You are on page 1of 28

CHƯƠNG 8

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG PHÂN BÓN


BÀI 1: CẢI THIỆN pH ĐẤT CHUA VÀ SỬ DỤNG ĐẤT CHUA

pH đất và các tính chất đi cùng với pH đất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hữu dụng
của các chất dinh duỡng đối với cây trồng và độ phì nhiêu của đất. Vì vậy nghiên cứu về độ
chua và độ kiềm của đất có một tầm quan trọng để quản lý một cách thích hợp khả năng sản
xuất của đất và cây trồng một cách tối hảo.

1 Các khái niệm tổng quát về độ chua và độ kiềm


1.1 Acid-Base
Trong các hệ thống dung dịch, acid được định nghĩa là một chất cho H + đến một chất
khác. Ngược lại một base là chất nhận H+. Một acid khi hoà tan trong nước sẽ ion hoá phân ly
H+ và các anion đi kèm, ví dụ sự phân ly của acetic acid và hydrochloric acid như sau:
CH2COOH  CH2COO- + H+
HCl  Cl- + H+
Khả năng phân ly H+ của một acid mạnh như HCl là 100 %, trong khi đó khả năng phân
+
ly H của một acid yếu như acetic acid chỉ khoảng 1 %.
Các ion H+ (hay độ chua hoạt động) tăng theo lực acid. Khi một acid không phân ly có
nghĩa là acid đó có một độ chua tiềm tàng cao. Tổng độ chua của một dung dịch là tổng nồng
độ acid tiềm tàng và hoạt động. Ví dụ, độ chua hoạt động và độ chua tiềm tàng của một acid
là 0,099 M và 0,001 M. Tổng nồng độ acid là 0,100 M, vì hoạt độ của H + (độ chua hoạt động)
gần bằng với tổng độ chua, nên acid này là một acid mạnh.
Ngược lại, với các acid yếu, hoạt độ của H+ thấp hơn rất nhiều so với độ chua tiềm
tàng. Ví dụ, 0,100 M acid yếu với chỉ 1 % phân ly có nghĩa là hoạt độ của H+ là: 0,1 x
0,01 = 0,001M.
Nước nguyên chất luôn tự phân ly nhẹ:
H2O  H+ + OH-
Ion H+ này sẽ tấn công vào phân tử nước khác để hình thành
H2O + H+  H3O+
Do cả hai ion H+ và OH- đều được hình thành trong dung dịch, nên nước vừa có tính
chất của 1 acid yếu và đồng thời có tính chất của 1 base yếu. Nồng độ của H + (hay H3O+) và
OH- của nước nguyên chất trong điều kiện không cân bằng với CO2 trong khí quyển là 10-7M.
Sản phẩm của nồng độ H+ và OH-, được trình bày trong phương trình sau, là hằng số phân ly
(Kw) đối với nước là:
[H+][OH-] = [10-7][10-7] = 10-14 = Kw
p H của H2O trong trạng thái cân bằng với CO2 trong khí quyển dao động trong
khoảng 5,7, như phản ứng sau đây:

H2CO3
H2O + CO2  H + + HCO3-
Khi cho thêm một acid vào H2O sẽ làm tăng [H ] nhưng [OH-] sẽ giảm vì Kw là một
+

hằng số (10-14). Ví dụ, trong một dung dịch 0,1M HCl, có [H+] là 10-1M vì thế [OH-] là:
Kw = [H+][OH-] = 10-14
[10-1][OH-] = 10-14
[OH-]= 10-13M
1.2 Khái niệm pH
[H+] thường được diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ pH vì cách diễn tả này sẽ thuận lợi
hơn, và pH được định nghĩa như sau:

1
pH = log10 1 / [H+] = -log10[H+]

Từ định nghĩa này ta thấy mỗi khi tăng 1 đơn vị pH sẽ tương ứng với việc giảm10 lần
[H+]. Ví dụ, một dung dịch có [H+] = 10-5 sẽ có pH là 5,0.
Các dung dịch có pH < 7 là các dung dịch có tính chua, và các dung dịch có pH>7
là các dung dịch có tính kiềm, các dung dịch có pH = 7 là các dung dịch trung tính.
pH là thuật ngữ chỉ thể hiện nồng độ H+ trong dung dịch và không đo được độ chua không
phân ly hay độ chua tiềm tàng của dung dịch. Ví dụ, pH của 0,1 M HCl phân ly hoàn toàn là
1,0, ngược lại pH của 0,1M CH2COOH, một acid yếu là 3,0. Tương tự, pH của 0,1 M NaOH,
một base mạnh, là 13,0, trong khi đó pH của 0,1 M NH4OH, một base yếu là 11,0.
Bảng 4.1 Quan hệ giữa pH và nồng độ [H+] và [OH-]
pH Nồng độ
H+ OH-
1 10-1 10-13
2 10- 10-12
3 10-3 10-11
4 10-4 10-10
5 10-5 10-9
6 10-6 10-8
7 10-7 10-7
8 10-18 10-6
9 10-9 10-5
10 10-10 10-4
11 10-11 10-3
12 10-12 10-2
13 10-13 10-1
14 10-14 10-0

Khi các acids và bases kết hợp với nhau, cả hai ion H + và OH- đều bị trung hoà, hình
thành một muối và nước:
HCl + NaOH  H2O + Na+ + Cl-
H+ Cl- Na+ OH-

Nếu 1 lượng acid được chuẩn độ với 1 base và pH của dung dịch được xác định theo
từng quá trình chuẩn độ, chúng ta sẽ thu đường cong trên một đồ thị với trục y là giá trị pH và
trục x là các giá trị lượng base được thêm vào. Đường cong chuẩn độ của các acid yếu và
mạnh khác nhau rất rõ ràng. Ví dụ, phản ứng trung hoà của HCl và NaOH được trình bày
trong phương trình trên, và phản ứng của CH3COOH với NaOH như sau:
CH3COOH + NaOH  H2 O + CH3COO- + Na+

CH3COO- + H+ Na+ OH-

2 Tính đệm pH
Một hệ thống có tính đệm có thể duy trì được pH của dung dịch trong một khoảng
biến thiên nhất định khi 1 lượng nhỏ acid hay base được thêm vào. Khả năng đệm pH được
định nghĩa là khả năng chống lại sự thay đổi đột ngột về pH của hệ thống. Một ví dụ về một
hệ thống đệm là hỗn hợp CH3COOH và CH3COONa.
CH3COOH  H+ + CH3COO-
CH3COONa  Na+ + CH3COO-
Ví dụ, một dung dịch chứa 1 M CH 3COOH có pH là 2, nhưng khi dung dịch ấy có nồng
độ 1M CH3COOH và 1M CH3COONa sẽ có pH là 4.6. Khi cho thêm một muối có tính phân
ly mạnh CH3COONa vào dung dịch chứa CH3COOH, sẽ làm tăng nồng độ của CH3COO-, sự

2
gia tăng nồng độ CH3COO- này sẽ thay đổi sự cân bằng để hình thành CH 3COOH acid không
phân ly. Nhưng chú ý là pH vẫn giữ ở 4,6 ngay cả khi pha loãng dung dịch này gấp 10 lần với
nước; tuy nhiên, khi chỉ pha loãng dung dịch 1M CH 3COOH có thể sẽ làm tăng pH lên 3,0. Vì
vậy, khi cho CH3COONa vào CH3COOH, hổn hợp này sẽ đệm được pH của dung dịch. Hỗn
hợp dung dịch này ta gọi là dung dịch đệm.
Nếu thêm 10 ml 1M HCl vào dung dịch đệm CH 3COOH/CH3COONa, pH sẽ chỉ giảm
đến 4,5, bởi vì khi H+ được thêm vào sẽ làm thay đổi cân bằng CH 3COOH  H+ + CH3COO-
về bên trái và do nồng độ CH3COO- giảm nên CH3COO- sẽ phân ly từ CH3COONa và giải
phóng vào dung dịch (sự cân bằng thay đổi về phía phải CH3COONa  CH3COO- + Na+).
Ngược lại, nếu thêm 10ml 1M NaOH vào dung dịch CH3COOH/CH3COONa, OH- sẽ
trung hoà H+ trong hỗn hợp để hình thành nước. Do có sự cung cấp 1 lượng CH 3COOH acid
không phân ly lớn, nên sự cân bằng sẽ thay đổi về phía phải, để bù đắp lượng H + bị trung hoà;
vì vậy pH chỉ tăng lên đến 4,7.
Đất có tính chất như là 1 acid yếu do CEC của chất mùn và các khoáng sét làm cho
dung dịch đất có tính đệm pH.

3 Đất chua
Khoảng 25 % - 30 % diện tích đất trên thế giới bị chua, phân bố tại các khu vực sản
xuất lương thực quan trọng.

3.1 Nguồn gốc phát sinh độ chua của đất


Nguồn gốc phát sinh độ chua của đất bao gồm chất hữu cơ, các khoáng sét, các oxides
Fe và Al, Al3+ trao đổi, các muối hoà tan, CO2 và khoáng pyrite bị oxi hóa.

3.1.1 Mùn
Chất hữu cơ hay mùn trong đất chứa các nhóm carboxyl và phenol tạo nên các phản
ứng hoá học và có tính chất như các acids yếu. Chúng sẽ phân ly, giải phóng H +. Hàm lượng
chất hữu cơ trong đất thay đổi theo điều kiện môi trường, thảm thực vật, và loại đất; vì vậy
mức độ gây chua của mùn đối với đất sẽ thay đổi tùy theo hàm lượng chất hữu cơ. Trong đất
than bùn và đất khoáng có chứa nhiều chất hữu cơ, các acid hữu cơ góp phần lớn vào việc tạo
nên độ chua của đất.
Chất hữu cơ -C  R-COOH  R-COO- + H+

3.1.2 Các khoáng sét


Các khoáng sét trong đất tiêu biểu là kaolinite (1:1) và montmorillonite (2:1) có thể
đệm pH của đất. Sự phân ly H + từ các “cạnh bị vỡ” của các khoáng sét, các bề mặt của các
oxides Fe, Al, và chất hữu cơ góp phần tạo nên khả năng đệm pH trong đất. Đất có chứa sét
và/hay chất hữu cơ cao sẽ thể hiện khả năng đệm (BC) lớn hơn là đất có sa cấu thô và/hay
chứa chất hữu cơ thấp. Điện tích phụ thuộc pH và BC của các khoáng sét, các oxides Fe, Al,
và chất hữu cơ được diễn tả như sau:
Trên các oxides Fe và Al
OHH+ OH O-
H+ OH-

[Fe, Al] [Fe, Al] [Fe, Al]


OHH+ OH O-
Chua Trung tính Kiềm
Trên các khoáng sét:

3
O O O
Si Si Si
O HH+ H+ OH OH- O
Al Al Al
+
O HH OH O
Chua Trung tính Kiềm
Trên chất hữu cơ:
OH-
RCOOH  RCOO-
Chua Kiềm
OH-
ROH  RO-
Chua Kiềm

3.1.3 Các polymers Fe và Al

Các ions Al3+ được thay thế từ bề mặt hấp phụ của các khoáng sét (CEC) sẽ bị thủy
phân thành các phức hydroxyaluminum. Quá trình thủy phân Al 3+ sẽ giải phóng H+ và sẽ làm
giảm pH dung dịch đất, trừ khi có nguồn OH- trung hoà ion H+ này. Mỗi bước thủy phân tiếp
theo sau sẽ xảy ra ở một pH cao hơn bước trước đó. Các phản ứng sau đây trình bày sự cân
bằng giữa các dạng Al trong đất:
Al3+ + H2O  Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O  Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O  Al(OH)30 + H+
Al(OH)30 + H2O  Al(OH)4- + H+
Nếu thêm một base vào trong đất, H+ trong dung dịch đất sẽ bị trung hoà trước tiên.
Khi tiếp tục cho thêm base vào, Al 3+ sẽ bị thủy phân, và sẽ hình thành H+ với hàm lượng
đương lượng với hàm lượng Al3+ bị thủy phân. Cần chú ý là Al(OH)3 không hoà tan và sẽ kết
tủa ở pH >6.5, khi sản phẩm hoà tan của Al(OH)3 vượt quá mức cân bằng.
Tương tự như H2O, Al3+ cũng là 1 chất lưỡng tính, vừa có tính acid vừa có tính base,
như trình bày trong các phương trình sau:
Al là 1 base:
Al(OH)3 + H+  Al(OH)2+ + H2O
Al(OH)2+ (OH)2+ + H2O
Al(OH)2+ + H+  Al3+ + H2O
Al(OH)3 + 3H+  Al3+ + 3H2O
Al là 1 acid:
Al3+ + OH-  Al(OH)2+
Al(OH)2+ + OH-  Al(OH)2+
Al(OH)2+ + OH-  Al(OH)3
Al là 1 anion:
Al(OH)3 + OH-  Al(OH)4-
Các ion hydroxyl nhôm kết hợp với nhau hình thành nên các polymers mang nhiều
điện tích khác nhau. Quá trình polymer hoá được gia tăng khi có sự hiện diện của các bề mặt
khoáng sét. Cơ chế hình thành các polymers là sự chia sẽ các nhóm OH- trên các khoáng với
các ion Al3+, như trình bày trong các phương trình sau:
Các polymer Al có điện tích (+) chiếm tỉ lệ cao và chủ yếu là dạng không trao đổi.
CEC của đất có thể chịu ảnh hưởng bởi sự hấp phụ của các polymers mang điện tích (+) này.
Ở pH cao, CEC tăng do Al(OH)3 kết tủa và giảm sự hình thành polymer Al mang điện tích (+)

4
hay không có sự hiện diện của các polymer Al. Nhưng khi pH đất giảm sẽ làm tăng sự hình
thành polymer mang điện tích (+), nên làm giảm CEC của đất.

