I. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TRIẾT GIA VỀ VẤN ĐỀ LƯỢNG –
CHẤT TRONG LỊCH SỬ 1.Thời kì cổ đại Hy Lạp: Vật chất thường đồng nhất với sự vật, từ đó họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương diện chất Những người thuộc trường phái Pitago xem đặc trưng về lượng của thế giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại 2.Quan điểm của Arixtot “Chất” là tất cả những gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành “lượng” được phân thành 2 loại: số lượng (là loại lượng mang tính rời rạc) và đại lượng (là loại lượng mang tính liên tục) Ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù “độ”, xem “độ” là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa “chất” và “lượng” 3.Thời trung cổ: Chất lượng là những đặc tính nội tại bên trong được che phủ bởi lực lượng siêu nhiên 4.Các nhà duy vật máy móc siêu hình: Cho rằng sự khác nhau giữa các sự vật là sự khác nhau về lượng 5.Quan điểm của Hegen “Chất” phát triển từ “chất thuần túy” đến “chất được xác định”, chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng. Lượng cũng không ngừng tiến hóa, “số lượng” là sự tiến hóa đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa của lượng Hegen cũng xem tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất trong một khoảng nhất định, đó là cơ sở hình thành phạm trù “độ” Với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hegen đã xem các phạm trù CHất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát của tinh thần, của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải là nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT [Trước hết chúng ta phải hiểu quy luật là gì] 1 Khái niệm về quy luật Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Tính chất: Quy luật có tính khách quan: Mọi quy luật đều tồn tại khách quan, con người không thể sáng tạo ra quy luật cũng không thể làm trái quy luật. Khả năng cơ bản của con người là nhận thức và vận dụng quy luật. Quy luật mang tính ổn định, nó phản ánh mối liên hệ lặp đi lặp lại giữa các yếu tố trong sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau. [Câu dẫn] Quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật (BCDV). Nếu như quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của sự vật, quy luật phủ định của phủ định nói lên khuynh hướng của sự vận động phát triển của sự vật thì quy luật về những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lại vạch ra cách thức của sự vận động phát triển thông qua sự tác động giữa lượng và chất của sự vật. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã xác định đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép BCDV 2. Nội dung quy luật Nội dung của quy luật được hiểu như sau: + Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa 2 mặt chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. 3. Phân tích: (Câu dẫn) Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Để hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt này, trước hết cần nắm vững các khái niệm chất và lượng: Chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ tính quy định khánh quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những yếu tố, những mặt, những thuộc tính tạo thành sự vật, làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với những cái khác. (Để hiểu rõ khái niệm này, chúng ta cần nắm được những vấn đề sau ) o Chất là một phạm trù của triết học, nó khác với khái niệm chất của các ngành khoa học cụ thể và trong đời sống hàng ngày (chất lỏng, chất rắn, chất hữu cơ, chất vô cơ, phẩm chất tốt, xấu...) (thêm hình ảnh minh họa và gạch chéo cho sinh động) o Chất là cái khách quan, vốn có của SVHT, được bộc lộ ra thông qua các thuộc tính: có thuộc tính căn bản, có thuộc tính ko căn bản. Sở dĩ chúng ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác là căn cứ vào những thuộc tính riêng của sự vật đó mà sự vật khác không có được. o Mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính cũng có phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Vì vậy mỗi sự vật có nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. Cũng như chất, lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật. Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, cao hay thấp, đậm hay nhạt...... và trong thực tế lượng có thể xác định cụ thể, chính xác bằng các công cụ đo lường. Tuy nhiên, với các sự vật phức tạp, không thể chỉ diễn tả bằng những con số chính xác, mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng (như trình độ phát triển của một đất nước, trình độ giác ngộ của một con người) hay cũng có thể chỉ xác định trên cơ sở những căn cứ có tính tương đối. Có những lượng là nhân tố quyết định bên trong của sự vật. Nhưng có những lượng chỉ nói lên nhân tố bên ngoài của sự vật. (kích thước của vật) Sự biểu thị của lượng là hết sức đa dạng, lượng và chất gắn bó với nhau, không có chất và lượng thuần tuý tách khỏi nhau. Nếu một sự vật có nhiều chất thì tương tự như vậy, sự vật đó cũng có nhiều lượng. Chúng là 2 mặt quy định lẫn nhau, không thể tách rời, mỗi một chất nhất định bao giờ cũng có lượng tương ứng với nó. VD: nước gồm 2 chất tạo thành là oxi và hidro đồng thời cũng thể hiện bằng nhiều lượng như thể tích là lít, m3, bằng khối lượng là kg.. Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là có cái trong quan hệ này là chất, nhưng ở trong quan hệ khác lại là lượng và ngược lại. VD: Có bằng tốt nghiệp đại học thể hiện sự khác biệt chất so với người đó khi còn là Sinh viên, nhưng về khía cạnh khác nó chỉ là lượng cần thiết để người đó học tiếp lên trình độ cao hơn là thạc sỹ, tiến sĩ. Do đó cần chống quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá ranh giới giữa chất và lượng. Mặt khác chất và lượng là hai mặt qui định lẫn nhau không thể tách rời, một chất nhất định trong sự vật bao giờ cũng có lượng tương ứng với nó. Mỗi sự vật như ta đã biết nó vô vàn chất, do đó mỗi sự vật cũng có vô vàn lượng. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. 1. Lượng và chất thống nhất với nhau Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng, chúng thống nhất và tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại, nếu không có tính quy định về chất và ngược lại. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là cái tương đối ổn định, còn lượng là cái thuờng xuyên biến đổi. Trong quá trình vận động phát triển của sự vật, chất và lượng của chúng cũng biến đổi theo. Tuy nhiên sự biến đổi đó diễn ra độc lập, tách rời, mà trái lại gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự biến đổi của mặt này sẽ ảnh hưởng tới mặt kia và ngược lại. 2. Lượng thay đổi dẫn đến thay đối về chất : + Thứ nhất, sự thay đổi về lượng và chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động, phát triển của sự vật, nhưng sự thay đổi đó có quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất. Sự tác động giữa chúng có thể diễn ra trong các hình thái khác nhau. Ở đây có hai trường hợp xảy ra: (Hình thái tác động giữa chất và lượng) Sự biến đổi về lượng đưa ngay đến sự biến đổi về chất Sự biến đổi về lượng phải đến một giới hạn nhất định nào đó mới xảy ra sự biến đổi về chất. Và chỉ khi vượt qua phạm vi giới hạn đó thì mới có sự biến đổi về chất, phạm vi giới hạn đó được gọi là Độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ấy. Trong giới hạn của Độ về cơ bản Chất và Lượng thống nhất với nhau, còn về mặt tốc độ thì lượng thay đổi trước và nhanh hơn chất. VD: đối với nước ở nhiệt độ phòng thì là chất lỏng, trên 100oC là chất khí,... + Thứ hai, Sự vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng được bắt đầu từ những sự biến đổi về lượng và quá trình này diễn ra một cách từ từ tiệm tiến theo chiều hướng tăng dần, hoặc giảm dần và khi sự thay đổi đó đạt tới điểm giới hạn cuối cùng mà ở tại đó, nếu lượng tiếp tục biến đỏi sẽ làm cho chất căn bản của sự vật biến đổi, dưới hạn cuối cùng đó được gọi là điểm nút. Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, bất kỳ sự biến đổi nào về lượng cũng đưa ngay sự biến đổi về chất. Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây ra. Bất kỳ một sự thay đổi căn bản nào về chất của sự vật cũng đều chỉ được thực hiện thông qua bước nhảy. Đây là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là một giai đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. 3. Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song, sự tác động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Sự thay đổi về chất của sự vật hết sức đa dạng với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau tùy thuộc tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn vốn có, bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Có thể phân loại một số bước nhảy sau: Nếu dựa trên thời gian của sự thay đổi về chất và tính chất của bản thân sự thay đổi đó thì có bước nhảy đột biến và dần dần. + Bước nhảy đột biến là bước nhảy làm biến đổi một cách nhanh chóng chất của sự vật ở tất cả các bộ phận cơ bản cấu thành nó. + Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra thông qua con đường tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần của lượng ở chỗ sự thay đổi của lượng diễn ra liên tục trong khuôn khổ của chất đang có, còn bước nhảy dần dần là sự chuyến hóa từng bước chất này sang chất khác, là sự dứt đoạn của tính liên tục. Nếu dựa trên cấu tạo của chất và qui mô của sự thay đổi của chất thì có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. + Bước nhảy toàn bộ: là loại bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật. + Bước nhảy cục bộ: là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về yếu tố cấu thành về cấu trúc, cấu tạo.... Thì bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến chất toàn bộ. Nếu xem xét sự thay đổi về chất của xã hội thì có thể phân chia thành hai loại thay đổi cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa. + Cách mạng: Là sự thay đổi mà trong quá trình đó diễn ra sự cải tạo căn bản về chất của sự vật không phụ thuộc vào sự cải tạo đó được diễn ra như thế nào. + Tiến hoá là sự thay đổi về lượng cùng với những biến đổi nhất định về chất, nhưng là chất không căn bản của sự vật. Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra dời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi. III. Ý NGHĨA VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN Về mặt nhận thức: Để có tri thức đầy đủ về sự vật phải nhận thức cả hai mặt chất và lượng của nó, phải hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất trong sự phát triển của xã hội. Chống 2 khuynh hướng: + Tả khuynh: là tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa tích lũy về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất, hoặc coi nhẹ sự tích lũy về lượng, chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, từ đó dẫn đến những hành động phiêu lưu mạo hiểm. + Hữu khuynh: là tư tưởng bảo thủ, trì thuệ, ngại khó, không dám thực hiện những bước nhảy về chất. Về mặt thực tiễn: Cần phải biết kiên trì tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Khi đã có đủ về mặt lượng phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành thay đổi về chất, từ sự thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như "tích tiểu thành đại", "năng nhặt, chặt bị", "góp gió thành bão",... Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, "đốt cháy giai đoạn" muốn thực hiện những bước nhảy liên tục. Phải có quyết tâm để thực hiện các bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, đồng thời phải khác phục thái độ nôn nóng, tả khuynh, đốt cháy giai đoạn, cũng như thái độ hữu khuynh, rụt rè, không giám đổi mới nhảy vọt khi đủ điều kiện nhất định. Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh. IV. VẬN DỤNG QUY LUẬT TRÊN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG XHCN Ở NƯỚC TA Đảng ta đã vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, tiêu biểu và rõ ràng nhất là cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 - đó là xây dựng một xã hội mới dân chủ, tiến bộ để thay đổi xã hội Phong kiến đã mục nát và lỗi thời. Đó là 1 sự biến đổi về chất chuyển biến đất nước ta từ một xh luôn hiện diện sự bất công, áp bức bóc lột sang 1 xh mới mà người dân thực sự là người làm chủ, được sống tự do, ấm no, hạnh phúc, xh công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở lĩnh vực đó và tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung. V. KẾT LUẬN Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học phải chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi. Thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hóa cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triên, mặt khác, lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tến hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan.