Professional Documents
Culture Documents
2
đất luôn hiện diện một số mảnh vụn và thô với hàm lượng khác nhau. Thành phần sét bao
gồm chủ yếu là khoáng silicate được hình thành từ sự kết hợp của tứ diện silica và bát diện
aluminum. Cấu trúc của tứ diện silica là một cation Si4+ nối với 6 anion OH-. Một chuỗi dài
hay là một tầng của tứ diện và bát diện được nối kết với nhau để hình thành các tầng
silicate.
Các khoáng sét silicate trong đất có cấu trúc dạng lớp (tầng) và có 3 nhóm chính là:
2:1, 2:1:1 và 1:1. Sét 1:1 bao gồm nhiều tầng mỗi tầng chứa 1 lá silica và một lá aluminum.
Kaolinite là khoáng sét quan trọng nhất trong nhóm này. Sét 2:1 cũng gồm nhiều tầng, mỗi
tầng chứa 2 lá silica ở giữa là một lá aluminum, ví dụ sét 2:1 là smectite (montmorillonite,
mica illite) và vermiculite. Mica muscovite và biotite là các khoáng nguyên sinh 2: 1 thường
có nhiều trong thành phần thịt và cát của đất.
Chlorite cũng là sét silicates có dạng tầng thường tìm thấy trong đất các sét này ngoài cấu
trúc 2:1 đã nói ở trên còn có một lá hydroxide là tầng trung gian nên còn gọi là sét 2:1:1.
4
Khái niệm này rất quan trọng để hiểu và định lượng hóa nhiều phản ứng hóa học
trong nghiên cứu độ phì phân bón.
Để xác định trọng lượng đương lượng của một hợp chất cần phải hiểu các phản ứng
liên quan của hợp chất đó.
Ví dụ: CaCO3 +2HCl Ca2+ +2Cl- +H2O +CO2
Như vậy trọng lượng đương lượng của CaCO3 trong phản ứng này là: một mole CaCO3
trung hòa hết 2 mole HCl vì thế trọng lượng đương lượng = trọng lượng phân tử /2= 100/2 =
50 g/eq.
CEC của các khoáng sét phổ biến và chất hữu cơ được trình bày trong bảng 3.1. Các loại đất
có hàm lượng sét 2:1 chiếm ưu thế sẽ có khả năng trao đổi cation cao hơn đất chủ yếu chứa
sét 1 :1.
Bảng 3.1 CEC của một số keo đất phổ biến
Khoáng sét Kiểu tầng Điện tích CEC Điện tích phụ
tầng (cmol/kg) thuộc pH
Kaolinitc 1:1 0 1 – 10 Cao
Mica (illinite) 2:1 1,0 20 – 40 Thấp
Vermiculite 2:1 0,8 120 – 150 Thấp
Montmorillonitec 2:1 0,4 80 – 120 Thấp
Chlorite 2:1:1 1,0 20 – 40 Cao
Chất hữu cơ 100 – 300 Cao
CEC chịu ảnh hưởng rất lớn bởi bản chất và hàm lượng khoáng sét và keo hữu cơ
hiện diện trong đất. Các loại đất có hàm lượng sét và chất hữu cơ cao sẽ có khả năng trao
đổi CEC cao hơn đất cát và đất có hàm lượng chất hữu cơ thấp.
