Professional Documents
Culture Documents
Tiềm năng sản lượng tối đa của 1 loại cây trồng nhất định phụ thuộc vào các yếu tố
môi trường và các biện pháp kỹ thuật của người nông dân, trong việc xác định và làm giảm đi
các yếu tố bất lợi của môi trường có thể làm tăng tiềm năng sản lượng. Chương này sẽ thảo
luận các yếu tố ảnh hưởng đến những phản ứng của cây trồng đối với các chất dinh dưỡng và
định lượng hoá sự sinh trưởng và sự đáp ứng của cây trồng.
Bảng 2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến tiềm năng năng suất của cây trồng
Các yếu tố về khí hậu Các yếu tố về đất Các yếu tố về cây trồng
Mưa Chất hữu cơ Giống /loài
- Lượng mưa
- Sự phân bố mưa
Nhiệt độ không khí Sa cấu Thời gian sinh trưởng
Ẩm độ tương đối Cấu trúc Đặc tính sinh học của hạt
giống
Ánh sáng Khả năng trao đổi cation Đặc điểm canh tác
- Hàm lượng chiếu sáng - Khoảng cách gieo trồng
- Cường độ chiếu sáng - Yêu cầu chăm sóc
- Thời gian chiếu sáng
Vị trí địa lí Độ bão hòa base Hiệu quả sử dụng nước
- Vĩ độ Độ dốc và địa hình - Sự hữu dụng của nước
- Kinh độ Nhiệt độ đất - Bốc thoát hơi nước
Gió Các yếu tố quản lý Sâu bệnh
- Tốc độ gió - Làm đất - Côn trùng
- Sự phân bố gió - Thoát thủy - Sâu hại
- Cỏ dại
Nồng độ CO2 Độ sâu tầng đất mặt Dinh dưỡng
Hiệu suất thu hoạch
Có trên 50 yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất cây trồng; một số các yếu
tố quan trọng được liệt kê trong bảng 2.1. Trong đó có nhiều yếu tố mà người trồng trọt có thể
kiểm soát được, nhưng để đạt được năng suất cao thì các yếu tố này phải vận hành một cách
đồng bộ, vì các yếu tố này luôn có sự quan hệ hữu cơ với nhau. Những nhà trồng trọt thường
không có khả năng quản lý các yếu tố khí hậu, ngoại trừ lượng mưa họ có thể kiểm soát được
thông qua tưới và gió thông qua các quạt gió. Tuy nhiên, người trồng trọt có thể kiểm soát
phần lớn các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng đó là giống cây trồng và các
yếu tố của đất.
Các yếu tố có liên quan đến sự sinh trưởng của cây trồng có thể được phân loại thành 2
nhóm, nhóm yếu tố do di truyền và nhóm các yếu tố do môi trường.
1
1 Các yếu tố di truyền
Tầm quan trọng của di truyền học trong sự sinh trưởng của các cây trồng nông nghiệp
được thể hiện qua sự gia tăng rất lớn trong năng suất của các giống bắp lai mới và các giống
lúa nước, lúa mì và hàng loạt các giống cây trồng khác. Năng suất đạt được đối với bắp trong
thời gian gần đây là cao hơn 38 – 61 % (trong điều kiện tốt và xấu) so với các giống đã lai tạo
trong những năm 1930. Từ năm 1930, năng suất hạt của lúa mì mùa đông đã tăng 16,4 tấn/ha,
hay khoảng 0,7 %/năm, sự gia tăng năng suất này do sự đóng góp trực tiếp từ sự cải thiện về
tính di truyền.
1.2 Các tương tác giữa giống và độ phì nhiêu của đất
Thông thường các giống có mức độ thích ứng hẹp thì có xu hướng có những tương tác
chặt giữa giống và phân bón, ngược lại các giống có 1 biên độ thích ứng rộng thì sẽ có sự
tương tác yếu. Vào đầu năm 1922, một số nơi trên thế giới đã khuyến cáo là tiêu chuẩn chọn
các giống bắp là dựa trên cơ sở mức độ phì nhiêu của đất. Các giống được chọn cho các đất
nghèo khác với giống được chọn trồng trên các loại đất giàu dinh dưỡng.
Trong phần lớn các nước nông nghiệp phát triển người ta có tập quán là bón đầy đủ
chất dinh dưỡng cho cây trồng trên đất có độ phì nhiêu thấp. Vì vậy những khuyến cáo về
chọn giống hay lai giống không còn cần thiết phải dựa trên cơ sở của mức độ phì nhiêu của
đất, nhưng cần chú trọng đến khả năng chống chịu được với sâu bệnh, hay ẩm độ, nhiệt độ bất
lợi. Tuy nhiên, trong một chiến lược quản lý các vùng đất bất lợi như đất có hàm lượng Fe
hữu dụng thấp hay thừa Al hay thừa các muối hoà tan thì phải chọn các giống hay loài có khả
năng chống chịu được điều kiện đặc biệt này. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp khi độ phì
nhiêu của đất không còn là yếu tố giới hạn sự sinh trưởng của cây trồng, thì sự hiểu biết các
cơ chế hấp thu dinh dưỡng và tính thích ứng chuyên biệt của các giống là cần thiết.
1.3 Tầm quan trọng của sự tiếp tục nghiên cứu di truyền học.
Các thành phần cấu tạo trong di truyền học của 1 loài cây nhất định nào đó thường
làm cho cây trồng chỉ có thể phát triển trọng 1 phạm vi giới hạn nhất định. Hầu như không có
một loại cây nào có thể sinh trưởng tốt trong tất cả các điều kiện môi trường. Do đó, người ta
đề nghị nên có từng chương trình sản xuất các giống mới hay giống lai có khả năng đạt năng
suất cao trong từng điều kiện riêng biệt.
2
3. Năng lượng bức xạ.
4. Thành phần của khí quyển.
5. Cấu trúc của đất và thành phần không khí trong đất.
6. Phản ứng của đất (pH đất).
7. Các yếu tố sinh học.
8. Sự cung cấp các nguyên tố dinh dưỡng khoáng.
9. Sự hiện diện hay không của các chất hạn chế sinh trưởng.
Nhiều yếu tố môi trường có sự quan hệ hỗ tương lẫn nhau. Ví dụ, luôn có sự quan hệ
nghịch giữa hàm lượng không khí và ẩm độ trong đất hay giữa hàm lượng O2 và CO2 của
không khí trong đất. Khi ẩm độ đất tăng, thì hàm lượng không khí trong đất giảm, và khi hàm
lượng CO2 của không khí trong đất tăng thì hàm lượng O2 của không khí trong đất giảm, và
ngược lại.
2.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ giới hạn cho sự tồn tại của sinh vật là khoảng -35o đến +75oC . Tuy nhiên,
khoảng nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của phần lớn cây trồng nông
nghiệp chỉ biến thiên trong khoảng nhiệt độ hẹp hơn; có thể từ 15-40oC. Ở nhiệt độ cao hay
thấp hơn khoảng giới hạn này thì sự sinh trưởng sẽ bị giảm 1 cách nhanh chóng.
Nhiệt độ tối hảo cho sự sinh trưởng khác nhau tùy theo giống hay loài, tùy theo thời
gian tác động của nhiệt độ, tuổi cây, thời kỳ phát triển, và các ngưỡng sinh trưởng riêng biệt
được dùng để đánh giá khả năng hoàn thành chu kỳ sống, sự hấp thu nước và dinh dưỡng, hô
hấp, khả năng thấm của màng tế bào, và sự tổng hợp protein. Các ảnh hưởng này được phản
ảnh bằng sự sinh trưởng của cây trồng. Khả năng sinh trưởng của cây trồng phụ thuộc rất lớn
vào tốc độ hình thành lá mới, có nghĩa là diện tích quang hợp mới tăng làm ảnh hưởng rất lớn
đến tổng quang hợp và sản lượng của cây trồng. Vì vậy, tốc độ ra lá và sự phát triển các lá mới
và thời gian phát triển của các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây đóng góp rất lớn đến
sản lượng của cây trồng.
Tiến trình hô hấp và sự thoát hơi nước của cây trồng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi nhiệt
độ, các quá trình này giảm khi nhiệt độ giảm và ngược lại. Ở nhiệt độ cao, tốc độ hô hấp ban
đầu tăng rất nhanh nhưng sau đó vài giờ thì lại giảm rất nhanh đối với 1 số cây trồng.
Đối với nhiều loại cây trồng thì nhiệt độ tối hảo cho quang hợp thấp hơn nhiệt độ tối
hảo cho hô hấp. Điều này đã được chứng minh là năng suất của các cây trồng lấy tinh bột như
bắp và khoai tây, trong các vùng khí hậu mát mẽ cao hơn năng suất các cây này khi trồng
trong vùng khí hậu nóng hơn. Có thể là trong điều kiện nhiệt độ cao kéo dài, cây trồng có thể
bị mất cân đối trong quá trình tích lũy chất hữu cơ, bởi vì sự hô hấp tiến hành nhanh hơn
quang hợp.
