” của
xécvômôtơ bên trong thông với đường dầu xả, dầu áp lực ở khoang “A”
đẩy thân ngăn kéo 1.1 từ vị trí ngoài cùng bên phải sang bên trái. Do đó bịt
kín ống điều khiển từ ngăn kéo chính tới các xécvômôtơ. Khoang “A” đóng
của xécvômôtơ máy hướng nước thông với đường dầu áp lực, còn khoang
“B” mở của xécvômôtơ thông với đường dầu xả. Do đó xécvômôtơ máy
hướng nước đóng lại.
3.4.3: Ngăn kéo điều khiển cuộn điện từ:
Ngăn kéo điều khiển 3 có cuộn điện từ 2 dùng để điều khiển bằng tay
và tự động ngăn kéo sự cố. Khi tổ máy ở chế độ điều khiển bình thường thì
cuộn điện từ 2 không có điện, kim 3.1 nằm ở vị trí cuối cùng.
Ngăn kéo thông khoang B của xéc vô mô tơ lắp bên trong với áp lực
cố định thân ngăn kéo 1.1 ở vị trí ngoài cùng bên phải. Khi cuộn dây điện
từ 2 có điện sẽ hút lõi cảm ứng 2.1 cùng cần 3.1 lên trên và chốt lại làm
thông khoang “B” của xéc vô mô tơ với đường dầu xả.
Khỉ giải trừ liên động, lõi cảm ứng từ 2.1 cùng với kim 3.1 được tháo
ra khỏi chốt và được lò xo kéo xuống dưới khoang B của xéc vô mô tơ lắp
bên trong được thông với đường áp lực. Ngăn kéo điều khiển 3 có thể được
giải trừ liên động bằng nút 2.3 hoặc từ bàn điều khiển từ xa.
Ngăn kéo được điều khiển bằng tay bằng cách Ên lên cần 2.2 đến khi
lõi điện từ 2.1 cùng kim 3.1 được cố định ở vị trí trên cùng.
3.4.4 Bộ trích lưu:
Bộ trích lưu 4 được lắp trên ống xả dầu của ngăn kéo sự cố số 1, nó
dùng để xác định thời gian đóng xéc vô mô tơ máy hướng nước bằng ngăn
kéo sự cố theo đúng thời gian đảm bảo điều chỉnh.
3.5. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của phần điện của bộ điều tốc
(Hình vẽ 3.2. sơ đồ phần điện của bộ điều tốc)
Tần số là thông số cần điều chỉnh trong suốt quá trình hoạt động của
hệ thống và nhiệm vụ của các bộ điều tốc là điều chỉnh tần số đạt bằng giá
trị đặt trong khoảng thời gian ngắn nhất, mà không có dao động lớn gây
ảnh hưởng tới chất lượng điện năng của hệ thống.
Khi tổ máy chưa hòa vào lưới (tức chưa tham gia vào quá trình phát
điện) thì việc điều chỉnh tần số được thực hiện thông qua điều chỉnh tốc độ
quay của tuabin.
Khi tốc độ của tuabin đạt tốc độ định mức (125vòng/phút) tương ứng
với tần số 50hz (có thể sai khác 0.1- 0.15hz), cộng thêm các điều kiện thỏa
mãn của điện áp và góc pha giữa tổ máy và lưới(   300 ), thì cho phép tổ
máy hòa lưới (tức tham gia vào quá trình phát điện). Lúc này vấn đề điều
chỉnh tần số không còn là nhiệm vụ của riêng một tổ máy nữa mà là vấn đề
chung của toàn hệ thống điện.
Do đó việc điều chỉnh tần số thông qua điều chỉnh lượng công suất
tác dụng cân bằng với công suất phụ tải (luôn luôn biến đổi).
* Khi tổ máy chưa hòa vào lưới điện.
Khâu đặt tần số có thể được thực hiện tự động hoặc bằng tay. Dùng
khóa H13K6 để tăng tần số khi khóa này đóng và khóa H13K7 để giảm tần
số khi khóa này đóng.
Thông qua khâu H5 có vai trò giống một khâu tích phân nhiệm vụ là
nhớ giá trị tần số và giữ nó không đổi trong một khoảng thời gian đủ dài.
Đầu ra H5 ta có giá trị đặt tần số, giá trị đặt này được so sánh với giá trị
thực phản hồi từ tổ máy tuabin.
Đo tốc độ quay của tuabin dùng một máy phát điều chỉnh gắn đồng
trục với trục tuabin có cấu tạo giống hệt máy phát điện chính nhưng nhỏ
hơn nhiều và phần kích từ là khối nam châm vĩnh cửu.
Đầu ra là điện áp xoay chiều một pha 100-110V ( U  U o .sin(t   ) )
sau khi qua máy biến áp T1 để điện áp phù hợp với khâu biến đổi. Từ biểu
thức điện áp ta biết được tần số thực tế của tuabin. Tuy nhiên để so sánh
với tần số mẫu ta cần biến đổi thành điện áp một chiều bằng bộ biến đổi
tần-áp H6. Điện áp đầu ra có thể được hiệu chỉnh đặc tính quá độ bằng
cách thay đổi các khóa chuyển để thay đổi điện dung C của tụ điện từ đó
thay đổi được hằng số thời gian của khâu vi phân.
Hiệu sai lệch tần số mẫu và tần số thực của tuabin được cho qua

t2

khâu tích phân tần số H3A4 y1   edt . Khâu tích phân này nhằm đảm bảo
t1

chất lượng điều khiển, bộ điều khiển sẽ tác động cho tới khi sai lệch bằng
0, điều đó rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng điện năng ở trạng
thái xác lập.
Đầu ra của H3A4 một phần sẽ phản hồi lại qua khâu khuếch đại
bp  0  100%(0  10) nối song song khâu vi phân thực có hằng số thời gian