Các ví dụ về giá trị CEC của các loại đất có sa cấu khác nhau như sau:
Cát (màu sáng) 3-5 meq/100 g
Cát (màu tối) 10- 20 meq/100 g
Thịt 10 – 15 meq/100 g
Thịt nặng 15 – 25 meq/100 g
Sét và thịt pha sét 20 -50 meq/100 g
Đất hữu cơ 50 -100 meq/100 g
2.1.4 Các cation hấp thụ - trao đổi chính trong đất
Các cation chủ yếu có liên quan với CEC của các thành phần rắn khác nhau. Ngoại
trừ Al3+, hầu hết các cation trao đổi là các chất dinh dưỡng của cây trồng. Trong đất chua
các cation này chủ yếu là Al3+, H+, Ca2+, Mg2+, K+, và một lượng nhỏ Na+. Trong đất trung
tính và kiềm cation chủ yếu là Ca2+, Mg2+, K+, Na+ và một lượng rất nhỏ Al3+. Cation được
giữ trên các vị trí trao đổi có các lực hấp phụ khác nhau, vì thế các cation bị giữ yếu trên đó
sẽ dễ dàng bị thay thế hay trao đổi với các cation khác. Với hầu hết các khoáng trong đất lực
hấp phụ cation (hay lyotropic series) theo thứ tự như sau:
Al3+ > Ca2+ > Mg2+ > K+ = NH4+ > Na+
Các tính chất của cation quyết định lực hấp phụ hay giải phóng của cation đó. Đầu
tiên lực hấp phụ tỉ lệ thuận với điện tích trên các cation. Ion H+ là duy nhất vì kích thước rất
nhỏ của nó và mật độ điện tích cao nên có áp lực hấp phụ mạnh, lực hấp phụ của nó nằm
giữa Al3+ và Ca2+. Kế đến lực hấp phụ của các cation có điện tích tương tự thì được quyết
định bởi kích thước hay bán kính của cation khi ngậm nước (bảng 3.2). Khi kích thước
cation ngậm nước tăng thì khoảng cách giữa cation và bề mặt sét tăng. Các cation ngậm
nước có kích thước lớn thì không thể nằm gần vị trí trao đổi như là các ion có kích thước
nhỏ hơn, kết quả là các cation này bị giảm lực hấp phụ.
5
Bảng 3.2 Bán kính một số nguyên tố
Nguyên tố Trọng lượng Trọng lượng Bán kính ion (nm)
nguyên tử đương lượng Không ngậm Ngậm nước
(g/mol) (g/eq) nước
3+
Al 27 9 0,051
+
H 1 1
Ca2+ 40 20 0,099 0,96
Mg2+ 24 12 0,066 1,08
+
K 39 39 0,133 0,53
NH4+ 18 18 0,143 0,56
+
Na 23 23 0,097 0,79
-
H2PO4 97 97
2-
SO4 96 48
NO3- 62 62
-
Cl 35 35
-
OH 17 17
Sự trao đổi của một cation này với một cation khác chủ yếu được thực hiện bởi hàm
lượng (nồng độ) các cation được cho vào. Nguyên lý này được sử dụng để xác định CEC
các loại đất trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, khi chỉ có một lượng nhỏ cation được thêm
vào, sự giải phóng hay trao đổi chịu ảnh hưởng bởi cation bổ sung có liên quan. Ảnh hưởng
của cation bổ sung xảy ra khi sự trao đổi một cation này với một cation khác trở nên dễ
dàng hơn vì áp lực của cation thứ ba hay cation bổ sung gia tăng. Ví dụ, sự trao đổi của
NH4+ với Ca2+ xảy ra hoàn toàn hơn khi Al3+ chiếm ưu thế trong hệ thống, so với hệ thống
có cation bổ sung là Na+. Bởi vì Na+ được trao đổi với NH4+ dễ hơn, vậy sẽ có ít NH4+ trao
đổi với Ca2+. Vì NH4+ không dễ trao đổi với Al3+ vì vậy sẽ có nhiều NH4+ tồn tại trong dung
dịch để trao đổi với Ca2+.
H+ H+
Ca2+ Ca2+
Đất Mg2+ Đất 9NH4+ Mg2+
+ 9NH4Oac +
K+ K+
Al3+ Al3+
Đất 6
+
Đất 9K+
Đất 9NH4
Dung dịch
+ 9NH4+ + 9Cl-
+ 9KCl
Ví dụ, giả sử nồng độ NH4+ trong dung dịch lọc là 270 ppm (20 g đất được trích với 200 ml
dung dịch KCl) CEC được tính như sau:
270 ppm NH4+ = 270 mgNH4+/L
270 mg NH4+/L x (0,2 L/20 gram đất) = 2,7 mg NH4+/g đất
(2,7 mg NH4+/g đất)/(18 mg NH4+ /meq) = 0,15 meq CEC/g đất
0,15 meq CEC/g đất x 100 = 15 meq /100g đất
CEC = 15 meq/100 g đất
7
Sự tương quan giữa pH và BS có khác nhau giữa các loại đất khác nhau. Tuy nhiên, việc
xác lập mối tương quan này có thể hữu ích cho việc đánh giá nhu cầu bón vôi cho các loại
đất chua.
