Professional Documents
Culture Documents
pH đất và các tính chất đi cùng với pH đất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hữu dụng
của các chất dinh duỡng đối với cây trồng và độ phì nhiêu của đất. Vì vậy nghiên cứu về độ
chua và độ kiềm của đất có một tầm quan trọng để quản lý một cách thích hợp khả năng sản
xuất của đất và cây trồng một cách tối hảo.
H2CO3
H2O + CO2 H + + HCO3-
Khi cho thêm một acid vào H2O sẽ làm tăng [H ] nhưng [OH-] sẽ giảm vì Kw là một
+
hằng số (10-14). Ví dụ, trong một dung dịch 0,1M HCl, có [H+] là 10-1M vì thế [OH-] là:
Kw = [H+][OH-] = 10-14
[10-1][OH-] = 10-14
[OH-]= 10-13M
1.2 Khái niệm pH
[H+] thường được diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ pH vì cách diễn tả này sẽ thuận lợi
hơn, và pH được định nghĩa như sau:
1
pH = log10 1 / [H+] = -log10[H+]
Từ định nghĩa này ta thấy mỗi khi tăng 1 đơn vị pH sẽ tương ứng với việc giảm10 lần
[H+]. Ví dụ, một dung dịch có [H+] = 10-5 sẽ có pH là 5,0.
Các dung dịch có pH < 7 là các dung dịch có tính chua, và các dung dịch có pH>7
là các dung dịch có tính kiềm, các dung dịch có pH = 7 là các dung dịch trung tính.
pH là thuật ngữ chỉ thể hiện nồng độ H+ trong dung dịch và không đo được độ chua không
phân ly hay độ chua tiềm tàng của dung dịch. Ví dụ, pH của 0,1 M HCl phân ly hoàn toàn là
1,0, ngược lại pH của 0,1M CH2COOH, một acid yếu là 3,0. Tương tự, pH của 0,1 M NaOH,
một base mạnh, là 13,0, trong khi đó pH của 0,1 M NH4OH, một base yếu là 11,0.
Bảng 4.1 Quan hệ giữa pH và nồng độ [H+] và [OH-]
pH Nồng độ
H+ OH-
1 10-1 10-13
2 10- 10-12
3 10-3 10-11
4 10-4 10-10
5 10-5 10-9
6 10-6 10-8
7 10-7 10-7
8 10-18 10-6
9 10-9 10-5
10 10-10 10-4
11 10-11 10-3
12 10-12 10-2
13 10-13 10-1
14 10-14 10-0
Khi các acids và bases kết hợp với nhau, cả hai ion H + và OH- đều bị trung hoà, hình
thành một muối và nước:
HCl + NaOH H2O + Na+ + Cl-
H+ Cl- Na+ OH-
Nếu 1 lượng acid được chuẩn độ với 1 base và pH của dung dịch được xác định theo
từng quá trình chuẩn độ, chúng ta sẽ thu đường cong trên một đồ thị với trục y là giá trị pH và
trục x là các giá trị lượng base được thêm vào. Đường cong chuẩn độ của các acid yếu và
mạnh khác nhau rất rõ ràng. Ví dụ, phản ứng trung hoà của HCl và NaOH được trình bày
trong phương trình trên, và phản ứng của CH3COOH với NaOH như sau:
CH3COOH + NaOH H2 O + CH3COO- + Na+
2 Tính đệm pH
Một hệ thống có tính đệm có thể duy trì được pH của dung dịch trong một khoảng
biến thiên nhất định khi 1 lượng nhỏ acid hay base được thêm vào. Khả năng đệm pH được
định nghĩa là khả năng chống lại sự thay đổi đột ngột về pH của hệ thống. Một ví dụ về một
hệ thống đệm là hỗn hợp CH3COOH và CH3COONa.
CH3COOH H+ + CH3COO-
CH3COONa Na+ + CH3COO-
Ví dụ, một dung dịch chứa 1 M CH 3COOH có pH là 2, nhưng khi dung dịch ấy có nồng
độ 1M CH3COOH và 1M CH3COONa sẽ có pH là 4.6. Khi cho thêm một muối có tính phân
ly mạnh CH3COONa vào dung dịch chứa CH3COOH, sẽ làm tăng nồng độ của CH3COO-, sự
2
gia tăng nồng độ CH3COO- này sẽ thay đổi sự cân bằng để hình thành CH 3COOH acid không
phân ly. Nhưng chú ý là pH vẫn giữ ở 4,6 ngay cả khi pha loãng dung dịch này gấp 10 lần với
nước; tuy nhiên, khi chỉ pha loãng dung dịch 1M CH 3COOH có thể sẽ làm tăng pH lên 3,0. Vì
vậy, khi cho CH3COONa vào CH3COOH, hổn hợp này sẽ đệm được pH của dung dịch. Hỗn
hợp dung dịch này ta gọi là dung dịch đệm.
Nếu thêm 10 ml 1M HCl vào dung dịch đệm CH 3COOH/CH3COONa, pH sẽ chỉ giảm
đến 4,5, bởi vì khi H+ được thêm vào sẽ làm thay đổi cân bằng CH 3COOH H+ + CH3COO-
về bên trái và do nồng độ CH3COO- giảm nên CH3COO- sẽ phân ly từ CH3COONa và giải
phóng vào dung dịch (sự cân bằng thay đổi về phía phải CH3COONa CH3COO- + Na+).
Ngược lại, nếu thêm 10ml 1M NaOH vào dung dịch CH3COOH/CH3COONa, OH- sẽ
trung hoà H+ trong hỗn hợp để hình thành nước. Do có sự cung cấp 1 lượng CH 3COOH acid
không phân ly lớn, nên sự cân bằng sẽ thay đổi về phía phải, để bù đắp lượng H + bị trung hoà;
vì vậy pH chỉ tăng lên đến 4,7.
Đất có tính chất như là 1 acid yếu do CEC của chất mùn và các khoáng sét làm cho
dung dịch đất có tính đệm pH.
3 Đất chua
Khoảng 25 % - 30 % diện tích đất trên thế giới bị chua, phân bố tại các khu vực sản
xuất lương thực quan trọng.
3.1.1 Mùn
Chất hữu cơ hay mùn trong đất chứa các nhóm carboxyl và phenol tạo nên các phản
ứng hoá học và có tính chất như các acids yếu. Chúng sẽ phân ly, giải phóng H +. Hàm lượng
chất hữu cơ trong đất thay đổi theo điều kiện môi trường, thảm thực vật, và loại đất; vì vậy
mức độ gây chua của mùn đối với đất sẽ thay đổi tùy theo hàm lượng chất hữu cơ. Trong đất
than bùn và đất khoáng có chứa nhiều chất hữu cơ, các acid hữu cơ góp phần lớn vào việc tạo
nên độ chua của đất.
Chất hữu cơ -C R-COOH R-COO- + H+
3
O O O
Si Si Si
O HH+ H+ OH OH- O
Al Al Al
+
O HH OH O
Chua Trung tính Kiềm
Trên chất hữu cơ:
OH-
RCOOH RCOO-
Chua Kiềm
OH-
ROH RO-
Chua Kiềm
Các ions Al3+ được thay thế từ bề mặt hấp phụ của các khoáng sét (CEC) sẽ bị thủy
phân thành các phức hydroxyaluminum. Quá trình thủy phân Al 3+ sẽ giải phóng H+ và sẽ làm
giảm pH dung dịch đất, trừ khi có nguồn OH- trung hoà ion H+ này. Mỗi bước thủy phân tiếp
theo sau sẽ xảy ra ở một pH cao hơn bước trước đó. Các phản ứng sau đây trình bày sự cân
bằng giữa các dạng Al trong đất:
Al3+ + H2O Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O Al(OH)30 + H+
Al(OH)30 + H2O Al(OH)4- + H+
Nếu thêm một base vào trong đất, H+ trong dung dịch đất sẽ bị trung hoà trước tiên.
Khi tiếp tục cho thêm base vào, Al 3+ sẽ bị thủy phân, và sẽ hình thành H+ với hàm lượng
đương lượng với hàm lượng Al3+ bị thủy phân. Cần chú ý là Al(OH)3 không hoà tan và sẽ kết
tủa ở pH >6.5, khi sản phẩm hoà tan của Al(OH)3 vượt quá mức cân bằng.