Td  0.2  20 có tác dụng ổn định hệ thống và nâng cao đặc tính quá độ. Một

phần đưa tín hiệu tới bộ khuếch đại thủy lực H9 để khuếch đại lần một tín
hiệu đi điều khiển. Tín hiệu này được khuếch đại lần 2 bằng khâu H9’ trước
khi đưa vào ngăn kéo chính.
Ngăn kéo chính thực chất nó là một xi lanh thủy lực là khâu trung
gian truyền áp lực từ bình dầu áp lực MHY tới các secvomoto cánh hướng
nước.
Ở đây nó có hai đầu ra tương ứng với việc đóng hay mở cánh hướng
nước, ở chế độ mở thì khoang mở sẽ thông với đường dầu áp lực còn
khoang đóng thông với đường dầu xả, ở chế độ đóng thì ngược lại. Hàm
truyền của nó xấp xỉ là khâu tích phân.
Đầu ra ngăn kéo chính một phần phản hồi lại trước H9’ một phần
truyền tác động tới xecvomoto để điều khiển cánh hướng nước.
Xecvomoto có cấu tạo giống ngăn kéo chính nhưng cơ chế làm việc đơn
giản hơn. Khi có lệnh đóng hoặc mở cánh hướng nước từ ngăn kéo chính
các secvomoto sẽ làm việc đẩy vào hay kéo ra tương ứng với việc đóng hay
mở cánh hướng nước. Hàm truyền của secvomoto cũng là một khâu tích
phân.
Vị trí của cánh hướng được đo bằng biến áp quay có nguồn nuôi
12V- 400Hz đầu ra là điện áp xoay chiều được biến đổi thành điện áp một
chiều y2 qua khâu vi phân thực hằng số thời gian Tp  0  50 trước khi phản
hồi lại trước khối H9.
Độ mở cánh hướng nước ảnh hưởng trực tiếp lượng nước vào tuabin,
do đó làm thay đổi được tốc độ quay tuabin, nếu cánh hướng mở nhiều thì
lượng nước vào tuabin lớn tốc độ quay tuabin tăng và ngược lại nếu cánh
hướng mở Ýt thì lượng nước vào tuabin giảm đi nên tốc độ quay của tuabin
sẽ giảm.
* Khi tổ máy hòa vào lưới (tổ máy mang tải)
Khi tốc độ quay của tuabin đạt tốc độ định mức (125 vòng/phút)
tương ứng với tần số 50 Hz cùng các điều kiện thỏa mãn về điện áp và pha
giữa tổ máy và lưới ta tiến hành hòa lưới tổ máy vào hệ thống, tổ máy bắt
đầu phát công suất hữu công.
Cùng lúc đó giá trị đặt công suất Po (đã được trung tâm điều động
nhà máy phân phối công suất cho tổ máy sao cho đạt lợi Ých kinh tế nhất)
được áp đặt. Giá trị đặt được tạo ra tương tự việc tạo ra giá trị đặt tần số có
thể tự động hoặc bằng tay, bằng hai khóa H13K6 để tăng công suất và khóa
H13K7 để giảm công suất. Giá trị này cũng được giữ bởi khối tích phân
H5A5, tín hiệu này được cộng với tín hiệu phản hồi y1 sau khối tích phân
tần số H3A4.
Công suất phản hồi có thể được lấy sau máy phát chính qua các bộ
biến áp BU và biến dòng BI hoặc thông qua thiết bị IPM, thiết bị này có
nhiệm vụ đo và tính toán công suất ra của máy phát từ đó chuyển đổi thành
dòng điện tương ứng với công suất tính toán. Dòng này qua các điện trở tạo
thành áp đặt vào trước khâu khuếch đại thủy lực H9.
Nh vậy khi tổ máy hòa lưới việc điều chỉnh tần số được điều khiển
thông qua điều chỉnh công suất tác dụng của tổ máy.
Ví dụ : Hệ thống đang làm việc ổn định ở tần số 50 Hz đột nhiên có sự
mất cân bằng phụ tải, giả sử phụ tải tăng làm cho tần số có xu hướng giảm,
khi đó nhiệm vụ của trung tâm điều độ (trung tâm phân phối) công suất sẽ
tính toán và đặt cho tổ máy một công suất phát mới (lớn hơn giá trị cũ)
nhưng phải đảm bảo tổ máy duy trì được giá trị công suất này, theo đó sẽ
tác động vào cánh hướng làm cánh hướng mở to ra, tốc độ tuabin tăng lên
do đó có thể khắc phục được sự giảm tần số. Trong trường hợp tổ máy
không thể đáp ứng được công suất phụ tải, để bảo vệ tổ máy không bị quá
tải gây hư hỏng thì cho phép cắt bớt phụ tải không quan trọng để phục hồi
tần số.
3.6. Vấn đề điều chỉnh tần số và công suất tác dụng trong hệ thống
điện
3.6.1. Những vấn đề chung
Nh ta đã biết tần số là chỉ tiêu chung về chất lượng điện năng của
toàn hệ thống, vì trong hệ thống điện hợp nhất ở chế độ làm việc bình
thường, tần số ở mọi điểm đều giống nhau. Tần số sẽ thay đổi khi xảy ra
mất cân bằng giữa tổng công suất tác dụng của các động cơ sơ cấp (tuabin)
kéo máy phát điện với phụ tải tác dụng của hệ thống điện .
Cân bằng công suất tác dụng trong hệ thống điện ở chế độ bình
thường:
PT  Ppt  

Trong đó : PT : Công suất của tuabin kéo máy phát.


Ppt : Công suất của phụ tải điện.

 : Tổn thất công suất tác dụng trong hệ thống điện.

Mô men kéo của tuabin.


 .QH .
MT 

Trong đó :  : Hằng số
Q : Lưu lượng nước vào tuabin

H : Độ chênh áp suất đầu và cuối tuabin.


 : Hiệu suất tuabin
Tần sè f của dòng điện phụ thuộc vào tốc độ góc  của máy phát
điện theo quan hệ
 p.n
f  
2 60
Trong đó : p – Số đôi cực của máy phát điện
n- Số vòng quay của máy phát điện
Phụ tải điện của hệ thống tạo nên mômen cản trên trục tuabin. Công
suất của từng loại phụ tải điện khác nhau phụ thuộc vào tần số dòng điện
theo những quan hệ khác nhau.
Chẳng hạn công suất tiêu thụ bởi các đèn sợi nung và các loại phụ tải
nhiệt hầu nh không phụ thuộc vào tần số, công suât tiêu thụ bởi động cơ
của máy móc gia công kim loại phụ thuộc bậc nhất tần số. Công suất của
các loại bơm, quạt tùy theo kết cấu, độ nghiêng của cánh có thể phụ thuộc
bậc hai, ba vào tần số...
Nói chung đối với phụ tải tổng hợp của hệ thống tùy theo tương quan
giữa các thành phần phụ tải mà quan hệ giữa công suất tác dụng và tần số
sẽ thay đổi.
P
P *
P
k f  *  dd
f f
f dd

Trong đó : f , P - Tương ứng là sự thay đổi của tần số và công suất tác
dụng.
f dd , Pdd - Tần số và công suất danh định .

Để thấy rõ sự thay đổi tương quan giữa công suất tác dụng và tần số
ta khảo sát đường đặc tính tĩnh của tuabin và của phụ tải.
Thay đổi tần số (hay tốc độ quay) sẽ làm thay đổi mô men quay
M  P. của phụ tải. Quan hệ này được biểu diễn bằng đường cong 1'

trên hình vẽ đặc trưng cho đặc tính tĩnh của phụ tải. Tần số của hệ thống
điện được xác định tại điểm cắt O1 của đặc tính 1 (tuabin) và đặc tính 1'
(phụ tải) ở đó mô men kéo của tuabin cân bằng với mô men cản của phụ tải
M1

Hình vẽ 3.3 Đường đặc tính tĩnh tuabin (1,2,3) và phụ tải ( 1' , 2' , 3' ).
Khi số lượng phụ tải trong hệ thống điện thay đổi, đặc tính tĩnh của
phụ tải 1' sẽ bị dịch chuyển. Chẳng hạn khi đấu thêm phụ tải, đặc tính này
sẽ bị dịch chuyển sang bên phải ( 2' ) và sẽ cắt đặc tính tuabin tại điểm O3 ,
tương ứng với tần số f3 . Khi cắt bớt phụ tải, đặc tính 1' sẽ bị dịch chuyển
sang trái ( 3' ) và sẽ cắt đặc tính 1 của tuabin tại O2 , tương ứng với tần số f 2 .
Nh vậy khi phụ tải thay đổi sẽ làm cho tần số thay đổi:
f  f 2  f3