2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đệm của đất
8
BC trong đất tăng khi CEC tăng, chất hữu cơ tăng. Ví dụ, BC của đất chứa sét
montmorillonite có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ lớn hơn đất chứa sét kaolinite và có hàm
lượng chất hữu cơ thấp. Vì CEC tăng theo hàm lượng sét nên đất có sa cấu mịn sẽ có BC
cao hơn đất có sa cấu thô. Ví dụ, nếu K+ trao đổi giảm do cây trồng hấp thu, thì khả năng
đệm K+ sẽ bị giảm khi nồng độ trong dung dịch giảm. Chất dinh dưỡng sẽ bị thiếu và cần
phải bón phân K+ để tăng K+ trao đổi. Bón phân P sẽ làm tăng H2PO4- trao đổi, nhưng quan
trọng hơn là một số H2PO4- sẽ bị kết tủa dưới dạng các hợp chất rắn góp phần làm tăng khả
năng đệm P của đất. BC là tính chất quan trọng của đất, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hữu
dụng của các chất dinh dưỡng và sự quản lý phân bón.
Bảng 3.3 Khả năng trao đổi CEC của rễ cây trồng
Stt Giống CEC (meq/100 g rễ khô)
1 Lúa mì 23
2 Bắp 29
3 Đậu 54
4 Cà chua 62
2.5 Khả năng và cơ chế cung cấp chất dinh dưỡng của đất
Trong nông nghiệp lớp đất mặt (là lớp đất chủ yếu cung cấp chất dinh dưỡng cho cây
trồng) từ 0 – 20 cm được quan tâm nhiều hơn các tầng khác, trong khối lượng đất trồng
trọt/ha có chứa trung bình số lượng các chất dinh dưỡng như thể hiện ở bảng 3.4
Bảng 3.4 Khả năng cung cấp một số chất dinh dưỡng của đất
Nguyên tố dinh dưỡng Tỉ lệ (%) Số lượng (kg/ha)
Đạm (N) 0,04 – 0,2 1200 – 6000
Lân (P2O5) 0,02 – 0,2 600 – 6000
Kali (K2O) 0,5 – 3,0 15000 – 90000
Bảng 3.4 số lượng chất dinh dưỡng đạm, lân, kali trong đất có khả năng hình thành
một khối lượng nông sản khổng lồ bằng năng suất trung bình thu hoạch liên tục trong hàng
trăm năm nhưng trong thực tế sản xuất nông nghiệp cây trồng vẫn thường bị thiếu chất dinh
dưỡng, do đó cần thiết phải được bón phân. Bên cạnh đó nhiều chất dinh dưỡng trong đất ở
dạng khó tiêu phải phụ thuộc vào quá trình thoái hóa của vi sinh vật mới được chuyển thành
chất dinh dưỡng dễ tiêu cây có khả năng hấp thu được. Hầu hết đạm ở trong đất là dạng đạm
hữu cơ trong thành phần mùn, chỉ khi mùn bị khoáng hóa giải phóng đạm NH4+, NO3- thì
cây mới sử dụng được. Quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng trong đất không đáp ứng kịp
thời đòi hỏi của cây trồng. tỉ lệ các chất dinh dưỡng trong đất không cân đối, ba chất dinh
9
dưỡng chính là đạm, lân, kali trong đất thường không cân đối với nhau, do đó cần phải bổ
sung các chất dinh dưỡng giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển.
3. Sự khoáng hoá các chất dinh dưỡng trong đất
11
BÀI 2: HẤP THU DINH DƯỠNG CỦA RỄ CÂY TRỒNG
Bộ rễ có khả năng thu nhận các chất vô cơ hoặc hữu cơ từ các dạng ion hoặc các
dạng liên kết, dạng ion như nitơ: N-NO3- hoặc N-NH4+, HPO42-, H2PO4-. Giữa rễ và keo đất
luôn xảy ra quá trình trao đổi ion. Các ion có thể liên kết chặt trong keo đất hoặc ở dạng khó
tan nhưng nhờ rễ cây chuyển hóa vào đất nhiều loại acid hữu cơ ( a. malic, a. xitric…) và acid
cacbonic biến các chất khó tan thành các chất dễ tan cho rễ cây hấp thụ. Hoặc nhờ bộ rễ có
khả năng tiết ra một số enzym như amilase, protease, phosphatase, urease… có thể phân giải
các chất hữu cơ phức tạp thành các chất đơn giản dễ hấp thụ.
13
Với Dw là hệ số khuếch tán trong nước, θ là ẩm độ theo thể tích đất, T là yếu tố khúc
khuỷu, uốn khúc (tortuosity), b là khả năng đệm của đất.