2+ 2+ 4+
OH H2O OH
(H2O)Al + Al(H2O)4 (H2O)4Al A l(H2O)4 +2H2O
H2 O OH OH
2+
O
(H2O)4Al Al(H2O)4 +2H+
O

Sự thủy phân Fe tương tự như sự thủy phân Al như trình bày trong phương trình sau.
Mặc dù phản ứng thủy phân Fe sẽ gây chua cao hơn sự thủy phân Al về mặt nguyên lý, nhưng
độ chua này được đệm bởi các phản ứng thủy phân của Al. Vì vậy, sựï thủy phân của Fe có
ảnh hưởng rất ít đến pH đất cho đến khi phần lớn Al trong đất bị phản ứng thủy phân.
Fe3+ + H2O  Fe(OH)2+ + H+
Các polymers Fe và Al có thể hiện diện dưới dạng các keo vô định hình hay tinh thể,
các keo này che phủ các bề mặt sét và các khoáng khác. Chúng cũng có thể được giữ giữa các
mạng lưới của các khoáng sét có tính trương nở trong đất, ngăn cản sự sụp đổ của các mạng
lưới này khi các khoáng bị mất nước.

3.1.4 Các muối hoà tan


Các muối acid, muối trung tính, hay muối base trong dung dịch đất thường phát sinh
từ sự phong hoá của khoáng, sự phân giải chất hữu cơ, hay do sự bón phân hoá học và phân
hữu cơ của con người. Các cations của các muối này sẽ thay thế các ion Al 3+ hấp phụ trên đất
chua và vì thế làm giảm pH của dung dịch đất (do Al bị đẩy ra ngoài dung dịch). Vì vậy, khi
bón các cations có hoá trị 2 vào đất sẽ làm giảm pH dung dịch đất mạnh hơn so với các
cation kim loại có hoá trị 1 (do lực thay thế Al của các cation hoá trị 2 cao hơn cation hoá trị
1).
Bón phân theo hàng sẽ tạo ra một nồng độ muối hoà tan cao trong vùng đất có bón
phân, nên sẽ làm giảm pH dung dịch đất rất mạnh ngay tại cùng đó do sự thủy phân của Al.
Vì vậy, việc bón phân theo hàng với liều lượng cao trên đất có pH<5,0-5,5, sự chua hoá mạnh
này sẽ gây bất lợi cho sự sinh trưởng của cây trồng.

3.1.5 Carbon dioxide (CO2)


Trong các loại đất đá vôi pH của đất chịu ảnh hưởng bởi hàm lượng CO 2 trong thành
phần khí của đất. pH của loại đất có chứa CaCO 3 trong điều kiện cân bằng với CO 2 trong
không khí khoảng 8,5; tuy nhiên, do nồng độ CO 2 trong thành phần khí của đất thường cao,
nên thực tế pH chỉ biến động trong khoảng 7,3-7,5.
Sự phân giải các dư thừa hữu cơ và sự hô hấp của rễ cây làm gia tăng nồng độ CO 2
trong thành phần không khí của đất, CO2 này sẽ kết hợp với nước để cung cấp H + làm giảm
pH theo phản ứng sau:
H2O + CO2  H2CO3
H2CO3  H+ + HCO3-

3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến độ chua của đất


Độ chua của đất sử dụng trong nông nghiệp ngày càng gia tăng do các yếu tố chính
sau:
- Sử dụng các loại phân hoá học, đặc biệt là phân NH 4+ là loại phân hình thành H+
trong quá trình nitrate hoá.

5
- Cây trồng hấp thu các cations và thải H+vào dung dịch đất theo cơ chế hấp thu trao
đổi
- Sự rửa trôi của các cation này và được thay thế đầu tiên bởi H+ , sau đó là Al3+
- Sự phân giải các dư thừa hữu cơ.
Mức độ hoá chua tự nhiên của đất gia tăng theo sự gia tăng của mưa vì nước mưa
thường có pH: 5,7 hay thấp hơn, phụ thuộc vào hàm lượng các chất ô nhiễm như SO 2, NO2,
và các chất khác trong khí quyển.

3.2.1 Các loại phân gây chua và phân gây kiềm


Các loại phân khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau trong đất. Các loại phân nitrate do
có mang một cation base nên có thể ít hình thành acid trong đất so với các loại phân NH 4+. So
sánh giữa các loại phân lân (P), loại phân P nào có chứa hay sẽ hình thành NH 4-N sẽ có ảnh
hưởng lớn đến pH đất.
Phosphoric acid được giải phóng từ sự hoà tan của các loại phân P như là TSP
(monocalcium phosphate) và MAP có thể gây chua tạm thời cục bộ ở các điểm bón phân. TSP
làm giảm pH đến 1,5, trong khi đó MAP chỉ làm giảm pH đến khoảng 3,5; tuy nhiên , tổng
lượng H+ được hình thành rất thấp và ít ảnh hưởng đến pH đất trong thời gian dài.
Diammonium phosphate (DAP) ban đầu làm tăng pH đến khoảng 8.
Nhưng độ chua được hình thành trong quá trình nitrate hoá NH4+ trong DAP sẽ làm đưa
pH đất trở lại giá trị ban đầu.
Hiệp hội Hoá học Nông nghiệp đã đưa ra phương pháp xác định các loại phân chua và
phân kiềm dựa trên các giả thuyết sau:
1. Tất cả các loại phân bón có chứa S và Cl -, 1/3 của phân P , và ½ của phân N là gây chua
cho đất.
2. Sự hiện diện của Ca, Mg, K, và Na trong phân bón sẽ làm tăng nhẹ hay không làm thay
đổi pH của đất.
3. ½ loại phân N được cây hấp thu dưới dạng ion NO 3-, và các ion đi kèm với hàm lượng
đương lượng của K+, Ca2+, Mg2+, hay Na+. Sự hấp thu 1/2 còn lại có liên quan đến H + và
được xem như là ion trung hoà hay trao đổi với HCO3- giải phóng từ rễ cây trồng.

Bảng 4.2 Độ chua hình thành do các loại phân N


Dư lượng gây chua cho đất
Trung
Tối đa Tối thiểu
Loại phân N Phản ứng Nitrate hoá bình*
Dư Đương lượng Dư Đương Đương
lượng CaCO3 (kg lượng lượng lượng
acid CaCO3/kgN) acid CaCO3 (kg CaCO3 (kg
CaCO3/kgN CaCO3/
kgN
NH3 lỏng NH3(khí) + 2O2  H+ + H+ 50/14=3,6 0 0 1,8
khan NO3- + H2O NO3-
Urea (NH2) 2CO +4O2  2H+ 2H+ 100/28=3,6 0 0 1,8
+2NO3- + CO2 + H2O 2NO3-
Ammonium NH4NO3 + 2O2  2H+ + 2H+ 100/28=3,6 0 0 1,8
nitrate 2NO3- + H2O 2NO3-
Ammonium (NH4) 2SO4 + 4O2  4H+ + 4H+ 200/28=7,2 2H+ 100/28=3,6 5,4
sulfate 2NO3- + SO42- +2H2O 2NO3- SO42-
SO42-
MAP NH4H2PO4 + O2  4H+ + 2H+ 100/14=7,2 H+ 50/14=3,6 5,4
NO3- + H2PO4- + H2O NO3- H2PO4
-
H2PO4
-

DAP (NH4) 2HPO4 + O2  3H+ + 3H+ 150/28=5,4 H+ 50/28=1,8 3,6


2NO3- + H2PO4- +H2O 2NO3- H2PO4
-
H2PO4
-

Giá trị trung bình: áp dụng theo Hiệp Hội Các nhà Hoá Học Phân Tích.
6
Phương pháp này giả định rằng sự sinh trưởng của cây trồng sẽ bị giảm do độ chua
được hình thành bởi quá trình nitrate hoá phân NH4+ và do sự hấp thu các cation và anion
không cân bằng của cây trồng.
Nếu tính cả hàm lượng khá lớn NH4+ được hấp thu trực tiếp bởi cây trồng, xem như
lượng NH4+ này không bị nitrate hoá, 1,8 kg CaCO3 cần để trung hoà sự hoá chua do 1 kg
phân NH4-N gây nên. Nhưng khi không xét đến ảnh hưởng của sự hấp thu không cân bằng
trong tỉ lệ cation/anion, thì cần đến 3,75 kg CaCO 3 để trung hoà sự hoá chua của 1 kg NH 4-N
bị nitrate hoá thành NO3-.

3.2.2 Sự mất đi các cation base


Do các dung dịch có chứa các loại muối luôn phải được trung hoà về mặt điện tích
[bằng nhau trong tổng điện tích (+) và (-)], khi nước rửa trôi xuống bên dưới vùng rễ có chứa
cả hai cation và anion. Nên mỗi 1 kg NO3-N bị rửa trôi sẽ lấy đi theo 7,1 kg CaCO 3 hay một
đương lượng cation khác.
Sự hấp thu cation của cây trồng có thể làm giảm hoặc tăng độ chua của đất được hình
thành do quá trình nitrate hoá NH4+ từ phân bón, từ các chất thải của cây trồng và động vật,
hay trong chất hữu cơ. Sự biến động này được giải thích là do sự khác nhau trong quá trình
hấp thu N và các base của cây trồng. Chỉ số các base hấp thu (EB) được định nghĩa là tổng
các cation hấp thu (Ca2+, Mg2+, K+, và Na+) trừ tổng các anion hấp thu (Cl-, SO42-, NO3-, và
H2PO4-). Các cây có tỉ số EB/N < 1,0 làm giảm độ chua gây ra do quá trình nitrate hoá, ngược
lại các cây có tỉ số EB/N > 1,0 làm gia tăng độ chua này. Chỉ có rất ít cây trồng có giá trị
EB/N > 1,0. Các cây ngũ cốc và họ hoà thảo có tỉ số EB/N trung bình là 0,43 và 0,47, có
nghĩa là chỉ có 43 và 47 % N được hấp thu sẽ gây chua cho đất.

3.2.3 Ảnh hưởng của thời gian


Độ chua của đất không hình thành trong 1 - 2 năm, và khác nhau giữa các loại đất. Sự
hoá chua có thể hình thành trong 5 năm đối với đất cát, hay 10 năm đối với đất thịt, nhưng có
thể 15 năm hay hơn đối với đất thịt pha sét. Độ chua của đất ngày càng gia tăng do việc sử
dụng vôi ngày càng giảm trong nông nghiệp, đồng thời sự sử dụng phân N ngày càng gia
tăng. Một ví dụ về việc sử dụng lâu dài các loại phân NaNO3 , (NH4)2SO4 trong điều kiện có
và không có bón vôi. Với (NH 4)2SO4, pH đất trong lớp đất mặt 15 cm giảm 1,6 - 1,8 đơn vị
sau 32 năm canh tác, so với sử dụng (NH 4)2SO4 nhưng có bón vôi. Với NaNO3 , pH chỉ giảm
0,7-1,0 đơn vị, so với NaNO3 có bón vôi.

Bảng 4.3 Ảnh hưởng của các loại phân N và bón vôi đến độ chua của đất (sau 32 năm canh
tác bông vải - bắp)
Nghiệm thức bón N và vôi pH đất
Loại đất 1 Loại đất 2
0- 15- 30- 45- 0- 15- 30- 45-
15cm 30cm 45cm 60cm 15cm 30cm 45cm 60cm
(NH4)2SO4 4,8 4,8 4,3 4,3 4,8 4,8 4,9 4,9
(NH4) 2SO4 + VÔI 6,2 5,4 4,7 4,6 6,0 5,5 5,3 5,1
NaNO3 5,7 5,5 5,1 5,0 5,8 5,5 5,3 5,1
NaNO3 + VÔI 6,4 6,4 6,3 6,3 6,8 6,6 5,8 5,2
pH ban đầu của 2 loại đất = 6,0
Lượng N bón 40 kg N/ha trong 15 năm đầu, sau đó bón 53 kg N/ha trong 17 năm sau.
Lượng vôi bón hàng năm là 500 kg/ha trong 15 năm đầu, và 800 kg/ha trong 17 năm
kế tiếp.

4 Đất phèn
4.1. Phân bố đất phèn

7
Trên thế giới có khoảng 12,6 triệu ha đất phèn phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển
nghiệt đới và cận nhiệt đới như Achentina, Ấn Độ, Brasil, Hà Lan, Indonesia, Malaysia, Nhật
Bản, Triều Tiên, , Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác.
Ở Việt Nam diện tích đất phèn khoảng 2 triệu ha, phân bố chủ yếu ở hai đồng bằng
lớn là đồng bằng sông Hồng khoảng 200.000 ha, đồng bằng sông Cửu Long khoảng 1,6 triệu
ha, miền đông Nam Bộ khoảng 200.000 ha.
4.2. Nguồn gốc hình thành đất phèn
1.Có sự hiện diện của lưu huỳnh và các hợp chất của lưu huỳnh ( SO 42-, H2S, FeS,
FeS2) ở trong đất do: sự tích luỹ từ xác bả thực vật của rừng ngập mặn và bị phân giải trong
điều kiện yếm khí và lưu huỳnh có trong mẫu chất, trong nước biển xâm nhập vào trong đất.
2. Có chất hữu cơ, có sự hoạt động của các vi sinh vật yếm khí ( Closidium,
Thiobacillus, Thiocidans), các vi sinh vật này khử ion S, SO 42- trong điều kiện yếm khí thành
H2S.
SO42- + 2CH2O 2HCO3 + H2S
3. Có sự hiện diện của sắt, nhôm trong đất (có quá trình Feralit hoá mạnh phân huỷ
keo sét, sắt, nhôm bị rửa trôi và tích tụ ở các vùng đất thấp). Fe thì sẽ tạo thành FeS.H2O
theo quá trình như sau H2S + Fe(OH)3  FeS.nH2O, hay FeS + S  FeS2
4. Trong đất có oxi thâm nhập, pyrite bị oxi hóa do các vi khuẩn phân giải lưu
huỳnh như Thibacillus thiooxidans hình thành nên acid sulfuric
FeS2 + 7/2 O2 + H2O  FeSO4 + H2SO4,
H2SO4 phản ứng mạnh với các khoáng sét trong đất tạo thành muối sunphat gây
hại
Al2O3SiO2 + 3H2SO4  Al2(SO4)3 + Si(OH)4 + H2O
Trong giai đoạn này nếu trong đất có đủ canxi thì thì không sinh ra phèn:
CaCO3 + H2SO4  CaSO4. H2O + CO2, trong đất không có canxi thì quá trình oxi hoá
tiếp tục xảy ra:
5. Khi có sự xuất hiện của oxy, có sự hiện diện của vi khuẩn Thiobacillus
ferroxidans, FeSO4 (Fe2+) sẽ bị oxy hóa thành Fe3+.
FeSO4 + H2SO4+ ½ O2  Fe(SO4)3 + H2O
3+
Và Fe sẽ tác dụng nhanh với FeS2 để hình thành acid sulfuric
FeS2 + 14Fe3+ + 8H2O  15Fe2+ + 16H + 2SO42-
Fe2+ + SO42- + 1/4 O2 + 3/2 H2O + 1/3 K+  1/3 KFe3(SO4)2(OH)6 + H+ + ½ SO42-.
Sản phẩm oxy hóa của khoáng pyrite là khoáng jarosite và acid sulfuric.
Jarosite (KFe3(SO4)2(OH)6 , KAl3(SO4)2(OH)6, NaFe3(SO4)2(OH)6) có màu vàng rơm
là đặc điểm để nhận biết đất phèn và acid sulfuric làm cho đất bị chua.
Khi pH trong đất tăng lên thì KFe3(SO4)2(OH)6  3 FeO.OH + K+ + 3H+ +
2SO42-