Để đảm chất lượng điện năng không cho phép tần số của hệ thống
thay đổi nhiều. Vì vậy khi phụ tải thay đổi, để giảm mức thay đổi tần số,
bắt buộc phải thay đổi đặc tính tĩnh của tuabin. Chẳng hạn khi phụ tải tăng
phải dịch chuyển đặc tính tĩnh của tuabin sang phải (đường 2). Khi Êy
điểm cắt nhau giữa đặc tính tuabin (2) và phụ tải ( 2' ) tại O4 tương ứng với
tần số f 4 > f3 . Tương tự khi phụ tải giảm ta phải dịch chuyển đặc tính
tuabin sang trái (3) và điểm cắt nhau giữa đặc tính 3 và 3' tại O5 tương ứng
với tần số f5 < f 2 . Nhờ sự dịch chuyển đặc tính tuabin mà độ lệch tần số
f '  f5  f 4 < f  f 2  f3

Tập hợp các điểm O5 , O1 , O4 hình thành đặc tính điều chỉnh của
tuabin f(M) hoặc f(P).
Đặc tính điều chỉnh của tuabin được đặc trưng bằng hệ số phụ thuộc
tương đối (còn được gọi là hệ số tĩnh)
f
f
*
f
S *   *   dd
P P
Pdd

Thông thường S * của đặc tính điều chỉnh tuabin trong hệ thống điện
nằm trong giới hạn S * =0.02  0.06. Trị số càng bé càng chứng tỏ hệ thống
càng khỏe, nghĩa là với một mức biến đổi công suất nh nhau, thì mức biến
đổi của tần số trong hệ thống có S * bé hơn sẽ Ýt biến đổi hơn.
Điều chỉnh tần số (hay số vòng quay) của tuabin được thực hiện
bằng cách thay đổi năng lượng vào tuabin, nó liên quan trực tiếp tới tiêu
hao năng lượng, nhiên liệu và là một bài toán tối ưu hóa phức tạp phụ thuộc
nhiều yếu tố như đặc tính tiêu hao nhiên liệu của tổ máy, chi phí vận hành
của nhà máy điện, tổn thất công suất trên lưới khi thay đổi phương thức
huy động công suất của cả nhà máy điện .
Nh vậy điều chỉnh tần số trong hệ thống điện liên quan hữu cơ với
việc điều chỉnh và phân bổ công suất tác dụng giữa các tổ máy và nhà máy
điện trong hệ thống điện .
Hệ thống điện càng lớn. Yêu cầu về độ chính xác điều chỉnh tần số
càng cao, vì độ lệch tần số sẽ ảnh hưởng tới trào lưu công suất giữa nhiều
nhà máy điện và giữa các khu vực khác nhau của hệ thống.
Do đó trung tâm điều động hệ thống điện xuất phát từ điều kiện vận
hành tối ưu của hệ thống từ đó đưa ra phương thức huy động công suất của
từng nhà máy điện, công suất trao đổi giữa các đường dây liên lạc cần được
khống chế trong các tình huống vận hành khác nhau.

3.6.2. Máy điều chỉnh tốc độ quay của tuabin.


Máy điều chỉnh tốc độ quay tuabin có nhiệm vô tù động thay đổi mô
men quay của tuabin bằng cách điều tiết lượng nước vào tuabin. Để điều
tiết năng lượng nước vào tuabin người ta dùng hệ thống cánh hướng nước.
Trong hệ thống điều tốc của nhà máy, các máy điều tốc sơ cấp của
tuabin ngoài nhiệm vụ điều chỉnh tần số (tốc độ quay) của tuabin mà còn
tham gia vào quá trình phân bổ công suất tác dụng giữa các tổ máy trong hệ
thống điện .
Máy điều chỉnh tốc độ trong nhà máy được chế tạo theo nguyên lý
điều chỉnh gián tiếp thông qua khâu khuếch đại thủy lực có cấu tạo đa dạng
và phức tạp, nhưng gồm những phần tử chính sau :