Tương quan trên cho thấy rằng khi ẩm độ tăng thì De tăng, điều này sẽ làm tăng tốc độ
khuếch tán, dC/dt. Khi ẩm độ trong đất giảm, các màng nước bao quanh các hạt đất trở nên
mỏng hơn và sự khuếch tán các ion thông qua các màng trở nên quanh co hơn. Sự vận
chuyển các chất dinh dưỡng đến bề mặt rễ có thể hữu hiệu nhất ở độ ẩm đồng ruộng. Vì thế,
khi tăng θ sẽ làm giảm sự quanh co của chiều dài đường đi của các ion khuếch tán nên làm
tăng dC/dt.
Sự uốn khúc của T cũng có tương quan với sa cấu của đất, sự khuếch tán chất dinh
dưỡng trong đất có sa cấu càng mịn thì đường đi của ion đến rễ càng quanh co hơn. Vì T
tăng theo hàm lượng sét nên 1/T giảm nên hệ số khuếch tán giảm và vì thế dC/dt giảm. Vì
vậy các ion khuếch tán thông qua ẩm độ đất trong các loại đất sét tương tự như các ion sẽ bị
hút vào các vị trí hấp thu trên sét hơn là trên đất cát.
Hệ số khuếch tán trong đất De có tương quan thuận với hệ số khuếch tán của cùng
một chất dinh dưỡng đó trong nước Dw. Gắn liền với Dw là yếu tố nhiệt, nên nhiệt độ tăng
thì Dw, De và dC/dt tăng. Hệ số khuếch tán có tương quan nghịch với BS của đất. BC của
đất tăng sẽ làm giảm De và sẽ làm giảm tốc độ khuếch tan chất dinh dưỡng. Vì vậy, BC
giảm do tăng nồng độ dinh dưỡng trong dung dịch cũng sẽ làm tăng sự chênh lệch nồng độ,
dC/dt, nên góp phần làm tăng tốc độ khuếch tán.
Sự hấp thụ các ion ở bề mặt rễ tác động đến quá trình hình thành và duy trì sự chênh
lệch nồng độ, chịu tác động mạnh mẽ bởi nhiệt độ. Trong khoảng nhiệt độ từ 20 – 30 oC khi
nhiệt độ tăng 10oC thì tốc độ hấp thu tăng 2 lần hay cao hơn. Sự khuếch tán các ion dinh
dưỡng thường chậm trong hầu hết các trường hợp và xảy ra trong một khoảng cách rất gần
xung quanh bề mặt rễ. Khoảng cách trung bình cho sự khuếch tán là 1 cm đối với đạm, 0,02
cm đối với lân, và 0,2 cm đối với kali. Khoảng cách trung bình giữa các rễ bắp trong khoảng
15 cm đất mặt là 0,7 cm, cho thấy rằng một số chất dinh dưỡng có thể cần phải được
khuếch tán đến ½ khoảng cách này là 0,35 cm trước khi chúng được hấp thu bởi rễ cây
trồng. Rễ không hấp thu tất cả các chất dinh dưỡng cùng tốc độ. Vì vậy, một số ion có thể
tích lũy ở bề mặt rễ, đặc biệt là trong giai đoạn cây trồng hấp thu nước nhanh, điều này dẫn
đến một số hiện tượng được gọi là khuếch tán ngược, trong đó có sự chênh lệch nồng độ và
vì thế một số ion sẽ di chuyển xa dần bề mặt rễ và đi ngược trở lại dung dịch đất. Sự khuếch
tán ngược này thường thấp hơn nhiều so với sự khuếch tán đến bề mặt rễ, tuy nhiên khi
nồng độ chất dinh dưỡng cao trong vùng rễ có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các chất dinh
dưỡng khác.
Sự khuếch tán và dòng chảy khối lượng trong sự cung cấp ion đến bề mặt rễ phụ
thuộc vào khả năng cung cấp các ion này của các thành phần rắn của đất cho dung dịch đất.
Nồng độ các ion trong dung dịch chịu ảnh hưởng rất lớn bởi bản chất của các thành phần
keo đất và mức độ bảo hòa cation của các keo này. Ví dụ, mức độ giải phóng Ca từ keo đất
do sự hấp thu của cây trồng biến động theo thứ tự: tan bùn > kaolinite > illinite >
montmorillonite >. Sét 2: 1 bảo hòa 80 % Ca sẽ cung cấp % Ca giải phóng bằng với
kaolinite bảo hòa 35 % Ca hay than bùn bảo hòa 25 % Ca.