Tương tự như H2O, Al3+ cũng là 1 chất lưỡng tính, vừa có tính acid vừa có tính base,
như trình bày trong các phương trình sau:
Al là 1 base:
Al(OH)3 + H+ Al(OH)2+ + H2O
Al(OH)2+ (OH)2+ + H2O
Al(OH)2+ + H+ Al3+ + H2O
Al(OH)3 + 3H+ Al3+ + 3H2O
Al là 1 acid:
Al3+ + OH- Al(OH)2+
Al(OH)2+ + OH- Al(OH)2+
Al(OH)2+ + OH- Al(OH)3
Al là 1 anion:
Al(OH)3 + OH- Al(OH)4-
Các ion hydroxyl nhôm kết hợp với nhau hình thành nên các polymers mang nhiều
điện tích khác nhau. Quá trình polymer hoá được gia tăng khi có sự hiện diện của các bề mặt
khoáng sét. Cơ chế hình thành các polymers là sự chia sẽ các nhóm OH- trên các khoáng với
các ion Al3+, như trình bày trong các phương trình sau:
Các polymer Al có điện tích (+) chiếm tỉ lệ cao và chủ yếu là dạng không trao đổi.
CEC của đất có thể chịu ảnh hưởng bởi sự hấp phụ của các polymers mang điện tích (+) này.
Ở pH cao, CEC tăng do Al(OH)3 kết tủa và giảm sự hình thành polymer Al mang điện tích (+)
4
hay không có sự hiện diện của các polymer Al. Nhưng khi pH đất giảm sẽ làm tăng sự hình
thành polymer mang điện tích (+), nên làm giảm CEC của đất.
2+ 2+ 4+
OH H2O OH
(H2O)Al + Al(H2O)4 (H2O)4Al A l(H2O)4 +2H2O
H2 O OH OH
2+
O
(H2O)4Al Al(H2O)4 +2H+
O
Sự thủy phân Fe tương tự như sự thủy phân Al như trình bày trong phương trình sau.
Mặc dù phản ứng thủy phân Fe sẽ gây chua cao hơn sự thủy phân Al về mặt nguyên lý, nhưng
độ chua này được đệm bởi các phản ứng thủy phân của Al. Vì vậy, sựï thủy phân của Fe có
ảnh hưởng rất ít đến pH đất cho đến khi phần lớn Al trong đất bị phản ứng thủy phân.
Fe3+ + H2O Fe(OH)2+ + H+
Các polymers Fe và Al có thể hiện diện dưới dạng các keo vô định hình hay tinh thể,
các keo này che phủ các bề mặt sét và các khoáng khác. Chúng cũng có thể được giữ giữa các
mạng lưới của các khoáng sét có tính trương nở trong đất, ngăn cản sự sụp đổ của các mạng
lưới này khi các khoáng bị mất nước.
5
- Cây trồng hấp thu các cations và thải H+vào dung dịch đất theo cơ chế hấp thu trao
đổi
- Sự rửa trôi của các cation này và được thay thế đầu tiên bởi H+ , sau đó là Al3+
- Sự phân giải các dư thừa hữu cơ.
Mức độ hoá chua tự nhiên của đất gia tăng theo sự gia tăng của mưa vì nước mưa
thường có pH: 5,7 hay thấp hơn, phụ thuộc vào hàm lượng các chất ô nhiễm như SO 2, NO2,
và các chất khác trong khí quyển.
Giá trị trung bình: áp dụng theo Hiệp Hội Các nhà Hoá Học Phân Tích.
6
Phương pháp này giả định rằng sự sinh trưởng của cây trồng sẽ bị giảm do độ chua
được hình thành bởi quá trình nitrate hoá phân NH4+ và do sự hấp thu các cation và anion
không cân bằng của cây trồng.
Nếu tính cả hàm lượng khá lớn NH4+ được hấp thu trực tiếp bởi cây trồng, xem như
lượng NH4+ này không bị nitrate hoá, 1,8 kg CaCO3 cần để trung hoà sự hoá chua do 1 kg
phân NH4-N gây nên. Nhưng khi không xét đến ảnh hưởng của sự hấp thu không cân bằng
trong tỉ lệ cation/anion, thì cần đến 3,75 kg CaCO 3 để trung hoà sự hoá chua của 1 kg NH 4-N
bị nitrate hoá thành NO3-.
Bảng 4.3 Ảnh hưởng của các loại phân N và bón vôi đến độ chua của đất (sau 32 năm canh
tác bông vải - bắp)
Nghiệm thức bón N và vôi pH đất
Loại đất 1 Loại đất 2
0- 15- 30- 45- 0- 15- 30- 45-
15cm 30cm 45cm 60cm 15cm 30cm 45cm 60cm
(NH4)2SO4 4,8 4,8 4,3 4,3 4,8 4,8 4,9 4,9
(NH4) 2SO4 + VÔI 6,2 5,4 4,7 4,6 6,0 5,5 5,3 5,1
NaNO3 5,7 5,5 5,1 5,0 5,8 5,5 5,3 5,1
NaNO3 + VÔI 6,4 6,4 6,3 6,3 6,8 6,6 5,8 5,2
pH ban đầu của 2 loại đất = 6,0
Lượng N bón 40 kg N/ha trong 15 năm đầu, sau đó bón 53 kg N/ha trong 17 năm sau.
Lượng vôi bón hàng năm là 500 kg/ha trong 15 năm đầu, và 800 kg/ha trong 17 năm
kế tiếp.
4 Đất phèn
4.1. Phân bố đất phèn
7
Trên thế giới có khoảng 12,6 triệu ha đất phèn phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển
nghiệt đới và cận nhiệt đới như Achentina, Ấn Độ, Brasil, Hà Lan, Indonesia, Malaysia, Nhật
Bản, Triều Tiên, , Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác.
Ở Việt Nam diện tích đất phèn khoảng 2 triệu ha, phân bố chủ yếu ở hai đồng bằng
lớn là đồng bằng sông Hồng khoảng 200.000 ha, đồng bằng sông Cửu Long khoảng 1,6 triệu
ha, miền đông Nam Bộ khoảng 200.000 ha.
4.2. Nguồn gốc hình thành đất phèn
1.Có sự hiện diện của lưu huỳnh và các hợp chất của lưu huỳnh ( SO 42-, H2S, FeS,
FeS2) ở trong đất do: sự tích luỹ từ xác bả thực vật của rừng ngập mặn và bị phân giải trong
điều kiện yếm khí và lưu huỳnh có trong mẫu chất, trong nước biển xâm nhập vào trong đất.
2. Có chất hữu cơ, có sự hoạt động của các vi sinh vật yếm khí ( Closidium,
Thiobacillus, Thiocidans), các vi sinh vật này khử ion S, SO 42- trong điều kiện yếm khí thành
H2S.
SO42- + 2CH2O 2HCO3 + H2S
3. Có sự hiện diện của sắt, nhôm trong đất (có quá trình Feralit hoá mạnh phân huỷ
keo sét, sắt, nhôm bị rửa trôi và tích tụ ở các vùng đất thấp). Fe thì sẽ tạo thành FeS.H2O
theo quá trình như sau H2S + Fe(OH)3 FeS.nH2O, hay FeS + S FeS2
4. Trong đất có oxi thâm nhập, pyrite bị oxi hóa do các vi khuẩn phân giải lưu
huỳnh như Thibacillus thiooxidans hình thành nên acid sulfuric
FeS2 + 7/2 O2 + H2O FeSO4 + H2SO4,
H2SO4 phản ứng mạnh với các khoáng sét trong đất tạo thành muối sunphat gây
hại
Al2O3SiO2 + 3H2SO4 Al2(SO4)3 + Si(OH)4 + H2O
Trong giai đoạn này nếu trong đất có đủ canxi thì thì không sinh ra phèn:
CaCO3 + H2SO4 CaSO4. H2O + CO2, trong đất không có canxi thì quá trình oxi hoá
tiếp tục xảy ra:
5. Khi có sự xuất hiện của oxy, có sự hiện diện của vi khuẩn Thiobacillus
ferroxidans, FeSO4 (Fe2+) sẽ bị oxy hóa thành Fe3+.