Hình vẽ 3.4 Cấu trúc và sơ đồ chức năng máy điều tốc tuabin
Trong đó :
1- Phần tử đo lường : Bộ phận để phát hiện độ lệch tần số quay của tổ
máy khỏi giá trị đặt, độ lệch tần số của điện áp máy phát điện, gia tốc
tuabin hay thông số điều chỉnh khác.
2- Phần tử khuếch đại : Thường là bộ khuếch đại từ hay khuếch đại
thủy lực.
3- Cơ cấu thừa hành thủy lực (goi là xecvomoto) : Làm nhiệm vụ tác
động trực tiếp vào bộ phận điều tiết để thay đổi năng lượng vào
tuabin.
4- Phần tử điều chỉnh : Thực hiện chức năng phản hồi cứng hoặc mềm
theo vị trí của cơ cấu thừa hành thủy lực 3
5- Phần tử đặt (chỉnh định) : Cơ cấu đặt và hiệu chỉnh tốc độ quay
Ngoài ra còn có các thiết bị phụ khác nh cơ cấu hạn chế độ mở của
cánh hướng nước, cơ cấu giới hạn cột nước …
Các máy điều tốc tuabin hiện đại được phân thành các loại: kiểu cơ
thuỷ lực và điện thuỷ lực.
Máy điều tốc kiểu cơ thuỷ lực có phần tử đo lường để phát hiện độ
lệch số vòng quay là hệ thống quả văng ly tâm có sơ đồ đơn giản sau:
Hình3.5 Sơ đồ nguyên lý máy điều chỉnh tốc độ quay của tuabin kiểu
hướng tâm
Trong đó : 1- Là phần tử đo lường 3-Cơ cấu thừa hành thủy
lực
2- Là phần tử khuếch đại 4-Phần tử hiệu chỉnh
5- Phần tử đặt ( Cơ cấu đặt)
Nguyên lý làm việc của bộ điều tốc : Giả sử hệ thống đang làm việc ổn
định ở một giá trị tốc độ o hệ thống cân bằng khi đó pittông của hộp dầu
khuếch đại 2 ở vị trí giữa đóng hoàn toàn hai cửa trên và dưới của pittông 3
(xecvomoto) điểm C phải ở vị trí Co .
Vì lý do nào đó làm tốc độ tuabin thay đổi, chẳng hạn làm  giảm,
các quả văng ly tâm 1 cụp lại đẩy vòng trượt từ vị trí A 0 xuống vị trí A’,
điểm B tạm thời không thể di chuyển vì cả cửa trên và cửa dưới của pittông
3 bị đóng kín bằng pittông của hộp dầu khuếch đại 2 nên lực tại điểm B lớn
hơn rất nhiều lực tại điểm C.
Do đó điểm C phải bị dịch chuyển đến C’ làm cho pittông của hộp
dầu khuếch đại 2 di chuyển xuống dưới làm cho các cửa dầu áp lực được
mở ra cụ thể cửa dưới thông với đường dầu áp lực và cửa trên thông với
đường dầu xả (dầu hồi lưu).
Pittông 3 được đẩy lên, tác động vào cơ cấu điều tiết năng
lượng(Cánh hướng nước) để tăng lượng nước vào tuabin. Tác động điều
chỉnh này làm tăng số vòng quay của tuabin và đưa các điểm A và C từ vị
trí A’, C’ dịch chuyển lên phía trên. Việc dịch chuyển lên trên bao nhiêu
còn tùy thuộc vào vị trí của pittông 3 tác động vào điểm B thông qua cơ
cấu phản hồi 4.
Quá trình điều chỉnh sẽ sảy ra cho đến khi điểm C chưa trở về vị trí
ban đầu Co , nghĩa là cho tới khi các cửa dầu của hộp dầu khuếch đại đóng
lại hoàn toàn.
Để chỉnh định tốc độ quay ta dùng cơ cấu đặt (CCĐ), tác động vào
CCĐ bằng tay hay thông qua động cơ điện, có thể dịch chuyển điểm M lên
trên điểm N xuống vị trí N 0 động thái này làm cho pittông 2 bị đẩy xuống
dưới, mở thêm cánh hướng tăng lượng nước vào tuabin, điều này sẽ làm
tăng tốc độ quay tuabin (tần số ) nếu máy làm việc riêng lẻ còn nếu máy
làm việc song song thì sẽ làm tăng công suất phát của tổ máy trong hệ
thống.
Tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là ở trạng thái ổn định mới
tốc độ (tần số ) của tuabin không trở lại vị trí ban đầu mà giữ ở một giá trị
có thể lớn hơn hay nhỏ hơn giá trị ban đầu. Gọi là hệ thống điều tốc với
phản hồi cứng.
Điều này được khắc phục thay bằng cơ cấu phản hồi mềm (Hình
3.3b) ở dạng một bộ cản dịu thủy lực. Bộ cản dịu là một hộp dầu gồm
xilanh và pittông, dầu hai phía của pittông thông với nhau bằng một ống
nhỏ có van điều chỉnh, hộp dầu gắn với điểm B qua lò so và hệ thống đòn,
như vậy khoảng cách giữa điểm B và pittông 3 có thể thay đổi được (liên
hệ mềm)
Trong quá trình thay đổi phụ tải của tuabin thoạt đầu bộ cản dịu làm
việc như một khâu phản hồi cứng vì pittông trong xi lanh bộ cản dịu không
thể chuyển động nhanh được, điều này ngăn được hiện tượng quá điều
chỉnh. Sau đó dưới tác động của lò so làm pittông của bộ cản dịu dịch
chuyển dần, đẩy dầu từ mặt này của pittông sang mặt kia. Quá trình này chỉ
kết thúc khi cả điểm C và điểm B trở về vị trí ban đầu, do đó điểm A còng
trở lại vị trí ban đầu tương ứng với giá trị tốc độ quay o ban đầu của
tuabin.
Máy điều tốc tuabin của nhà máy thủy điện Hòa Bình là loại máy
kiểu điện – thủy lực : Nguyên lý làm việc của máy điều tốc kiểu điện thủy
lực tương đối giống với máy điều tốc kiểu cơ thủy lực chỉ khác là sử dụng
sơ đồ điện để thực hiện các khâu đo lường, tiền khuếch đại, hiệu chỉnh và
đặt thông số… Cho phép đơn giản phần thuỷ lực của hệ thống và dễ dàng
đưa thêm các tín hiệu nh phân bố công suất tác dụng tín hiệu hiệu chỉnh tần
số…vào hệ thống điều tốc.
Tần số của điện áp xoay chiều đầu cực máy phát được đưa vào bộ phận đo
lường điện của máy điều tốc. Khi xuất hiện độ lệch tần số f  0 thông qua
bộ tiền khuếch đại tín hiệu điện được cấp cho cuộn dây quấn xung quanh
một lõi bằng nam châm. Dưới tác dụng của lực điện trường cuộn dây sẽ
dịch chuyển lên xuống tùy thuộc vào độ lệch f  0 hay f  0 . Giả sử
f  0 cuộn dây sẽ chuyển động xuống dưới làm cho điểm Ao dịch chuyển

xuống dưới và tạm thời điểm Bo không dịch chuyển. Do đó pittông của hộp
dầu khuếch đại dịch xuống dưới làm cửa dưới của xilanh 3 thông với
đường dầu áp lực còn cửa trên thông với đường dầu hồi lưu, pittông 3
chuyển động lên trên tác động vào cánh hướng nước làm tăng lượng nước
vào bánh xe công tác tuabin, tần số dần được nâng lên. Khi tần số vượt quá
giá trị đặt sự điều chỉnh được thực hiện ngược lại. Tùy thuộc vào cơ cấu
phản hồi ta cũng có kiểu phản hồi cứng và phản hồi mềm. Nếu là phản hồi
cứng thì cơ cấu phản hồi thường là một khâu khuếch đại khi đó ở trạng thái
ổn định tần số thực tế sẽ lớn hơn giá trị đặt một lượng đúng bằng lượng
phản hồi về. Nếu là khâu phản hồi mềm thì cơ cấu phản hồi thường là khâu
vi phân thực có thời gian điều chỉnh đủ dài do đó ban đầu nó cũng làm
việc giống khâu phản hồi cứng để giảm độ quá điều chỉnh tần số. Sau thời
gian cơ cấu phản hồi mất tác dụng (đầu ra phản hồi bằng 0) khi đó trạng
thái xác lập chỉ diễn ra khi tần số đo bằng tần số đặt.
Hình3.6 Sơ đồ nguyên lý đơn giản hoá của máy điều tốc tuabin kiểu điện
thủy lực.
Vì khâu điều tiết năng lượng vào tuabin đòi hỏi công suất lớn (nh
điều khiển đóng mở cánh hướng nước) nên máy điều chỉnh thường có
nhiều hơn một tầng khuếch đại.
3.6.3. Tác động tương hỗ giữa các máy điều tốc tuabin.
Khi các máy phát điện làm việc song song trong hệ thống điện
chúng có tần số giống nhau và giữa các máy phát có một sự phân bố xác
định về công suất tác dụng.
Hình 3.7 Phân bố phụ tải giữa các tổ máy làm việc song song khi tần số
thay đổi
Nếu nh khi phụ tải thay đổi một lượng P làm cho tần số thay đổi một
lượng f  f  f o ( f o là tần số trước khi phụ tải thay đổi) thì công suất của
máy thứ nhất thay đổi một lượng P1 còn máy phát thứ hai thay đổi một
lượng P2 với : P1  P2  P
Từ hình vẽ trên ta thấy máy phát điện nào có đặc tính điều chỉnh
f(P) Ýt dốc hơn máy đó sẽ có lượng thay đổi phụ tải nhiều hơn.
Phương trình đặc tính điều chỉnh tĩnh có dạng :
f  s.P  0