4.3. Đặc điểm đất phèn


Đất phèn thường có thành phần cớ giới nặng (tỉ lệ sét từ 50 – 65 %), các tầng sâu bên
dưới thì hàm lượng sét càng tăng, hàm lượng sét cao là do ảnh hưởng của quá trình hình thành
đất này, đây là kết quả của quá trình bồi đắp phù sa. Do trong đất có hàm lượng sét lớn nên
tính co trương của đất này cũng rất lớn, và tỉ trọng đất trung bình 2,5 – 2,7 g/cm 3 , đất phèn ở
miền tây Nam bộ được đánh giá chung là giàu mùn, giàu hữu cơ hàm lượng chất hữu cơ
tương đối cao nhưng do trong điều kiện yếm khí chất hữu cơ kém bị phân giải dẫn đến
hàm lượng mùn trong đất phèn thấp (tỉ số C/N cao, > 25). Hàm lượng canxi, magie trong
đất phèn thấp trừ một số vùng bị phèn mặn. Natri trong đất phèn ở mức trung bình, đặc biệt ở
một số vùng đất phèn tiềm tàng và phèn mặn có Na trao đổi khá cao. Lân trong đất phèn có sự
biến động rất lớn, ở vùng đất phèn hoạt động lân tổng số rất ít, ở vùng phèn ít và phèn mặn có

8
pH cao thì lân tổng số cao hơn, tuy nhiên lân dễ tiêu thì rất ít. Đạm tổng số trong đất phèn
thường từ mức trung bình đến giàu do đất giàu chất hữu cơ, nhưng đạm dễ tiêu ở mức thấp.
Kali trong đất phèn thường từ mức trung bình đến giàu, do kết quả của quá trình bồi đắp phù
sa. Mangan trong đất phèn thường tồn tại ở dang ion Mn 2+, có khả năng di động cao, các
nguyên tố vi lượng khác trong đất phèn ở mức từ nghèo đến rất nghèo. pH của đất phèn có
thay đổi và biến động theo độ ẩm của đất, nhất là đối với đất phèn tiềm tàng, thường pH đất
phèn ở mức thấp (từ chua đến rất chua). Đất phèn có pH thấp (≤ 3,5 ở tầng sinh phèn),
hàm lượng các độc chất (Al3+, Fe2+, SO42-) cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao
nhưng khả năng hữu dụng thấp. Do đất phèn có sa cấu sét và có lượng chất hữu cơ cao
nên có CEC cao và tính đệm cao.
Trong đất phèn hầu hết các vi sinh vật đều không có ích cho quá trình chuyển
hóa chất dinh dưỡng cho cây trồng.

4.4. Phân loại đất phèn


Có rất quan điểm khác khau về phân loại đất phèn, dựa trên chuyên ngành, tính
chất, mức độ gây hại và kinh nghiệm canh tác người ta đưa ra cách phân loại khác
nhau. Về cơ bản, đất phèn được xác định khi trong phẫu diện có sự hiện diện của hai
tầng chuẩn đoán là: tầng sinh phèn và tầng phèn. Đất chỉ có tầng sinh phèn gọi là đất
phèn tiềm tàng, đất có tầng phèn hoặc cả hai tầng (tầng sinh phèn và tầng phèn) gọi là
đất phèn hoạt động. Trong đó, tầng sinh phèn chứa khoáng pyrite, chứa nhiều sét hoặc
hữu cơ, thường ở trạng thái ngập nước hay yếm khí, hàm lượng S > 0,7 %. Tầng phèn
có khoáng jarosite, có pH < 3,5.
Theo phân loại của FAO- UNESCO, nhóm đất phèn gồm 3 đơn vị: đất phù sa
phèn, đất glây phèn và đất than bùn, trong mỗi đơn vị chia thành nhiều đơn vị phụ
khác nhau.
Hiện tại ở Việt Nam, phân loại đất phèn dựa vào hình thái phẫu diện, tính chất
lý, hoá học, địa hình, phát sinh học, thảm thực vật, môi trường và năng suất cây trồng.
Đất phèn ở Việt Nam được chia thành các loại sau: đất phèn hoạt động ( bao gồm đất
phèn nhiều, đất phèn trung bình và ít, đất phèn mặn), đất phèn tiềm tàng (được chia
thành đất phèn có tầng an toàn > 50 cm, tầng an toàn 30 – 50 cm, tầng an toàn < 30
cm), đất phèn đang chuyển hoá (chuyển hoá từ phèn tiềm tàng sang phèn hoạt động, từ
phèn ít sang phèn nhiều một số tác giả còn gọi là đất phèn thuỷ phân), đất phèn tang
bùn (tập trung ở U Minh, Năm Căn phẫu diện lớp thực vật bán phân giải 0 – 40 cm,
lớp than bùn dày 40 -50 cm chứa phèn tiềm tàng hoặc phèn hoạt động, tầng sét tích luỹ
phèn tiềm tàng).
Dựa vào đặc trưng hình thái và kinh nghiệm sản xuất của nhân dân vùng Nam
Bộ chia đất phèn thành nhóm phèn nóng (phèn đỏ) chủ yếu do FeSO 4, Fe2(SO4)3, có
đặc trưng lớp váng có màu vàng cam đến nâu đỏ, loại này ít độc hại so với phèn lạnh.
Nhóm phèn lạnh (phèn trắng) do Al 2(SO4)3, có đặc trưng nước trong suốt, trên đất khô
thì có muối kết tinh màu trắng đến trắng vàng, phèn lạnh gây độc hại hơn so với phèn
nóng. Phèn đen tập trung ở U Minh do lớp hữu cơ trộn lẫn với đất phèn.
4.5. Tác nhân gây hại trong đất phèn
Trong đất phèn chứa các ion Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, H+, Cl-, pyrite, jarosite…, ở
hàm lượng rất cao ở mức ngộ độc đối với cây trồng.
Nhôm: trong dung dịch đất khi pH = 4,1 nhôm sẽ lắng tụ, trong môi trường axit
nhôm có khả năng di động rất mạnh, nồng độ của nhôm trong đất phèn biến động rất
lớn từ phụ thuộc vào pH của đất , từ vài chục ppm đến hàng nghìn ppm. Nhôm tan

9
trong nước sẽ kết hợp với các hạt sét và lắng tụ, nhôm kết hợp với gố sulphat tạo thành
muối Al2(SO4)3 gây độc đối với động vật thuỷ sinh.
Sắt: trong đất phèn sắt ở dạng ion Fe2+ và Fe3+, Fe2+ , dễ tan trong nước, trong
môi trường axit di động mạnh pH< 3,5, khi pH > 4,5 thì Fe(OH) 2 lắng xuống, trong
điều kiện oxy hoá Fe2+ sẽ chuyển thành Fe3+, Fe3+ kém linh động hơn Fe2+ và ít gây độc
hơn.
Lưu huỳnh (S) và SO42-: là nguyên nhân gây ra đất phèn, là cơ sở để đánh giá
là đất phèn hay không, theo một số tài liệu hàm lượng lưu huỳnh trong đất ≥ 0,7 %
được xem là đất phèn. Trong đất lưu huỳnh có thể ở dạng tự do (S) ở dạng FeS, FeS 2 hoặc
ở dạng gây độc cho cây như H 2S, SO3, SO2, SO42- và các hợp chất của nó như jarosite, H 2SO4.
Hàm lượng S trong đất phèn dao động từ 1 – 4 %, một số nơi có quá trình tích luỹ lâu dài lên
đến 5 – 6 %.
Pyrite: là hợp chất của lưu huỳnh và sắt, là sản phẩm của các vi sinh vật yếm khí,
trong điều kiện ngập nước, có nhiều chất hữu cơ, pyrite được tích luỹ rất chậm (trong 100
năm tích tụ 10 kg pyrite/1m3 đất). Khi pyrite bị oxi hoá sẽ tạo ra axit gây chua cho đất, gây
hại cho cây trồng vật nuôi, con người và môi trường.
Jarosite: là kết quả quá trình loxi hoá suphite và pyrite, khi xuất hiện jarosite trong
đất thì pH đã thấp, gây hại cho cây trồng.
Hydro: trong đất phèn sự tồn tại của ion H+ ở nồng độ cao (pH< 3) cũng có thể gây
hại cho cây trồng.
Clo: trong đất phèn hoạt động thì hàm lượng Cl- ít (<0,1%) nhưng ở đất phèn mặn và
phèn tiềm tàng thì hàm lượng Cl- còn rất cao gây hại cho cây trồng
4.5. Quản lý, cải tạo và sử dụng đất phèn
4.5.1. Biện pháp thuỷ lợi
Xây dựng hệ thống thuỷ lợi để kiểm soát lũ ( kênh Vĩnh Tế, T4, T5, T6), chủ động
nước tưới tiêu, cải tạo các vùng đất phèn.
- Dùng nước lũ cải tạo đất phèn ( tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười)
- Dùng nước ém phèn
- Dùng biện pháp tiêu ngầm ( ngăn nước ngầm mao dẫn lên lớp đất mặt, làm
tăng khả năng thấm theo chiều thẳng đứng của nước)
4.5.2. Biện pháp hoá học: bón các vật liệu chứa vôi để cải tạo đất phèn
4.5.3.Biện pháp cơ học: lên liếp rửa phèn
4.5.4.Biện pháp canh tác: trồng cây phân xanh để hạn chế tác hại của đất phèn, lựa chọn
giống cây trồng chịu phèn hay kháng phèn.

5 Đất là một hệ thống có tính đệm


Đất có tính chất như là một acid yếu nên có tính đệm pH. Trong các loại đất chua, Al3+
hấp phụ trên bề mặt keo đất sẽ duy trì sự cân bằng với Al 3+ trong dung dịch đất, trong dung
dịch Al3+ bị thủy phân để hình thành H+.
Nếu H+ được trung hoà bởi 1 base và Al3+ trong dung dịch bị kết tủa dưới dạng
Al(OH)3, Al3+ trao đổi trên bề mặt keo đất sẽ được giải phóng để tái cung cấp Al 3+ cho dung
dịch. Vì thế, pH dung dịch đất vẫn được duy trì hay được gọi là pH đất có tính đệm. Nếu base
được tiếp tục thêm vào, phản ứng trên sẽ tiếp tục, càng nhiều Al 3+ hấp phụ được trung hoà và
được thay thế trên CEC bởi các cation của base bón vào. Kết quả là pH sẽ tăng dần.

Al3+
Ca2+
Sét Mg2+  Al3+ + H2O  AlOH2+ + H+
K+
Al3+
10
Phản ứng trên cũng xảy ra theo hướng ngược lại. Khi thêm một lượng acid vào một
loại đất trung tính, OH- trong dung dịch đất sẽ được trung hoà bởi H+ của acid, Al(OH)3 hoà
tan dần nên làm tăng nồng độ Al3+ trong dung dịch và sau đó là trên CEC. Nếu phản ứng tiếp
tục xảy ra, pH dung dịch đất vẫn sẽ tiếp tục tăng nhưng với tốc độ rất chậm vì Al 3+ thay thế
các cation base hấp phụ.
Tổng hàm lượng sét và chất hữu cơ trong đất và bản chất của các khoáng sét sẽ quyết
định mức độ đệm của đất. Các loại đất có hàm lượng sét và chất hữu cơ cao sẽ có tính đệm
cao, nhưng khi muốn nâng pH đất cần phải bón 1 lượng vôi lớn hơn rất nhiều so với các loại
đất có tính đệm thấp hơn. Các loại đất cát có hàm lượng sét và chất hữu cơ thấp sẽ có tính
đệm kém và chỉ cần 1 lượng vôi thấp có thể thay đổi pH nhanh chóng. Các loại đất chứa phần
lớn sét 1:1 (Ultisols và Oxisiols) thường có khả năng đệm thấp so với các loại đất chứa chủ
yếu các khoáng sét 2:1 (Alfisols và Mollisols).

5.1 Xác định độ chua hoạt động và độ chua tiềm tàng trong đất
5.1.1 Độ chua hoạt động (hiện tại)
Phương pháp tương đối chính xác nhất và được dùng rộng rãi để xác định pH là đo pH
bằng pH kế với điện cực thủy tinh trong 1 hỗn hợp đất nước. pH đất là 1 chỉ thị sự hiện diện
của Al3+ và H+ trao đổi. H+ trao đổi hiện diện ở pH < 4, trong khi Al 3+ trao đổi chủ yếu hiện
diện ở pH: 4 - 5,5. Các polymers Al hiện diện trong khoảng pH: 5,5 - 7,0.
Khi đất bão hoà được pha loãng đến tỉ lệ đất : nước từ 1:1 đến 1:10, thường giá trị pH
đo sẽ tăng so với pH được đo trong dung dịch bão hoà. Để tối thiểu hoá ảnh hưởng của nồng
độ muối trong các loại đất, 1 số phòng phân tích thường dùng dung dịch loãng 0,01 M CaCl 2
thay vì dùng nước. Ca2+ thêm vào sẽ làm giảm pH so với đất được pha loãng với nước. pH đo
trong các dung dịch muối loãng thường biến động rất nhỏ, khoảng 0,1 - 0,5 đơn vị.