FeSO4 + H2SO4+ ½ O2 Fe(SO4)3 + H2O
3+
Và Fe sẽ tác dụng nhanh với FeS2 để hình thành acid sulfuric
FeS2 + 14Fe3+ + 8H2O 15Fe2+ + 16H + 2SO42-
Fe2+ + SO42- + 1/4 O2 + 3/2 H2O + 1/3 K+ 1/3 KFe3(SO4)2(OH)6 + H+ + ½ SO42-.
Sản phẩm oxy hóa của khoáng pyrite là khoáng jarosite và acid sulfuric.
Jarosite (KFe3(SO4)2(OH)6 , KAl3(SO4)2(OH)6, NaFe3(SO4)2(OH)6) có màu vàng rơm
là đặc điểm để nhận biết đất phèn và acid sulfuric làm cho đất bị chua.
Khi pH trong đất tăng lên thì KFe3(SO4)2(OH)6 3 FeO.OH + K+ + 3H+ +
2SO42-
8
pH cao thì lân tổng số cao hơn, tuy nhiên lân dễ tiêu thì rất ít. Đạm tổng số trong đất phèn
thường từ mức trung bình đến giàu do đất giàu chất hữu cơ, nhưng đạm dễ tiêu ở mức thấp.
Kali trong đất phèn thường từ mức trung bình đến giàu, do kết quả của quá trình bồi đắp phù
sa. Mangan trong đất phèn thường tồn tại ở dang ion Mn 2+, có khả năng di động cao, các
nguyên tố vi lượng khác trong đất phèn ở mức từ nghèo đến rất nghèo. pH của đất phèn có
thay đổi và biến động theo độ ẩm của đất, nhất là đối với đất phèn tiềm tàng, thường pH đất
phèn ở mức thấp (từ chua đến rất chua). Đất phèn có pH thấp (≤ 3,5 ở tầng sinh phèn),
hàm lượng các độc chất (Al3+, Fe2+, SO42-) cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao
nhưng khả năng hữu dụng thấp. Do đất phèn có sa cấu sét và có lượng chất hữu cơ cao
nên có CEC cao và tính đệm cao.
Trong đất phèn hầu hết các vi sinh vật đều không có ích cho quá trình chuyển
hóa chất dinh dưỡng cho cây trồng.
9
trong nước sẽ kết hợp với các hạt sét và lắng tụ, nhôm kết hợp với gố sulphat tạo thành
muối Al2(SO4)3 gây độc đối với động vật thuỷ sinh.
Sắt: trong đất phèn sắt ở dạng ion Fe2+ và Fe3+, Fe2+ , dễ tan trong nước, trong
môi trường axit di động mạnh pH< 3,5, khi pH > 4,5 thì Fe(OH) 2 lắng xuống, trong
điều kiện oxy hoá Fe2+ sẽ chuyển thành Fe3+, Fe3+ kém linh động hơn Fe2+ và ít gây độc
hơn.
Lưu huỳnh (S) và SO42-: là nguyên nhân gây ra đất phèn, là cơ sở để đánh giá
là đất phèn hay không, theo một số tài liệu hàm lượng lưu huỳnh trong đất ≥ 0,7 %
được xem là đất phèn. Trong đất lưu huỳnh có thể ở dạng tự do (S) ở dạng FeS, FeS 2 hoặc
ở dạng gây độc cho cây như H 2S, SO3, SO2, SO42- và các hợp chất của nó như jarosite, H 2SO4.
Hàm lượng S trong đất phèn dao động từ 1 – 4 %, một số nơi có quá trình tích luỹ lâu dài lên
đến 5 – 6 %.
Pyrite: là hợp chất của lưu huỳnh và sắt, là sản phẩm của các vi sinh vật yếm khí,
trong điều kiện ngập nước, có nhiều chất hữu cơ, pyrite được tích luỹ rất chậm (trong 100
năm tích tụ 10 kg pyrite/1m3 đất). Khi pyrite bị oxi hoá sẽ tạo ra axit gây chua cho đất, gây
hại cho cây trồng vật nuôi, con người và môi trường.
Jarosite: là kết quả quá trình loxi hoá suphite và pyrite, khi xuất hiện jarosite trong
đất thì pH đã thấp, gây hại cho cây trồng.
Hydro: trong đất phèn sự tồn tại của ion H+ ở nồng độ cao (pH< 3) cũng có thể gây
hại cho cây trồng.
Clo: trong đất phèn hoạt động thì hàm lượng Cl- ít (<0,1%) nhưng ở đất phèn mặn và
phèn tiềm tàng thì hàm lượng Cl- còn rất cao gây hại cho cây trồng
4.5. Quản lý, cải tạo và sử dụng đất phèn
4.5.1. Biện pháp thuỷ lợi
Xây dựng hệ thống thuỷ lợi để kiểm soát lũ ( kênh Vĩnh Tế, T4, T5, T6), chủ động
nước tưới tiêu, cải tạo các vùng đất phèn.
- Dùng nước lũ cải tạo đất phèn ( tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười)
- Dùng nước ém phèn
- Dùng biện pháp tiêu ngầm ( ngăn nước ngầm mao dẫn lên lớp đất mặt, làm
tăng khả năng thấm theo chiều thẳng đứng của nước)
4.5.2. Biện pháp hoá học: bón các vật liệu chứa vôi để cải tạo đất phèn
4.5.3.Biện pháp cơ học: lên liếp rửa phèn
4.5.4.Biện pháp canh tác: trồng cây phân xanh để hạn chế tác hại của đất phèn, lựa chọn
giống cây trồng chịu phèn hay kháng phèn.
Al3+
Ca2+
Sét Mg2+ Al3+ + H2O AlOH2+ + H+
K+
Al3+
10
Phản ứng trên cũng xảy ra theo hướng ngược lại. Khi thêm một lượng acid vào một
loại đất trung tính, OH- trong dung dịch đất sẽ được trung hoà bởi H+ của acid, Al(OH)3 hoà
tan dần nên làm tăng nồng độ Al3+ trong dung dịch và sau đó là trên CEC. Nếu phản ứng tiếp
tục xảy ra, pH dung dịch đất vẫn sẽ tiếp tục tăng nhưng với tốc độ rất chậm vì Al 3+ thay thế
các cation base hấp phụ.
Tổng hàm lượng sét và chất hữu cơ trong đất và bản chất của các khoáng sét sẽ quyết
định mức độ đệm của đất. Các loại đất có hàm lượng sét và chất hữu cơ cao sẽ có tính đệm
cao, nhưng khi muốn nâng pH đất cần phải bón 1 lượng vôi lớn hơn rất nhiều so với các loại
đất có tính đệm thấp hơn. Các loại đất cát có hàm lượng sét và chất hữu cơ thấp sẽ có tính
đệm kém và chỉ cần 1 lượng vôi thấp có thể thay đổi pH nhanh chóng. Các loại đất chứa phần
lớn sét 1:1 (Ultisols và Oxisiols) thường có khả năng đệm thấp so với các loại đất chứa chủ
yếu các khoáng sét 2:1 (Alfisols và Mollisols).
5.1 Xác định độ chua hoạt động và độ chua tiềm tàng trong đất
5.1.1 Độ chua hoạt động (hiện tại)
Phương pháp tương đối chính xác nhất và được dùng rộng rãi để xác định pH là đo pH
bằng pH kế với điện cực thủy tinh trong 1 hỗn hợp đất nước. pH đất là 1 chỉ thị sự hiện diện
của Al3+ và H+ trao đổi. H+ trao đổi hiện diện ở pH < 4, trong khi Al 3+ trao đổi chủ yếu hiện
diện ở pH: 4 - 5,5. Các polymers Al hiện diện trong khoảng pH: 5,5 - 7,0.