Do đó khi có n tổ máy làm việc song song ta có hệ phương trình :


f  s1.P1  0

f  s2 .P2  0

………………
f  sn .Pn  0

Với ràng buộc


P1  P2  ...  Pn  P

Từ đây ta tính được lượng công suất thay đổi của tổ máy thứ j là :
P
Pj  n
1
Sj
i 1 Sj
Nghĩa là phụ tải phân bố giữa các tổ máy tỷ lệ nghịch với hệ số tĩnh
của đặc tuyến điều chỉnh.
Tổng công suất của các tổ máy phụ thuộc vào tần số. Tuy nhiên bản
thân phụ tải cũng phụ thuộc vào tần số, khi tần số thay đổi trong một phạm
vi không lớn công suất của phụ tải có thể xem nh phụ thuộc tuyến tính vào
tần số.
Khi các máy điều tốc tuabin có đặc tính phụ thuộc nếu phụ tải tổng
tăng làm cho tần số của hệ thống giảm, tần số giảm kéo theo công suất tiêu
thụ của phụ tải giảm.
3.6.4. Ảnh hưởng của ngưỡng không nhậy lên tác động tương hỗ của
máy điều tốc tuabin.
Các máy điều tốc thực tế đều có một ngưỡng không nhạy nhất định
chủ yếu do ma sát ở các ổ trục và của bản thân các bộ phận trong cơ cấu
điều chỉnh. Vì vậy ở trạng thái cân bằng ban đầu tương ứng với một tốc độ
quay nào đó, muốn cho máy điều tốc phản ứng được với độ lệch tốc độ 
thì  phải vượt quá một ngưỡng nhất định gọi là ngưỡng không nhậy của
máy điều tốc.
Đặc tính điều chỉnh với ngưỡng không nhạy trình bày theo hình vẽ
dưới dạng một miền không nhậy. Khi có ngưỡng không nhậy, việc phân bố
công suất giữa các tổ máy sẽ tồn tại một khoảng không xác định P .
Pdd f Kn
P  ,
S

Trong đó: Pdd - công suất danh định của tổ máy, MW;

f Kn - ngưỡng không nhậy theo tần số, %;

S – hệ số phụ thuộc, %;
Vùng bất định  P , P  của phụ tải tổ máy do ngưỡng không nhậy của máy
 

điều tốc.
Chẳng hạn, khi s = 5%, f Kn = 0.25% đối với tổ máy có công suất Pdd
= 300MW mức bất định của phụ tải sẽ bằng:
0.25
P  300.  15MW
5

Ngưỡng không nhậy của đặc tính điều chỉnh làm cho một số tổ máy
không tham gia vào điều chỉnh tần số.
Để nâng cao chất lượng điều chỉnh tần số cần giảm hệ số phụ thuộc S
của đặc tính điều chỉnh tuy nhiên khi hệ số phụ thuộc giảm, mức bất định
của phụ tải tăng lên. Vì vậy đối với các máy điều tốc có ngưỡng không
nhậy cao bắt buộc phải đặt hệ số phụ thuộc cao.
Khi có nhiều tổ máy làm việc song song chế độ cân bằng của từng tổ
máy sẽ được thiết lập một cách khác nhau trong giới hạn của ngưỡng
không nhậy. Trong số các tổ máy này sẽ có một số tổ máy phản ứng với độ
lệch tần số, có nghĩa là nhìn chung toàn hệ thống sẽ không có ngưỡng
không nhậy. Tuy nhiên khi độ lệch tần số không vượt quá ngưỡng không
nhậy của một số tổ máy, chúng sẽ không phản ứng và không tham gia vào
quá trình điều chỉnh tần số, vì thế độ phụ thuộc đẳng trị của đặc tính điều
chỉnh sẽ lớn hơn trị số tính được theo biểu thức (3.11). Thực tế điều này có
nghĩa là cần phải đưa thên một số hệ số hiệu chỉnh a>1 vào biểu thức (3.11)
để tính đến ngưỡng không nhậy của đặc tính điều chỉnh của một tổ máy
trong hệ thống.
a.P dd
S  n P


j 1
jdd

Sj

Thường thì trong chế độ sự cố độ lệch tần số vựơt quá ngưỡng không
nhậy của tất cả các tổ máy trong hệ thống, còn trong chế độ làm việc bình
thường, f bé nên chỉ có một số tổ máy có ngưỡng không nhậy hẹp mới có
thể phản ứng. Số lượng tổ máy có thể phản ứng theo độ lệch f đã cho có
thể được xác định theo biểu thức:
 f 
m  .n ,
f
 Kn 

Trong đó: n – số lượng các tổ máy được giao nhiệm vụ điều chỉnh tần số
của hệ thống.
3.6.5: Phương pháp điều chỉnh tần số và công suất tác dụng trong nhà
máy thủy điện Hòa Bình
3.6.5.1. Điều chỉnh bằng một tổ máy với đặc tính điều chỉnh độc
lập:
Phương pháp này có thể sử dụng để điều chỉnh tần số với đặc tính
độc lập trong một hệ thống điện nhỏ làm việc độc lập.
Để điều chỉnh tần số người ta tách ra một tổ máy có đặc tính điều
chỉnh được đặt ở chế độ độc lập. Tổ máy này sẽ tiếp nhận mọi biến động
phụ tải của hệ thống trong giới hạn công suất có thể điều chỉnh được của
nó. Phụ tải của tất cả các tổ máy còn lại ở cuối quá trình điều chỉnh sẽ trở
về lại trị số trước khi xảy ra biến động (không thay đổi).
3.6.5.2. Phương pháp điều chỉnh theo độ lệch tích phân của tần số.
Độ lệch tích phân của tần số  f được xác định theo biểu thức:
t
 f    f* .dt
t0
Trong đó: t0 - thời điểm ban đầu khi  f  0 ;

f
f*  - độ lệch tương đối tức thời của tần số;
f dd
f  f  f dd .
Độ lệch tích phân của tần số có những đặc điểm sau đây:
- Đại lượng  f giống nhau với mọi tổ máy điện làm việc song song
trong hệ thống điện nếu nh thời điểm bắt đầu đo độ lệch t0 được chọn
nh nhau;
- Khi phụ tải của hệ thống thay đổi và tần số lệch khỏi trị số cho trước,
đại lượng  f sẽ biến thiên về cùng một phía với phụ tải tổng của hệ
thống. Nếu phụ tải tổng tăng, tần số giảm và  f sẽ tăng theo thời
gian; nếu phụ tải tổng giảm, tần số tăng và  f giảm.
-  f sẽ thay đổi cho đến khi vẫn còn độ lệch về tần số khỏi giá trị cho
trước, khi f  0 , nghĩa là khi công suất cân bằng,  f không thay
đổi.
Những tính chất này của độ lệch tích phân tần số cho phép sử dụng
nó nh một thông số điều khiển khi xây dựng các hệ thống tự động điều
chỉnh tần số và công suất tác dụng trong hệ thống điện.
Thật vậy, phụ tải giữa các tổ máy điều chỉnh tần số được phân bố
trong quá trình điều khiển bằng cách so sánh phụ tải thực tế Pi của tổ máy
với trị số đặt trước Pdi . Tác động của hệ thống điều chỉnh mỗi tổ máy được
mô tả bằng phương trình:
f  Si  Pi  Pdi   0

Để đảm bảo điều kiện phân bố tối ưu công suất giữa các tổ máy khi
chế độ làm việc của hệ thống thay đổi phải tự thay đổi trị số công suất đặt
Pdi của tổ máy theo một tiêu chuẩn tối ưu cho trước.