5.1.2 Độ chua tiềm tàng


pH đất là một chỉ thị rất tốt phản ánh đất chua hay kiềm; tuy nhiên, vì là biểu thị độ
chua hoạt động, nên pH đất không xác định được độ chua tiềm tàng của đất. Để định lượng
hoá độ chua tiềm tàng của đất, ta phải chuẩn độ đất với một base, độ chua tiềm tàng này có
thể dùng để xác định nhu cầu bón vôi hay hàm lượng CaCO 3 cần thiết để làm tăng pH đất đến
một giá trị thích hợp cho sự sinh trưởng của cây trồng. Vì thế, nhu cầu vôi của đất không chỉ
có quan hệ đến pH đất mà còn quan hệ với khả năng đệm hay CEC của đất. Đất có hàm lượng
sét và/hay chất hữu cơ cao có khả năng đệm cao sẽ có nhu cầu vôi cao, ngược lại, đất có hàm
lượng sét và /hay chất hữu cơ thấp có khả năng đệm thấp và có nhu cầu vôi thấp.
Một ví dụ tính toán nhu cầu vôi đối với 2 loại đất có CEC=20 meq/100 g và 10
meq/100 g như sau:
Đất sét: CEC = 20 meq/100 g
pH ban đầu= 5,0 và % độ bảo hoà base (BS) ban đầu= 50 %
pH cần đạt được = 6,5 và % độ bảo hoà base=80 %.
Cần phải trung hoà 30 % độ chua trên CEC (80-50 %); vậy,
(0,30) (20 meq/CEC) = 6,0 meq acids = 6,0 meq CaCO3
100 g đất 100 g đất 100 g đất
Vậy, lượng vôi nguyên chất cần là:
6,0 meq CaCO3 (50 mg CaCO3) = 300 mg CaCO3
100 g đất meq 100 g đất
Do đó,
300 mg CaCO3 (1.000 g) = 0,30 g CaCO3 = 0,30 kg CaCO3
100 g đất mg 100 g đất 100 kg đất
0,30 kg CaCO3 (2x104) = 6000 kg CaCO3
100 kg đất (2x104) ha- lớp đất cày

11
Đất thịt pha cát: CEC = 1 meq/100 g
Giả sử là đất này có pH ban đầu và pH muốn nâng lên cùng độ bảo hoà base giống
như đất sét tính toán trên, thì lượng CaCO3 cần thiết sẽ là 3.000 kg CaCO3/ha lớp đất cày.

5.1.3 Xác định nhu cầu vôi của đất


Nhu cầu vôi của đất có thể được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau. Chuẩn
độ đất với một acid hay một base sau đó tính toán lượng acid hay base cần thiết để làm giảm
hay tăng pH đất. Chất base thường được sử dụng là Ca(OH) 2 và acid thường là HCl. Sau khi
cân bằng, pH được xác định và các giá trị pH này được vẽ lên 1 đồ thị với trục tung là giá trị
pH và trục hoành là hàm lượng meq acid hay base được cho vào đất. Từ các số liệu này ta có
thể dễ dàng xác định được nhu cầu vôi của đất nhằm đưa pH đến một giá trị mong muốn.
Ví dụ, để tăng pH từ 5,7 đến 6,5 cần bón 1,0meq base/100 g đất. Vậy lượng vôi
nguyên chất CaCO3 cần để làm tăng pH từ 5,7 đến 6,5 sẽ là:
1,0 meq CaCO3 (5 mg CaCO3) = 5 mg CaCO3
100 g đất meq 100 g đất
= 1.000 kg CaCO3/ha-15 cm
Dung dịch đệm đơn giản của Shoemaker, McLean, và Pratt (SMP) được sử dụng rộng
rãi để xác định nhu cầu vôi của đất chua. Dung dịch đệm là một hỗn hợp có nồng độ loãng
của triethanolamine, paranitrophenol, và K-chromate. Phương pháp SMP đặc biệt thích hợp
cho đất có các tính chất sau: nhu cầu vôi > 4 meq/100 g đất (> 4.000 lb/a), pH< 5,8, chất hữu
cơ < 10 %, và có hàm lượng Al hoà tan cao. Nhưng đối với đất có nhu cầu vôi thấp, phương
pháp SMP thường cho kết quả bón vôi cao hơn so với nhu cầu vôi thực tế.
Trong các loại đất rất chua, nhu cầu vôi có thể dựa trên cơ sở tính toán lượng CaCO 3
cần thiết để làm giảm hàm lượng Al trên CEC. Ví dụ, người ta khuyến cáo bón 1 tấn CaCO 3
cho mỗi 1meq Al3+ trao đổi/100 g đất. Ở một số nước, hàm lượng vôi cần để trung hoà Al trao
đổi được xác định như sau:
Meq CaCO3/100 g đất = 2 x meq Al trao đổi/100 g đất.
Những nghiên cứu khác cho thấy hàm lượng vôi được khuyến cáo sử dụng biến thiên
trong khoảng 1,1- 6,7 tấn CaCO3/ha-lớp đất cày.

5.2 pH đất và sản xuất cây trồng


Trong quá khứ, pH khoảng 6,5 - 7,0 được xem là tối hảo cho sản xuất cây trồng; tuy
nhiên, thực tế chỉ cần bón vôi đủ để nâng pH lên khoảng 5,6 – 5,7 và làm giảm Al 3+ trao đổi
xuống < 1 % của CEC sẽ làm hạn chế rất lớn những vấn đề gây ra do độ chua của đất có liên
quan đến sản xuất cây trồng. Chú ý là bón vôi cho đất Ultisols và Oxisols đến pH 7,0, có thể
làm hạn chế khả năng sản xuất do các nguyên nhân sau:
- Làm giảm tính thấm của đất.
- Làm giảm sự sinh trưởng của cây trồng.
- Hạn chế sự hấp thu P và 1 số nguyên tố vi lượng khác của cây trồng.
Làm giảm Al3+ hoà tan đến < 1 ppm được khuyến cáo cho các cây trồng mẫn cảm với
độ chua. Trên đất Alfisols và Mollisols, bón vôi nâng đến pH 6,5 - 6,8 sẽ tối hảo cho hầu hết
các loại cây trồng, ngoại trừ cây họ đậu được khuyến cáo nên bón đến pH 6,8 - 7,0.
Các cây trồng khác nhau có tính chống chịu với đất chua khác nhau.
Bảng 4.4 pH tối hảo đối với 1 số cây trồng

pH đất Cây trồng


<5,0 Khoai mì
4,5 – 7,5 Cà phê, cỏ kudzu
5,0 - 5,5 Dâu tây, khoai tây, thuốc lá
5,5 - 6,5 Bắp , Lúa mì, Lúa mạch, gừng, ổi, mít, xoài, tiêu,
chôm chôm, dứa, các cây họ đậu, cây phân xanh
6,0 – 7,0 Chuối, cacao, nho, đậu phụng, lúa nước, đậu nành,
12
đậu bắp, bắp cải, cải bông
6,0 – 8,0 Tảo, bơ, bắp, mía

5.3 Các vật liệu có chứa vôi


Các vật liệu được sử dụng phổ biến để cung cấp vôi cho đất là Ca và/hay Mg oxides,
hydroxides, carbonates, và silicates. Các anion đi kèm trong vôi phải có đặc tính làm giảm
hoạt độ H+ và Al3+ trong dung dịch đất. Gypsum (CaSO 4.2H2O) và các muối trung tính khác
không thể trung hoà H+ như phản ứng sau:
CaSO4.2H2O + 2H+  Ca2+ + 2H+ + SO42- + 2H2O.
Thực ra khi bón các muối trung tính vào đất sẽ làm giảm pH đất. Đặc biệt là khi bón
theo hàng, do vôi thay thế Al3+ hấp phụ trong đất, vì vậy, đôi khi bón các loại muối trung tính
làm giảm pH đất cục bộ một cách đáng kể.

Bảng 4.5 Giá trị trung hoà (CCE) của 1 số loại vôi nguyên chất
Loại vôi Trọng lượng Trọng lượng Giá trị trung Hàm lượng
phân tử đương lượng hoà (%) Ca
(g/mole) (g/eq)
CaO 56 28 179 71
Ca(OH) 2 74 37 135 54
CaMg(CO3)2 184 46 109 22 (13 % Mg)
CaCO3 100 50 100 40
CaSiO3 116 58 86 46

Các phản ứng khi bón vôi vào đất, bắt đầu là sự trung hoà H + trong dung dịch đất do
cả ion OH- hay HCO3- có trong vôi. Ví dụ, CaCO3 có tính chất như sau:
CaCO3 + H2O  Ca2+ + HCO3- + OH-
Tốc độ của phản ứng có quan hệ trực tiếp đến tốc độ các ion OH - bị mất đi (trung hoà)
trong dung dịch. Khi có đủ ion H+ trong dung dịch đất, Ca2+ và HCO3- sẽ tiếp tục được phân ly
từ CaCO3 và đi vào dung dịch. Tuy nhiên khi nồng độ ion H + trong dung dịch giảm, sự hình
thành ion Ca2+ và HCO3- cũng bị giảm tương ứng.
H+ tiếp tục bị mất đi khỏi dung dịch đất nên kết quả cuối cùng là sự kết tủa của Al 3+ và
Fe dưới dạng Al(OH)3 và Fe(OH)3 và sự thay thế chúng trên CEC bởi Ca2+ và/hay Mg2+.
3+

Phản ứng tổng hợp của sự trung hoà Al trong đất chua có thể được viết như sau:
Al3+ K+
Ca2+ Ca2+
Sét Mg2+ + CaCO3 + 3H2O  Sét Ca2++2Al(OH)3+ CO2
K+ Mg2+
Al3+ Ca2+
Ca2+
5.3.1 Calcium Oxide
Calcium oxide (CaO) còn được gọi là vôi sống, vôi nung. CaO có dạng bột màu trắng,
được đóng bằng các bao giấy do CaO có tính ăn da. Được sản xuất bằng cách nung CaCO 3
(đá vôi) trong lò nung, nhằm đẩy khí CO2 ra. CaO là là vôi hữu hiệu nhất, có giá trị trung hoà
hay đương lượng (equivalent) Calcium carbonate (CCE) là 179%, so với CaCO3 nguyên chất.
Nhưng trong trường hợp bón không cần thiết phải có hiệu quả nhanh, cả hai chất loại vôi CaO
hay Ca(OH)2 đều có thể sử dụng được. Nhưng vấn đề khó khăn trong sử dụng vôi là việc trộn
đều vôi trong đất, vì ngay sau khi bón vào đất vôi hấp thụ nước rất nhanh và hình thành dạng
hạt nhỏ hay vữa. Các hạt này có thể bị hoá cứng do sự hình thành CaCO 3 trên bề mặt chúng,
dạng CaCO3 này có thể tồn tại một thời gian rất dài trong đất.

5.2.3 Calcium Hydroxide


13
Calcium hydroxide [Ca(OH)2] thường được gọi là vôi chết, vôi tôi, có dạng bột màu
trắng. Có hiệu lực nhanh trong khả năng trung hoà độ chua của đất. Vôi tôi được sản xuất
bằng cách cho CaO ngậm nước và có giá trị trung hoà (CCE) là 136 %.

5.2.4 Calcium và Calcium-Magnesium Carbonates


Calcium carbonate (CaCO3) hay calcite và calcium-magnesium carbonate
[CaMg(CO3)2] hay dolomite là những chất chứa vôi được sử dụng phổ biến. Đá vôi phần lớn
được khai khác từ các mỏ đá vôi. Chất lượng đá vôi phụ thuộc vào mức độ tinh khiết của
chúng. Giá trị trung hoà của đá vôi biến thiên từ 65 -100 %. Giá trị trung hoà của CaCO 3
nguyên chất về mặt lý thuyết được qui ước là 100 %, trong khi đó dolomite nguyên chất có
giá trị trung hoà là 109 %. Tuy nhiên, CCE của phần lớn vôi sử dụng trong nông nghiệp biến
động khoảng 90 – 98 % do luôn có lẫn một số tạp chất.

5.2.5 Marl
Marls là trầm tích của đá vôi, xốp thường lẫn với đất và thường có ẩm độ cao. Trầm
tích marls thường hình thành từng mảng và được phủ bởi bột vỏ sò, ốc.... có giá trị trung hòa
trung bình từ 70 – 90 % tùy thuộc vào hàm lượng sét chứa đựng.

5.3 Giá trị trung hoà hay đương lượng (equivalent) Calcium Carbonate của các vật liệu
có chứa vôi
Giá trị của một loại vôi phụ thuộc vào lượng acid được trung hoà bởi một đơn vị trọng
lượng vôi, nên giá trị trung hoà có liên quan đến thành phần cấu tạo phân tử và độ tinh khiết
của vôi. CaCO3 nguyên chất là mức chuẩn qui ước để xác định giá trị trung hoà các loại vôi
khác, và giá trị trung hoà của CaCO 3 qui ước là 100 %. CCE được định nghĩa là khả năng
trung hoà độ chua của vôi được biểu thị bằng % trong lượng của CaCO3.
Xem các phản ứng sau đây:
CaCO3 +2H+  Ca2+ + H2O + CO2
MgCO3 +2H+  Mg2+ + H2O + CO2
Trong mỗi phản ứng, 1 mole CO 32- sẽ trung hoà được 2 mole H +. Trọng lượng phân tử
gram của CaCO3 là 100 g, trong khi đó trọng lượng phân tử của MgCO 3 chỉ là 84 g; vì vậy,
chỉ với 84 g MgCO3 sẽ trung hòa được một lượng acid tương đương với 100 g CaCO 3. Vì thế,
giá trị trung hoà hay CCE của một trọng lượng bằng nhau của 2 loại vôi trên được tính như
sau:
84 = 100
100 x
x = 119
Vậy khả năng trung hoà của MgCO 3 lớn hơn gấp 1,19 lần CaCO 3 với vùng 1 trọng
lượng; do đó CCE của MgCO3 là 119 %. Ta có thể tính giá trị trung hoà của các loại vôi khác
theo cách tính tương tự.
Thành phần của các loại vôi đôi khi cũng được diễn tả bằng hàm lượng Ca và Mg của
khoáng nguyên chất. Ví dụ, CaCO 3 nguyên chất có chứa 40 % Ca và MgCO 3 nguyên chất
chứa 28,6 % Mg, được tính bằng tỉ lệ của trọng lượng phân tử:
24 g/m Mg x 100 = 28,6 %
84 g/m MgCO3

Để chuyển đổi % Ca thành CCE, ta nhân % Ca với 100/40 hay 2,5; để đổi % Mg thành
MgCO3, nhân % Mg với 84/24 hay 3,5.