Khi đất bão hoà được pha loãng đến tỉ lệ đất : nước từ 1:1 đến 1:10, thường giá trị pH
đo sẽ tăng so với pH được đo trong dung dịch bão hoà. Để tối thiểu hoá ảnh hưởng của nồng
độ muối trong các loại đất, 1 số phòng phân tích thường dùng dung dịch loãng 0,01 M CaCl 2
thay vì dùng nước. Ca2+ thêm vào sẽ làm giảm pH so với đất được pha loãng với nước. pH đo
trong các dung dịch muối loãng thường biến động rất nhỏ, khoảng 0,1 - 0,5 đơn vị.
11
Đất thịt pha cát: CEC = 1 meq/100 g
Giả sử là đất này có pH ban đầu và pH muốn nâng lên cùng độ bảo hoà base giống
như đất sét tính toán trên, thì lượng CaCO3 cần thiết sẽ là 3.000 kg CaCO3/ha lớp đất cày.
Bảng 4.5 Giá trị trung hoà (CCE) của 1 số loại vôi nguyên chất
Loại vôi Trọng lượng Trọng lượng Giá trị trung Hàm lượng
phân tử đương lượng hoà (%) Ca
(g/mole) (g/eq)
CaO 56 28 179 71
Ca(OH) 2 74 37 135 54
CaMg(CO3)2 184 46 109 22 (13 % Mg)
CaCO3 100 50 100 40
CaSiO3 116 58 86 46
Các phản ứng khi bón vôi vào đất, bắt đầu là sự trung hoà H + trong dung dịch đất do
cả ion OH- hay HCO3- có trong vôi. Ví dụ, CaCO3 có tính chất như sau:
CaCO3 + H2O Ca2+ + HCO3- + OH-
Tốc độ của phản ứng có quan hệ trực tiếp đến tốc độ các ion OH - bị mất đi (trung hoà)
trong dung dịch. Khi có đủ ion H+ trong dung dịch đất, Ca2+ và HCO3- sẽ tiếp tục được phân ly
từ CaCO3 và đi vào dung dịch. Tuy nhiên khi nồng độ ion H + trong dung dịch giảm, sự hình
thành ion Ca2+ và HCO3- cũng bị giảm tương ứng.
H+ tiếp tục bị mất đi khỏi dung dịch đất nên kết quả cuối cùng là sự kết tủa của Al 3+ và
Fe dưới dạng Al(OH)3 và Fe(OH)3 và sự thay thế chúng trên CEC bởi Ca2+ và/hay Mg2+.
3+
Phản ứng tổng hợp của sự trung hoà Al trong đất chua có thể được viết như sau:
Al3+ K+
Ca2+ Ca2+
Sét Mg2+ + CaCO3 + 3H2O Sét Ca2++2Al(OH)3+ CO2
K+ Mg2+
Al3+ Ca2+
Ca2+
5.3.1 Calcium Oxide
Calcium oxide (CaO) còn được gọi là vôi sống, vôi nung. CaO có dạng bột màu trắng,
được đóng bằng các bao giấy do CaO có tính ăn da. Được sản xuất bằng cách nung CaCO 3
(đá vôi) trong lò nung, nhằm đẩy khí CO2 ra. CaO là là vôi hữu hiệu nhất, có giá trị trung hoà
hay đương lượng (equivalent) Calcium carbonate (CCE) là 179%, so với CaCO3 nguyên chất.
Nhưng trong trường hợp bón không cần thiết phải có hiệu quả nhanh, cả hai chất loại vôi CaO
hay Ca(OH)2 đều có thể sử dụng được. Nhưng vấn đề khó khăn trong sử dụng vôi là việc trộn
đều vôi trong đất, vì ngay sau khi bón vào đất vôi hấp thụ nước rất nhanh và hình thành dạng
hạt nhỏ hay vữa. Các hạt này có thể bị hoá cứng do sự hình thành CaCO 3 trên bề mặt chúng,
dạng CaCO3 này có thể tồn tại một thời gian rất dài trong đất.
5.2.5 Marl
Marls là trầm tích của đá vôi, xốp thường lẫn với đất và thường có ẩm độ cao. Trầm
tích marls thường hình thành từng mảng và được phủ bởi bột vỏ sò, ốc.... có giá trị trung hòa
trung bình từ 70 – 90 % tùy thuộc vào hàm lượng sét chứa đựng.
5.3 Giá trị trung hoà hay đương lượng (equivalent) Calcium Carbonate của các vật liệu
có chứa vôi
Giá trị của một loại vôi phụ thuộc vào lượng acid được trung hoà bởi một đơn vị trọng
lượng vôi, nên giá trị trung hoà có liên quan đến thành phần cấu tạo phân tử và độ tinh khiết
của vôi. CaCO3 nguyên chất là mức chuẩn qui ước để xác định giá trị trung hoà các loại vôi
khác, và giá trị trung hoà của CaCO 3 qui ước là 100 %. CCE được định nghĩa là khả năng
trung hoà độ chua của vôi được biểu thị bằng % trong lượng của CaCO3.
Xem các phản ứng sau đây:
CaCO3 +2H+ Ca2+ + H2O + CO2
MgCO3 +2H+ Mg2+ + H2O + CO2
Trong mỗi phản ứng, 1 mole CO 32- sẽ trung hoà được 2 mole H +. Trọng lượng phân tử
gram của CaCO3 là 100 g, trong khi đó trọng lượng phân tử của MgCO 3 chỉ là 84 g; vì vậy,
chỉ với 84 g MgCO3 sẽ trung hòa được một lượng acid tương đương với 100 g CaCO 3. Vì thế,
giá trị trung hoà hay CCE của một trọng lượng bằng nhau của 2 loại vôi trên được tính như
sau:
84 = 100
100 x
x = 119
Vậy khả năng trung hoà của MgCO 3 lớn hơn gấp 1,19 lần CaCO 3 với vùng 1 trọng
lượng; do đó CCE của MgCO3 là 119 %. Ta có thể tính giá trị trung hoà của các loại vôi khác
theo cách tính tương tự.
Thành phần của các loại vôi đôi khi cũng được diễn tả bằng hàm lượng Ca và Mg của
khoáng nguyên chất. Ví dụ, CaCO 3 nguyên chất có chứa 40 % Ca và MgCO 3 nguyên chất
chứa 28,6 % Mg, được tính bằng tỉ lệ của trọng lượng phân tử:
24 g/m Mg x 100 = 28,6 %
84 g/m MgCO3
Để chuyển đổi % Ca thành CCE, ta nhân % Ca với 100/40 hay 2,5; để đổi % Mg thành
MgCO3, nhân % Mg với 84/24 hay 3,5.
14
56, trong đó có nghĩa là O có trọng lượng là 16 g được kết hợp với 40 g Ca. Vì vậy, nếu Ca
trong CaCO3 được diễn tả dưới dạng oxide sẽ chứa (56/100) x 100, hay 56/40 đương lượng
của CaO. Vì vậy, để đổi % CaCO 3 thành % CaO, ta nhân % CaCO 3 với 56/100, hay 0,56. Ta
có thể tính tương tự với các loại vôi có chứa Mg.
5.5 Lợi ích của việc sử dụng vôi trong nông nghiệp
Vôi rất ít khi cần trong các vùng đất có vũ lượng hàng năm thấp, sự rửa trôi không
đáng kể, và các vùng đất mặn, khô hạn, mặn kiềm.
Sự gia tăng sinh trưởng của cây trồng do bón vôi thường là do vôi làm hạn chế tính
chất của độc chất Al3+, mặc dù giá trị dinh dưỡng đối với cây trồng của Ca và Mg trong vôi
cũng quan trọng.
Sự nitrate hoá
Phần lớn vi sinh vật tham gia vào quá trình biến đổi NH 4+ thành NO3- cần 1 lượng Ca
lớn; vì vậy, quá trình nitrate hoá sẽ được tăng cường khi đất được bón vôi, pH nâng lên đến
5,5-6,5. Sự phân giải các tàn dư thực vật và chất hữu cơ trong đất cũng sẽ xảy ra nhanh hơn
trong khoảng pH này so với đất chua. Ảnh hưởng của bón vôi đến cả 2 quá trình khoáng hoá
N hữu cơ và nitrate hoá được trình bày trong bảng 4.6.