Dưới tác động của các tín hiệu f và Pi  Pi  Pdi công suất phát của
tổ máy Pi sẽ được thay đổi.
Trong chế độ xác lập tần số sẽ trở lại trị số danh định, còn phân bố
phụ tải sẽ tối ưu nghía là:
f  0 ; Pi  Pdi .

CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH HỆ THỐNG VÀ MÔ PHỎNG QUÁ


TRÌNH ĐIỀU KHIỂN

4.1. Sơ đồ chức năng và sơ đồ khối của bộ điều tốc nhà máy thủy
điện Hòa Bình:

Hình 4.1 Sơ đồ chức năng


Sơ đồ chức năng của bộ điều tốc

Hình vẽ trên mô tả sơ đồ chức năng của hệ thống tự động điều chỉnh


tần số và công suất hữu công của tổ máy khi phát điện vào hệ thống nhờ bộ
điều chỉnh tốc độ )/P 2 I. Máy phát điều chỉnh được lắp đặt trên cùng một
trục với máy phát chính. Nó được dùng như một tín hiệu đo tần số quay,
truyền vào đầu vào của phần tử cảm biến tần số.Tín hiệu sai lệch tần số
quay do phần tử cảm biến phát ra được cộng với giá trị tần số đặt trước của
MUY, rồi đưa vào đầu vào của mạch tích phân tần số.

Tín hiệu tần số MUY, công suất MUM được cộng lại và truyền vào
đầu vào bộ khuếch đại 2 tầng.Sau đầu ra bộ khuếch đại tín hiệu đi vào cuộn
dây điều tốc làm chuyển dịch màng rung, thông qua bộ khuếch đại thuỷ lực
làm chuyển dịch kim ngăn kéo kích thích, pittông ngăn kéo chính và do đó
làm thay đổi phụ tải tổ máy. Tín hiệu từ bộ điều chỉnh nhóm công suất hữu
công và điều chỉnh riêng lẻ được truyền tới đầu vào MUM. Bộ điều tốc
được điều khiển bằng các khoá SLC nằm trên bảng điện điều tốc (1GCC),
ở tủ điều tốc và phòng điều khiển trung tâm (SCC) .

Khi máy chạy không tải và cắt máy cắt các khoá (SLC) tự động
chuyển đổi từ MUM sang cơ cấu thay đổi tần số MUY, cơ cấu này cho
phép thay đổi tần số đều đặn từ 45 đến 55 Hz khi máy chạy không tải.
Hình 4.2 Sơ đồ khối
Hình vẽ sơ đồ khối:

Các thông số điều chỉnh X,Z ứng với tần số f và công suất P được
hình thành nhờ các bộ biến đổi tần số đo lường H6 và công suất IPM. Tín
hiệu mạch phản hồi bên trong Y theo vị trí trục xecvômôtơ chính và Y2
theo vị trí cần chuyển động của bộ biến đổi điện thuỷ lực (được tạo thành
nhờ các bộ biến đổi cảm ứng).Một trong các đặc điểm của bảng điện điều
tốc là ở đó không có các thiết bị truyền đông điện cơ để tạo tín hiệu chỉ huy
X0 và Z0, ở đây những cơ cấu này được thay bằng các bộ phận ( Bộ tích
phân H5 và H5’ ) có thể duy trì trong thời gian dài tín hiệu tích phân không
đổi. Các thiết bị phát này được điều khiển nhờ các khoá SLC1 các khóa
này lắp ở mặt trước của bảng điện, ở mặt trước tủ điều tốc và trên bàn điều
khiển trung tâm (SCC). Khi điều tốc ở vị trí cân bằng tín hiệu đầu ra của
bảng điện (Sau bộ khuếch đại H9) bằng không (j=0). Nếu một trong các tín
hiệu đầu vào bất kỳ của bảng điện (X,Z,X0,Z0) thay đổi sẽ làm cho dòng
điện (j) bị thay đổi tương ứng. Dòng điện đó khi vào cuộn dây điều tốc sẽ
làm cho trục điều tốc bị dịch chuyển tương ứng. Do điều tốc nối với ngăn
kéo của xecvômôtơ chính (CM) nên xecvômôtơ chính cũng dịch chuyển
trục của mình, làm cho độ mở của máy hướng nước của tuabin bị thay đổi
tương ứng. Khi đó các tín hiệu phản hồi ngược Y và Y2 khi vào bảng điện
sẽ làm cho dòng điện j trở về 0 còn trục của điều tốc và kim ngăn kéo kích
thích nối với nó sẽ trở về vị trí ban đầu (giữa).

4.2. Sơ đồ dưới dạng Simulink.


Hinh 4.3 Sơ đồ rút gọn

Trong đó :

Ty : Hằng số thời gian tích phân (0.02s)

Bp : Hệ số rơi tốc cố định (0-10% tương ứng 1-10)

Bt : Hệ số rơi tốc tạm thời (1-100% tương ứng 0-100)

Td : Hằng số thời gian gia tốc (0-20)

Tnkc : Hằng số thời gian của ngăn kéo chính (0.02s)

Ts : Hằng số thời gian của xecvomoto (0.02s)

K : Hệ số khuếch đại tuabin (10)

Tt : Hằng số thời gian tuabin (15s)

Tp : Hằng số thời gian công suất (0-50s)

Tn : Hằng số thời gian (0-1.5s)


T : Là kí hiệu của tuabin

G : là kí hiệu của máy phát

PMG : Là máy phát điều chỉnh

IBM : Thiết bị biến đổi công suất thành dòng điện

TU, TI : Là biến dòng và biến áp

4.3 Nguyên tắc cơ bản của quá trình điều tốc.

Các khái niệm cơ bản của quá trình điều tốc được minh họa rõ nét
trong trường hợp tổ máy phát cấp riêng cho một phụ tải cục bộ như hình vẽ
sau :

Trong đó:

PL : Công suất phụ tải

Pm : Công suất cơ

Pe : Công suất điện

Hình 4.4 Máy phát cấp cho phụ tải cô lập

Khi phụ tải thay đổi làm cho công suất điện Pe thay đổi, làm mất cân
bằng giữa công suất điện Pe và công suất cơ, đây là nguyên nhân làm cho
tốc độ thay đổi tăng hay giảm tùy vào Pe nhỏ hơn hay lớn hơn Pm. Nhiệm
vụ bộ điều tốc lúc này là dựa vào sai lệch tốc độ thực tế và tốc độ đặt để
điều chỉnh cánh hướng nước thay đổi lượng nước vào tuabin và do đó làm
thay đổi tốc độ cho tới khi tốc độ tuabin bằng với tốc độ đặt thì bộ điều tốc
mới thôi tác động.

* Bộ điều tốc đẳng thời.

Bộ điều tốc đẳng thời điều chỉnh cánh hướng tuabin đưa tần số về
giá trị danh định. Tốc độ roto đo được r được so sánh với giá trị đặt o .
Tín hiệu sai lệch được khuếch đại và tích phân sinh ra tín hiệu điều khiển
Dy tác động lên cánh hướng tuabin, sau đây là hệ thống với các thông số
được xác định trước.

Hình 4.5 Bộ điều tốc đẳng thời

Ta thấy khi ta tăng phụ tải công suất điện tăng làm cho tần số suy
giảm tại một tốc xác định bởi quán tính roto. Khi tốc độ sụt giảm công suất
cơ của tuabin bắt đầu tăng, điều này làm giảm bớt sự giảm tốc độ và sau đó
tốc độ có xu hướng tăng khi công suất tuabin vượt quá công suất phụ tải.
Cuối cùng tốc độ sẽ quay trở về giá trị đặt của nó và công suất tuabin ở
trạng thái ổn định tăng lên một lượng cân bằng với phụ tải bổ xung thêm
(xem hình vẽ 4.6).

Một bộ điều tốc đẳng thời làm việc thỏa mãn khi máy phát cung cấp
cho tải độc lập hay chỉ khi một máy phát trong tổ máy phản ứng với sự thay
đổi phụ tải. Đối với chế độc chia sẻ phụ tải công suất giữa các máy phát nối
với hệ thống thì quá trình điều chỉnh tốc độ và đặc tính suy giảm tốc độ
phải được đề cập tới.

Hình 4.6 Đáp ứng của tổ máy phát điện với bộ điều tốc đẳng thời.

Ta thấy sau 15s ta tăng phụ tải tốc độ bị sụt xuống khoảng 0.3Hz sau
đó trở lại trạng thái xác lập sau 3s

* Bộ điều tốc với đặc tính rơi tốc.

Khi có nhiều hơn một tổ máy làm việc song song và các tổ máy phải
đảm bảo tốc độ giống nhau một cách chính xác. Mặt khác chúng phải cạnh
tranh với nhau, mỗi bộ điều tốc sẽ cố gắng điều chỉnh công suất của nó tới
một giá trị chính nó thiết lập. Để phân chia phụ tải ổn định giữa hai hay
nhiều máy phát vận hành song song, các bộ điều tốc được cung cấp một
đặc tính suy giảm tốc độ khi phụ tải được tăng lên.

Sự rơi tốc được tạo nên nhờ thêm vòng phản hồi ở trạng thái xác lập
như sơ đồ sau : Trong đó hệ số K sẽ quyết định lượng rơi tốc nhiều hay Ýt,
K càng lớn thì lượng rơi tốc càng lớn và ngược lại K càng nhỏ thì lượng tơi
tốc càng nhỏ.
Hình 4.7 Bộ điều tốc với phản hồi trạng thái ổn định

Hình 4.8 Đáp ứng của bộ điều tốc đẳng thời với đặc tính rơi tốc

Khi chưa có phụ tải tốc độ xác lập ở một giá trị nhỏ hơn giá trị đặt do
khâu phản hồi K luôn luôn tác động (nên nó được gọi là hệ số rơi tốc cố
định). Khi cho phụ tải tác động tốc độ bị giảm tiếp và giữ nguyên vị trí
mới, sở dĩ là như vậy là do khi độ lệch tốc độ tăng (tức tốc độ tua bin giảm
so với tốc độ đặt) dẫn đến lượng phản hồi về cũng tăng nên tín hiệu điều
khiển tác động để mở thêm cánh hướng nước không được bổ xung.

Ngoài ra hệ thống còn cung cấp thêm đặc tính rơi tốc tạm thời(chỉ có
tác dụng trong thời gian ngắn) với thời gian quá độ với thời gian điều chỉnh
đủ dài. Ta chỉ việc thêm một khâu vi phân thực nối song song với khâu
Gain. Nh hình vẽ sau :
Hình 4.9 Bộ điều tốc với phản hồi trạng thái quá độ và ổn định

Hình 4.10 Đáp ứng của bộ điều tốc với phản hồi trạng thái quá độ và ổn
định

Tương tự trường hợp trên nhưng do có thêm khâu phản hồi ở trạng
thái quá độ nên ban đầu khi phụ tải tăng tốc độ giảm mạnh. Sau đó tốc độ
tăng lên một chút do khâu vi phân thực không tác động nữa và nó vẫn giữ
nguyên ở vị trí mới nhỏ hơn giá trị xác lập ban đầu.
Tác dụng của khâu phản hồi tốc độ (hay bù suy giảm hệ số khuếch
đại) để làm trễ hoặc giới hạn sự di chuyển của cánh hướng cho tới khi lưu
lượng nước và công suất có thời gian bắt kịp.

4.4 Điều khiển công suất phát của tổ máy

Ta đã biết rằng khi phụ tải thay đổi do có đặc tính rơi tốc nên tốc độ
roto (hay tần số ) sẽ bị giảm và xác lập ở một vị trí mới nhỏ hơn giá trị ban
đầu. Khi tốc độ đã xác lập thì lượng công suất phát phải tăng lên cân bằng
với công suất phụ tải để khắc phục sự suy giảm tốc độ.

Trong trường hợp này để tốc độ roto hay tần số trở lại giá trị ban đầu
ta phải điều khiển công suất phát của tổ máy bằng cách thay đổi đầu vào
“Giá trị đặt phụ tải”. Xem hình vẽ 4.11

Hình vẽ 4.11 Sơ đồ bộ điều tốc khi có giá trị đặt phụ tải
Hình vẽ 4.12 Đáp ứng bộ điều tốc khi có giá trị đặt phụ tải

Khi có giá trị đặt phụ tải tại T=15s tần số được tăng lên bằng với giá
trị ban đầu, nh vậy giá trị đặt phụ tải đã khắc phục được hiện tượng tăng
phụ tải do đó khắc phục được sự suy giảm tần số.

Nếu tổ máy được cấp cho một phụ tải độc lập, thì sự điều chỉnh của
bộ điều tốc sẽ làm thay đổi tốc độ của tổ máy. Tuy nhiên, khi tổ máy được
hòa đồng bộ với hệ thống điện, sự điều chỉnh của bộ điều tốc sẽ làm thay
đổi công suất phát của tổ máy, điều chỉnh này chỉ ảnh hưởng nhỏ lên tần số
hệ thống, tùy thuộc vào quy mô của tổ máy đến sự phát điện toàn hệ thống.

4.5 Sơ đồ điều tốc đầy đủ

Tuabin thủy lực là một thiết bị có khối lượng rất lớn đặc biệt là trong
một nhà máy thủy điện cỡ lớn nh nhà máy thủy điện Hòa Bình. Nên việc
làm quay tuabin cung cần một lực tác động (cả động năng và thế năng ) rất
lớn của nước vào bánh xe công tác của tuabin. Do đó cũng cần một lực rất
lớn để đóng mở cánh hướng nước cho nước vào bánh xe công tác một cách
dễ dàng.

Để có thể tạo ra được lực lớn ta dùng hệ thống dầu áp lực và các xi
lanh thủy lực (còn gọi là các Xecsvomoto), ta chỉ cần một tín hiệu nhỏ để
đóng hoặc mở các khoang nối dầu áp lực và đường dầu hồi lưu (dầu xả) ta
cũng có thể tạo ra một lực rất lớn nhờ cơ cấu chấp hành xecvomoto tác
động vào cánh hướng nước.