Trong điều kiện nhiệt độ cao, sự mất nước do thoát hơi có thể vượt quá lượng nước
hấp thu vào, và hậu quả là cây bị héo. Sự hấp thu nước của rễ cây chịu ảnh hưởng bởi nhiệt
độ, trong môi trường nhiệt độ tăng từ 0o-60oC hay 70oC thì sự hấp thu nước của rễ tăng. Nhiệt
độ đất thấp cũng có thể ảnh hưởng bất lợi đến sự sinh trưởng của cây do ảnh hưởng của nhiệt
độ đến sự hấp thu nước. Nếu nhiệt độ đất thấp mà sự thoát hơi cao, thì cây trồng có thể bị tổn
thương do các mô bị mất nước. Ẩm độ đất cũng có thể bị ảnh hưởng do nhiệt độ, thời tiết
nóng không bình thường sẽ làm cho sự bốc hơi nước nhanh hơn từ mặt đất.
Nhiệt độ cũng gây ảnh hưởng một cách gián tiếp đến sự sinh trưởng của cây, do ảnh
hưởng của nhiệt độ đến dân số vi sinh vật trong đất. Sự hoạt động của các vi khuẩn chuyển
hoá N, cũng như phần lớn sinh vật tự dưỡng, tăng theo sự tăng nhiệt độ. pH đất cũng có thể
thay đổi theo nhiệt độ, và pH lại ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng. Người ta nhận
thấy rằng. Điều này thường được giải thích là sự hoạt động của vi sinh vật trong đất, mang
theo sự giải phóng CO2, CO2 này kết hợp với nước hình thành carbonic acid (H2CO3). Trong
3
các đất chua ít thì chỉ 1 sự thay đổi nhỏ về pH cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng
của các chất dinh dưỡng vi lượng như Mn, Zn hay Fe.
Nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa năng suất hay sản lượng chất khô và nhiệt độ
đã được thực hiện. Sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa nhiệt độ và sự sinh trưởng của cây
trồng là rất quan trọng bởi vì khi trồng 1 cây hay giống nào đó không thích hợp với điều kiện
nhiệt độ trong 1 vùng nào đó sẽ dẫn đến kết quả là tiềm năng năng suất sẽ bị giảm, và có thể
sẽ không có thu hoạch gì cả.
Nhiệt độ cũng có thể làm thay đổi thành phần không khí trong đất, do sự tăng hay
giảm sự hoạt động của vi sinh vật trong đất. Khi hoạt động của vi sinh vật đất tăng, thì hàm
lượng CO2 của không khí trong đất tăng và hàm lượng O2 giảm. Trong điều kiện mà sự
khuếch tán của các khí trong đất bị hạn chế, thì việc giảm hàm lượng O2 có thể ảnh hưởng đến
tốc độ hô hấp của rễ cây, và vì thế ảnh hưởng đến khả năng hấp thu dinh dưỡng của rễ.
2.2 Ẩm độ đất
Trong một giới hạn nào đó thì sự sinh trưởng của cây trồng tỉ lệ thuận với hàm lượng
nước hiện diện. Nước cần thiết cho sản xuất carbohydrate, để duy trì tính hút nước của nguyên
sinh chất, và nước là 1 phương tiện vận chuyển carbohydrate và các chất dinh dưỡng. Sự thiếu
nước bên trong có thể làm giảm cả sự phân chia và phát triển của tế bào, và vì vậy làm giảm
sự sinh trưởng của cây.
Ẩm độ cũng có ảnh hưởng đáng kể đến sự hấp thu dinh dưỡng của cây. Hàm lượng
nước hữu dụng trong vùng rễ thấp làm giảm sự hữu dụng các chất dinh dưỡng nên làm cản trở
các tiến trình có liên quan đến sự hấp thu dinh dưỡng. Các tiến trình đó là (1) sự khuếch tán,
(2) dòng chảy khối lượng, và (3) sự tiếp xúc của rễ. Theo qui luật thông thường, sự hấp thu
dinh dưỡng tăng khi hàm lượng nước trong đất tăng. Khi các tế khổng đất hoàn toàn đầy nước
sẽ là 1 bất lợi vì hậu quả là rễ sẽ thiếu O2, làm hạn chế sự hô hấp và hấp thu ion của rễ.
Người ta cũng lưu ý rằng cần bón phân đầy đủ để sử dụng nước đạt cao nhất.
Xu hướng chung đối với các chất dinh dưỡng của cây trồng là các chất dinh dưỡng
được hấp thu dễ dàng khi ẩm độ đất tăng và ảnh hưởng tốt đến hiệu quả sử dụng nước (water
use effection, WUE) của cây trồng. WUE là lượng chất khô tạo thành từ 1 đơn vị nước,
thường diễn tả bằng gram trọng lượng chất khô/ha-cm nước. Bón nhiều lần với lượng nhỏ
phân bón, kết hợp với phương pháp tưới theo lịch dựa trên số liệu đo bằng tensiometer, sẽ tạo
nên 1 hiệu quả sử dụng nước cao nhất trên đất này.
Ngoài ra, nước còn cần thiết cho sản xuất carbohydrate, để duy trì tính hút nước của
nguyên sinh chất, và nước là 1 phương tiện vận chuyển carbohydrate và các chất dinh dưỡng.
Sự thiếu nước bên trong mô có thể làm giảm cả sự phân chia và phát triển của tế bào. Sự thiếu
nước xảy ra khi mà nước hữu dụng (cây có thể hút được) trong vùng rễ không đủ để thoả mãn
nhu cầu thoát hơi của cây trồng. Sự thiếu hụt nước với các mức độ khác nhau chính là nguyên
do làm cho năng suất cây trồng biến động hàng năm. Các tiến trình sinh lý trong cây khác
nhau bị tác động của sự thiếu nước khác nhau. Ví dụ, sự vươn dài của lá mẫn cảm với sự thiếu
nước hơn là các tiến trình khác và sự phát triển là sẽ bị ngừng trước khi toàn bộ nước hữu
dụng trong đất được tiêu thụ. Rễ cây sinh trưởng tốt nhất khi đất có đủ ẩm, cây cũng có thể ra
rễ ngay cả khi đất tương đối khô. Khi sự thiếu nước làm giới hạn sự sinh trưởng của rễ, sự
hấp thu dinh dưỡng và nước sẽ bị giới hạn.
Cách bón phân trong đất cũng là 1 yếu tố quan trọng cần chú ý trong các trường hợp
mà phần trên của vùng rễ bị khô nhanh và khô kéo dài. Bón phân sâu vào vùng rễ nơi ẩm sẽ
có hiệu quả hơn. Trong các vùng khô hạn và bán khô hạn nơi mà sự rửa trôi không đáng kể,
sự phân bố đều phân bón trong vùng rễ được cải thiện bằng cách bón thúc trên mặt đất với
liều lượng phân bón cao.
Ẩm độ đất cũng ảnh hưởng gián tiếp đến sự sinh trưởng của cây trồng do ảnh hưởng
đến dân số vi sinh vật trong đất. Ở ẩm độ quá thấp hay quá cao thì sự hoạt động của các vi
4
sinh vật tham gia trong các quá trình chuyển hoá chất dinh dưỡng hữu dụng cho cây bị hạn
chế.
5
2.5 Thành phần của khí quyển
Ngoại trừ nước, C là nguyên tố cần thiết cho sự sinh trưởng có hàm lượng lớn nhất
trong cây. Nguồn cung cấp C chính cho cây là khí CO2 trong khí quyển. CO2 được hấp thu
vào lá, và thông qua hoạt động quang hợp, được nối hoá học trong các phân tử hữu cơ.
CO2 tiếp tục được trả lại vào khí quyển dưới dạng sản phẩm của hô hấp động vật và
thực vật và sự phân giải vi sinh vật các dư thừa hữu cơ. Mặc dù bình thường nồng độ CO2
trong khí quyển khoảng 0,03 %, nhưng nồng độ này có thể biến đối từ 0,015 - 0,3 %. Trong 1
tán cây dày trong 1 ngày không gió, nồng độ CO2 có thể thấp trong những giờ có chiếu sáng
khi cây có tốc độ quang hợp cao. Tương tự, trong rừng dày, hàm lượng CO2 có thể xuống thấp
đáng kể trong thời gian có chiếu sáng.
Sự gia tăng nhiệt độ và nồng độ CO2 trong khí quyển, được được diễn tả bằng thuật
ngữ hiệu ứng nhà kính, có thể có ảnh hưởng đáng kể đến sự sinh trưởng và năng suất của
cây trồng. Một số chương trình nghiên cứu cho thấy là năng suất có thể sẽ tăng, ngược lại 1 số
chương trình khác lại dự báo là năng suất sẽ giảm. Mặc dù năng suất của 1 số cây trồng có thể
tăng theo sự tăng nồng độ CO2, nhưng nhiệt độ cao có thể làm gia tăng hạn hán và làm giảm
năng suất. Nhiều nhà khoa học kết luận rằng mặc dù hiệu ứng nhà kính có thể gây ra những
thay đổi trong các kiểu dáng cây trồng, nhưng năng suất sẽ tiếp tục tăng bởi vì các biện pháp
kỹ thuật đồng ruộng sẽ có thể đáp ứng được hầu hết các sự thay đổi của môi trường.
2.7 Cấu trúc của đất và thành phần không khí trong đất
Cấu trúc và sa cấu của đất quyết định dung trọng của đất. Theo qui luật chung, dung
trọng đất càng cao thì đất càng bị nén chặt, cấu trúc đất càng xấu, và độ rổng của đất càng
thấp. Những điều kiện này thường được phản ảnh thông qua sự sinh trưởng của cây trồng bị
giới hạn.