Bảng 4.6 Ảnh hưởng của Vôi đến sự khoáng hoá N hữu cơ và nitrate hoá trong 3 loại đất
chua
N hữu cơ được % N bị nitrate
Loại đất Nghiệm thức
khoáng hoá (ppm) hoá
1(pH 5,5, 0,20 % Không bón vôi 36 8
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 61 66
Bón vôi 2 năm trước 33 94
2(pH 5,4, 0,13 % Không bón vôi 40 7
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 72 64
Bón vôi 2 năm trước 44 93
3(pH 5,7, 0,83 % Không bón vôi 90 28
16
N tổng số) Bón vôi 4 tuần lễ 107 83
Bón vôi 2 năm trước 134 94
Bón vôi ngay trước khi ủ chất hữu cơ sẽ làm tăng gấp đôi sự khoáng hoá N hữu cơ.
Tuy nhiên, sau 1-2 năm, bón vôi không còn ảnh hưởng đến sự giải phóng N khoáng trong cả
hai loại đất. Mặc dù bón vôi ngay khi bắt đầu ủ làm tăng sự nitrate hoá, nhưng bón sớm sẽ
hiệu quả hơn.
Sự cố định N
Khi bón vôi đầy đủ sẽ gia tăng sự cố định N 2 cộng sinh và không cộng sinh. Sự hoạt
động của nhiều nòi vi khuẩn Rhizobium bị giảm đáng kể khi pH đất 6,0, do đó bón vôi làm
tăng pH sẽ làm tăng sự sinh trưởng của các cây họ đậu do sự cố định N 2 được tăng cường. Với
các sinh vật cố định N2 tự do (không cộng sinh), sự cố định N2 cũng gia tăng khi đất được bón
vôi đầy đủ, đồng thời quá trình phân giải các dư thừa thực vật cũng gia tăng.
Bệnh cây
Bón vôi cho đất chua có 1 vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát 1 số bệnh cây.
Nhưng ngược lại, bón vôi cũng có thể làm tăng tỉ lệ 1 số bệnh khác như bệnh nấm vẩy trên rễ
cây, ghẻ trên khoai tây
5.6 Phương pháp bón vôi
Bón vãi trên mặt ruộng không cày vùi vào đất sẽ không có hiệu quả nhanh để hiệu
chỉnh độ chua của các tầng đất sâu. Trong một số nghiên cứu cho thấy nếu bón vãi vôi không
cày vùi, 10 -15 năm sau pH các tầng đất sâu 15 cm mới được nâng lên. Khi bón với lượng vôi
cao, nên chia làm 2 lần, mỗi lần bón ½ và cày vùi ngay, sau đó bón ½ còn lại và cũng cày vùi,
đây là phương pháp tốt nhất để vôi có tác dụng ngay trong tầng đất cày.
Giữ pH tầng đất mặt thích hợp trong một thời gian dài nhiều năm là một phương pháp
có ý nghĩa thực tiễn để khắc phục độ chua của tầng đất sâu bên dưới. Nhiều dẫn chứng cho
thấy khi duy trì pH tầng đất mặt ở 6,0, 6,5, và 7,2 sẽ làm giảm được độ chua ở các tầng đất
sâu hơn.
Bảng 4.7 Ảnh hưởng của các phương pháp làm đất, liều lượng bón phân N và bón vôi đến pH
của 1 loại đất thịt sau 7 năm trồng bắp liên tục
Làm đất theo
Nghiệm thức bón Độ sâu tầng đất
phương pháp cổ Không làm đất
N (cm)
truyền
Không Không
Bón vôi Bón vôi
bón vôi bón vôi
Bón N cao (336 kg 0-5 cm 5,3 4,9 5,5 4,3
N/ha) 5-15 cm 5,9 5,1 5,3 4,8
15-30 cm 6,0 5,5 5,8 5,5
Bón N trung bình 0-5 cm 5,9 5,2 5,9 4,8
17
(168 kg N/ha) 5-15 cm 6,3 5,6 5,9 5,5
15-30 cm 6,2 5,7 6,0 5,9
Có thể dùng các thiết bị làm đất phổ biến kết hợp với bón vôi để trung hoà độ chua
tầng đất sâu bằng cách cày vùi vôi ngay sau khi bón. Ảnh hưởng của việc cày sâu để vùi vôi
sau bón đến sự sinh trưởng của bông vải cho thấy trọng lượng và độ sâu của rễ cây gia tăng
khi cày vùi đến độ sâu 45 cm. Khi cày vùi vôi sâu hơn (60 cm) sẽ làm tăng năng suất bắp.
Với những hệ thống canh tác không làm đất, pH lớp đất mặt có thể giảm đáng kể sau
vài năm do việc sử dụng phân N và do sự phân giải các dư thừa thực vật. Nhưng sự hoá chua
này chỉ tập trung ở lớp đất mặt, và điều này có thể dễ dàng hiệu chỉnh bằng cách bón vôi cho
lớp đất này.
Trộn một phần vôi với đất là một phương pháp giảm bớt lượng vôi bón nhưng có thể
vẫn làm tăng pH thích hợp cho cây trồng sinh trưởng tốt.
Một trong những yếu tố góp phần vào việc làm giảm năng suất cây trồng trên đất chua
là sự khó khăn trong việc kiểm soát cỏ dại. Kiểm soát cỏ dại kém trên đất chua là do tốc độ
phân giải và hấp phụ thuốc diệt cỏ gia tăng ở pH đất thấp. Trên đất có pH cao, hiệu lực của 1
số thuốc diệt cỏ có thể kéo dài trong nhiều năm, nhưng điều này có thể có vấn đề đối với các
cây nhạy cảm với thuốc diệt cỏ.
Một phương pháp bón vôi khác là vôi được tạo thành dạng huyền phù với nước, thường
được gọi là vôi lỏng. Thiết bị bón phân dạng lỏng có thể dùng cho việc bón vôi lỏng này. Có
thể trộn các loại vôi thật mịn với 50 % nước và bón bằng thiết bị bón phân lỏng. Một số đặc
điểm của vôi dạng lỏng như sau:
Urea-ammonium nitrate (UAN) có thể trộn thành huyền phù với vôi. Cày vùi ngay sau
khi bón huyền phù này sẽ hạn chế rất lớn việc mất NH 3 khi urea bị thủy phân. Các huyền
phù N-K-vôi được sử dụng rất thành công.
19
BÀI 2 CẢI THIỆN VÀ SỬ DỤNG ĐẤT MẶN, ĐẤT KIỀM VÀ ĐẤT
MẶN KIỀM
20
Có nhiều thông số thường được dùng để định lượng hoá các loại đất bị ảnh hưởng bởi
muối và Na, và các thông số này luôn có mối tương quan với nhau. Đo ECse đất có thể ước
đoán được hàm lượng tổng muối hoà tan trong dung dịch đất, hệ số tương quan như sau:
ECse x 10 = tổng cation hoà tan (meq/L).
ECse được tính bằng đơn vị mmhos/cm hay mS/cm.
Nếu các cation hoà tan được đo trong dịch trích bão hoà, tỉ lệ hấp
phụ của sodium (SAR-sodium adsorption ration) có thể được tính như sau:
ESR = 0.015(SAR).
Do ESR có tương quan với ESP được dùng để phân loại đất mặn có chứa Na+ cao, nên
ESP = 100(ESR)/(1+ESR).
Các thông số này và các mối tương quan giữa chúng rất có giá trị trong sử dụng để
nghiên cứu, cải tạo tính chất dung dịch và hoá học trao đổi của đất mặn và đất nhiễm mặn.
2.3. Ảnh hưởng của mặn đến hoạt động canh tác
Giảm năng suất cây trồng, giảm sự đa dạng sinh học, giảm khả năng tái tạo nguồn
nước ngầm, làm các hạt phân tán làm giảm tốc độ thấm làm tăng lượng nước chảy tràn, tăng
xói mòn. Làm giảm sức khoẻ con người vật nuôi do tác dụng của Fe, B, Se trong nước. Làm
tăng chi phí trồng trọt, giảm chất lượng nông sản. Giảm tuổi thọ của máy móc, trang thiết bị
và cơ sở hạ tầng.