Nghiên cứu các cơ chế dòng chảy khối lượng và khuếch tán cũng quan trọng trong
việc quản lý phân bón. Các loại đất có tốc độ khuếch tán thấp do BC cao, độ ẩm thấp, hay
hàm lượng sét cao có thể cần được bón các chất dinh dưỡng không di động gần rễ cây để tối
đa sự hữu dụng của các chất dinh dưỡng và hấp thu của cây trồng.
2.1 Sự hấp thu thụ động (không tiêu hao năng lượng)
Một phần rất lớn tổng diện tích của rễ có khả năng tiến hành hấp thu thụ động các
ion. Gian bào ( outer space) nơi sự khuếch tán và trao đổi ion xảy ra, được định vị trong các
màng của tế bào biểu bì (epidermis) và vỏ ( cortex) của rễ, và các màng nước trong khoảng
trống giữa các tế bào. Các màng của tế bào là nơi định vị chủ yếu của gian bào. Các khoảng
trống này, ở bên ngoài màng ngoài cùng (casparian) là một rào cản sự khuếch tán và trao
đổi.
Các ion trong dung dịch đất đi vào mô rễ qua các tiến trình khuếch tán và trao đổi
ion. Nồng độ các ion trong gian bào thường thấp hơn nồng độ các ion trong dung dịch đất,
vì thế khuếch tán xảy ra do sự chênh lệch nồng độ. Bên phía trong của tế bào vỏ mang điện
tích âm (-) nên tạo lực hấp dẫn đối với cation. Sự trao đổi các cation sẽ dễ dàng xảy ra dài
theo bề mặt của tế bào ngoài cùng của rễ và điều này giải thích tại sao cây trồng hấp thu
lượng cation thường vượt cao hơn sự hấp thu anion. Nhưng để duy trì sự trung hòa điện tích
tế bào rễ phải giải phóng ion H+ nên làm giảm pH dung dịch đất gần rễ.
Sự khuếch tán và trao đổi là các tiến trình thụ động bởi vì sự hấp thu vào gian bào
được kiểm soát bởi nồng độ ion (khuếch tán) và sự khác nhau về điện tích (trao đổi ion).
Các tiến trình này không có sự chọn lọc và không cần năng lượng. Hấp thụ động xảy ra bên
ngoài dãy caspirian và nguyên sinh chất (plasmalemma) đó là ranh giới các màng hay các
rào cản sự khuếch tán và trao đổi ion.
Các gian bào của tế bào ngoài cùng của phần thịt lá cũng là nơi các ion có khả năng
khuếch tán và trao đổi. Nhưng phần lớn các ion dinh dưỡng đi đến gian bào của lá qua mạch
mộc (xylem) từ rễ. Các ion khoáng trong nước mưa, nước tưới và trong phân bón lá thấm
vào trong lá thông qua khí khổng và biểu bì (cuticle) để vào bên trong lá, nơi đây chúng sẵn
sàng cho sự hấp thu của các tế bào lá.
Sự di chuyển các ion từ rễ đến thân được quyết định bởi tốc độ hấp thu nước và thoát
hơi nước điều này cho thấy dòng chảy khối lượng có vai trò rất quan trọng trong sự di
chuyển các ion.
2.2 Sự hấp thụ ion chủ động (tiêu hao năng lượng)
Một lớp màng có tác dụng như ranh giới giữa gian bào và nguyên sinh chất, các ion
được hấp thu thụ động chiếm giữ các khoảng không giữa các tế bào. Tuy nhiên nguyên sinh
chất sẽ ngăn chặn sự vận chuyển thụ động của các chất dinh dưỡng vào bên trong tế bào.
Bởi vì nồng độ ion bên trong tế bào cao hơn bên ngoài tế bào nên sự vận chuyển ion qua
màng nguyên sinh chất phải do sự chênh lệch hóa điện. Vì vậy sự vận chuyển ion qua màng
nguyên sinh chất vào trong tế bào chất (cytoplasm) cần có năng lượng tạo ra từ sự trao đổi
chất của tế bào. Các bộ phận khác trong tế bào cũng được bao quanh bởi màng không thấm.
Ví dụ, tonoplast là một màng chắn đối với không bào, không bào điều chỉnh hàm lượng
nước trong tế bào và có tác dụng như một nơi dự trữ các ion vô cơ, đường, và các amino
acid.