Ở đây ta dùng hai tầng khuếch đại :

Hình4.13 Tầng thứ nhất

Hình 4.14 Tầng thứ hai

Với hai tầng khuếch đại và tín hiệu phản hồi về ta có thể biết được vị
trí của ngăn kéo chính cũng nh vị trí của xecvomoto trong quá trình điều
khiển. Điều này là quan trọng trong trường hợp phát hiện ra hiện tượng kẹt
cánh hướng (vì lý do có những vật cứng mắc vào cánh hướng nước).

Ngoài ra hai tầng khuếch đại này còn có tác dụng là khâu bù cho sự
rơi tốc đã được xét ở trên.

Để nâng cao chất lượng và tính ổn định của hệ thống ta cần bổ xung
thêm khâu phản hồi công suất đầu ra của máy phát,
Hình 4.15 Sơ đồ rút gọn bộ điều tốc:

4.6. Quá trình mô phỏng bằng mô hình Simulink:

4.6.1 Trường hợp tổ máy chưa hoà lưới:

Khi tổ máy chưa hòa lưới tức chưa nối máy phát với hệ thống điện,
tổ máy chưa phát công suất hữu công khi đó hệ thống chưa có vòng phản
hồi công suất chỉ có vòng phản hồi tốc độ (hay tần số). Do đó nhiệm vụ của
bộ điều tốc lúc này là điều chỉnh tốc độ quay (tần số) của tuabin để đạt tốc
độ định mức dựa vào sai lệch tốc độ phản hồi.
4.16 Sơ đồ mô phỏng chế độ chưa hòa lưới

4.17 Đáp ứng tần số của hệ thống điều khiển:

Ta thấy khi chưa hoà lưới việc điều chỉnh tốc độ quay bằng với giá
trị đặt có thời gian đáp ứng rất nhanh cỡ 5s và không có quá hiệu chỉnh và
sai lệch tĩnh bằng 0
4.6.2 Trường hợp cho phụ tải tác động sau 15s , không cho phản hồi công
suất và không có giá trị đặt.

4.18 Sơ đồ mô phỏng

4.19 Đáp ứng tần số của hệ thống điều khiển:

Khi cho phụ tải tác động tần số bị giảm xuống gây sai lệch tần số cỡ
48.9-50=1.1 hz. Sau 8s tần số trở lại vị trí ban đầu với sai lệch tĩnh bằng 0,
ở đây ta đã thấy rõ vai trò của hai tầng khuếch đại (ngăn kéo chính và
secvomoto) trong việc bù độ rơi tốc của bộ điều khiển.

4.6.3 Trường hợp cho phụ tải và vòng phản hồi công suất cùng tác động
sau 15s, nhưng không có giá tị đặt phụ tải.

4.20 Sơ đồ mô phỏng

4.21 Đáp ứng tần số của hệ thống điều khiển


Ta thấy rơi tốc lại xuất hiện, tần số giảm xuống và giữ ổn định ở một
giá trị mới nhỏ hơn giá trị ban đầu, sở dĩ là do khâu phản hồi công suất làm
cho quá trinh tăng độ mở cánh hướng nước bị hạn chế.

4.6.3 Trường hợp cho phụ tải và giá trị đặt phụ tải cùng tác động một lúc,
nhưng không có vòng phản hồi công suất.

4.22 Sơ đồ mô phỏng

4.23 Đáp ứng tần số của hệ thống điều khiển


Ban đầu tần số bị giảm do tác động của phụ tải, sau một thời gian tần
số tăng lên nhờ khâu đặt tần số . Do không có khâu phản hồi công suất nên
tần số sẽ giữ nguyên ở giá trị mới.

4.6.5 Trường hợp cho đồng thời phụ tải, phản hồi công suất, và giá trị đặt
phụ tải tác động sau 20s.

4.24 Sơ đồ mô phỏng

4.25 Đáp ứng tần số của hệ thống điều khiển


4.26 Đáp ứng công suất của hệ thống điều khiển

Khi có sự tham gia của cả khâu đặt phụ tải và khâu phản hồi công
suất ta thấy khi phụ tải tác động làm cho cánh hướng đóng bớt lại, tần số bị
giảm xuống nhưng không giảm nhiều (khoảng 49.8-50=0.2 Hz ) do có khâu
đặt phụ tải. Tần số được tăng lên, và tác dụng của khâu phản hồi công suất
là đưa tần số trở về vị trí ban đầu với sai lệch tĩnh bằng 0. Sơ đồ trên ta
thấy tần số xá lập lại sau 5s.

Nh vậy ta đã thấy rõ vai trò của điều khiển tần số khi tổ máy chưa
hòa lưới và điều khiển cân bằng công suất khi tổ máy hòa lưới. Nó giúp
cho tần số không bị giảm quá thấp hay bị tăng quá cao còng nh rút ngắn
thời gian quá độ với cùng lượng thay đổi phụ tải nh nhau.
LỜI KẾT .

Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường mỗi sinh viên đều
trang bị cho mình một kiến thức nhất định, tuy lượng kiến thức này chưa đủ
để sinh viên ra trường có thể tiếp cận ngay với công việc thực tế và những
công nghệ mới nhưng nó là nền tảng vững chắc, giúp họ tự rèn luyện,
thích ứng với môi trường đầy khó khăn, thử thách và đóng góp một phần
công sức vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đồ án tốt nghiệp chính là một cơ hội cho sinh viên có thể tự khẳng
định mình, được áp dụng những kiến thức đã học vào trong thực tế, tự tìm
hiểu sâu về một vấn đề cụ thể và hình dung được công việc của mình sau
khi ra trường.

Nhờ có sự giúp đỡ của các cô chú trong phân xưởng tự động của nhà
máy thủy điện Hòa Bình cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo
TS. Nguyễn Văn Hòa và các thầy cô bộ môn ĐKTĐ đồ án đã hoàn thành.
Em đã thu được những kết quả sau :

 Tìm hiểu về năng lượng điện đặc biệt trong nhà máy thủy điện.

 Tìm hiểu về các thiết bị chính trong nhà máy thủy điện cũng nh
phương pháp điều khiển tốc độ quay của tuabin nước.

 Phân tích và mô phỏng quá trình điều khiển tần số bằng mô hình
Matláb_Simulnk

Do thời gian có hạn nên trong phạm vi đồ án em đã nghiên cứu về


phương pháp điều khiển tốc độ tuabin kinh điển và phương pháp bù song
chưa hiệu quả vì đáp ứng còn chậm.

Ngày nay đã một số nhà máy áp dụng phương pháp điều khiển PID
và phương pháp điều khiển số cho đáp ứng nhanh và nhiều lợi thế khác.
Tuy nhiên do hạn chế về tài liệu, công nghệ và kinh tế nên chúng ta chưa
tìm hiểu để phát triển các phương pháp này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Điều khiển
tự động cùng tập thể cán bộ nhà máy thủy điện Hòa Bình đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đồ án. Đặc biệt em xin chân thành
cảm ơn Thầy giáo TS. Nguyễn Văn Hòa trực tiếp hướng dẫn em hoàn
thành đồ án này.

Hà nội, ngày........thánh.......năm2006
Sinh viên

Nguyễn Ngọc Hoàng

You might also like