3.Sự hình thành đất mặn
3.1Nguồn gốc của muối
Đất mặn do có sự hiện diện của muối trong phẫu diện, quá trình mặn hoá có thể do tác
nhân sau:
Quá trình phong hoá: muối được tạo trong đất do quá trình phong hoá đá, trong điều
kiện khô hạn và bán khô hạn sản phẩm phong hoá tích tụ tại chổ hình thành nên đất mặn, quá
trình này gọi là quá trình mặn hoá nguyên sinh. Trong điều kiện có nước muối bị hoà tan và
theo nước di chuyển ra sông suối và ra biển.
Do nước tưới: ở vùng đất bị khô hạn nước bị bốc hơi làm tăng nồng độ muối trên lớp
đất mặt, nếu nước tưới có nồng độ muối càng cao thì quá trình mặn hoá càng trầm trọng.
Mực nước ngầm nông: đối với những vùng gần sông, biển do ảnh hưởng của thuỷ
triều làm mực nước ngầm dâng cao, hay do quản lý tưới tiêu chưa tốt sau khi tưới làm mực
nước ngầm dâng lên cộng với mao dẫn mang muối lên tầng đất mặt làm cho đất bị mặn.
Muối hoá thạch: sự tích luỹ muối có nguồn gốc từ các trầm tích biển, theo thời gian
muối được giải phóng làm cho đất bị nhiễm mặn.
Do tác động của nước biển: ở vùng ven biển đất bị nhiểm mặn do thuỷ triều dâng
cao, xâm nhập mặn qua các cửa sông, dòng nước ngầm, do muối được gió đưa vào trong lục
địa.
Phân bón gây mặn: các phân bón vô cơ, phân hữu cơ làm tích luỹ mặn trong đất
3.2 Khí hậu
21
Đất mặn thường xuất hiện ở những vùng bị khô hạn hoặc bán khô hạn, ở những nơi này
lượng mưa không đủ để rửa muối có trong đất, do đó muối được tích luỹ dần theo thời gian. Ở
những nơi có lượng mưa nhiều, muối trong đất liên tục bị rửa khỏi vùng rễ, ở vùng này đất ít
khi bị mặn.
3.3 Đất
Các tính chất của đất có ảnh hưởng đến sự hiện diện và phân bố của muối trong đất, đất
có thành phần cơ giới nhẹ ít bị mặn hơn so với đất có thành phần cơ giới nặng. Do các loại đất
này có khả năng thoát nước tốt, có CEC thấp nên các muối dễ bị rửa và khả năng mao dẫn
cũng thấp hơn.
3.4 Xâm nhập mặn do chế độ thuỷ triều
Sự xâm nhập của nước biển vào những vùng đất thấp có thể làm tích luỹ muối theo thời
gian, nhất là những vùng ở gần biển và gần cửa sông. Mực nước ngầm nông, trong điều kiện
nắng nóng hiện tượng mao dẫn đem muối lên bề mặt, cũng là một nguyên nhân mặn hơn cho
đất so với những nơi có mực nước ngầm sâu.
3.5 Nhiểm mặn do các hoạt động canh tác của con người
Chế độ canh tác, tưới nước, bón phân và xây dựng hệ thống thuỷ lợi không hợp lý làm
cho đất dễ nhiễm mặn. Sử dụng nước mặn để tưới, quản lý tiêu nước không tốt làm mặn thấm
nhiều vào trong đất. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi không hợp lý đem nước biển vào trong nội
đồng làm đất bị nhiễm mặn. Xây dựng hệ thống đập kênh mương, chưa hợp lý mặn xâm nhập
sâu vào nội đồng, làm giảm khả năng thoát nước mặn. Khai thác nguồn nước ngầm quá mức
làm làm đất bị thấp dần dễ bị nhiễm nặn do thuỷ triều.
4.Phân loại đất mặn
Có nhiều tiêu chí để phân loại đất mặn, trong đó phổ biến là dựa vào các chỉ tiêu: độ
pH của đất bảo hoà nước, tổng số muối tan, độ dẫn điện của dịch trích bảo hoà nước (ECe),
hàm lượng phần trăm Na trao đổi (ESP- Exchangeable sodium perccentage),
4.1. Phân loại theo USDA đất mặn được phân thành các loại sau
Đất mặn:Đất mặn là đất có độ dẫn điện của dịch trích bão hoà (ECse) > 4 dS/m, pH <
8,5, và Na trao đổi (ESP) <15 %. Đất này trước đây được gọi là đất kiềm trắng do sự tích lũy
một lớp muối trắng trên bề mặt sau khi nước bốc hơi và có pH kiềm. Đất này có hàm lượng
muối cao, chủ yếu là các muối Cl- và SO42- của Na+, Ca2+, và Mg2+, các ions này có thể bị rửa
trôi nhưng không làm tăng pH đáng kể. Nồng độ các muối hoà tan này đủ để hạn chế sự sinh
trưởng của cây trồng, mặc dù có sự khác nhau về tính chống chịu mặn trong các giống cây
trồng.
Đất kiềm: Đất kiềm có ESP >15 %, ECse < 4 dS/m, và pH > 8,5. Trước đây gọi là
đất kiềm đen do sự tích lũy của chất hữu cơ hoà tan cùng với muối trên mặt đất. Trong đất
kiềm, hàm lượng Na cao sẽ làm phân tán các keo đất và Na cũng gây ra sự rối loạn dinh
dưỡng trong phần lớn các loại cây trồng.
Đất mặn kiềm: Đất này có nồng độ muối cao như đất mặn (ECse > 4 dS/m) và Na
trao đổi cao như đất kiềm (ESP > 15 %); nhưng đất này có pH > 8,5. Ngược lại với đất mặn,
khi muối được rửa trôi, Na trao đổi sẽ thủy phân và làm tăng pH, kết quả là hình thành nên đất
kiềm.
4.2. Phân loại theo hệ thống phân loại của FAO – Unesco đất mặn được chia làm hai nhóm
chính
Đất Solonchak: nhóm này có đặc trưng là độ mặn cao (ECe > 15 dS/m) ở tầng đất
mặt dày 125 cm, đất có cấu trúc thô, có hàm lượng muối tan > 2% trong tầng đất 30 cm trên
cùng,
Đất Solonetz: có tầng B có Na trong lớp đất 40 cm trên cùng, có EPS > 15%, có hàm
lượng muối cao trong tầng B
22
4.3. Nhóm đất mặn ở Việt Nam chia thành các loại
Đất mặn sú, vẹt, đước: có khoảng 180.000 ha, tập trung ở ven biển (diện tích lớn nhất
ở Nam Bộ: Cà Mau, Bến Tre), loại đất mặn này thường ở dạng bùn lỏng, lầy, rất mặn, pH
trung tính, nhiều mùn.
Đất mặn nhiều: có khoảng 300.000 ha tập trung ven biển đồng bằng sông Hồng và
đồng bằn sông Cửu Long, nguyên nhân mặn do muối biển theo nước thuỷ triều, theo nước
sông hoặc nước ngầm xâm nhập vào đất liền, với muối tổng số hoà tan > 0,5%, lượng Cl- cũng
đạt 0,2 – 0,3 %, độ dẫn điện của dịch trích bảo hoà > 4 dS/m ở 25 oC, độ bảo hoà bazơ cao, pH
trung tính, hàm lượng mùn thấp, không kết cấu, rất dẻo, dính khi có nước, khô co lại, nứt nẻ.
Đất mặn trung bình và ít: có khoảng 700.000 ha, nằm sâu hơn trong đất liền tiếp
giáp với vùng đất mặn nhiều, khả năng trồng trọt và cho năng suất cao hơn chủ yếu tập trung
ở đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có đặc điểm: Cl- < 0,25%, ECe < 4 dS/m, có phản
ứng trung tính ít chua, tỷ lệ Ca2+ / Mg2+ < 1, có mùn trung bình, đạm trung bình, lân nghèo.
5. Các ảnh hưởng của muối đến sự sinh trưởng của cây trồng
5.1. Lượng nước hữu dụng
Khi đất bị mặn, áp suất thẩm thấu của dịch đất tăng lên làm cây trồng khó hút nước
hơn, do đó dù trong đất có nước nhưng cây vẫn bị thiếu nước gây nên hiện tượng hạn sinh lý.