Dung trọng đất cao sẽ cản trở sự nẩy mầm của hạt và làm tăng sự trở ngại về mặt cơ
học cho việc xuyên phá của rễ. Dung trọng cao làm giảm sự khuếch tán O2 vào các tế khổng
trong đất, và sự hô hấp của rễ có liên quan trực tiếp đến sự cung cấp liên tục và đầy đủ khí
này.
6
Trong điều kiện đồng ruộng, sự khuếch tán O2 vào đất được quyết định phần lớn bởi
ẩm độ của đất, nếu dung trọng của đất không phải là yếu tố giới hạn. Trên 1 loại đất thoát thủy
tốt cộng với cấu trúc tốt, thì hàm lượng O2 có thể không là yếu tố hạn chế sự sinh trưởng của
cây ngoại trừ trong thời gian bị ngập nước, khi đó sự cung cấp O2 có thể hạn chế sự hấp thu
ion.
Sự cung cấp O2 ở bề mặt hấp thu của rễ là 1 tiêu chuẩn đánh giá rễ cây có được cung
cấp đủ oxygen hay không. Vì vậy, không chỉ là tổng lượng O2 của không khí trong đất mà tốc
độ khuếch tán của O2 xuyên suốt phẫu diện đất để duy trì nồng độ đủ ở bề mặt rễ cũng rất
quan trọng. Với tốc độ khuếch tán O2 thấp, thì khi tăng tốc độ khuếch tán lên 1 ít có tác động
rất lớn đến sự sinh trưởng của bắp trên các loại đất có độ phì nhiêu trung bình và cao, hơn là
đất có độ phì nhiêu thấp. Khi đất có độ phì nhiêu đầy đủ có thể giúp cho cây trồng tăng
trưởng tốt trong điều kiện ẩm độ đất cao.
7
2.10 Sự cung cấp các nguyên tố dinh dưỡng khoáng
Từ 5 – 10 % trọng lượng khô của cây là thành phần của các chất dinh dưỡng cần thiết
của cây. Những vấn đề về sự cung cấp, sự hữu dụng, và sự hấp thu khác nhau của các nguyên
tố này sẽ được thảo luận trong các chương tiếp theo.
2.11 Sự hiện diện của các chất hạn chế sự sinh trưởng
Sự phát triển bình thường của cây có thể bị hạn chế hay bị ngưng hoàn toàn do các độc
chất. Hầu hết các nguyên tố trong đất, ngay cả các chất cần thiết cho sự sinh trưởng của cây
trồng, sẽ trở nên độc đối với cây khi chúng hiện diện ở nồng độ cao không bình thường trong
vùng rễ. Người ta chưa hoàn toàn biết là tính độc của các nguyên tố này là do hậu quả trực
tiếp của những hàm lượng cao hay là do các nguyên tố này khi có nồng độ cao làm cản trở sự
hấp thu các chất dinh dưỡng có tính chất hoá học tương tự.
Có thể là 1 trong các chất gây độc phổ biến nhất là hàm lượng Al hoà tan cao trong
đất. Các nguyên tố khác có tiềm năng gây độc là Ni, Pb, Hg, Cd, Cr, Mn, Cu, Zn, Se, As, Mo,
Cl, B, và F. May mắn là các vấn đề ngộ độc do các nguyên tố này trên đất nông nghiệp thì
không thường xuyên xảy ra. Chúng có thể xảy ra ở những nơi có liên quan đến hay những nơi
chứa chất thải, hầm mỏ, công nghiệp kim loại, các hệ thống rác thải sinh hoạt, và công nghiệp
giấy và bột giấy.
Các hợp chất hữu cơ như phenol, cresols, hydrocarbons, các biến dạng của ureas, và
thuốc trừ sâu hydrocabon chlorine hoá, có thể gây độc nếu chúng hiện diện với nồng độ cao.
Các hoá chất này thường không gây ra vấn đề gì nếu ở nồng độ thấp bởi vì một số vi sinh vật
đất có khả năng phân giải chúng.
8
quan hệ này được gọi là định luật tối thiểu của Liebig. Tuy nhiên, đây không phải là 1 tương
quan tuyến tính đơn giản. Mặc dù có sự tương quan tuyến tính xảy ra trong những phần nhỏ
của đường cong năng suất, mỗi sự gia tăng của 1 yếu tố sinh trưởng sẽ làm tăng liên tiến trong
sự sinh trưởng
Năm 1909, E.A. Mitscherlich, 1 người Đức, là 1 trong những người đầu tiên định
lượng hoá sự tương quan giữa sự đáp ứng trong sinh trưởng của cây trồng với 1 trong các yếu
tố sinh trưởng tác động vào. Ông ta phát biểu rằng “năng suất có thể được tăng do 1 yếu tố
sinh trưởng đơn giản ngay cả khi yếu tố này không hiện diện ở mức độ tối thiểu trong 1 thời
gian dài, yếu tố này không hiện diện trong mức độ tối hảo” và rằng “khi sự gia tăng năng suất
của cây trồng là do sự gia tăng của 1 yếu tố sinh trưởng đơn giản thì mức độ gia tăng năng
suất tỉ lệ với mức độ gia tăng yếu tố đơn này tác động vào.
100 %
80
60
40
20
0
0 2 4 6 8 10
9
Tính toán giá trị của hằng số tỉ lệ c. Hằng số c trong phương trình 4 là 0,301 khi năng suất
tương đối là 100 % và x là hàm lượng của 1 yếu tố sinh trưởng. Điều này cho thấy bởi phương
trình (4):
logA - log(A - y) = cx hay log A = cx
A-y
Khi tăng sự cung cấp chất dinh dưỡng x để đạt được 50 % năng suất tối đa,
A = 100 =2
A-y 50
Giá trị c thay đổi tùy theo từng yếu tố sinh trưởng. Mitscherlich nhận thấy rằng giá trị
của c = 0,122 đối với N, c = 0,60 đối với P, và c = 0,40 đối với K. Ông ta cho rằng c là 1 hằng
số đối với từng chất dinh dưỡng, độc lập với cây trồng, đất, hay các điều kiện khác. Giá trị c
trung bình trong các thí nghiệm ở Anh được thực hiện trước 1940 là 1,1 đối với N, 0,8 đối với
P, và 0,8 đối với K. Trong nhiều nghiên cứu khác, người ta nhận thấy rằng c không phải là 1
hằng số mà thay đổi rất rộng tùy theo cây trồng khác nhau và trồng trong những điều kiện
khác nhau.
Ý nghĩa của c là khả năng năng suất tối đa có thể đạt được khi 1 hàm lượng tương đối
thấp hay tương đối cao của 1 yếu tố sinh trưởng nhất định được cung cấp. Khi giá trị c nhỏ, thì
cần phải cung cấp yếu tố sinh trưởng 1 lượng lớn và ngược lại.
3.2 Tính toán năng suất tương đối do sự gia tăng hàm lượng của 1 yếu tố sinh trưởng
Nếu A là năng suất tối đa được cho là 100%, thì phương trình (4) đơn giản thành:
log(100 - y) = log100 – 0,301(x) (5)
Người ta có thể xác định năng suất tương đối từ 1 số đơn vị x được cung cấp.
Trong điều kiện không có 1 yếu tố sinh trưởng nào có sẵn, thì x = 0, do đó y = 0;
nhưng giả sự rằng có 1 đơn vị x hiện diện. Thì:
log(100 - y) = log100 – 0,301(1)
log(100 - y) = 2 – 0,301
log(100 - y) = 1,699
100 - y = 50
y = 50
vậy khi thêm 1 đơn vị yếu tố sinh trưởng x vào thì năng suất sẽ đạt được 50 % năng suất tối
đa.
Tuy nhiên giả sử rằng có 2 đơn vị của yếu tố sinh trưởng x hiện diện. Trong trường
hợp này thì:
log(100 - y) = log100 – 0,301(2)
log(100 - y) = 2,000 – 0,602
log(100 - y) = 1,398
100 - y = 25
y = 75
Ta có thể tính tương tự đến 10 đơn vị yếu tố sinh trưởng x. Kết quả được trình bày
trong bảng 2.2. Ta dễ dàng nhận thấy rằng khi gia tăng 1 đơn vị yếu tố sinh trưởng thì năng
suất tăng 50 % so với năng suất ngay trước đó với 1 đơn vị x ít hơn cho đến 1 điểm không còn
sự gia tăng nữa.