5.3.1 Hàm lượng Ca và Mg oxide


Chất lượng của các vật liệu vôi cũng có thể diễn tả bằng đương lượng Ca và Mg dạng
oxide của chúng. Ví dụ, CaCO 3 nguyên chất có chứa 40 % Ca. CaO có trọng lượng phân tử là

14
56, trong đó có nghĩa là O có trọng lượng là 16 g được kết hợp với 40 g Ca. Vì vậy, nếu Ca
trong CaCO3 được diễn tả dưới dạng oxide sẽ chứa (56/100) x 100, hay 56/40 đương lượng
của CaO. Vì vậy, để đổi % CaCO 3 thành % CaO, ta nhân % CaCO 3 với 56/100, hay 0,56. Ta
có thể tính tương tự với các loại vôi có chứa Mg.

5.3.2 Carbonates tổng số


Chất lượng của vôi cũng liên quan đến hàm lượng tổng CO32- chứa trong vôi. Ví dụ,
có 1 loại vôi chứa 78 % CaCO3 và 12 % MgCO3. Tổng hàm lượng CO3 sẽ là 90 %.
Có thể sử dụng tất cả các yếu tố chuyển đổi sao cho tiện lợi trong tính toán và sử dụng.

5.4 Độ mịn của vôi


Hiệu quả trung hoà độ chua của vôi trong nông nghiệp tùy thuộc vào độ mịn của vôi,
do tốc độ phản ứng của vôi phụ thuộc vào diện tích bề mặt tiếp xúc với đất. CaO và Ca(OH) 2
có dạng bột mịn , nên độ mịn không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả trung hoà, nhưng đá vôi
cần phải được nghiền mịn trước khi bón. Khi đá vôi nghiền được trộn đều vào đất, tốc độ
phản ứng sẽ gia tăng theo mức độ mịn của vôi. Các kết quả nghiên cứu về độ mịn của vôi cho
thấy hiệu quả trung hoà của các thành phần thô thấp hơn thành phần mịn theo thời gian ủ
trong đất. Hiệu quả tương đối, dựa trên cơ sở sự thay đổi pH của đất, chịu ảnh hưởng bởi mức
độ thay đổi pH được sử dụng để so sánh.
Hệ số chuyển đổi sử dụng trong tính toán đương lượng trung hoà của các loại vôi.
%CaO = %Ca x 1,40 (56/40= 1.40)
%Ca(OH)2 = %Ca x 1,85
%CaCO = %Ca x 2,50
%MgO = %Mg x 1,67
%Mg(OH) 2 = %Mg x 2,42
%MgCO3 = %Mg x 3,50
%Ca = %Mg x 1,67
%CaCO3 = %Mg x 4,17
%CaCO3 = %MgO x 2,50
%CaCO3 = %MgCO3 x 1,19
Vì giá thành của vôi sẽ tăng theo độ mịn, nên trong thực tế chỉ cần nghiền tối thiểu, có nghĩa
là chỉ cần sản xuất các loại vôi có tỉ lệ thành phần mịn đủ để làm thay đổi nhanh pH. Vì vậy
vôi sử dụng trong nông nghiệp luôn chứa cả 2 thành phần mịn và thô.
Độ mịn của vôi được định lượng hoá bằng cách xác định sự phân bố các kích thước
hạt trong 1 mẫu vôi. Yếu tố độ mịn là tổng lượng vôi có trong cả 3 kích cỡ hạt nhân với 1 hệ
số hữu hiệu. Tỉ lệ Calcium Carbonate hữu hiệu (ECC) của đá vôi chính là CCE của chúng.

5.5 Lợi ích của việc sử dụng vôi trong nông nghiệp
Vôi rất ít khi cần trong các vùng đất có vũ lượng hàng năm thấp, sự rửa trôi không
đáng kể, và các vùng đất mặn, khô hạn, mặn kiềm.
Sự gia tăng sinh trưởng của cây trồng do bón vôi thường là do vôi làm hạn chế tính
chất của độc chất Al3+, mặc dù giá trị dinh dưỡng đối với cây trồng của Ca và Mg trong vôi
cũng quan trọng.

5.5.1 Lợi ích trực tiếp


Tính độc của Al có thể là yếu tố chính hạn chế sự sinh trưởng của cây trồng trong
nhiều loại đất chua, đặc biệt là khi pH đất <5,0 -5,5. Hàm lượng Al trong đất cao sẽ làm cản
trở sự phân chia của tế bào rễ; ức chế sự hình thành nốt sần; cố định P thành các dạng ít hữu
dụng trong đất và cả bên trong hay trên rễ cây; làm giảm sự hô hấp của rễ; cản trở sự hoạt
động của các enzymes kiểm soát sự tích lũy polysaccharides trong màng tế bào; làm tăng tính
cứng của màng tế bào do các nối pectins; và ngăn cản sự hấp thu, vận chuyển, và sử dụng các
15
chất dinh dưỡng của cây trồng. Ở pH đất  4,5, vôi có thể loại trừ được độc tính của H +, H+
cao sẽ gây nên sự phá hủy màng tế bào rễ, cũng như làm cản trở sự phát triển của nhiều loại vi
khuẩn có ích khác. Lợi ích trực tiếp lớn nhất của viêc bón vôi cho nhiều loại đất là làm giảm
hoạt độ hay khả năng hoà tan của Al và Mn trong đất.
Khi đất chua được bón vôi, hoạt độ của Al3+ sẽ giảm do Al bị kết tủa dưới dạng
Al(OH)3. Bón vôi làm tăng pH, đồng thời làm giảm hàm lượng Al trao đổi. Hàm lượng Al 3+
cao không chỉ gây độc cho cây, mà còn làm cản trở sự hấp thu Ca và Mg của cây trồng.
Trong thực tế vấn đề ngộ độc Al không phải luôn được chữa trị hiệu quả bằng biện
pháp bón vôi. Tính chống chịu với độc tố Al thường do các tính chất di truyền quyết định. Vì
vậy cần thiết phải có những mô hình chọn giống có tiềm năng chống chịu cao để giải quyết
vấn đề ngộ độc Al trên đất chua.
Tính chống chịu với sự ngộ độc Mn cũng khác nhau tùy loại, giống cây trồng. Ví dụ,
cây cải dầu rất mẫn cảm với tính độc của Mn, ngược lại lúa mạch chống chịu tương đối cao
với độc tính của Mn.

5.5.2 Các lợi ích gián tiếp


Ảnh hưởng đến sự hữu dụng của P
Đất có pH thấp và có hàm lượng Fe, Al cao, P sẽ bị kết tủa dưới dạng các hợp chất
Fe/Al-P. Đất chua khi bón vôi sẽ cho kết tủa được Fe và Al dưới dạng Fe(OH) 3 và Al(OH)3,
do đó sẽ hạn chế được hoạt tính của Fe, Al và làm tăng sự hữu dụng của P cho cây trồng.
Nhưng cần chú ý, khi đất được bón vôi với liều lượng cao, tăng pH lên đến 6,8 -7,0,
cũng có thể làm giảm sự hữu dụng của P do sự kết tủa của Ca và Mg-P. Nên 1 chương trình
bón vôi hợp lý là cần giữ pH trong khoảng 5,5 - 6,8 để đảm bảo sự hữu dụng của P trong đất.
Sự hữu dụng của các nguyên tố vi lượng
Ngoại trừ Mo, tất cả các nguyên tố vi lượng khác sẽ gia tăng sự hữu dụng khi pH
giảm. Các nguyên tố vi lượng sẽ gây độc cho cây khi có nồng độ cao trong dung dịch. Bón
vôi hợp lý sẽ làm giảm nồng độ của nhiều nguyên tố vi lượng trong dung dịch, và bón vôi
nâng pH đất đến khoảng 5,6 - 6,0 có thể làm hạn chế tối đa tính độc của nhiều nguyên tố vi
lượng đồng thời vẫn duy trì được sự hữu dụng của các nguyên tố này.
Khả năng hữu dụng của Mo sẽ được cải thiện khi đất được bón vôi, và các triệu
chứng thiếu Mo thường ít khi xảy ra trên các loại đất đã được bón vôi nâng pH lên khoảng
7,0. Do ảnh hưởng đến các nguyên tố vi lượng khác, nên ta không nên bón vôi để nâng pH lên
đến 7,0 cho hầu hết các loại cây trồng trong các vùng nóng ẩm.

Sự nitrate hoá
Phần lớn vi sinh vật tham gia vào quá trình biến đổi NH 4+ thành NO3- cần 1 lượng Ca
lớn; vì vậy, quá trình nitrate hoá sẽ được tăng cường khi đất được bón vôi, pH nâng lên đến
5,5-6,5. Sự phân giải các tàn dư thực vật và chất hữu cơ trong đất cũng sẽ xảy ra nhanh hơn
trong khoảng pH này so với đất chua. Ảnh hưởng của bón vôi đến cả 2 quá trình khoáng hoá
N hữu cơ và nitrate hoá được trình bày trong bảng 4.6.
Bảng 4.6 Ảnh hưởng của Vôi đến sự khoáng hoá N hữu cơ và nitrate hoá trong 3 loại đất
chua
N hữu cơ được % N bị nitrate
Loại đất Nghiệm thức
khoáng hoá (ppm) hoá
1(pH 5,5, 0,20 % Không bón vôi 36 8
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 61 66
Bón vôi 2 năm trước 33 94
2(pH 5,4, 0,13 % Không bón vôi 40 7
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 72 64
Bón vôi 2 năm trước 44 93
3(pH 5,7, 0,83 % Không bón vôi 90 28

16
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 107 83
Bón vôi 2 năm trước 134 94
Bón vôi ngay trước khi ủ chất hữu cơ sẽ làm tăng gấp đôi sự khoáng hoá N hữu cơ.
Tuy nhiên, sau 1-2 năm, bón vôi không còn ảnh hưởng đến sự giải phóng N khoáng trong cả
hai loại đất. Mặc dù bón vôi ngay khi bắt đầu ủ làm tăng sự nitrate hoá, nhưng bón sớm sẽ
hiệu quả hơn.

Sự cố định N
Khi bón vôi đầy đủ sẽ gia tăng sự cố định N 2 cộng sinh và không cộng sinh. Sự hoạt
động của nhiều nòi vi khuẩn Rhizobium bị giảm đáng kể khi pH đất  6,0, do đó bón vôi làm
tăng pH sẽ làm tăng sự sinh trưởng của các cây họ đậu do sự cố định N 2 được tăng cường. Với
các sinh vật cố định N2 tự do (không cộng sinh), sự cố định N2 cũng gia tăng khi đất được bón
vôi đầy đủ, đồng thời quá trình phân giải các dư thừa thực vật cũng gia tăng.

Tình trạng lý tính đất


Khi đất được bón vôi, cấu trúc của đất có sa cấu mịn có thể được cải thiện, thể hiện
qua việc tăng hàm lượng chất hữu cơ và sự hình thành các phức sét bão hoà Ca. Ảnh hưởng
tốt của bón vôi đến cấu trúc đất bao gồm việc làm giảm hiện tượng đóng váng của đất sau khi
mưa hay tưới, làm cho hạt giống nẩy mầm tốt hơn, và giảm được chi phí năng lượng trong
làm đất. Tuy nhiên, nếu bón quá nhiều vôi cho các loại đất Oxisols và Ultisols có thể cấu trúc
đất bị phá hủy, hậu quả là làm giảm khả năng thấm nước của đất. Ca cũng cải thiện phần nào
tình trạng lý tính của đất mặn kiềm. Nồng độ các chất điện ly tăng do sự hoà tan của CaCO 3
sẽ kiềm hãm sự phân tán sét và làm giảm khả năng thấm nước của các loại đất này.

Bệnh cây
Bón vôi cho đất chua có 1 vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát 1 số bệnh cây.
Nhưng ngược lại, bón vôi cũng có thể làm tăng tỉ lệ 1 số bệnh khác như bệnh nấm vẩy trên rễ
cây, ghẻ trên khoai tây
5.6 Phương pháp bón vôi

Bón vãi trên mặt ruộng không cày vùi vào đất sẽ không có hiệu quả nhanh để hiệu
chỉnh độ chua của các tầng đất sâu. Trong một số nghiên cứu cho thấy nếu bón vãi vôi không
cày vùi, 10 -15 năm sau pH các tầng đất sâu 15 cm mới được nâng lên. Khi bón với lượng vôi
cao, nên chia làm 2 lần, mỗi lần bón ½ và cày vùi ngay, sau đó bón ½ còn lại và cũng cày vùi,
đây là phương pháp tốt nhất để vôi có tác dụng ngay trong tầng đất cày.
Giữ pH tầng đất mặt thích hợp trong một thời gian dài nhiều năm là một phương pháp
có ý nghĩa thực tiễn để khắc phục độ chua của tầng đất sâu bên dưới. Nhiều dẫn chứng cho
thấy khi duy trì pH tầng đất mặt ở 6,0, 6,5, và 7,2 sẽ làm giảm được độ chua ở các tầng đất
sâu hơn.