5.2. Bốc thoát hơi nước
Khi đất bị mặn làm giảm khả năng hút nước của cây, giảm sự phát triển của bộ rễ,
giảm diện tích lá, tăng dự trữ nước trong cây để cân bằn áp suất thẩm thấu trong dịch bào,
đồng thời cũng làm giảm sự thoát hơi nước và nó cũng làm giảm năng suất cây trồng.
5.3. Sự hấp thụ và chuyển hoá dinh dưỡng trong cây
Khi đất bị nhiễm mặn, làm tăng nồng độ các ion Cl-, Na+, khi cây trồng hấp thu các ion
này ở nồng độ cao có thể gây độc, hoặc làm chậm sự hấp thu và chuyển hoá các chất dinh
dưỡng khác trong rễ, ảnh hưởng đến sing trưởng của cây trồng. Khi nồng độ ion Cl- cao gây
khó khăn cho việc hấp thụ H2PO4-, NO3-, SO42-, và khi nồng độ ion Na+ cao ảnh hưởng đến sự
hấp thu K+ của cây.
Tính độc của Na+ và Cl- là nguyên nhân chính gây ra sự ức chế sinh trưởng đối với cây
mẫn cảm với muối, ngay cả khi độ mặn thấp. Khi nồng độ các ion này cao, dung dịch đất sẽ
có áp suất thẩm thấu cao, nên khi tiếp xúc với tế bào rễ, nước và các chất hoà tan trong tế bào
rễ có khuynh hướng di chuyển ra ngoài dung dịch đất, làm cho tế bào rễ bị co nguyên sinh
(plasmolysis).
Trong một số trường hợp, khi nước bị mặn có hàm lượng B, Li, Se cao cũng có thể gây độc
cho cây trồng.
Bảng 4.8 Khả năng chống chịu với đất mặn của 1 số cây trồng
Chịu được tốt Chịu được trung Mẩn cảm trung Mẫn cảm
(8 - 12 mS/cm) bình (6 - 8 mS/cm) bình (4 – 6 mS/cm) (< 4 mS/cm)
Lúa mạch, lấy hạt Lúa mạch, đồng cỏ Cỏ họ đậu Táo
Cỏ Bermuda Củ cải đường Bắp cải Mơ
Bông vải Sung Cải bông Dâu tây
Chà là Yến mạch Bắp Bưởi
Cao lương Dưa leo Chanh
Đậu nành Rau diếp Hành
Lúa mì Đậu phộng Cam
Khoai tây Đào
Lúa nước Lê
Cà chua Dứa, ổi
Tính chống chịu với nồng độ muối của cây trồng khác nhau phụ thuộc vào loại cây
trồng và thời gian sinh trưởng, kiểu mặn, độ phì nhiêu đất đai, yếu tố khí hậu và lượng nước
tưới. Trong đó, khí hậu là yếu tố quan trọng đến khả năng chịu mặn của thực vật, ở vùng đất
23
ẩm cây chịu mặn cao hơn so với vùng đất khô hạn, cây trồng trong vụ đông khí hậu mát có
khả năng chịu mặn cao hơn trong vụ hè.
Cây trưởng thành thường có khả năng chống chịu mặn cao hơn các cây non. Lúa mạch
và bông vải có khả năng chống chịu mặn khá cao. Tính chống chịu muối cũng khác nhau giữa
các giống hay dòng, nhưng nồng độ muối cao thường ảnh hưởng lớn đến giai đoạn sinh
trưởng dinh dưỡng hơn là giai đoạn hình thành hạt hay quả (bảng 4.8). Những giống cây có
thể giải độc muối Na+ và Cl- hiệu quả cũng có thể không cho sản lượng khi nồng độ muối quá
cao. Các cây chống chịu muối nhưng không giải độc Na + có khả năng duy trì tỉ lệ K +/Na+
thích hợp trong mô sinh trưởng.
Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng cây trồng
Độ mặn của đất ECe, dS/m Triệu chứng nhiễm mặn
Không mặn <2 Không ảnh hưởng
Hơi mặn 2–4 Làm giảm năng suất cây nhạy
cảm
Mặn vừa >4 – 8 Năng suất cây bị giảm
Mặn nhiều >8 – 16 Chỉ cây chịu mặn cho năng
suất
Rất mặn >16 Năng suất giảm hầu hết cây
trồng
Lượng nước cần thiết để rửa trôi muối ra khỏi vùng rễ, được gọi là nhu cầu nước rửa
(leaching requirement-LR), LR được tính toán như sau:
LR = ECw/ECdw
với LR= nhu cầu nước rửa
ECw= EC của nước tưới
ECdw= EC của nước tiêu
LR là lượng nước cần để rửa trôi muối, ngoài lượng nước tưới theo nhu cầu nước của cây
trồng về mặt sinh lý. Lượng nước cần để rửa muối phụ thuộc vào (1) ECse mong muốn, ECse
này phụ thuộc vào khả năng chịu mặn của cây trồng, (2) chất lượng nước tưới (ECiw), (3) độ
sâu vùng rễ cần rửa, và (4) khả năng giữ nước của đất (SWHC).
Trong các loại đất có mực nước ngầm cao, cần phải thiết kế hệ thống tiêu trước khi tiến
hành việc rửa mặn. Nếu đất có tầng chứa calcium hay thạch cao, hay đất có tính thấm kém,
cần phải cày sâu để cải thiện tính thấm ban đầu của đất. Những nơi chỉ sử dụng nước mưa để
canh tác hay những nơi nguồn nước tưới bị hạn chế, nên phủ chất hữu cơ trên mặt đất để làm
giảm được sự bốc hơi nước và tăng khả năng tiêu nước của đất.
24
6.1. Biện pháp cơ học : cạo loại bỏ lớp muối trên bề mặt, biện pháp chỉ phù hợp để cải tạo
trên một diện tích nhỏ và mang tính chất tạm thời.
6.2. Biện pháp tưới nước: phù hợp đối với những vùng có lớp váng muối và có tính thấm
kém, nhưng cũng có hạn chế, là muối dễ tích luỹ lại trên mặt đất.
6.3. Biện pháp thuỷ lợi: rửa mặn bằng nước mưa hay nước tưới không bị nhiễm mặn là cách
làm phổ biến để loại muối khỏi đất, biện pháp này có hiệu quả khi có hệ thống thuỷ lợi hoàn
chỉnh để tưới và tiêu nước và đất phải có mực nước ngầm sâu để tránh bị mao dẫn làm tái
nhiễm mặn.
6.4. Biện pháp nông nghiệp: sử dụng các biện pháp cày sâu không lật, xới nhiều lần, cắt đứt
mao quản, trồng cây phân xanh cải tạo đất nâng cao độ phì nhiêu của đất làm giảm tích tụ
muối. Thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với từng vùng, chọn tạo giống cây trồng
chịu mặn, chống mặn hay có nhu cầu nước ít.
6.5. Biện pháp sinh học: lai chọn tạo các loại giống cây trồng chịu mặn, kháng mặn.
7. Quản lý đất mặn
Quản lý đất mặn chủ yếu là làm giảm đến mức tối thiểu sự tích lũy muối trong quá trình
canh tác, đặc biệt là trong các vùng khô hạn và bán khô hạn. Cần phải luôn duy trì ẩm độ đất
xung quanh ẩm độ đồng ruộng bằng cách thường xuyên tưới nước ngọt (hoặc nước không
mặn). Rửa nhẹ trước khi gieo trồng hay tưới nhẹ sau khi gieo trồng để rửa muối ra khỏi vùng
đất rễ sẽ phát triển trong giai đoạn cây con. Nếu có đủ nước, nên tưới theo chu kỳ cả khi
không gieo trồng, như thế sẽ rửa được muối ra khỏi vùng rễ. Trong đất mặn có nhiều loại
muối có thể bị kết tủa như CaSO4.2H2O và CaCO3 hay MgCO3 trong thời kỳ khô hạn, sẽ gây
các phản ứng như là các muối hoà tan trong quá trình rửa, và cần chú ý sự kết tủa của Ca và
Mg sẽ làm tăng tỉ lệ % Na+ trong dung dịch.