10
Bảng 2.2 Ví dụ về lợi nhuận giảm dần khi tăng yếu tố x được trình bày trong phương trình
Mitscherlich
Số đơn vị của yếu tố sinh Năng suất (%) Năng suất tăng (%)
trưởng, x
0 0 1
1 50 50
2 75 25
3 87,5 12,5
4 93,75 6,25
5 96,88 3,125
6 98,44 1,562
7 99,22 0,781
8 99,61 0,390
9 99,80 0,195
10 99,90 0,098
Sự sinh trưởng của cây trồng là 1 hàm logarith phụ thuộc vào hàm lượng của chất dinh
dưỡng được bón vào và thường theo 1 kiểu mẫu là sự gia tăng giảm dần, như đã trình bày
trong phương trình Mitscherlich. Sự sinh trưởng của cây hàng năm có khuynh hướng đạt tối
đa theo sự gia tăng của chất dinh dưỡng được cung cấp trong 1 môi trường nhất định, và
thường khi cây trồng hình thành 1 năng suất chất khô cao nhất thì trong mô của chúng lại có tỉ
lệ N thấp nhất. Tuy nhiên, hiện nay người ta vẫn còn tiếp tục nghiên cứu để xác định 1 sự
diễn tả đơn giản hơn có thể được để dự báo 1 cách rộng rải đại lượng sinh trưởng mà cây có
thể hình thành do 1 sự cung cấp lượng chất dinh dưỡng nào đó khi các yếu tố sinh trưởng
thuộc về di truyền và môi trường được mô tả 1 cách đầy đủ.
Chúng ta cần lưu ý rằng các kỹ thuật tính toán trong phương trình hồi qui chỉ là sự xắp
xếp các số liệu có sẵn trong 1 số điều kiện nhất định và có rất ít giá trị trong dự báo trong các
điều kiện khác. Kỹ thuật hồi qui thường được dùng để đưa ra các khuyến cáo bón phân.
11
tương tác của các chất dinh dưỡng cây trồng chỉ được nghiên cứu một cách tốt nhất trong các
thí nghiệm nhiều yếu tố trong đó mỗi chất dinh dưỡng được thử nghiệm ở 3 mức độ hay nhiều
hơn.
Hai hay 3 yếu tố sinh trưởng được cho là tương tác khi ảnh hưởng riêng biệt của chúng
bị thay đổi do sự hiện diện của 1 hay 2 yếu tố kia. Sự tương tác xảy ra khi sự đáp ứng 2 hay
nhiều yếu tố được cung cấp kết hợp với nhau thì không bằng với tổng của sự đáp ứng của từng
yếu tố riêng lẻ. Có thể có tương tác thuận và tương tác nghịch trong các nghiên cứu về độ phì
nhiêu của đất. Ngoài ra có những trường hợp không có sự tương tác, sự tác động của các yếu
tố chỉ là những tác động hỗ trợ thêm.
Trong tương tác nghịch, khi 2 chất dinh dưỡng được bón kết hợp với nhau sẽ làm cho
năng suất giảm hay là tăng ít hơn khi ta bón chúng riêng lẻ từng loại phân. Kiểu tương tác này
cũng có thể là kết quả của sự thay thế hay ngăn cản của 1 yếu tố này đối với yếu tố khác. Vôi
x P, vôi x Mo, Mo x P, và Na x K là các tương tác nghịch phổ biến, dường như có liên quan
đến các ảnh hưởng của sự thay thế giữa chúng với nhau. Sự thay đổi pH đất có thể gây ra rất
nhiều tương tác nơi mà 1 ion này gây trở ngại hay cạnh tranh với 1 ion khác trong sự hấp thụ
và sử dụng chất dinh dưỡng của cây trồng.
Tương tác thuận tương ứng với định luật tối thiểu của Liebig. Nếu có 2 yếu tố bị giới
hạn, hay gần bị giới hạn, thì khi cung cấp 1 yếu tố sẽ có ảnh hưởng rất ít đến sự sinh trưởng,
ngược lại, khi cung cấp cả 2 yếu tố thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Trong điều kiện thiếu hụt
nghiêm trọng của 2 hay nhiều chất dinh dưỡng, thì tất cả các loại phân bón được cung cấp sẽ
cho tương tác thuận rất mạnh.
Sự gia tăng năng suất do bón 1 chất dinh dưỡng có thể làm giảm nồng độ của chất dinh
dưỡng thứ hai trong cây, nhưng khi năng suất tăng cao hơn nữa thì sự hấp thu chất dinh dưỡng
thứ hai sẽ lớn hơn. Đây là hiệu ứng pha loãng, hiệu ứng này có thể thấy rỏ trong ảnh hưởng
đối kháng giữa các ion.
Ngoài các tương tác giữa 2 hay nhiều chất dinh dưỡng, còn có nhiều kiểu tương tác
khác; ví dụ, các chất dinh dưỡng và bệnh, các chất dinh dưỡng và kỹ thuật canh tác; chất dinh
dưỡng và giống/loài; chất dinh dưỡng và ngày gieo trồng; chất dinh dưỡng và mật độ cây; và
chất dinh dưỡng và các điều kiện môi trường….
3.4 Khái niệm của Bray về tính di động của chất dinh dưỡng
Bray và các cộng sự của ông ta đã cải tiến phương trình của Mitscherlich. Nói 1 cách
tóm tắt là năng suất cây trồng tuân theo định luật Mitscherlich đối với các nguyên tố như P và
K, là các nguyên tố tương đối không di động trong đất. Khái niệm này dựa trên cơ sở tính di
động chất dinh dưỡng, khái niệm này được phát biểu như sau: khi sự di động của 1 chất dinh
dưỡng trong đất giảm, thì hàm lượng của chất dinh dưỡng đó cần thiết trong đất để cho 1 năng
suất tối đa (nhu cầu dinh dưỡng của đất) phải gia tăng từ 1 giá trị được xác định bởi lượng
năng suất và thành phần % tối hảo của cây trồng, cho đến 1 giá trị không đổi.
Giá trị của hằng số này độc lập với lượng năng suất cây trồng, phụ thuộc vào loại cây
trồng, kiểu và tỉ lệ trồng , và độ phì nhiêu tồn tại không đổi, các điều kiện đất và thời tiết
tương tự. Ngoài ra Bray cũng phát biểu rằng đối với 1 nguyên tố có tính di động cao như NO3-
N, thì áp dụng định luật tối thiểu của Liebig để diễn tả sự sinh trưởng của cây trồng là tốt nhất.
Bray đã cải tiến phương trình Mitscherloch thành:
log (A - Y) = logA - C1b - Cx (6)
với A, Y, và x có nghĩa như phần trên; C1 là hằng số thể hiện tính hữu hiệu của b đối với năng
suất trong đó b là hàm lượng chất dinh dưỡng ở dạng không di động, nhưng hữu dụng đối với
cây trồng, như P hay K, có thể đo được bằng các phương pháp phân tích đất thích hợp; và C là
hệ số của x, với x là dạng của chất dinh dưỡng b trong phân được bón vào.
Bray đã chỉ ra rằng C1 và C là chuyên biệt và tương đối không đổi trên 1 vùng rộng,
bất kể năng suất và mùa vụ cho những cây trồng sau: bắp, lúa mì và đậu nành. Tuy nhiên đối
12
với các chất dinh dưỡng không di động, thì khi các yếu tố này thay đổi giá trị rất lớn trong các
loại đất, mật độ cây trồng và kiểu trồng, và dạng và sự phân bố. Vì thế, khi các biện pháp kỹ
thuật quản lý và phương pháp bón phân thay đổi để đạt năng suất cao, các giá trị này và phải
được nghiên cứu lại.
3.5 Những giới hạn trong việc áp dụng các mô hình diễn tả sự sinh trưởng
Rất nhiều phương trình hay hàm số dùng để mô tả mối quan hệ giữa sự sinh trưởng
của cây trồng và các chất dinh dưỡng được bón vào. Steenbjerg và Jakobsen, người Đan
mạch, trong nghiên cứu về sự biến động giữa các đường cong sinh trưởng, chỉ ra rằng “ các
hằng số trong các công thức không phải là hằng số bởi vì các biến trong các công thức
không phải là các biến độc lập”. Các tương tác của các chất dinh dưỡng rỏ ràng là có ảnh
hưởng đến dạng của đường cong năng suất. Các tương tác bao gồm các tương tác của các yếu
tố môi trường như đã thảo luận ở trên. Sự thay đổi về hình dạng và vị trí của đường cong quan
hệ giữa năng suất và chất dinh dưỡng bón vào với sự thay đổi của các yếu tố môi trường là
quan trọng nhất đối với các nhà nông học. Hiểu những tương tác giữa các yếu tố sinh trưởng
ảnh hưởng đến cây trồng này là rất quan trọng để xác định các biện pháp kỹ thuật quản lý cây
trồng và đất cần thiết để đạt được năng suất có lợi cao nhất trong sản xuất cây trồng.
Thuật ngữ yếu tố sinh trưởng giới hạn thường được dùng trong môn học này, đã được
trình bày rỏ ràng bằng sụ biến động tự nhiên của các đường cong. Ví dụ, nếu 1 cây trồng
không đủ ẩm, khi bón 1 lượng phân bón thì sẽ cho 1 năng suất thấp hơn là trường hợp cây
trồng đủ ẩm. Một ví dụ khác và là 1 ví dụ quan trọng, là bón phân cho cây trồng trên đất quá
chua. Nếu không bón vôi thì độ chua là yếu tố giới hạn làm giảm cả năng suất và lợi nhuận
của người nông dân. Nói lên tầm quan trọng đối với thực tế đồng ruộng của khái niệm kiểu
sinh trưởng và nó có thể thay đổi như thế nào do các yếu tố giới hạn khác nhau có thể không
phải là quá cường điệu.