Cơ chế chất mang ion (ion carrier) là một chất được hình thành do trao đổi chất, sẽ
kết hợp với các ion tự do. Phức chất mang ion này sau đó có thể xuyên qua các màng và các
vật cản không thấm. Sau khi vận chuyển hoàn tất, phức chất mang ion bị đứt các nối hóa
15
học, ion được giải phóng vào không bào và trong một số trường hợp chất mang được cho là
được giữ lại trong không bào.
Sự vận chuyển ion chủ động là một tiến trình chọn lọc, nên chỉ các ion chuyên biệt
được vận chuyển hay được “mang” xuyên qua màng nguyên sinh chất do các chất mang
chuyên biệt. Ví dụ, mặc dù kali (K), rubidium (Rb), cesium (Cs) có sự cạnh tranh cùng một
chất mang nhưng chúng không cạnh tranh với các nguyên tố khác như Ca, strontium (Sr), và
barium (Ba). Tuy nhiên ba nguyên tố sau lại có sự cạnh tranh với nhau về chất mang.
Selenium (Se) cạnh tranh với SO42-, nhưng không cạnh với phosphate hay các anion có hóa
trị 1. Có một điều đặc biệt là H2PO4- và HPO42- có chất mang riêng và không cạnh tranh với
chất khác để đi vào trong không bào.
Các tính chất hấp thu vận chuyển và sử dụng chất dinh dưỡng khoáng trong cây trồng
phần lớn do di truyền quyết định. Các kiểu di truyền trong các giống có thể rất khác nhau về
tốc độ hấp thu và vận chuyển các chất dinh dưỡng, hiệu quả sử dụng các chất trao đổi chất,
thích ứng với điều kiện nồng độ các chất dinh dưỡng cao và nhiều yếu tố khác.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hút chất dinh dưỡng của cây
Quá trình hấp thụ dinh dưỡng của cây trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường,
giống, các yếu tố về đất.
Các yếu tố về môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, gió… đều có ảnh hưởng
tới quá trình hấp thu dinh dưỡng của rễ cây trồng. Khi các yếu tố môi trường thuận lợi thì
quá trình hấp thụ dinh dưỡng diễn ra mạnh mẽ, phân bón có hiệu quả cao, ngược lại khi điều
kiện môi trường bật lợi thì sự hấp thụ chất dinh dưỡng của cây trồng bị hạn chế vì vậy hiệu
lực của phân bón sẽ thấp.
Các yếu tố về giống cây trồng như tuổi cây, sức khoẻ của cây, tình hình sâu bệnh
hại…, khi cây trồng khoẻ có sức sinh trưởng mạnh, cây hô hấp mạnh quá trình hấp thụ chất
dinh dưỡng sẽ tăng và ngược lại. Nên khi bón phân cần bón vào lúc cây có sức sinh trưởng
tốt và phải chăm sóc cho cây có sức khoẻ tốt thì hiệu quả bón phân mới tăng.
Thành phần và tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong đất thích hợp thì khã năng hấp thụ các
chất dinh dưỡng của cây sẽ tăng và ngược lại, trong dung dịch đất luôn hiện diện một hỗn
hợp các ion với thành phần và nồng độ khác nhau, các ion này luôn có sự tác động lẫn
nhau,có thể là tương hổ hoặc đối kháng với nhau. Quan hệ tương hỗ xảy ra khi có hiện diện
của ion này làm tăng sự hấp thụ của cây trồng đối với ion khác, quá trình này thường xảy ra
với các ion trái dấu. Ví dụ, khi trong dung dịch đất có NH+ làm tăng khả năng hút H2PO4-
hoặc H2PO42- của cây hay khi có K+ thì làm quá trình hút NO3+- tăng.
Quan hệ đối kháng xảy ra khi sự có mặt của ion này làm giảm sự hấp thụ của ion
khác, quan hệ đối kháng thường xảy ra với các ion cùng dấu điện tích, đặc biệt cùng hoá trị.
Ví dụ, khi nồng độ K+ cao làm hạn chế sự hấp thụ Ca2+, Mg2+ và ngược lại, hay khi NO3-
cao ức chế sự hấp thụ HPO42-, tuy nhiên quan hệ đối kháng chỉ xảy ra khi nồng độ các ion
vượt quá ngưỡng thích hợp, trong trường hợp bình thường quá trình này rất ít khi xảy ra.
16