Quản lý đất bằng phương pháp cải thiện khả năng tiêu nước là biện pháp quan trọng để
kiểm soát độ mặn của đất. Khi cày đất thường tạo thành các rãnh nhỏ trên ruộng, muối sẽ có
khuynh hướng đi lên theo nước mao dẫn và tích tụ ở giữa đỉnh các luống cày nơi có sự bốc
hơi nước xảy ra. Do đó không nên trồng cây ngay trên đỉnh (trung tâm) các luống cày để tránh
sự ngộ độc muối.
7.1. Đối với đất mặn ven biển và đất mặn nội đồng
Tránh bị ảnh hưởng của thuỷ triều, tránh bị xâm nhập mặn. Xây dựng hệ thống đê bao,
cống ngăn mặn, hệ thống tiêu nước mặn, thận trọng trong khai thác nước ngầm.
7.2. Đất mặn sâu trong nội đồng
Dùng nước ngọt để rửa muối, hạ thấp mực nước ngầm, trong điều kiện không có nước
ngọt thì phải giảm thiểu tác hại của mặn hoặc áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp như
chọn cây trồng và cơ cấu cây trồng phù hợp, trồng cây đúng vị trí, phương pháp tưới thích
hợp, các phương pháp tưới như tưới nhỏ giọt, tưới tràn, tưới phun mưa, tưới ngầm điều có ảnh
hưởng đến sự phân bố muối trong đất. Phương pháp che phủ đất làm hạn chế sự bốc hơi của
đất làm giảm sự tích tụ muối. Sử dụng chất dinh dưỡng thích hợp, thường áp suất thẩm thấu
do độ mặn làm rối loạn hấp thụ và vận chuyển dinh dưỡng của thực vật, ở một giới hạn nhất
định có thể làm giảm tác hại của mặn dựa vào sử dụng dinh dưỡng đúng đắn như dùng đạm,
lân để giảm tác hại của Cl -, SO42- , bón K, Ca để thay thế Na trong phức hệ keo đất. Ngoài ra
cần bón phân hữu cơ để tăng keo đất, bón bổ sung các chất dinh dưỡng để bù đắp thất thoát
trong quá trình rửa mặn. Trong một số trường hợp bón phân vô cơ có thể làm trầm trọng
thêm triệu chứng của mặn do làm tăng lượng muối trong đất.
7.3. Đất kiềm và đất mặn kiềm
Trên các loại đất kiềm và mặn kiềm, cần phải làm giảm Na trao đổi và/hay ECse phải
giảm thấp, điều này rất khó trong thực tế, vì sét trong đất có thể bị phân tán trong quá trình
rửa, làm hạn chế tính thấm ban đầu của đất. Thông thường người ta dùng Ca 2+ trong gypsum
25
(CaSO4.2H2O) để trao đổi với Na+ trong keo đất, sau đó dùng nước rửa ion Na + này. Phản ứng
trao đổi xảy ra như sau:
Na+ Ca2+
Na+ Ca2+
Sét Ca2+ + Ca2+ +SO42- sét Mg2+ + 2Na+
Mg2+ Na+
Na+ Na+ được rửa sâu khỏi
vùng rễ
Việc tính toán lựợng CaSO4.2H2O cần thiết bón cho đất mặn tương tự như cách tính
toán lượng CaCO3 cần bón để nâng cao pH trong đất chua. Ví dụ, một loại đất có CEC = 20
meq/100 g có chứa 15 % ESP, và chúng ta cần phải làm giảm ESP xuống 5 %; vậy ESP cần
phải giảm là: 15 %-5 % = 10 %.
Do đó,
(2 meqCaSO4.2H2O/100 g)(86 mg CaSO4.2H2O/meq)(20) = 3440 kg
CaSO4.2H2O/ha -15 cm.
26
Sulfuric acid (H2SO4) được dùng để cải tạo đất bị nhiễm B và Na, làm tăng khả năng
hữu dụng của P và các nguyên tố vi lượng khác, giảm sự bay hơi NH 3, tăng tính thấm nước
của đất, kiểm soát được một số loại cỏ dại và nguồn bệnh, và tăng cường sự phát triển của cỏ
trên các đồng cỏ chăn nuôi. Ảnh hưởng của H 2SO4 làm tăng năng suất cao lương và lúa gạo
chủ yếu là do tăng khả năng hữu dụng các nguyên tố vi lượng trong đất.
H2SO4 có thể bón trực tiếp cho đất nhưng có bất lợi là sự nguy hiểm cho người sử
dụng và cần phải có thiết bị đặc biệt chịu được acid. H 2SO4 cũng có thể được tưới nhỏ giọt
trên mặt đất hoặc bón với thiết bị tương tự như thiết bị bón NH 3 lỏng khan. H2SO4 cũng có thể
được hoà vào nước tưới trực tiếp. H2SO4 có ưu điểm là phản ứng tức thời với đất, nên có tác
dụng hoá chua rất nhanh.
Bảng 4.7 Ảnh hưởng của việc bón H2SO4 và FeSO4 đến năng suất cao lương (kg/ha)
trên đất đá vôi
H2SO4 Fe (kg/ha)
0 112 560
0 434 1,460 2,275
112 605 1,538 2,274
560 2,169 2,429 2,230
5,600 1,885 1,971 1,810
Aluminum sulfate
Aluminum sulfate [Al2(SO4)3] được sử dụng phổ biến trong nghề trồng hoa, dùng để
làm chua đất trong sản xuất azaleas (đỗ quyên), camellias (hoa trà), và các loại hoa kiểng chịu
được điều kiện chua. Khi hoà vào nước, Al 2(SO4)3bị thủy phân tạo nên một dung dịch rất
chua:
Al2(SO4)3 + 6H2O 2Al(OH)3 + 6H+ + 3SO42-.
Khi Al2(SO4)3 được bón vào đất, ngoài việc thủy phân trong dung dịch đất, Al 3+ sẽ thay thế bất
kỳ H+ và các cations trao đổi nào trên CEC nên làm pH giảm rất nhanh:
Al2(SO4)3 + sét 4H+ sét Al3++ Ca2++ 4H+ + 3SO42-.
Ca2+ Al3+
Al2(SO4)3 không được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp. FeSO4 cũng được dùng để bón cho
đất nhằm làm hoá chua đất kiềm và có đặc tính tương tự như Al2(SO4)3.
Ammonium polysulfide
NH4S8 dạng dung dịch được dùng bón cho đất mặn kiềm nhằm làm giảm pH và làm tăng
tính thấm nước của đất. NH4S8 có thể được bón theo hàng, cách hạt 5-10cm hay có thể hoà
thẳng vào nước trong hệ thống tưới. Bón theo hàng thường có hiệu quả hơn trong việc chữa trị
thiếu dinh dưỡng vi lượng so với bón thông qua hệ thống tưới. NH 4S8 sau khi bón vào đất sẽ
được phân giải thành ammonium sulfide và keo S0. S0 và S2- sau đó sẽ bị oxi hoá thành H2SO4.
Potassium polysulfide cũng được sản xuất và sử dụng tương tự như ammonium polysulfide.
7.3.2 Làm chua cục bộ đất khi bón phân
Do các loại đất đá vôi và đất pH cao đều có tính đệm cao nên chi phí sẽ rất lớn nếu ta
dùng phân chua trung hoà hết độ kiềm của đất. Do đó chúng ta không cần phải trung hoà độ
kiềm toàn bộ khối đất, mà chỉ cần làm chua vùng rễ cây phát triển bằng cách bón phân chua
theo hàng hay làm chua cục bộ trong từng nơi có bón phân.
Khi bón phân ammonium thiosulfate và ammonium polyphosphate có thể làm đất bị
chua hoá trong vùng gần nơi bón phân, như thế có thể làm tăng khả năng hữu dụng các
nguyên tố vi lượng trong đất xung quanh vùng rễ cây.
27
Tài liệu tham khảo
Hồ Quang Đức, 2010. Đất mặn và đất phèn Việt Nam, NXB Nông nghiệp
Đào Xuân Học, 2005. Sử dụng và cải tạo đất phèn, đất mặn, NXB Nông nghiệp
Lê Văn Khoa, 2005. Đất ngập nước, NXB Giáo Dục
28