4. Áp dụng mô hình hoá trong nghiên cứu độ phì nhiêu của đất
Sự sử dụng máy tính trong nông nghiệp là rất quan trọng để phân tích các quyết định
trong quản lý trước khi được áp dụng trên đồng ruộng. Các mô hình đã hình thành, cung cấp
các thông tin về sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng trong nhiều tình huống khác nhau.
Các biện pháp kỹ thuật như làm đất; ngày gieo trồng; liều lượng phân bón; thời gian bón;
phương pháp bón; lịch tưới nước; và vv… có thể được tính toán bằng các mô hình trên máy
tính, và đầu ra (năng suất) từ các hoàn cảnh khác nhau có thể được thử nghiệm trước, trước
khi bắt đầu tiến hành gieo trồng trên đồng ruộng.
Các nhà nghiên cứu sử dụng mô hình để thử nghiệm các sự thay đổi khác nhau để giúp
họ bảo đảm rằng trong giới hạn của các nghiệm thức xử lý có đủ để thử giả thuyết hay không.
Nông dân sẽ áp dụng các biện pháp đã được thử nghiệm này để giúp họ giảm bớt nguy cơ rủi
ro và đạt lợi nhuận cao. Mô hình thật ra chỉ là 1 tình huống được tính toán trước điều mà
chúng ta biết về những sự thay đổi đã nghiên cứu.
Khi 1 mô hình được dùng để dự báo, hay mô phỏng, thì khả năng hiện thực của nó chỉ
tốt khi các dữ liệu được sử dụng có mức độ tin cậy cao. Các thông tin càng chính xác và càng
phức tạp, thì mô phỏng càng hiện thực. Trong tiến trình chạy mô hình, các nhà nghiên cứu hay
nông dân có thể khám phá những điểm yếu trong mô hình hay trong dữ liệu và có thể tránh
những lỗi lầm đắt giá trước khi áp dụng trên đồng ruộng.
Một kỹ thuật mới đi trước 1 bước với máy tính, cho phép máy tính vẽ ra những kết
luận và giải đoán. Các hệ thống chuyên gia (expert systems), 1 dạng của sự thông minh nhân
tạo, đưa ra các sự kiện, dữ kiện, mô hình, và các ý tưởng của nhiều chuyên gia trên các lãnh
vực khác nhau quan tâm đến các mối quan hệ đang được nghiên cứu. Hệ thống chuyên gia lấy
các thông tin và phát triển thành 1 bộ các qui luật và xác định xác suất sẽ xảy ra, với nhiều
tình huống khác nhau.
13
Trong khi các hệ thống chuyên gia là tương đối mới trong nông nghiệp, nhưng chúng
đã được sử dụng trong y học và trong cơ khí nhiều năm qua. Một lần nữa cần nhấn mạnh là,
mô hình hoá trong nghiên cứu độ phì nhiêu của đất bị hạn chế do nguyên nhân chính là tính
chính xác và phức tạp của các dữ liệu, thông tin do chúng ta thu thập và đưa vào máy tính.
Mô hình là kỹ thuật cần phải được thử nghiệm nhiều hơn nữa để có thể được chấp
nhận 1 cách rộng rãi. Nhưng có rất nhiều thành công, và mô hình là 1 dụng cụ quan trọng cho
sự phát triển các kỹ thuật quản lý cây trồng. Máy tính thực hiện chi tiết các phân tích những sự
thay đổi 1 cách kỹ lưỡng. Chúng là những dụng cụ quản lý quan trọng đối với nhà nghiên cứu
và nông dân, nhưng không bao giờ thay thế được những tiến trình suy nghĩ của cá nhân, mà
chỉ bổ sung vào nó nhiều suy nghĩ có thể được xem là hình thành nên những quyết định.
14
BÀI 2 CÁC NGUYÊN TỐ DINH DƯỠNG CẦN THIẾT CHO CÂY TRỒNG
1 Sự cần thiết của các nguyên tố trong dinh dưỡng cây trồng
Một nguyên tố khoáng được xem là cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây
trồng khi nguyên tố đó liên quan đến các chức năng trao đổi chất trong cây trồng, và cây trồng
không thể hoàn tất chu kỳ sống nếu thiếu hụt một chất dinh dưỡng nào đó, và sự thiếu hụt này
có thể điều chỉnh hay ngăn chặn bằng cách cung cấp chất dinh dưỡng đó cho cây. Ngoài yếu tố
dinh dưỡng các triệu chứng thiếu dinh dưỡng có thể còn do nhiều yếu tố khác gây ra, vì vậy
trong công việc chuẩn đoán cần lưu ý tất cả các hiện tượng thiếu dinh dưỡng của cây trồng.
Các thuật ngữ sau đây được sử dụng phổ biến để diễn tả các mức độ chất dinh dưỡng trong
cây trồng.
Hình 2.2 Mối quan hệ giữa hàm lượng của các nguyên tố tối cần thiết đối với sự phát
triển hay năng suất của cây
Thiếu dinh dưỡng: khi nồng độ của một nguyên tố trong cây thấp, làm giảm năng
suất nghiêm trọng và các triệu chứng này biểu hiện ra ngoài một cách rõ ràng. Sự thiếu hụt
nghiêm trọng có thể làm cây bị chết. Nhưng với mức độ thiếu hụt trung bình hay nhẹ, các triệu
chứng có thể không biểu hiện ra ngoài nhưng năng suất bị giảm.
Nồng độ tới hạn (nồng độ ngưỡng): khi nồng độ chất dinh dưỡng trong cây thấp hơn
mức độ này, nếu được bón phân sẽ làm tăng năng suất và phẩm chất. Mức độ tới hạn khác
nhau giữa các loại cây trồng và giữa các chất dinh dưỡng nhưng mức độ tới hạn này đều nằm
trong khoảng trung gian giữa mức độ thiếu và đủ của chất dinh dưỡng đó.
Đầy đủ dinh dưỡng: là mức độ chất dinh dưỡng trong cây thỏa mãn nhu cầu dinh
dưỡng của cây, với mức độ này, nếu bón thêm phân vào sẽ không làm tăng thêm năng suất
nhưng có thể làm tăng nồng độ chất dinh dưỡng đó trong cây. Thuật ngữ tiêu thụ xa xỉ thường
được dùng để miêu tả sự hấp thu dinh dưỡng của cây trồng nhưng sự hấp thu này không ảnh
hưởng đến năng suất.
Mức độ thừa hay gây độc: là nồng độ các nguyên tố cần thiết hay bất cứ một nguyên
tố nào đó cao đủ để làm giảm sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng. Nồng độ dinh dưỡng
thừa có thể gây ra sự mất cân bằng giữa các chất dinh dưỡng cần thiết khác, sự mất cân bằng
này có thể gây giảm năng suất.
15
Năng suất bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi bị thiếu chất dinh dưỡng và khi điều chỉnh
sự thiếu hụt chất dinh dưỡng này sự sinh trưởng của cây trồng tăng nhanh hơn nhiều so với sự
gia tăng nồng độ chất dinh dưỡng trong cây. Trong trường hợp bị thiếu nghiêm trọng, nếu
được bón phân thì năng suất có thể tăng nhanh, nhưng nồng độ chất dinh dưỡng đó trong cây
có thể bị giảm. Hiện tượng này được gọi là “ hiệu ứng Steenberg” và là hậu quả của sự pha
loãng nồng độ chất dinh dưỡng trong cây do sự sinh trưởng của cây trồng quá nhanh so với
hàm lượng chất dinh dưỡng cây hấp thu. Khi nồng độ đạt đến mức độ tới hạn, năng suất cây
trồng thường đạt tối đa. Nồng độ chất dinh dưỡng đủ thỏa mãn nhu cầu của cây thường nằm
một khoảng biên độ rộng, nếu nồng độ dinh dưỡng nằm trong khoảng này sẽ không ảnh hưởng
đến năng suất. Nhưng khi nồng độ tăng cao hơn mức độ tới hạn, cây trồng sẽ cho thấy có sự
hấp thu xa xỉ các chất dinh dưỡng (trên mức cần thiết để đạt năng suất tối đa). Sự tiêu thụ xa
xỉ này rất phổ biến trong hầu hết các loại cây trồng. Các nguyên tố được hấp thu với một
lượng thừa có thể làm giảm năng suất trực tiếp do sự gây độc, hay gián tiếp do làm giảm nồng
độ đến dưới mức độ tới hạn của các chất dinh dưỡng khác.
2 Các nguyên tố hóa học cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng
Có 17 nguyên tố hóa học được cho là cần thiết cho sự sinh trưởng của cây trồng, nồng
độ tương đối của các nguyên tố này trong cây được liệt kê trong bảng 2.3. Carbon (C),
hydrogen (H), và oxygen (O) chiếm một hàm lượng rất lớn trong cây. Tiến trình quang hợp
trong lá sẽ biến đổi CO2 và H2O thành các carbohydrates, từ đó các amino acids, đường,
proteins, nucleic acid, và các hợp chất hữu cơ khác được tổng hợp. Các nguyên tố C, H và O
không được xem là các chất dinh dưỡng khoáng. Sự cung cấp CO2 cho cây trồng tương đối ổn
định, sự cung cấp nước ít khi làm hạn chế trực tiếp sự quang hợp nhưng có thể sự quang hợp
bị hạn chế gián tiếp thông qua các ảnh hưởng khác do sự thiếu hụt trong độ ẩm đất.