Bảng 4.7 Ảnh hưởng của các phương pháp làm đất, liều lượng bón phân N và bón vôi đến pH
của 1 loại đất thịt sau 7 năm trồng bắp liên tục
Làm đất theo
Nghiệm thức bón Độ sâu tầng đất
phương pháp cổ Không làm đất
N (cm)
truyền
Không Không
Bón vôi Bón vôi
bón vôi bón vôi
Bón N cao (336 kg 0-5 cm 5,3 4,9 5,5 4,3
N/ha) 5-15 cm 5,9 5,1 5,3 4,8
15-30 cm 6,0 5,5 5,8 5,5
Bón N trung bình 0-5 cm 5,9 5,2 5,9 4,8
17
(168 kg N/ha) 5-15 cm 6,3 5,6 5,9 5,5
15-30 cm 6,2 5,7 6,0 5,9

Có thể dùng các thiết bị làm đất phổ biến kết hợp với bón vôi để trung hoà độ chua
tầng đất sâu bằng cách cày vùi vôi ngay sau khi bón. Ảnh hưởng của việc cày sâu để vùi vôi
sau bón đến sự sinh trưởng của bông vải cho thấy trọng lượng và độ sâu của rễ cây gia tăng
khi cày vùi đến độ sâu 45 cm. Khi cày vùi vôi sâu hơn (60 cm) sẽ làm tăng năng suất bắp.
Với những hệ thống canh tác không làm đất, pH lớp đất mặt có thể giảm đáng kể sau
vài năm do việc sử dụng phân N và do sự phân giải các dư thừa thực vật. Nhưng sự hoá chua
này chỉ tập trung ở lớp đất mặt, và điều này có thể dễ dàng hiệu chỉnh bằng cách bón vôi cho
lớp đất này.
Trộn một phần vôi với đất là một phương pháp giảm bớt lượng vôi bón nhưng có thể
vẫn làm tăng pH thích hợp cho cây trồng sinh trưởng tốt.
Một trong những yếu tố góp phần vào việc làm giảm năng suất cây trồng trên đất chua
là sự khó khăn trong việc kiểm soát cỏ dại. Kiểm soát cỏ dại kém trên đất chua là do tốc độ
phân giải và hấp phụ thuốc diệt cỏ gia tăng ở pH đất thấp. Trên đất có pH cao, hiệu lực của 1
số thuốc diệt cỏ có thể kéo dài trong nhiều năm, nhưng điều này có thể có vấn đề đối với các
cây nhạy cảm với thuốc diệt cỏ.
Một phương pháp bón vôi khác là vôi được tạo thành dạng huyền phù với nước, thường
được gọi là vôi lỏng. Thiết bị bón phân dạng lỏng có thể dùng cho việc bón vôi lỏng này. Có
thể trộn các loại vôi thật mịn với 50 % nước và bón bằng thiết bị bón phân lỏng. Một số đặc
điểm của vôi dạng lỏng như sau:

1. Phân bố rất đều.


2. Vôi được nghiền mịn nên phản ứng rất nhanh với đất.
3. Chỉ cần bón 1 lượng nhỏ vôi ở bất cứ thời điểm nào.
4. Có thể hiệu chỉnh pH đất một cách nhanh chóng.
5. Bón hàng năm giúp duy trì pH.
6. Giá thành vôi lỏng thường cao 2-4 lần vôi dạng khô.

Urea-ammonium nitrate (UAN) có thể trộn thành huyền phù với vôi. Cày vùi ngay sau
khi bón huyền phù này sẽ hạn chế rất lớn việc mất NH 3 khi urea bị thủy phân. Các huyền
phù N-K-vôi được sử dụng rất thành công.

5.7 Các yếu tố quyết định bón vôi


5.7.1 Cây trồng
Mức độ nhạy cảm đối với độ chua của đất rất khác nhau tùy loại cây trồng, vì thế
lượng vôi bón cho đất cũng khác nhau tùy thuộc vào loại cây trồng đang canh tác. Loại, giống
cây trồng là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng chương trình bón vôi cho đất.

5.7.2 Sa cấu và chất hữu cơ của đất


Đất có sa cấu thô, hàm lượng chất hữu cơ thấp, nhu cầu vôi sẽ thấp hơn so với đất có sa
cấu mịn và hàm lượng chất hữu cơ cao. Thường ít khi xảy ra việc bón vôi với liều lượng quá
cao cho đất có sa cấu thô, nhưng nếu hiểu biết về hóa học đất cơ bản có thể hạn chế được vấn
đề này.

5.7.3 Thời gian và chu kỳ bón vôi


Đối với các hệ thống luân canh có cây họ đậu, có thể bón vôi 3 - 6 tháng trước khi gieo
trồng; điều này có tầm quan trọng đặc biệt trên đất có độ chua cao. Nếu bón vôi quá cận thời
gian gieo trồng, có thể không đủ thời gian để vôi phản ứng với đất. Nếu cây họ đậu được
18
trồng sau một cây họ hoà thảo thì thời gian bón vôi tốt nhất là bón khi gieo trồng cây họ hoà
thảo. Các dạng vôi dễ hoà tan như CaO và Ca(OH) 2 có thể bón vãi đều trước khi gieo trồng để
tránh sự tổn thương cho cây con vừa nẩy mầm.
Chu kỳ bón vôi cho một vùng đất thường tùy thuộc vào sa cấu của đất, loại phân N và
lượng phân N bón cho đất, sản lượng cây trồng thu hoạch, chế độ mưa, và hàm lượng vôi bón
cho mỗi lần bón. Trên đất cát, thường bón một lượng vôi ít, nhưng bón nhiều lần, ngược lại
đất có sa cấu mịn, có thể bón ít lần hơn nhưng với lượng cao trong mỗi lần bón. Vôi được
nghiền mịn sẽ có phản ứng nhanh hơn, nhưng hiệu quả thường chỉ duy trì trong thời gian ngắn
hơn so với vôi nghiền thô hơn.
Phương pháp hoàn hảo nhất để quyết định chu kỳ bón vôi cho một vùng đất là thử
nhanh pH đất. Có thể lấy mẫu đất thử nhanh pH đất với khoảng thời gian 3 năm 1 lần.

5.7.4 Độ sâu làm đất


Thường lượng vôi được khuyến cáo cho nông dân bón được dựa trên cơ sở độ sâu của
tầng đất cày 15 cm. Nhưng nếu khi đất được cày sâu đến 25 cm, lượng vôi khuyến cáo có thể
phải tăng lên 50 %.

19
BÀI 2 CẢI THIỆN VÀ SỬ DỤNG ĐẤT MẶN, ĐẤT KIỀM VÀ ĐẤT
MẶN KIỀM

1.Phân bố đất mặn


Trên thế giới có khoảng 397 triệu ha đất mặn và 434 triệu ha đất bị kiềm phân bố ở
khắp các châu lục, ở Việt Nam có khoảng 1 triệu ha đất mặn, phân bố ở các đồng bằng ven
biển, tập trung nhiều nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long nguyên nhân chủ yếu do nhiễm
nước mặn thuỷ triều hoặc do nước mặn ngầm mao dẫn lên mặt đất.
2. Đặc điểm vi hình thái đất mặn
Đất mặn được hình thành từ sản phẩm phù sa lắng đọng trong môi trường nước biển,
do trầm tích biển, do mạch nước ngầm mặn, hoặc do xâm nhập mặn. Phẩu diện thường có
màu nâu tươi, nâu nhạt xuống sâu có thể có màu xám nâu hay xám đen do có tích luỹ chất
hữu cơ. Đây là nhóm đất hình thành trên trầm tích biển hoặc hổn hợp sông- biển, không có
tầng phèn xuất hiện trong vòng 0 – 125 cm, phân bố trong khu vực chịu ảnh hưởng của thuỷ
triều và còn xuất hiện thảm thực vật rừng ngập mặn. Về hình thái có tầng mặt dạng bùn lỏng,
nhảo bảo hoà muối, nhiều hữu cơ, glây mạnh, các tầng bên dưới là lớp sét dẽo dính ít hữu cơ
không thuần thục. Phẫu diện có hình thái A-C, A-Cg hoặc A-Bw-Cg.
2.1Quá trình mặn hoá
Quá trình mặn hoá chịu ảnh hưởng bởi khí hậu, vị trí địa lý, địa hình, sự xâm lấn của
nước biển, tác động của dòng chảy và hoạt độg sản xuất của con người.
Ở các vùng khô hạn và bán khô hạn, tốc độ bốc hơi nước cao sẽ làm tích tụ các muối
hoà tan trong đất. Nước cũng được di chuyển lên trên từ nước ngầm hay các giếng phun. Sự
mất nước do bốc hơi nước dần dần sẽ làm cho muối tích tụ và hình thành các loại đất mặn,
mặn kiềm hay đất kiềm. Các loại đất này hình thành rất phổ biến trên các vùng khô hạn và
bán khô hạn, nơi có lượng mưa thấp không đủ làm rửa trôi muối trong đất, lượng mưa thường
< 350 mm/năm. Các loại đất này cũng hình thành khá phổ biến ở các vùng sử dụng các
phương pháp tưới, tiêu không thích hợp. Các đầm lầy ven biển trong vùng ôn đới, các đầm lầy
ngập mặn trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, và các đầm lầy trong lục địa gần các hồ nước
mặn cũng có thể hình thành các loại đất này.
Ngày càng có nhiều diện tích đất bị hoá mặn do sử dụng các phương pháp tưới tiêu
không thích hợp. Mặn hoá là vấn đề trở ngại chính trên các vùng trồng lúa nước.
Sự hoá mặn (tích lũy muối) là 1 nguy hại tiềm tàng trên hầu hết các vùng đất canh tác
có tưới trong các vùng khô hạn và bán khô hạn trên thế giới, và sự hoá mặn ngày càng gia
tăng trên các vùng đất trồng cây trồng cạn không tưới và các đồng cỏ. Muối tích lũy trong đất
có chứa các cation Na+, Ca2+, và Mg2+, và các anion Cl-, SO42-, HCO3-, và CO32-. Các ions này
có thể có nguồn gốc từ sự phong hoá các khoáng và được tích lũy do không đủ nước để rửa
trôi chúng.
Na là nguyên tố gây hại đặc biệt nghiêm trọng, do nguyên tố này có thể gây độc trực
tiếp cho cây đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến cấu trúc đất. Khi tỉ lệ Na/CEC cao, các kết tập
đất sẽ bị phân tán (làm mất cấu trúc đất). Khi mất cấu trúc, đất có tính thấm nước rất kém,
hình thành váng cứng trên bề mặt sau khi mưa hay sau khi tưới, và có thể giữ nước đọng trên
mặt trong một thời gian dài.
Mức độ phân tán các kết tập đất khác nhau phụ thuộc vào hàm lượng Na trong đất. Đất
có sa cấu mịn, chứa sét montmorillonite có thể bị phân tán khi phức hệ trao đổi chứa 15 %
Na. Trên các loại đất nhiệt đới có chứa oxide Fe, Al cao và trên các loại đất kaolinitic, hàm
lượng Na bảo hoà 40 % CEC mới gây ra sự phân tán nghiêm trọng. Các loại đất có hàm lượng
sét thấp thường ít bị vấn đề phá vỡ cấu trúc do chúng có tính thấm nước nhanh.
2.2. Các mối tương quan giữa các thông số sử dụng trong nghiên cứu đất mặn, kiềm

20
Có nhiều thông số thường được dùng để định lượng hoá các loại đất bị ảnh hưởng bởi
muối và Na, và các thông số này luôn có mối tương quan với nhau. Đo ECse đất có thể ước
đoán được hàm lượng tổng muối hoà tan trong dung dịch đất, hệ số tương quan như sau:
ECse x 10 = tổng cation hoà tan (meq/L).
ECse được tính bằng đơn vị mmhos/cm hay mS/cm.
Nếu các cation hoà tan được đo trong dịch trích bão hoà, tỉ lệ hấp
phụ của sodium (SAR-sodium adsorption ration) có thể được tính như sau:

SAR = Na+/(Ca2+ + Mg2+)/2


(nồng độ các ions đơn vị tính bằng meq/L).
Do các quan hệ cần bằng giữa các cation trên bề mặt trao đổi và trong dung dịch, nên
SAR có tương quan đến hàm lượng Na+ trên CEC. Hàm lượng này được diễn tả bằng tỉ lệ
sodium trao đổi (ESR-exchangeable sodium ratio). ESR được định nghĩa như sau:
ESR = Na+ trao đổi/(Ca2+ + Mg2+) trao đổi
nồng độ các ions đơn vị tính bằng meq/L).
Trong một loại đất nhiễm mặn có mối quan hệ giữa các cation trao đổi trên bề mặt sét
và trong dung dịch. Quan hệ này có thể được dùng để tính toán ESR khi ta không đo tổng
hàm lượng các cation trao đổi. Phương trình sau đây trình bày mối tương quan tuyến tính trên:

ESR = 0.015(SAR).
Do ESR có tương quan với ESP được dùng để phân loại đất mặn có chứa Na+ cao, nên
ESP = 100(ESR)/(1+ESR).
Các thông số này và các mối tương quan giữa chúng rất có giá trị trong sử dụng để
nghiên cứu, cải tạo tính chất dung dịch và hoá học trao đổi của đất mặn và đất nhiễm mặn.