Mười ba nguyên tố còn lại được phân loại thành các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng,
dinh dưỡng trung lượng và các nguyên tố dinh dưỡng vi lượng, sự phân loại này có tính tương
đối và dựa trên hàm lượng tương đối của chúng trong cây (bảng 2.3). Các nguyên tố đa lượng
bao gồm đạm (N), lân (P). kali (K), các nguyên tố trung lượng gồm lưu huỳnh (S), calcium
(Ca) và magnesium (Mg), Silic (Si). So với các nguyên tố đa lượng và trung lượng nồng độ
của các nguyên tố vi lượng sắt (Fe), kẽm (Zn), manganese (Mn), đồng (Cu), boron (B),
chlorine (Cl) và molybdenum (Mo) trong cây rất nhỏ, năm nguyên tố khác được xếp vào các
nguyên tố có ích sodium (Na), cobalt (Co), vanadium (Va), nickel (Ni) và silaicon (Si) các
nguyên tố này chỉ có ích cho một số cây trồng nhất định. Các nguyên tố vi lượng được xem là
nguyên tố thứ yếu, nhưng điều này không có nghĩa là chúng kém quan trọng hơn là nguyên tố
đa lượng và trung lượng. Sự thiếu hụt hay ngộ độc của các nguyên tố vi lượng có thể làm giảm
năng suất cây trồng tương tự như sự thiếu hụt hay ngộ độc các nguyên tố đa, trung lượng.
16
Bảng 2.3 Một số chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng
Nguyên tố Ký hiệu Dạng hữu Trọng Hàm lượng trong chất khô
hóa học dụng lượng ppm %
nguyên tử
Oxygen O O2, H2O 16,00 450.000 45
Carbon C CO2 12,01 450.000 45
Hydrogen H H2O 1,01 60.000 6
- +
Nitrogen N NO3 ,NH4 14,01 15.000 1,5
+
Potassium K K 39,10 10.000 1,0
-
Phosphorus P H2PO4 , 30,98 2.000 0,2
2-
HPO4
Calcium Ca Ca2+ 40,08 5.000 0,5
2+
Magnesium Mg Mg 24,32 2.000 0,2
Sulfur S SO42-, SO2 32,07 1.000 0,1
3-
Silica Si SO SiO2- 1.000 1,0
Si(OH)4
Chlorine Cl Cl- 35,46 100 0,01
+ 2+
Copper Cu Cu ,Cu 63,54 6 0,0006
3+ 2+
Iron Fe Fe , Fe 55,85 100 0,01
2+
Zinc Zn Zn 65,38 20 0,002
2-
Boron B H3BO4, BO3 10,82 20 0,002
2-
, B4O7
Molybdenum Mo MoO42- 95,95 0,1 0,00001
Manganese Mn Mn2+ 54,94 50 0,005
(Nguồn M. Schwarz trong Soilless Cultural Management )
Mặc dù aluminum (Al) không phải là nguyên tố cần thiết trong dinh dưỡng cây trồng,
nhưng nồng độ nhôm trong cây có thể cao khi đất chứa một lượng lớn Al trong dung dịch.
Thật ra cây hấp thu nhiều nguyên tố không cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và có trên 90
nguyên tố được tìm thấy trong cây trồng. Khi thực vật bị đốt, phần tro còn lại chứa tất cả các
nguyên tố cần thiết và không cần thiết, ngoại trừ C, H, O, N và S bị mất ở dạng khí.
Hàm lượng của các nguyên tố khoáng trong cây chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, và
hàm lượng của chúng khác nhau rất đáng kể trong các loại cây khác nhau.
Các số liệu phân tích nồng độ chất dinh dưỡng trong cây rất có giá trị cho các chương
trình quản lý phân bón và có thể dùng để giúp khuyến cáo cho việc bón phân. Bởi vì có nhiều
phản ứng sinh học và hóa học xảy ra trong phân bón và trong đất, nên hàm lượng chất dinh
dưỡng hấp thu bởi cây trồng thường không tương ứng với hàm lượng phân bón được bón vào.
Sự quản lý phân bón thích hợp có thể làm tăng tối đa tỉ lệ chất dinh dưỡng trong phân được
hấp thu bởi cây trồng (tăng hiệu quả bón phân). Cây trồng hấp thu chất dinh dưỡng từ đất để
sinh trưởng và phát triển, sau khi hoàn thành chu kỳ sống của chúng khi chết đi các chất dinh
dưỡng dư thừa trong cây trồng sẽ được trả lại cho đất. Các chất dinh dưỡng này trải qua các
phản ứng sinh học và hóa học tương tự như là các chất dinh dưỡng trong phân bón. Mặc dù
chu kỳ này có thể khác nhau giữa các chất dinh dưỡng, nhưng việc nghiên cứu các động thái
dinh dưỡng trong hệ thống đất – cây trồng – khí quyển là rất cần thiết để quản lý chế độ phân
bón hợp lý.
17
3 Chức năng của các chất dinh dưỡng trong cây trồng
3.1 Các nguyên tố đa lượng
3.1.1 Đạm (N)
Hàm lượng đạm trong cây: đạm là chất dinh dưỡng tối quan trọng đối với cây trồng và
là một chất dinh dưỡng thường bị thiếu nhất trong sản xuất nông nghiệp. Cây trồng chứa
khoảng 1 - 5 % N theo trọng lượng khô, một số cây trồng có khả năng cố định nitơ hàm lượng
N có thể lên đến 7 %.
Dạng đạm cây hấp thu: đạm được cây hấp thu dưới dạng các ions NO3- và NH4+ và
dạng urea. Trong đất đủ ẩm, ấm, thoát thủy tốt thì dạng NO3- là dạng chiếm ưu thế trong dinh
dưỡng của cây trồng.
Chức năng của N trong cây: sau khi được rễ cây hấp thu, trước khi NO3- có thể được
sử dụng để tổng hợp protein hay các chất có chứa N, NO3- phải được khử thành NH4+ hay NH3
bên trong cây sự khử NO3- bao gồm hai phản ứng có sự xúc tác của enzyme xảy ra trong rễ
hay trong lá hoặc ở cả hai nơi này, tùy thuộc vào loài thực vật. Vì cả hai phản ứng xảy ra một
cách liên tục nên nitrite (NO2) không tích lũy được.
NH3 hình thành trong phản ứng này được đồng hóa thành rất nhiều amino acids sau đó hình
thành proteins và các nucleic acids. Protein cung cấp một khung cấu trúc cho lục lạp,
mitochondria và các cấu trúc khác trong đó xảy ra hầu hết các phản ứng sinh hóa. Loại protein
được hình thành được kiểm soát bởi mã di truyền chuyên biệt có trong nucleic acids, mã này
quyết định số lượng và sự xắp xếp các amino acids trong mỗi protein. Một trong những
nucleic acids này là deoxyribonucleic acid (DNA) hiện diện trong nucleus và mitochondria
của tế bào, sự nhân đôi các thông tin di truyền trong chromosomes của tế bào cha mẹ cho các
tế bào trong con cái. Ribonucleic acids (RNA), hiện diện trong nucleus và cytoplasm của tế
bào thực hiện việc xây dựng mã bên trong các phân tử DNA. Hầu hết các enzyme kiểm soát
các tiến trình trao đổi chất này là các proteins. Các protein chức năng này không hoàn toàn
bền vững chúng liên tục bị phân giải và tái tổng hợp.
Ngoài vai trò hình thành protein, N còn là thành phần cấu tạo của diệp lục, là tác nhân
chính hấp thu năng lượng ánh sáng cần thiết cho quang hợp. Đơn vị cơ bản của cấu trúc diệp
lục là một hệ thống vòng porphyrin, bao gồm bốn vòng pyrrole, mỗi vòng pyrrole có chứa một
phân tử N và 4 nguyên tử C. một nguyên tử mange đơn được nối ở trung tâm mỗi vòng
porphyrin.
Nếu được cung cấp đầy đủ N, sẽ làm tăng cao hoạt động quang hợp, sự sinh trưởng
mãnh liệt và lá có màu xanh đậm. khi thừa đạm, trong mối quan hệ với các chất dinh dưỡng
khác như P, K và S có thể làm chậm sự chín của cây trồng. tăng cường sự sinh trưởng dinh
dưỡng nhanh ở thời kỳ đầu của mùa vụ có thể là một nhược điểm trong các vùng có ẩm độ đất
là yếu tố giới hạn sự sinh trưởng của cây trồng. Vì nếu có sự khô hạn đầu vụ mà không bổ
sung nước đầy đủ trước giai đoạn đầy hạt có thể làm giảm năng suất.
Sự cung cấp đạm có liên quan đến sự sử dụng carbonhydrate của cây trồng khi cung
cấp không đủ N, carbonhydrate sẽ bị tích tụ trong các tế bào sinh trưởng, làm cho chúng trở
nên dày hơn. Nhưng khi đạm được cung cấp đầy đủ và các điều kiện khác thích hợp cho sự
sinh trưởng proteins sẽ được hình thành từ carbonhydate này. Vì thế càng ít carbonhydrate tích
tụ trong các bộ phân sinh trưởng, càng nhiều nguyên sinh chất được hình thành, và bởi vì
nguyên sinh chất có tính thủy hợp cao, nên cây càng mọng nước hơn.
Nhưng sự mọng nước quá lớn trong một số cây trồng có thể gây ảnh hưởng bất lợi.
Với bông vải có thể làm cho sợi bị yếu và với các cây trồng lấy hạt, có thể xảy ra sự đổ ngã,
nhất là khi cung cấp kali thấp, hay đối với giống không thích ứng được với mức độ phân bón
cao. Trong một số trường hợp sự mọng nước cao có thể làm cây trồng mẫn cảm hơn với sự tấn
công của sâu bệnh. Các cây như: lúa gạo, lúa mì, chiều cao cây sẽ cao hơn ở mật độ dày và ở
mức độ bón phân đạm cao. Nhưng chiều cao cây thấp và cải tiến sức chống đổ ngã đã được lai
tạo, điều này đáp ứng được sự bón phân đạm cao hơn nhiều so với trong quá khứ.
18
Ảnh hưởng của sự thiếu đạm: khi cây trồng thiếu đạm chúng trở nên cằn cỗi, màu vàng
xuất hiện trên lá. Sự mất protein trong lục lạp lá già hình thành nên màu vàng hay bệnh úa
vàng lá (hoại tử) là chỉ thị của sự thiếu đạm. hoại tử thường xuất hiện đầu tiên trên những lá
dưới thấp các lá bên trên vẫn còn màu xanh, nhưng khi thiếu đạm nghiêm trọng thì các lá ở
bên dưới biến thành màu nâu và chết. Các vết úa vàng này bắt đầu ở chóp lá và tiến triển dài
theo phần thịt lá cho đến khi toàn bộ lá bị chết.
Xu hướng chung là các lá bên trên vẫn còn màu xanh trong khi các lá bên dưới bị vàng
chết, điều này cho thấy có sự di chuyển của đạm bên trong cây. Khi rễ không hấp thu đủ đạm
để thỏa mãn nhu cầu sinh trưởng, protein trong các bộ phận của cây sẽ chuyển hóa thành đạm
hòa tan, vận chuyển đến các mô sinh trưởng đang hoạt động và được tái sử dụng để tổng hợp
các protein mới.
19
Bảng 2.4 các tiến trình liên quan và dòng vận chuyển liên quan đến ATP
Vận chuyển màng Sự hình thành thế năng của màng
Dòng chảy trong cytoplasm Hô hấp
Quang hợp Sinh tổng hợp cellulose, pectin,
hemicellulose và lignin
Sinh tổng hợp protein Sinh tổng hợp lipid
Sinh tổng hợp phospholipod
Tổng hợp các nucleic acids Sinh tổng hợp iso prenoid steroid và
gibberellins
20
Sự chuyển vị đường từ lá đến các bộ phận khác của cây sẽ bị giảm khi cây bị thiếu K.
ví dụ, tốc độ chuyển vị bình thường trong lá mía xấp xỉ 2,5 cm/phút, tuy nhiên tốc độ này chỉ
bằng ½ trong những cây thiếu K.
Sự hấp thu đạm và tổng hợp protein: tổng lượng đạm hấp thu và sự tổng hợp protein sẽ
giảm trong cây thiếu K, chỉ thị này biểu hiện bằng tổng lượng amino acid hình thành. Điều
này do có sự liên quan đến K trong sự hình thành ATP cho cả hai tiến trình này.
Ảnh hưởng của K đến sự gia tăng năng suất cây ngũ cốc chủ yếu là do gia tăng trọng lượng
hạt. Ảnh hưởng này là do tăng khả năng quang hợp hay do sự kéo dài thời gian sống của lá
đòng.
Khi thiếu K các triệu chứng thiếu hụt sẽ xuất hiện trên cây. Các triệu chứng thiếu K
tiêu biểu gồm các đốm trắng trên mép lá, hoại tử và chết các mép lá xuất hiện trên bắp, cây họ
đậu và các cây họ hòa thảo khác.
Vì K có tính di động trong cây, nên các triệu chứng thiếu thường xuất hiện đầu tiên
trên các lá dưới, phát triển dần đến các lá bên trên nếu thiếu K nghiêm trọng. Sự thiếu K cũng
có thể biểu hiện trên các lá non ở các giống có tiềm năng năng suất cao, có quá trình chín
nhanh như bông vải lúa mì. Một triệu chứng thiếu K khác là rơm rạ cây ngũ cốc bị yếu, dễ đổ
ngã. Sự thiếu K làm giảm năng suất cây trồng rất lớn. Trên thực tế, năng suất cây trồng có thể
bị giảm nghiêm trọng khi không có triệu chứng thiếu K, hiện tượng này gọi là “hidden
hunger”
Bảng 2.5 Ảnh hưởng của dinh dưỡng K đến các yếu tố cấu thành năng suất của lúa mì
(trung bình của giống)
Yếu tố cấu thành Sự đáp ứng tương đối do tăng dinh dưỡng K
năng suất Thiếu Thiếu nhẹ Đủ Cao
Năng suất hạt 100 143 199 225
Trọng lượng bông 100 132 181 192
Số gié/ bông 100 109 111 112
Số bông / bụi 100 101 99 105
Sự thiếu K có thể làm tăng mức độ phá hoại của các bệnh do nấm, vi khuẩn gây ra, sự phá hại
của côn trùng và mối, sự lây nhiễm của virus và tuyến trùng .
21
3.2.2 Magnesium (Mg)
Cây trồng hấp thu magnesium ở dạng Mg2+, nồng độ của magnesium trong cây trồng
biến thiên từ 0,1- 0,4 %. Tầm quan trọng của magnesium đối với cây trồng rất rõ ràng, vì
magnesium là cấu trúc chính của diệp lục, nếu không có diệp lục thì các cây xanh tự dưỡng sẽ
không có khả năng thực hiện quang hợp, hàm lượng Mg trong chlorophyll thường chiếm 15 –
20 % tổng lượng Mg trong cây.
Magnesium cũng có tác dụng như là thành phần cấu trúc của ti thể (ribosome) ổn định
ti thể trong hình dạng cần thiết cho sự tổng hợp protein. Khi thiếu magnesium thì tỉ lệ N trong
protein trong cây giảm và hàm lượng N không protein tăng.
Magnesium có liên quan đến một số chức năng sinh lý và sinh hóa của cây.
Magnesium có liên quan đến các phản ứng vận chuyển bao gồm các nhóm P. magnesium cần
thiết để cho hoạt động tối đa của hầu hết các enzyme phosphoryl hóa trrong trao đổi chất
carbonhydrate. Hầu hết các phản ứng có liên quan đến sự vận chuyển P từ ATP đều cần có
Mg. Bởi vì tiến trình cơ bản của sự vận chuyển năng lượng xảy ra trong quang hợp tổng hợp
glycine, chu trình tricarboxylic acid (chu trình Krebs) và hô hấp, magnesium có vai trò quan
trọng trong toàn bộ các quá trình trao đổi chất của cây trồng.
Vì tính di động của phần lớn Mg2+ trong các cây và magnesium dễ dàng chuyển vị từ
các phần già đến các phần non, do đó triệu chứng thiếu Mg thường xuất hiện trước trong các
lá bên dưới. Trong nhiều loài cây, sự thiếu Mg2+ dẫn đến bệnh úa vàng ở phần thịt lá, chỉ còn
các gân lá có màu xanh, dần dần mô lá trở nên vàng tối đồng nhất sau đó nâu và chết. Trong
một số loại cây khác, các lá bên dưới có thể hình thành màu đỏ tía, dần dần biến thành màu
nâu và chết.
22
S là một phần tối quan trọng của ferrodoxins, 1 loại protein Fe-S hiện diện trong lục
lạp (chloroplast). Ferrodoxin tham gia trong quá trình oxi hóa khử bằng cách vận chuyển điện
tử và có vai trò quan trọng trong sự khử nitrate, khử sulfate, đồng hóa N2 bởi vi khuẩn nốt sần
và các vi khuẩn sống tự do trong đất cố định đạm.
Sulfua hiện diện trong các hợp chất bay hơi là nguyên nhân gây ra các mùi vị đặc trưng của
cây trồng trong các họ mù tạc và hành tỏi. Sulfua làm tăng cường sự hình thành dầu trong các
cây lấy dầu như cây đậu nành và cây lanh.
Thiếu S có thể làm đình trệ sự sinh trưởng của cây và có đặc điểm là toàn bộ cây đều
bị úa vàng, cằn cỗi, thân mỏng và mảnh khảnh. Trong nhiều loại cây trồng các triệu chứng này
tương tự như các triệu chứng thiếu N và chắc chắn là sẽ dẫn đến lầm lẫn trong chuẩn đoán.
Tuy nhiên, không như N, S dường như không dễ dàng chuyển vị từ các bộ phận non như N, vì
thế, các triệu chứng thiếu S thường xảy ra ở các lá non trước.
Các cây họ thập tự thiếu S, như cải bắp và cải dầu, đầu tiên sẽ hình thành một màu hơi
đỏ trên mặt dưới của lá. Trong cải dầu, các lá bị cuốn ngược vào trong. ở bắp cải, khi sự thiếu
S tiến triển, màu đỏ hay màu tía xuất hiện trên cả 2 mặt lá; các lá bị cuốn ngược vào trong, thể
hiện bề mặt bị lõm trên mặt trên. Màu tối hơn hoa bình thường và hạt bị hư hại nghiêm trọng
cũng cho thấy đặc tính của các triệu chứng thiếu S trong cải dầu.