2.3. Ảnh hưởng của mặn đến hoạt động canh tác
Giảm năng suất cây trồng, giảm sự đa dạng sinh học, giảm khả năng tái tạo nguồn
nước ngầm, làm các hạt phân tán làm giảm tốc độ thấm làm tăng lượng nước chảy tràn, tăng
xói mòn. Làm giảm sức khoẻ con người vật nuôi do tác dụng của Fe, B, Se trong nước. Làm
tăng chi phí trồng trọt, giảm chất lượng nông sản. Giảm tuổi thọ của máy móc, trang thiết bị
và cơ sở hạ tầng.
3.Sự hình thành đất mặn
3.1Nguồn gốc của muối
Đất mặn do có sự hiện diện của muối trong phẫu diện, quá trình mặn hoá có thể do tác
nhân sau:
Quá trình phong hoá: muối được tạo trong đất do quá trình phong hoá đá, trong điều
kiện khô hạn và bán khô hạn sản phẩm phong hoá tích tụ tại chổ hình thành nên đất mặn, quá
trình này gọi là quá trình mặn hoá nguyên sinh. Trong điều kiện có nước muối bị hoà tan và
theo nước di chuyển ra sông suối và ra biển.
Do nước tưới: ở vùng đất bị khô hạn nước bị bốc hơi làm tăng nồng độ muối trên lớp
đất mặt, nếu nước tưới có nồng độ muối càng cao thì quá trình mặn hoá càng trầm trọng.
Mực nước ngầm nông: đối với những vùng gần sông, biển do ảnh hưởng của thuỷ
triều làm mực nước ngầm dâng cao, hay do quản lý tưới tiêu chưa tốt sau khi tưới làm mực
nước ngầm dâng lên cộng với mao dẫn mang muối lên tầng đất mặt làm cho đất bị mặn.
Muối hoá thạch: sự tích luỹ muối có nguồn gốc từ các trầm tích biển, theo thời gian
muối được giải phóng làm cho đất bị nhiễm mặn.
Do tác động của nước biển: ở vùng ven biển đất bị nhiểm mặn do thuỷ triều dâng
cao, xâm nhập mặn qua các cửa sông, dòng nước ngầm, do muối được gió đưa vào trong lục
địa.
Phân bón gây mặn: các phân bón vô cơ, phân hữu cơ làm tích luỹ mặn trong đất
3.2 Khí hậu

21
Đất mặn thường xuất hiện ở những vùng bị khô hạn hoặc bán khô hạn, ở những nơi này
lượng mưa không đủ để rửa muối có trong đất, do đó muối được tích luỹ dần theo thời gian. Ở
những nơi có lượng mưa nhiều, muối trong đất liên tục bị rửa khỏi vùng rễ, ở vùng này đất ít
khi bị mặn.
3.3 Đất
Các tính chất của đất có ảnh hưởng đến sự hiện diện và phân bố của muối trong đất, đất
có thành phần cơ giới nhẹ ít bị mặn hơn so với đất có thành phần cơ giới nặng. Do các loại đất
này có khả năng thoát nước tốt, có CEC thấp nên các muối dễ bị rửa và khả năng mao dẫn
cũng thấp hơn.
3.4 Xâm nhập mặn do chế độ thuỷ triều
Sự xâm nhập của nước biển vào những vùng đất thấp có thể làm tích luỹ muối theo thời
gian, nhất là những vùng ở gần biển và gần cửa sông. Mực nước ngầm nông, trong điều kiện
nắng nóng hiện tượng mao dẫn đem muối lên bề mặt, cũng là một nguyên nhân mặn hơn cho
đất so với những nơi có mực nước ngầm sâu.
3.5 Nhiểm mặn do các hoạt động canh tác của con người
Chế độ canh tác, tưới nước, bón phân và xây dựng hệ thống thuỷ lợi không hợp lý làm
cho đất dễ nhiễm mặn. Sử dụng nước mặn để tưới, quản lý tiêu nước không tốt làm mặn thấm
nhiều vào trong đất. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi không hợp lý đem nước biển vào trong nội
đồng làm đất bị nhiễm mặn. Xây dựng hệ thống đập kênh mương, chưa hợp lý mặn xâm nhập
sâu vào nội đồng, làm giảm khả năng thoát nước mặn. Khai thác nguồn nước ngầm quá mức
làm làm đất bị thấp dần dễ bị nhiễm nặn do thuỷ triều.
4.Phân loại đất mặn
Có nhiều tiêu chí để phân loại đất mặn, trong đó phổ biến là dựa vào các chỉ tiêu: độ
pH của đất bảo hoà nước, tổng số muối tan, độ dẫn điện của dịch trích bảo hoà nước (ECe),
hàm lượng phần trăm Na trao đổi (ESP- Exchangeable sodium perccentage),
4.1. Phân loại theo USDA đất mặn được phân thành các loại sau
Đất mặn:Đất mặn là đất có độ dẫn điện của dịch trích bão hoà (ECse) > 4 dS/m, pH <
8,5, và Na trao đổi (ESP) <15 %. Đất này trước đây được gọi là đất kiềm trắng do sự tích lũy
một lớp muối trắng trên bề mặt sau khi nước bốc hơi và có pH kiềm. Đất này có hàm lượng
muối cao, chủ yếu là các muối Cl- và SO42- của Na+, Ca2+, và Mg2+, các ions này có thể bị rửa
trôi nhưng không làm tăng pH đáng kể. Nồng độ các muối hoà tan này đủ để hạn chế sự sinh
trưởng của cây trồng, mặc dù có sự khác nhau về tính chống chịu mặn trong các giống cây
trồng.
Đất kiềm: Đất kiềm có ESP >15 %, ECse < 4 dS/m, và pH > 8,5. Trước đây gọi là
đất kiềm đen do sự tích lũy của chất hữu cơ hoà tan cùng với muối trên mặt đất. Trong đất
kiềm, hàm lượng Na cao sẽ làm phân tán các keo đất và Na cũng gây ra sự rối loạn dinh
dưỡng trong phần lớn các loại cây trồng.
Đất mặn kiềm: Đất này có nồng độ muối cao như đất mặn (ECse > 4 dS/m) và Na
trao đổi cao như đất kiềm (ESP > 15 %); nhưng đất này có pH > 8,5. Ngược lại với đất mặn,
khi muối được rửa trôi, Na trao đổi sẽ thủy phân và làm tăng pH, kết quả là hình thành nên đất
kiềm.
4.2. Phân loại theo hệ thống phân loại của FAO – Unesco đất mặn được chia làm hai nhóm
chính
Đất Solonchak: nhóm này có đặc trưng là độ mặn cao (ECe > 15 dS/m) ở tầng đất
mặt dày 125 cm, đất có cấu trúc thô, có hàm lượng muối tan > 2% trong tầng đất 30 cm trên
cùng,
Đất Solonetz: có tầng B có Na trong lớp đất 40 cm trên cùng, có EPS > 15%, có hàm
lượng muối cao trong tầng B

22
4.3. Nhóm đất mặn ở Việt Nam chia thành các loại
Đất mặn sú, vẹt, đước: có khoảng 180.000 ha, tập trung ở ven biển (diện tích lớn nhất
ở Nam Bộ: Cà Mau, Bến Tre), loại đất mặn này thường ở dạng bùn lỏng, lầy, rất mặn, pH
trung tính, nhiều mùn.
Đất mặn nhiều: có khoảng 300.000 ha tập trung ven biển đồng bằng sông Hồng và
đồng bằn sông Cửu Long, nguyên nhân mặn do muối biển theo nước thuỷ triều, theo nước
sông hoặc nước ngầm xâm nhập vào đất liền, với muối tổng số hoà tan > 0,5%, lượng Cl- cũng
đạt 0,2 – 0,3 %, độ dẫn điện của dịch trích bảo hoà > 4 dS/m ở 25 oC, độ bảo hoà bazơ cao, pH
trung tính, hàm lượng mùn thấp, không kết cấu, rất dẻo, dính khi có nước, khô co lại, nứt nẻ.
Đất mặn trung bình và ít: có khoảng 700.000 ha, nằm sâu hơn trong đất liền tiếp
giáp với vùng đất mặn nhiều, khả năng trồng trọt và cho năng suất cao hơn chủ yếu tập trung
ở đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có đặc điểm: Cl- < 0,25%, ECe < 4 dS/m, có phản
ứng trung tính ít chua, tỷ lệ Ca2+ / Mg2+ < 1, có mùn trung bình, đạm trung bình, lân nghèo.
5. Các ảnh hưởng của muối đến sự sinh trưởng của cây trồng
5.1. Lượng nước hữu dụng
Khi đất bị mặn, áp suất thẩm thấu của dịch đất tăng lên làm cây trồng khó hút nước
hơn, do đó dù trong đất có nước nhưng cây vẫn bị thiếu nước gây nên hiện tượng hạn sinh lý.
5.2. Bốc thoát hơi nước
Khi đất bị mặn làm giảm khả năng hút nước của cây, giảm sự phát triển của bộ rễ,
giảm diện tích lá, tăng dự trữ nước trong cây để cân bằn áp suất thẩm thấu trong dịch bào,
đồng thời cũng làm giảm sự thoát hơi nước và nó cũng làm giảm năng suất cây trồng.
5.3. Sự hấp thụ và chuyển hoá dinh dưỡng trong cây
Khi đất bị nhiễm mặn, làm tăng nồng độ các ion Cl-, Na+, khi cây trồng hấp thu các ion
này ở nồng độ cao có thể gây độc, hoặc làm chậm sự hấp thu và chuyển hoá các chất dinh
dưỡng khác trong rễ, ảnh hưởng đến sing trưởng của cây trồng. Khi nồng độ ion Cl- cao gây
khó khăn cho việc hấp thụ H2PO4-, NO3-, SO42-, và khi nồng độ ion Na+ cao ảnh hưởng đến sự
hấp thu K+ của cây.
Tính độc của Na+ và Cl- là nguyên nhân chính gây ra sự ức chế sinh trưởng đối với cây
mẫn cảm với muối, ngay cả khi độ mặn thấp. Khi nồng độ các ion này cao, dung dịch đất sẽ
có áp suất thẩm thấu cao, nên khi tiếp xúc với tế bào rễ, nước và các chất hoà tan trong tế bào
rễ có khuynh hướng di chuyển ra ngoài dung dịch đất, làm cho tế bào rễ bị co nguyên sinh
(plasmolysis).
Trong một số trường hợp, khi nước bị mặn có hàm lượng B, Li, Se cao cũng có thể gây độc
cho cây trồng.
Bảng 4.8 Khả năng chống chịu với đất mặn của 1 số cây trồng
Chịu được tốt Chịu được trung Mẩn cảm trung Mẫn cảm
(8 - 12 mS/cm) bình (6 - 8 mS/cm) bình (4 – 6 mS/cm) (< 4 mS/cm)
Lúa mạch, lấy hạt Lúa mạch, đồng cỏ Cỏ họ đậu Táo
Cỏ Bermuda Củ cải đường Bắp cải Mơ
Bông vải Sung Cải bông Dâu tây
Chà là Yến mạch Bắp Bưởi
Cao lương Dưa leo Chanh
Đậu nành Rau diếp Hành
Lúa mì Đậu phộng Cam
Khoai tây Đào
Lúa nước Lê
Cà chua Dứa, ổi
Tính chống chịu với nồng độ muối của cây trồng khác nhau phụ thuộc vào loại cây
trồng và thời gian sinh trưởng, kiểu mặn, độ phì nhiêu đất đai, yếu tố khí hậu và lượng nước
tưới. Trong đó, khí hậu là yếu tố quan trọng đến khả năng chịu mặn của thực vật, ở vùng đất

23
ẩm cây chịu mặn cao hơn so với vùng đất khô hạn, cây trồng trong vụ đông khí hậu mát có
khả năng chịu mặn cao hơn trong vụ hè.
Cây trưởng thành thường có khả năng chống chịu mặn cao hơn các cây non. Lúa mạch
và bông vải có khả năng chống chịu mặn khá cao. Tính chống chịu muối cũng khác nhau giữa
các giống hay dòng, nhưng nồng độ muối cao thường ảnh hưởng lớn đến giai đoạn sinh
trưởng dinh dưỡng hơn là giai đoạn hình thành hạt hay quả (bảng 4.8). Những giống cây có
thể giải độc muối Na+ và Cl- hiệu quả cũng có thể không cho sản lượng khi nồng độ muối quá
cao. Các cây chống chịu muối nhưng không giải độc Na + có khả năng duy trì tỉ lệ K +/Na+
thích hợp trong mô sinh trưởng.
Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng cây trồng
Độ mặn của đất ECe, dS/m Triệu chứng nhiễm mặn
Không mặn <2 Không ảnh hưởng
Hơi mặn 2–4 Làm giảm năng suất cây nhạy
cảm
Mặn vừa >4 – 8 Năng suất cây bị giảm
Mặn nhiều >8 – 16 Chỉ cây chịu mặn cho năng
suất
Rất mặn >16 Năng suất giảm hầu hết cây
trồng

5.4. Cơ chế kháng mặn của cây trồng


Cây trồng có một số cơ chế để giảm hoặc không hấp thụ muối như: không hấp thụ
muối nhờ cơ chế hấp thu chủ động, cố định hay dự trữ muối vào một số bộ phận để làm giảm
tác hại của muối đối với những nơi nhạy cảm như cành lá non, đỉnh sinh trưởng. Có cơ chế
loại thảy muối ra ngoài khi nồng độ muối trong tế bào tăng cao. Cân bằng áp suất thẩm thấu
bên trong và bên ngoài tế bào dựa vào các muối vô cơ trong cây giúp cây tránh được hiện
tượng mất nước khi nồng độ muối bên ngoài tăng cao.
6.Cải tạo đất mặn và đất kiềm cho sản xuất cây trồng
Đất mặn tương đối dễ cải tạo nếu có đủ nước có nồng độ muối thấp dùng để tưới hoặc
rửa, và đất cần có tính chất tiêu nước mặt và nước trong đất tốt. Yêu cầu rửa mặn là muối phải
được rửa sâu xuống dưới vùng rễ, cắt bỏ muối tránh bị nhiễm lại.

Lượng nước cần thiết để rửa trôi muối ra khỏi vùng rễ, được gọi là nhu cầu nước rửa
(leaching requirement-LR), LR được tính toán như sau:

LR = ECw/ECdw
với LR= nhu cầu nước rửa
ECw= EC của nước tưới
ECdw= EC của nước tiêu

LR là lượng nước cần để rửa trôi muối, ngoài lượng nước tưới theo nhu cầu nước của cây
trồng về mặt sinh lý. Lượng nước cần để rửa muối phụ thuộc vào (1) ECse mong muốn, ECse
này phụ thuộc vào khả năng chịu mặn của cây trồng, (2) chất lượng nước tưới (ECiw), (3) độ
sâu vùng rễ cần rửa, và (4) khả năng giữ nước của đất (SWHC).

Trong các loại đất có mực nước ngầm cao, cần phải thiết kế hệ thống tiêu trước khi tiến
hành việc rửa mặn. Nếu đất có tầng chứa calcium hay thạch cao, hay đất có tính thấm kém,
cần phải cày sâu để cải thiện tính thấm ban đầu của đất. Những nơi chỉ sử dụng nước mưa để
canh tác hay những nơi nguồn nước tưới bị hạn chế, nên phủ chất hữu cơ trên mặt đất để làm
giảm được sự bốc hơi nước và tăng khả năng tiêu nước của đất.

24
6.1. Biện pháp cơ học : cạo loại bỏ lớp muối trên bề mặt, biện pháp chỉ phù hợp để cải tạo
trên một diện tích nhỏ và mang tính chất tạm thời.
6.2. Biện pháp tưới nước: phù hợp đối với những vùng có lớp váng muối và có tính thấm
kém, nhưng cũng có hạn chế, là muối dễ tích luỹ lại trên mặt đất.
6.3. Biện pháp thuỷ lợi: rửa mặn bằng nước mưa hay nước tưới không bị nhiễm mặn là cách
làm phổ biến để loại muối khỏi đất, biện pháp này có hiệu quả khi có hệ thống thuỷ lợi hoàn
chỉnh để tưới và tiêu nước và đất phải có mực nước ngầm sâu để tránh bị mao dẫn làm tái
nhiễm mặn.
6.4. Biện pháp nông nghiệp: sử dụng các biện pháp cày sâu không lật, xới nhiều lần, cắt đứt
mao quản, trồng cây phân xanh cải tạo đất nâng cao độ phì nhiêu của đất làm giảm tích tụ
muối. Thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với từng vùng, chọn tạo giống cây trồng
chịu mặn, chống mặn hay có nhu cầu nước ít.
6.5. Biện pháp sinh học: lai chọn tạo các loại giống cây trồng chịu mặn, kháng mặn.
7. Quản lý đất mặn
Quản lý đất mặn chủ yếu là làm giảm đến mức tối thiểu sự tích lũy muối trong quá trình
canh tác, đặc biệt là trong các vùng khô hạn và bán khô hạn. Cần phải luôn duy trì ẩm độ đất
xung quanh ẩm độ đồng ruộng bằng cách thường xuyên tưới nước ngọt (hoặc nước không
mặn). Rửa nhẹ trước khi gieo trồng hay tưới nhẹ sau khi gieo trồng để rửa muối ra khỏi vùng
đất rễ sẽ phát triển trong giai đoạn cây con. Nếu có đủ nước, nên tưới theo chu kỳ cả khi
không gieo trồng, như thế sẽ rửa được muối ra khỏi vùng rễ. Trong đất mặn có nhiều loại
muối có thể bị kết tủa như CaSO4.2H2O và CaCO3 hay MgCO3 trong thời kỳ khô hạn, sẽ gây
các phản ứng như là các muối hoà tan trong quá trình rửa, và cần chú ý sự kết tủa của Ca và
Mg sẽ làm tăng tỉ lệ % Na+ trong dung dịch.

Quản lý đất bằng phương pháp cải thiện khả năng tiêu nước là biện pháp quan trọng để
kiểm soát độ mặn của đất. Khi cày đất thường tạo thành các rãnh nhỏ trên ruộng, muối sẽ có
khuynh hướng đi lên theo nước mao dẫn và tích tụ ở giữa đỉnh các luống cày nơi có sự bốc
hơi nước xảy ra. Do đó không nên trồng cây ngay trên đỉnh (trung tâm) các luống cày để tránh
sự ngộ độc muối.
7.1. Đối với đất mặn ven biển và đất mặn nội đồng
Tránh bị ảnh hưởng của thuỷ triều, tránh bị xâm nhập mặn. Xây dựng hệ thống đê bao,
cống ngăn mặn, hệ thống tiêu nước mặn, thận trọng trong khai thác nước ngầm.
7.2. Đất mặn sâu trong nội đồng
Dùng nước ngọt để rửa muối, hạ thấp mực nước ngầm, trong điều kiện không có nước
ngọt thì phải giảm thiểu tác hại của mặn hoặc áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp như
chọn cây trồng và cơ cấu cây trồng phù hợp, trồng cây đúng vị trí, phương pháp tưới thích
hợp, các phương pháp tưới như tưới nhỏ giọt, tưới tràn, tưới phun mưa, tưới ngầm điều có ảnh
hưởng đến sự phân bố muối trong đất. Phương pháp che phủ đất làm hạn chế sự bốc hơi của
đất làm giảm sự tích tụ muối. Sử dụng chất dinh dưỡng thích hợp, thường áp suất thẩm thấu
do độ mặn làm rối loạn hấp thụ và vận chuyển dinh dưỡng của thực vật, ở một giới hạn nhất
định có thể làm giảm tác hại của mặn dựa vào sử dụng dinh dưỡng đúng đắn như dùng đạm,
lân để giảm tác hại của Cl -, SO42- , bón K, Ca để thay thế Na trong phức hệ keo đất. Ngoài ra
cần bón phân hữu cơ để tăng keo đất, bón bổ sung các chất dinh dưỡng để bù đắp thất thoát
trong quá trình rửa mặn. Trong một số trường hợp bón phân vô cơ có thể làm trầm trọng
thêm triệu chứng của mặn do làm tăng lượng muối trong đất.
7.3. Đất kiềm và đất mặn kiềm

Trên các loại đất kiềm và mặn kiềm, cần phải làm giảm Na trao đổi và/hay ECse phải
giảm thấp, điều này rất khó trong thực tế, vì sét trong đất có thể bị phân tán trong quá trình
rửa, làm hạn chế tính thấm ban đầu của đất. Thông thường người ta dùng Ca 2+ trong gypsum

25
(CaSO4.2H2O) để trao đổi với Na+ trong keo đất, sau đó dùng nước rửa ion Na + này. Phản ứng
trao đổi xảy ra như sau:

Na+ Ca2+
Na+ Ca2+
Sét Ca2+ + Ca2+ +SO42-  sét Mg2+ + 2Na+
Mg2+ Na+
Na+ Na+ được rửa sâu khỏi
vùng rễ
Việc tính toán lựợng CaSO4.2H2O cần thiết bón cho đất mặn tương tự như cách tính
toán lượng CaCO3 cần bón để nâng cao pH trong đất chua. Ví dụ, một loại đất có CEC = 20
meq/100 g có chứa 15 % ESP, và chúng ta cần phải làm giảm ESP xuống 5 %; vậy ESP cần
phải giảm là: 15 %-5 % = 10 %.

(0,10)(20 meq CEC/100 g) = 2 meq Na+/100 g = 2 meq CaSO4.2H2O /100 g đất

Do đó,
(2 meqCaSO4.2H2O/100 g)(86 mg CaSO4.2H2O/meq)(20) = 3440 kg
CaSO4.2H2O/ha -15 cm.

7.3.1 Làm chua đất có pH cao


Sự hoá chua của đất có thể có lợi đối với các loại đất có chứa hàm lượng carbonate
cao, như các loại đất vùng khô hạn và bán khô hạn. Việc san lấp đất để thuận tiện cho việc
tưới tiêu và các mục đích khác có thể làm cho các tầng đất bên dưới có pH cao được phơi bày
lên trên, nên ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng của cây trồng. Do đó các vấn đề gây ra
do pH đất cao không chỉ hạn chế trong các vùng khô hạn và bán khô hạn. Sự hoá chua của đất
lúa ngập nước làm tăng năng suất lúa, thường là do khả năng hữu dụng của các nguyên tố vi
lượng tăng. Trên một số vùng khác, các loại đất chua trung bình có thể cần thiết phải hoá chua
hơn nữa để thích hợp cho sự sinh trưởng của cây trồng thích hợp với điều kiện chua như khoai
tây, dâu tây, họ thập tự. Có thể làm đất hoá chua bằng việc sử dụng 1 số hoá chất sau:
Bón S nguyên tố (S)
Bón S nguyên tố có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoá chua của đất. Khi S được bón
vào đất, sẽ xảy ra phản ứng sau:
S + H2O + 3/2O2  2H+ + SO42-
Với 1 mole S bị oxi hoá, sẽ hình thành nên 2 mole H+, nên làm giảm pH đất. Vì vậy trong việc
tính toán lượng S bón cho đất, cần phải xác định tính đệm pH của đất đó.
Bột S nghiền mịn có thể bón vãi và cày vùi vài tuần lễ trước khi gieo trồng vì phản
ứng oxi hoá S của vi sinh vật có thể xảy ra chậm, nhất là trên các vùng có khí hậu lạnh và đất
có pH kiềm. Trong một số trường hợp, người ta khuyến cáo nên làm chua hoá vùng rễ cây
nhằm làm tăng tính thấm nước của đất và tăng khả năng hữu dụng của P và các nguyên tố vi
lượng khác trong đất. Để cải thiện cả hai trường hợp này thường cần phải hoá chua cho các
loại đất mặn kiềm. S nguyên tố cũng có thể bón theo hàng dưới dạng bột mịn hay dạng huyền
phù. Khi bón S theo hàng, hàm lượng phân S cần bón thường thấp hơn nhiều so với phương
pháp bón vãi.
Bón SO2 cho đất cũng làm tăng sự hấp thu dinh dưỡng của cây cao lương. Trong
nghiên cứu này, chỉ cần trung hoà 25 – 50 % độ kiềm cải thiện đáng kể khả năng hấp thu dinh
dưỡng của cây.
Sulfuric acid

26
Sulfuric acid (H2SO4) được dùng để cải tạo đất bị nhiễm B và Na, làm tăng khả năng
hữu dụng của P và các nguyên tố vi lượng khác, giảm sự bay hơi NH 3, tăng tính thấm nước
của đất, kiểm soát được một số loại cỏ dại và nguồn bệnh, và tăng cường sự phát triển của cỏ
trên các đồng cỏ chăn nuôi. Ảnh hưởng của H 2SO4 làm tăng năng suất cao lương và lúa gạo
chủ yếu là do tăng khả năng hữu dụng các nguyên tố vi lượng trong đất.
H2SO4 có thể bón trực tiếp cho đất nhưng có bất lợi là sự nguy hiểm cho người sử
dụng và cần phải có thiết bị đặc biệt chịu được acid. H 2SO4 cũng có thể được tưới nhỏ giọt
trên mặt đất hoặc bón với thiết bị tương tự như thiết bị bón NH 3 lỏng khan. H2SO4 cũng có thể
được hoà vào nước tưới trực tiếp. H2SO4 có ưu điểm là phản ứng tức thời với đất, nên có tác
dụng hoá chua rất nhanh.

Bảng 4.7 Ảnh hưởng của việc bón H2SO4 và FeSO4 đến năng suất cao lương (kg/ha)
trên đất đá vôi
H2SO4 Fe (kg/ha)
0 112 560
0 434 1,460 2,275
112 605 1,538 2,274
560 2,169 2,429 2,230
5,600 1,885 1,971 1,810
Aluminum sulfate
Aluminum sulfate [Al2(SO4)3] được sử dụng phổ biến trong nghề trồng hoa, dùng để
làm chua đất trong sản xuất azaleas (đỗ quyên), camellias (hoa trà), và các loại hoa kiểng chịu
được điều kiện chua. Khi hoà vào nước, Al 2(SO4)3bị thủy phân tạo nên một dung dịch rất
chua:
Al2(SO4)3 + 6H2O  2Al(OH)3 + 6H+ + 3SO42-.
Khi Al2(SO4)3 được bón vào đất, ngoài việc thủy phân trong dung dịch đất, Al 3+ sẽ thay thế bất
kỳ H+ và các cations trao đổi nào trên CEC nên làm pH giảm rất nhanh:
Al2(SO4)3 + sét 4H+  sét Al3++ Ca2++ 4H+ + 3SO42-.
Ca2+ Al3+

Al2(SO4)3 không được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp. FeSO4 cũng được dùng để bón cho
đất nhằm làm hoá chua đất kiềm và có đặc tính tương tự như Al2(SO4)3.
Ammonium polysulfide
NH4S8 dạng dung dịch được dùng bón cho đất mặn kiềm nhằm làm giảm pH và làm tăng
tính thấm nước của đất. NH4S8 có thể được bón theo hàng, cách hạt 5-10cm hay có thể hoà
thẳng vào nước trong hệ thống tưới. Bón theo hàng thường có hiệu quả hơn trong việc chữa trị
thiếu dinh dưỡng vi lượng so với bón thông qua hệ thống tưới. NH 4S8 sau khi bón vào đất sẽ
được phân giải thành ammonium sulfide và keo S0. S0 và S2- sau đó sẽ bị oxi hoá thành H2SO4.
Potassium polysulfide cũng được sản xuất và sử dụng tương tự như ammonium polysulfide.
7.3.2 Làm chua cục bộ đất khi bón phân
Do các loại đất đá vôi và đất pH cao đều có tính đệm cao nên chi phí sẽ rất lớn nếu ta
dùng phân chua trung hoà hết độ kiềm của đất. Do đó chúng ta không cần phải trung hoà độ
kiềm toàn bộ khối đất, mà chỉ cần làm chua vùng rễ cây phát triển bằng cách bón phân chua
theo hàng hay làm chua cục bộ trong từng nơi có bón phân.
Khi bón phân ammonium thiosulfate và ammonium polyphosphate có thể làm đất bị
chua hoá trong vùng gần nơi bón phân, như thế có thể làm tăng khả năng hữu dụng các
nguyên tố vi lượng trong đất xung quanh vùng rễ cây.

27
Tài liệu tham khảo
Hồ Quang Đức, 2010. Đất mặn và đất phèn Việt Nam, NXB Nông nghiệp
Đào Xuân Học, 2005. Sử dụng và cải tạo đất phèn, đất mặn, NXB Nông nghiệp
Lê Văn Khoa, 2005. Đất ngập nước, NXB Giáo Dục

28

You might also like