23
- Điều chỉnh trao đổi chất carbohydrate.
Mặc dù chúng ta chưa giải thích chính xác vai trò của boron trong cây trồng nhưng vai
trò của boron đối với cây rất khác nhau, thường cây trồng nông nghiệp có nhu cầu boron rất
thấp cho sự sinh trưởng. Mặc dù boron rất cần thiết cho thực vật bậc cao, nhưng boron lại
không phải là nguyên tố cần thiết cho động vật, nấm và vi sinh vật.
24
mạch, đốm vàng trên đậu, củ cải đường. Lúa mì có hàm lượng manganese thấp thường mẫn
cảm với bệnh thối rễ.
Có mối quan hệ giữa manganese với quang hợp, thông qua hàm lượng O2 được giải
phóng. Manganese cũng tham gia một phần trong các tiến trình oxy hóa khử và trong các phản
ứng khử carbon và thủy phân. Manganese cũng có thể thay thế Mg2+ trong nhiều phản ứng
phosphorin hóa và chuyển nhóm.
Mặc dù không có nhu cầu riêng biệt, manganese cần thiết cho sự hoạt động tối đa của
rất nhiều phản ứng enzyme trong chu trình citric acid. Trong các hệ thống enzyme, manganese
cũng có hiệu quả như Mg trong việc làm tăng cường sự chuyển hóa của các enzyme.
Manganese cũng ảnh hưởng đến hàm lượng auxin trong cây khi hàm lượng manganese cao có
thể thích hợp cho quá trình phá vỡ indoleacetic acid.
Hàm lượng manganese cao có thể gây tổn thương cho cây. Lá bông vải bị gấp nếp
nhăn nheo, là do ngộ độc manganese, thường thấy trên các loại đất vàng đỏ chua. Sự ngộ độc
manganese cũng xuất hiện ở thuốc lá, đậu nành cây ăn quả và cải dầu trồng trên đất rất chua.
Bón vôi làm tăng pH của các loại đất này có thể khắc phục được sự ngộ độc này.
25
Sự thiếu kẽm thường được xác định bởi các triệu chứng có thể nhìn thấy rõ ràng xuất
hiện thường xuyên trên lá. Đôi khi sự thiếu kẽm này cũng xuất hiện trên quả, cành hay xuất
hiện trong suốt quá trình phát triển của cây. Các triệu chứng phổ biến trên cây trồng như sau:
- Xuất hiện các vùng xanh nhạt, vàng hay trắng giữa các gân lá, đặc biệt là các lá già
bên dưới.
- Mô trong các vùng lá vàng này bị chết.
- Thân hay lóng thân ngắn lại.
- Lá dày, hẹp, nhỏ. Thường lá có dạng không bình thường do chỉ có một phần mô lá
được tiếp tục sinh trưởng.
- Lá rụng sớm.
- Sự hình thành quả không bình thường, quả nhỏ hoặc không hình thành quả được.
Sự thiếu kẽm làm cho lá nhỏ và biến thành màu hồng hay lá bị chùn lại ở ngọn của các
cây ăn quả. Bắp và cao lương khi thiếu kẽm các mầm sinh trưởng bị bạc trắng, bông vải có
triệu chứng là lá nhỏ lại.
Kẽm tham gia rất nhiều hoạt động của các enzyme (metal-enzymes-carbonic,
anhydrase, alcohol dehydrogenase), nhưng vai trò của kẽm chưa được biết là có tác dụng như
là một yếu tố chức năng cấu trúc hay điều chỉnh các hoạt động của các enzyme. Kẽm có vai
trò quan trọng trong sự tổng hợp acid ribonucleic và protein. Kẽm có vai trò quan trọng trong
sự tổng hợp indole acetic acid và triptophan là thành phần của một số protein, là một hợp chất
cần thiết cho sự hình thành các hormone tăng trưởng nhóm auxin. Các cây trồng thiếu kẽm sẽ
làm giảm sự hình thành các hormone tăng trưởng làm cho các lóng ngắn lại và lá nhỏ hơn
bình thường.
26
Chloride không được nhận thấy tham gia trong bất cứ chất trao đổi chất thực sự nào
của thực vật bậc cao. Vai trò chủ yếu của chloride dường như là nằm trong tính chất trơ về
mặt sinh hóa của nó. Tính chất trơ về mặt sinh hóa làm cho chloride tạo ra áp lực thẩm thấu và
làm vai trò trung hòa các ion, vai trò này có thể quan trọng trong các quá trình sinh hóa và
sinh lý của cây. Chloride có thể di chuyển dễ dàng trong các mô cây. Một chức năng có ích
khác của chloride là trung hòa ion K+ trong thời gian cây hấp thu K+ nhanh, vì thế chloride
đóng góp vào tính trương của lá và các bộ phận khác của cây.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng sự héo và mất tính trương của lá là các triệu chứng do
thiếu chloride đã chứng minh chloride là một chất thẩm thấu chủ động. Dinh dưỡng chloride ở
nồng độ cao sẽ làm tăng áp lực nước trong lá và áp lực thẩm thấu của nhựa tế bào trong lúa
mì. Một số tác động tích cực của việc bón chloride đến sự sinh trưởng của cây ngũ cốc là do
cải thiện được các mối quan hệ về chế độ nước trong cây.
Chloride có vai trò nhất định trong sự giải phóng O2 trong quá trình phosphosystem II
trong quang hợp. Chloride có nồng độ cực kỳ cao gần 11 % được phát hiện trong lục lạp.
Sự hấp thu NO3- và SO42- có thể bị giảm do ảnh hưởng đối kháng của chloride. Nồng
độ protein thấp trong lúa mì mùa đông là do nồng độ dinh dưỡng chloride cao là hậu quả đối
kháng rất mạnh giữa Cl- và NO3-.
Nhiều loại bệnh được ngăn chặn bằng cách bón phân chloride. Ví dụ các loại phân có
chứa chloride làm giảm rất mạnh bệnh thối rễ trên lúa mì. Một số ảnh hưởng ức chế của
chloride là do sự hấp thu NO3- bị ức chế và do pH của vùng rễ bị chua, không thích hợp cho
sự phát triển của nguồn bệnh khi cây trồng hấp thu N phần lớn ở dạng NH4+. Ảnh hưởng của
chloride đến áp lực nước bên trong cây cũng là một yếu tố kiểm soát bệnh này, bởi vì nguồn
nấm bệnh gây ra bệnh này phát triển tốt nhất ở áp lực nước cao hay trong điều kiện ẩm. Áp lực
thẩm thấu của nhựa tế bào tăng có thể liên quan đến tính chống chịu này.
Các lá non bị hoại tử và héo toàn bộ cây là hai triệu chứng phổ biến nhất của việc thiếu
-
Cl . Hoại tử một số bộ phận của cây, các lá bị bạc màu, và sự sinh trưởng của rễ giảm có thể
nhận thấy trong các cây thiếu chloride. Nồng độ chloride trong cây < 70 – 700 ppm thường là
chỉ thị thiếu chloride. Thừa chloride cũng có thể gây hại cho cây, các cây trồng khác nhau có
khả năng chống chịu với điều kiện này cũng khác nhau. Thuốc lá, đào, bơ, một số cây họ đậu
rất mẫn cảm với sự thừa chloride. Lá thuốc lá và khoai tây dày hơn và có xu hướng cuộn tròn
lại khi những cây này tích lũy một lượng thừa chloride. Chất lượng của khoai tây bị ảnh hưởng
xấu trong thời gian tồn trữ do thừa chloride.
Nhiều loại cây có thể đáp ứng tốt với việc bón phân Cl- như cà chua, đậu, rau diếp,
carrot, củ cải đường, lúa mạch, lúa mì bắp, khoai tây, đặc biệt kiwi, dừa, cọ dầu có phản ứng
tốt với phân chloride.
27
3.4.3 Vanadium (V)
Với nồng độ thấp của vanadium có thể có ích cho sự sinh trưởng của vi sinh vật, động
vật và thực vật bậc cao. Mặc dù được xem là nguyên tố cần thiết đối với tảo lục Scenedesmus,
nhưng vẫn chưa có những chứng minh rõ ràng vanadium cần thiết cho thực vật bậc cao hay
không. Một số nhà nghiên cứu cho rằng vanadium có thể thay thế một phần Mo trong cố định
đạm của vi sinh vật như Rhizobia. Người ta cũng đưa ra giả thuyết là vanadium có một chức
năng trong các phản ứng oxy hóa khử sinh học. Sự gia tăng sinh trưởng có thể do vanadium đã
được nghiên cứu trên măng tây, lúa, rau diếp, lúa mạch và cải bắp. Nhu cầu vanadium cho cây
trồng < 2 ppb trong trọng lượng khô, trong khi đó nồng độ vanadium trong cây trung bình là 1
ppm.
28
cho dưa chuột trồng trong nhà kính làm tăng năng suất và giảm được bệnh mốc sương cũng
như cải thiện được sinh trưởng và phát triển của cây.
29